8. METTASUTTAṂ | 8. KINH TỪ ÁI | 8. KINH TỪ BI |
143. Karaṇīyamatthakusalena yaṃ taṃ santaṃ padaṃ abhisamecca, sakko ujū ca sūjū ca suvaco cassa mudu anatimāni. | 143. Việc cần làm bởi vị thiện xảo trong việc thực hành, sau khi đã thấu hiểu về vị thế (Niết Bàn) an tịnh ấy là: có khả năng, ngay thẳng, chánh trực, dễ dạy, hòa nhã, và không ngã mạn thái quá. | 143. Vị thiện xảo mục đích, Cần phải làm như sau: Sau khi hiểu thông suốt, Con đường an tịnh ấy, Có khả năng, trực tánh, Thật sự, khéo chân trực, Dễ nói và nhu hòa, Không có gì cao mạn. |
144. Santussako ca subharo ca appakicco ca sallahukavutti, santindriyo ca nipako ca appagabbho kulesu ananugiddho. | 144. Là người tự biết đủ, dễ cấp dưỡng, ít bận rộn công việc, và có lối sống nhẹ nhàng, có giác quan an tịnh, và chín chắn, không hỗn xược, không tham đắm theo các gia tộc. | 144. Sống cảm thấy vừa đủ, Nuôi sống thật dễ dàng, Ít có sự rộn ràng, Sống đạm bạc giản dị. Các căn được tịnh lạc, Khôn ngoan và thật trọng, Không xông xáo gia đình, Không tham ái, tham vọng. |
145. Na ca khuddaṃ samācare kiñci yena viññū pare upavadeyyuṃ, sukhino vā khemino hontu sabbe sattā bhavantu sukhitattā. | 145. Và không nên thực hành bất cứ điều gì nhỏ nhặt mà các bậc hiểu biết khác đã khiển trách. Mong rằng tất cả chúng sanh có được sự an lạc, có được sự an toàn. Mong rằng tất cả chúng sanh có bản thân được an lạc. | 145. Các sở hành của mình, Không nhỏ nhen vụn vặt, Khiến người khác có trí, Có thể sanh chỉ trích. Mong mọi loài chúng sanh, Ðược an lạc, an ổn, Mong họ chứng đạt được, Hạnh phúc và an lạc. |
146. Ye keci pāṇa bhūtatthi tasā vā thāvarā vā anavasesā, dīghā vā ye mahantā vā majjhamā rassakāṇukathūlā.
| 146. Bất cứ những chúng sanh nào dầu là: yếu hoặc mạnh (tất cả) không bỏ sót, (có thân hình) dài hoặc to lớn, trung bình hoặc ngắn, nhỏ bé hay mập. | 146. Mong tất cả những ai, Hữu tình có mạng sống, Kẻ yếu hay kẻ mạnh, Không bỏ sót một ai, Kẻ dài hay kẻ lớn, Trung, thấp, loài lớn, nhỏ. |
147. Diṭṭhā vā ye va addiṭṭhā ye ca dūre vasanti avidūre, bhūtā vā sambhavesī vā sabbe sattā bhavantu sukhitattā. | 147. Được nhìn thấy, hoặc không được nhìn thấy, cư ngụ ở nơi xa và không xa, đã được hiện hữu hoặc đang tầm cầu sự thành hình, mong rằng tất cả chúng sanh có bản thân được an lạc. | 147. Loài được thấy, không thấy, Loài sống xa, không xa, Các loài hiện đang sống, Các loài sẽ được sanh, Mong mọi loài chúng sanh Sống hạnh phúc an lạc. |
148. Na paro paraṃ nikubbetha nātimaññetha katthaci naṃ kañci, byārosanā paṭighasaññā nāññamaññassa dukkhamiccheyya. | 148. Người này không nên lường gạt kẻ khác, không nên khi dễ bất cứ người nào ở bất cứ nơi đâu. Do sự giận dữ, do ý tưởng bất bình, không nên mong mỏi sự khổ đau cho lẫn nhau. | 148. Mong rằng không có ai, Lường gạt lừa dối ai, Không có ai khinh mạn, Tại bất cứ chỗ nào. Không vì giận hờn nhau, Không vì tưởng chống đối. Lại có người mong muốn, Làm đau khổ cho nhau. |
149. Mātā yathā niyaṃ puttaṃ āyusā ekaputtamanurakkhe, evampi sabbabhūtesu mānasaṃ bhāvaye aparimānaṃ. | 149. Giống như người mẹ bảo vệ đứa con trai của mình, đứa con trai độc nhất, đến trọn đời, cũng như vậy, đối với tất cả các sanh linh, nên phát triển tâm ý vô hạn lượng. | 149. Như tấm lòng người mẹ, Ðối với con của mình, Trọn đời lo che chở, Con độc nhất mình sanh. Cũng vậy, đối tất cả Các hữu tình chúng sanh, Hãy tu tập tâm ý, Không hạn lượng rộng lớn. |
150. Mettañca sabbalokasmiṃ mānasaṃ bhāvaye aparimāṇaṃ, uddhaṃ adho ca tiriyañca asambādhaṃ averaṃ asapattaṃ.
| 150. Và tâm từ ái ở tất cả thế giới, nên phát triển tâm ý vô hạn lượng, bên trên, bên dưới, và chiều ngang, không bị ngăn trở, không thù oán, không đối nghịch. | 150. Hãy tu tập từ tâm, Trong tất cả thế giới, Hãy tu tập tâm ý, Không hạn lượng rộng lớn. Phía trên và phía dưới, Cũng vậy, cả bề ngang, Không hạn chế, trói buộc, Không hận, không thù địch. |
151. Tiṭṭhaṃ caraṃ nisinno vā sayāno vā yāvatassa vigatamiddho, etaṃ satiṃ adhiṭṭheyya brahmametaṃ vihāraṃ idhamāhu. | 151. Trong khi đứng, trong khi đi, hoặc khi đã ngồi xuống, hoặc trong khi nằm, cho đến khi nào sự buồn ngủ được xa lìa, nên chuyên chú vào niệm này, ở đây việc này được gọi là sự an trú cao thượng. | 151. Khi đứng, hay khi đi, Khi ngồi, hay khi nằm, Lâu cho đến khi nào, Khi đang còn tỉnh thức, Hãy an trú niệm này, Nếp sống này như vậy, Ðược đời đề cập đến, Là nếp sống tối thượng. |
152. Diṭṭhiñca anupagamma sīlavā dassanena sampanno, kāmesu vineyya gedhaṃ na hi jātu gabbhaseyyaṃ punaretīti. | 152. Và sau khi không đeo đuổi tà kiến, là người có giới, được thành tựu về nhận thức, sau khi xua đi sự thèm khát ở các dục, thì chắc chắn không đi đến thai bào lần nữa. | 152. Ai từ bỏ tà kiến, Giữ giới, đủ chánh kiến, Nhiếp phục được tham ái, Ðối với các dục vọng, Không còn phải tái sanh, Ði đến thai tạng nữa. |
Mettasuttaṃ niṭṭhitaṃ. | Dứt Kinh Từ Ái. | |
9. HEMAVATASUTTAṂ | 9. KINH HEMAVATA | 9. KINH HEMAVATA |
153. Ajja paṇṇaraso uposatho (iti sātāgiro yakkho) divyā ratti upaṭṭhitā, anomanāmaṃ sāttharaṃ handa passāma gotamaṃ. | 153. (Dạ-xoa Sātāgira nói) Hôm nay là ngày mười lăm, ngày Uposatha, đêm rực rỡ đã đến rồi. Nào, chúng ta hãy diện kiến bậc Đạo Sư Gotama có danh xưng cao tột. | Sàtàgira: 153. Nay đúng vào ngày rằm, Ngày trai giới, bố-tát, Nói vậy là dạ-xoa, Tên Sàtàgira, Ðêm đã được an trú, Ðêm đẹp như cõi trời, Hãy gặp Gotama, Bậc Ðạo Sư vô thượng. |
