I. URAGAVAGGO - PHẨM RẮN

 

I. URAGAVAGGO - PHẨM RẮN

 

 

Buddha Jayanti Tripitaka Series (BJTS) - Tạng Sri Lanka

 

 

Lời tiếng Việt: (văn xuôi) Tỳ khưu Indacanda

 

 

Lời tiếng Việt: (văn vần) HT. Thích Minh Châu

 

 

1. URAGASUTTAṂ

 

 

1. KINH RẮN

 

 

1. KINH RẮN

 

1. Yo uppatitaṃ vineti kodhaṃ visaṭaṃ sappavisaṃva osadhehi,
so bhikkhu jahāti orapāraṃ urago jiṇṇamiva tacaṃ purāṇaṃ.

 

1. Vị (tỳ khưu) nào xua đi cơn giận dữ đã trổi dậy, tựa như (kẻ xua đi) nọc rắn độc đã lan tỏa nhờ vào các loại thảo dược, vị tỳ khưu ấy từ bỏ bờ này và bờ kia, tựa như con rắn từ bỏ lớp da cũ đã bị già cỗi.

 

1. Ai nhiếp phục phẫn nộ
Ðang được dấy khởi lên,
Như dùng chất linh dược,
Ngăn độc rắn lan rộng
Tỷ-kheo ấy từ bỏ,
Bờ này và bờ kia,
Như loài rắn thoát bỏ
Da rắn cũ già xưa.

 

2. Yo rāgamudacchidā asesaṃ bhisapupphaṃ’va saroruhaṃ vigayha,
so bhikkhu jahāti orapāraṃ urago jiṇṇamiva tacaṃ purāṇaṃ.

 

2. Vị (tỳ khưu) nào đã cắt đứt hoàn toàn luyến ái, tựa như kẻ đã lội xuống (cắt đứt) đóa hoa sen mọc lên ở hồ nước, vị tỳ khưu ấy từ bỏ bờ này và bờ kia, tựa như con rắn từ bỏ lớp da cũ đã bị già cỗi.

 

2. Ai cắt đứt tham dục,
Không còn chút dư tàn,
Như kẻ hái hoa sen
Sanh ra từ ao hồ.
Tỷ-kheo ấy từ bỏ,
Bờ này và bờ kia,
Như loài rắn thoát bỏ
Da rắn cũ già xưa.

 

3. Yo taṇhamudacchidā asesaṃ saritaṃ sīghasaraṃ visosayitvā,
so bhikkhu jahāti orapāraṃ urago jiṇṇamiva tacaṃ purāṇaṃ.
 

3. Vị (tỳ khưu) nào đã cắt đứt hoàn toàn tham ái, sau khi đã làm khô cạn dòng suối nước trôi nhanh,[1] vị tỳ khưu ấy từ bỏ bờ này và bờ kia, tựa như con rắn từ bỏ lớp da cũ đã bị già cỗi.

---------------------

[1] Giáo sư K. R. Norman, ở bản dịch The Group of Discourses của mình, đồng ý với sự hiệu đính của Brough như sau: saritaṃ sīghasaraṃ’va sosayitvā = tựa như kẻ đã làm khô cạn dòng suối nước trôi nhanh.

 

3. Ai cắt đứt tham ái,
Không còn chút dư tàn,
Làm cho nước cạn khô,
Dòng nước chảy nhanh mạnh
Tỷ-kheo ấy từ bỏ,
Bờ này và bờ kia,
Như loài rắn thoát bỏ
Da rắn cũ già xưa.

 

4. Yo mānamudabbadhī asesaṃ naḷasetuṃ’va sudubbalaṃ mahogho,
so bhikkhu jahāti orapāraṃ urago jiṇṇamiva tacaṃ purāṇaṃ.

 

4. Vị (tỳ khưu) nào đã hủy diệt hoàn toàn ngã mạn, tựa như cơn lũ lớn (hủy diệt) cây cầu làm bằng sậy vô cùng yếu ớt, vị tỳ khưu ấy từ bỏ bờ này và bờ kia, tựa như con rắn từ bỏ lớp da cũ đã bị già cỗi.

 

4. Ai phá hoại kiêu mạn
Không còn chút dư tàn,
Như nước mạnh tàn phá
Cây cỏ lau yếu hèn,
Tỷ-kheo ấy từ bỏ,
Bờ này và bờ kia,
Như loài rắn thoát bỏ
Da rắn cũ già xưa.

 

5. Yo nājjhagamā bhavesu sāraṃ vicinaṃ pupphamiva udumbaresu,
so bhikkhu jahāti orapāraṃ urago jiṇṇamiva tacaṃ purāṇaṃ.
 

5. Vị (tỳ khưu) nào đã không đi đến bản thể ở các hữu,[1] tựa như kẻ (không đạt được bông hoa) trong khi tìm kiếm bông hoa ở những cây sung,[2] vị tỳ khưu ấy từ bỏ bờ này và bờ kia, tựa như con rắn từ bỏ lớp da cũ đã bị già cỗi.

----------------------
[1] Bản thể ở các hữu: bản thể thường còn hoặc bản thể tự ngã ở các cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc, cõi hữu tưởng, cõi vô tưởng, cõi phi tưởng phi phi tưởng, cõi một uẩn, cõi bốn uẩn, cõi năm uẩn (SnA. i, 19).

[2] Theo Chú Giải, udumbara là loại cây không có bông hoa (Sđd.). Từ điển ghi nghĩa udumbara là cây sung, cây vả, dướng như hai loại cây này kết trái nhưng không trải qua thời kỳ trổ hoa.

 

5. Ai trong các sanh hữu,
Không tìm thấy lõi cây,
Như kẻ đi hái hoa,
Trên cây sung không hoa.
Tỷ-kheo ấy từ bỏ,
Bờ này và bờ kia,
Như loài rắn thoát bỏ
Da rắn cũ già xưa.

6. Yassantarato na santi kopā iti bhavābhavataṃ ca vītivatto,
so bhikkhu jahāti orapāraṃ urago jiṇṇamiva tacaṃ purāṇaṃ.

6. Đối với vị (tỳ khưu) nào mà các sự bực tức không hiện diện ở trong tâm, vị đã vượt qua khỏi hữu và phi hữu như thế, vị tỳ khưu ấy từ bỏ bờ này và bờ kia, tựa như con rắn từ bỏ lớp da cũ đã bị già cỗi.

6. Với ai trong nội tâm,
Không còn có phẫn hận,
Ðã vượt thoát ra khỏi,
Cả hữu và phi hữu.
Tỷ-kheo ấy từ bỏ,
Bờ này và bờ kia,
Như loài rắn thoát bỏ
Da rắn cũ già xưa.

 

7. Yassa vitakkā vidhūpitā ajjhattaṃ suvikappitā asesā,
so bhikkhu jahāti orapāraṃ urago jiṇṇamiva tacaṃ purāṇaṃ.

7. Đối với vị (tỳ khưu) nào các ý nghĩ suy tầm được thiêu đốt, khéo được cắt bỏ ở nội tâm, không còn dư sót, vị tỳ khưu ấy từ bỏ bờ này và bờ kia, tựa như con rắn từ bỏ lớp da cũ đã bị già cỗi.

7. Với ai những tầm tư,
Ðược làm cho tan biến
Nội tâm khéo sửa soạn,
Không còn chút dư tàn.
Tỷ-kheo ấy từ bỏ,
Bờ này và bờ kia,
Như loài rắn thoát bỏ
Da rắn cũ già xưa.

 

8. Yo nāccasārī na paccasārī sabbaṃ accagamā imaṃ papañcaṃ,
so bhikkhu jahāti orapāraṃ urago jiṇṇamiva tacaṃ purāṇaṃ.

8. Vị (tỳ khưu) nào đã không vượt quá, đã không quay trở lại, đã chế ngự tất cả vọng tưởng này, vị tỳ khưu ấy từ bỏ bờ này và bờ kia, tựa như con rắn từ bỏ lớp da cũ đã bị già cỗi.

8. Ai không đi quá trớn,
Cũng không quá chậm trễ,
Ðã nhiếp phục toàn diện,
Hý luận chướng ngại này.
Tỷ-kheo ấy từ bỏ,
Bờ này và bờ kia,
Như loài rắn thoát bỏ
Da rắn cũ già xưa.

 

9. Yo nāccasārī na paccasārī sabbaṃ vitathamidanti ñatva loke,
so bhikkhu jahāti orapāraṃ urago jiṇṇamiva tacaṃ purāṇaṃ.

9. Vị (tỳ khưu) nào đã không vượt quá, đã không quay trở lại, sau khi biết được về thế gian rằng: ‘Toàn bộ điều này là không thật,’ vị tỳ khưu ấy từ bỏ bờ này và bờ kia, tựa như con rắn từ bỏ lớp da cũ đã bị già cỗi.

9. Ai không đi quá trớn,
Cũng không quá chậm trễ,
Biết rõ được ở đời,
Sự này toàn hư vọng.
Tỷ-kheo ấy từ bỏ,
Bờ này và bờ kia,
Như loài rắn thoát bỏ
Da rắn cũ già xưa.

 

10. Yo nāccasārī na paccasārī sabbaṃ vitathamidanti vītalobho,
so bhikkhu jahāti orapāraṃ urago jiṇṇamiva tacaṃ purāṇaṃ.

10. Vị (tỳ khưu) nào đã không vượt quá, đã không quay trở lại, (sau khi biết được rằng) ‘Toàn bộ điều này là không thật,’ có tham đã được xa lìa, vị tỳ khưu ấy từ bỏ bờ này và bờ kia, tựa như con rắn từ bỏ lớp da cũ đã bị già cỗi.

10. Ai không đi quá trớn,
Cũng không quá chậm trễ,
Từ bỏ, không có tham,
Sự này toàn hư vọng.
Tỷ-kheo ấy từ bỏ,
Bờ này và bờ kia,
Như loài rắn thoát bỏ
Da rắn cũ già xưa.

 

11. Yo nāccasārī na paccasārī sabbaṃ vitathamidanti vītarāgo,
so bhikkhu jahāti orapāraṃ urago jiṇṇamiva tacaṃ purāṇaṃ.

 

11. Vị (tỳ khưu) nào đã không vượt quá, đã không quay trở lại, (sau khi biết được rằng) ‘Toàn bộ điều này là không thật,’ có luyến ái đã được xa lìa, vị tỳ khưu ấy từ bỏ bờ này và bờ kia, tựa như con rắn từ bỏ lớp da cũ đã bị già cỗi.

11. Ai không đi quá trớn,
Cũng không quá chậm trễ,
Từ bỏ, không tham dục,
Sự này toàn hư vọng.
Tỷ-kheo ấy từ bỏ,
Bờ này và bờ kia,
Như loài rắn thoát bỏ
Da rắn cũ già xưa.

 

12. Yo nāccasārī na paccasārī sabbaṃ vitathamidanti vītadoso,
so bhikkhu jahāti orapāraṃ urago jiṇṇamiva tacaṃ purāṇaṃ.

12. Vị (tỳ khưu) nào đã không vượt quá, đã không quay trở lại, (sau khi biết được rằng) ‘Toàn bộ điều này là không thật,’ có sân đã được xa lìa, vị tỳ khưu ấy từ bỏ bờ này và bờ kia, tựa như con rắn từ bỏ lớp da cũ đã bị già cỗi.

12. Ai không đi quá trớn,
Cũng không quá chậm trễ,
Từ bỏ, ly sân hận,
Sự này toàn hư vọng.
Tỷ-kheo ấy từ bỏ,
Bờ này và bờ kia,
Như loài rắn thoát bỏ
Da rắn cũ già xưa.

 

13. Yo nāccasārī na paccasārī sabbaṃ vitathamidanti vītamoho,
so bhikkhu jahāti orapāraṃ urago jiṇṇamiva tacaṃ purāṇaṃ.

13. Vị (tỳ khưu) nào đã không vượt quá, đã không quay trở lại, (sau khi biết được rằng) ‘Toàn bộ điều này là không thật,’ có si đã được xa lìa, vị tỳ khưu ấy từ bỏ bờ này và bờ kia, tựa như con rắn từ bỏ lớp da cũ đã bị già cỗi.

13. Ai không đi quá trớn,
Cũng không quá chậm trễ,
Từ bỏ, ly si ám,
Sự này toàn hư vọng.
Tỷ-kheo ấy từ bỏ,
Bờ này và bờ kia,
Như loài rắn thoát bỏ
Da rắn cũ già xưa.

 

14. Yassānusayā na santi keci mūlā akusalā samūhatāse,
so bhikkhu jahāti orapāraṃ urago jiṇṇamiva tacaṃ purāṇaṃ.

14. Đối với vị (tỳ khưu) nào mà các pháp tiềm ẩn đều không hiện diện, (và) các cội rễ bất thiện đều đã được trừ diệt, vị tỳ khưu ấy từ bỏ bờ này và bờ kia, tựa như con rắn từ bỏ lớp da cũ đã bị già cỗi.

 

14. Với ai, các tùy miên,
Hoàn toàn không hiện hữu,
Các nguồn gốc bất thiện
Ðược nhổ lên trừ sạch.
Tỷ-kheo ấy từ bỏ,
Bờ này và bờ kia,
Như loài rắn thoát bỏ
Da rắn cũ già xưa.

 

15. Yassa darathajā na santi keci oraṃ āgamanāya paccayāse,
so bhikkhu jahāti orapāraṃ urago jiṇṇamiva tacaṃ purāṇaṃ.

15. Đối với vị (tỳ khưu) nào mà các pháp sanh ra từ sự bực bội, (là) các duyên đưa về lại bờ này, đều không hiện diện, vị tỳ khưu ấy từ bỏ bờ này và bờ kia, tựa như con rắn từ bỏ lớp da cũ đã bị già cỗi.

15. Với ai, không có gì,
Do phiền não sanh khởi,
Làm duyên trở lui lại,
Về lại bờ bên này.
Tỷ-kheo ấy từ bỏ,
Bờ này và bờ kia,
Như loài rắn thoát bỏ
Da rắn cũ già xưa.

 

16. Yassa vanathajā na santi keci vinibandhāya bhavāya hetukappā,
so bhikkhu jahāti orapāraṃ urago jiṇṇamiva tacaṃ purāṇaṃ.

16. Đối với vị (tỳ khưu) nào mà các pháp sanh ra từ sự bám lấy đối tượng, (là) các pháp làm nhân đưa đến sự trói chặt vào hiện hữu, đều không hiện diện, vị tỳ khưu ấy từ bỏ bờ này và bờ kia, tựa như con rắn từ bỏ lớp da cũ đã bị già cỗi.

16. Với ai, không có gì,
Do rừng ái sanh khởi,
Tạo nhân khiến trói buộc
Con người vào tái sanh.
Tỷ-kheo ấy từ bỏ,
Bờ này và bờ kia,
Như loài rắn thoát bỏ
Da rắn cũ già xưa.

 

17. Yo nīvaraṇe pahāya pañca anīgho tiṇṇakathaṃkatho visallo,
so bhikkhu jahāti orapāraṃ urago jiṇṇamiva tacaṃ purāṇaṃ.

17. Vị (tỳ khưu) nào sau khi đã dứt bỏ năm pháp che lấp, không có phiền muộn, có sự nghi ngờ đã được vượt qua, có mũi tên đã được xa lìa, vị tỳ khưu ấy từ bỏ bờ này và bờ kia, tựa như con rắn từ bỏ lớp da cũ đã bị già cỗi.

 

 

17. Ai đoạn năm triền cái,
Không sầu khổ bực phiền,
Vượt qua được nghi hoặc,
Thoát mũi tên phiền não.
Tỷ-kheo ấy từ bỏ,
Bờ này và bờ kia,
Như loài rắn thoát bỏ
Da rắn cũ già xưa.

 

 

Uragasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

 

Dứt Kinh Rắn.

 

 

 

2. DHANIYASUTTAṂ

 

 

2. KINH DHANIYA

 

 

2. KINH DHANIYA

 

18. Pakkodano duddhakhīro ’hamasmi (iti dhaniyo gopo)
anutīre mahiyā samānavāso,
channā kuṭi āhito gini
atha ce patthayasi pavassa deva.

 

18. (Người chăn nuôi bò Dhaniya[1] nói)

“Tôi có cơm đã nấu chín, có sữa đã vắt xong,

cư ngụ cùng gia đình bên bờ sông Mahī,

cái chòi đã được lợp kín, lửa đã được nhóm lên.

Này vị Trời, giờ đây nếu ngài muốn, ngài hãy đổ mưa đi.”

--------------------

[1] Người chăn nuôi bò Dhaniya (dhaniyo gopo): Dhaniya là tên một người con trai phú hộ, gopo (gopī: nữ tánh) là người chăn nuôi trâu bò của chính mình, còn người chăn giữ trâu bò của người khác để nhận tiền công gọi là gopālaka (SnA. i, 28). Chú Giải cho biết bầy bò của Dhaniya có số lượng là 30.000 con, (trong số đó) 27.000 con được vắt sữa (Sđd. 26).

 

Dhaniya:
18. Cơm ta, nấu đã chín,
Sữa uống, ta vắt xong,
Mục đồng Dhaniya,
Ðã nói lên như vậy.
Trên bờ sông Mahì,
Ta chung sống đồng cư,
Chòi lá được khéo lợp,
Lửa đốt được cháy đỏ.
Nếu là ý người muốn,
Thần mưa, hãy mưa đi.

19. Akkodhano vigatakhīlo ’hamasmi (iti bhagavā)
anutīre mahiyekarattivāso,
vivaṭā kuṭi nibbuto gini
atha ce patthayasi pavassa deva.

 

19. (Đức Thế Tôn nói)

“Ta không có giận dữ, sự bướng bỉnh đã xa lìa,

cư ngụ một đêm bên bờ sông Mahī,

cái chòi (bản ngã) đã được mở ra, lửa đã được diệt tắt.

Này vị Trời, giờ đây nếu ngài muốn, ngài hãy đổ mưa đi.”

 

Thế Tôn:
19. Ta đoạn được phẫn nộ,
Tâm hoang vu không còn,
Bậc Thế Tôn, Chánh Giác
Ðã nói lên như vậy.
Trên bờ sông Mahì,
Ta chỉ sống một đêm,
Chòi lá được rộng mở,
Lửa đốt được tịch tịnh.
Nếu là ý người muốn,
Thần mưa, hãy mưa đi.

 

20. Andhakamakasā na vijjare (iti dhaniyo gopo)
kacche rūḷhatiṇe caranti gāvo,
vuṭṭhimpi saheyyumāgataṃ
atha ce patthayasi pavassa deva.

 

20. (Người chăn nuôi bò Dhaniya nói)

“Ruồi và muỗi không tìm thấy,

bầy bò bước đi ở đầm lầy có cỏ đã mọc,

thậm chí cơn mưa đến, chúng cũng có thể chịu đựng.

Này vị Trời, giờ đây nếu ngài muốn, ngài hãy đổ mưa đi.”

 

Dhaniya:
20. Ruồi lằn và muỗi mòng,
Ở đây không tìm thấy,
Mục đồng Dhaniya,
Ðã nói lên như vậy.
Trên cánh đồng cỏ mọc,
Ðàn bò đi ăn cỏ,
Dầu cơn mưa có đến,
Chúng có thể chịu đựng.
Nếu là ý người muốn,
Thần mưa, hãy mưa đi.

 

21. Baddhā hi bhisi susaṅkhatā (iti bhagavā)
tiṇṇo pāragato vineyya oghaṃ,
attho bhisiyā na vijjati
atha ce patthayasi pavassa deva.
 

21. (Đức Thế Tôn nói)

“Chiếc bè quả đã được buộc lại, đã khéo được tạo ra.

Ta đã vượt qua, đã đi đến bờ kia, sau khi đã chế ngự dòng lũ;

nhu cầu với chiếc bè không tìm thấy.

Này vị Trời, giờ đây nếu ngài muốn, ngài hãy đổ mưa đi.”

 

Thế Tôn:
21. Các bè đã được cột,
Khéo tác thành tốt đẹp,
Bậc Thế Tôn, Chánh Giác
Ðã nói lên như vậy.
Ai qua được bờ kia,
Nhiếp phục dòng nước mạnh,
Lợi ích của chiếc bè,
Ðâu còn thấy cần thiết.
Nếu là ý người muốn,
Thần mưa, hãy mưa đi.

 

22. Gopī mama assavā alolā (iti dhaniyo gopo)
dīgharattaṃ saṃvāsiyā manāpā,
tassā na suṇāmi kiñci pāpaṃ
atha ce patthayasi pavassa deva.

22. (Người chăn nuôi bò Dhaniya nói)

“Người vợ của tôi nhu thuận, không tham lam,

hợp ý, cùng chung sống thời gian dài,

tôi không được nghe bất cứ điều gì xấu xa của nàng.

Này vị Trời, giờ đây nếu ngài muốn, ngài hãy đổ mưa đi.”

 

Dhaniya:
22. Vợ ta khéo nhu thuận,
Không có tham dục gì,
Mục đồng Dhaniya
Ðã nói lên như vậy.
Ðã lâu ngày chung sống,
Vừa đẹp ý đẹp lòng,
Ta không nghe điều gì,
Thuộc ác hạnh về nàng.
Nếu là ý người muốn,
Thần mưa, hãy mưa đi.

 

23. Cittaṃ mama assavaṃ vimuttaṃ (iti bhagavā)
dīgharattaṃ paribhāvitaṃ sudantaṃ,
pāpaṃ pana me na vijjati
atha ce patthayasi pavassa deva.
 

23. (Đức Thế Tôn nói)

“Tâm của Ta nhu thuận, đã được giải thoát,

được phát triển toàn diện, khéo được huấn luyện thời gian dài,

hơn nữa điều xấu xa của Ta không tìm thấy.

Này vị Trời, giờ đây nếu ngài muốn, ngài hãy đổ mưa đi.”

 

Thế Tôn:
23. Tâm Ta khéo nhu thuận,
Ðược giải thoát, mở rộng,
Bậc Thế Tôn, Chánh Giác
Ðã nói lên như vậy.
Lâu ngày tu viên mãn,
Khéo nhiếp phục chế ngự,
Trong Ta các pháp ác,
Không còn được tìm thấy.
Nếu là ý người muốn,
Thần mưa, hãy mưa đi.

 

24. Attavetanabhato ’hamasmi (iti dhaniyo gopo)
puttā ca me samāniyā arogā,
tesaṃ na suṇāmi kiñci pāpaṃ
atha ce patthayasi pavassa deva.
 

24. (Người chăn nuôi bò Dhaniya nói)

“Tôi sinh sống bằng lợi tức của bản thân,

và những người con trai của tôi cùng sống chung, không bệnh tật,

tôi không nghe bất cứ điều gì xấu xa của chúng.

Này vị Trời, giờ đây nếu ngài muốn, ngài hãy đổ mưa đi.”

 

Dhaniya:
24. Với lợi tức thâu hoạch,
Ta tự nuôi sống ta,
Mục đồng Dhaniya
Ðã nói lên như vậy,
Con ta và cả ta,
Sống chung không bệnh hoạn,
Ta không nghe điều gì,
Thuộc ác hạnh về chúng.
Nếu là ý người muốn,
Thần mưa, hãy mưa đi.

 

25. Nāhaṃ bhatako ’smi kassaci (iti bhagavā)
nibbiṭṭhena carāmi sabbaloke,
attho bhatiyā na vijjati
atha ce patthayasi pavassa deva.
 

25. (Đức Thế Tôn nói)

“Ta không là người làm thuê cho bất cứ ai,

với sự thành tựu (phẩm vị Toàn Tri) Ta du hành ở khắp thế gian,

nhu cầu về lương bổng không tìm thấy,

Này vị Trời, giờ đây nếu ngài muốn, ngài hãy đổ mưa đi.”

