10. KINH KOKĀLIKA
10. KOKĀLIKASUTTAṂ
|
10. KINH KOKĀLIKA |
10. KINH KOKĀLIYA
|
Evaṃ me sutaṃ: Ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍakassa ārāme. | Tôi đã nghe như vầy: Một thời đức Thế Tôn ngự tại Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. | Như vầy tôi nghe: Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, trong khu vườn của ông Anàthapindika. |
Atha kho kokāliko bhikkhu yena bhagavā tenupasaṅkami, upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho kokāliko bhikkhu bhagavantaṃ etadavoca:
| Khi ấy, tỳ khưu Kokālika đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống ở một bên, tỳ khưu Kokālika đã nói với đức Thế Tôn điều này: | Rồi Tỷ-kheo Kokàliya đi đến Thế Tôn sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Kokàliya bạch Thế Tôn:
|
Pāpicchā bhante sāriputtamoggallānā pāpikānaṃ icchānaṃ vasaṃ gatāti. | “Bạch Ngài, Sāriputta và Moggallāna có lòng tham muốn sái quấy, bị chi phối bởi lòng tham muốn sái quấy.”
| - Bạch Thế Tôn, Sàiputta và Moggallàna là ác dục, bị ác dục chinh phục. |
Evaṃ vutte bhagavā kokakālikaṃ bhikkhuṃ etadavoca: | Được nói như vậy, đức Thế Tôn đã nói với tỳ khưu Kokālika điều này: |
|
Mā hevaṃ kokālika mā hevaṃ kokālika, pasādehi kokālika sāriputtamoggallānesu cittaṃ, pesalā sāriputtamoggallānāti.
| “Này Kokālika, chớ (nói) như vậy. Này Kokālika, chớ (nói) như vậy. Này Kokālika, hãy tín tâm với Sāriputta và Moggallāna. Sāriputta và Moggallāna là hiền thiện.” | - Này Kokàliya, chớ có vậy! Này Kokàliya, chớ có vậy! Này Kokàliya, tâm hãy tinh tấn đối với Sàriputta và Moggallàna. Hiền thiện Sàriputta và Moggallàna. |
Dutiyampi kho kokāliko bhikkhu bhagavantaṃ etadavoca: | Đến lần thứ nhì, tỳ khưu Kokālika đã nói với đức Thế Tôn điều này: | Lần thứ hai, Tỷ-kheo Kokàliya bạch Thế Tôn: |
Kiñcāpi me bhante bhagavā saddhāyiko paccayiko, atha kho pāpicchāva sāriputtamoggallānā pāpikānaṃ icchānaṃ vasaṃ gatāti. | “Bạch Ngài, mặc dầu đối với con đức Thế Tôn là đáng tin tưởng và đáng tin cậy, nhưng Sāriputta và Moggallāna quả thật có lòng tham muốn sái quấy, bị chi phối bởi lòng tham muốn sái quấy.”
| - Bạch Thế Tôn, dầu Thế Tôn có lòng tin và tin tưởng, đối với con, Sàriputta và Moggalàna là ác dục, bị ác dục chinh phục. |
Dutiyampi kho bhagavā kokālikaṃ bhikkhuṃ etadavoca: Mā hevaṃ kokālika mā hevaṃ kokālika pasādehi kokālika sāriputtamoggallānesu cittaṃ, pesalā sāriputtamoggallānāti. | Đến lần thứ nhì, đức Thế Tôn đã nói với tỳ khưu Kokālika điều này: “Này Kokālika, chớ (nói) như vậy. Này Kokālika, chớ (nói) như vậy. Này Kokālika, hãy tín tâm với Sāriputta và Moggallāna. Sāriputta và Moggallāna là hiền thiện.”
| - Này Kokàaliya, chớ có vậy! Này Kokàliya, chớ có vậy! Này Kokàliya, tâm hãy tinh tấn đối với Sàriputta và Moggallàna. Hiền thiện Sàriputta và Moggallàna
|
Tatiyampi kho kokāliko bhikkhu bhagavantaṃ etadavoca: | Đến lần thứ ba, tỳ khưu Kokālika đã nói với đức Thế Tôn điều này: | Lần thứ ba, Tỷ-kheo Kokàliya bạch Thế Tôn ...