154. Kacci mano supaṇihito (iti hemavato yakkho) sabbabhūtesu tādino, kacci iṭṭhe aniṭṭhe ca saṅkappassa vasīkatā. | 154. (Dạ-xoa Hemavata nói) Phải chăng tâm của bậc như thế ấy là đã được phát nguyện vững chắc hướng đến tất cả chúng sanh? Phải chăng tâm tư của vị này đã đạt đến quyền làm chủ ở đối tượng được ưa thích và không được ưa thích? | Hemavata: 154. Có phải ý vị ấy, Tâm nguyện thật khéo phát? Nói vậy là dạ-xoa, Tên Hemavata, Có phải đối sanh loại, Có tâm tư như vậy? Có phải các tư duy, Ðược khéo léo điều phục Ðối với các pháp khả ái, Và pháp không khả ái? |
155. Mano cassa supaṇihito (iti sātāgiro yakkho) sabbabhūtesu tādino, atho iṭṭhe aniṭṭhe ca saṅkappassa vasīkatā. | 155. (Dạ-xoa Sātāgira nói) Tâm của vị này, của bậc như thế ấy là đã được phát nguyện vững chắc hướng đến tất cả chúng sanh. Và tâm tư của vị này đã đạt đến quyền làm chủ ở đối tượng được ưa thích và không được ưa thích. | Sàtàgira: 155. Ý vị ấy là vậy, Tâm nguyện thật khéo phát, Nói vậy là dạ-xoa, Tên Sàtàgira, Ðối với mọi sanh loại, Có tâm tư như vậy, Như vậy là tư duy, Ðược khéo léo điều phục. |
156. Kacci adinnaṃ nādiyati (iti hemavato yakkho) kacci pāṇesu saññato, kacci ārā pamādamhā kacci jhānaṃ na riñcati. | 156. (Dạ-xoa Hemavata nói) Phải chăng vị ấy không lấy vật không được cho? Phải chăng vị ấy tự kiềm chế về các sanh mạng? Phải chăng vị ấy xa lìa sự xao lãng? Phải chăng vị ấy không bỏ phế việc tham thiền? | Hemavata: 156. Có phải là vị ấy Không lấy vật không cho? Nói vậy là dạ-xoa, Tên Hemavata, Có phải với hữu tình, Vị ấy khéo chế ngự? Có phải với phóng dật, Vị ấy khéo viễn ly? Có phải đối thiền định, Vị ấy không từ bỏ? |
157. Na so adinnaṃ ādiyati (iti sātāgiro yakkho) atho pāṇesu saññato, atho ārā pamādamhā buddho jhānaṃ na riñcati
| 157. (Dạ-xoa Sātāgira nói) Ngài không lấy vật không được cho, đã tự kiềm chế về các sanh mạng, đã xa lìa sự xao lãng, đức Phật không bỏ phế việc tham thiền. | Sàtàgira: 157. Vị ấy không có lấy Những vật không được cho, Nói vậy là dạ-xoa, Tên Sàtàgira, Vị ấy với hữu tình, Rất khéo léo chế ngự, Vị ấy với phóng dật, Thật sự sống viễn ly, Ðức Phật đối thiền định, Không từ bỏ, sao lãng. |
158. Kacci musā na bhaṇati (iti hemavato yakkho) kacci na khīṇavyappatho, kacci vebhūtiyaṃ nāha kacci samphaṃ na bhāsati.
| 158. (Dạ-xoa Hemavata nói) Phải chăng vị ấy không nói lời dối trá? Phải chăng vị ấy không có lời nói thô lỗ? Phải chăng vị ấy đã không nói lời phá hoại (đâm thọc)? Phải chăng vị ấy không nói nhảm nhí? | Hemavata: 158. Có phải là vị ấy, Không nói lời nói láo? Nói vậy là Dạ-xoa, Tên Hemavata, Có phải là vị ấy Ðoạn tận các trách nhiệm? Có phải là vị ấy Không nói lời vu khống? Có phải là vị ấy Không nói lời phù phiếm? |
159. Musā ca so na bhaṇati (iti sātāgiro yakkho) atho na khīṇavyappatho, atho vebhūtiyaṃ nāha mantā atthaṃ so bhāsati.
| 159. (Dạ-xoa Sātāgira nói) Và vị ấy không nói lời dối trá, cũng không có lời nói thô lỗ, cũng đã không nói lời phá hoại (đâm thọc), là bậc trí, vị ấy nói điều có lợi ích. | Sàtàgira: 159. Và thật sự vị ấy, Không nói lời nói láo, Nói vậy là Dạ-xoa, Tên Sàtàgira, Ðoạn tận đường ác ngữ, Không nói lời vu khống, Vị ấy nói những lời Sáng suốt, có nghĩa lý. |
160. Kacci na rajjati kāmesu (iti hemavato yakkho) kacci cittaṃ anāvilaṃ, kacci mohaṃ atikkanto kacci dhammesu cakkhumā.
| 160. (Dạ-xoa Hemavata nói) Phải chăng vị ấy không luyến ái ở các dục? Phải chăng tâm không bị vẩn đục? Phải chăng vị ấy vượt qua si mê? Phải chăng là bậc hữu nhãn về các pháp? | Hemavata: 160. Có phải đối các dục, Vị ấy không tham ái? Ðây là lời Dạ-xoa, Tên Hemavata, Có phải tâm vị ấy Không có bị dao động? Có phải tâm vị ấy Vượt khỏi sự si ám? Có phải thật vị ấy, Có mắt đối các pháp? |
161. Na so rajjati kāmesu (iti sātāgiro yakkho) atho cittaṃ anāvilaṃ, sabbamohaṃ atikkanto buddho dhammesu cakkhumā. | 161. (Dạ-xoa Sātāgira nói) Vị ấy không luyến ái ở các dục, và tâm không bị vẩn đục, Ngài vượt qua mọi si mê, đức Phật là bậc hữu nhãn về các pháp. | Sàtàgira: 161. Vị ấy không tham ái Ðối với các dục vọng, Ðây là lời Dạ-xoa, Tên Sàtàgira, Tâm không có dao động, Vượt khỏi mọi si ám, Ðức Phật thật có mắt Ðối với tất cả pháp. |
162. Kacci vijjāya sampanno (iti hemavato yakkho) kacci saṃsuddhacāraṇo, kaccissa āsavā khīṇā kacci natthi punabbhavo. | 162. (Dạ-xoa Hemavata nói) Phải chăng vị ấy đã thành tựu về minh? Phải chăng vị ấy có sở hành hoàn toàn trong sạch? Phải chăng các lậu hoặc của vị này đã cạn kiệt? Phải chăng không có sự tái sanh lại nữa? | Hemavata: 162. Có phải là vị ấy Ðầy đủ về các minh? Ðây là lời Dạ-xoa Tên Hemavata, Có phải là vị ấy Sở hành thật thanh tịnh? Có phải là vị ấy Các lậu hoặc đoạn tận? Có phải là vị ấy Không còn có tái sanh? |
163. Vijjāya ceva sampanno (iti sātāgiro yakkho) atho saṃsuddhacāraṇo, sabbassa āsavā khīṇā natthi tassa punabbhavo. | 163. (Dạ-xoa Sātāgira nói) Vị ấy hẳn nhiên đã thành tựu về minh, còn có sở hành hoàn toàn trong sạch, các lậu hoặc của vị này đã cạn kiệt, đối với vị ấy không có sự tái sanh lại nữa. | Sàtàgira: 163. Sự thật là vị ấy, Ðầy đủ với các minh, Ðây là lời Dạ-xoa, Tên Sàtàgira Sở hành thật thanh tịnh, Mọi lậu hoặc đoạn tận, Thật sự đối vị ấy, Không còn có tái sanh. |
164. Sampannaṃ munino cittaṃ kammanā vyappathena ca, vijjācaraṇasampannaṃ dhammato naṃ pasaṃsasi.
| 164. Tâm của bậc hiền trí là được trọn vẹn với hành động và lời nói. Ngươi hãy thật lòng ca ngợi vị ấy, bậc đã thành tựu minh và hạnh. | Hemavata: 163. (a) Có phải vị ẩn sĩ, Với tâm được viên mãn, Mọi việc làm vị ấy Ðược làm khéo hoàn mãn, Có phải người tán thán, Một cách đúng Chánh pháp. Vị đầy đủ trí đức, Ðầy đủ cả hạnh đức. |