 

Thế Tôn:
25. Ta không có làm mướn,
Cho một ai ở đời,
Bậc Thế Tôn, Chánh Giác
Ðã nói lên như vậy
Với điều được chứng đắc,
Ta du hành thế giới,
Về tiền công cần thiết,
Không thể có nơi Ta.
Nếu là ý người muốn,
Thần mưa, hãy mưa đi.

 

26. Atthi vasā atthi dhenupā (iti dhaniyo gopo)
godharaṇiyo paveṇiyopi atthi,
usabhopi gavampatīdha atthi
atha ce patthayasi pavassa deva.

26. (Người chăn nuôi bò Dhaniya nói)

“(Tôi) có các bò con mới lớn, có các bò cái cho con bú,

có các bò cái mang thai, luôn cả các bò cái vừa trưởng thành,

ở đây cũng có con bò đực, chúa đàn.

Này vị Trời, giờ đây nếu ngài muốn, ngài hãy đổ mưa đi.”

Dhaniya:
26. Ðây có các bò cái,
Ðây có các bò con,
Mục đồng Dhaniya
Ðã nói lên như vậy.
Ðây có những bò mẹ,
Mang thai, nối giống dòng,
Ðây có những bò đực,
Những con chúa đầu đàn.
Nếu là ý người muốn,
Thần mưa, hãy mưa đi.

 

27. Natthi vasā natthi dhenupā (iti bhagavā)
godharaṇiyo paveṇiyopi natthi,
usabhopi gavampatīdha natthi
atha ce patthayasi pavassa deva.

27. (Đức Thế Tôn nói)

“(Ta) không có các bò con mới lớn, không có các bò cái cho con bú,

không có các bò cái mang thai, luôn cả các bò cái vừa trưởng thành,

ở đây cũng không có con bò đực, chúa đàn.

Này vị Trời, giờ đây nếu ngài muốn, ngài hãy đổ mưa đi.”

 

Thế Tôn:
27. Ðây không có bò cái,
Ðây không có bò con,
Bậc Thế Tôn, Chánh Giác
Ðã nói lên như vậy.
Ðây không có bò mẹ,
Mang thai, nối giống dòng,
Ðây không có bò đực,
Những con chúa đầu đàn.
Nếu là ý người muốn,
Thần mưa, hãy mưa đi.

 

28. Khīḷā nikhātā asampavedhī (iti dhaniyo gopo)
dāmā muñjamayā navā susaṇṭhānā,
na hi sakkhinti dhenupāpi chettuṃ
atha ce patthayasi pavassa deva.
 

28. (Người chăn nuôi bò Dhaniya nói)

“Các cây cọc đã được chôn xuống, không bị lay động.

Các dây buộc mới, làm bằng cỏ muñja, có phẩm chất tốt,

ngay cả các con bò cái cho con bú cũng không thể giật đứt.  

Này vị Trời, giờ đây nếu ngài muốn, ngài hãy đổ mưa đi.”

 

Dhaniya:
28. Cây cột được đóng sâu,
Không còn bị dao động,
Mục đồng Dhaniya
Ðã nói lên như vậy.
Các dây bằng cây lau,
Ðược bện lại mới chắc,
Và các con bò con,
Không thể nào giật đứt.
Nếu là ý người muốn,
Thần mưa, hãy mưa đi.

 

29. Usabhoriva chetva bandhanāni (iti bhagavā)
nāgo pūtilataṃ va dāḷayitvā,
nāhaṃ puna upessaṃ gabbhaseyyaṃ
atha ce patthayasi pavassa deva.

29. (Đức Thế Tôn nói)

“Tựa như con bò đực đã cắt đứt các sự trói buộc,

tựa như con voi đã bứt lìa sợi dây rừng thối tha,

Ta sẽ không đi đến việc nằm ở bào thai lần nữa.

Này vị Trời, giờ đây nếu ngài muốn, ngài hãy đổ mưa đi.”

 

Thế Tôn:
29. Giống như con bò đực,
Giật đứt các trói buộc,
Bậc Thế Tôn, Chánh Giác
Ðã nói lên như vậy.
Như voi làm bựt đứt
Các giây leo héo mục,
Ta không còn đi đến,
Chỗ thai tạng tái sanh.
Nếu là ý người muốn,
Thần mưa, hãy mưa đi.

 

30. Ninnañca thalañca pūrayanto
mahāmegho pāvassi tāvadeva,
sutvā devassa vassato
imamatthaṃ dhaniyo abhāsatha.

30. Ngay khi ấy, có đám mây lớn đã đổ mưa

làm tràn ngập vùng đất trũng và đất cao.

Sau khi nghe được Trời đang mưa,

Dhaniya đã nói lên ý nghĩa này:

 

30. Rồi mưa lớn đổ xuống,
Làm đầy tràn đất trũng,
Làm tràn ngập đất cao,
Nghe trời gầm, mưa, thét,
Mục đồng Dhaniya,
Nói lên lời như sau:

 

31. Lābho vata no anappako
ye mayaṃ bhagavantaṃ addasāma,
saraṇaṃ taṃ upema cakkhuma
satthā no hohi tuvaṃ mahāmuni.

31. (Người chăn nuôi bò Dhaniya nói)

“Quả thật lợi ích của chúng tôi là không ít,

chúng tôi đã được gặp đức Thế Tôn.

Thưa đấng Hữu Nhãn, chúng con đi đến nương tựa Ngài.

Thưa bậc Đại Hiền Trí, xin Ngài hãy là bậc Đạo Sư của chúng con.

 

Dhaniya:
31. Lợi thay cho chúng ta,
Ðâu phải là lợi nhỏ,
Chúng ta được chiêm ngưỡng,
Bậc Chánh Giác, Thế Tôn.
Ôi! Kính bậc Pháp nhãn,
Con xin quy y Ngài,
Kính bậc Ðại ẩn sĩ,
Hãy là Thầy chúng con.

 

32. Gopī ca ahañca assavā
brahmacariyaṃ sugate carāmase,
jātimaraṇassa pāragā
dukkhassantakarā bhavāmase.

32. Vợ và con là những người nhu thuận, hãy cho chúng con thực hành Phạm hạnh ở nơi đấng Thiện Thệ, hãy cho chúng con trở thành những người đi đến bờ kia của sanh tử, những người thực hiện sự chấm dứt khổ đau.

32. Vợ con và cả con,
Là những người nhu thuận,
Xin sống đời Phạm hạnh,
Dưới chân bậc Thiện Thệ.
Ðược đến bờ bên kia,
Vượt khỏi sanh già chết,
Chúng con sẽ trở thành
Người đoạn tận đau khổ.

 

33. Nandati puttehi puttimā (iti māro pāpimā)
gomiko gohi tatheva nandati,
upadhī hi narassa nandanā
na hi so nandati yo nirūpadhī.

33. (Ma Vương ác độc nói)

“Người có con trai vui vẻ với các con trai,

tương tự y như thế, người chủ bầy bò vui vẻ với bầy bò.

Bởi vì mầm tái sanh là niềm vui vẻ của con người,

bởi vì người nào không có mầm tái sanh, người ấy không vui vẻ.”

 

Màra:
33. Ai có các con trai,
Hoan hỷ với con trai,
Ðây là lời Ác ma,
Ðã nói lên như vậy
Người chủ các con bò,
Hoan hỷ với con bò.
Còn người thì hoan hỷ,
Ðối với sự sanh y,
Ai không có sanh y,
không thể có hoan hỷ.

 

34. Socati puttehi puttimā (iti bhagavā)
gomiko gohi tatheva socati,
upadhī hi narassa socanā
na hi so socati yo nirūpadhī ”ti.
 

34. (Đức Thế Tôn nói)

“Người có con trai sầu muộn với các con trai,

tương tự y như thế, người chủ bầy bò sầu muộn với bầy bò.

Bởi vì mầm tái sanh là nỗi sầu muộn của con người,

bởi vì người nào không có mầm tái sanh, người ấy không sầu muộn.”

 

Thế Tôn:
34. Ai có các con trai,
Sầu muộn với con trai,
Bậc Thế Tôn, Chánh Giác,
Ðã nói lên như vậy.
Người chủ các con bò,
Sầu muộn với con bò;
Sầu muộn của con người,
Chính do sự sanh y,
Ai không có sanh y,
Không thể có sầu muộn.

 

 

Dhaniyasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

 

Dứt Kinh Dhaniya.

 

 

   

3. KHAGGAVISĀṆASUTTAṂ

 

 

3. KINH SỪNG TÊ GIÁC

 

 

3. KINH CON TÊ NGƯU MỘT SỪNG

 

35. Sabbesu bhūtesu nidhāya daṇḍaṃ
aviheṭhayaṃ aññatarampi tesaṃ,
na puttamiccheyya kuto sahāyaṃ
eko care khaggavisāṇakappo.
 

35. Buông bỏ sự trừng phạt đối với tất cả chúng sanh,

không hãm hại bất cứ ai trong số họ,

không nên mong mỏi đứa con trai, sao lại (mong mỏi) bạn bè?

Nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

 

35. Ðối với các hữu tình,
Từ bỏ gậy và trượng,
Chớ làm hại một ai
Trong chúng hữu tình ấy.
Con trai không ước muốn,
Còn nói gì bạn bè,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

36. Saṃsaggajātassa bhavanti snehā
snehanvayaṃ dukkhamidaṃ pahoti,
ādīnavaṃ snehajaṃ pekkhamāno
eko care khaggavisāṇakappo.
 

36. Các sự thương yêu hiện hữu đối với người đã có sự giao tiếp,

theo sau sự thương yêu là khổ đau này được thành lập.

Trong khi xét thấy điều bất lợi sanh lên từ sự thương yêu,

nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

 

36. Do thân cận giao thiệp,
Thân ái từ đấy sanh,
Tùy thuận theo thân ái,
Khổ này có thể sanh.
Nhìn thấy những nguy hại,
Do thân ái sanh khởi,
Hãy sống riêng một mình,
Như tê ngưu một sừng.

 

37. Mitte suhajje anukampamāno
hāpeti atthaṃ paṭibaddhacitto,
etaṃ bhayaṃ santhave pekkhamāno
eko care khaggavisāṇakappo.

37. Trong khi thương tưởng đến các bạn bè thân hữu,

(thời) buông rơi mục đích, có tâm bị ràng buộc.

Trong khi xét thấy mối nguy hiểm này ở sự giao du,

nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

 

37. Do lòng từ thương mến,
Ðối bạn bè thân hữu,
Mục đích bị bỏ quên,
Tâm tư bị buộc ràng,
Do thấy sợ hãi này,
Trong giao du mật thiết,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

38. Vaṃso visālo va yathā visatto
puttesu dāresu ca yā apekhā,
vaṃsakaḷīro va asajjamāno
eko care khaggavisāṇakappo.

38. Giống như lùm tre rậm rạp bị vướng víu

sự mong mỏi (yêu thương) các con và những người vợ (là tương tự).

Trong khi không bị vướng víu như là mụt măng tre,

nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

 

38. Ai nhớ nghĩ chờ mong,
Ðối với con và vợ,
Người ấy bị buộc ràng,
Như cành tre rậm rạp,
Còn các ngọn tre cao,
Nào có gì buộc ràng,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

39. Migo araññamhi yathā abaddho
yenicchakaṃ gacchati gocarāya,
viññū naro seritaṃ pekkhamāno
eko care khaggavisāṇakappo.

39. Giống như con nai ở trong rừng không bị trói buộc

đi đến nơi kiếm ăn tùy theo ý thích,

người hiểu biết trong khi xem xét về sự tự do,  

nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

 

39. Như nai trong núi rừng,
Không gì bị trói buộc,
Tự đi chỗ nó muốn
Ðể tìm kiếm thức ăn.
Như các bậc Hiền trí,
Thấy tự do giải thoát,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

40. Āmantanā hoti sahāyamajjhe
vāse ṭhāne gamane cārikāya,
anabhijjhitaṃ seritaṃ pekkhamāno
eko care khaggavisāṇakappo.

40. Có sự mời gọi giữa bạn bè

về chuyện nghỉ ngơi, về việc đứng gần, về sự ra đi, về cuộc du hành,

trong khi xem xét về sự tự do không được (kẻ khác) ham thích,[1] nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

---------------------------

[1] Sự xuất gia là không được ham thích, không được mong ước bởi tất cả những kẻ tầm thường bị tham chế ngự (SnA. i, 85).

40. Giữa bạn bè thân hữu,
Bị gọi lên gọi xuống,
Tại chỗ ở trú xứ,
Hay trên đường bộ hành.
Thấy tự do giải thoát,
Không có gì tham luyến,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

41. Khiḍḍā ratī hoti sahāyamajjhe
puttesu ca vipulaṃ hoti pemaṃ,
piyavippayogañca jigucchamāno
eko care khaggavisāṇakappo.
 

41. Sự vui đùa thích thú ở giữa đám bạn bè

và lòng thương yêu đối với con cái là bao la,

trong khi chán ghét sự tách lìa khỏi những người yêu dấu,

nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

 

 

41. Giữa bạn bè thân hữu,
Ưa thích, vui cười đùa,
Ðối với con, với cháu,
Ái luyến thật lớn thay,
Nhàm chán sự hệ lụy,
Với những người thân ái,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

42. Cātuddiso appaṭigho ca hoti
santussamāno itarītarena,
parissayānaṃ sahitā achambhī
eko care khaggavisāṇakappo.

42. Người không lòng bất bình trải khắp bốn phương,

tự hài lòng với vật dụng dầu tốt hay xấu,

chịu đựng mọi hiểm nghèo không lòng hoảng sợ,

nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

 

42. Khắp cả bốn phương trời,
Không sân hận với ai,
Tự mình biết vừa đủ,
Với vật này vật khác,
Vững chịu các hiểm nguy,
Không run sợ dao động,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

43. Dussaṅgahā pabbajitāpi eke
atho gahaṭṭhā gharamāvasantā,
appossukko paraputtesu hutvā
eko care khaggavisāṇakappo.

43. Ngay cả một số các vị đã xuất gia cũng khó đồng thuận,

những kẻ tại gia đang sống dưới mái gia đình cũng vậy,

đã là người ít bị bận tâm về con cái của những kẻ khác,

nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

 

43. Có số người xuất gia,
Chung sống thật khó khăn,
Cũng như các gia chủ,
Ở tại các cửa nhà,
Sống vô tư vô lự,
Giữa con cháu người khác,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

44. Oropayitvā gihī vyañjanāni
saṃsīnapatto yathā koviḷāro,
chetvāna vīro gihibandhanāni
eko care khaggavisāṇakappo.
 

44. Hãy cởi bỏ các hình tướng tại gia

như loài cây koviḷāro có lá được rũ bỏ,

là người anh hùng, sau khi cắt đứt mọi sự ràng buộc của gia đình,

nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

 

44. Từ bỏ, để một bên,
Mọi biểu dương gia đình,
Như loại cây san hô,
Tước bỏ mọi lá cây,
Bậc anh hùng cắt đứt,
Mọi trói buộc gia đình.
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

45. Sace labhetha nipakaṃ sahāyaṃ
saddhiṃ caraṃ sādhuvihāri dhīraṃ,
abhibhuyya sabbāni parissayāni
careyya tenattamano satīmā.


 

45. Nếu có thể đạt được người bạn chín chắn,

kẻ đồng hành sáng suốt, sống ngay thẳng,

sau khi khắc phục mọi sự hiểm nghèo,

nên du hành với vị ấy, có sự hoan hỷ, có niệm.

 

45. Nếu tìm được bạn lành,
Thận trọng và sáng suốt,
Bạn đồng hành chung sống,
Bạn thiện trú Hiền trí.
Cùng nhau đồng nhiếp phục,
Tất cả mọi hiểm nạn,
Hãy sống với bạn ấy,
Hoan hỷ, giữ chánh niệm.

 

46. No ce labhetha nipakaṃ sahāyaṃ
saddhiṃ caraṃ sādhuvihāri dhīraṃ,
rājā ’va raṭṭhaṃ vijitaṃ pahāya
eko care khaggavisāṇakappo.

46. Nếu không thể đạt được người bạn chín chắn,

kẻ đồng hành sáng suốt, sống ngay thẳng,

tương tự như vị vua từ bỏ lãnh địa đã xâm chiếm được,

nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

 

46. Nếu không được bạn lành,
Thận trọng và sáng suốt,
Bạn đồng hành chung sống,
Bạn thiện trú Hiền trí.
Hãy như vua từ bỏ,
Ðất nước bị bại vong,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

47. Addhā pasaṃsāma sahāyasampadaṃ
seṭṭhā samāsevitabbā sahāyā,
ete aladdhā anavajjabhojī
eko care khaggavisāṇakappo.

47. Quả vậy, chúng ta ca ngợi sự thành tựu về bạn bè. Những bạn bè vượt trội (hoặc) tương đương là nên giao thiệp. (Nếu) những người này là không đạt được, (nên) thọ hưởng những gì không bị chê trách, nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

47. Thật chúng ta tán thán,
Các bằng hữu chu toàn,
Bậc hơn ta, bằng ta,
Nên sống gần thân cận.
Nếu không gặp bạn này.
Những bậc không lầm lỗi,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

48. Disvā suvaṇṇassa pabhassarāni
kammāraputtena suniṭṭhitāni,
saṅghaṭṭamānāni duve bhujasmiṃ
eko care khaggavisāṇakappo.
 

48. Sau khi nhìn thấy những (vòng) vàng sáng chói

khéo được hoàn thành bởi con trai người thợ kim hoàn,

(chúng) đang va chạm vào nhau khi hai vòng ở trên cùng cánh tay,

nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

 

48. Thấy đồ trang sức vàng,
Lấp lánh và sáng chói,
Ðược con người thợ vàng,
Khéo làm, khéo tay làm,
Hai chúng chạm vào nhau,
Trên hai tay đeo chúng,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

49. Evaṃ dutiyena sahā mamassa
vācābhilāpo abhisajjanā vā,
etaṃ bhayaṃ āyatiṃ pekkhamāno
eko care khaggavisāṇakappo.

49. Tương tự như thế, cùng với người thứ hai, có thể xảy đến cho tôi

sự chuyện vãn bằng lời nói hoặc sự quyến luyến sâu đậm.

Trong khi xem xét thấy mối nguy hiểm này trong tương lai,

nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

 

49. Như vậy nếu ta cùng
Với một người thứ hai,
Tranh luận cãi vã nhau,
Sân hận, gây hấn nhau,
Nhìn thấy trong tương lai,
Sợ hãi hiểm nguy này,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

50. Kāmā hi citrā madhurā manoramā
virūparūpena mathenti cittaṃ,
ādīnavaṃ kāmaguṇesu disvā
eko care khaggavisāṇakappo.

50. Bởi vì các dục là đa dạng, ngọt ngào, làm thích ý,

chúng khuấy động tâm bằng nhiều hình thức khác nhau.

Sau khi nhìn thấy điều bất lợi ở các loại dục,

nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

 

50. Các dục thật mỹ miều,
Ngọt thơm và đẹp ý,
Dưới hình sắc, phi sắc,
Làm mê loạn tâm tư,
Thấy sự nguy hiểm này,
Trong các dục trưởng dưỡng,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

51. Ītī ca gaṇḍo ca upaddavo ca
rogo ca sallañca bhayañca metaṃ,
etaṃ bhayaṃ kāmaguṇesu disvā
eko care khaggavisāṇakappo.

51. Điều này là tai họa, là mụt nhọt, là bất hạnh, là tật bệnh, là mũi tên, và là sự nguy hiểm cho tôi. Sau khi nhìn thấy mối nguy hiểm này ở các loại dục, nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

51. Ðây là một mụn nhọt,
Và cũng là tai họa,
Một tật bệnh, mũi tên,
Là sợ hãi cho ta,
Thấy sự nguy hiểm này,
Trong các dục trưởng dưỡng,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

52. Sītañca uṇhañca khudaṃ pipāsaṃ
vātātape ḍaṃsasiriṃsape ca,
sabbāni petāni abhisambhavitvā
eko care khaggavisāṇakappo.

52. Lạnh, nóng, đói, khát,

gió và sức nóng, muỗi mòng và rắn rết,

sau khi đã khắc phục tất cả những điều này,

nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

 

52. Lạnh lẽo và nóng bức,
Ðói bụng và khát nước,
Gió thổi, ánh mặt trời.
Muỗi lằn và rắn rết.
Tất cả xúc chạm này,
Ðều chịu đựng vượt qua,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

53. Nāgo va yūthāni vivajjayitvā
sañjātakhandho padumī uḷāro,
yathābhirantaṃ vihare araññe
eko care khaggavisāṇakappo.

53. Tựa như con long tượng có thân hình khổng lồ, có đốm hoa sen, cao thượng, đã lìa bỏ các bầy đàn sống trong rừng theo như ý thích, nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

53. Như con voi to lớn,
Từ bỏ cả bầy đàn,
Thân thể được sanh ra,
To lớn tợ hoa sen,
Tùy theo sự thích thú,
Sống tại chỗ rừng núi,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

54. Aṭṭhānataṃ saṅgaṇikāratassa
yaṃ phassaye sāmayikaṃ vimuttiṃ,
ādiccabandhussa vaco nisamma
eko care khaggavisāṇakappo.

 

54. Người ưa thích sự tụ hội có thể chạm đến sự giải thoát tạm thời[1] là điều không có cơ sở. Sau khi cân nhắc lời nói của đấng quyến thuộc của mặt trời, nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

--------------------

[1] sāmayikaṃ vimuttinti lokiyasamāpattiṃ” (ApA. 182): “sự giải thoát tạm thời là sự thể nhập hiệp thế” (các tầng thiền và ngũ thông - ND).

 

54. Ai ưa thích hội chúng,
Sự kiện không xảy ra,
Người ấy có thể chứng,
Cảm thọ thời giải thoát.
Cân nhắc lời giảng dạy,
Ðấng bà con mặt trời,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

55. Diṭṭhīvisūkāni upātivatto
patto niyāmaṃ paṭiladdhamaggo,
uppannañāṇo ’mhi anaññaneyyo
eko care khaggavisāṇakappo.

55. (Nghĩ rằng): ‘Tôi đã vượt lên trên các sự trái khuấy của tà kiến,

đã đạt đến pháp không thối đọa, có đạo lộ đã được tiếp thâu,

có trí đã được sanh khởi, không cần người khác dẫn dắt,’

nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

 

55. Ðược giải thoát vượt khỏi,
Các tri kiến hý luận,
Ðạt được quyết định tánh,
Chứng đắc được con đường.
Nơi ta trí được sanh,
Không cần nhờ người khác,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

56. Nillolupo nikkuho nippipāso
nimmakkho niddhantakasāvamoho,
nirāsayo sabbaloke bhavitvā
eko care khaggavisāṇakappo.

56. Sau khi đã trở nên không còn tham muốn, không giả dối, không khao khát, không gièm pha, có các tật xấu và sự mê muội đã được loại trừ, không còn ước ao (tham vọng) về toàn thể thế giới, nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

56. Không tham, không lừa đảo,
Không khát dục, gièm pha,
Mọi si mê ác trược,
Ðược gạn sạch quạt sạch.
Trong tất cả thế giới,
Không tham ái ước vọng,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

57. Pāpasahāyaṃ parivajjayetha
anatthadassiṃ visame niviṭṭhaṃ,
sayaṃ na seve pasutaṃ pamattaṃ
eko care khaggavisāṇakappo.

57. Nên lánh xa hẳn bạn bè ác xấu,

kẻ không nhìn thấy mục đích, bị dấn sâu vào sở hành sai trái.

Không nên chính mình giao thiệp với kẻ cố chấp (tà kiến), bị xao lãng,

nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

 

57. Với bạn bè độc ác,
Hãy từ bỏ lánh xa,
Bạn không thấy mục đích,
Quen nếp sống quanh co,
Chớ tự mình thân cận,
Kẻ đam mê phóng dật,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

58. Bahussutaṃ dhammadharaṃ bhajetha
mittaṃ uḷāraṃ paṭibhānavantaṃ,
aññāya atthāni vineyya kaṅkhaṃ
eko care khaggavisāṇakappo.
 

