Skip directly to content

Học Giới - Định - Tuệ. Kì 26 (52- 53).

52. HƯỚNG TÂM NHƯ LÝ TÁC Ý

Hỏi: Kính thưa Thầy, tại sao Thầy dạy chúng con phải tự kỷ ám thị, mà trong kinh Phật không có dạy. Cúi mong Thầy chỉ dạy cho chúng con được rõ?

Đáp: Như lý tác ý là pháp môn tự kỷ ám thị, đó là một danh từ ngày xưa đức Phật dùng ám thị để thực hiện xa lìa tâm ham muốn và các ác pháp. Ngày nay các nhà học giả không có kinh nghiệm tu hành nên không hiểu pháp như lý tác ý là phương pháp tự kỷ ám thị.

Hầu hết các nhà học giả thuyết kinh điển Phật đều không hiểu pháp này nên đã biến pháp môn của Phật thành một lý thuyết suông. Vì thế, hơn 25 thế kỷ không có người nào tu chứng và làm chủ sanh, già, bệnh, chết một cách cụ thể, chỉ huyền thuyết một vài mẩu chuyện thần thông cho vui mà thôi.

Nếu không có pháp “như lý tác ý” thì tu hành không có đạo lực, không có đạo lực thì không làm chủ sự sống chết của con người được. Nếu một người tu thiền định mà không biết sử dụng pháp như lý tác ý thì không thể nào nhập được các định.

Ở đây, chúng ta hãy nghe đức Phật dạy một người muốn tu thiền định phải dùng pháp như lý tác ý như thế nào để nhập được định (không giống như Thiền Đông Độ và Đại Thừa dạy):

“Chư tỳ-kheo, tỳ-kheo muốn thực hiện tu tăng thượng tâm thiền định thì cần phải thường tác ý năm tướng. Thế nào là năm tướng?

Năm tướng là: 1-Tham; 2- Sân; 3- Si; 4- Mạn; 5- Nghi.

Ở đây tỳ-kheo y cứ tướng nào, tác ý tướng nấy. Các ác bất thiện pháp liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si, liên hệ đến mạn, và liên hệ đến nghi sanh khởi.

Thời này các tỳ-kheo, tỳ-kheo ấy cần phải tác ý một tướng khác liên hệ đến thiện không phải tướng kia (ác bất thiện pháp liên hệ đến dục), thì các ác bất thiện tầm liên hệ đến dục tham, liên hệ đến sân, liên hệ đến si, liên hệ đến mạn, liên hệ đến nghi được diệt trừ đi đến diệt vong. Chính nhờ diệt trừ chúng, nội tâm được an trú, an tịnh, nhất tâm định tỉnh.”

Đoạn kinh trên đây đức Phật dạy tu thiền không phải chỗ nhiếp tâm hết vọng tưởng để nhập định và nhất tâm, định tỉnh. Ngược lại, Phật dạy dùng pháp như lý tác ý để trừ diệt, đi đến diệt tận tâm tham, sân, si, mạn, nghi. Chính nhờ diệt trừ chúng mới đạt được nhất tâm, nhập được Tứ Thánh Định. Bài kinh này chỉ dạy rất rõ ràng, thế mà thời nay người tu thiền cứ mải mê nhiếp tâm cho hết vọng tưởng. Tu như vậy gọi là thiền của Phật thì thật là oan cho Phật giáo biết chừng nào! Phật dạy như vậy mà bây giờ tu sĩ lại tu khác. Chỉ có Phật giáo Đại Thừa và Phật giáo Tối Thượng Thừa mới chấp nhận pháp ức chế tâm đó là chân chánh. Vì thế tu sĩ ngày nay là tu theo pháp môn ngoại đạo mà cứ tưởng mình tu theo Phật giáo. Cho nên tu từ đời ông đến đời cha mà chẳng có ai giải thoát cả.

Nếu khi gặp một hoàn cảnh, một đối tượng, một sự việc xảy đến khiến tâm đau khổ và phiền não. Khi ấy hành giả dùng pháp như lý tác ý và tác ý với một tướng khác với tướng kia, tức là tướng không phiền não, đau khổ, tướng này liên hệ đến thiện, không tham, sân, si, mạn, nghi. Các ác pháp, bất thiện pháp có tầm liên hệ đến dục tham, sân, si, mạn, nghi kia không lìa ra được, hoặc đoạn diệt được, thì phải mau quán xét các niệm ác và bất thiện pháp kia là nguy hiểm, là khổ đau cho mình cho người. Những niệm như vậy là ác độc, là có tội lỗi và sẽ tạo ra khổ báo phiền não, đau khổ hiện giờ và mai sau. Do quán xét và tác ý như vậy thì tâm ta sẽ xả được các ác pháp và trở về trạng thái thanh thản, an lạc và vô sự.