165. Sampannaṃ munino cittaṃ kammanā vyappathena ca, vijjācaraṇasampannaṃ dhammato anumodasi.
| 165. Tâm của bậc hiền trí là được trọn vẹn với hành động và lời nói. Ngươi hãy thật lòng tùy hỷ với bậc đã thành tựu minh và hạnh. | Sàtàgira: 163. (b) Thật sự vị ẩn sĩ, Với tâm được viên mãn, Mọi việc làm vị ấy Ðược làm khéo hoàn mãn. Thật sự Ông tùy hỉ Một cách đúng Chánh pháp, Vị đầy đủ trí đức, Ðầy đủ cả hạnh đức. |
166. Sampannaṃ munino cittaṃ kammanā vyappathena ca, vijjācaraṇasampannaṃ handa passāma gotamaṃ.
| 166. Tâm của bậc hiền trí là được trọn vẹn với hành động và lời nói. Nào, chúng ta hãy diện kiến vị Gotama, bậc đã thành tựu minh và hạnh. | Cả hai: 164. Thật sự vị ẩn sĩ, Với tâm được viên mãn, Mọi việc làm vị ấy Ðược làm khéo hoàn mãn. Chúng ta hãy yết kiến Tôn giả Gotama, Vị đầy đủ trí đức, Ðầy đủ cả hạnh đức. |
167. Eṇijaṅghaṃ kisaṃ vīraṃ appāhāraṃ alolupaṃ, muniṃ vanasmiṃ jhāyantaṃ ehi passāma gotamaṃ.
| 167. Ngươi hãy đến, chúng ta hãy diện kiến vị Gotama, bậc hiền trí có bắp chân như của loài nai, gầy ốm, dũng cảm, ít vật thực, không tham đắm, đang tham thiền ở khu rừng. | Hemavata: 165. Bắp chân giống như nai, Thon vững chắc, bền bỉ, Giản dị ít nhu cầu, Không tham đắm vật gì. Hãy đi đến yết kiến ẩn sĩ Gotama, Vị hành trì thiền định, Trong rừng núi xa vắng. |
168. Sīhaṃvekacaraṃ nāgaṃ kāmesu anapekkhinaṃ, upasaṃkamma pucchāma maccupāsā pamocanaṃ.
| 168. Sau khi đến gần bậc Long Tượng đang sống một mình tựa như loài sư tử, không mong mỏi về các dục, chúng ta hãy hỏi Ngài về sự thoát ra khỏi bẫy sập của tử thần. | 166. Sống cô độc một mình, Như sư tử, như voi, Ngài không có tham đắm, Không cầu mong các dục. Chúng ta hãy đi đến, Và hỏi thăm vị ấy Về con đường giải thoát Khỏi cạm bẫy Ác ma. |
169. Akkhātāraṃ pavattāraṃ sabbadhammāna pāraguṃ, buddhaṃ verabhayātītaṃ mayaṃ pucchāma gotamaṃ.
| 169. Chúng ta hãy hỏi vị Gotama, bậc tuyên thuyết, bậc tuyên bố, bậc đã đi đến bờ kia của tất cả các pháp, bậc đã giác ngộ, bậc đã vượt qua thù hận và sợ hãi. | Cả hai: 167. Vị tuyên bố giải thích, Vị đạt đến mọi pháp, Bậc giác ngộ vượt khỏi Hận thù và sợ hãi, Chúng ta hãy đến học Sa-môn Gotama. |
170. Kismiṃ loko samuppanno (iti hemavato yakkho) kismiṃ kubbati santhavaṃ, kissa loko upādāya kismiṃ loko vihaññati. | 170. (Dạ-xoa Hemavata nói) Khi cái gì (sanh khởi) thế giới được sanh khởi? liên quan đến cái gì tạo nên sự gắn bó? chấp thủ vào cái gì mà thế giới (hiện hữu)? do cái gì mà thế giới bị sầu khổ? ---------------- | Hemavata: 168. Do pháp nào có mặt, Thế giới được sanh khởi, Nói vậy là dạ-xoa, Tên Hemavata. Do pháp nào có mặt, Tác thành sự giao hợp? Sự chấp thủ ở đời, Là chấp thủ cái gì? Do pháp nào có mặt, Thế giới bị tàn hại? |
171. Chassu loko samuppanno (hemavatāti bhagavā) chassu kubbati santhavaṃ, channameva upādāya chassu loko vihaññati. | 171. (Đức Thế Tôn nói với Dạ-xoa Hemavata) Khi sáu (sanh khởi) thế giới được sanh khởi, liên quan đến sáu tạo nên sự gắn bó, chấp thủ vào sáu mà thế giới (hiện hữu), do sáu mà thế giới bị sầu khổ. | Thế Tôn: 169. Do sáu pháp có mặt, Thế giới được sanh khởi, Này Hemavata, Thế Tôn nói như vậy. Do sáu pháp có mặt, Tác thành sự giao hợp, Sự chấp thủ ở đời, Là chấp thủ sáu pháp, Do sáu pháp có mặt, Thế giới bị tàn hại. |
172. Katamaṃ taṃ upādānaṃ yattha loko vihaññati, niyyānaṃ pucchito brūhi kathaṃ dukkhā pamuccati. | 172. Sự chấp thủ ấy là cái gì mà tại nơi ấy thế giới bị sầu khổ? Được hỏi về lối dẫn dắt ra khỏi xin Ngài hãy nói, làm thế nào được thoát khỏi khổ đau? | Hemavata: 170. Do chấp thủ cái gì, Ðây thế giới bị hại? Ðược hỏi, hãy nói lên, Về con đường thoát đời. Làm thế nào đau khổ, Ðược giải thoát hoàn toàn? |
173. Pañca kāmaguṇā loke mano chaṭṭhā pamoditā, ettha chandaṃ virājetvā evaṃ dukkhā pamuccati. | 173. Năm loại dục được vui thích ở thế gian, với ý là thứ sáu. Sau khi lìa khỏi sự mong muốn ở nơi này, như vậy thì được thoát khỏi khổ đau. | Thế Tôn: 171. Ðây, năm dục trưởng dưỡng, Ý được gọi thứ sáu, Bỏ ước muốn ở đây, Như vậy, thoát đau khổ. |
174. Etaṃ lokakassa niyyānaṃ akkhātaṃ vo yathā tathaṃ, etaṃ vo ahamakkhāmi evaṃ dukkhā pamuccati. | 174. Điều này là lối dẫn dắt ra khỏi thế giới, đã được nói cho các ngươi đúng theo thực thể. Ta nói ra điều này cho các ngươi, như vậy thì được thoát khỏi khổ đau. | 172. Ðây, con đường thoát đời. Như thật nói Ông rõ, Ðường này Ta nói Ông, Như vậy, thoát đau khổ. |
175. Ko sūdha taratī oghaṃ ko sūdha tarati aṇṇavaṃ, appatiṭṭhe anālambe ko gambhīre na sīdati. | 175. Vậy ở đây ai vượt qua cơn lũ, ở đây ai vượt qua biển cả, ai không chìm xuống nơi sâu thẳm không có chỗ nâng đỡ, không có vật để nắm vào? | Hemavata: 173. Ðây, ai vượt bộc lưu? Ðây, ai vượt biển lớn? Không chân đứng bám víu, Ai không chìm vực sâu? |
176. Sabbadā sīlasampanno paññavā susamāhito, ajjhattacintī satimā oghaṃ tarati duttaraṃ. | 176. Vị luôn luôn thành tựu giới, có tuệ, khéo định tĩnh, có tâm tư hướng nội, có niệm, vượt qua cơn lũ khó vượt qua được. | Thế Tôn: 174. Ai luôn luôn đủ giới, Có tuệ, khéo thiền định, Tâm hướng nội, chánh niệm, Vượt bộc lưu khó vượt. |
177. Virato kāmasaññāya sabbasaṃyojanātigo, nandībhavaparikkhīṇo so gamabhīre na sīdati. | 177. Vị không còn vui thích ở dục tưởng, đã vượt lên khỏi mọi sự ràng buộc, đã hoàn toàn cạn kiệt sự vui thích và hiện hữu, vị ấy không chìm xuống nơi sâu thẳm. | 175. Ai từ bỏ dục tưởng, Vượt khỏi mọi kiết sử, Ai, hỷ, hữu đoạn tận, Không chìm vào vực sâu. |