58. Nên thân cận với vị nghe nhiều (học rộng), nắm giữ Giáo Pháp,

người bạn cao thượng, có biện tài.

Sau khi nhận biết các sự lợi ích, sau khi loại trừ điều nghi hoặc,

nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

 

58. Bậc nghe nhiều trì pháp,
Hãy gần gũi người ấy,
Bạn người tâm rộng lớn,
Người thông minh biện tài,
Biết điều không nên làm,
Nhiếp phục được nghi hoặc,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

59. Khiḍḍaṃ ratiṃ kāmasukhañca loke
analaṃkaritvā anapekkhamāno,
vibhūsanaṭṭhānā virato saccavādī
eko care khaggavisāṇakappo.
 

59. Người không chú trọng và không mong mỏi sự vui đùa, sự thích thú, và khoái lạc ngũ dục ở trên đời, đã xa lánh hẳn việc trang sức, có lời nói chân thật, nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

 

59. Mọi du hí vui đùa,
Và dục lạc ở đời,
Không điểm trang bày biện,
Không ước vọng mong cầu,
Từ bỏ mọi hào nhoáng,
Nói lên lời chân thật,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

60. Puttañca dāraṃ pitarañca mātaraṃ
dhanāni dhaññāni ca bandhavāni,
hitvāna kāmāni yathodhikāni
eko care khaggavisāṇakappo.
 

60. Sau khi từ bỏ con và vợ, cha và mẹ, các tài sản và lúa gạo, các quyến thuộc, và các dục theo như mức giới hạn (của chúng), nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

60. Với con và với vợ,
Với cha và với mẹ,
Tài sản cùng lúa gạo,
Những trói buộc bà con,
Hãy từ bỏ buộc ràng,
Các dục vọng như vậy,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

61. Saṅgo eso parittamettha sokhyaṃ
appassādo dukkhamettha bhiyyo,
gaḷo eso iti ñatvā mutīmā
eko care khaggavisāṇakappo.
 

61. Điều này (ngũ dục) là sự dính líu, hạnh phúc ở đây là nhỏ nhoi,

ít  khoái lạc, sự khổ đau ở đây là nhiều hơn.

Người có sự sáng suốt, sau khi biết được điều này là móc câu,

nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

61. Chúng đều là trói buộc,
Lạc thú thật nhỏ bé,
Vị ngọt thật ít oi,
Khổ đau lại nhiều hơn,
Chúng đều là câu móc,
Bậc trí biết như vậy,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

62. Sandāḷayitvāna saṃyojanāni
jālambhetvā salilambucārī,
aggīva daḍḍhaṃ anivattamano
eko care khaggavisāṇakappo.



 

62. Sau khi đã tự phá tan các mối ràng buộc,

tựa như loài thủy tộc đã phá tan chiếc lưới ở trong nước,

tựa như ngọn lửa không quay lại nơi đã bị đốt cháy,

nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

 

62. Hãy chặt đứt, bẻ gãy,
Các kiết sử trói buộc,
Như các loài thủy tộc,
Phá hoại các mạng lưới.
Như lửa đã cháy xong,
Không còn trở lui lại,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

63. Okkhittacakkhu na ca pādalolo
guttindriyo rakkhitamānasāno,
anavassuto apariḍayhamāno
eko care khaggavisāṇakappo.

63. Có mắt nhìn xuống và không buông thả ở bước chân đi,

có các căn được canh phòng, có tâm ý được gìn giữ,

không bị ngập tràn (dục vọng), không bị thiêu đốt (bởi phiền não),

nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

 

63. Với mắt cúi nhìn xuống,
Chân đi không lưu luyến,
Các căn được hộ trì,
Tâm ý khéo chế ngự.
Không đầy ứ, rỉ chảy,
Không cháy đỏ bừng lên,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

64. Ohārayitvā gihīvyañjanāni
sañchannapatto yathāpārichatto,
kāsāyavattho abhinikkhamitvā
eko care khaggavisāṇakappo.

64. Sau khi trút bỏ các hình tướng tại gia,

giống như cây san hô có lá được rũ bỏ,

sau khi đã ra đi, mặc y ca-sa,

nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

 

64. Hãy trút bỏ, để lại,
Các biểu tượng gia chủ,
Như loại cây san hô,
Loại bỏ các nhành lá.
Ðã đắp áo cà sa,
Xuất gia bỏ thế tục,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

65. Rasesu gedhaṃ akaraṃ alolo
anaññaposī sapadānacārī,
kule kule appaṭibaddhacitto
eko care khaggavisāṇakappo.

65. Không tạo sự tham đắm ở các vị nếm, không buông thả,

không nuôi dưỡng kẻ khác, đi khất thực theo tuần tự từng nhà,

có tâm không bị ràng buộc ở nhà này nhà nọ,

nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

 

65. Không tham đắm các vị,
Không tác động, không tham,
Không nhờ ai nuôi dưỡng,
Chỉ khất thực từng nhà.
Ðối với mọi gia đình,
Tâm không bị trói buộc,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

66. Pahāya pañcāvaraṇāni cetaso
upakkilese vyapanujja sabbe,
anissito chetvā snehadosaṃ
eko care khaggavisāṇakappo.

 

66. Sau khi dứt bỏ năm pháp che lấp của tâm,

sau khi xua đuổi hẳn tất cả các tùy phiền não,

không bị lệ thuộc (tà kiến), sau khi cắt đứt thương yêu và sân hận,

nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

66. Từ bỏ năm triền cái
Che đậy trói buộc tâm,
Ðối với mọi kiết sử,
Hãy trừ khử, dứt sạch,
Không y cứ nương tựa,
Chặt đứt ái sân hận,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

67. Vipiṭṭhikatvāna sukhaṃ dukhañca
pubbeva ca somanassadomanassaṃ,
laddhānupekkhaṃ samathaṃ visuddhaṃ
eko care khaggavisāṇakappo.

67. Sau khi đã bỏ lại sau lưng lạc và khổ,

cùng với hỷ và ưu ngay trước đây,

sau khi đạt được xả, sự vắng lặng (tứ thiền), và sự thanh tịnh (giải thoát),

nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

 

67. Hãy xoay lưng trở lại
Ðối với lạc và khổ,
Cả đối với hỷ ưu,
Ðược cảm thọ từ trước,
Hãy chứng cho được xả,
An chỉ và thanh tịnh;
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

68. Āraddhaviriyo paramatthapattiyā
alīnacitto akusītavutti,
daḷhanikkamo thāmakhalūpapanno
eko care khaggavisāṇakappo.

68. Có sự nỗ lực tinh tấn để đạt đến chân lý tuyệt đối,

có tâm không thụ động, có sự thực hành không biếng nhác,

có sự cố gắng bền bỉ, có được sức mạnh và năng lực,

nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

 

68. Tinh cần và tinh tấn,
Ðạt được lý chân đế,
Tâm không còn thụ động,
Không còn có biếng nhác,
Kiên trì trong cố gắng,
Dõng lực được sanh khởi,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

69. Paṭisallānaṃ jhānamariñcamāno
dhammesu niccaṃ anudhammacārī,
ādīnavaṃ sammasitā bhavesu
eko care khaggavisāṇakappo.

69. Trong khi không bỏ phế việc ẩn cư tham thiền,

là người thường xuyên thực hành thuận pháp đối với các pháp,[1]

là người nhận chân được sự bất lợi trong các hữu,

nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

---------------------

[1] Thực hành thuận pháp đối với các pháp (dhammesu anudhammacārī): thực hành pháp minh sát tùy thuận theo sự diễn biến của các pháp như là ngũ uẩn, v.v..., hoặc là hành tuần tự theo chín pháp siêu thế là bốn Đạo, bốn Quả, và Niết Bàn (SnA. i, 123).

 

69. Không từ bỏ độc cư,
Hạnh viễn ly thiền định,
Thường thường sống hành trì,
Tùy pháp trong các pháp.
Chơn chánh nhận thức rõ,
Nguy hiểm trong sanh hữu,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

70. Taṇhakkhayaṃ patthayaṃ appamatto
ānelamūgo sutavā satīmā,
saṅkhātadhammo niyato padhānavā
eko care khaggavisāṇakappo.

70. Trong khi ước nguyện sự đoạn diệt tham ái, không xao lãng,

không ngây ngô khờ khạo, có sự nghe nhiều, có niệm,

đã hiểu rõ Giáo Pháp, được quả quyết, có sự nỗ lực,

nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

 

70. Mong cầu đoạn diệt ái,
Sống hạnh không phóng dật,
Không đần độn câm ngọng,
Nghe nhiều, giữ chánh niệm.
Các pháp được giác sát,
Quyết định, chánh tinh cần.
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

71. Sīho va saddesu asantasanto
vāto va jālamhi asajjamāno,
padumaṃca toyena alippamāno
eko care khaggavisāṇakappo.

71. Tựa như con sư tử không kinh hãi đối với các tiếng động,

tựa như làn gió không bị dính mắc ở tấm lưới,

tựa như đóa sen không bị vấy bẩn bởi nước,

nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

 

71. Như sư tử, không động,
An tịnh giữa các tiếng,
Như gió không vướng mắc,
Khi thổi qua màn lưới.
Như hoa sen không dính,
Không bị nước thấm ướt,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

72. Sīho yathā dāṭhabalī pasayha
rājā migānaṃ abhibhuyyacārī,
sevetha pantāni senāsanāni
eko care khaggavisāṇakappo.
 

72. Tựa như con sư tử, có sức mạnh của các răng nanh, vua của các loài thú, có cuộc sống khuất phục và chế ngự (các con thú), nên lai vãng các trú xứ xa vắng, nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

72. Giống như con sư tử,
Với quai hà hùng mạnh,
Bậc chúa của loài thú,
Sống chinh phục chế ngự.
Hãy sống các trú xứ,
Nhàn tịnh và xa vắng,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

73. Mettaṃ upekkhaṃ karuṇaṃ vimuttiṃ
āsevamāno muditañca kāle,
sabbena lokena avirujjhamāno
eko care khaggavisāṇakappo.

73. Vào thời điểm đang rèn luyện từ, bi, hỷ, xả, và giải thoát, trong khi không bị tất cả thế gian gây trở ngại, nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

73. Từ tâm, sống trú xả,
Bi tâm, hạnh giải thoát,
Sống hành trì thực hiện,
Hỷ tâm, cho đúng thời,
Không chống đối va chạm,
Với một ai ở đời.
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

74. Rāgañca dosañca pahāya mohaṃ
sandāḷayitvāna saṃyojanāni,
asantasaṃ jīvitasaṅkhayamhi
eko care khaggavisāṇakappo.
 

74. Sau khi từ bỏ tham ái sân hận và si mê,

sau khi tự phá tan các mối ràng buộc,

người không kinh hãi về chặng cuối cùng của mạng sống,

nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

 

74. Ðoạn tận lòng tham ái,
Sân hận và si mê,
Chặt đứt và cắt đoạn,
Các kiết sử lớn nhỏ
Không có gì sợ hãi,
Khi mạng sống gần chung,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

75. Bhajanti sevanti ca kāraṇatthā
nikkāraṇā dullabhā ajja mittā,
attaṭṭhapaññā asuci manussā
eko care khaggavisāṇakappo.

75. Người ta thân cận và phục vụ có động cơ và chủ đích (lợi lộc),

ngày nay những người bạn không có động cơ (lợi lộc) là khó đạt được,

những người (chỉ) biết đến lợi ích của bản thân là người không trong sạch,

nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).

 

75. Có những bạn vì lợi,
Thân cận và chung sống,
Những bạn không mưu lợi,
Nay khó tìm ở đời.
Người sáng suốt lợi mình,
Không phải người trong sạch,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

 

 

Khagaggavisāṇasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

 

Dứt Kinh Sừng Tê Giác.

 

 

4. KASĪBHĀRADVĀJASUTTAṂ

 

 

4. KINH KASĪBHĀRADVĀJA

 

 

4. KINH BHĀRADVĀJA, NGƯỜI CÀY RUỘNG

 

Evaṃ me sutaṃ: Ekaṃ samayaṃ bhagavā magadhesu viharati dakkhiṇāgirismiṃ ekanāḷāyaṃ brāhmaṇagāme, tena kho pana samayena kasībhāradvājassa brāhmaṇassa pañcamattāni naṅgalasatāni payuttāni honti vappakāle.

 

Tôi đã nghe như vầy: Một thời đức Thế Tôn ngự ở xứ sở Magadha, tại vùng Dakkhiṇāgiri, trong ngôi làng của những người Bà-la-môn có tên là Ekanāḷā. Vào lúc bấy giờ, ở thời điểm gieo trồng, các lưỡi cày của Bà-la-môn Kasībhāradvāja[1] với số lượng năm trăm đã được buộc sẵn (vào ách).

--------------

[1] Bà-la-môn Kasībhāradvāja: người Bà-la-môn ấy sống bằng nghề trồng trọt (kasī) và họ của ông ấy là Bhāradvāja, vì thế được gọi tên như vậy (SnA. i, 137).

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Magadha, tại núi Dakkhinàgini, trong một làng Bà-la-môn tên Ekanàlà. Lúc bấy giờ, Bà-la-môn Kasibhàradvàja có khoảng năm trăm lưỡi cày sẵn sàng, vì là thời gieo mạ.

Atha kho bhagavā pubbanhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya yena kasībhāradvājassa brāhmaṇassa kammanto tenupasaṅkami. Tena kho pana samayena kasībhāradvājassa brāhmaṇassa parivesanā vattati. Atha kho bhagavā yena parivesanā tenupasaṅkami, upasaṅkamitvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Addasā kho kasībhāradvājo brāhmaṇo bhagavantaṃ piṇḍāya ṭhitaṃ. Disvāna bhagavantaṃ etadavoca:

Khi ấy, vào buổi sáng đức Thế Tôn đã quấn y (nội) rồi cầm bình bát và y đi đến nơi làm việc của Bà-la-môn Kasībhāradvāja. Vào lúc bấy giờ, việc phân phát thức ăn của Bà-la-môn Kasībhāradvāja đang được tiến hành. Khi ấy, đức Thế Tôn đã đi đến nơi phân phát thức ăn, sau khi đến đã đứng ở một bên. Bà-la-môn Kasībhāradvāja đã nhìn thấy đức Thế Tôn đang đứng khất thực, sau khi nhìn thấy đã nói với đức Thế Tôn điều này:

 

Rồi Thế Tôn, vào buổi sáng đắp y, cầm bát đi đến chỗ Bà-la-môn Kasibhàradvàja đang làm việc. Lúc bấy giờ Bà-la-môn Kasibhàradvàja đang phân phát đồ ăn. Rồi Thế Tôn đi đến chỗ phân phát đồ ăn, sau khi đến, Ngài đứng một bên, Bà-la-môn Kasibhàradvàja thấy Thế Tôn đang đứng một bên để khất thực, liền nói với Thế Tôn:

Ahaṃ kho samaṇa kasāmi ca vapāmi ca kasitvā ca vapitvā ca bhuñjāmi. Tvampi samaṇa kasassu ca vapassu ca kasitvā ca vapitvā ca bhuñjassūti.

"Này Sa-môn, tôi cày và tôi gieo hạt. Sau khi cày và sau khi gieo hạt, tôi ăn. Này Sa-môn, ông cũng hãy cày và hãy gieo hạt. Sau khi cày và sau khi gieo hạt, ông hãy ăn."

 

- Này Sa-môn, ta cày và ta gieo, sau khi cày, sau khi gieo, ta ăn. Và Sa-môn, hãy cày và gieo. Sau khi cày và gieo, hãy ăn!

Ahampi kho brāhmaṇa kasāmi ca vapāmi ca kasitvā ca vapitvā ca bhuñjāmīti.

"Này Bà-la-môn, Ta cũng cày và Ta cũng gieo hạt. Sau khi cày và sau khi gieo hạt, Ta ăn."

 

- Này Bà-la-môn, Ta cũng cày và cũng gieo. Sau khi cày và sau khi gieo, Ta ăn.

Na kho pana mayaṃ passāma gotamassa yugaṃ vā naṅgalaṃ vā phālaṃ vā pācanaṃ vā balivadde vā, atha ca pana bhavaṃ gotamo evamāha: Ahampi kho brāhmaṇa kasāmi ca vapāmi ca kasitvā ca vapitvā ca bhuñjāmīti.

"Nhưng chúng tôi không nhìn thấy cái ách, hoặc thân cày, hoặc lưỡi cày, hoặc gậy thúc hoặc các con bò đực của ngài Gotama. Và hơn nữa, ngài Gotama đã nói như vầy: ‘Này Bà-la-môn, Ta cũng cày và Ta cũng gieo hạt. Sau khi cày và sau khi gieo hạt, Ta ăn.’"   

 

- Nhưng chúng tôi không thấy cái ách, hay cái cày, hay lưỡi cày, hay gậy thúc trâu bò, hay các con bò đực của Tôn giả Gotama. Vậy mà Tôn giả Gotama nói: "Này Bà-la-môn, Ta có cày và Ta có gieo. Sau khi cày và sau khi gieo, Ta ăn ".

Atha kho kasībhāradvājo brāhmaṇo bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi:
 

Khi ấy, Bà-la-môn Kasībhāradvāja đã nói với đức Thế Tôn bằng lời kệ rằng:

Rồi Bà-la-môn Kasibhàradvàja nói lên với Thế Tôn bài kệ:

 

76. Kassako paṭijānāsi na ca passāma te kasiṃ,
kasiṃ no pucchito brūhi yathā jānemu te kasiṃ.
 

76. "Ông tự nhận là người đi cày, nhưng chúng tôi không nhìn thấy việc cày của ông. Được chúng tôi hỏi, ông hãy nói về việc cày sao cho chúng tôi có thế biết về việc cày của ông."

Bhàradvàja:

76. Người tự nhận Người cày,
Ta không thấy Người cày,
Hãy trả lời chúng tôi,
Ðã hỏi về Người cày,
Chúng tôi muốn rõ biết,
Người cày như thế nào?

77. Saddhā bījaṃ tapo vuṭṭhi paññā me yuganaṅgalaṃ,
hiri īsā mano yottaṃ sati me phālapācanaṃ.


 

77. "Đức tin là hạt giống, khắc khổ là cơn mưa, tuệ của Ta là ách và thân cày, liêm sỉ là cán cày, trí là sự buộc lại, niệm của Ta là lưỡi cày và gậy thúc.

Thế Tôn:

77. Lòng tin là hột giống,
Khổ hạnh là cơn mưa,
Trí tuệ đối với Ta
Là ách và lưỡi cày,
Xấu hổ là cán cày,
Ý là sợi dây buộc,
Và niệm đối với Ta
Là lưỡi cày, gậy thúc.

78. Kāyagutto vacīgutto āhāre udare yato,
saccaṃ karomi niddānaṃ soraccaṃ me pamocanaṃ.

78. Được gìn giữ ở thân, được gìn giữ ở khẩu, được tiết chế vật thực ở bao tử, Ta lấy sự chân thật làm vật bứng gốc (cỏ dại đối với thiện pháp); trạng thái hân hoan là sự giải thoát của Ta.

78. Với thân khéo phòng hộ,
Với lời khéo phòng hộ,
Với món ăn trong bụng,
Biết tiết độ, chế ngự,
Ta tác thành chơn thực,
Ðể cắt dọn cỏ rác,
Sự giải thoát của Ta
Thật hiền lành nhu thuận.

79. Viriyaṃ me dhuradhorayhaṃ yogakkhemādhivāhanaṃ,
gacchati anivattantaṃ yattha gantvā na socati.

79. Tinh tấn là (các con) thú mang gánh nặng, đưa đến nơi an toàn khỏi các (ách) trói buộc. Trong khi không quay trở lại, nó đi đến nơi nào mà người không sầu muộn sau khi đi đến.

79. Với tinh cần tinh tấn,
Ta gánh chịu trách nhiệm,
Ta tự mình đem lại
An ổn khỏi khổ ách.
Như vậy, Ta đi tới,
Không trở ngại thối lui,
Chỗ nào Ta đi tới,
Chỗ ấy không sầu muộn.

80. Evamesā kasīkaṭṭhā sā hoti amatapphalā,
etaṃ kasiṃ kayītvāna sabbadukkhā pamuccatīti.

Việc cày ấy đã được cày như vậy. Nó có kết quả là sự Bất Tử. Sau khi đã cày việc cày ấy, được thoát khỏi tất cả khổ đau."

80. Cày bừa là như vậy,
Ðược quả là bất tử,
Sau cày bừa như vậy,
Mọi khổ được giải thoát.

Atha kho kasībhāradvājo brāhmaṇo mahatiyā kaṃsapātiyā pāyāsaṃ vaḍḍhetvā bhagavato upanāmesi: Bhuñjatu bhavaṃ gotamo pāyāsaṃ; kassako bhavaṃ yaṃ hi bhavaṃ gotamo amataphalaṃ kasiṃ kasatīti.

Khi ấy, Bà-la-môn Kasībhāradvāja đã đặt đầy cơm sữa vào cái đĩa lớn bằng vàng rồi dâng đến đức Thế Tôn (nói rằng): “Ngài Gotama hãy ăn món cháo sữa. Ngài là người cày, bởi vì Ngài Gotama cày việc cày có kết quả là sự Bất Tử.”

 

Rồi Bà-la-môn Kasibhàradvàja lấy một bát bằng đồng lớn, cho đổ đầy với cháo sữa dâng đức Phật và thưa: - Thưa Tôn giả Gotama, hãy dùng cháo sữa, Tôn giả là người đi cày! Tôn giả Gotama đi cày quả bất tử!

81. Gāthābhigītaṃ me abhojaneyyaṃ
sampassataṃ brāhmaṇa nesadhammo,
gāthābhigītaṃ panudanti buddhā
dhamme satī brāhmaṇa vuttiresā.
 

81. "Vật nhận được sau khi ngâm nga kệ ngôn là không được thọ dụng bởi Ta. Này Bà-la-môn, điều ấy không phải là pháp của những bậc có nhận thức đúng đắn. Chư Phật khước từ vật nhận được sau khi ngâm nga kệ ngôn. Này Bà-la-môn, khi Giáo Pháp hiện hữu, điều ấy là cung cách thực hành.

Thế Tôn:

81. Ta không hưởng vật dụng,
Do tụng kệ đem lại,
Ðây không phải là pháp,
Của bậc có chánh kiến
Chư Phật đều bác bỏ,
Tụng hát các bài kệ,
Khi pháp có hiện hữu,
Truyền thống là như vậy.

82. Aññena ca kevalinaṃ mahesiṃ
khīṇāsavaṃ kukkucca vūpasantaṃ,
annena pānena upaṭṭhahassu
khettaṃ hi taṃ puññapekhassa hotīti.
 

82. Ngươi hãy cung ứng đến vị toàn hảo (đức hạnh), bậc đại ẩn sĩ có các lậu hoặc đã được cạn kiệt, có các trạng thái hối hận đã được lắng dịu, với cơm ăn nước uống khác, bởi vì đó chính là thửa ruộng của người mong mỏi phước báu.”

82. Hỡi này Bà-la-môn,
Người cần phải cúng dường,
Ðồ ăn vật uống khác,
Bậc đại sĩ toàn diện,
Ðã đoạn các lậu hoặc,
Ðã lắng dịu dao động,
Ta chính là thửa ruộng,
Cho những ai cầu phước
.

Atha kassa cāhaṃ bho gotama imaṃ pāyāsaṃ dammīti,

 

"Thưa Ngài Gotama, vậy tôi nên cho món cơm sữa này đến ai?"

 

- Vậy, thưa Tôn giả Gotama, con sẽ cho ai cháo sữa này?

