Chánh Tín - Mê Tín. Kì 39 (126)
126. NGƯỜI CẦU VỒNG
Sau khi Thầy nhận được thư của Chơn Giác và một tài liệu nói về hiện tượng huyền bí của xứ Tây Tạng với tựa đề: “Từ Một Câu Chuyện Kỳ Lạ Tại Tây Tạng,” câu chuyện huyền bí kỳ lạ ấy xảy ra đã khiến nhiều nhà khoa học trên thế giới vào cuộc truy tìm với mọi góc độ khoa học để chứng minh con người có linh hồn hay không.
Tuy bức thư này Chơn Giác đã gửi đến Thầy rất lâu, nhưng Thầy chưa trả lời vì bận quá nhiều công việc. Nhưng rồi có nhiều người gửi thư đến hỏi Thầy về câu chuyện kỳ lạ này và ai cũng muốn biết linh hồn có hay không có, mà sao trong cuộc sống họ thường gặp những hiện tượng kỳ lạ. Những hiện tượng kỳ lạ đó phải chăng là linh hồn của con người?
Trước khi trả lời thư Chơn Giác và mọi người, Thầy xin mọi người hãy đọc lại câu chuyện xảy ra tại Tây Tạng và những sự tìm tòi linh hồn của các nhà khoa học. Câu chuyện như sau:
“Tại vùng đất huyền bí nhất trên thế giới – Tây Tạng cho đến ngày nay vẫn còn lưu truyền một sự kiện hết sức kỳ lạ về Người Cầu Vồng. Sự kiện xảy ra vào năm 1998 tại Kham – khu vực hẻo lánh phía đông Tây Tạng - sự biến mất kỳ lạ của vị Lạt ma Khenpo A-chos. Ông là một trong các Lạt ma có uy tín nhất trong vùng, thường xuyên thuyết giảng về đạo Phật dù chính phủ Trung Quốc có những quy định rất khắt khe về việc này. Vào tuổi tám mươi, vị Lạt ma vẫn hoàn toàn khỏe mạnh. Một hôm, Lạt ma Khenpo A-chos lên nằm trên giường của mình, miệng lẩm bẩm câu thần chú Tây Tạng “Omani padmehum” và qua đời. Ngay sau đó cầu vồng xuất hiện trên căn phòng nhỏ của ông suốt cả ngày.”
Ở Tây Tạng, các vị Lạt ma thường tu tập theo Mật Tông nên ngày đêm chuyên niệm câu thần chú “Omani padmehum”. Khi tập luyện câu thần chú này linh hiển thường xuất hiện cầu vồng. Vị Lạt ma Khenpo A-chos trước khi chết cũng đọc câu thần chú này và cầu vồng hiện ra khi ông vừa tắt thở. Do đó, người ta nghĩ rằng khi ông chết, linh hồn ông hiện ra cầu vồng, vì thế mà người ta gọi ông là Người Cầu Vồng.
Tin tức này loan truyền khắp mọi nơi trên thế giới. Do những hiện tượng kỳ lạ này mà các nhà khoa học vào cuộc để nghiên cứu “linh hồn”, nhưng linh hồn chỉ là một sự tưởng tượng của loài người, qua những hiện tượng của loài người, qua những hiện tượng xảy ra xung quanh cuộc sống của con người mà không thể giải thích được. Câu chuyện cầu vồng của vị Lạt ma Khenpo A-chos khiến chúng tôi nhớ đến câu chuyện cầu vồng do các vị Lạt ma đưa xá lợi của Phật, của ông Phú Lâu Na và của ông Xá Lợi Phất qua cúng dường cho Phật giáo. Phật giáo tổ chức buổi lễ tiếp xá lợi và nhập tháp. Phật tử và quý chư Tăng, Ni về đông đảo để làm cho buổi lễ tiếp xá lợi rất long trọng.