178. Gambhīrapaññaṃ nipuṇatthadassiṃ akiñcanaṃ kāmabhave asattaṃ, taṃ passatha sabbadhi vippamuttaṃ dibbe pathe kamamānaṃ mahesiṃ. | 178. Chúng ta hãy chiêm ngưỡng bậc Đại Ẩn Sĩ ấy, bậc có tuệ thâm sâu, bậc nhìn thấy ý nghĩa vi tế, không sở hữu gì, không dính mắc ở dục và hữu, đã được giải thoát về mọi phương diện, đang bước đi ở con đường thiên giới. | Hemavata: 176. Vị trí tuệ thâm sâu, Thấy được đích tế nhị, Vị không có sở hữu, Không tham đắm dục hữu. Hãy yết kiến vị ấy, Vị luôn luôn giải thoát, Bậc đại sĩ tiến bước, Trên con đường Thiên đạo. |
179. Anomanāmaṃ nipuṇatthadassiṃ paññādadaṃ kāmālaye asattaṃ, taṃ passatha sabbaviduṃ sumedhaṃ ariye pathe kamamānaṃ mahesiṃ. | 179. Chúng ta hãy chiêm ngưỡng bậc Đại Ẩn Sĩ ấy, bậc có danh xưng cao tột, bậc nhìn thấy ý nghĩa vi tế, bậc ban bố trí tuệ, không dính mắc ở trạng thái tiềm ẩn của các dục, bậc biết tất cả, bậc khôn ngoan, đang bước đi ở con đường thánh thiện. | 177. Bậc danh xưng vô thượng, Bậc thấy đích tế nhị, Bậc ban bố trí tuệ, Không tham đắm dục tạng. Hãy yết kiến vị ấy, Vị Toàn trí, Thiện tuệ, Bậc Ðại sĩ tiến bước Trên con đường Thánh đạo. |
180. Sudiṭṭhaṃ vata no ajja suppabhātaṃ suvuṭṭhitaṃ, yaṃ addasāma sambuddhaṃ oghatiṇṇamanāsavaṃ. | 180. Quả thật hôm nay chúng ta đã nhìn thấy rõ ràng, bình minh rạng rỡ đã mọc lên tốt đẹp, nhờ thế chúng ta đã nhìn thấy đấng Toàn Giác, bậc đã vượt qua (bốn) dòng nước lũ, không còn lậu hoặc. | 178. Hôm nay thật chúng con Ðược thấy điềm tốt lành, Ðược hào quang chói sáng, Của bình minh tốt lành. Vì chúng con được thấy, Bậc Chánh Ðẳng Chánh Giác, Bậc đã vượt bộc lưu, Bậc đã đoạn lậu hoặc. |
181. Ime dasasatā yakkhā iddhimanto yasassino, sabbe taṃ saraṇaṃ yanti tvaṃ no satthā anuttaro. | 181. Một ngàn Dạ-xoa này, có thần thông, có danh tiếng, tất cả đi đến nương nhờ Ngài. Ngài là bậc Đạo Sư vô thượng của chúng tôi. | 179. Ngàn vị dạ-xoa này, Có thần lực danh xưng, Tất cả xin đi đến Y tựa quy ngưỡng Ngài, Ngài là bậc Ðạo Sư, Vô thượng của chúng con. |
182. Te mayaṃ vicarissāma gāmā gāmaṃ nagā nagaṃ, namassamānā sambuddhaṃ dhammassa ca sudhammatanti.
| 182. Chúng tôi đây sẽ du hành từ làng này đến làng nọ, từ núi này đến núi khác, kính lễ đấng Toàn Giác và tính chất thánh thiện của Giáo Pháp. | 180. Chúng con sẽ bộ hành Làng này qua làng khác, Thành này qua thành khác, Ðảnh lễ bậc Chánh giác, Ðảnh lễ thiện pháp tánh, Của Chánh pháp vi diệu. |
Hemavatasuttaṃ niṭṭhitaṃ. | Dứt Kinh Hemavata. | |
10. ĀḶAVAKASUTTAṂ | 10. KINH ĀḶAVAKA | 10. KINH ALAVAKA |
Evaṃ me sutaṃ: Ekaṃ samayaṃ bhagavā āḷaviyaṃ viharati āḷavakassa yakkhassa bhavane atha kho āḷavako yakkho yena bhagavā tenupasaṅkami, upasaṅkamitvā bhagavantaṃ etadavoca: Nikkhama samaṇāti. | Tôi đã nghe như vầy: Một thời đức Thế Tôn ngự ở Āḷavī, tại nơi trú ngụ của Dạ-xoa Āḷavaka. Khi ấy, Dạ-xoa Āḷavaka đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã nói với đức Thế Tôn điều này: “Này Sa-môn, hãy đi ra.” | Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Alavi, tại trú xứ của Dạ-xoa Alavaka. Rồi Dạ-xoa Alavaka đi đến Thế Tôn, sau khi đến nói với Thế Tôn: - Này Sa-môn, hãy đi ra. |
Sādhāvusoti bhagavā nikkhami. | “Này đạo hữu, tốt lắm.” Đức Thế Tôn đã đi ra. | - Lành thay, Hiền giả. Thế Tôn đi ra. |
Pavisa samaṇāti. Sādhāvusoti bhagavā pāvisi. | “Này Sa-môn, hãy đi vào.” “Này đạo hữu, tốt lắm.” Đức Thế Tôn đã đi vào. | - Này Sa-môn, hãy đi vào. - Lành thay, Hiền giả. Thế Tôn đi vào. |
Dutiyampi kho āḷavako yakkho bhagavantaṃ etadavoca: Nikkhama samaṇāti. | Đến lần thứ nhì, Dạ-xoa Āḷavaka đã nói với đức Thế Tôn điều này: “Này Sa-môn, hãy đi ra.” | Lần thứ hai, Dạ-xoa Alavaka nói với Thế Tôn: - Này Sa-môn, hãy đi ra. |
Sādhāvusoti bhagavā nikkhami. | “Này đạo hữu, tốt lắm.” Đức Thế Tôn đã đi ra. | - Lành thay, Hiền giả. Thế Tôn đi ra: |
Pavisa samaṇāti. Sādhāvusoti bhagavā pāvisi. | “Này Sa-môn, hãy đi vào.” “Này đạo hữu, tốt lắm.” Đức Thế Tôn đã đi vào. | - Này Sa-môn, hãy đi vào. - Lành thay, Hiền giả. Thế Tôn đi vào. |
Tatiyampi kho āḷavako yakkho bhagavantaṃ etadavoca: Nikkhama samaṇāti. | Đến lần thứ ba, Dạ-xoa Āḷavaka đã nói với đức Thế Tôn điều này: “Này Sa-môn, hãy đi ra.” | Lần thứ ba, Dạ-xoa Alavaka nói với Thế Tôn: - Này Sa-môn, hãy đi ra. |
Sādhāvusoti bhagavā nikkhami. | “Này đạo hữu, tốt lắm.” Đức Thế Tôn đã đi ra. | - Lành thay, Hiền giả. Thế Tôn đi ra. |
Pavisa samaṇāti. Sādhāvusoti bhagavā pāvisi. | “Này Sa-môn, hãy đi vào.” “Này đạo hữu, tốt lắm.” Đức Thế Tôn đã đi vào. | - Này Sa-môn, hãy đi vào. - Lành thay, Hiền giả. Thế Tôn đi vào. |
Catutthampi kho āḷavako yakkho bhagavantaṃ etadavoca: Nikkhama samaṇāti. | Đến lần thứ tư, Dạ-xoa Āḷavaka đã nói với đức Thế Tôn điều này: “Này Sa-môn, hãy đi ra.” | Lần thứ tư, Dạ-xoa Alavaka nói với Thế Tôn: - Này Sa-môn, hãy đi ra. |
Na khvāhaṃ taṃ āvuso nikkhamissāmi yaṃ te karaṇīyaṃ taṃ karohīti. | “Này đạo hữu, vậy thì Ta sẽ không đi ra. Điều gì mà ngươi cần làm thì ngươi hãy làm điều ấy đi.” | - Này Hiền giả, Ta sẽ không đi ra cho Ông. Ông cần gì hãy làm? |
Pañhaṃ taṃ samaṇa pucchissāmi, sace me na vyākarissasi cittaṃ vā te khipissāmi, hadayaṃ vā te phālessāmi, pādesu vā gahetvā pāragaṅgāya khipissāmīti. | “Này Sa-môn, ta sẽ hỏi ông câu hỏi, nếu ông không trả lời ta, thì ta sẽ khuấy động tâm của ông, hoặc ta sẽ chẻ đôi trái tim của ông, hoặc ta sẽ nắm ở hai bàn chân rồi ném qua bên kia sông Gaṅgā.” | - Này Sa-môn, ta sẽ hỏi Ngài. Nếu Ngài không trả lời cho ta, ta sẽ làm tâm trí Ngài điên loạn, hay ta sẽ bóp nát quả tim của Ngài, hay nắm chân của Ngài, ta sẽ quăng qua bờ sông bên kia sông Hằng. |