Khi quán xét và tác ý như vậy, các ác bất thiện pháp tham, sân, si, mạn, nghi sẽ được diệt trừ và xả ly. Nhờ có quán xét và tùy ý như vậy, tâm chúng ta mới xả ly được, nội tâm mới được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tỉnh và an lạc.

Nếu khi quán xét và tác ý các pháp ác đó là nguy hiểm, là tội khổ, là khổ báo mà tâm vẫn còn hậm hực, hờn giận, phiền não, sợ hãi, lo toan v.v... lại khởi lên các ác niệm nữa thì ta không tác ý tâm như đất nữa và không quán xét nữa, ta để tâm tự nhiên rồi như lý tác ý:

Thân tâm thư giãn xuống, các cơ buông xuống, tâm buông xuống, thân tâm phải thoải mái, nhẹ nhàng, an lạc.” Hướng tâm xong, ta đi kinh hành hoặc ngồi hít thở, thỉnh thoảng ta lại hướng tâm như vậy thì các ác pháp kia sẽ tan biến và diệt trừ đoạn dứt, tâm bất động. Đau khổ và phiền não sẽ dứt sạch, nội tâm ta được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tỉnh.

Nếu dùng pháp hướng tâm như lý tác ý và thư giãn thân tâm mà “ác niệm còn khởi, tâm ta chưa an tịnh” thì lại dùng pháp hướng tâm đến các hành của các ác pháp thì các ác pháp bất thiện sẽ được diệt trừ, xa lìa đoạn dứt. Nhờ có đoạn trừ, diệt chúng được, nội tâm mới được thanh thản, an lạc, định tỉnh, nhất tâm.

Dùng pháp hướng tâm đến các hành như thế nào? Muốn hiểu nghĩa này chúng tôi cho những ví dụ cụ thể mới dễ nhận ra rõ ràng nghĩa lý này:

Ví dụ: “Một người đang đi nhanh, họ suy nghĩ và hướng tâm như lý tác ý tại sao ta lại đi nhanh? Ta hãy đi chậm lại. Trong khi hướng tâm như vậy, người ấy đi chậm lại, người ấy suy nghĩ và Như lý tác ý: Tại sao ta lại đi chậm? Ta hãy dừng lại. Trong khi dừng lại, người ấy suy nghĩ và tác ý: Tại sao ta lại dừng lại? Ta hãy ngồi xuống. Trong khi ngồi người ấy suy nghĩ và hướng tâm như lý: Tại sao ta lại ngồi? Ta hãy nằm xuống.”

“Dùng pháp hướng tâm như lý tác ý bỏ dần các hành động thô của ác pháp đi đến những hành động tế nhị và cuối cùng xa lìa đoạn diệt các ác pháp liên hệ đến tâm tham, sân, si, mạn, nghi sẽ được diệt trừ đi đến đoạn diệt nên nội tâm được thanh thản, an lạc, nhất tâm, định tỉnh.

Nếu dùng pháp hướng như lý tác ý đến các hành của ác pháp liên hệ đến niệm dục mà không diệt được và xa lìa được thì phải nghiến răng dán chặt lưỡi lên nóc họng, lấy tâm và các cơ chế ngự tâm, nhiếp phục tâm, đánh bại tâm bằng pháp hướng như lý tác ý:

Tâm tham dục phải đoạn dứt liền, phải lìa xa nơi niệm tham muốn, sân hận, phải đi đi, đi cho khỏi nơi đây.

Dùng pháp hướng mạnh bạo để diệt trừ tâm tham dục, ngã chấp tạo nên đau khổ, phiền lụy cho mình cho người, phải đoạn dứt một cách nhanh chóng để phục hồi tâm lại bình thường, an lạc, thanh thản.

Dùng pháp hướng mạnh bạo ấy, ví như người lực sĩ nắm lấy đầu một người ốm yếu xách bổng họ và muốn ném đâu tuỳ ý.

Tóm lại, muốn ly dục ly ác pháp, diệt ngã, xả tâm thì phải dùng pháp như lý tác ý bằng năm cách như trên đã dạy mà trong Kinh Song Tầm và Kinh An Trú Tầm đức Phật đã dạy rất rõ ràng. Thực hiện được mới làm chủ được cuộc sống không còn khổ đau và bất toại nguyện, luôn luôn lúc nào tâm hồn cũng thanh thản, an lạc, định tỉnh và vô sự.

Nên đức Phật dạy: “Chư tỳ-kheo, tỳ-kheo ấy được gọi là đã an trú trong “đoạn tầm pháp môn.” Vị ấy có thể tác ý đến tầm nào vị ấy muốn, có thể không tác ý đến tầm nào vị ấy không muốn, vị ấy đã đoạn trừ khả ái, đã giải thoát các kiết sử, khéo chinh phục kiêu mạn và đã chấm dứt khổ đau.”