Khi quý Hòa thượng tiếp nhận đưa xá lợi của Phật và các vị Thánh Tăng nhập tháp thì tất cả quý vị Hòa thượng đồng tụng kinh an vị (quý vị Hòa thượng Lạt ma Tây Tạng đọc chú “Omani padmehum”) lúc đó trên nền trời ngay tháp xuất hiện một cầu vồng khiến cho toàn thể phật tử và quý vị Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức Tăng, Ni trong Giáo hội Phật giáo đều bái phục sự linh thiêng của xá lợi Phật và các vị Thánh Tăng.
Qua sự việc xảy ra người cầu vồng Lạt ma Khenpo A-chos và cầu vồng xuất hiện khi xá lợi của Phật nhập tháp mà chúng Thánh Tăng và phật tử chứng kiến ở Việt Nam khiến cho chúng tôi xác định các vị Lạt ma sử dụng thần chú xuất hiện cầu vồng là để lừa đảo mọi người trên thế giới.
Đạo Phật ra đời nhằm giúp cho con người làm chủ bốn sự đau khổ: sinh, già, bệnh, chết để đem lại sự an vui hạnh phúc chân thật cho con người, chứ không dạy con người tu tập luyện thần thông hay niệm thần chú xuất hiện cầu vồng. Thế mà Phật giáo Tây Tạng lại sản sinh ra câu thần chú xuất hiện cầu vồng. Xuất hiện cầu vồng như vậy có ích lợi gì cho tín đồ và bản thân người tu sĩ? Cầu vông chẳng qua chỉ tạo cho tín đồ lòng tin mù quáng, khi nhìn thấy cầu vồng xuất hiện là tất cả tín đồ cho rằng các vị Lạt ma tu chứng xuất hồn bay về xứ Phật.
Sự thật tu chứng của Phật giáo không phải vậy. Người tu chứng đạo của Phật giáo là một người bình thường như bao nhiêu người khác, nhưng tâm họ không còn giận hờn, phiền não hay tham muốn một điều gì cả, thân họ nếu có đau nhức chỗ nào thì họ tác ý đuổi đi. Do đó, người tu chứng đạo của Phật giáo là người làm chủ được thân tâm. Cho nên tất cả các ác pháp đến với họ như nước chảy qua cầu, tâm họ bất động như nước, như đất.
Tu sĩ chơn chánh của Phật giáo họ tu hành không có cầu vồng, không có thần thông bùa ngải, không có tụng kinh niệm chú, không cầu an, cầu siêu, không cầu xin bất cứ một đấng Bồ Tát nào để gia hộ cho họ. Thế mà ở đây, những người đệ tử của Khenpo A-chos tổ chức lễ cầu kinh để linh hồn người thầy siêu thoát.
Chúng ta hãy đọc đoạn kế tiếp để thấy các vị Lạt ma có nhiều xảo thuật qua mắt mọi người: “Những người học trò của Khenpo A-chos tổ chức lễ cầu kinh để linh hồn người thầy mình siêu thoát.” Một vị Lạt ma đã tu chứng, khi chết có cầu vồng xuất hiện, vậy mà những đệ tử của người lại xúm nhau cầu kinh để linh hồn siêu thoát. Việc làm này có khác nào như người thế gian.
Một người tu chứng đạo khi chết biết mình đi về đâu, trước khi chết và sau khi chết phải làm gì. Ngược lại, vị Lạt ma Khenpo A-chos chưa biết mình tu chứng, chẳng biết mình chết đi về đâu, chẳng biết mình chết phải làm gì, chỉ biết đọc thần chú hiện cầu vồng. Do đó, sau khi chết các đệ tử cứ làm theo tục lệ tụng kinh niệm Phật cầu siêu để linh hồn siêu thoát.