Na khvāhaṃ taṃ āvuso passāmi sadevake loke samārake sabrahmake sassamaṇabrāhmaṇiyā pajāya sadevamanussāya yo me cittaṃ vā khipeyya hadayaṃ vā phāleyya pādesu vā gahetvā pāragaṅgāya khipeyya, api ca tvaṃ āvuso puccha, yadākaṅkhasīti. | “Này đạo hữu, Ta quả không nhìn thấy người nào trong thế gian tính luôn cõi của chư Thiên, cõi Ma Vương, cõi Phạm Thiên, cho đến dòng dõi Sa-môn, Bà-la-môn, các hạng chư Thiên và loài người mà có thể khuấy động tâm của Ta, hoặc có thể chẻ đôi trái tim của Ta, hoặc có thể nắm ở hai bàn chân rồi ném qua bên kia sông Gaṅgā. Này đạo hữu, tuy vậy ngươi hãy hỏi điều mà ngươi muốn.” | - Này Hiền giả, Ta không thấy một ai trong thế giới với chư Thiên, với Ác ma và với Phạm thiên, trong quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn với chư Thiên và loài Người, lại có thể làm tâm Ta điên loạn, hay bóp nát quả tim của Ta, hay nắm chân quăng Ta qua bên kia bờ sông Hằng. Tuy vậy, này Hiền giả, Ông cứ hỏi như ý Ông muốn. |
Atha kho āḷavako yakkho bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi: | Khi ấy, Dạ-xoa Āḷavaka đã nói với đức Thế Tôn bằng lời kệ rằng: | Rồi Dạ-xoa với bài kệ nói với Thế Tôn: |
183. Kiṃ sūdha vittaṃ purisassa seṭṭhaṃ kiṃ sū suciṇṇaṃ sukhamāvahāti, kiṃ sū have sādutaraṃ rasānaṃ kathaṃ jīviṃ jīvitamāhu seṭṭhaṃ.
| 183. "Cái gì ở thế gian này là của cải hạng nhất đối với con người? Cái gì được khéo thực hành đem lại sự an lạc? Cái gì quả thật là ngọt ngào hơn cả trong số các vị nếm? Sống cách nào người ta đã gọi là đời sống hạng nhất?" | Alavaka: 181. Ở đời, tài sản gì, Tối thắng cho con người? Cái gì khéo thực hành Ðem lại chơn an lạc. Cái gì trong các vị, Là vị ngọt tối thượng? Nếp sống như thế nào, Gọi nếp sống tối thắng? |
184. Saddhīdha vittaṃ purisassa seṭṭhaṃ dhammo suciṇṇo sukhamāvahāti, saccaṃ have sādutaraṃ rasānaṃ paññājīviṃ jīvitamāhu seṭṭhaṃ.
| 184. "Đức tin ở thế gian này là của cải hạng nhất đối với con người. Giáo Pháp được khéo thực hành đem lại sự an lạc. Chân thật quả thật là ngọt ngào hơn cả trong số các vị nếm. Sống với trí tuệ người ta đã gọi là đời sống hạng nhất." | Thế Tôn: 182. Ở đời này, lòng tin, Tối thắng cho con người, Cái gì khéo thực hành, Ðem lại chơn an lạc? Chánh pháp khéo thực hiện, Ðem lại chơn an lạc, Sự thật trong các vị, Là vị ngọt tối thượng, Nếp sống với trí tuệ, Là nếp sống tối thắng. |
185. Kathaṃ su tarati oghaṃ kathaṃ su tarati aṇṇavaṃ, kathaṃ su dukkhaṃ acceti kathaṃ su parisujjhati. | 185. "Làm thế nào vượt qua cơn lũ? Làm thế nào vượt qua biển cả? Làm thế nào khắc phục khổ đau? Làm thế nào trở nên thanh tịnh?" | Alavaka: 183. Thế nào vượt bộc lưu? Thế nào vượt biển lớn? Thế nào vượt qua khổ? Thế nào thật thanh tịnh? |
186. Saddhāya taratī oghaṃ appamādena aṇṇavaṃ, viriyena dukkhamacceti paññāya parisujjhati. | 186. "Nhờ đức tin vượt qua cơn lũ. Nhờ không xao lãng vượt qua biển cả. Nhờ tinh tấn khắc phục khổ đau. Nhờ trí tuệ trở nên thanh tịnh." | Thế Tôn: 184. Với tín, vượt bộc lưu, Không phóng dật, vượt biển, Tinh tấn, vượt đau khổ, Với tuệ, được thanh tịnh. |
187. Kathaṃ su labhate paññaṃ kathaṃ su vindate dhanaṃ, kathaṃ su kittiṃ pappoti kathaṃ mittāni ganthati, asmā lokā paraṃ lokaṃ kathaṃ pecca na socati. | 187. "Làm thế nào đạt được trí tuệ? Làm thế nào kiếm được tài sản? Làm thế nào thành đạt tiếng tăm? Làm thế nào kết giao bạn hữu? Từ đời này đến đời khác, làm thế nào không sầu muộn sau khi chết?" | Alavaka: 185. Thế nào được trí tuệ? Thế nào được tài sản? Thế nào đạt danh xưng? Thế nào cột bạn hữu? Ðời này qua đời sau, Thế nào, chết không sầu? |
188. Saddhāno arahataṃ dhammaṃ nibbānapattiyā, sussūsā labhate paññaṃ appamatto vicakkhaṇo. | 188. "Trong khi có niềm tin vào Giáo Pháp của các bậc A-la-hán nhằm đạt đến Niết Bàn, nhờ vào sự mong mỏi lắng nghe, người không xao lãng, sâu sắc đạt được trí tuệ. | Thế Tôn: 186. Tin tưởng bậc La-hán, Tin pháp, đạt Niết-bàn, Khéo nghe, được trí tuệ, Bậc trí, không phóng dật. |
189. Patirūpakārī dhuravā uṭṭhātā vindate dhanaṃ, saccena kittiṃ pappoti dadaṃ mittāni ganthati. | 189. Người có việc làm phù hợp, có trách nhiệm, năng động, kiếm được tài sản. Nhờ vào sự chân thật thành đạt tiếng tăm. Trong khi bố thí kết giao các bạn hữu. | 187. Làm thích đáng trách nhiệm, Phấn đấu được tài sản, Với sự thật được danh, Bố thí cột bạn bè. |
190. Yassete caturo dhammā saddhassa gharamesino, saccaṃ dhammo dhiti cāgo sa ve pecca na socati. | 190. Người nào, sống tại gia có đức tin, sở hữu bốn pháp này: chân thật, chính trực, kiên trì, xả thí, người ấy chắc chắn không sầu muộn sau khi chết. | 188. Ai là người gia chủ, Tin tưởng bốn pháp này, Sự thật và Chánh pháp, Kiên trì và bố thí, Vị ấy sau khi chết, Nhất định không sầu muộn. |
191. Iṅgha aññepi pucchassu puthu samaṇabrāhmaṇe, yadi saccā damā cāgā khantyā bhīneyā vijjati. | 191. Này, ngươi cũng hãy hỏi số đông các Sa-môn và Bà-la-môn về các điều khác, nếu có điều nào đó là tốt hơn sự chân thật, sự tự chế ngự, sự xả thí, và sự kham nhẫn." | 189. Hãy hỏi các vị khác, Sa-môn, Bà-la-môn, Nếu có pháp nào khác Ở đời, lại thắng hơn, Sự thật và nhiếp phục, Bố thí và kham nhẫn? |