Na khvāhaṃ taṃ brāhmaṇa passāmi sadevake loke samārake sabrahmake sassamaṇabrāhmaṇīyā pajāya sadevamanussāya yassa so pāyāso bhutto sammā pariṇāmaṃ gaccheyya aññatra tathāgatassa vā tathāgatasāvakassa vā, tena hi tvaṃ brāhmamaṇa taṃ pāyāsaṃ appaharite vā chaḍḍehi, appāṇake vā udake opilāpehīti,

 

“Này Bà-la-môn, ta không thấy người nào trong thế gian tính luôn cõi của chư Thiên, cõi Ma Vương, cõi Phạm Thiên, cho đến dòng dõi Sa-môn, Bà-la-môn, các hạng chư Thiên và loài người mà cơm sữa ấy khi được người ấy ăn vào có thể đem lại sự tiêu hóa tốt đẹp, ngoại trừ đức Như Lai hay đệ tử của đức Như Lai. Này Bà-la-môn, chính vì điều ấy ngươi hãy đổ bỏ cơm sữa ấy ở nơi không có cỏ xanh hoặc đổ xuống nước không có sinh vật.”

 

- Này Bà-la-môn, Ta không thấy ai ở thế giới, với chư Thiên, chư Ma, chư Phạm thiên, hay trên đời này với quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, với chư Thiên và loài Người, có thể sau khi ăn, tiêu hóa được món cháo sữa này, trừ Như Lai hay đệ tử của Như Lai. Vậy, này Bà-la-môn, Ông hãy đổ cháo sữa này trên chỗ không có cỏ xanh, hay nhận chìm trong nước không có sinh vật.

 

Atha kho kasībhāradvājo brāhmaṇo taṃ pāyāsaṃ appāṇake udake opilāpesī. Atha kho so pāyāso udake pakkhitto cicciṭāyati ciṭiciṭāyati sandhūpāyati sampadhūpāyati, seyyathāpi nāma phālo divasasantatto udake pakkhitto cicciṭāyati ciṭiciṭāyati sandhupāyati sampadhūpāyati, evameva so pāyāso udake pakkhitto cicciṭāyati ciṭiciṭāyati sandhūpāyati sampadhūpāyati.
 

Rồi Bà-la-môn Kasībhāradvāja đã đổ cơm sữa ấy xuống nước không có sinh vật. Khi ấy, cơm sữa ấy khi được đổ vào trong nước liền sủi bọt xì xèo, bốc hơi, và tỏa khói. Cũng giống như lưỡi cày đã được nung đỏ trọn ngày khi được bỏ vào trong nước liền sủi bọt xì xèo, bốc hơi, và tỏa khói; tương tợ y như thế, cơm sữa ấy khi được đổ vào trong nước liền sủi bọt xì xèo, bốc hơi, và tỏa khói.

Rồi Bà-la-môn Kasibhàradvàja đem nhận chìm cháo sữa ấy vào nước không có sinh vật. Cháo sữa ấy khi bị đổ xuống nước, nó sôi lên, sôi lên sùng sục, nó phun khói, nó bốc khói lên. Ví như một lưỡi cày, phơi cả ngày dưới ánh nắng, được đem quăng xuống nước, lưỡi cày ấy sôi lên sùng sục, nó phun khói, nó bốc khói lên. Cũng vậy, cháo sữa ấy, khi bị đổ xuống nước, nó sôi lên, sôi lên sùng sục, nó phun khói, nó bốc khói lên.

Atha kho kasībhāradvājo brāhmaṇo saṃviggo lomahaṭṭhajāto
yena bhagavā tenupasaṅkami upasaṅkamitvā bhagavato pādesu sirasā nipatitvā bhagavantaṃ etadavoca:

Khi ấy, Bà-la-môn Kasībhāradvāja trở nên hoảng hốt, lông dựng đứng lên, rồi đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã quỳ xuống đê đầu đảnh lễ hai bàn chân của đức Thế Tôn rồi đã nói điều này:

 

Rồi Bà-la-môn Kasibhàradvàja hoảng hốt, rợn tóc gáy, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn, và bạch Thế Tôn:

Abhikkantaṃ bho gotama abhikkantaṃ bho gotama seyyathāpi bho gotama nikkujjitaṃ vā ukkujjeyya paṭicchannaṃ vā vivareyya mūḷhassa vā maggaṃ ācikkheyya andhakāre vā telapajjotaṃ dhāreyya cakkhumanto rūpāni dakkhintīti, evamevaṃ bhotā gotamena anekapariyāyena dhammo pakāsito esāhaṃ bhavantaṃ gotamaṃ saraṇaṃ gacchāmi dhammañca bhikkhusaṅghañca, labheyyāhaṃ bhoto gotamassa santike pabbajjaṃ, labheyyaṃ upasampadanti.
 

“Thưa Ngài Gotama, thật là tuyệt vời! Thưa Ngài Gotama, thật là tuyệt vời! Thưa Ngài Gotama, giống như người có thể lật ngửa vật đã được úp lại, hoặc mở ra vật đã bị che kín, hoặc chỉ đường cho kẻ lạc lối, hoặc đem lại cây đèn dầu nơi bóng tối (nghĩ rằng): ‘Những người có mắt sẽ nhìn thấy được các hình dáng;’ tương tự như thế Pháp đã được Ngài Gotama giảng rõ bằng nhiều phương tiện. Con đây xin đi đến nương nhờ Ngài Gotama, Giáo Pháp, và Tăng Chúng tỳ khưu. Con có thể xuất gia trong sự hiện diện của Ngài Gotama không? Con có thể tu lên bậc trên không?”

 

- Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama! Ví như, thưa Tôn giả Gotama, một người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, mở toang ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ đi lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối, để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, pháp được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện trình bày. Con xin qui y Tôn giả Gotama, qui y Pháp, qui y chúng Tỷ-kheo. Mong rằng con được xuất gia với Tôn giả Gotama, được thọ đại giới.

 

Alattha kho kasībhāradvājo brāhmaṇo bhagavato santike pabbajjaṃ alattha upasampadaṃ, acirūpasampanno kho panāyasmā bhāradvājo eko vūpakaṭṭho appamatto ātāpī pahitatto viharanto na cirasseva yassatthāya kulaputtā sammadeva agārasmā anagāriyaṃ pabbajanti tadanuttaraṃ brahmacariyapariyosānaṃ diṭṭheva dhamme sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja vihāsi. Khīṇā jāti vusitaṃ brahmacariyaṃ kataṃ karaṇīyaṃ nāparaṃ itthattāyāti abbhaññāsi aññataro ca kho panāyasmā bhāradvājo arahataṃ ahosīti.
 

Sau đó, Bà-la-môn Kasībhāradvāja đã đạt được sự xuất gia trong sự hiện diện của đức Thế Tôn, đã đạt được sự tu lên bậc trên. Và khi đã được tu lên bậc trên không bao lâu, đại đức Bhāradvāja một mình đã tách riêng, rồi trong khi sống không bị xao lãng, có nhiệt tâm, có bản tánh cương quyết nên chẳng bao lâu sau, ngay trong kiếp hiện tại, nhờ vào thắng trí của mình, đã chứng ngộ, đã đạt đến, và an trú vào mục đích tối thượng ấy của Phạm hạnh, vì mục đích này mà những người con trai của các gia đình cao quý rời nhà xuất gia một cách chân chánh sống không nhà. Vị ấy đã biết rõ rằng: “Sự tái sanh đã cạn kiệt, Phạm hạnh đã sống, việc cần làm đã làm, không còn gì khác (phải làm) đối với bản thể (A-la-hán) này nữa.” Và thêm một vị nữa là đại đức Bhāradvāja đã trở thành vị A-la-hán.

 

Rồi Bà-la-môn Kasibhàradvàja được xuất gia với Sa-môn Gotama, được thọ đại giới. Thọ đại giới không bao lâu, Tôn giả Bhàradvàja sống một mình, viễn ly, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. Không bao lâu, do vì mục đích gì, bậc thiên nam tử chơn chánh xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, vị ấy ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt và an trú cứu cánh Phạm hạnh ấy. Vị ấy thắng tri: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa ". Tôn giả Bhàradvàja trở thành một vị A-la-hán.

 

 

Kasībhāradvājasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

 

Dứt Kinh Kasībhāradvāja.

 

 
   
 

5. CUNDASUTTAṂ

 

 

5. KINH CUNDA

 

 

5. KINH CUNDA

83. Pucchāmi muniṃ pahūtapaññaṃ (iti cundo kammāraputto)
buddhaṃ dhammassāmiṃ vītataṇhaṃ,
dipaduttamaṃ sārathinaṃ pavaraṃ
kati loke samaṇā tadiṅgha brūhi.

83. (Cunda, con trai người thợ rèn nói):

“Con hỏi bậc Hiền Trí, vị có tuệ bao la,

đức Phật, đấng Pháp chủ, có tham ái đã được xa lìa,

bậc tối thượng của loài người, vị quý cao trong số các xa phu rằng:

Ở thế gian có bao nhiêu hạng Sa-môn? Nào, xin Ngài hãy nói điều ấy.”

 

83. Người thợ rèn Cunda,
Nói lên lời như sau:
Con hỏi bậc Ðại sĩ,
Bậc trí tuệ rộng lớn,
Ðấng Giác ngộ, Pháp chủ,
Ðã đoạn tận khát ái,
Bậc tối thượng hai chân,
Bậc đánh xe tối thắng,
Xin Ngài nói ở đời,
Có bao nhiêu Sa-môn?

84. Caturo samaṇā na pañcamatthī (cundāti bhagavā)
te te āvikaromi sakkhipuṭṭho,
maggajino maggadesako ca
magge jīvati yo ca maggadūsi.
 

84. (Đức Phật nói: “Này Cunda,)

có bốn hạng Sa-môn, không có hạng thứ năm.

Được hỏi trực diện, Ta nói rõ các hạng ấy cho ngươi:

Hạng chiến thắng Đạo Lộ, và hạng thuyết giảng Đạo Lộ,

hạng sống theo Đạo Lộ, và hạng làm ô uế Đạo Lộ.”

 

Thế Tôn:

84. Chỉ có bốn Sa-môn,
Không có hạng thứ năm,
Thế Tôn đáp Cunda,
Này Cunda, là vậy.
Ta tỏ bày cho Ông,
Ðược hỏi điều tự thấy,
Bậc chiến thắng con đường,
Bậc thuyết giảng con đường,
Bậc sống trên con đường,
Kẻ làm ô uế đạo.

85. Kaṃ maggajinaṃ vadanti buddhā (iti cundo kammāraputto)
maggakkhāyī kathaṃ atulyo hoti,
magge jīvati me brūhi puṭṭho
atha me āvikarohi maggadūsiṃ.
 

85. (Cunda, con trai người thợ rèn nói):

“Chư Phật nói gì về hạng chiến thắng Đạo Lộ,

bậc thuyết giảng Đạo Lộ là vô song nghĩa là thế nào?

Được hỏi xin Ngài hãy nói cho con về hạng sống theo Đạo Lộ,

rồi xin Ngài hãy nói cho con rõ về hạng làm ô uế Đạo Lộ.”

Cunda:

85. Người thợ rèn Cunda,
Liền bạch với Thế Tôn:
Chư Phật nói thế nào,
Bậc chiến thắng con đường,
Bậc thiền định con đường,
Sao gọi không ước lường?
Con hỏi xin trả lời,
Vị sống đúng con đường?
Xin trình bày cho con,
Kẻ làm đường ô uế.

86. Yo tiṇṇakathaṃkatho visallo
nibbānābhirato anānugiddho,
lokassa sadevakassa netā
tādiṃ maggajinaṃ vadanti buddhā.
 

86. “Ai đã vượt qua sự nghi ngờ, không còn mũi tên,

thỏa thích Niết Bàn, không còn thèm muốn,

vị hướng đạo của thế gian luôn cả chư Thiên,

chư Phật nói vị như thế ấy là hạng chiến thắng Đạo Lộ.

Thế Tôn:

86. Ai vượt khỏi nghi hoặc,
Vị thoát khỏi mũi tên,
Ưa thích cảnh Niết-bàn,
Không tham đắm vật gì,
Bậc lãnh đạo thế giới,
Chư Thiên và loài Người,
Chư Phật gọi vị ấy,
Bậc chiến thắng con đường.

87. Paramaṃ paramanti yodha ñatvā
akkhāti vibhajati idheva dhammaṃ,
taṃ kaṅkhacchidaṃ muniṃ anejaṃ
dutiyaṃ bhikkhūkamāhu maggadesiṃ.

87. Ở đây, ai biết được tối thượng (Niết Bàn) là tối thượng,

vị nói lên và phân tích Giáo Pháp ở ngay đây,

vị ấy là bậc hiền trí, cắt đứt nỗi hoài nghi, không còn dục vọng,

người ta đã gọi vị tỳ khưu thứ nhì là hạng thuyết giảng Đạo Lộ.

87. Ai ở đời biết được,
Pháp tối thượng, tối thượng,
Nói lên và phân tích,
Pháp ở đây là vậy.
Vị chặt đứt nghi hoặc,
Bậc ẩn sĩ, không dục,
Bậc Tỷ-kheo thứ hai
Ðược gọi thuyết con đường.

88. Yo dhammapade sudesite
magge jīvati saññato satīmā,
anavajjapadāni sevamāno
tatiyaṃ bhikkhunamāhu maggajīviṃ.
 

88. Khi nền tảng Giáo Pháp đã khéo được thuyết giảng, vị nào

sống theo Đạo Lộ, tự chế ngự, có niệm,

đang thân cận các pháp không có tính chất tội lỗi,

người ta đã gọi vị tỳ khưu thứ ba là hạng sống theo Đạo Lộ.

88. Ai sống trên con đường,
Con đường pháp khéo giảng,
Sống chế ngự chánh niệm,
Bước đường không lỗi lầm,
Tỷ-kheo thứ ba này
Ðược gọi sống trên đường.

89. Chadanaṃ katvāna subbatānaṃ
pakkhandi kuladūsako pagabbho,
māyāvī asaññato palāpo
patirūpena caraṃ sa maggadūsī.
 

89. Sau khi đã cải trang ở giữa những vị có sự hành trì tốt đẹp,

kẻ xông xáo, kẻ làm hư hỏng các gia đình, xấc xược,

xảo quyệt, không tự chế ngự, loại vỏ trấu,

sống trá hình, kẻ ấy là hạng làm nhơ Đạo Lộ.

89. Ai sống ưa che đậy,
Dưới hình thức giới cấm,
Xông xáo, nhớp gia đình,
Bạt mạng và man trá,
Không chế ngự nhiếp phục,
Sống lắm mồm lắm miệng.
Người sở hành như vậy
Là kẻ ô uế đạo.

90. Ete ca paṭivijjhi yo gahaṭṭho
sutavā ariyasāvako sapañño,
sabbe te tādisāti ñatvā
iti disvā na hāpeti tassa saddhā,
kathaṃ hi duṭṭhena asampaduṭṭhaṃ
suddhaṃ asuddhena samaṃ kareyyāti.



 

90. Và người tại gia nào đã thấu hiểu những hạng này,

là đệ tử các bậc Thánh, có sự nghe nhiều, có tuệ,

sau khi biết rằng: ‘Tất cả các hạng ấy là như thế ấy,’

sau khi nhìn thấy như thế, không làm suy giảm niềm tin của người ấy,

bởi vì làm thế nào vị không hư hỏng với kẻ xấu xa,

vị trong sạch với kẻ không trong sạch lại có thể xem như nhau?”

90. Vị cư sĩ thâm hiểu
Các hạng người như vậy,
Thánh đệ tử, nghe nhiều,
Có trí tuệ thông hiểu,
Sau khi rõ biết chúng,
Tất cả là như vậy.
Thấy vậy, vững lòng tin,
Không có bị sút giảm
Làm sao lại lẫn lộn,
Kẻ ác với người thiện,
Làm sao xem giống nhau,
Bậc tịnh, kẻ không tịnh.

 

Cundasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

 

Dứt Kinh Cunda.

 

 

 

6. PARĀBHAVASUTTAṂ

 

 

6. KINH THOÁI HÓA

 

 

6. KINH BẠI VONG

Evaṃ me sutaṃ: Ekaṃ samayaṃ bhagavā savatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Atha kho aññatarā devatā abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇā kevalakappaṃ jetavanaṃ obhāsetvā yena bhagavā tenupasaṅkami. Upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ ṭhitā kho sā devatā bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi.

Tôi đã nghe như vầy: Một thời đức Thế Tôn ngự tại Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Khi ấy, lúc đêm đã khuya, một vị Thiên nhân nọ với màu sắc vượt trội đã làm cho toàn bộ Jetavana rực sáng rồi đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi đứng ở một bên. Đứng ở một bên, vị Thiên nhân ấy đã bạch với đức Thế Tôn bằng lời kệ rằng:

 

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Rồi một Thiên nhơn, sau khi đêm gần mãn, với dung sắc thù thắng, chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Ðứng một bên, Thiên nhân ấy bạch Thế Tôn với những bài kệ:

91. Parābhavantaṃ purisaṃ mayaṃ pucchāma gotamaṃ,
bhagavantaṃ puṭṭhumāgamma kiṃ parābhavato mukhaṃ.

91. “Chúng tôi đi đến để hỏi đức Thế Tôn, chúng tôi hỏi Gotama về hạng người thoái hóa: ‘Tiền đề của hạng người thoái hóa là gì?’”

Thiên nhân:

91. Về bại vong con người,
Con hỏi Gotama,
Con đến hỏi Thế Tôn,
Cửa vào của bại vong?

92. Suvijāno bhavaṃ hoti suvijāno parābhavo,
dhammakāmo bhavaṃ hoti dhammadessī parābhavo.

92. “Thật dễ nhận biết (thế nào) là người tiến hóa, thật dễ nhận biết (thế nào) là người thoái hóa. Người có sự mong muốn Giáo Pháp là người tiến hóa, người có sự ghét bỏ Giáo Pháp là người thoái hóa.”

Thế Tôn:

92. Thật dễ hiểu thành công,
Thật dễ hiểu bại vong,
Ưa mến pháp, thành công,
Thù ghét pháp bại vong.

93. Iti hetaṃ vijānāma paṭhamo so parābhavo,
dutiyaṃ bhagavā brūhi kiṃ parābhavato mukhaṃ.

93. “Chúng tôi nhận biết điều này y như vậy (theo lời Ngài dạy), người thoái hóa ấy là hạng thứ nhất. Xin đức Thế Tôn hãy nói về tiền đề thứ nhì của hạng người thoái hóa là gì?”

Thiên nhân:

93. Như vậy, chúng con rõ,
Thứ nhất về bại vong,
Thứ hai, mong Ngài nói,
Cửa vào của bại vong?

94. Asantassa piyā honti sante na kurute piyaṃ,
asataṃ dhammaṃ roceti taṃ parābhavato mukhaṃ.
 

94. “Người này yêu mến những kẻ không tốt, không tỏ sự yêu mến những bậc tốt lành, thích thú pháp của những kẻ không tốt, việc ấy là tiền đề của hạng người thoái hóa.”

Thế Tôn:

94. Ai mến kẻ bất thiện,
Không ái luyến bậc thiện,
Thích pháp kẻ bất thiện,
Chính cửa vào bại vong
.

95. Iti hetaṃ vijānāma dutiyo so parābhavo,
tatiyaṃ bhagavā brūhi kiṃ parābhavato mukhaṃ.

 

95. “Chúng tôi nhận biết điều này y như vậy (theo lời Ngài dạy), người thoái hóa ấy là hạng thứ nhì. Xin đức Thế Tôn hãy nói về tiền đề thứ ba của hạng người thoái hóa là gì?”

Thiên nhân:

95. Như vậy, chúng con rõ,
Thứ hai về bại vong,
Thứ ba, mong Ngài nói,
Cửa vào của bại vong?

96. Niddāsīlī sabhāsīlī anuṭṭhātā ca yo naro,
alaso kodhapaññāṇo taṃ parābhavato mukhaṃ.

96. "Người có bản tánh ưa ngủ, có bản tánh ưa tụ hội, không năng động, lười biếng, có biểu hiện giận dữ, việc ấy là tiền đề của hạng người thoái hóa.”

Thế Tôn:

96. Người tánh ưa thích ngủ,
Thích hội chúng, thụ động,
Biếng nhác, thường phẫn nộ,
Chính cửa vào bại vong.

97. Iti hetaṃ vijānāma tatiyo so parābhavo,
catutthaṃ bhagavā brūhi kiṃ parābhavato mukhaṃ.

97. “Chúng tôi nhận biết điều này y như vậy (theo lời Ngài dạy), người thoái hóa ấy là hạng thứ ba. Xin đức Thế Tôn hãy nói về tiền đề thứ tư của hạng người thoái hóa là gì?”

Thiên nhân:

97. Như vậy, chúng con rõ,
Thứ ba về bại vong.
Thứ tư, mong Ngài nói,
Cửa vào của bại vong?

98. Yo mātaraṃ vā pitaraṃ vā jiṇṇakaṃ gatayobbanaṃ,
pahū santo na bharati taṃ parābhavato mukhaṃ.

98. “Người trong khi có khả năng mà không phụng dưỡng mẹ hoặc cha già nua, đã qua thời tuổi trẻ, việc ấy là tiền đề của hạng người thoái hóa.”

Thế Tôn:

98. Ai với mẹ hay cha,
Già yếu, tuổi trẻ hết,
Tuy giàu không giúp đỡ,
Chính cửa vào bại vong
.

99. Iti hetaṃ vijānāma catuttho so parābhavo,
pañcamaṃ bhagavā brūhi kiṃ parābhavato mukhaṃ.

99. “Chúng tôi nhận biết điều này y như vậy (theo lời Ngài dạy), người thoái hóa ấy là hạng thứ tư. Xin đức Thế Tôn hãy nói về tiền đề thứ năm của hạng người thoái hóa là gì?”

Thiên nhân:

99. Như vậy, chúng con rõ,
Thứ tư về bại vong.
Thứ năm, mong Ngài nói,
Cửa vào của bại vong?

100. Yo brāhmaṇaṃ vā samaṇaṃ vā aññaṃ vāpi vaṇibbakaṃ,
musāvādena vañceti taṃ parābhavato mukhaṃ.

100. “Người lừa gạt vị Bà-la-môn hoặc vị Sa-môn, hoặc luôn cả người nghèo khổ bằng lời dối trá, việc ấy là tiền đề của hạng người thoái hóa.”

Thế Tôn:

100. Ai nói dối lường gạt,
Sa-môn, Bà-la-môn,
Hay các khất sĩ khác,
Chính cửa vào bại vong.

101. Iti hetaṃ vijānāma pañcamo so parābhavo,
chaṭṭhamaṃ bhagavā brūhi kiṃ parābhavato mukhaṃ.

101. “Chúng tôi nhận biết điều này y như vậy (theo lời Ngài dạy), người thoái hóa ấy là hạng thứ năm. Xin đức Thế Tôn hãy nói về tiền đề thứ sáu của hạng người thoái hóa là gì?”

Thiên nhân:

101. Như vậy, chúng con rõ,
Thứ năm về bại vong.
Thứ sáu, mong Ngài nói,
Cửa vào của bại vong?

102. Pahūtavitto puriso sahirañño sabhojano,
eko bhuñjati sādūni taṃ parābhavato mukhaṃ.

102. “Người có nhiều của cải, có vàng, có thức ăn, mà thọ dụng các vật ngon ngọt một mình, việc ấy là tiền đề của hạng người thoái hóa.”

Thế Tôn:

102. Người giàu có tài sản,
Có vàng bạc thực vật,
Hương vị ngọt một mình,
Chính cửa vào bại vong.

103. Iti hetaṃ vijānāma chaṭaṭṭhamo so parābhavo,
sattamaṃ bhagavā brūhi kiṃ parābhavato mukhaṃ.

103. “Chúng tôi nhận biết điều này y như vậy (theo lời Ngài dạy), người thoái hóa ấy là hạng thứ sáu. Xin đức Thế Tôn hãy nói về tiền đề thứ bảy của hạng người thoái hóa là gì?”