|
Kiñcāpi me bhante bhagavā saddhāyiko paccayiko, atha kho pāpicchāva sāriputtamoggallānā pāpikānaṃ icchānaṃ vasaṃ gatāti. | “Bạch Ngài, mặc dầu đối với con đức Thế Tôn là đáng tin tưởng và đáng tin cậy, nhưng Sāriputta và Moggallāna quả thật có lòng tham muốn sái quấy, bị chi phối bởi lòng tham muốn sái quấy.”
|
|
Tatiyampi kho bhagavā kokālikaṃ bhikkhuṃ etadavoca: Mā hevaṃ kokālika mā hevaṃ kokālika pasādehi kokālika sāriputtamoggallānesu cittaṃ, pesalā sāriputtamoggallānāti.
| Đến lần thứ ba, đức Thế Tôn đã nói với tỳ khưu Kokālika điều này: “Này Kokālika, chớ (nói) như vậy. Này Kokālika, chớ (nói) như vậy. Này Kokālika, hãy tín tâm với Sāriputta và Moggallāna. Sāriputta và Moggallāna là hiền thiện.”
|
... Hiền thiện là Sàriputta và Moggallàna.. |
Atha kho kokāliko bhikkhu uṭṭhāyāsanā bhagavantaṃ abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā pakkāmi. Acirapakkantassa ca kokālikassa bhikkhuno sāsapamattīhi piḷakāhi sabbo kāyo phuṭho ahosi. Sāsapamattiyo hutvā muggamattiyo ahesuṃ. Muggamattiyo hutvā kaḷāyamattiyo ahesuṃ. Kaḷāyamattiyo hutvā kolaṭṭhimattiyo ahesuṃ. Kolaṭṭhimattiyo hutvā kolamattiyo ahesuṃ. Kolamattiyo hutvā āmalakamattiyo ahesuṃ. Āmalakamattiyo hutvā beluva salāṭukamattiyo ahesuṃ. Beluvasalāṭukamattiyo hutvā billamattiyo ahesuṃ. Billamattiyo hutvā pabhijjiṃsu, pubbañca lohitañca pagghariṃsu. | Khi ấy, tỳ khưu Kokālika đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi. Và trong khi tỳ khưu Kokālika ra đi không bao lâu, toàn thân của vị ấy đã bị lan tràn bởi những mụt nhọt kích cỡ hạt cải. Sau khi trở thành kích cỡ hạt cải, chúng trở thành kích cỡ hạt đậu xanh. Sau khi trở thành kích cỡ hạt đậu xanh, chúng trở thành kích cỡ hạt đậu lớn. Sau khi trở thành kích cỡ hạt đậu lớn, chúng trở thành kích cỡ hột táo. Sau khi trở thành kích cỡ hột táo, chúng trở thành kích cỡ trái táo. Sau khi trở thành kích cỡ trái táo, chúng trở thành kích cỡ trái āmalaka. Sau khi trở thành kích cỡ trái āmalaka, chúng trở thành kích cỡ trái beluva. Sau khi trở thành kích cỡ trái beluva, chúng trở thành kích cỡ trái billa. Sau khi trở thành kích cỡ trái billa, chúng vỡ tung, tiết ra mủ và máu. | Rồi Tỷ-kheo Kokàliya từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài rồi ra đi. Tỷ-kheo Kokàliya ra đi không lâu, toàn thân của Tỷ-kheo Kokàliya nổi lên những mụt to bằng hạt cải; sau khi lớn lên bằng hột đậu; chúng lớn lên bằng hột đậu lớn; sau khi lớn bằng hột đậu lớn, chúng lớn lên bằng hòn đá; sau khi lớn lên bằng hòn đá, chúng lớn lên bằng trái táo; sau khi lớn lên bằng trái táo, chúng lớn lên bằng trái àmala; sau khi lớn lên bằng trái àmala, chúng lớn lên bằng trái vilva; sau khi lớn lên bằng trái vilva, chúng lớn lên bằng trái billi, chúng bị phá vỡ, mủ và máu chảy ra. |
Atha kho kokāliko bhikkhu teneva ābādhena kālamakāsi, kālakato ca kho kokāliko bhikkhu padumanirayaṃ upapajji sāriputtamoggallānesu cittaṃ āghātetvā.