192. Kathaṃ nu dāni puccheyyaṃ puthu samaṇabrāhmaṇe, sohaṃ ajja pajānāmi yo cattho samparāyiko.
| 192. "Vì sao con lại phải hỏi số đông các Sa-môn và Bà-la-môn? Hôm nay con đây biết rõ điều nào là việc lợi ích ở thời vị lai. | Alavaka: 190. Sao nay con rộng hỏi, Sa-môn, Bà-la-môn, Nay con được rõ biết, Hiện, vị lai hạnh phúc. |
193. Atthāya vata me buddho vāsāyā’ḷavimāgamī, sohaṃ ajja pajānāmi yattha dinnaṃ mahapphalaṃ.
| 193. Quả thật vì lợi ích cho con mà đức Phật đã đi đến cư ngụ ở Āḷavī. Hôm nay con đây biết rõ vật đã được bố thí ở nơi nào là có quả báu lớn lao. | 191. Vì hạnh phúc cho con, Mong rằng bậc Giác Ngộ, Hãy đi đến an trú, Tại xứ Alavi. Nay con đã rõ biết. Chỗ nào thí, quả lớn. |
194. So ahaṃ vivarissāmi gāmā gāmaṃ purāpuraṃ, namassamāno sambuddhaṃ dhammassa ca sudhammatanti. | 194. Con đây sẽ du hành từ làng này đến làng nọ, từ phố này đến phố khác, kính lễ đấng Toàn Giác và tính chất thánh thiện của Giáo Pháp." | 192. Con sẽ đi bộ hành, Làng này qua làng khác, Thành này qua thành khác, Ðảnh lễ bậc Giác Ngộ, Ðảnh lễ thiện pháp tánh Của Chánh pháp vi diệu. |
Evaṃ vutte āḷavako yakkho bhagavantaṃ etadavoca: Abhikkantaṃ bho gotama, abhikkantaṃ bho gotama, seyyathāpi bho gotama nikkujjitaṃ vā ukkujjeyya paṭicchannaṃ vā vivareyya mūḷhassa vā maggā ācikkheyya andhakāre vā telapajjotaṃ dhāreyya cakkhumanto rūpāni dakkhintīti, evamevaṃ bhotā gotamena anekapariyāyena dhammo pakāsito, esāhaṃ bhagavantaṃ gotamaṃ saraṇaṃ gacchāmi, dhammañca bhikkhusaṅghañca. Upāsakaṃ maṃ bhavaṃ gotamo dhāretu ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gatanti. | Khi được nói như vậy, Dạ-xoa Āḷavaka đã nói với đức Thế Tôn điều này: “Bạch Ngài, thật là tuyệt vời! Bạch Ngài, thật là tuyệt vời! Bạch Ngài, giống như người có thể lật ngửa vật đã được úp lại, mở ra vật đã bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc lối, đem lại cây đèn dầu nơi bóng tối (nghĩ rằng): ‘Những người có mắt sẽ nhìn thấy được các hình dáng;’ tương tự như thế Pháp đã được đức Thế Tôn giảng rõ bằng nhiều phương tiện. Bạch Ngài, con đây xin đi đến nương nhờ đức Thế Tôn Gotama, Giáo Pháp, và Tăng Chúng tỳ khưu. Xin đức Thế Tôn chấp nhận con là nam cư sĩ đã đi đến nương nhờ kể từ hôm nay cho đến trọn đời.” | |
Āḷavakasuttaṃ niṭṭhitaṃ. | Dứt Kinh Āḷavaka. | |
11. VIJAYASUTTAṂ | 11. KINH CHIẾN THẮNG | 11. KINH THẮNG TRẬN |
195. Caraṃ vā yadi vā tiṭṭhaṃ nisinno uda vā sayaṃ, sammiñjeti pasāreti esā kāyassa iñjanā. | 195. Trong lúc đang bước đi, hoặc đang đứng, đã ngồi xuống, hoặc đang nằm, người ta co lại, duỗi ra (các khớp nối); việc ấy là cử động của thân. | 193. Hoặc là đi hay đứng, Hoặc là ngồi hay nằm, Hoặc co tay, duỗi tay, Như vậy, thân dao động. |
196. Aṭṭhinahārusaṃyutto tacamaṃsāvalepano, chaviyā kāyo paṭicchanno yathābhūtaṃ na dissati. | 196. Được nối liền bởi xương và gân, được bôi trét bởi da và thịt, thân được che phủ bởi lớp da, không nhìn thấy đúng theo bản thể thật. | 194. Ràng buộc với xương gân, Trét thoa với da thịt, Thân được da che đậy, Như thật không thấy rõ. |
197. Antapūrodarapūro yakapeḷassa vatthino, hadayassa papphāsassa vakkassa pihakassa ca. | 197. (Thân xác) được chất đầy bởi ruột, được chất đầy bởi bao tử, bởi túi gan, bởi bàng quang, bởi tim, bởi phổi, bởi thận, và bởi lá lách. | 195. Trong một bụng chứa đầy, Cục gan, và bọng đái, Quả tim và buồng phổi, Cả thận, và tỳ tạng. |
198. Siṅghāṇikāya kheḷassa sedassa medassa ca, lohitassa lasikāya pittassa ca vasāya ca. | 198. Bởi nước mũi, bởi nước miếng, bởi mồ hôi, và bởi mỡ, bởi máu, bởi nước ở khớp xương, bởi mật, và bởi huyết tương. | 196. Nước mũi, và nước miếng, Mồ hôi, và nước mỡ, Máu, và nước khớp xương, Mật, và bạch huyết cầu. |
199. Athassa navahi sotehi asucī savati sabbadā, akkhimhā akkhigūthako kaṇṇamhā kaṇṇagūthako.
| 199. Rồi chất dơ luôn luôn trào ra từ chín dòng chảy của thân xác này: chất dơ của mắt từ mắt, chất dơ của tai từ tai. | 197. Từ chín nguồn nước này, Bất tịnh luôn luôn chảy, Từ mắt, đồ bẩn chảy, Từ tai, đồ bẩn chảy. |
200. Siṅghāṇikā ca nāsāto mukhena vamat’ ekadā, pittaṃ semhañca vamati kāyamhā sedajallikā. | 200. Và nước mũi từ mũi, có lúc mật và đàm ói ra từ miệng, mồ hôi và cáu bẩn tiết ra từ thân. | 198. Nước mũi từ lỗ mũi, Từ miệng, có khi chảy, Chảy mật, và niêm dịch, Từ thân, mồ hôi bẩn. |
201. Athassa susiraṃ sīsaṃ matthaluṅgassa pūritaṃ, subhato naṃ maññatī bālo avijjāya purakkhato. | 201. Rồi cái đầu trống rỗng của thân xác này được chứa đầy bởi não bộ. Bị lèo lái bởi vô minh, kẻ ngu nghĩ rằng nó là đẹp đẽ. | 199. Trong đầu thật trống rỗng, Chứa đầy những óc, não. Bị vô minh dắt dẫn, Kẻ ngu nghĩ tịnh sạch. |
202. Yadā ca so mato seti uddhumāto vinīlako, apaviddho susānasmiṃ anapekkhā honti ñātayo. | 202. Và khi nào kẻ ấy đã chết, nằm xuống, trương lên, đổi màu xanh tím, bị liệng bỏ ở bãi tha ma, các thân nhân còn không trông ngóng. | 200. Khi bị chết nằm xuống, Phồng lên, và xanh bầm, Quăng bỏ trong nghĩa địa, Bà con không đoái hoài. |
203. Khādanti naṃ supāṇā ca sigālā ca vakā kimī, kākā gijjhā ca khādanti ye caññe santi pāṇino. | 203. Các con chó, dã can, chó sói, và giòi bọ ngấu nghiến, các con quạ và diều hâu rỉa rói, và có các loài sinh vật khác nữa. | 201. Chó, dã can đến ăn, Chó sói, các côn trùng, Quạ, diều hâu đến ăn, Còn có hữu tình khác. |
204. Sutvāna buddhavacanaṃ bhikkhu paññāṇavā idha, so kho naṃ parijānāti yathābhūtaṃ hi passati. | 204. Ở đây, sau khi lắng nghe lời dạy của đức Phật, vị tỳ khưu có tuệ. Thật vậy, vị ấy biết toàn diện về thân xác này, bời vì vị ấy nhìn thấy đúng theo bản thể thật. | 202. Ðược nghe lời Phật dạy, Tỷ-kheo có trí tuệ, Vị ấy liễu tri thân, Thấy thân đúng như thật. |
205. Yathā idaṃ tathā etaṃ yathā etaṃ tathā idaṃ, ajjhattañca bahiddhā ca kāye chandaṃ virājaye. | 205. Cái này như thế nào, cái kia như thế ấy; cái kia như thế nào, cái này như thế ấy. Nên lìa khỏi sự mong muốn ở thân xác, bên trong và bên ngoài. | 203. Ðây thế nào, kia vậy, Kia thế nào, đây vậy, Ðối với thân trong ngoài, Từ bỏ mọi lòng dục. |
206. Chandarāgaviratto so bhikkhu paññāṇavā idha, ajjhagā amataṃ santiṃ nibbāna padamaccutaṃ. | 206. Đã lìa khỏi lòng mong muốn và luyến ái, ở đây vị tỳ khưu ấy, thành tựu tuệ, đã đạt đến Bất Tử, An Tịnh, vị thế Niết Bàn, Bất Hoại. | 204. Từ bỏ lòng tham dục, Ðây Tỷ-kheo có tuệ, Chứng bất tử, tịch tịnh, Niết-bàn giới thường trú. |
207. Dipādako yaṃ asuci duggandho parihīrati, nānākuṇapaparipūro vissavanto tato tato. | 207. Thân xác có hai chân này, không sạch sẽ, có mùi hôi, lại được săn sóc; nó tràn đầy chất thối rửa, đang rỉ nước từ nơi kia nơi nọ. | 205. Thân này với hai chân, Bất tịnh và hôi thúi, Ðầy xác chết, chảy nước, Lại được giữ, nâng niu. |