Thiên nhân:

103. Như vậy, chúng con rõ
Thứ sáu về bại vong.
Thứ bảy, mong Ngài nói,
Cửa vào của bại vong?

104. Jātitthaddho dhanatthaddho gottatthaddho ca yo naro,
saññātiṃ atimaññeti taṃ parābhavato mukhaṃ.

104. “Người kiêu hãnh về chủng tộc, kiêu hãnh về tài sản, kiêu hãnh về dòng họ rồi khinh khi thân quyến của mình, việc ấy là tiền đề của hạng người thoái hóa.”

Thế Tôn:

104. Người tự hào về sanh,
Về tài sản dòng họ,
Khinh miệt các bà con,
Chính cửa vào bại vong
.

105. Iti hetaṃ vijānāma sattamo so parābhavo,
aṭṭhamaṃ bhagavā brūhi kiṃ parābhavato mukhaṃ.


 

105. “Chúng tôi nhận biết điều này y như vậy (theo lời Ngài dạy), người thoái hóa ấy là hạng thứ bảy. Xin đức Thế Tôn hãy nói về tiền đề thứ tám của hạng người thoái hóa là gì?”

Thiên nhân:

105. Như vậy, chúng con rõ,
Thứ bảy về bại vong,
Thứ tám, mong Ngài nói,
Cửa vào của bại vong?

106. Itthidhutto surādhutto akkhadhutto ca yo naro,
laddhaṃ laddhaṃ vināseti taṃ parābhavato mukhaṃ.

106. “Người đắm say đàn bà, đắm say rượu chè, đắm say cờ bạc, tiêu phí mọi thứ thu nhập, việc ấy là tiền đề của hạng người thoái hóa.”

Thế Tôn:

106. Người đắm say nữ nhân,
Ðắm say rượu, cờ bạc,
Hoang phí mọi lợi đắc,
Chính cửa vào bại vong
.

107. Iti hetaṃ vijānāma aṭṭhamo so parābhavo,
navamaṃ bhagavā brūhi kiṃ parābhavato mukhaṃ.

107. “Chúng tôi nhận biết điều này y như vậy (theo lời Ngài dạy), người thoái hóa ấy là hạng thứ tám. Xin đức Thế Tôn hãy nói về tiền đề thứ chín của hạng người thoái hóa là gì?”

Thiên nhân:

107. Như vậy, chúng con rõ,
Thứ tám về bại vong.
Thứ chín, mong Ngài nói,
Cửa vào của bại vong?

108. Sehi dārehasantuṭṭho vesiyāsu padissati,
dissati paradāresu taṃ parābhavato mukhaṃ.

“Không vui thích với những người vợ của mình, xuất hiện nơi những gái điếm, được thấy ở những người vợ kẻ khác, việc ấy là tiền đề của hạng người thoái hóa.”

Thế Tôn:

108. Không vừa đủ vợ mình,
Ðược thấy giữa dâm nữ,
Ðược thấy với vợ người,
Chính cửa vào bại vong.

109. Iti hetaṃ vijānāma navamo so parābhavo,
dasamaṃ bhagavā brūhi kiṃ parābhavato mukhaṃ.

109. “Chúng tôi nhận biết điều này y như vậy (theo lời Ngài dạy), người thoái hóa ấy là hạng thứ chín. Xin đức Thế Tôn hãy nói về tiền đề thứ mười của hạng người thoái hóa là gì?”

 

Thiên nhân:

109. Như vậy, chúng con rõ,
Thứ chín về bại vong.
Thứ mười, mong Ngài nói,
Cửa vào của bại vong?

110. Atītayobbano poso āneti timbarutthaniṃ,
tassā issā na supati taṃ parābhavato mukhaṃ.

110. “Người nam đã qua thời tuổi trẻ cưới về cô gái có ngực như trái cây timbaru. Gã không ngủ được do ghen tỵ với nàng, việc ấy là tiền đề của hạng người thoái hóa.”

 

Thế Tôn:

110. Người tuổi trẻ đã qua,
Cưới cô vợ vú tròn,
Ghen nàng không ngủ được,
Chính cửa vào bại vong.

111. Iti hetaṃ vijānāma dasamo so parābhavo,
ekādasamaṃ bhagavā brūhi kiṃ parābhavato mukhaṃ.

111. “Chúng tôi nhận biết điều này y như vậy (theo lời Ngài dạy), kẻ thoái hóa ấy là hạng thứ mười. Xin đức Thế Tôn hãy nói về tiền đề thứ mười một của hạng người thoái hóa là gì?”

 

Thiên nhân:

111. Như vậy, chúng con rõ,
Thứ mười về bại vong.
Thứ mười một, xin nói,
Cửa vào của bại vong?

112. Itthisoṇḍiṃ vikiraṇiṃ purisaṃ vāpi tādisaṃ,
issariyasmiṃ ṭhāpeti taṃ parābhavato mukhaṃ.

112. “Kẻ thiết lập nữ nhân tham đắm, hoang phí, hoặc ngay cả nam nhân có cùng cá tánh vào vị thế uy quyền, việc ấy là tiền đề của hạng người thoái hóa.”

Thế Tôn:

112. Ðàn bà, hay đàn ông,
Rượu chè, tiêu hoang phí,
Ðược địa vị quyền thế,
Chính cửa vào bại vong.

113. Iti hetaṃ vijānāma ekādasamo so parābhavo,
dvādasamaṃ bhagavā brūhi kiṃ parābhavato mukhaṃ.

113. “Chúng tôi nhận biết điều này y như vậy (theo lời Ngài dạy), kẻ thoái hóa ấy là hạng thứ mười một. Xin đức Thế Tôn hãy nói về tiền đề thứ mười hai của hạng người thoái hóa là gì?”

 

Thiên nhân:

113. Như vậy, chúng con biết,
Thứ mười một bại vong.
Thứ mười hai, xin nói,
Cửa vào của bại vong?

114. Appabhogo mahātaṇho khattiye jāyate kule,
sodha rajjaṃ patthayati taṃ parābhavato mukhaṃ.
 

114. “Sanh ra ở gia tộc Sát-đế-lỵ, có ít của cải, có tham vọng lớn, kẻ ấy ước muốn quyền cai trị ở nơi này, việc ấy là tiền đề của hạng người thoái hóa.

Thế Tôn:

114. Tài sản ít, ái lớn,
Sanh gia đình hoàng tộc,
Ở đây muốn trị vì,
Chính cửa vào bại vong.

115. Ete parābhave loke paṇḍito samavekkhiya,
ariyo dassanasampanno sa lokaṃ bhajate sivanti.


 

115. Bậc sáng trí, sau khi xem xét kỹ lưỡng các hạng người thoái hóa này ở thế gian, bậc thánh thiện ấy, đầy đủ nhận thức, thân cận với thế giới hạnh phúc (cõi trời).”  

 

115. Bại vong này ở đời,
Bậc trí khéo quán sát,
Ðầy đủ với chánh kiến,
Sống hạnh phúc ở đời.

 

 

Parābhavasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

 

Dứt Kinh Thoái Hóa.

 

 
   

 

7. VASALASUTTAṂ

 

 

7. KINH NGƯỜI HẠ TIỆN

 

 

7. KINH KẺ BẦN TIỆN

 

Evaṃ me sutaṃ: Ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme, atha kho bhagavā pubbanhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaraṃ ādāya sāvatthiyaṃ piṇḍāya pāvisi. Tena kho pana samayena aggikabhāradvājassa brāhmaṇassa nivesane aggi pajjalito hoti āhuti paggahitā. Atha kho bhagavā sāvatthiyaṃ sapadānaṃ piṇḍāya caramāno yena aggikabhāradvājassa brāhmaṇassa nivesanaṃ tenupasaṅkami. Addasā kho aggikabhāradvājo brāhmaṇo bhagavantaṃ dūrato’va āgacchantaṃ, disvāna bhagavantaṃ etadavoca:

Tôi đã nghe như vầy: Một thời đức Thế Tôn ngự tại Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Khi ấy vào buổi sáng, đức Thế Tôn đã quấn y (nội) rồi cầm bình bát và y đi vào thành Sāvatthi để khất thực. Vào lúc bấy giờ, ở chỗ ngụ của Bà-la-môn Aggikabhāradvāja lửa đã được đốt lên, vật cúng tế đã được đưa lên. Khi ấy, đức Thế Tôn trong khi đi khất thực tuần tự theo từng nhà ở thành Sāvatthi đã đi đến gần chỗ ngụ của Bà-la-môn Aggika-bhāradvāja. Bà-la-môn Aggikabhāradvāja đã nhìn thấy đức Thế Tôn từ đằng xa đang đi đến, sau khi thấy đã nói đức Thế Tôn điều này:

 

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Sàvathi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Rồi Thế Tôn vào buổi sáng, đắp y, cầm y bát, đi vào Sàvatthi để khất thực. Lúc bấy giờ, tại trú xứ của Bà-la-môn Aggikabhàradvàja, lửa tế lễ được đốt cháy, đồ cúng dường được dâng cao. Rồi Thế Tôn, trong khi thứ lớp khất thực ở Sàvatthi, đi đến trú xứ của Bà-la-môn Aggibhàradvàja. Bà-la-môn Aggibhàradvàja thấy Thế Tôn từ xa đi đến, thấy vậy bèn nói với Thế Tôn:

Tatreva muṇḍaka tatreva samaṇaka tatreva vasalaka tiṭṭhāhīti.

“Này gã trọc đầu, ngay tại chỗ đó. Này gã Sa-môn, ngay tại chỗ đó. Này người hạ tiện, hãy đứng ngay tại chỗ đó.”

 

- Ở đây kẻ trọc đầu, ở đây kẻ Sa-môn ti tiện, ở đây kẻ bần tiện, hãy đứng lại.

Evaṃ vutte bhagavā aggikabhāradvājaṃ brāhmaṇaṃ etadavoca: Jānāsi pana tvaṃ brāhmaṇa vasalaṃ vā vasalakaraṇe vā dhammeti.
 

Khi được nói như vậy, đức Thế Tôn đã nói với Bà-la-môn Aggika-bhāradvāja điều này: “Này Bà-la-môn, phải chăng ngươi biết về người hạ tiện hoặc các pháp tạo thành người hạ tiện?”

 

Khi được nói vậy, Thế Tôn nói với Bà-la-môn Aggibhàradvàja:

- Này Bà-la-môn, Người có biết người bần tiện hay những pháp tạo ra kẻ bần tiện không?

Na khvāhaṃ bho gotama jānāmi vasalaṃ vā vasalakaraṇe vā dhamme. Sādhu me bhavaṃ gotamo tathā dhammaṃ desetu yathāhaṃ jāneyyaṃ vasalaṃ vā vasalakaraṇe vā dhammeti.

“Thưa Ngài Gotama, tôi quả không biết về người hạ tiện hoặc các pháp tạo thành người hạ tiện. Thật tốt lành thay, xin Ngài Gotama hãy thuyết giảng Giáo Pháp cho tôi, theo đó tôi có thể biết về người hạ tiện hoặc các pháp tạo thành người hạ tiện.”

 

- Này Tôn giả Gotama, tôi không biết kẻ bần tiện hay những pháp tạo ra kẻ bần tiện. Lành thay, nếu Tôn giả Gotama thuyết pháp như thế nào cho tôi, để tôi được biết về kẻ bần tiện hay các pháp tạo thành kẻ bần tiện.

Tena hi brāhmaṇa suṇāhi sādhukaṃ manasi karohi bhāsissāmīti.

“Này Bà-la-môn, chính vì điều ấy ngươi hãy lắng nghe, ngươi hãy khéo chú ý, Ta sẽ giảng.”

 

- Vậy này Bà-la-môn, hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ nói.

Evaṃ bhoti kho aggikabhāradvājo brāhmaṇo bhagavato paccassosī, bhagavā etadavoca:

“Thưa Ngài, xin vâng,” Bà-la-môn Aggikabhāradvāja đã đáp lại đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn đã nói điều này:

 

- Thưa vâng, Tôn giả!

Bà-la-môn Aggibhàradvàja vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:

116. Kodhano upanāhī ca pāpamakkhī ca yo naro,
vipannadiṭṭhi māyāvī taṃ jaññā vasalo iti.

116. Kẻ nào giận dữ, có sự thù hằn, ác độc và có sự gièm pha, có kiến thức bị hư hỏng, có sự xảo trá, có thể biết kẻ ấy là ‘người hạ tiện.’

116. Người phẫn nộ, hiềm hận,
Ác nhân, gièm pha người,
Ác tà kiến, man trá,
Ðược biết là bần tiện.

117. Ekajaṃ va dvijaṃ vāpi yodha pāṇāni hiṃsati,
yassa pāṇe dayā natthi taṃ jaññā vasalo iti.

117. Ở đây, kẻ nào hãm hại các sanh mạng, đơn sanh hoặc lưỡng sanh, kẻ nào không có lòng trắc ẩn đối với sanh mạng, có thể biết kẻ ấy là ‘người hạ tiện.’

117. Ai ở đây hại vật,
Một sanh, hoặc hai sanh,
Không thương xót hữu tình,
Ðược biết là bần tiện.

118. Yo hanti parirundhati gāmāni nigamāni ca,
niggāhako samaññāto taṃ jaññā vasalo iti.
 

118. Kẻ nào hủy diệt, vây hãm các làng mạc và các thị trấn, được biết tiếng là kẻ áp bức, có thể biết kẻ ấy là ‘người hạ tiện.’

118. Ai làm hại vây hãm,
Các làng, các thị trấn,
Kẻ cướp đoạt có tiếng,
Ðược biết là bần tiện.

119. Gāme vā yadi vā raññe yaṃ paresaṃ mamāyitaṃ,
theyyā adinnaṃ ādiyati taṃ jaññā vasalo iti.
 

119. Nếu ở làng hay ở rừng, kẻ lấy vật thuộc sở hữu của những người khác, vật không được cho theo lối trộm cắp, có thể biết kẻ ấy là ‘người hạ tiện.’

119. Tại làng hay tại rừng,
Vật sở hữu của người,
Lấy trộm của không cho,
Ðược biết là bần tiện.

120. Yo have iṇamādāya cujjamāno palāyati,
na hi te iṇamatthīti taṃ jaññā vasalo iti.

120. Kẻ nào, thật sự sau khi vay nợ, trong khi bị quở trách liền trốn chạy (bảo rằng) ‘Tôi không có nợ nần gì với ngươi,’ có thể biết kẻ ấy là ‘người hạ tiện.’

120. Ai vay nợ của người,
Bị đòi liền trốn tránh,
Ta đâu mắc nợ ngươi,
Ðược biết là bần tiện.

121. Yo ve kiñcikkhakamyatā panthasmiṃ vajataṃ janaṃ,
hantvā kiñcikkhamādeti taṃ jaññā vasalo iti.

121. Kẻ nào quả thật vì lòng ham muốn đồ lặt vặt, đã giết hại người đang đi trên đường rồi đoạt lấy đồ lặt vặt, có thể biết kẻ ấy là ‘người hạ tiện.’

121. Ai vì ham vật mọn,
Kẻ đang đi trên đường,
Giết hại cướp vật mọn,
Ðược biết là bần tiện.

122. Yo attahetu parahetu dhanahetu ca yo naro,
sakkhīpuṭṭho musā brūti taṃ jaññā vasalo iti.

122. Kẻ nào vì nguyên nhân bản thân, vì nguyên nhân người khác, vì nguyên nhân tài sản, và kẻ nào khi được hỏi trực diện mà nói lời dối trá, có thể biết kẻ ấy là ‘người hạ tiện.’

122. Ai vì mình, vì người,
Hay vì nhân tài sản,
Làm nhân họ nói láo,
Ðược biết là bần tiện.

123. Yo ñātinaṃ sakhānaṃ vā dāresu patidissati,
sahasā sampiyena vā taṃ jaññā vasalo iti.

123. Kẻ nào bị bắt gặp ở nơi những người vợ của thân quyến hoặc của bạn bè, bằng vũ lực hoặc do thương yêu nhau, có thể biết kẻ ấy là ‘người hạ tiện.’

123. Ai được thấy giữa vợ
Của bà con, bạn thân,
Ép buộc hay ưng thuận,
Ðược biết là bần tiện.

124. Yo mātaraṃ vā pitaraṃ vā jiṇṇakaṃ gatayobbanaṃ,
pahū santo na bharati taṃ jaññā vasalo iti.

124. Kẻ nào trong khi có khả năng mà không phụng dưỡng mẹ hoặc cha già nua, đã qua thời tuổi trẻ, có thể biết kẻ ấy là ‘người hạ tiện.’

124. Ai với mẹ hay cha,
Già yếu, tuổi trẻ qua,
Tuy giàu không giúp đỡ,
Ðược biết là bần tiện.

125. Yo mātaraṃ vā pitaraṃ vā bhātaraṃ bhaginiṃ sasuṃ,
hanti roseti vācāya taṃ jaññā vasalo iti.

125. Kẻ nào hành hạ, chọc giận bằng lời nói đến mẹ hoặc cha, hoặc anh em trai, chị em gái, và mẹ vợ, có thể biết kẻ ấy là ‘người hạ tiện.’

125. Ai với mẹ hay cha,
Với anh chị, nhạc mẫu,
Làm hại, dùng lời mắng,
Ðược biết là bần tiện.

126. Yo atthaṃ pucchito santo anatthamanusāsati,
paṭicchannena manteti taṃ jaññā vasalo iti.
 

126. Kẻ nào trong khi được hỏi về điều lợi ích lại chỉ dạy điều không lợi ích, và chỉ bảo theo lối giấu diếm, có thể biết kẻ ấy là ‘người hạ tiện.’

126. Ai được hỏi mục đích,
Lại khuyên lời trái đích,
Khuyên bảo nên che đậy,
Ðược biết là bần tiện.

127. Yo katvā pāpakaṃ kammaṃ mā maṃ jaññāti icchati,
yo paṭicchannakammanto taṃ jaññā vasalo iti.

127. Kẻ nào sau khi làm việc ác lại ước muốn rằng: ‘Chớ ai biết ta (làm),’ kẻ có hành động được giấu diếm, có thể biết kẻ ấy là ‘người hạ tiện.’

127. Ai làm các nghiệp ác,
Muốn không biết mình làm,
Ai làm hạnh che đậy,
Ðược biết là bần tiện.

128. Yo ve parakulaṃ gantvā bhutvāna sucibhojanaṃ,
āgataṃ na paṭipūjeti taṃ jaññā vasalo iti.

128. Kẻ nào quả thật đã đi đến nhà người khác và đã thọ dụng vật thực tinh khiết, (nhưng) không khoản đãi lại khi người ấy đi đến (nhà mình), có thể biết kẻ ấy là ‘người hạ tiện.’

128. Ai đến nhà người khác,
Ăn món ăn ngon lành,
Lại không đáp lễ lại,
Ðược biết là bần tiện.

 

129. Yo brāhmaṇaṃ vā samaṇaṃ vā aññaṃ vāpi vaṇibbakaṃ,
musāvādena vañceti taṃ jaññā vasalo iti.

129. Kẻ nào lừa gạt vị Bà-la-môn hoặc vị Sa-môn, hoặc luôn cả người nghèo khổ bằng lời dối trá, có thể biết kẻ ấy là ‘người hạ tiện.’

129. Ai nói dối lường gạt,
Sa-môn, Bà-la-môn,
Hay các người nghèo khác,
Ðược biết là bần tiện.

 

130. Yo brāhmaṇaṃ vā samaṇaṃ vā bhattakāle upaṭṭhite,
roseti vācā na ca deti taṃ jaññā vasalo iti.


 

130. Kẻ nào chọc giận bằng lời nói và không bố thí đến vị Bà-la-môn hoặc vị Sa-môn vào thời điểm của bữa ăn đến gần, có thể biết kẻ ấy là ‘người hạ tiện.’

130. Dùng lời mắng, không cho,
Sa-môn, Bà-la-môn,
Khi thời ăn uống đến,
Ðược biết là bần tiện.

 

131. Asataṃ yodha pabrūti mohena paḷiguṇṭhito,
kiñcikkhaṃ nijigiṃsāno taṃ jaññā vasalo iti.

131. Ở đây, kẻ nào nói về diều không có thật, bị si mê bao trùm, ham muốn đạt được đồ vật nhỏ nhặt, có thể biết kẻ ấy là ‘người hạ tiện.’

131. Ở đời nói không thật,
Bị si mê che đậy,
Tham cầu chút lợi nhỏ,
Ðược biết là bần tiện.

 

132. Yo cattānaṃ samukkaṃse parañcamavajānati,
nihīno sena mānena taṃ jaññā vasalo iti.

132. Kẻ nào đề cao bản thân và khi dễ người khác, là hạ liệt do sự ngã mạn của mình, có thể biết kẻ ấy là ‘người hạ tiện.’

132. Ai đề cao tự ngã,
Khi miệt giá trị người,
Hạ mình với tự cao,
Ðược biết là bần tiện.

 

133. Rosako kadariyo ca pāpiccho maccharī saṭho,
ahiriko anottāpī taṃ jaññā vasalo iti.

133. Kẻ chọc giận (người khác) và keo kiệt, có ước muốn xấu xa, bỏn xẻn, xảo trá, không hổ thẹn (tội lỗi), không ghê sợ (tội lỗi), có thể biết kẻ ấy là ‘người hạ tiện.’

133. Ai gây hấn, hà tiện,
Ác dục và xan tham,
Xảo quyệt, không tàm quí,
Ðược biết là bần tiện.

 

134. Yo buddhaṃ paribhāsati atha vā tassa sāvakaṃ,
paribbājaṃ gahaṭṭhaṃ vā taṃ jaññā vasalo iti.

134. Kẻ nào chê bai đức Phật, hay đệ tử của Ngài, vị xuất gia hoặc người tại gia, có thể biết kẻ ấy là ‘người hạ tiện.’

134. Ai phỉ báng đức Phật,
Hay đệ tử của Ngài,
Hàng xuất gia, tại gia,
Ðược biết là bần tiện.

 

135. Yo ve anarahā santo arahaṃ paṭijānati,
coro sabrahmake loke esa kho vasalādhamo,
ete kho vasalā vutthā mayā vo ye pakāsitā.

135. Kẻ nào thật sự chưa trở thành bậc A-la-hán mà tự nhận bậc A-la-hán, là kẻ cướp ở thế gian tính luôn cõi Phạm Thiên, kẻ ấy quả là tệ nhất trong số người hạ tiện. Những kẻ này quả đã được gọi là những người hạ tiện, chúng đã được Ta giảng giải cho ngươi.

135. Ai không phải La-hán,
Tự nhận là La-hán,
Kẻ trộm Phạm thiên giới,
Chính tối hạ bần tiện.
Những hàng bần tiện này,
Ta nói rõ cho Ông.

 

136. Na jaccā vasalo hoti na jaccā hoti brāhmaṇo,
kammanā vasalo hoti kammanā hoti brāhmaṇo.
 

136. Không phải do dòng dõi mà trở thành hạ tiện, không phải do dòng dõi mà trở thành Bà-la-môn, do hành động mà trở thành hạ tiện, do hành động mà trở thành Bà-la-môn.

136. Bần tiện không vì sanh,
Phạm chí không vì sanh,
Do hành, thành bần tiện,
Do hành, thành Phạm chí.

 

137. Tadamināpi jānātha yathā medaṃ nidassanaṃ,
caṇḍālaputto sopāko mātaṅgo iti vissuto.
 

137. Ngươi hãy biết việc ấy với điều này nữa, giống như ví dụ này của Ta: Có gã nấu thịt chó để ăn, con trai của một kẻ thuộc giai cấp nô lệ, được biết tiếng là Mātaṅga.