| Khi ấy, tỳ khưu Kokālika đã qua đời bởi chính bệnh ấy. Và khi bị qua đời, tỳ khưu Kokālika đã sanh vào địa ngục Paduma sau khi khởi tâm thù hằn với Sāriputta và Moggallāna.
| Rồi Tỷ-kheo Kokàliya do bệnh này bị mệnh chung. Bị mệnh chung, Tỷ-kheo Kokàliya sanh trong địa ngục Sen hồng, với tâm hận thù đối với Sàriputta và Moggallàna. |
Atha kho brahmā sahampati abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇo kevalakappaṃ jetavanaṃ obhāsetvā yena bhagavā tenupasaṅkami, upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ ṭhito kho brahmā sahampati bhagavantaṃ etadavoca: | Sau đó, vị Phạm Thiên Sahampati, lúc đêm đã khuya, với màu sắc vượt trội đã làm cho toàn bộ Jetavana rực sáng, rồi đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi đứng ở một bên. Đứng ở một bên, Phạm Thiên Sahampati đã nói với đức Thế Tôn điều này:
| Rồi Phạm thiên Sahampati sau khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn và đứng một bên. Ðứng một bên, Phạm thiên Sahampati bạch Thế Tôn: |
Kokāliko bhante bhikkhu kālakato. Kālakato ca bhante kokāliko bhikkhu padumanirayaṃ upapanno sāriputtamoggallānesu cittaṃ āghātetvāti. | “Bạch Ngài, tỳ khưu Kokālika đã qua đời. Và bạch Ngài, khi bị qua đời, tỳ khưu Kokālika đã sanh vào địa ngục Paduma sau khi khởi tâm thù hằn với Sāriputta và Moggallāna.”
| - Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo Kokàliya phải sanh vào địa ngục Sen hồng, với tâm hận thù đối với Sàriputta và Moggallàna. |
Idamavoca brahmā sahampati, idaṃ vatvā bhagavantaṃ abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā tatthevantaradhāyi. | Phạm Thiên Sahampati đã nói điều này, sau khi đã nói điều này, đã đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi biết mất ở ngay tại chỗ ấy. | Phạm thiên Sahampati nói như vậy, sau khi nói xong, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài rồi biến mất tại chỗ ấy. |
Atha kho bhagavā tassā rattiyā accayena bhikkhū āmantesi: | Sau đó, vào cuối đêm ấy đức Thế tôn đã bảo các vị tỳ khưu rằng: | Rồi Thế Tôn, sau khi đêm ấy đã qua, liền bảo các Tỷ-kheo: |
Idaṃ bhikkhave rattiṃ brahmā sahampati abhikkantāya rattiyā —pe— | “Này các tỳ khưu, đêm nay vị Phạm Thiên Sahampati, lúc đêm đã khuya, —như trên—” | - Này các Tỷ-kheo, hồi hôm Phạm thiên Sahampati, khi đêm gần mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Jetavana đi đến Ta, sau khi đến đảnh lễ Ta rồi đứng một bên. Ðứng một bên, này các Tỷ-kheo, Phạm thiên Sahampati bạch với Ta: "Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo Kokàliya đã mệnh chung và Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo Kokàliya sau khi mệnh chung đã sanh địa ngục Sen hồng với tâm hận thù đối với Sàriputta và Moggallàna". |