208. Etādisena kāyena yo maññe uṇṇametave, paraṃ vā avajāneyya kimaññatra adassanāti.
| 208. Với thân xác như thế này, kẻ nào nghĩ đến kiêu hãnh, hoặc khi dễ người khác, còn có điều gì khác ngoài việc không nhìn thấy? | 206. Với thân thể như vậy, Ai lại nghĩ đề cao, Hay khinh miệt kẻ khác, Trừ kẻ không thấy gì. |
Vijayasuttaṃ niṭṭhitaṃ. | Dứt Kinh Chiến Thắng. | |
12. MUNISUTTAṂ | 12. KINH HIỀN TRÍ | 12. KINH ẨN SĨ |
209. Santhavāto bhayaṃ jātaṃ niketā jāyate rajo, aniketamasanthavaṃ etaṃ ve munidassanaṃ. | 209. Sợ hãi sanh ra từ sự thân thiết, bụi bặm sanh ra từ nhà ở. Không nhà ở, không thân thiết, quả thật điều ấy là quan điểm của bậc hiền trí. | 207. Thân mật, sanh sợ hãi, Trú xứ, sanh bụi bặm, Không trú xứ, không thân, Hình ảnh bậc ẩn sĩ. |
210. Yo jātamucchijja na ropayeyya jāyantamassa nānuppavecche, tamāhu ekaṃ muninaṃ carantaṃ addakkhi so santipadaṃ mahesi. | 210. Người nào, sau khi cắt đứt (ô nhiễm) đã được sanh ra, không nên vun trồng (ô nhiễm) đang được sanh ra, không nên tham gia cùng với nó (ô nhiễm). Người ta đã nói bậc hiền trí ấy đang du hành một mình. Bậc đại ẩn sĩ ấy đã nhìn thấy vị thế an tịnh. | 208. Ai đã chặt sanh hữu, Không còn gieo giống thêm, Sanh hữu đã đoạn tận, Không muốn nó tùy sanh, Ðược gọi là ẩn sĩ, Một mình đi im lặng, Bậc đại sĩ đã thấy, Con đường tịch tịnh ấy. |
211. Saṅkhāya vatthūni pahāya bījaṃ sinehamassa nānuppavecche, sa ve muni jātikhayantadassī takkaṃ pahāya na upeti saṃkhaṃ. | 211. Sau khi đã xem xét các nền tảng, sau khi đã dứt bỏ hạt giống yêu thương, không nên tham gia cùng với nó. Quả thật, với việc nhìn thấy sự chấm dứt của việc sanh ra và hoại diệt, bậc hiền trí ấy dứt bỏ các suy tầm (bất thiện) và không còn đi đến sự định đặt (khái niệm). | 209. Sau khi ước lượng đất, Tìm hiểu được hột giống, Không còn muốn tham ái, Ðược tiếp tục tùy sanh, Vị ấy chân ẩn sĩ, Thấy sanh diệt chấm dứt, Ðoạn tận mọi lý luận, Không rơi vào tính toán. |
212. Aññāya sabbāni nivesanāni anikāmayaṃ aññatarampi tesaṃ, sa ve muni vītagedho agiddho nāyūhatī pāragato hi hoti. | 212. Sau khi hiểu biết về tất cả các nơi trú ngụ (các cảnh giới tái sanh), không còn dục vọng với bất cứ nơi trú ngụ nào trong số chúng. Quả thật, bậc hiền trí ấy, đã xa lìa sự thèm khát, không bị thèm khát, không còn tích lũy (nghiệp) bởi vì đã đi đến bờ kia. | 210. Ðã rõ mọi trú xứ, Không ham trú xứ nào, Vị ấy chân ẩn sĩ, Không tham, không say đắm. Không còn phải ra sức, Ðã đạt bờ bên kia. |
213. Sabbābhibhuṃ sabbaviduṃ sumedhaṃ sabbesu dhammesu anūpalittaṃ, sabbañjahaṃ taṇhakkhaye vimuttaṃ taṃ vāpi dhīrā muniṃ vedayanti. | 213. Là vị khuất phục tất cả, biết rõ tất cả, có trí tuệ, không bị nhiễm ô trong tất cả các pháp, từ bỏ tất cả, được giải thoát trong sự diệt tận về tham ái, chính vị ấy, các bậc sáng trí nhận biết là bậc hiền trí. | 211. Bậc chiến thắng toàn diện, Bậc toàn tri, thiện tuệ, Ðối với tất cả pháp, Không còn bị ô nhiễm. Bậc từ bỏ tất cả, Ái đoạn diệt, giải thoát. Các bậc trí nhận thức, Vị ấy thật ẩn sĩ. |
214. Paññābalaṃ sīlavatūpapannaṃ samāhitaṃ jhānarataṃ satīmaṃ, saṅgāpamuttaṃ akhilaṃ anāsavaṃ taṃ vāpi dhīrā muniṃ vedayanti. | 214. Là vị có tuệ lực, đã thành tựu về giới và phận sự, được định tĩnh, thích thú việc tham thiền, có niệm, đã thoát khỏi sự quyến luyến, không chướng ngại, không còn lậu hoặc, chính vị ấy, các bậc sáng trí nhận biết là bậc hiền trí. | 212. Vị có trí tuệ lực, Giới cấm được đầy đủ, Ðịnh tĩnh, thích thiền định, Gìn giữ trì chánh niệm, Giải thoát các trói buộc, Không hoang vu, lậu tận, Các bậc trí nhận thức, Vị ấy thật ẩn sĩ. |
215. Ekaṃ carantaṃ muniṃ appamattaṃ nindāpasaṃsāsu avedhamānaṃ, sīhaṃva saddesu asantasantaṃ vātaṃva jālamhi asajjamānaṃ, padumaṃ va toyena alippamānaṃ netāramaññesamanaññaneyyaṃ taṃ vāpi dhīrā muniṃ vedayanti.