137. Do đây, nên hiểu biết,
Như Ta trình bày rõ,
Màtanga được danh,
Bần tiện, ăn thịt chó.

 

138. So yasaṃ paramaṃ patto mātaṅgo yaṃ sudullabhaṃ,
āgañchuṃ tassupaṭṭhānaṃ khattiyā brāhmaṇā bahū.

138. Vị Mātaṅga ấy đã đạt đến danh vọng tối cao, là điều khó đạt được. Nhiều Sát- đế- lỵ và Bà-la-môn đã đi đến phục vụ cho người ấy.

138. Danh tối thượng khó đạt,
Màtanga đạt được,
Nhiều Sát-ly, Phạm chí,
Ðến hầu hạ vị ấy.

139. So devayānamāruyha virajaṃ so mahāpathaṃ,
kāmarāgaṃ virājetvā brahmalokūpago ahū.

139. Vị ấy đã leo lên Thiên xa, con đường lớn không bụi bặm, đã lìa khỏi sự luyến ái ở các dục, và đã đi đến thế giới Phạm Thiên.

139. Vị ấy leo thiên xa,
Trên đường lớn không bụi,
Từ bỏ mọi dục tham,
Ðạt được Phạm thiên giới,


Thọ sanh không ngăn chận,
Vị ấy sanh Phạm thiên.

140. Na naṃ jāti nivāresi brahmalokūpapattiyā,
ajjhāyakakule jātā brāhmaṇā mattabandhuno.

140. Dòng dõi sanh ra đã không cản ngăn được vị ấy trong việc sanh ra ở thế giới Phạm Thiên. Đã được sanh ra ở gia tộc các vị thầy trì tụng (Vệ Đà), những người Bà-la-môn là thân quyến của chú thuật.

140. Có những Bà-la-môn,
Sanh gia đình Ðạo sư,
Hay sanh những gia đình
Quyến thuộc với bùa chú,

 

Họ vẫn thường được thấy,
Làm các điều ác nghiệp.

141. Te va pāpesu kammesu abhiṇhamupadissare,
diṭṭheva dhamme gārayhā samparāye ca duggatiṃ,
na ne jāti nivāreti duggaccā garahāya vā.
 

141. Chính họ thường xuyên được nhìn thấy ở các hành động ác xấu. Họ bị chê trách ngay trong thời hiện tại và (đi đến) khổ cảnh trong thời vị lai. Dòng dõi sanh ra không ngăn chặn họ thoát khỏi khổ cảnh hoặc khỏi sự chê trách.

141. Hiện tại bị khinh miệt,
Ðời sau sanh ác thú,
Thọ sanh không ngăn chận,
Sanh ác thú đáng khinh.

 

142. Na jaccā vasalo hoti na jaccā hoti brāhmaṇo,
kammanā vasalo hoti kammanā hoti brāhmaṇo.

142. Không phải do dòng dõi mà trở thành hạ tiện, không phải do dòng dõi mà trở thành Bà-la-môn, do hành động mà trở thành hạ tiện, do hành động mà trở thành Bà-la-môn.

142. Bần tiện không vì sanh,
Phạm chí không vì sanh,
Do hành thành bần tiện,
Do hành thành Phạm chí.

 

Evaṃ vutte aggikabhāradvājo brāhmaṇo bhagavantaṃ etadavoca:

Khi được nói như vậy, Bà-la-môn Aggikabhāradvāja đã nói với đức Thế Tôn điều này:

 

Khi được nói vậy, Bà-la-môn Bhàradvàja bạch Thế Tôn:

 

Abhikkantaṃ bho gotama abhikkantaṃ bho gotama. Seyyathāpi bho gotama nikkujjitaṃ vā ukkujjeyya paṭicchannaṃ vā vivareyya mūḷhassa vā maggaṃ ācikkheyya andhakāre vā telapajjotaṃ dhāreyya cakkhumanto rūpāni dakkhintīti, evamevaṃ bhotā gotamena anekapariyāyena dhammo pakāsito. Esāhaṃ bhavantaṃ gotamaṃ saraṇaṃ gacchāmi dhammañca bhikkhusaṅghañca. Upāsakaṃ maṃ bhavaṃ gotamo dhāretu ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gatanti.

“Thưa Ngài Gotama, thật là tuyệt vời! Thưa Ngài Gotama, thật là tuyệt vời! Thưa Ngài Gotama, cũng giống như người có thể lật ngửa vật đã được úp lại, hoặc mở ra vật đã bị che kín, hoặc chỉ đường cho kẻ lạc lối, hoặc đem lại cây đèn dầu nơi bóng tối (nghĩ rằng): ‘Những người có mắt sẽ nhìn thấy được các hình dáng;’ tương tự như thế Pháp đã được Ngài Gotama giảng rõ bằng nhiều phương tiện. Con đây xin đi đến nương nhờ Ngài Gotama, Giáo Pháp, và Tăng Chúng tỳ khưu. Xin Ngài Gotama hãy ghi nhận con là người cư sĩ đã đi đến nương nhờ kể từ hôm nay cho đến trọn đời.”

- Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama! Thưa Tôn giả Gotama, ví như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, mở toang ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối, để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Pháp được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện trình bày. Con nay qui y Tôn giả Gotama, qui y Pháp và qui y chúng Tỷ-kheo. Mong Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời qui ngưỡng.

 

 

Vasalasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

 

Dứt Kinh Người Hạ Tiện.

 

8. METTASUTTAṂ

 

 

8. KINH TỪ ÁI

 

 

8. KINH TỪ BI

 

143. Karaṇīyamatthakusalena yaṃ taṃ santaṃ padaṃ abhisamecca,
sakko ujū ca sūjū ca suvaco cassa mudu anatimāni.

143. Việc cần làm bởi vị thiện xảo trong việc thực hành, sau khi đã thấu hiểu về vị thế (Niết Bàn) an tịnh ấy là: có khả năng, ngay thẳng, chánh trực, dễ dạy, hòa nhã, và không ngã mạn thái quá.

143. Vị thiện xảo mục đích,
Cần phải làm như sau:
Sau khi hiểu thông suốt,
Con đường an tịnh ấy,
Có khả năng, trực tánh,
Thật sự, khéo chân trực,
Dễ nói và nhu hòa,
Không có gì cao mạn.

144. Santussako ca subharo ca appakicco ca sallahukavutti,
santindriyo ca nipako ca appagabbho kulesu ananugiddho.

144. Là người tự biết đủ, dễ cấp dưỡng, ít bận rộn công việc, và có lối sống nhẹ nhàng, có giác quan an tịnh, và chín chắn, không hỗn xược, không tham đắm theo các gia tộc.

144. Sống cảm thấy vừa đủ,
Nuôi sống thật dễ dàng,
Ít có sự rộn ràng,
Sống đạm bạc giản dị.
Các căn được tịnh lạc,
Khôn ngoan và thật trọng,
Không xông xáo gia đình,
Không tham ái, tham vọng.

145. Na ca khuddaṃ samācare kiñci yena viññū pare upavadeyyuṃ,
sukhino vā khemino hontu sabbe sattā bhavantu sukhitattā.

145. Và không nên thực hành bất cứ điều gì nhỏ nhặt mà các bậc hiểu biết khác đã khiển trách. Mong rằng tất cả chúng sanh có được sự an lạc, có được sự an toàn. Mong rằng tất cả chúng sanh có bản thân được an lạc.

145. Các sở hành của mình,
Không nhỏ nhen vụn vặt,
Khiến người khác có trí,
Có thể sanh chỉ trích.
Mong mọi loài chúng sanh,
Ðược an lạc, an ổn,
Mong họ chứng đạt được,
Hạnh phúc và an lạc.

146. Ye keci pāṇa bhūtatthi tasā vā thāvarā vā anavasesā,
dīghā vā ye mahantā vā majjhamā rassakāṇukathūlā.

 

146. Bất cứ những chúng sanh nào dầu là: yếu hoặc mạnh (tất cả) không bỏ sót, (có thân hình) dài hoặc to lớn, trung bình hoặc ngắn, nhỏ bé hay mập.

146. Mong tất cả những ai,
Hữu tình có mạng sống,
Kẻ yếu hay kẻ mạnh,
Không bỏ sót một ai,
Kẻ dài hay kẻ lớn,
Trung, thấp, loài lớn, nhỏ.

147. Diṭṭhā vā ye va addiṭṭhā ye ca dūre vasanti avidūre,
bhūtā vā sambhavesī vā sabbe sattā bhavantu sukhitattā.
 

147. Được nhìn thấy, hoặc không được nhìn thấy, cư ngụ ở nơi xa và không xa, đã được hiện hữu hoặc đang tầm cầu sự thành hình, mong rằng tất cả chúng sanh có bản thân được an lạc.

147. Loài được thấy, không thấy,
Loài sống xa, không xa,
Các loài hiện đang sống,
Các loài sẽ được sanh,
Mong mọi loài chúng sanh
Sống hạnh phúc an lạc.

148. Na paro paraṃ nikubbetha nātimaññetha katthaci naṃ kañci,
byārosanā paṭighasaññā nāññamaññassa dukkhamiccheyya.
 

148. Người này không nên lường gạt kẻ khác, không nên khi dễ bất cứ người nào ở bất cứ nơi đâu. Do sự giận dữ, do ý tưởng bất bình, không nên mong mỏi sự khổ đau cho lẫn nhau.

148. Mong rằng không có ai,
Lường gạt lừa dối ai,
Không có ai khinh mạn,
Tại bất cứ chỗ nào.
Không vì giận hờn nhau,
Không vì tưởng chống đối.
Lại có người mong muốn,
Làm đau khổ cho nhau.
 

149. Mātā yathā niyaṃ puttaṃ āyusā ekaputtamanurakkhe,
evampi sabbabhūtesu mānasaṃ bhāvaye aparimānaṃ.

149. Giống như người mẹ bảo vệ đứa con trai của mình, đứa con trai độc nhất, đến trọn đời, cũng như vậy, đối với tất cả các sanh linh, nên phát triển tâm ý vô hạn lượng.

 

149. Như tấm lòng người mẹ,
Ðối với con của mình,
Trọn đời lo che chở,
Con độc nhất mình sanh.
Cũng vậy, đối tất cả
Các hữu tình chúng sanh,
Hãy tu tập tâm ý,
Không hạn lượng rộng lớn.

150. Mettañca sabbalokasmiṃ mānasaṃ bhāvaye aparimāṇaṃ,
uddhaṃ adho ca tiriyañca asambādhaṃ averaṃ asapattaṃ.

 

150. Và tâm từ ái ở tất cả thế giới, nên phát triển tâm ý vô hạn lượng, bên trên, bên dưới, và chiều ngang, không bị ngăn trở, không thù oán, không đối nghịch.

150. Hãy tu tập từ tâm,
Trong tất cả thế giới,
Hãy tu tập tâm ý,
Không hạn lượng rộng lớn.
Phía trên và phía dưới,
Cũng vậy, cả bề ngang,
Không hạn chế, trói buộc,
Không hận, không thù địch.

151. Tiṭṭhaṃ caraṃ nisinno vā sayāno vā yāvatassa vigatamiddho,
etaṃ satiṃ adhiṭṭheyya brahmametaṃ vihāraṃ idhamāhu.

151. Trong khi đứng, trong khi đi, hoặc khi đã ngồi xuống, hoặc trong khi nằm, cho đến khi nào sự buồn ngủ được xa lìa, nên chuyên chú vào niệm này, ở đây việc này được gọi là sự an trú cao thượng.

 

 

 

151. Khi đứng, hay khi đi,
Khi ngồi, hay khi nằm,
Lâu cho đến khi nào,
Khi đang còn tỉnh thức,
Hãy an trú niệm này,
Nếp sống này như vậy,
Ðược đời đề cập đến,
Là nếp sống tối thượng.

152. Diṭṭhiñca anupagamma sīlavā dassanena sampanno,
kāmesu vineyya gedhaṃ na hi jātu gabbhaseyyaṃ punaretīti.

152. Và sau khi không đeo đuổi tà kiến, là người có giới, được thành tựu về nhận thức, sau khi xua đi sự thèm khát ở các dục, thì chắc chắn không đi đến thai bào lần nữa.

152. Ai từ bỏ tà kiến,
Giữ giới, đủ chánh kiến,
Nhiếp phục được tham ái,
Ðối với các dục vọng,
Không còn phải tái sanh,
Ði đến thai tạng nữa.

 

Mettasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

 

Dứt Kinh Từ Ái.

 

 

 

9. HEMAVATASUTTAṂ

 

 

9. KINH HEMAVATA

 

 

9. KINH HEMAVATA

153. Ajja paṇṇaraso uposatho (iti sātāgiro yakkho)
divyā ratti upaṭṭhitā,
anomanāmaṃ sāttharaṃ
handa passāma gotamaṃ.

153. (Dạ-xoa Sātāgira nói)

Hôm nay là ngày mười lăm, ngày Uposatha,

đêm rực rỡ đã đến rồi.

Nào, chúng ta hãy diện kiến bậc Đạo Sư Gotama có danh xưng cao tột.

 

Sàtàgira:

153. Nay đúng vào ngày rằm,
Ngày trai giới, bố-tát,
Nói vậy là dạ-xoa,
Tên Sàtàgira,
Ðêm đã được an trú,
Ðêm đẹp như cõi trời,
Hãy gặp Gotama,
Bậc Ðạo Sư vô thượng
.

154. Kacci mano supaṇihito (iti hemavato yakkho)
sabbabhūtesu tādino,
kacci iṭṭhe aniṭṭhe ca
saṅkappassa vasīkatā.
 

154.  (Dạ-xoa Hemavata nói)

Phải chăng tâm của bậc như thế ấy là đã được phát nguyện vững chắc hướng đến tất cả chúng sanh? Phải chăng tâm tư của vị này đã đạt đến quyền làm chủ ở đối tượng được ưa thích và không được ưa thích?

 

Hemavata:

154. Có phải ý vị ấy,
Tâm nguyện thật khéo phát?
Nói vậy là dạ-xoa,
Tên Hemavata,
Có phải đối sanh loại,
Có tâm tư như vậy?
Có phải các tư duy,
Ðược khéo léo điều phục
Ðối với các pháp khả ái,
Và pháp không khả ái?

155. Mano cassa supaṇihito (iti sātāgiro yakkho)
sabbabhūtesu tādino,
atho iṭṭhe aniṭṭhe ca
saṅkappassa vasīkatā.

155. (Dạ-xoa Sātāgira nói)

Tâm của vị này, của bậc như thế ấy là đã được phát nguyện vững chắc hướng đến tất cả chúng sanh. Và tâm tư của vị này đã đạt đến quyền làm chủ ở đối tượng được ưa thích và không được ưa thích.

 

Sàtàgira:

155. Ý vị ấy là vậy,
Tâm nguyện thật khéo phát,
Nói vậy là dạ-xoa,
Tên Sàtàgira,
Ðối với mọi sanh loại,
Có tâm tư như vậy,
Như vậy là tư duy,
Ðược khéo léo điều phục.

156. Kacci adinnaṃ nādiyati (iti hemavato yakkho)
kacci pāṇesu saññato,
kacci ārā pamādamhā
kacci jhānaṃ na riñcati.

156. (Dạ-xoa Hemavata nói)

Phải chăng vị ấy không lấy vật không được cho?

Phải chăng vị ấy tự kiềm chế về các sanh mạng?

Phải chăng vị ấy xa lìa sự xao lãng?

Phải chăng vị ấy không bỏ phế việc tham thiền?

 

Hemavata:

156. Có phải là vị ấy
Không lấy vật không cho?
Nói vậy là dạ-xoa,
Tên Hemavata,
Có phải với hữu tình,
Vị ấy khéo chế ngự?
Có phải với phóng dật,
Vị ấy khéo viễn ly?
Có phải đối thiền định,
Vị ấy không từ bỏ?

157. Na so adinnaṃ ādiyati (iti sātāgiro yakkho)
atho pāṇesu saññato,
atho ārā pamādamhā
buddho jhānaṃ na riñcati



 

157. (Dạ-xoa Sātāgira nói)

Ngài không lấy vật không được cho, 

đã tự kiềm chế về các sanh mạng,

đã xa lìa sự xao lãng,

đức Phật không bỏ phế việc tham thiền.

Sàtàgira:

157. Vị ấy không có lấy
Những vật không được cho,
Nói vậy là dạ-xoa,
Tên Sàtàgira,
Vị ấy với hữu tình,
Rất khéo léo chế ngự,
Vị ấy với phóng dật,
Thật sự sống viễn ly,
Ðức Phật đối thiền định,
Không từ bỏ, sao lãng.

158. Kacci musā na bhaṇati (iti hemavato yakkho)
kacci na khīṇavyappatho,
kacci vebhūtiyaṃ nāha
kacci samphaṃ na bhāsati.


 

158. (Dạ-xoa Hemavata nói)

Phải chăng vị ấy không nói lời dối trá?

Phải chăng vị ấy không có lời nói thô lỗ?

Phải chăng vị ấy đã không nói lời phá hoại (đâm thọc)?

Phải chăng vị ấy không nói nhảm nhí?

 

Hemavata:

158. Có phải là vị ấy,
Không nói lời nói láo?
Nói vậy là Dạ-xoa,
Tên Hemavata,
Có phải là vị ấy
Ðoạn tận các trách nhiệm?
Có phải là vị ấy
Không nói lời vu khống?
Có phải là vị ấy
Không nói lời phù phiếm?

159. Musā ca so na bhaṇati (iti sātāgiro yakkho)
atho na khīṇavyappatho,
atho vebhūtiyaṃ nāha
mantā atthaṃ so bhāsati.


 

159. (Dạ-xoa Sātāgira nói)

Và vị ấy không nói lời dối trá,

cũng không có lời nói thô lỗ,

cũng đã không nói lời phá hoại (đâm thọc),

là bậc trí, vị ấy nói điều có lợi ích.

 

 

Sàtàgira:

159. Và thật sự vị ấy,
Không nói lời nói láo,
Nói vậy là Dạ-xoa,
Tên Sàtàgira,
Ðoạn tận đường ác ngữ,
Không nói lời vu khống,
Vị ấy nói những lời
Sáng suốt, có nghĩa lý.

160. Kacci na rajjati kāmesu (iti hemavato yakkho)
kacci cittaṃ anāvilaṃ,
kacci mohaṃ atikkanto
kacci dhammesu cakkhumā.


 

160. (Dạ-xoa Hemavata nói)

Phải chăng vị ấy không luyến ái ở các dục?

Phải chăng tâm không bị vẩn đục?

Phải chăng vị ấy vượt qua si mê?

Phải chăng là bậc hữu nhãn về các pháp?

 

 

Hemavata:

160. Có phải đối các dục,
Vị ấy không tham ái?
Ðây là lời Dạ-xoa,
Tên Hemavata,
Có phải tâm vị ấy
Không có bị dao động?
Có phải tâm vị ấy
Vượt khỏi sự si ám?
Có phải thật vị ấy,
Có mắt đối các pháp?

161. Na so rajjati kāmesu (iti sātāgiro yakkho)
atho cittaṃ anāvilaṃ,
sabbamohaṃ atikkanto
buddho dhammesu cakkhumā.

161. (Dạ-xoa Sātāgira nói)

Vị ấy không luyến ái ở các dục,

và tâm không bị vẩn đục,

Ngài vượt qua mọi si mê,

đức Phật là bậc hữu nhãn về các pháp.

 

Sàtàgira:

161. Vị ấy không tham ái
Ðối với các dục vọng,
Ðây là lời Dạ-xoa,
Tên Sàtàgira,
Tâm không có dao động,
Vượt khỏi mọi si ám,
Ðức Phật thật có mắt
Ðối với tất cả pháp.

162. Kacci vijjāya sampanno (iti hemavato yakkho)
kacci saṃsuddhacāraṇo,
kaccissa āsavā khīṇā
kacci natthi punabbhavo.

162. (Dạ-xoa Hemavata nói)

Phải chăng vị ấy đã thành tựu về minh?

Phải chăng vị ấy có sở hành hoàn toàn trong sạch?

Phải chăng các lậu hoặc của vị này đã cạn kiệt?

Phải chăng không có sự tái sanh lại nữa?

 

Hemavata:

162. Có phải là vị ấy
Ðầy đủ về các minh?
Ðây là lời Dạ-xoa
Tên Hemavata,
Có phải là vị ấy
Sở hành thật thanh tịnh?
Có phải là vị ấy
Các lậu hoặc đoạn tận?
Có phải là vị ấy
Không còn có tái sanh?

163. Vijjāya ceva sampanno (iti sātāgiro yakkho)
atho saṃsuddhacāraṇo,
sabbassa āsavā khīṇā
natthi tassa punabbhavo.

163. (Dạ-xoa Sātāgira nói)

Vị ấy hẳn nhiên đã thành tựu về minh, 

còn có sở hành hoàn toàn trong sạch, 

các lậu hoặc của vị này đã cạn kiệt, 

đối với vị ấy không có sự tái sanh lại nữa.

Sàtàgira:

163. Sự thật là vị ấy,
Ðầy đủ với các minh,
Ðây là lời Dạ-xoa,
Tên Sàtàgira
Sở hành thật thanh tịnh,
Mọi lậu hoặc đoạn tận,
Thật sự đối vị ấy,
Không còn có tái sanh.

164. Sampannaṃ munino cittaṃ kammanā vyappathena ca,
vijjācaraṇasampannaṃ dhammato naṃ pasaṃsasi.



 

164. Tâm của bậc hiền trí là được trọn vẹn với hành động và lời nói. Ngươi hãy thật lòng ca ngợi vị ấy, bậc đã thành tựu minh và hạnh.

Hemavata:

163. (a) Có phải vị ẩn sĩ,
Với tâm được viên mãn,
Mọi việc làm vị ấy
Ðược làm khéo hoàn mãn,
Có phải người tán thán,
Một cách đúng Chánh pháp.
Vị đầy đủ trí đức,
Ðầy đủ cả hạnh đức.

165. Sampannaṃ munino cittaṃ kammanā vyappathena ca,
vijjācaraṇasampannaṃ dhammato anumodasi.


 

165. Tâm của bậc hiền trí là được trọn vẹn với hành động và lời nói. Ngươi hãy thật lòng tùy hỷ với bậc đã thành tựu minh và hạnh.

Sàtàgira:

163. (b) Thật sự vị ẩn sĩ,
Với tâm được viên mãn,
Mọi việc làm vị ấy
Ðược làm khéo hoàn mãn.
Thật sự Ông tùy hỉ
Một cách đúng Chánh pháp,
Vị đầy đủ trí đức,
Ðầy đủ cả hạnh đức.

166. Sampannaṃ munino cittaṃ kammanā vyappathena ca,
vijjācaraṇasampannaṃ handa passāma gotamaṃ.

 

166. Tâm của bậc hiền trí là được trọn vẹn với hành động và lời nói. Nào, chúng ta hãy diện kiến vị Gotama, bậc đã thành tựu minh và hạnh.

 

 

 

Cả hai:

164. Thật sự vị ẩn sĩ,
Với tâm được viên mãn,
Mọi việc làm vị ấy
Ðược làm khéo hoàn mãn.
Chúng ta hãy yết kiến
Tôn giả Gotama,
Vị đầy đủ trí đức,
Ðầy đủ cả hạnh đức
.

167. Eṇijaṅghaṃ kisaṃ vīraṃ appāhāraṃ alolupaṃ,
muniṃ vanasmiṃ jhāyantaṃ ehi passāma gotamaṃ.

 

167. Ngươi hãy đến, chúng ta hãy diện kiến vị Gotama, bậc hiền trí có bắp chân như của loài nai, gầy ốm, dũng cảm, ít vật thực, không tham đắm, đang tham thiền ở khu rừng.

Hemavata:

165. Bắp chân giống như nai,
Thon vững chắc, bền bỉ,
Giản dị ít nhu cầu,
Không tham đắm vật gì.
Hãy đi đến yết kiến
ẩn sĩ Gotama,
Vị hành trì thiền định,
Trong rừng núi xa vắng.