Pháp thế gian mà kinh sách Đại Thừa và Thiền Đông Độ gọi là “vọng tưởng.” Còn niệm thiện, niệm ác và như lý tác ý thì kinh sách Nguyên Thủy Phật dạy đó là tầm ác, tầm thiện và pháp như lý tác ý. Biết tầm thiện, tầm ác và pháp như lý tác ý là biết pháp tu hành theo Phật giáo. Ngược lại Đại Thừa và Thiền Đông Độ dạy người tu tập:

               1- Biết vọng không theo.
               2- Đối cảnh không tâm.
               3- Không kẹt hai bên.
               4- Hằng sống với cái chân thật, không theo cái giả.

Bốn cách tu tập này cũng nhắm vào diệt vọng tưởng mà thôi.

              “Muốn thấy nó bạn đừng theo vọng tưởng,
               Niệm lăng xăng chìm đắm biển thanh bình.
               Đến đây rồi hạnh phúc khó thưa trình,
               Chỉ xem thấy nụ cười luôn hé nở.”

Đây là một bài thơ của một thiền sư đã chứng đạo (?) để chứng minh pháp diệt vọng tưởng của họ.

Kinh sách Đại Thừa và Thiền Đông Độ nhắm vào chỗ “vọng tưởng.” Vọng tưởng hết rồi thì viên mãn: “niệm lăng xăng chìm đắm biển thanh bình.”

Nhưng đối với đạo Phật thì khác xa. Tầm ác, tức là vọng tưởng ác thì ngăn chặn và diệt sạch. Còn tầm thiện thì sanh khởi và tăng trưởng, không diệt mà còn nuôi dưỡng để không làm khổ mình, khổ người. Nhờ tầm thiện đó mà mỗi con người xây dựng cho mình một nền đạo đức nhân bản không làm khổ mình khổ người.

Muốn diệt tầm ác (vọng tưởng ác, niệm ác) thì dùng pháp hướng tâm tác ý (như lý tác ý) sẽ ngăn chặn và diệt trừ. Tăng trưởng tầm thiện (vọng tưởng thiện, niệm thiện) để giúp tâm không làm khổ mình, khổ người, để trở về trạng thái bình thường, thanh thản, an lạc, vô sự và định tỉnh.

Xét qua hai cách tu tập thì Đại Thừa và Thiền Đông Độ do ức chế tâm diệt vọng tưởng để đạt trạng thái yên lặng đến tĩnh lặng mà họ gọi là thiền định. Còn Phật dạy dùng pháp hướng tâm như lý tác ý để ly dục ly ác pháp, diệt ngã, xả tâm quét sạch ngũ triền cái, đoạn dứt thập thất kiết sử, tâm vô lậu thanh tịnh không còn đắm nhiễm sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp của thế gian, tâm được thanh tịnh đó gọi là định.

Vì thế thiền định của Đại Thừa, Thiền Tông và thiền định của Phật không giống nhau; một bên thì tìm cái tĩnh lặng với trạng thái thường, lạc, ngã, tịnh (bốn tánh Niết Bàn). Lấy cái biết không niệm thiện niệm ác làm “Phật Tánh” để hằng sống với cái chân thật đó của mình.

Một bên (Phật giáo chân chánh) thì tìm về cuộc sống có một trạng thái an lạc, thanh thản, làm chủ bốn cái khổ của kiếp người sanh, già, bệnh, chết.

Còn một bên (Đại Thừa và Thiền Đông Độ) tu tập để tìm về thế giới vĩnh hằng của “Phật Tánh” không có đạo lực, không có làm chủ sự sống chết, chỉ có đạo thông tưởng pháp, nói thiền nói đạo như gió thổi mưa sa.

Một bên (Chánh Phật Pháp) tu tập vừa có đạo thông vừa có đạo lực điều khiển sự sống chết luân hồi theo ý muốn. Như vậy rõ ràng hai bên có hai lối tu và hai kết quả khác nhau.

Qua sự kinh nghiệm tu tập của chúng tôi và kinh sách Nguyên Thủy dạy rất rõ ràng và cụ thể, bằng ý thức chủ động điều khiển sự sống chết của con người, không mơ hồ trừu tượng như thế giới tưởng của Đại Thừa và Thiền Đông Độ. Cho nên, sự tu hành (theo Tà Pháp mơ hồ trừu tượng, chìm trong thế giới tưởng) như vậy, cuộc sống của các thiền sư còn chìm đắm trong danh, lợi, tham, sân, si của thế gian.