Người tu chứng đều biết con người có linh hồn hay không có. Còn vị Lạt ma này chết chẳng biết gì cả như một người bình thường ở thế gian. Thường cơ thể một người chết là máu không còn lưu thông và đông đặc lại, không có ô xy thì da xanh xám, vậy mà ở đây cơ thể vị Lạt ma lại hồng hào. Chúng ta đọc đoạn này sẽ thấy sự lừa đảo không có khoa học của những vị Lạt ma Tây Tạng:
“Nhưng hiện tượng lạ thường xáy ra. Da thịt của vị Lạt ma bắt đầu hồng hào trở lại. Dường như Khenpo A-chos đang từ từ tái sinh. Học trò của ông đi hỏi ý kiến một vị Lạt ma khác và được lời khuyên hãy bọc thi thể của thầy lại và tiếp tục cầu kinh. Họ làm đúng như lời hướng dẫn. Một tuần sau, khi mở tấm áo bọc thi thể vị Lạt ma, người ta chỉ thấy vài sợi tóc còn sót lại trên gối, thi thể của Khenpo A-chos đã hoàn toàn biến mất. Từ đó người Tây Tạng gọi ông là Người Cầu Vồng.”
Người Tây Tạng gạt mọi người trên thế giới được, chứ không thể gạt được những người tu chứng của Phật giáo. Đọc đoạn này chúng ta biết rõ Phật giáo Tây Tạng chỉ là một Phật giáo Cầu Vồng chứ không có sự giải thoát làm chủ sinh, già, bệnh, chết như Phật giáo Nguyên Thủy.
Hieronymus Bosch miêu tả linh hồn về trời
“Câu chuyện thần bí lan khắp nơi. Cha Francis Tiso, một cha đạo dòng thánh Benedict cũng nghe được câu chuyện kỳ bí này. Cha Francis Tiso tổ chức một chuyến đi đến Kham để ghi lại lời kể của những người đã chứng kiến sự kiện. Người mà cha Tiso muốn gặp nhất là vị Lạt ma A-chos để hỏi ý kiến. Vị Lạt ma nói với cha Tiso rằng sự biến mất của vị Lạt ma Khenpo A-chos là do một lực vật chất xuất phát từ trong linh hồn của ông ấy. Đây không phải là một câu nói mang hàm ý triết học hoặc ẩn dụ. Điều ông muốn nói ở đây là một sự thật đã xảy ra.
Vị Lạt ma đưa cho cha Tiso xem một bức ảnh của Lạt ma Khenpo A-chos khi ông đã qua đời, bằng mắt thường có thể nhìn thấy rất rõ một luồng ánh sáng phát ra từ thân thể của ông ta. Xem bức ảnh, cha Tiso thốt lên:
“Đây là sự giao hòa giữa cái có thể và không thể, giữa một con người hiện hữu và con người siêu phàm. Một ngày nào đó chúng ta sẽ tìm được cơ sở để chứng minh rằng nó có thật.”
Điều cha Tiso muốn tìm trong sự kiện xảy ra tại Kham cũng nằm trong vấn đề lớn mà ông đang nghiên cứu, đó là có hay không có sự tồn tại của linh hồn con người. Hiện nay, những cuộc tranh cãi xung quanh vấn đề này vẫn diễn ra quyết liệt. Mấu chốt của vấn đề này nằm ở chỗ: nếu có sự tồn tại của linh hồn thì làm sao để xác định được. Những người cho rằng linh hồn có thật dựa vào các tài liệu tôn giáo để chứng minh cho sự tồn tại của nó, còn người phản đối thì cho rằng các lập luận đó quá mơ hồ và không thể đủ độ tin cậy khi kiểm chứng bằng các nghiên cứu khoa học.”
Cha Francis Tiso – một cha đạo dòng thánh Benedict tại Mỹ, ông cũng chỉ là một con người bình thường, làm sao biết linh hồn có hay không?