168. Sīhaṃvekacaraṃ nāgaṃ kāmesu anapekkhinaṃ,
upasaṃkamma pucchāma maccupāsā pamocanaṃ.

 

168. Sau khi đến gần bậc Long Tượng đang sống một mình tựa như loài sư tử, không mong mỏi về các dục, chúng ta hãy hỏi Ngài về sự thoát ra khỏi bẫy sập của tử thần.

 

 

166. Sống cô độc một mình,
Như sư tử, như voi,
Ngài không có tham đắm,
Không cầu mong các dục.
Chúng ta hãy đi đến,
Và hỏi thăm vị ấy
Về con đường giải thoát
Khỏi cạm bẫy Ác ma.

169. Akkhātāraṃ pavattāraṃ sabbadhammāna pāraguṃ,
buddhaṃ verabhayātītaṃ mayaṃ pucchāma gotamaṃ.

 

169. Chúng ta hãy hỏi vị Gotama, bậc tuyên thuyết, bậc tuyên bố, bậc đã đi đến bờ kia của tất cả các pháp, bậc đã giác ngộ, bậc đã vượt qua thù hận và sợ hãi.

Cả hai:

167. Vị tuyên bố giải thích,
Vị đạt đến mọi pháp,
Bậc giác ngộ vượt khỏi
Hận thù và sợ hãi,
Chúng ta hãy đến học
Sa-môn Gotama.

170. Kismiṃ loko samuppanno (iti hemavato yakkho)
kismiṃ kubbati santhavaṃ,
kissa loko upādāya
kismiṃ loko vihaññati.

170. (Dạ-xoa Hemavata nói)

Khi cái gì (sanh khởi) thế giới được sanh khởi?[1]

liên quan đến cái gì tạo nên sự gắn bó?

chấp thủ vào cái gì mà thế giới (hiện hữu)?

do cái gì mà thế giới bị sầu khổ?

----------------

[1] Thế giới (loka): ở đây là sattaloka (SnA i, 210), nghĩa là nói đến chúng sanh.

 

Hemavata:

168. Do pháp nào có mặt,
Thế giới được sanh khởi,
Nói vậy là dạ-xoa,
Tên Hemavata.
Do pháp nào có mặt,
Tác thành sự giao hợp?
Sự chấp thủ ở đời,
Là chấp thủ cái gì?
Do pháp nào có mặt,
Thế giới bị tàn hại?

171. Chassu loko samuppanno (hemavatāti bhagavā)
chassu kubbati santhavaṃ,
channameva upādāya
chassu loko vihaññati.

171. (Đức Thế Tôn nói với Dạ-xoa Hemavata)

Khi sáu (sanh khởi) thế giới được sanh khởi,[1]

liên quan đến sáu tạo nên sự gắn bó,

chấp thủ vào sáu mà thế giới (hiện hữu),

do sáu mà thế giới bị sầu khổ.

---------------

[1] Sáu (chassu): được Chú Giải giải thích là sáu nội ngoại xứ (chasu ajjhattikabāhiresu āyatanesu) (SnA i, 211).

Thế Tôn:

169. Do sáu pháp có mặt,
Thế giới được sanh khởi,
Này Hemavata,
Thế Tôn nói như vậy.
Do sáu pháp có mặt,
Tác thành sự giao hợp,
Sự chấp thủ ở đời,
Là chấp thủ sáu pháp,
Do sáu pháp có mặt,
Thế giới bị tàn hại.

172. Katamaṃ taṃ upādānaṃ yattha loko vihaññati,
niyyānaṃ pucchito brūhi kathaṃ dukkhā pamuccati.

172. Sự chấp thủ ấy là cái gì mà tại nơi ấy thế giới bị sầu khổ? Được hỏi về lối dẫn dắt ra khỏi xin Ngài hãy nói, làm thế nào được thoát khỏi khổ đau?

Hemavata:

170. Do chấp thủ cái gì,
Ðây thế giới bị hại?
Ðược hỏi, hãy nói lên,
Về con đường thoát đời.
Làm thế nào đau khổ,
Ðược giải thoát hoàn toàn?

173. Pañca kāmaguṇā loke mano chaṭṭhā pamoditā,
ettha chandaṃ virājetvā evaṃ dukkhā pamuccati.

173. Năm loại dục được vui thích ở thế gian, với ý là thứ sáu. Sau khi lìa khỏi sự mong muốn ở nơi này, như vậy thì được thoát khỏi khổ đau.

Thế Tôn:

171. Ðây, năm dục trưởng dưỡng,
Ý được gọi thứ sáu,
Bỏ ước muốn ở đây,
Như vậy, thoát đau khổ.

174. Etaṃ lokakassa niyyānaṃ akkhātaṃ vo yathā tathaṃ,
etaṃ vo ahamakkhāmi evaṃ dukkhā pamuccati. 

174. Điều này là lối dẫn dắt ra khỏi thế giới, đã được nói cho các ngươi đúng theo thực thể. Ta nói ra điều này cho các ngươi, như vậy thì được thoát khỏi khổ đau.  

 

172. Ðây, con đường thoát đời.
Như thật nói Ông rõ,
Ðường này Ta nói Ông,
Như vậy, thoát đau khổ.

175. Ko sūdha taratī oghaṃ ko sūdha tarati aṇṇavaṃ,
appatiṭṭhe anālambe ko gambhīre na sīdati.

175. Vậy ở đây ai vượt qua cơn lũ, ở đây ai vượt qua biển cả, ai không chìm xuống nơi sâu thẳm không có chỗ nâng đỡ, không có vật để nắm vào?  

Hemavata:

173. Ðây, ai vượt bộc lưu?
Ðây, ai vượt biển lớn?
Không chân đứng bám víu,
Ai không chìm vực sâu?

176. Sabbadā sīlasampanno paññavā susamāhito,
ajjhattacintī satimā oghaṃ tarati duttaraṃ.
 

176. Vị luôn luôn thành tựu giới, có tuệ, khéo định tĩnh, có tâm tư hướng nội, có niệm, vượt qua cơn lũ khó vượt qua được.  

Thế Tôn:

174. Ai luôn luôn đủ giới,
Có tuệ, khéo thiền định,
Tâm hướng nội, chánh niệm,
Vượt bộc lưu khó vượt.

177. Virato kāmasaññāya sabbasaṃyojanātigo,
nandībhavaparikkhīṇo so gamabhīre na sīdati.
 

177. Vị không còn vui thích ở dục tưởng, đã vượt lên khỏi mọi sự ràng buộc, đã hoàn toàn cạn kiệt sự vui thích và hiện hữu, vị ấy không chìm xuống nơi sâu thẳm.

175. Ai từ bỏ dục tưởng,
Vượt khỏi mọi kiết sử,
Ai, hỷ, hữu đoạn tận,
Không chìm vào vực sâu
.

178. Gambhīrapaññaṃ nipuṇatthadassiṃ
akiñcanaṃ kāmabhave asattaṃ,
taṃ passatha sabbadhi vippamuttaṃ
dibbe pathe kamamānaṃ mahesiṃ.

178. Chúng ta hãy chiêm ngưỡng bậc Đại Ẩn Sĩ ấy, bậc có tuệ thâm sâu, bậc nhìn thấy ý nghĩa vi tế, không sở hữu gì, không dính mắc ở dục và hữu, đã được giải thoát về mọi phương diện, đang bước đi ở con đường thiên giới.

Hemavata:

176. Vị trí tuệ thâm sâu,
Thấy được đích tế nhị,
Vị không có sở hữu,
Không tham đắm dục hữu.
Hãy yết kiến vị ấy,
Vị luôn luôn giải thoát,
Bậc đại sĩ tiến bước,
Trên con đường Thiên đạo.

179. Anomanāmaṃ nipuṇatthadassiṃ
paññādadaṃ kāmālaye asattaṃ,
taṃ passatha sabbaviduṃ sumedhaṃ
ariye pathe kamamānaṃ mahesiṃ.

179. Chúng ta hãy chiêm ngưỡng bậc Đại Ẩn Sĩ ấy, bậc có danh xưng cao tột, bậc nhìn thấy ý nghĩa vi tế, bậc ban bố trí tuệ, không dính mắc ở trạng thái tiềm ẩn của các dục, bậc biết tất cả, bậc khôn ngoan, đang bước đi ở con đường thánh thiện.

177. Bậc danh xưng vô thượng,
Bậc thấy đích tế nhị,
Bậc ban bố trí tuệ,
Không tham đắm dục tạng.
Hãy yết kiến vị ấy,
Vị Toàn trí, Thiện tuệ,
Bậc Ðại sĩ tiến bước
Trên con đường Thánh đạo.

180. Sudiṭṭhaṃ vata no ajja suppabhātaṃ suvuṭṭhitaṃ,
yaṃ addasāma sambuddhaṃ oghatiṇṇamanāsavaṃ.

180. Quả thật hôm nay chúng ta đã nhìn thấy rõ ràng, bình minh rạng rỡ đã mọc lên tốt đẹp, nhờ thế chúng ta đã nhìn thấy đấng Toàn Giác, bậc đã vượt qua (bốn) dòng nước lũ, không còn lậu hoặc.

178. Hôm nay thật chúng con
Ðược thấy điềm tốt lành,
Ðược hào quang chói sáng,
Của bình minh tốt lành.
Vì chúng con được thấy,
Bậc Chánh Ðẳng Chánh Giác,
Bậc đã vượt bộc lưu,
Bậc đã đoạn lậu hoặc.

181. Ime dasasatā yakkhā iddhimanto yasassino,
sabbe taṃ saraṇaṃ yanti tvaṃ no satthā anuttaro.

181. Một ngàn Dạ-xoa này, có thần thông, có danh tiếng, tất cả đi đến nương nhờ Ngài. Ngài là bậc Đạo Sư vô thượng của chúng tôi.

 

 

179. Ngàn vị dạ-xoa này,
Có thần lực danh xưng,
Tất cả xin đi đến
Y tựa quy ngưỡng Ngài,
Ngài là bậc Ðạo Sư,
Vô thượng của chúng con.

182. Te mayaṃ vicarissāma gāmā gāmaṃ nagā nagaṃ,
namassamānā sambuddhaṃ dhammassa ca sudhammatanti.


 

182. Chúng tôi đây sẽ du hành từ làng này đến làng nọ, từ núi này đến núi khác, kính lễ đấng Toàn Giác và tính chất thánh thiện của Giáo Pháp.

180. Chúng con sẽ bộ hành
Làng này qua làng khác,
Thành này qua thành khác,
Ðảnh lễ bậc Chánh giác,
Ðảnh lễ thiện pháp tánh,
Của Chánh pháp vi diệu.

 

Hemavatasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

 

Dứt Kinh Hemavata.

 

 

 

10. ĀḶAVAKASUTTAṂ

 

 

10. KINH ĀḶAVAKA

 

 

10. KINH ALAVAKA

Evaṃ me sutaṃ: Ekaṃ samayaṃ bhagavā āḷaviyaṃ viharati āḷavakassa yakkhassa bhavane atha kho āḷavako yakkho yena bhagavā tenupasaṅkami, upasaṅkamitvā bhagavantaṃ etadavoca: Nikkhama samaṇāti.

Tôi đã nghe như vầy: Một thời đức Thế Tôn ngự ở Āḷavī, tại nơi trú ngụ của Dạ-xoa Āḷavaka. Khi ấy, Dạ-xoa Āḷavaka đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã nói với đức Thế Tôn điều này: “Này Sa-môn, hãy đi ra.”  

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Alavi, tại trú xứ của Dạ-xoa Alavaka. Rồi Dạ-xoa Alavaka đi đến Thế Tôn, sau khi đến nói với Thế Tôn:

- Này Sa-môn, hãy đi ra.

Sādhāvusoti bhagavā nikkhami.

“Này đạo hữu, tốt lắm.” Đức Thế Tôn đã đi ra.

 

- Lành thay, Hiền giả.

Thế Tôn đi ra.

Pavisa samaṇāti.

Sādhāvusoti bhagavā pāvisi.

 

“Này Sa-môn, hãy đi vào.”

“Này đạo hữu, tốt lắm.” Đức Thế Tôn đã đi vào.

 

- Này Sa-môn, hãy đi vào.

- Lành thay, Hiền giả.

Thế Tôn đi vào.

Dutiyampi kho āḷavako yakkho bhagavantaṃ etadavoca: Nikkhama samaṇāti.

Đến lần thứ nhì, Dạ-xoa Āḷavaka đã nói với đức Thế Tôn điều này: “Này Sa-môn, hãy đi ra.”  

Lần thứ hai, Dạ-xoa Alavaka nói với Thế Tôn:

- Này Sa-môn, hãy đi ra.

Sādhāvusoti bhagavā nikkhami.

“Này đạo hữu, tốt lắm.” Đức Thế Tôn đã đi ra.

 

- Lành thay, Hiền giả.

Thế Tôn đi ra:

Pavisa samaṇāti.

Sādhāvusoti bhagavā pāvisi.

 

“Này Sa-môn, hãy đi vào.”

“Này đạo hữu, tốt lắm.” Đức Thế Tôn đã đi vào.

 

- Này Sa-môn, hãy đi vào.

- Lành thay, Hiền giả.

Thế Tôn đi vào.

Tatiyampi kho āḷavako yakkho bhagavantaṃ etadavoca: Nikkhama samaṇāti.

Đến lần thứ ba, Dạ-xoa Āḷavaka đã nói với đức Thế Tôn điều này: “Này Sa-môn, hãy đi ra.”

Lần thứ ba, Dạ-xoa Alavaka nói với Thế Tôn:

- Này Sa-môn, hãy đi ra.

Sādhāvusoti bhagavā nikkhami.

“Này đạo hữu, tốt lắm.” Đức Thế Tôn đã đi ra.

- Lành thay, Hiền giả.

Thế Tôn đi ra.

Pavisa samaṇāti.
Sādhāvusoti bhagavā pāvisi.

“Này Sa-môn, hãy đi vào.”

“Này đạo hữu, tốt lắm.” Đức Thế Tôn đã đi vào.

 

- Này Sa-môn, hãy đi vào.

- Lành thay, Hiền giả.

Thế Tôn đi vào.

Catutthampi kho āḷavako yakkho bhagavantaṃ etadavoca: Nikkhama samaṇāti.

Đến lần thứ tư, Dạ-xoa Āḷavaka đã nói với đức Thế Tôn điều này: “Này Sa-môn, hãy đi ra.”

 

Lần thứ tư, Dạ-xoa Alavaka nói với Thế Tôn:

- Này Sa-môn, hãy đi ra.

Na khvāhaṃ taṃ āvuso nikkhamissāmi yaṃ te karaṇīyaṃ taṃ karohīti.

“Này đạo hữu, vậy thì Ta sẽ không đi ra. Điều gì mà ngươi cần làm thì ngươi hãy làm điều ấy đi.”

 

- Này Hiền giả, Ta sẽ không đi ra cho Ông. Ông cần gì hãy làm?

 

Pañhaṃ taṃ samaṇa pucchissāmi, sace me na vyākarissasi cittaṃ vā te khipissāmi, hadayaṃ vā te phālessāmi, pādesu vā gahetvā pāragaṅgāya khipissāmīti.

“Này Sa-môn, ta sẽ hỏi ông câu hỏi, nếu ông không trả lời ta, thì ta sẽ khuấy động tâm của ông, hoặc ta sẽ chẻ đôi trái tim của ông, hoặc ta sẽ nắm ở hai bàn chân rồi ném qua bên kia sông Gaṅgā.”

 

- Này Sa-môn, ta sẽ hỏi Ngài. Nếu Ngài không trả lời cho ta, ta sẽ làm tâm trí Ngài điên loạn, hay ta sẽ bóp nát quả tim của Ngài, hay nắm chân của Ngài, ta sẽ quăng qua bờ sông bên kia sông Hằng.

Na khvāhaṃ taṃ āvuso passāmi sadevake loke samārake sabrahmake sassamaṇabrāhmaṇiyā pajāya sadevamanussāya yo me cittaṃ vā khipeyya hadayaṃ vā phāleyya pādesu vā gahetvā pāragaṅgāya khipeyya, api ca tvaṃ āvuso puccha, yadākaṅkhasīti.

“Này đạo hữu, Ta quả không nhìn thấy người nào trong thế gian tính luôn cõi của chư Thiên, cõi Ma Vương, cõi Phạm Thiên, cho đến dòng dõi Sa-môn, Bà-la-môn, các hạng chư Thiên và loài người mà có thể khuấy động tâm của Ta, hoặc có thể chẻ đôi trái tim của Ta, hoặc có thể nắm ở hai bàn chân rồi ném qua bên kia sông Gaṅgā. Này đạo hữu, tuy vậy ngươi hãy hỏi điều mà ngươi muốn.”

- Này Hiền giả, Ta không thấy một ai trong thế giới với chư Thiên, với Ác ma và với Phạm thiên, trong quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn với chư Thiên và loài Người, lại có thể làm tâm Ta điên loạn, hay bóp nát quả tim của Ta, hay nắm chân quăng Ta qua bên kia bờ sông Hằng. Tuy vậy, này Hiền giả, Ông cứ hỏi như ý Ông muốn.

 

Atha kho āḷavako yakkho bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi:

Khi ấy, Dạ-xoa Āḷavaka đã nói với đức Thế Tôn bằng lời kệ rằng:

 

Rồi Dạ-xoa với bài kệ nói với Thế Tôn:

183. Kiṃ sūdha vittaṃ purisassa seṭṭhaṃ
kiṃ sū suciṇṇaṃ sukhamāvahāti,
kiṃ sū have sādutaraṃ rasānaṃ
kathaṃ jīviṃ jīvitamāhu seṭṭhaṃ.

 

183. "Cái gì ở thế gian này là của cải hạng nhất đối với con người?

Cái gì được khéo thực hành đem lại sự an lạc?

Cái gì quả thật là ngọt ngào hơn cả trong số các vị nếm?

Sống cách nào người ta đã gọi là đời sống hạng nhất?"

 

Alavaka:

181. Ở đời, tài sản gì,
Tối thắng cho con người?
Cái gì khéo thực hành
Ðem lại chơn an lạc.
Cái gì trong các vị,
Là vị ngọt tối thượng?
Nếp sống như thế nào,
Gọi nếp sống tối thắng?

184. Saddhīdha vittaṃ purisassa seṭṭhaṃ
dhammo suciṇṇo sukhamāvahāti,
saccaṃ have sādutaraṃ rasānaṃ
paññājīviṃ jīvitamāhu seṭṭhaṃ.

 

184. "Đức tin ở thế gian này là của cải hạng nhất đối với con người.

Giáo Pháp được khéo thực hành đem lại sự an lạc.

Chân thật quả thật là ngọt ngào hơn cả trong số các vị nếm.

Sống với trí tuệ người ta đã gọi là đời sống hạng nhất."

 

Thế Tôn:

182. Ở đời này, lòng tin,
Tối thắng cho con người,
Cái gì khéo thực hành,
Ðem lại chơn an lạc?
Chánh pháp khéo thực hiện,
Ðem lại chơn an lạc,
Sự thật trong các vị,
Là vị ngọt tối thượng,
Nếp sống với trí tuệ,
Là nếp sống tối thắng
.

185. Kathaṃ su tarati oghaṃ kathaṃ su tarati aṇṇavaṃ,
kathaṃ su dukkhaṃ acceti kathaṃ su parisujjhati.

185. "Làm thế nào vượt qua cơn lũ? Làm thế nào vượt qua biển cả? Làm thế nào khắc phục khổ đau? Làm thế nào trở nên thanh tịnh?" 

 

Alavaka:

183. Thế nào vượt bộc lưu?
Thế nào vượt biển lớn?
Thế nào vượt qua khổ?
Thế nào thật thanh tịnh?

186. Saddhāya taratī oghaṃ appamādena aṇṇavaṃ,
viriyena dukkhamacceti paññāya parisujjhati.

186. "Nhờ đức tin vượt qua cơn lũ. Nhờ không xao lãng vượt qua biển cả. Nhờ tinh tấn khắc phục khổ đau. Nhờ trí tuệ trở nên thanh tịnh."

 

Thế Tôn:

184. Với tín, vượt bộc lưu,
Không phóng dật, vượt biển,
Tinh tấn, vượt đau khổ,
Với tuệ, được thanh tịnh.

187. Kathaṃ su labhate paññaṃ kathaṃ su vindate dhanaṃ,
kathaṃ su kittiṃ pappoti kathaṃ mittāni ganthati,
asmā lokā paraṃ lokaṃ kathaṃ pecca na socati.
 

187. "Làm thế nào đạt được trí tuệ? Làm thế nào kiếm được tài sản?

Làm thế nào thành đạt tiếng tăm? Làm thế nào kết giao bạn hữu?

Từ đời này đến đời khác, làm thế nào không sầu muộn sau khi chết?"

 

Alavaka:

185. Thế nào được trí tuệ?
Thế nào được tài sản?
Thế nào đạt danh xưng?
Thế nào cột bạn hữu?
Ðời này qua đời sau,
Thế nào, chết không sầu?

188. Saddhāno arahataṃ dhammaṃ nibbānapattiyā,
sussūsā labhate paññaṃ appamatto vicakkhaṇo.

188. "Trong khi có niềm tin vào Giáo Pháp của các bậc A-la-hán nhằm đạt đến Niết Bàn, nhờ vào sự mong mỏi lắng nghe, người không xao lãng, sâu sắc đạt được trí tuệ.

 

Thế Tôn:

186. Tin tưởng bậc La-hán,
Tin pháp, đạt Niết-bàn,
Khéo nghe, được trí tuệ,
Bậc trí, không phóng dật.

189. Patirūpakārī dhuravā uṭṭhātā vindate dhanaṃ,
saccena kittiṃ pappoti dadaṃ mittāni ganthati.

189. Người có việc làm phù hợp, có trách nhiệm, năng động, kiếm được tài sản. Nhờ vào sự chân thật thành đạt tiếng tăm. Trong khi bố thí kết giao các bạn hữu.

 

187. Làm thích đáng trách nhiệm,
Phấn đấu được tài sản,
Với sự thật được danh,
Bố thí cột bạn bè.

 

190. Yassete caturo dhammā saddhassa gharamesino,
saccaṃ dhammo dhiti cāgo sa ve pecca na socati.
 

190. Người nào, sống tại gia có đức tin, sở hữu bốn pháp này: chân thật, chính trực, kiên trì, xả thí, người ấy chắc chắn không sầu muộn sau khi chết.

 

188. Ai là người gia chủ,
Tin tưởng bốn pháp này,
Sự thật và Chánh pháp,
Kiên trì và bố thí,
Vị ấy sau khi chết,
Nhất định không sầu muộn.

191. Iṅgha aññepi pucchassu puthu samaṇabrāhmaṇe,
yadi saccā damā cāgā khantyā bhīneyā vijjati.

191. Này, ngươi cũng hãy hỏi số đông các Sa-môn và Bà-la-môn về các điều khác, nếu có điều nào đó là tốt hơn sự chân thật, sự tự chế ngự, sự xả thí, và sự kham nhẫn."

 

189. Hãy hỏi các vị khác,
Sa-môn, Bà-la-môn,
Nếu có pháp nào khác
Ở đời, lại thắng hơn,
Sự thật và nhiếp phục,
Bố thí và kham nhẫn?

192. Kathaṃ nu dāni puccheyyaṃ puthu samaṇabrāhmaṇe,
sohaṃ ajja pajānāmi yo cattho samparāyiko.

 

192. "Vì sao con lại phải hỏi số đông các Sa-môn và Bà-la-môn? Hôm nay con đây biết rõ điều nào là việc lợi ích ở thời vị lai.

 

Alavaka:

190. Sao nay con rộng hỏi,
Sa-môn, Bà-la-môn,
Nay con được rõ biết,
Hiện, vị lai hạnh phúc.

193. Atthāya vata me buddho vāsāyā’ḷavimāgamī,
sohaṃ ajja pajānāmi yattha dinnaṃ mahapphalaṃ.


 

193. Quả thật vì lợi ích cho con mà đức Phật đã đi đến cư ngụ ở Āḷavī. Hôm nay con đây biết rõ vật đã được bố thí ở nơi nào là có quả báu lớn lao.