Vọng tưởng là một đề tài của Đại Thừa và Thiền Đông Độ dùng làm đối tượng để tu tập thiền định. Còn Phật giáo Nguyên Thủy xem “vọng tưởng” không thành vấn đề tu tập, mà đối tượng tu tập là tâm tham, sân, si, mạn, nghi và thập thất kiết sử.

Muốn diệt trừ tâm tham, sân, si, mạn, nghi và thập thất kiết sử thì Phật giáo Nguyên Thủy dùng pháp môn như lý tác ý để tu tập, để rèn luyện Ngũ lực. Đại Thừa và Thiền Đông Độ lại chê (pháp môn như lý tác ý) là vọng và dẹp bỏ.

Phật giáo Nguyên Thủy dạy rõ nó là pháp môn hướng tâm như lý tác ý để diệt trừ tam độc và thập thất kiết sử, khiến cho tâm được giải thoát hoàn toàn, không còn khổ đau của kiếp người. Biến pháp như lý tác ý trở thành một đạo lực siêu việt, làm chủ điều khiển sự sống chết của kiếp con người. Đó là thực hiện Tứ Như Ý Túc, Tam Minh một cách dễ dàng, không mấy khó khăn, phí sức.

53. VỌNG TƯỞNG

Hỏi: Kính thưa Thầy, trong khi tọa thiền hoặc đi kinh hành khéo giữ tâm đừng cho niệm khởi. Niệm khởi tức là vọng tưởng, có vọng tưởng thì không thể nào gọi là thiền định, có phải vậy không thưa Thầy? Vậy cúi mong Thầy chỉ dạy cho chúng con hiểu rõ chỗ này.

Đáp: Ức chế vọng tưởng không cho niệm khởi tức là ức chế tâm. Ức chế tâm tức là ức chế tâm tham, sân, si. Ức chế tâm tham, sân, si sẽ rơi vào định tưởng (Không Vô Biên Xứ Tưởng).

Vọng tưởng là gì? Vọng tưởng là những tư niệm lăng xăng tự động khởi niệm trong đầu, phần nhiều thuộc về quá khứ và vị lai (hồi niệm, hồi ức). Những tư niệm này căn gốc đều do lòng ham muốn và ác pháp tham, sân, si sanh ra, nên kinh sách Nguyên Thủy gọi là tầm ác.

Tầm ác là những suy tư, nghĩ tưởng làm khổ mình, khổ người. Theo kinh sách Nguyên Thủy có hai loại tầm đi song song nhau. Vì thế có bài kinh gọi là Kinh Song Tầm. Kinh Song Tầm dạy chúng ta tư duy quán xét để thấu rõ:

1- Tầm ác; 2- Tầm thiện

Người tu theo đạo Phật lúc nào cũng cảnh giác, ngăn chặn và diệt tầm ác. Ngược lại lúc nào cũng tăng trưởng tầm thiện, sống trong tầm thiện. Bài Kinh Song Tầm trong tập 1 Trung Bộ Kinh trang 261 Phật dạy:

“Khi Ta chưa thành Chánh Giác, còn đang tu, Ta suy nghĩ như sau: “Ta sống suy tư và chia sự suy tư làm hai phần. Phàm có dục tầm, sân tầm, hại tầm nào. Ta phân thành phần thứ nhất. Phàm có ly dục tầm, vô sân tầm và vô hại tầm nào. Ta phân thành phần thứ hai.”

Như ở trên đã dạy, phàm làm người đều có hai sự suy tư: 1- Suy tư ác; 2- Suy tư thiện. Suy tư ác thì phải ngăn chặn và đoạn diệt, suy tư thiện thì nuôi lớn và tăng trưởng. Như trong kinh “Tứ Chánh Cần” đức Phật đã dạy: “Ngăn ác diệt ác, sanh khởi thiện tăng trưởng thiện.

Suy tư nào ác sẽ làm khổ mình, khổ người thì phải chấm dứt ngay liền; suy tư nào thiện sẽ không làm khổ mình khổ người thì cần phải phát triển những suy tư ấy. Đó là cách thức tu tập tâm ly dục ly ác pháp, diệt ngã, xả tâm.

Khi phân ra được hai dạng suy tư. Bấy giờ chúng ta quyết tâm sống không phóng dật, nhiệt tâm siêng năng tỉnh giác từng hành động thân ý, từng sự việc, từng đối tượng, từng hoàn cảnh v.v... Khi có niệm khởi lên, ta quán xét niệm ấy có làm khổ mình, khổ người không? Nếu niệm ấy đưa đến khiến ta phiền não, khiến ta mất an vui thanh thản, cũng như niệm đó khiến cho người khác mất an vui thanh thản, thì đó là niệm ác.

