08. KINH MŨI TÊN
8. SALLASUTTAṂ |
8. KINH MŨI TÊN |
8. KINH MŨI TÊN |
577. Animittamanaññātaṃ maccānaṃ idha jīvitaṃ, | 577. Mạng sống của loài người ở đây là không có sự báo hiệu, không được biết chắc, khó khăn, ngắn ngủi, và nó bị gắn liền với khổ đau. | 574. Sinh mạng của loài Người, |
578. Na hi so upakkamo atthi yena jātā na mīyare, | 578. Thật sự không có phương thức nào khiến cho những kẻ đã được sanh ra (sẽ) không chết; sau khi đạt đến tuổi già (hay chưa đạt đến) cũng sẽ có cái chết, bởi vì các sinh mạng có quy luật là như vậy. | 575. Không có sự gắng nào, |
579. Phalānamiva pakkānaṃ pāto patanato bhayaṃ, | 579. Tựa như nỗi sợ hãi về sự rơi rụng vào buổi sáng của những trái cây đã chín, nỗi sợ hãi thường xuyên về sự chết của những con người đã được sanh ra là như vậy. | 576. Như các trái chín muồi, |
580. Yathāpi kumbhakārassa katā mattikabhājanā, | 580. Cũng giống như bát đĩa bằng đất sét đã được làm ra bởi người thợ gốm, tất cả có sự bể vỡ là chặng cuối, mạng sống của loài người là như vậy. | 577. Như người thợ làm ghè |
581. Daharā ca mahantā ca ye bālā ye ca paṇḍitā, | 581. Những ai ngu si và những ai sáng suốt, các trẻ con và những người lớn, tất cả đều sa vào quyền lực của thần chết, tất cả đều có sự chết là nơi cuối cùng. | 578. Trẻ tuổi và lớn tuổi, |
582. Tesaṃ maccuparetānaṃ gacchataṃ paralokato, | 582. Khi những người ấy đã bị chế ngự bởi thần chết và đang đi đến thế giới khác, người cha không thể bảo vệ con trai, hoặc ngay cả thân nhân không thể bảo vệ các quyến thuộc. | 579. Những ai chết chi phối, |
583. Pekkhataṃ yeva ñātīnaṃ passa lālapataṃ puthu, | 583. Ngươi hãy nhìn xem,[1] trong số các thân quyến thật sự đang xem xét, đang than khóc thê thảm, từng người một trong số loài người bị đưa đi, ví như loài bò là để giết thịt. [1] Theo Chú Giải, đức Phật có nam cư sĩ là người hộ độ. Người này có đứa con trai vừa mới mất, và vì sầu muộn nên không dùng vật thực đã bảy ngày. Thương tình, đức Phật đã ngự đến nhà nam cư sĩ ấy để giáo hóa (SnA. ii, 457). | 580. Hãy xem, các bà con |
584. Evamabbhāhato loko maccunā ca jarāya ca, | 584. Thế gian bị hành hạ như vậy bởi cái chết và sự già; vì thế sau khi biết được bản thể của thế gian các bậc sáng trí không sầu muộn. | 581. Như vậy, thế giới này |
585. Yassa maggaṃ na jānāsi āgatassa gatassa vā, | 585. Ngươi không biết lộ trình đi đến (sanh) hoặc ra đi (chết) của kẻ ấy, trong khi không nhìn thấy cả hai chặng, ngươi than vãn một cách vô ích. | 582. Ai không biết con đường, |
586. Paridevayamāno ce kañci atthaṃ udabbahe, | 586. Nếu trong lúc than vãn, trong lúc hành hạ bản thân, kẻ bị mê muội có thể tạo nên lợi ích nào đó, thì người khôn khéo cũng nên làm điều ấy. | 583. Nếu thật sự than khóc, |
587. Na hi runtena sokena santiṃ pappoti cetaso, | 587. Hiển nhiên với việc khóc lóc, với sự sầu muộn, thì không đạt được sự an tịnh của tâm, khổ đau sanh lên cho người này còn nhiều hơn; cơ thể của người này bị tổn hại. | 584. Không với sầu, nước mắt, |
588. Kiso vivaṇṇo bhavati hiṃsamattānamattanā, | 588. Trong khi tự mình hãm hại mình, (người này) trở nên gầy ốm, xuống sắc, những người đã quá vãng không được trợ giúp do việc ấy; sự than vãn là không có lợi ích. | 585. Ốm yếu, sắc da tái, |
589. Sokamappajahaṃ jantu bhiyyo dukkhaṃ nigacchati, | 589. Trong khi không dứt bỏ sầu muộn, con người đọa vào khổ đau nhiều hơn nữa; trong khi khóc lóc kẻ đã quá vãng, con người chịu sự tác động của sầu muộn. | 586. Chúng sanh không bỏ sầu, |
590. Aññepi passa gamine yathākammūpage nare, | 590. Hãy nhìn xem những kẻ khác cũng có sự ra đi, những con người đi theo nghiệp lực, các sinh mạng ở nơi này quả nhiên run rẩy sau khi rơi vào quyền lực của thần chết. | 587. Hãy xem các người khác |
591. Yena yena hi maññanti tato taṃ hoti aññathā, | 591. Dầu họ suy nghĩ thế này thế khác, kết quả từ đó trở nên khác hẳn. Việc chia cách là như thế ấy; ngươi hãy nhìn xem bản thể của thế gian. | 588. Loài Người còn mong ước, |
592. Api ce vassasataṃ jīve bhīyo vā pana mānavo, | 592. Thậm chí nếu người trai trẻ có thể sống một trăm năm, hoặc hơn thế nữa, rồi cũng (sẽ) tách rời khỏi tập thể thân quyến, cũng (sẽ) từ bỏ mạng sống ở nơi này. | 589. Nếu loài Người sống được, |
593. Tasmā arahato sutvā vineyya paridevitaṃ, | 593. Bởi thế, sau khi lắng nghe (lời giảng dạy của) bậc A-la-hán, nên chừa bỏ việc than vãn. Sau khi nhìn thấy người quá vãng đã lìa đời, (nên biết rằng) ‘Người ấy không thể nào (trở lại) với ta.’ | 590. Do vậy, sau khi nghe |
594. Yathā saraṇamādittaṃ vārinā parinibbuto, | 594. Giống như người có thể dùng nước dập tắt chỗ ở bị đốt cháy, cũng tương tự như thế, người can đảm, có trí tuệ, sáng suốt, thiện xảo có thể mau chóng xua tan sự sầu muộn đã được sanh khởi, tựa như làn gió thổi bay sợi bông gòn. | 591. Như nhà lửa bị cháy, |
595. Paridevaṃ pajappañca domanassañca attano, | 595. Người tầm cầu sự an lạc cho bản thân nên nhổ lên mũi tên của mình, sự than vãn, sự khởi tham muốn, và nỗi ưu phiền của bản thân. | 592. Ai tự tìm hạnh phúc, |
596. Abbūḷhasallo asito santiṃ pappuyya cetaso, | 596. Người có mũi tên đã được nhổ lên, không còn lệ thuộc, sau khi đã đạt được sự an tịnh của tâm, trong khi vượt qua mọi sầu muộn, trở thành không còn sầu muộn, được tịch tịnh. | 593. Ai đã rút mũi tên, |
Sallasuttaṃ niṭṭhitaṃ.
| Dứt Kinh Mũi Tên.
|