 

 

 

191. Vì hạnh phúc cho con,
Mong rằng bậc Giác Ngộ,
Hãy đi đến an trú,
Tại xứ Alavi.
Nay con đã rõ biết.
Chỗ nào thí, quả lớn.

194. So ahaṃ vivarissāmi gāmā gāmaṃ purāpuraṃ,
namassamāno sambuddhaṃ dhammassa ca sudhammatanti.

194. Con đây sẽ du hành từ làng này đến làng nọ, từ phố này đến phố khác, kính lễ đấng Toàn Giác và tính chất thánh thiện của Giáo Pháp."

192. Con sẽ đi bộ hành,
Làng này qua làng khác,
Thành này qua thành khác,
Ðảnh lễ bậc Giác Ngộ,
Ðảnh lễ thiện pháp tánh
Của Chánh pháp vi diệu
.

Evaṃ vutte āḷavako yakkho bhagavantaṃ etadavoca: Abhikkantaṃ bho gotama, abhikkantaṃ bho gotama, seyyathāpi bho gotama nikkujjitaṃ vā ukkujjeyya paṭicchannaṃ vā vivareyya mūḷhassa vā maggā ācikkheyya andhakāre vā telapajjotaṃ dhāreyya cakkhumanto rūpāni dakkhintīti, evamevaṃ bhotā gotamena anekapariyāyena dhammo pakāsito, esāhaṃ bhagavantaṃ gotamaṃ saraṇaṃ gacchāmi, dhammañca bhikkhusaṅghañca. Upāsakaṃ maṃ bhavaṃ gotamo dhāretu ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gatanti.
 

Khi được nói như vậy, Dạ-xoa Āḷavaka đã nói với đức Thế Tôn điều này: “Bạch Ngài, thật là tuyệt vời! Bạch Ngài, thật là tuyệt vời! Bạch Ngài, giống như người có thể lật ngửa vật đã được úp lại, mở ra vật đã bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc lối, đem lại cây đèn dầu nơi bóng tối (nghĩ rằng): ‘Những người có mắt sẽ nhìn thấy được các hình dáng;’ tương tự như thế Pháp đã được đức Thế Tôn giảng rõ bằng nhiều phương tiện. Bạch Ngài, con đây xin đi đến nương nhờ đức Thế Tôn Gotama, Giáo Pháp, và Tăng Chúng tỳ khưu. Xin đức Thế Tôn chấp nhận con là nam cư sĩ đã đi đến nương nhờ kể từ hôm nay cho đến trọn đời.”

 

 

 

Āḷavakasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

 

Dứt Kinh Āḷavaka.

 

 

 

11. VIJAYASUTTAṂ

 

 

11. KINH CHIẾN THẮNG

 

 

11. KINH THẮNG TRẬN

 

195. Caraṃ vā yadi vā tiṭṭhaṃ nisinno uda vā sayaṃ,
sammiñjeti pasāreti esā kāyassa iñjanā.

195. Trong lúc đang bước đi, hoặc đang đứng, đã ngồi xuống, hoặc đang nằm, người ta co lại, duỗi ra (các khớp nối); việc ấy là cử động của thân.

 

193. Hoặc là đi hay đứng,
Hoặc là ngồi hay nằm,
Hoặc co tay, duỗi tay,
Như vậy, thân dao động.

196. Aṭṭhinahārusaṃyutto tacamaṃsāvalepano,
chaviyā kāyo paṭicchanno yathābhūtaṃ na dissati.

196. Được nối liền bởi xương và gân, được bôi trét bởi da và thịt, thân được che phủ bởi lớp da, không nhìn thấy đúng theo bản thể thật. 

 

194. Ràng buộc với xương gân,
Trét thoa với da thịt,
Thân được da che đậy,
Như thật không thấy rõ.

197. Antapūrodarapūro yakapeḷassa vatthino,
hadayassa papphāsassa vakkassa pihakassa ca.

197. (Thân xác) được chất đầy bởi ruột, được chất đầy bởi bao tử, bởi túi gan, bởi bàng quang, bởi tim, bởi phổi, bởi thận, và bởi lá lách.

 

195. Trong một bụng chứa đầy,
Cục gan, và bọng đái,
Quả tim và buồng phổi,
Cả thận, và tỳ tạng.

198. Siṅghāṇikāya kheḷassa sedassa medassa ca,
lohitassa lasikāya pittassa ca vasāya ca.

198. Bởi nước mũi, bởi nước miếng, bởi mồ hôi, và bởi mỡ, bởi máu, bởi nước ở khớp xương, bởi mật, và bởi huyết tương.

 

196. Nước mũi, và nước miếng,
Mồ hôi, và nước mỡ,
Máu, và nước khớp xương,
Mật, và bạch huyết cầu.

199. Athassa navahi sotehi asucī savati sabbadā,
akkhimhā akkhigūthako kaṇṇamhā kaṇṇagūthako.

 

199. Rồi chất dơ luôn luôn trào ra từ chín dòng chảy của thân xác này: chất dơ của mắt từ mắt, chất dơ của tai từ tai.

197. Từ chín nguồn nước này,
Bất tịnh luôn luôn chảy,
Từ mắt, đồ bẩn chảy,
Từ tai, đồ bẩn chảy.

200. Siṅghāṇikā ca nāsāto mukhena vamat’ ekadā,
pittaṃ semhañca vamati kāyamhā sedajallikā.

200. Và nước mũi từ mũi, có lúc mật và đàm ói ra từ miệng, mồ hôi và cáu bẩn tiết ra từ thân.

198. Nước mũi từ lỗ mũi,
Từ miệng, có khi chảy,
Chảy mật, và niêm dịch,
Từ thân, mồ hôi bẩn.

201. Athassa susiraṃ sīsaṃ matthaluṅgassa pūritaṃ,
subhato naṃ maññatī bālo avijjāya purakkhato.

201. Rồi cái đầu trống rỗng của thân xác này được chứa đầy bởi não bộ. Bị lèo lái bởi vô minh, kẻ ngu nghĩ rằng nó là đẹp đẽ.

199. Trong đầu thật trống rỗng,
Chứa đầy những óc, não.
Bị vô minh dắt dẫn,
Kẻ ngu nghĩ tịnh sạch.

202. Yadā ca so mato seti uddhumāto vinīlako,
apaviddho susānasmiṃ anapekkhā honti ñātayo.

202. Và khi nào kẻ ấy đã chết, nằm xuống, trương lên, đổi màu xanh tím, bị liệng bỏ ở bãi tha ma, các thân nhân còn không trông ngóng.

 

200. Khi bị chết nằm xuống,
Phồng lên, và xanh bầm,
Quăng bỏ trong nghĩa địa,
Bà con không đoái hoài.

203. Khādanti naṃ supāṇā ca sigālā ca vakā kimī,
kākā gijjhā ca khādanti ye caññe santi pāṇino.

203. Các con chó, dã can, chó sói, và giòi bọ ngấu nghiến, các con quạ và diều hâu rỉa rói, và có các loài sinh vật khác nữa.

 

201. Chó, dã can đến ăn,
Chó sói, các côn trùng,
Quạ, diều hâu đến ăn,
Còn có hữu tình khác.

204. Sutvāna buddhavacanaṃ bhikkhu paññāṇavā idha,
so kho naṃ parijānāti yathābhūtaṃ hi passati.

204. Ở đây, sau khi lắng nghe lời dạy của đức Phật, vị tỳ khưu có tuệ. Thật vậy, vị ấy biết toàn diện về thân xác này, bời vì vị ấy nhìn thấy đúng theo bản thể thật.

 

202. Ðược nghe lời Phật dạy,
Tỷ-kheo có trí tuệ,
Vị ấy liễu tri thân,
Thấy thân đúng như thật.

205. Yathā idaṃ tathā etaṃ yathā etaṃ tathā idaṃ,
ajjhattañca bahiddhā ca kāye chandaṃ virājaye.

205. Cái này như thế nào, cái kia như thế ấy; cái kia như thế nào, cái này như thế ấy. Nên lìa khỏi sự mong muốn ở thân xác, bên trong và bên ngoài.

 

203. Ðây thế nào, kia vậy,
Kia thế nào, đây vậy,
Ðối với thân trong ngoài,
Từ bỏ mọi lòng dục.

206. Chandarāgaviratto so bhikkhu paññāṇavā idha,
ajjhagā amataṃ santiṃ nibbāna padamaccutaṃ.

206. Đã lìa khỏi lòng mong muốn và luyến ái, ở đây vị tỳ khưu ấy, thành tựu tuệ, đã đạt đến Bất Tử, An Tịnh, vị thế Niết Bàn, Bất Hoại.

 

204. Từ bỏ lòng tham dục,
Ðây Tỷ-kheo có tuệ,
Chứng bất tử, tịch tịnh,
Niết-bàn giới thường trú.

207. Dipādako yaṃ asuci duggandho parihīrati,
nānākuṇapaparipūro vissavanto tato tato.
 

207. Thân xác có hai chân này, không sạch sẽ, có mùi hôi, lại được săn sóc; nó tràn đầy chất thối rửa, đang rỉ nước từ nơi kia nơi nọ.  

205. Thân này với hai chân,
Bất tịnh và hôi thúi,
Ðầy xác chết, chảy nước,
Lại được giữ, nâng niu.

208. Etādisena kāyena yo maññe uṇṇametave,
paraṃ vā avajāneyya kimaññatra adassanāti.

 

208. Với thân xác như thế này, kẻ nào nghĩ đến kiêu hãnh, hoặc khi dễ người khác, còn có điều gì khác ngoài việc không nhìn thấy?

206. Với thân thể như vậy,
Ai lại nghĩ đề cao,
Hay khinh miệt kẻ khác,
Trừ kẻ không thấy gì.
 

 

Vijayasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

 

Dứt Kinh Chiến Thắng.

 

 

12. MUNISUTTAṂ

 

 

12. KINH HIỀN TRÍ

 

 

12. KINH ẨN SĨ

 

209. Santhavāto bhayaṃ jātaṃ niketā jāyate rajo,
aniketamasanthavaṃ etaṃ ve munidassanaṃ.

209. Sợ hãi sanh ra từ sự thân thiết, bụi bặm sanh ra từ nhà ở. Không nhà ở, không thân thiết, quả thật điều ấy là quan điểm của bậc hiền trí.

 

207. Thân mật, sanh sợ hãi,
Trú xứ, sanh bụi bặm,
Không trú xứ, không thân,
Hình ảnh bậc ẩn sĩ.

210. Yo jātamucchijja na ropayeyya
jāyantamassa nānuppavecche,
tamāhu ekaṃ muninaṃ carantaṃ
addakkhi so santipadaṃ mahesi.

 

210. Người nào, sau khi cắt đứt (ô nhiễm) đã được sanh ra, không nên vun trồng (ô nhiễm) đang được sanh ra, không nên tham gia cùng với nó (ô nhiễm). Người ta đã nói bậc hiền trí ấy đang du hành một mình. Bậc đại ẩn sĩ ấy đã nhìn thấy vị thế an tịnh.

 

208. Ai đã chặt sanh hữu,
Không còn gieo giống thêm,
Sanh hữu đã đoạn tận,
Không muốn nó tùy sanh,
Ðược gọi là ẩn sĩ,
Một mình đi im lặng,
Bậc đại sĩ đã thấy,
Con đường tịch tịnh ấy.

211. Saṅkhāya vatthūni pahāya bījaṃ
sinehamassa nānuppavecche,
sa ve muni jātikhayantadassī
takkaṃ pahāya na upeti saṃkhaṃ.

211. Sau khi đã xem xét các nền tảng, sau khi đã dứt bỏ hạt giống yêu thương, không nên tham gia cùng với nó. Quả thật, với việc nhìn thấy sự chấm dứt của việc sanh ra và hoại diệt, bậc hiền trí ấy dứt bỏ các suy tầm (bất thiện) và không còn đi đến sự định đặt (khái niệm).

 

209. Sau khi ước lượng đất,
Tìm hiểu được hột giống,
Không còn muốn tham ái,
Ðược tiếp tục tùy sanh,
Vị ấy chân ẩn sĩ,
Thấy sanh diệt chấm dứt,
Ðoạn tận mọi lý luận,
Không rơi vào tính toán.

212. Aññāya sabbāni nivesanāni
anikāmayaṃ aññatarampi tesaṃ,
sa ve muni vītagedho agiddho
nāyūhatī pāragato hi hoti.

212. Sau khi hiểu biết về tất cả các nơi trú ngụ (các cảnh giới tái sanh),

không còn dục vọng với bất cứ nơi trú ngụ nào trong số chúng.

Quả thật, bậc hiền trí ấy, đã xa lìa sự thèm khát, không bị thèm khát,

không còn tích lũy (nghiệp) bởi vì đã đi đến bờ kia.

210. Ðã rõ mọi trú xứ,
Không ham trú xứ nào,
Vị ấy chân ẩn sĩ,
Không tham, không say đắm.
Không còn phải ra sức,
Ðã đạt bờ bên kia.

213. Sabbābhibhuṃ sabbaviduṃ sumedhaṃ
sabbesu dhammesu anūpalittaṃ,
sabbañjahaṃ taṇhakkhaye vimuttaṃ
taṃ vāpi dhīrā muniṃ vedayanti.

213. Là vị khuất phục tất cả, biết rõ tất cả, có trí tuệ,

không bị nhiễm ô trong tất cả các pháp,

từ bỏ tất cả, được giải thoát trong sự diệt tận về tham ái,

chính vị ấy, các bậc sáng trí nhận biết là bậc hiền trí.

 

211. Bậc chiến thắng toàn diện,
Bậc toàn tri, thiện tuệ,
Ðối với tất cả pháp,
Không còn bị ô nhiễm.
Bậc từ bỏ tất cả,
Ái đoạn diệt, giải thoát.
Các bậc trí nhận thức,
Vị ấy thật ẩn sĩ.

214. Paññābalaṃ sīlavatūpapannaṃ
samāhitaṃ jhānarataṃ satīmaṃ,
saṅgāpamuttaṃ akhilaṃ anāsavaṃ
taṃ vāpi dhīrā muniṃ vedayanti.

214. Là vị có tuệ lực, đã thành tựu về giới và phận sự,

được định tĩnh, thích thú việc tham thiền, có niệm,

đã thoát khỏi sự quyến luyến, không chướng ngại, không còn lậu hoặc,

chính vị ấy, các bậc sáng trí nhận biết là bậc hiền trí.

 

212. Vị có trí tuệ lực,
Giới cấm được đầy đủ,
Ðịnh tĩnh, thích thiền định,
Gìn giữ trì chánh niệm,
Giải thoát các trói buộc,
Không hoang vu, lậu tận,
Các bậc trí nhận thức,
Vị ấy thật ẩn sĩ.

215. Ekaṃ carantaṃ muniṃ appamattaṃ
nindāpasaṃsāsu avedhamānaṃ,
sīhaṃva saddesu asantasantaṃ
vātaṃva jālamhi asajjamānaṃ,
padumaṃ va toyena alippamānaṃ
netāramaññesamanaññaneyyaṃ
taṃ vāpi dhīrā muniṃ vedayanti.

 

215. Vị hiền trí, du hành một mình, không xao lãng,

không rung động ở các lời khen ngợi hay chê bai,

tựa như loài sư tử không kinh sợ ở các tiếng động,

tựa như làn gió không bị dính mắc ở tấm lưới,

tựa như đóa hoa sen không nhiễm bẩn bởi nước,

người dẫn dắt những kẻ khác, không bị dẫn dắt bởi kẻ khác,

chính vị ấy, các bậc sáng trí nhận biết là bậc hiền trí.

 

213. Bộ hành, riêng một mình,
ẩn sĩ, không phóng dật,
Trước chê bai, tán thán,
Không có bị dao động.
Như sư tử, không sợ,
Giữa các tiếng vang động.
Như gió không vướng lưới,
Như son không dính nước,
Bậc lãnh đạo mọi người,
Người không ai lãnh đạo.
Các bậc trí nhận thức,
Vị ấy thật ẩn sĩ.

216. Yo gāhaṇe thambhorivābhijāyatī
yasmiṃ pare vācāpariyantaṃ vadanti,
taṃ vītarāgaṃ susamāhitindriyaṃ
taṃ vāpi dhīrā muniṃ vedayanti.


 

216. Vị nào hành xử tựa như cây cột trụ ở bãi tắm,

khi những kẻ khác nói lời nói quá mức,

vị ấy đã xa lìa luyến ái, có giác quan khéo được định tĩnh,

chính vị ấy, các bậc sáng trí nhận biết là bậc hiền trí.

 

214. Vị nào biết xử sự,
Như cột trụ hồ tắm,
Khi người khác nói lời,
Lời khen chê cực đoạn,
Vị không có tham ái,
Với căn khéo định tĩnh,
Các bậc trí nhận thức,
Vị ấy thật ẩn sĩ.

217. Yo ve ṭhitatto tasaraṃva ujjuṃ
jigucchati kammehi pāpakehi,
vīmaṃsamāno visamaṃ samañca
taṃ vāpi dhīrā muniṃ vedayanti.

217. Thật vậy, vị nào với tánh kiên định, ngay thẳng tựa như con thoi,

nhờm gớm đối với các nghiệp ác,

cân nhắc việc không đúng đắn và việc đúng đắn,

chính vị ấy, các bậc sáng trí nhận biết là bậc hiền trí.

 

215. Ai thật tự mình đứng
Thẳng như cây thoi đưa,
Nhàm chán các nghiệp ác,
Quán sát chánh, bất chánh,
Các bậc trí nhận thức,
Vị ấy thật ẩn sĩ.

218. Yo saññatatto na karoti pāpaṃ
daharo ca majjhimo ca munī yatatto,
arosaneyyo so na roseti kañci
taṃ vāpi dhīrā muniṃ vedayanti.

218. Vị có bản thân đã tự chế ngự không làm việc ác,

còn trẻ hoặc trung niên, vị hiền trí có bản thân đã được chế ngự.

Không nổi giận, vị ấy không làm bất cứ ai nổi giận,

chính vị ấy, các bậc sáng trí nhận biết là bậc hiền trí.

 

216. Ai biết tự chế ngự,
Không làm các điều ác,
Trẻ và hạng trung niên,
Bậc ẩn sĩ chế ngự,
Vị không nên chọc giận,
Vì không làm ai giận,
Các bậc trí nhận thức,
Vị ấy thật ẩn sĩ.

219. Yadaggato majjhato sesato vā
piṇḍaṃ labhetha paradattūpajīvi,
nālaṃ thutuṃ nopi nipaccavādī
taṃ vāpi dhīrā muniṃ vedayanti.
 

219. Vị có mạng sống nhờ vào sự bố thí của những người khác nên thọ nhận đồ ăn khất thực dầu là từ phần bên trên, hay từ phần ở giữa, hoặc từ phần còn thừa lại, không đáng để ca ngợi cũng không có lời nói miệt thị, chính vị ấy, các bậc sáng trí nhận biết là bậc hiền trí.

 

217. Ai sống nhờ người cho,
Nhận lãnh đồ khất thực,
Nhận từ trên, từ giữa,
Hay từ chỗ còn lại,
Không đủ để tán thán,
Không nói lời hạ mình,
Các bậc trí nhận thức,
Vị ấy thật ẩn sĩ.

220. Muniṃ carantaṃ virataṃ methunasmā
yo yobbane na upanibajjhate kvaci,
madappamādā virataṃ vippamuttaṃ
taṃ vāpi dhīrā muniṃ vedayanti.
 

220. Bậc hiền trí du hành, lánh xa việc đôi lứa,

vào thời tuổi trẻ, không nên gắn bó với bất cứ nơi đâu,

đã lánh xa sự say sưa và xao lãng, đã được giải thoát,

chính vị ấy, các bậc sáng trí nhận biết là bậc hiền trí.

 

218. Sống thụ hạnh ẩn sĩ,
Từ bỏ sự dâm dục,
Ai lúc còn tuổi trẻ,
Không bị trói buộc gì,
Từ bỏ mạn, phóng dật,
Ðược hoàn toàn giải thoát,
Các bậc trí nhận thức,
Vị ấy thật ẩn sĩ.

221. Aññāya lokaṃ paramatthadassiṃ
oghaṃ samuddaṃ atitariya tādiṃ,
taṃ chinnaganthaṃ asitaṃ anāsavaṃ
taṃ vāpi dhīrā muniṃ vedayanti.


 

221. Sau khi đã hiểu biết thế gian, có sự nhìn thấy chân lý tuyệt đối,

sau khi đã vượt qua dòng nước lũ và biển cả, là bậc tự tại,

vị ấy đã cắt đứt sự trói buộc, không còn lệ thuộc, không còn lậu hoặc,

chính vị ấy, các bậc sáng trí nhận biết là bậc hiền trí.

 

219. Rõ biết được thế giới,
Thấy được lý chân đế,
Vượt khỏi được bộc lưu,
Vượt biển lớn như vậy.
Vị chặt đứt trói buộc,
Không ỷ lại, vô lậu.
Các bậc trí nhận thức,
Vị ấy thật ẩn sĩ.

222. Asamā cubho dūravihāravuttino
gihī dāraposī amamo ca subbato,
parapāṇarodhāya gihī asaññato
niccaṃ munī rakkhati pāṇino yato.


 

 

222. Và cả hai không tương tự nhau, với chỗ trú ngụ và cách sinh sống khác xa nhau. Kẻ tại gia nuôi vợ, còn vị vô sở hữu có sự hành trì tốt đẹp. Kẻ tại gia không tự chế ngự ở việc chận đứng sanh mạng của kẻ khác, còn vị hiền trí, đã được chế ngự, thường xuyên bảo vệ các sanh mạng.

 

220. Hai nếp sống không giống.
An trú, thật xa nhau,
Gia chủ, có vợ con,
Không ngã sở, khéo nhiếp,
Gia chủ không chế ngự,
Ngăn chận hữu tình khác,
Bậc ẩn sĩ luôn luôn,
Che chở loài hữu tình.

223. Sikhī yathā nīlagīvo vihaṅgamo
haṃsassa nopeti javaṃ kudācanaṃ,
evaṃ gihī nānukaroti bhikkhuno
munino vicittassa vanamhi jhāyatoti.

Rắn, và vị Dhaniya nữa, sừng (tê giác), và vị Kasī như thế ấy,

vị Cunda, và sự thoái hóa nữa, người hạ tiện, sự tu tập tâm từ ái,

(Dạ-xoa) Sātāgira, Āḷavaka, chiến thắng, và vị hiền trí như thế ấy,

mười hai bài kinh này được gọi là ‘Phẩm Rắn.’

221. Giống như loại chim công,
Loại chim có cổ xanh,
Không bao giờ sánh bằng
Chim thiên nga nhanh nhẹn.
Cũng vậy, người gia chủ,
Không sánh bằng Tỷ-kheo,
Bậc ẩn sĩ viễn ly,
Sống thiền định trong rừng.
 

 

Munisuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

 

Dứt Kinh Hiền Trí.

 

 

 

Uragavaggo paṭhamo.

 

 

Phẩm Rắn là thứ nhất.

 

TASSUDDĀNAṂ
 

Urago dhaniyo ceva visāṇañca tathā kasī,

cundo parābhavo ceva vasalo mettabhāvanā.

Sātāgiro āḷavako vijayo ca tathā muni,

dvādasetāni suttāni uragavaggoti vuccati.

TÓM LƯỢC PHẨM NÀY

 

Rắn, và vị Dhaniya nữa, sừng (tê giác), và vị Kasī như thế ấy,

vị Cunda, và sự thoái hóa nữa, người hạ tiện, sự tu tập tâm từ ái,

(Dạ-xoa) Sātāgira, Āḷavaka, chiến thắng, và vị hiền trí như thế ấy,

mười hai bài kinh này được gọi là ‘Phẩm Rắn.’