Idamavoca brahmā sahampati, idaṃ vatvā maṃ abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā tatthevantaradhāyi. | Phạm Thiên Sahampati đã nói điều này, sau khi đã nói điều này, đã đảnh lễ Ta, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi biết mất ở ngay tại chỗ ấy. | Này các Tỷ-kheo, Phạm thiên Sahampati nói như vậy. Sau khi nói xong, đảnh lễ Ta, thân phía hữu hướng về Ta rồi biến mất tại chỗ. |
Evaṃ vutte aññataro bhikkhu bhagavantaṃ etadavoca: | Được nói như vậy, một vị tỳ khưu nọ đã nói với đức Thế Tôn điều này: | Ðược nghe nói vậy, một Tỷ-kheo bạch Thế Tôn: |
Kīvadīghaṃ nu kho bhante padume niraye āyuppamāṇanti? | “Bạch Ngài, ước lượng tuổi thọ ở địa ngục Paduma dài đến chừng nào?” | - Bạch Thế Tôn, bao nhiêu là tuổi thọ trong địa ngục Sen hồng? |
Dīghaṃ kho bhikkhu padume niraye āyuppamāṇaṃ, taṃ na sukaraṃ saṅkhātuṃ ettakāni vassāni iti vā ettakāni vassasatāni iti vā ettakāni vassasahassāni iti vā ettakāni vassasatasahassāni iti vāti. | “Này tỳ khưu, ước lượng tuổi thọ ở địa ngục Paduma quả là dài, việc ấy không phải là việc dễ làm để tính toán là ‘chừng này năm,’ hay ‘chừng này trăm năm,’ hay ‘chừng này ngàn năm,’ hay ‘chừng này trăm ngàn năm.’” | - Thật dài, này Tỷ-kheo, là tuổi thọ trong địa ngục Sen hồng, không dễ gì tính được bao nhiêu năm, bao nhiêu trăm năm, bao nhiêu ngàn năm, hay bao nhiêu trăm ngàn năm.
|
Sakkā pana bhante upamaṃ kātunti. | “Bạch Ngài, có thể làm một ví dụ không?” | - Bạch Thế Tôn, có thể tính được chăng bằng ví dụ?
|
Sakkā bhikkhūti bhagavā avoca: Seyyathāpi bhikkhu vīsati khāriko kosalako tilavāho tato puriso vassasatassa vassasahassassa accayena ekamekaṃ tilaṃ uddhareyya khippataraṃ kho so bhikkhu vīsati khāriko kosalako tilavāho iminā upakkamena parikkhayaṃ pariyādānaṃ gaccheyya, nattheva eko abbudo nirayo, seyyathāpi bhikkhu vīsati abbudā nirayā evameko nirabbudo nirayo, seyyathāpi bhikkhu vīsati nirabbudā nirayā evameko ababo nirayo, seyyathāpi bhikkhu vīsati ababā nirayā evameko ahaho nirayo. | “Này tỳ khưu, có thể.” Đức Thế Tôn đã nói rằng: “Này tỳ khưu, cũng giống như một cỗ xe chở hạt mè ở xứ Kosala có dung tích hai mươi khārika, rồi từ cỗ xe đó vào cuối thời hạn của một trăm năm, của một ngàn năm, người ta lấy bớt ra một hạt mè, này tỳ khưu, theo cách thức này một cỗ xe chở hạt mè ở xứ Kosala có dung tích hai mươi khārika ấy đi đến sự hoàn toàn cạn kiệt, hoàn toàn hết sạch là còn nhanh hơn (số lượng tuổi thọ ở địa ngục Paduma). Không