Skip directly to content

57- SỐNG CHẲNG CHO ĂN, CHẾT LÀM VĂN TẾ RUỒI

Hỏi: Kính thưa Thầy, lúc cha mẹ còn sống không phụng dưỡng, đến khi cha mẹ chết làm ma chay thật to để lấy tiếng ở đời thì có nghĩa lý gì phải không, thưa Thầy?

Đáp: Lúc cha mẹ còn sống  phải lo  phụng dưỡng để đền đáp ơn sinh thành, dưỡng dục. Lúc cha mẹ chết chỉ làm ma chay đơn giản, giữ gìn sự im lặng trong những ngày mất mẹ mất cha, nhớ đến công lao mẹ cha lo làm lụng vất vả nuôi con lớn khôn, nên người hữu dụng cho xã hội, công ơn ấy rất lớn không thể lấy gì sánh được.

Cha mẹ chết mà làm ma chay linh đình là báo hiếu hình thức, làm như thế là để che mắt thế gian. đạo Phật dạy chúng ta làm những điều chân thật, sống thích trầm lặng đơn giản (thiểu dục tri túc),  chết  thì  an  táng  đơn  giản  rồi  đem  đốt, không cần quan quách sang trọng, không cần nhạc lễ, cúng bái, tụng niệm, chỉ cần giữ vệ sinh chung, đừng để ô nhiễm môi trường sống. Vì thân tứ đại do đất, nước, gió, lửa hợp thành, chết thì đất, nước, gió, lửa trở về đất, nước, gió, lửa.

Đức Phật nhìn thân tứ đại là một pháp vô thường, bất tịnh, không có gì đáng quý và lưu giữ, nên khi chết đem đốt bỏ. Nên Phật và các đệ tử của Ngài khi chết đem thiêu đốt bỏ. Trong khi ấy, các nhà Phật giáo Đại thừa Tây Tạng, Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, khi chết tìm mọi cách để lại nhục thân.

Có lần về thăm miền Bắc, chúng tôi có đến thăm nhục thân của Vũ Khắc Minh và Vũ Khắc Trường, đó là hai bộ xác khô. Phật giáo Tây Tạng muốn giữ xác thân phải bỏ ruột gan rồi ướp xác chết bằng thuốc. Trung Quốc và Việt Nam thì lại ướp xác bằng chất thuốc đặc biệt bởi không có nước.

Gần đây, Trung Quốc và Việt Nam khai quật một nhà mồ và đã nhận được rất nhiều nhục thân toàn là cung nữ, quan chức, vua chúa, như trong báo Nguyệt san Giác Ngộ số 35, “Di ấn Phật giáo trong nền văn hóa mộ táng cổ ở Nhật”.

Năm 1963 - 1965, vô tình các nhà khảo cổ đã khai quật được xác ướp của vua Lê Dụ Tông từ thời Lê Trịnh, xác còn nguyên như vua còn đang an tịnh giấc nồng.

Huyện Đông Anh ngoại thành Hà Nội ở nhà máy thuốc lá vô tình đào được hai cái xác của hai vũ nữ đời nhà Lê.

Xác ướp của bà Phan Thị Nguyên Châu, vợ Thượng Thư trụ quốc Đặng Đình Tướng thời Lê Trịnh ở Phủ Lý, Hà Nam vào năm 1968.

Tại Xóm Củi quận 8 thành phố Hồ Chí Minh đã khai quật lăng mộ Bà Nguyễn Thị: “...thi thể còn nguyên vẹn, thậm chí còn rất đẹp, cơ bắp còn co duỗi được. Nhiều lít nước được các nhà y học truyền vào cơ thể bà vẫn dẫn hết dưới da thịt, tưởng như bà đang ở bịnh viện”.

Gần đây, như xác ướp Bác Hồ vẫn giữ nguyên vẹn như nằm ngủ. Chúng tôi đi đến đám tang vị bí thư tỉnh Tây Ninh, xác được tẩm liệm trong một quan tài bằng kính từ khi chết đến giờ phút đi an táng, xác vẫn như người ngủ không thấy hôi thối sình trương, chảy nước vàng như các đám tang của dân sự.

Qua những nhục thân của quan, vua và các thiền sư để lại, thì chúng tôi có một xác định rõ ràng.

Nếu một vị thiền sư muốn giữ xác thân của mình mà không cần phải ướp thuốc, thì thiền sư ấy phải nhập Diệt Thọ Tưởng Định. Từ trường của Diệt Thọ Tưởng Định bảo vệ thân xác không có một vật gì xâm thực phá hoại cơ thể được, nên xương cốt và da thịt luôn luôn  tươi  như  người  còn  đang  sống (chứ không phải bộ xương khô).

Báo chí có đăng tin bên Đài Loan người ta đã khai quật mộ của một vị sư được an táng trong một cái lọ và cơ thể còn nguyên vẹn, không phải là bộ xương khô như nhục thân của Vũ Khắc Minh và Vũ Khắc Trường.

Qua báo chí, tin tức, đài, chúng tôi có nhận được nhiều tin tức về nhục thân. Đến khi xem các bộ nhục thân này chúng tôi chẳng thấy có từ trường thiền định nào xung quanh nhục thân ấy.

Do đó, chúng tôi xác định những nhục thân này được để lại có nhiều cách ướp xác, hoặc để khô giữ không nước, gió xâm thực thì cơ thể vẫn còn nguyên vẹn.

Tóm lại, đạo Phật nhìn cơ thể con người là một hợp duyên không có thật, bất tịnh và uế trược, nên chết là thiêu đốt không có giữ lại, không coi nó là một vật quý. Vì thế, khi đức Phật và các đệ tử của Ngài tịch đều thiêu đốt, không có vị nào để lại nhục thân. Huyền thoại ngài Ca Diếp ôm y bát vào núi Kê Túc nhập Diệt Thọ Tưởng Định để chờ đức Phật Di Lặc ra đời trao y bát cho. Đó là một câu chuyện bịa đặt của các Tổ sau này. Đức Phật nhìn các pháp trong thế gian này là vô thường, nên Ngài đâu có cần gì mà trao y bát, chỉ có di chúc: “Nên lấy giới luật và giáo pháp làm Thầy mà tu hành”.

Đời người khổ là vì luôn chấp mọi thứ: chấp thân, chấp tâm, chấp pháp để mà chịu khổ với sự lầm chấp đó. “Sống chẳng cho ăn, chết làm văn tế ruồi”.

Từ những sự việc đó, Phật giáo Đại thừa triển khai  phần  lấy  vải  thưa  che  mắt,  cho  nên  có những  bài  táng  tụng  ma  chay  như  ngày  nay chúng ta đã thấy. Sự lừa đảo này chỉ gạt những người vô minh, chớ những người đã am hiểu Phật giáo chân chánh thì không gạt được. Hầu hết lối tụng niệm ma chay của Đại thừa đều là lối lừa đảo, che mắt thế gian, chớ chẳng có ích lợi gì, mà còn làm cho người sống hao tổn tiền của và vất vả trong những ma chay cúng tế.

Cầu mà chẳng có thì lấy cái gì mà siêu? Thấu rõ được như vậy, mới thấy Phật giáo Đại thừa là một giáo pháp vay mượn của mọi tôn giáo và phong tục con người, để thỏa mãn sự ngu si của con người đang sống trong thế giới tưởng siêu hình.