Khi ta biết nó là niệm ác thì niệm ấy liền biến mất. Nếu không biến mất thì ta dùng pháp như lý tác ý diệt ngay niệm ác đó. Nếu nó còn tới lui thì ta tiếp tục quán xét cho thông suốt để trừ bỏ, xả ly và đoạn dứt. Đó là cách thức tu tập thiền định của đạo Phật, đó là Định Vô Lậu

Khi đã phân chia làm hai thứ niệm ác và niệm thiện xong, đức Phật khép mình trong khuôn khổ tu tập:

“Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm tinh cần. Khi dục tầm (niệm ưa thích) khởi lên, Ta tuệ tri: Dục tầm này khởi lên nơi Ta và dục tầm này đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai, diệt trí tuệ (làm mất trí tuệ), dự phần vào phiền não, không đưa đến Niết Bàn.

Chư tỳ-kheo! Khi Ta suy tư như vậy: Dục tầm này đưa đến tự hại, thì dục tầm này được biến mất. Chư tỳ-kheo, khi Ta suy tư: Dục tầm này đưa đến hại người, dục tầm được biến mất. Chư tỳ-kheo, khi Ta suy tư: Dục tầm đưa đến hại cả hai, dục tầm được biến mất. Chư tỳ-kheo, khi Ta suy tư: Dục tầm diệt trí tuệ, dự phần vào phiền não, không đưa đến Niết Bàn, dục tầm được biến mất. Chư tỳ-kheo, như vậy Ta tiếp tục trừ bỏ xả ly và đoạn tận dục tầm.”

Đọc đoạn kinh trên các bạn cần suy nghĩ kỹ. Phật dạy chúng ta xả tâm, ly dục ly ác pháp, diệt ngã bằng những niệm ác khởi lên trong tâm. Khi ta biết nó là niệm ác làm ta khổ, người khác khổ, làm hại ta, hại người khác và làm mất trí tuệ giải thoát của ta, đưa đến khổ đau, phiền não v.v… khi ta biết như vậy thì tự nó biến mất. Và cứ tiếp tục tu tập xả ly tâm và đoạn tận từng niệm như vậy thì tâm chúng ta được thanh tịnh, đời sống chúng ta được giải thoát hoàn toàn không còn khổ đau, phiền não nữa.

Ở đây các bạn chỉ cần thấy được niệm ác khởi lên trong tâm, nó là sự nguy hại, hạ liệt, uế nhiễm, đau khổ thì các bạn sẽ trừ bỏ, xả ly, đoạn tận, viễn ly. Khi trừ bỏ, xả ly, đoạn tận thì sự lợi ích rất lớn đến với các bạn. Sự thanh tịnh của tâm và các thiện pháp sẽ hiện tiền trước mắt, tâm các bạn sẽ được hoàn toàn an lạc và thanh thản.

“Chư tỳ-kheo, trong khi Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm tinh cần như vậy. Khi ly dục tầm khởi lên, Ta tuệ tri như vầy: Ly dục tầm khởi lên nơi Ta, và ly dục tầm này không đưa đến tự hại, không đưa đến hại người, không đưa đến hại cả hai; tăng trưởng trí tuệ, không dự phần vào phiền não, đưa đến Niết Bàn.

Chư tỳ-kheo, nếu ban đêm Ta suy tư quán xét (về sự ly tầm) mà không ly tầm ác thì Ta thấy sợ hãi, dù rằng ban ngày Ta cũng sợ hãi. Chư tỳ-kheo, nếu ban đêm lẫn ngày, Ta suy tư quán xét quá lâu, thân ta có thể mệt mỏi. Khi thân mệt mỏi thì tâm bị dao động, khi tâm bị dao động thì tâm rất khó định tỉnh. Này chư tỳ-kheo, rồi tự nội thân Ta trấn an tâm, trấn định tâm, khiến được nhất tâm, khiến thành định tỉnh. Vì sao vậy? Vì để tâm Ta khỏi dao động.”

Đọc đoạn kinh này các bạn thấy Phật dạy tu tập rất cụ thể: Khi ta tu tập ly dục ly ác pháp, do sự tư duy quán xét lâu quá khiến thân ta mỏi mệt, và do mỏi mệt tâm ta bị dao động, nhưng cuối cùng nội thân chúng ta phải tự trấn an, định tỉnh. Chỗ này chỉ cần chúng ta quán xét cố gắng ly tầm dục và ác pháp, dù chúng ta có mỏi mệt nhưng phải cố gắng tiếp tục phán xét để ly tầm dục và ác pháp cho được.

Ở đây chúng ta cũng phải hiểu sự mỏi mệt cũng là một ác pháp, vì thế chúng ta đừng nên dao động tâm mà tiếp tục sự tu hành đẩy lui các chướng ngại pháp, trong đó có pháp mỏi mệt. Sự mệt mỏi đến mức độ nào đó là nội thân ta tự nhiên phản xạ, hoặc ta quán xét trấn an và định tỉnh tâm, tức là tâm không dao động về sự mỏi mệt, khi đó ta liền đạt được nhất tâm.