phải chỉ có một địa ngục Abbuda. Này tỳ khưu, cũng giống như hai mươi địa ngục Abbuda là một địa ngục Nirabbuda. Này tỳ khưu, cũng giống như hai mươi địa ngục Nirabbuda là một địa ngục Ababa. Này tỳ khưu, cũng giống như hai mươi địa ngục Ababa là một địa ngục Ahaha. | Thế Tôn đáp: - Có thể được, này Tỷ-kheo. Này Tỷ-kheo, ví như có hột đậu mè nặng hai mươi khàrika, theo đo lường nước Kosala. Ví dụ sau một trăm năm, một người lấy ra một lần một hột mè. Này Tỷ-kheo, còn mau hơn là bao hột mè, nặng hai mươi ngàn khàrika ấy, theo đo lường của nước Kosala, đi đến tiêu hao, đi đến hao mòn do phương tiện ấy, so sánh với tuổi thọ ở địa ngục Abbuda. Này Tỷ-kheo hai mươi tuổi thọ ở địa ngục Abbuda; bằng một tuổi thọ ở địa ngục Nirabbuda. Này Tỷ-kheo, hai mươi tuổi thọ ở địa ngục Nirabbuda, bằng một tuổi thọ ở địa ngục Ababa. Này Tỷ-kheo, hai mươi tuổi thọ ở địa ngục Ahaha bằng một tuổi thọ ở địa ngục Atata. |
Seyyathāpi bhikkhu vīsati ahahā nirayā evameko aṭaṭo nirayo, seyyathāpi bhikkhu vīsati aṭaṭā nirayā evameko kumudo nirayo, seyyathāpi bhikkhu vīsati kumudā nirayā evameko sogandhiko nirayo, seyyathāpi bhikkhu vīsati sogandhikā nirayā evameko uppalako nirayo, seyyathāpi bhikkhu vīsati uppalakā nirayā evameko puṇḍarīko nirayo, seyyathāpi bhikkhu vīsati puṇḍarīkā nirayā evameko padumo nirayo. Padumaṃ kho pana bhikkhu nirayaṃ kokāliko bhikkhu upapanno sāriputtamoggallānesu cittaṃ āghātetvāti. | Này tỳ khưu, cũng giống như hai mươi địa ngục Ahaha là một địa ngục Aṭata. Này tỳ khưu, cũng giống như hai mươi địa ngục Aṭata là một địa ngục Kumuda. Này tỳ khưu, cũng giống như hai mươi địa ngục Kumuda là một địa ngục Sogandhika. Này tỳ khưu, cũng giống như hai mươi địa ngục Sogandhika là một địa ngục Uppalaka. Này tỳ khưu, cũng giống như hai mươi địa ngục Uppalaka là một địa ngục Puṇḍarīka. Này tỳ khưu, cũng giống như hai mươi địa ngục Puṇḍarīka là một địa ngục Paduma. Này tỳ khưu, tỳ khưu Kokālika đã sanh vào địa ngục Paduma sau khi khởi tâm thù hằn với Sāriputta và Moggallāna.” | Này Tỷ-kheo, hai mươi tuổi thọ ở địa ngục Atata bằng một tuổi thọ ở địa ngục Kumuda. Này Tỷ-kheo, hai mươi tuổi thọ ở địa ngục Kumuda bằng một tuổi thọ ở địa ngục Sogandhika. Này Tỷ-kheo, hai mươi tuổi thọ ở địa ngục Sogandhika bằng một tuổi thọ ở địa ngục Uppala (Hoa sen xanh). Này các Tỷ-kheo, hai mươi tuổi thọ ở địa ngục Uppala bằng một tuổi thọ ở địa ngục Pundarika (Hoa sen). Này Tỷ-kheo, hai mươi tuổi thọ ở địa ngục Pundarika bằng một tuổi thọ ở địa ngục Pudumà. Này Tỷ Kheo Kokàliya sanh tại địa ngục Pudumà với tâm hận thù Sàripputta và Moggallàna.