| 215. Vị hiền trí, du hành một mình, không xao lãng, không rung động ở các lời khen ngợi hay chê bai, tựa như loài sư tử không kinh sợ ở các tiếng động, tựa như làn gió không bị dính mắc ở tấm lưới, tựa như đóa hoa sen không nhiễm bẩn bởi nước, người dẫn dắt những kẻ khác, không bị dẫn dắt bởi kẻ khác, chính vị ấy, các bậc sáng trí nhận biết là bậc hiền trí. | 213. Bộ hành, riêng một mình, ẩn sĩ, không phóng dật, Trước chê bai, tán thán, Không có bị dao động. Như sư tử, không sợ, Giữa các tiếng vang động. Như gió không vướng lưới, Như son không dính nước, Bậc lãnh đạo mọi người, Người không ai lãnh đạo. Các bậc trí nhận thức, Vị ấy thật ẩn sĩ. |
216. Yo gāhaṇe thambhorivābhijāyatī yasmiṃ pare vācāpariyantaṃ vadanti, taṃ vītarāgaṃ susamāhitindriyaṃ taṃ vāpi dhīrā muniṃ vedayanti.
| 216. Vị nào hành xử tựa như cây cột trụ ở bãi tắm, khi những kẻ khác nói lời nói quá mức, vị ấy đã xa lìa luyến ái, có giác quan khéo được định tĩnh, chính vị ấy, các bậc sáng trí nhận biết là bậc hiền trí. | 214. Vị nào biết xử sự, Như cột trụ hồ tắm, Khi người khác nói lời, Lời khen chê cực đoạn, Vị không có tham ái, Với căn khéo định tĩnh, Các bậc trí nhận thức, Vị ấy thật ẩn sĩ. |
217. Yo ve ṭhitatto tasaraṃva ujjuṃ jigucchati kammehi pāpakehi, vīmaṃsamāno visamaṃ samañca taṃ vāpi dhīrā muniṃ vedayanti. | 217. Thật vậy, vị nào với tánh kiên định, ngay thẳng tựa như con thoi, nhờm gớm đối với các nghiệp ác, cân nhắc việc không đúng đắn và việc đúng đắn, chính vị ấy, các bậc sáng trí nhận biết là bậc hiền trí. | 215. Ai thật tự mình đứng Thẳng như cây thoi đưa, Nhàm chán các nghiệp ác, Quán sát chánh, bất chánh, Các bậc trí nhận thức, Vị ấy thật ẩn sĩ. |
218. Yo saññatatto na karoti pāpaṃ daharo ca majjhimo ca munī yatatto, arosaneyyo so na roseti kañci taṃ vāpi dhīrā muniṃ vedayanti. | 218. Vị có bản thân đã tự chế ngự không làm việc ác, còn trẻ hoặc trung niên, vị hiền trí có bản thân đã được chế ngự. Không nổi giận, vị ấy không làm bất cứ ai nổi giận, chính vị ấy, các bậc sáng trí nhận biết là bậc hiền trí. | 216. Ai biết tự chế ngự, Không làm các điều ác, Trẻ và hạng trung niên, Bậc ẩn sĩ chế ngự, Vị không nên chọc giận, Vì không làm ai giận, Các bậc trí nhận thức, Vị ấy thật ẩn sĩ. |
219. Yadaggato majjhato sesato vā piṇḍaṃ labhetha paradattūpajīvi, nālaṃ thutuṃ nopi nipaccavādī taṃ vāpi dhīrā muniṃ vedayanti. | 219. Vị có mạng sống nhờ vào sự bố thí của những người khác nên thọ nhận đồ ăn khất thực dầu là từ phần bên trên, hay từ phần ở giữa, hoặc từ phần còn thừa lại, không đáng để ca ngợi cũng không có lời nói miệt thị, chính vị ấy, các bậc sáng trí nhận biết là bậc hiền trí. | 217. Ai sống nhờ người cho, Nhận lãnh đồ khất thực, Nhận từ trên, từ giữa, Hay từ chỗ còn lại, Không đủ để tán thán, Không nói lời hạ mình, Các bậc trí nhận thức, Vị ấy thật ẩn sĩ. |
220. Muniṃ carantaṃ virataṃ methunasmā yo yobbane na upanibajjhate kvaci, madappamādā virataṃ vippamuttaṃ taṃ vāpi dhīrā muniṃ vedayanti. | 220. Bậc hiền trí du hành, lánh xa việc đôi lứa, vào thời tuổi trẻ, không nên gắn bó với bất cứ nơi đâu, đã lánh xa sự say sưa và xao lãng, đã được giải thoát, chính vị ấy, các bậc sáng trí nhận biết là bậc hiền trí. | 218. Sống thụ hạnh ẩn sĩ, Từ bỏ sự dâm dục, Ai lúc còn tuổi trẻ, Không bị trói buộc gì, Từ bỏ mạn, phóng dật, Ðược hoàn toàn giải thoát, Các bậc trí nhận thức, Vị ấy thật ẩn sĩ. |
221. Aññāya lokaṃ paramatthadassiṃ oghaṃ samuddaṃ atitariya tādiṃ, taṃ chinnaganthaṃ asitaṃ anāsavaṃ taṃ vāpi dhīrā muniṃ vedayanti.
| 221. Sau khi đã hiểu biết thế gian, có sự nhìn thấy chân lý tuyệt đối, sau khi đã vượt qua dòng nước lũ và biển cả, là bậc tự tại, vị ấy đã cắt đứt sự trói buộc, không còn lệ thuộc, không còn lậu hoặc, chính vị ấy, các bậc sáng trí nhận biết là bậc hiền trí. | 219. Rõ biết được thế giới, Thấy được lý chân đế, Vượt khỏi được bộc lưu, Vượt biển lớn như vậy. Vị chặt đứt trói buộc, Không ỷ lại, vô lậu. Các bậc trí nhận thức, Vị ấy thật ẩn sĩ. |
222. Asamā cubho dūravihāravuttino gihī dāraposī amamo ca subbato, parapāṇarodhāya gihī asaññato niccaṃ munī rakkhati pāṇino yato.
| 222. Và cả hai không tương tự nhau, với chỗ trú ngụ và cách sinh sống khác xa nhau. Kẻ tại gia nuôi vợ, còn vị vô sở hữu có sự hành trì tốt đẹp. Kẻ tại gia không tự chế ngự ở việc chận đứng sanh mạng của kẻ khác, còn vị hiền trí, đã được chế ngự, thường xuyên bảo vệ các sanh mạng. | 220. Hai nếp sống không giống. An trú, thật xa nhau, Gia chủ, có vợ con, Không ngã sở, khéo nhiếp, Gia chủ không chế ngự, Ngăn chận hữu tình khác, Bậc ẩn sĩ luôn luôn, Che chở loài hữu tình. |
223. Sikhī yathā nīlagīvo vihaṅgamo haṃsassa nopeti javaṃ kudācanaṃ, evaṃ gihī nānukaroti bhikkhuno munino vicittassa vanamhi jhāyatoti. | Rắn, và vị Dhaniya nữa, sừng (tê giác), và vị Kasī như thế ấy, vị Cunda, và sự thoái hóa nữa, người hạ tiện, sự tu tập tâm từ ái, (Dạ-xoa) Sātāgira, Āḷavaka, chiến thắng, và vị hiền trí như thế ấy, mười hai bài kinh này được gọi là ‘Phẩm Rắn.’ | 221. Giống như loại chim công, Loại chim có cổ xanh, Không bao giờ sánh bằng Chim thiên nga nhanh nhẹn. Cũng vậy, người gia chủ, Không sánh bằng Tỷ-kheo, Bậc ẩn sĩ viễn ly, Sống thiền định trong rừng. |
Munisuttaṃ niṭṭhitaṃ. | Dứt Kinh Hiền Trí. | |
Uragavaggo paṭhamo. | Phẩm Rắn là thứ nhất. | |
TASSUDDĀNAṂ Urago dhaniyo ceva visāṇañca tathā kasī, cundo parābhavo ceva vasalo mettabhāvanā. Sātāgiro āḷavako vijayo ca tathā muni, dvādasetāni suttāni uragavaggoti vuccati. | TÓM LƯỢC PHẨM NÀY Rắn, và vị Dhaniya nữa, sừng (tê giác), và vị Kasī như thế ấy, vị Cunda, và sự thoái hóa nữa, người hạ tiện, sự tu tập tâm từ ái, (Dạ-xoa) Sātāgira, Āḷavaka, chiến thắng, và vị hiền trí như thế ấy, mười hai bài kinh này được gọi là ‘Phẩm Rắn.’ | |