Ở đây chúng ta quán xét để ly dục ly ác pháp (tầm dục) thì chúng ta đạt được nhất tâm, chứ không như kinh sách Đại Thừa và Thiền Đông Độ dạy tu ức chế tâm (chẳng niệm thiện niệm ác để được nhất tâm).

Hai cách thức tu tập khác nhau rất xa. Một bên thì ức chế không cho niệm thiện niệm ác khởi để được nhất tâm. Một bên quán xét xả tâm ly dục ly ác pháp để được nhất tâm.

Một bên ức chế tâm để được nhất tâm rơi vào định tưởng nên đạt được tưởng pháp, không làm chủ sanh, già, bệnh, tử, chạy theo tưởng dục, sanh tâm ngã mạn cống cao, dính mắc kiến chấp Phật Tánh. Rơi vào tà đạo, không có đạo lực nên không điều khiển sự sống chết và thọ được, biến Phật giáo vô ngã ác pháp thành Phật giáo hữu ngã vô vi.

Một bên thì xả tâm ly dục ly ác pháp nên tâm thanh tịnh, tham, sân, si, mạn, nghi không còn. Do sự thanh tịnh tâm nên tâm có đạo lực làm chủ được sự sống chết, thực hiện Tứ Như Ý Túc và Tam Minh.

Nếu một người quyết tâm ly dục ly ác pháp, thường theo pháp như lý tác ý thì tâm có khuynh hướng sẽ ly dục ly ác pháp, và tâm ly dục ly ác pháp thì nội thân được trấn an tâm, trấn tỉnh khiến tâm được nhất tâm và định tỉnh. Khi tâm tự nhất tâm, định tỉnh, lúc bây giờ tự tâm phát dũng mãnh, tinh tấn không có tiêu cực, niệm không tán loạn được an trú, khinh an, không có cuồng nhiệt, tâm luôn định tỉnh, nhất tâm.

Khi ấy ta nhập Bất Động Tâm, từ nơi Bất Động tâm, ta có đủ Tứ Thần Túc, từ Tứ Thần Túc ta nhập Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền và Tứ Thiền bằng sức tịnh chỉ thanh tịnh của tâm. Cuối cùng sức thanh tịnh tịnh chỉ của tâm đó, ta thực hiện Tam Minh một cách dễ dàng không có mệt nhọc, không có khó khăn.

“Chư tỳ-kheo, nếu tỳ-kheo suy tư, quán xét nhiều về ly dục tầm, vị ấy từ bỏ dục tầm. Khi tâm đã đặt nặng về ly dục tầm, tâm vị ấy có khuynh hướng về ly dục tầm… Chư tỳ-kheo, ví như về cuối mùa hè, khi tất cả lúa gạo cất vào kho thóc, một người mục đồng giữ các con bò. Khi người mục đồng ở dưới gốc cây hay ở ngoài trời, người ấy có thể nghĩ đến có việc cần phải làm và người ấy nghĩ: “Đây là những con bò.” Chư tỳ-kheo, cũng vậy, ở đây có việc cần phải làm và ta nghĩ : “Đây là những pháp.”

“Chư tỳ-kheo! Ta phát tâm dũng mãnh, tinh tấn, không có tiêu cực, niệm không tán loạn được an trú, tâm được khinh an, không có cuồng nhiệt, tâm được định tỉnh, nhất tâm. Ta ly dục ly ác pháp, chứng và trú Thiền Thứ Nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm tứ. Diệt tầm tứ, Ta chứng và trú Thiền Thứ Hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú. Ta chứng và an trú Thiền Thứ Ba. Xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước. Ta chứng và trú Thiền Thứ Tư không khổ, không lạc xả niệm thanh tịnh.”

Đến đây các bạn đã hiểu rõ bài kinh Song Tầm đức Phật đã chỉ dạy cặn kẽ rõ ràng, chỉ còn chúng ta có quyết tâm tu hay là không tu mà thôi. Đường lối tu tập của đạo Phật không phải diệt niệm thiện, niệm ác, mà phải xa lìa lòng ham muốn và các ác pháp trong tâm ta. Sống và nuôi lớn thiện pháp, nghĩa là diệt tầm ác mà sống tầm thiện, tức là ly dục ly ác pháp để đem lại cuộc sống an vui và hạnh phúc cho mình, cho người.

Khi sống với tầm thiện thì tâm ta thanh tịnh không có hoàn cảnh đối tượng nào khiến tâm ta dao động, do đó gọi là tâm giải thoát không còn khổ đau vì cuộc sống làm người. Người sống được như vậy gọi là nhập Bất Động Tâm Định hay là nhập Vô Tướng Tâm Định.