|
Idamavoca bhagavā, idaṃ vatvā sugato athāparaṃ etadavoca satthā: | Đức Thế Tôn đã nói điều này. Sau khi nói điều này, đấng Thiện Thệ, bậc Đạo Sư còn nói thêm điều này nữa:
| Thế Tôn nói như vậy. Sau khi nói như vậy, bậc Thiện Thệ lại nói thêm:
|
660. Purisassa hi jātassa kuṭhārī jāyate mukhe, | 660. “Bởi vì đối với người đã được sanh ra, có lưỡi rìu được sanh ra cho người ấy, kẻ ngu tự cắt đứt bản thân với nó, trong khi nói lời nói xấu xa. | 657. Phàm con người đã sanh, |
661. Yo nindiyaṃ pasaṃsati taṃ vā nindati yo pasaṃsiyo, | 661. Kẻ nào khen ngợi người đáng bị chê bai, hoặc chê bai người đáng được khen ngợi, kẻ ấy tích lũy lầm lỗi bởi cái miệng, do lầm lỗi ấy không tìm thấy sự an lạc. | 658. Ai khen kẻ đáng chê, |
662. Appamatto ayaṃ kali yo akkhesu dhanaparājayo, | 662. Lầm lỗi này, việc thất thoát tài sản thậm chí toàn bộ (của cải) cùng với bản thân ở các con súc sắc, là có tầm cỡ nhỏ nhoi. Kẻ nào khởi tâm ý xấu xa dối với các bậc đã đi đến trạng thái tốt lành, chính lầm lỗi này là lớn lao hơn. | 659. Nhỏ thay bất hạnh này, |
663. Sataṃ sahassānaṃ nirabbudānaṃ | 663. Sau khi buông xuống lời nói và ý nghĩ ác xấu, kẻ quở trách các bậc Thánh nhân đi đến địa ngục là ba triệu sáu trăm ngàn (địa ngục) Nirabbuda và năm (địa ngục) Abbuda. | 660. Trải thời gian trăm ngàn |
664. Abhūtavādī nirayaṃ upeti | 664. Người có lời nói không thật đi địa ngục, hoặc luôn cả người nào sau khi làm đã nói rằng: ‘Tôi không làm;’ cả hai người ấy, có hành động thấp kém, sau khi chết (đọa) vào cảnh giới khác là giống như nhau. | 661. Kẻ nói không chân thật, |
665. Yo appaduṭṭhassa narassa dussati | 665. Kẻ nào bôi nhọ người không bị ô nhiễm, người trong sạch, không vết nhơ, điều xấu xa quay về chính kẻ ngu ấy, ví như bụi bặm li ti được tung ra ngược chiều gió. | 662. Ai khởi lên ác tâm, |
666. Yo lobhaguṇe anuyutto | 666. Kẻ nào đeo bám các bản chất của tham, kẻ ấy chê bai những người khác bàng lời nói, là kẻ không có niềm tin, keo kiệt, là kẻ không biết đến lời giảng huấn, bỏn xẻn, là kẻ đeo đuổi việc nói đâm thọc. | 663. Ai hệ lụy đắm trước, |
667. Mukhadugga vibhūta anariya | 667. Này kẻ ăn nói thô lỗ, thiếu chân thật, không thánh thiện, kẻ đồi trụy, ác độc, kẻ làm hành động xấu xa, kẻ khốn cùng, xúi quẩy, kẻ hạ căn, ngươi chớ nói nhiều ở nơi đây; ngươi là hạng người ở địa ngục. | 664. Này Ông, miệng ác độc, |
668. Rajamākirasi ahitāya | 668. Ngươi gieo rắc bụi bặm (phiền não) vào sự bất hạnh (của chinh ngươi), ngươi quở trách những bậc đức độ, ngươi là kẻ làm điều sái quấy. Và sau khi thực hành nhiều uế hạnh, ngươi đương nhiên sẽ đi đến đọa xứ trong thời gian lâu dài. | 665. Ông rắc rải bụi trần, |
669. Na hi nassati kassaci kammaṃ | 669. Bởi vì nghiệp của bất cứ một ai đều không bị tiêu hoại, chủ nhân (của việc đã làm) đương nhiên gánh chịu nghiệp ấy. Kẻ ngu muội, kẻ làm điều sái quấy, nhìn thấy khổ đau ở bản thân mình vào đời sau. | 666. Hành động bất cứ ai, |
670. Ayosaṃkusamāhataṭṭhānaṃ | 670. Kẻ ấy đi đến cọc sắt có cạnh sắc bén, nơi chốn (có hình phạt) bị đâm xuyên bằng giáo sắt, rồi có vật thực giống như hòn sắt bị nung cháy đỏ, tương xứng (với nghiệp đã làm) như thế ấy. | 667. Nó đi đến tại chỗ |
671. Na hi vaggu vadanti vadantā | 671. Trong khi nói, đương nhiên họ (những cai ngục) không nói ngọt ngào, họ không vồn vã (tiếp đón). Chúng (những kẻ đọa địa ngục) đi đến nơi không phải là chốn nương thân. Chúng nằm ở nơi đã được lót trải than hừng, chúng đi vào đám lửa đã được bốc cháy. | 668. Tại đấy không ai nói |
672. Jālena ca onahiyānā | 672. Và sau khi chụp xuống bằng tấm lưới (sắt), tại nơi ấy họ (những cai ngục) đánh đập (chúng) với những chiếc búa làm bằng sắt. Chúng (những kẻ đọa địa ngục) đi đến bóng tối vô cùng mờ mịt, bóng tối ấy trải rộng khắp giống như sương mù.