Tâm thanh tịnh (tâm như đất) là tâm thiền định của đạo Phật chứ không phải tâm hết vọng tưởng (chẳng niệm thiện niệm ác). Tâm hết vọng tưởng chỉ là tà thiền, tà định của ngoại đạo.

Tâm thanh tịnh là tâm có đủ đạo lực sai khiến (điều khiển) và làm chủ được sanh già, bệnh, chết, tức làm chủ nhân quả hay còn gọi là làm chủ sự sống chết (muốn chết lúc nào chết cũng được, muốn sống lúc nào sống cũng được, gọi là tự tại sanh tử hay là ra vào nhà sanh tử.

Bởi vậy kinh sách Phật dạy tu tập thiền định không khó mà không sợ điên khùng, loạn óc (tẩu hỏa nhập ma). Chỉ có duy nhất chuyên tu xả tâm mà thôi để đạt được một tâm hồn thanh thản, an lạc, và vô sự, từ đó nhập các định làm chủ sự sống chết dễ như trở bàn tay.

Tà kiến, ác pháp mà các bạn đang theo tu, không chịu xả tâm mà cứ mãi ức chế tâm cho hết niệm thiện niệm ác thì các bạn rơi vào tà định, tà thiền thì ngàn đời muôn kiếp các bạn tu chẳng tới đâu cả, chỉ uổng công tu mà thôi. Cho nên Phật bảo chúng ta phải sống đúng tám nẻo gọi là “Bát Chánh Đạo” tám nẻo dẫn tâm đến chỗ xả ly không còn đau khổ, phiền não làm chủ cuộc sống.

Ngược lại các bạn sống không hiểu rõ đường lối của Phật dạy, bị kinh sách phát triển Đại Thừa và Thiền Đông Độ lừa đảo, tu chết người mà chẳng ra gì. Nên người trước dạy người sau này miệng nói Bát Chánh Đạo mà sống thì trong Bát Tà Đạo:

              1-Tà kiến; 2-Tà tư duy; 3-Tà ngữ; 4-Tà nghiệp
              5-Tà mạng; 6-Tà tinh tấn; 7-Tà niệm; 8-Tà định

Trong Kinh Song Tầm, Phật nhắc nhở các vị tỳ-kheo: “Chư tỳ-kheo, con đường nguy hiểm chỉ là con đường tà đạo có tám ngành, tức là tà tri kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà tinh tấn, tà niệm, tà định.”

Những điều tu sai, ức chế tâm, đó là tà định, sống phạm giới, bẻ vụn giới, không lấy giới luật phòng hộ sáu căn, sống cuộc đời không thiểu dục tri túc, ăn uống phi thời là sống trong tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà niệm. Điều này chắc ai cũng biết, biết mà không dám nói ra bởi nói ra sẽ đụng chạm tới các phật tử và tu sĩ Phật giáo Đại Thừa hiện giờ đều đang tu trong Bát Tà Đạo.

Vì con đường của Phật giáo hiện giờ tu sĩ đều thực hành pháp của ngoại đạo. Từ pháp môn niệm Phật để được nhất tâm, đến pháp môn niệm Phật cầu vãng sanh đều là hướng đi của ngoại đạo, biến dần người tu sĩ Tịnh Độ làm thầy cúng giống như các vị Bà La Môn cúng tế. Chùa có cuộc sống như gia đình thế gian, có vợ con, làm đủ mọi nghề sanh sống, thậm chí còn làm nghề bắt tôm, nuôi cá, tu sĩ chỉ còn là chiếc áo và cái đầu cạo trọc mà thôi.

Mật Tông đưa các thầy tu tập đi đến đạt thần thông phép lạ để làm thầy trị bệnh, trừ tà, ếm quỷ, biến dần vị tỳ-kheo thành một vị phù thủy. Những vị thầy này thường xưng là Giáo Chủ, bày nhiều trò lừa đảo gạt người cúng tiền của và cả tình yêu. Pháp môn tu hành bày ra nhiều điều gợi tâm dục khiến cho con người dễ sa ngã vào đường tội lỗi.

Thiền Tông thì khéo léo hơn hai Tông trước, nhưng lại xây dựng một thế giới Niết Bàn thường, lạc, ngã, tịnh tuyệt vời, cao vòi vọi như “Phật tánh” qua những ngôn ngữ rất kêu: “Kiến tánh thành Phật,” “giác ngộ, triệt ngộ, chứng ngộ, v.v…” nhưng lại phạm giới, phá giới luật. Sống không thiểu dục tri túc, không phòng hộ sáu căn, tuy ngoài miệng nói không dính mắc nhưng cuộc sống đều dính mắc tất cả.  

Đọc bài Kinh Song Tầm các bạn hiểu rõ đạo Phật không diệt vọng tưởng cũng không dừng vọng tưởng, mà chỉ biết vọng thiện, vọng ác để biết tâm mình có ly dục ly ác pháp chưa thì hãy cố gắng xả ly tâm ác của mình (tham, sân, si) còn tâm thiện thì luôn luôn sống với nó. Chỉ xả tâm ác chứ không phải xả niệm ác, còn Thiền Tông thì xả niệm ác, niệm thiện mà không xả tâm ác nên tu mãi, kết quả chẳng có gì, chỉ vì tu sai pháp.

Trên đây là nói về phần “tầm,” còn “tứ” thì chưa nói đến. Bên Thiền Tông khi giữ tâm chẳng niệm thiện niệm ác, tự chủ khởi ra một niệm gì thì Thiền Tông cho đó là “vọng tưởng.” Nếu tác ý tức là “tứ” thì Thiền Tông cũng không chấp nhận, cho đó là “vọng tưởng” và tu như vậy không đúng trạng thái tâm vô niệm của Thiền Tông vì còn tùy ý, phải giữ tâm niệm không có một niệm nào xen vào thì mới gọi là thiền định.

Cho nên vào thế kỷ thứ 18 các thiền sư Trung Hoa chế ra pháp môn tham thoại đầu và khán công án. Vốn những pháp này ức chế tâm rất cao độ, gọi là lấy độc diệt độc. Do chỗ ức chế tâm cao độ nên con đường Thiền Tông bế tắc không còn lối tu tiến tới được nữa.

Tuy chế ra pháp môn ức chế tâm như vậy, nhưng người tu khó đạt thành “tâm không,” vì ở tâm không niệm sanh ra nhiều trạng thái tưởng, dễ lạc vào tà thiền. Người có khả năng ức chế gom tâm được thì rơi vào Pháp tưởng mà Thiền Tông gọi là “Triệt ngộ,” tưởng giải toàn bộ kinh sách Đại Thừa và 1700 công án. Người không ức chế và gom tâm được thì tu chẳng đến đâu, chỉ kiến giải lượm lặt như nhai lại bã mía của người xưa rồi nói thiền, nói đạo, chứ chẳng biết thiền đạo là gì. Cho nên người tu theo Thiền Tông nghe tác ý trong lúc ngồi thiền đều cho đó là vọng tưởng.

Không ngờ sự tu tập “Như lý tác ý” lại biến thành một đạo lực siêu việt làm chủ được thân tâm muốn sống muốn chết dễ dàng, không có khó khăn, không có mệt nhọc. Muốn ngồi nhập định bảy tám ngày hoặc một tháng, hai, ba tháng đều như ý muốn, không có khó khăn, không có mệt nhọc, ngồi bất động như gốc cây, cục đá, nhưng rất tỉnh táo không ai bằng, trời sét không nghe.

Thế mà Thiền Đông Độ chê pháp như lý tác ý là vọng tưởng. Không ngờ pháp môn như lý tác ý là một pháp môn tuyệt vời, giải quyết được bốn sự đau khổ của con người và còn giúp cho chúng ta thực hiện ba loại thần thông (Tam Minh) mà không có một loại thần thông nào của ngoại đạo hơn được.

Toàn bộ giáo trình về pháp môn tu tập thực hành của đạo Phật thì pháp như lý tác ý là một pháp môn độc đáo tuyệt vời nhất, cũng là một pháp môn nòng cốt nhất của đạo Phật, bắt đầu từ tu tập giới luật xả tâm đến tu tập Thiền Định và Tam Minh đều dùng nó. Do đó, duy nhất tu tập chúng ta phải nhiệt tâm với pháp môn này, nhờ đó mới có đủ đạo lực, mới có thể làm chủ sanh, lão, bịnh, chết. Chỉ có pháp môn này tu tập mới trở thành một đạo lực siêu việt không thể nghĩ lường được.

Muốn xa lìa và đoạn dứt tâm tham, sân, si, mạn, nghi thì chỉ duy nhất có pháp môn này mới ly và đoạn dứt các dục và ác pháp, ngoài ra không còn có pháp môn nào khác nữa. Muốn nhập các Định thì Tứ Như Ý Túc là pháp môn có đủ thần lực để giúp cho hành giả muốn nhập loại định nào thì tùy ý nhập được liền.

Muốn thực hiện được Tam Minh và Thần Túc Thông thì ngoài pháp môn này ra không có pháp môn nào thực hiện được. Bởi vậy, pháp như lý tác ý là pháp môn độc nhất của đạo Phật để đưa con người thoát ra cảnh khổ của kiếp người và biến hành giả trở thành một siêu nhân, một Thánh nhân.

              Thiền Tông và Đại Thừa không hiểu chê nó là vọng tưởng, thật là một việc sai lầm rất lớn.