| 669. Với lưới, kẻ giữ ngục, |
673. Atha lohamayaṃ pana kumbhiṃ | 673. Rồi chúng còn đi vào cái lu làm bằng đồng có đám lửa đã được bốc cháy. Thật vậy, chúng bị nung nấu trong những cái lu ấy một thời gian dài, trồi lên hụp xuống trong những đám lửa. | 670. Họ đi đến bước vào |
674. Atha pubbalohitamisse | 674. Rồi trong đám máu mủ bị trộn lẫn, kẻ làm điều sái quấy bị nung nấu ở tại nơi ấy. Bất kỳ phương hướng nào gã nương tựa vào, tại nơi ấy gã đều bị lem luốc trong khi xúc chạm (với mủ và máu). | 671. Rồi kẻ làm điều ác, |
675. Puḷavāvasathe salilasmiṃ | 675. Ở trong nước, chỗ trú ngụ của các loài giòi bọ, kẻ làm điều sái quấy bị nung nấu ở tại nơi ấy. Cũng chẳng có bến bờ để đi ra, bởi vì xung quanh cái chảo nấu tất cả đều bằng phẳng. | 672. Trong nước, chỗ trú ẩn |
676. Asipattavanaṃ pana tiṇhaṃ | 676. Hơn nữa, chúng (những kẻ đọa địa ngục) còn đi vào khu rừng Asipatta (Gươm Lá) sắc bén, (và) có thân thể bị băm nát. Họ (những cai ngục) nắm lấy cái lưỡi với các móc câu, kéo tới kéo lui, rồi đánh đập (chúng). | 673. Trong rừng đầy lá gươm, |
677. Atha vetaraṇiṃ pana duggaṃ | 677. Rồi chúng còn đi đến (dòng sông) Vetaraṇī, có cạnh sắc bén, có lưỡi dao cạo, khó lội qua. Kẻ ngu muội, kẻ làm điều ác đọa vào nơi ấy sau khi đã làm các điều ác. | 674. Họ đi vào cảnh giới, |
678. Khādanti hi tattha rudante | 678. Bởi vì trong khi chúng đang khóc lóc ở tại nơi ấy, những con chó màu đen, có đốm, và những bầy quạ đen gặm nhấm chúng, những con chó rừng thèm khát, những con diều hâu và những con chim quạ rỉa rói chúng. | 675. Tại đấy, các chim thú, |
679. Kicchā vatāyaṃ idha vutti | 679. Lối hành xử này ở nơi đây quả là khó khăn, hạng người làm điều sái quấy nhìn thấy điều này. Vì thế, trong quãng đời còn lại ở thế gian này, nên là người thực hành phận sự, không nên xao lãng.
| 676. Thật rất là đau khổ |
680. Te gaṇitā vidūhi tilavāhā | 680. Những cỗ xe chở hạt mè so sánh với (thời gian ở) địa ngục Paduma đã được các bậc hiểu biết tính đếm là năm mươi nghìn koṭi (5 x 10.000 x 10 triệu = 500 tỷ) thêm vào một ngàn hai trăm koṭi (12 x 100 x 10 triệu = 12 tỷ) nữa. | 677. Những hột mè mang lại, |
681. Yāva dukkhā nirayā idha vuttā | 681. Các địa ngục khổ đau đến chừng nào, thậm chí còn phải sống lâu ở nơi ấy đến chừng ấy, đã được nói đến ở đây; vì thế, nên thận trọng giữ gìn lời nói và ý nghĩ đối với những bậc có đức hạnh trong sạch, hiền thiện, và tốt lành.”
| 678. Khổ cho đến như vậy, |
Kokālikasuttaṃ niṭṭhitaṃ.
| Dứt Kinh Kokālika.
|