Các nhà khoa học chỉ khám phá được những gì vi tế nhất của vật chất chứ không thể khám phá những gì của tinh thần. Cho nên nói đến linh hồn thì các ông biết gì mà muốn khám phá có hay không. Trong khi những hiện tượng tưởng uẩn của con người còn sống đang phóng xuất khắp nơi, nhất là những vùng mà con người không xác định được những hiện tượng đó nên cho là “Huyền bí”. Khắp nơi trên thế giới nước nào cũng có, nhưng chỉ nhiều hay ít mà thôi. Nơi nào nhiều là nơi đó có những người dân sống trong tưởng nhiều như đất nước Tây Tạng.
Cha Tiso, ông đã từng nghiên cứu Phật giáo sao ông không biết rằng Đức Phật đã xác định: “Thế giới siêu hình chỉ là thế giới của tưởng tri, chứ không phải thế giới liễu tri.” Như vậy, ông là người nghiên cứu Phật giáo như thế nào? Ông có hiểu lời dạy này của Đức Phật không? Ông đi tìm linh hồn vậy linh hồn ở đâu mà tìm?
Đức Phật còn xác định rõ ràng: “Thân ngũ uẩn này khi tan rã thì không còn một uẩn nào cả.” Vậy trong thân ngũ uẩn này linh hồn là cái gì? Lời Đức Phật là lời một người tu chứng đầy đủ Ba Minh, lục thông, Ngài thấu suốt cả vũ trụ, có cái gì còn che mắt Ngài được. Những lời Ngài đã xác định: thế giới siêu hình và linh hồn không có.
Vậy mà cha Tiso – một nhà nghiên cứu Phật giáo lại không tin lời Phật dạy nên mới đi tìm cái cầu vông linh hồn của Lạt ma A-chos, thật là phí công vô ích, chỉ chạy loanh quanh trong ảo tưởng. Tri thức phàm phu mà đòi tìm hiểu linh hồn thì thực là quý vị không tự lượng sức hiểu biết của mình.
Một Lạt-ma ở Kham, vùng đất đầy bí ẩn của xứ Tây Tạng
Chúng ta hãy theo chân các nhà khoa học xem họ có những kiểm chứng nào để xác định có linh hồn, nhưng chúng ta đã thất vọng vì các nhà khoa học đã không đủ khả năng xác dịnh linh hồn có hay không. Từ nghiên cứu này đến nghiên cứu khác, họ hoàn toàn gặp thất bại. Xin quý vị hãy đọc những đoạn văn dưới đây để thấy rằng các nhà khoa học chỉ phí công, có khi đến hai ba chục năm mà cũng không làm sáng tỏ vấn đề linh hồn của con người.
“Những kiểm chứng khoa học nhiều người đã cố gắng chứng minh sự tồn tại của linh hồn bằng các thí nghiệm khoa học. Một trong số đó là bác sĩ Dumcan Mac Dougall. Sau khi tiến hành thí nghiệm trên bảy người chết, ông phát hiện ra rằng ngay sau khi qua đời, cân nặng của người chết giảm đi từ 11 – 43 gram. Ông cho rằng đó là phần vật chất mà người ta thường gọi là linh hồn thoát ra khỏi thi thể. Sau này nhiều người khác cũng lặp lại thí nghiệm của Dumcan, nhưng câu trả lòi cho sự tồn tại của linh hồn vẫn chưa được làm sáng tỏ. Phần trọng lượng bị mất đi đó của người sau khi chết được giải thích chỉ đơn giản là sự bốc hơi của lượng nước có sẵn bên trong cơ thể.”
Thưa quý vị! Bác sĩ Dumcan Mac Dougall cũng là một người đang sống trong tưởng tri nên cho rằng sự bốc hơi của cơ thể khi một người chết là linh hồn bay ra thì có ai tin không? Vậy mà bác sĩ phải tốn bao nhiêu công sức thí nghiệm trên bảy tử thi. Cho nên nói về linh hồn thì chỉ có những người có Thiên Nhãn Minh mới xác định được linh hồn có hay không, còn ý thức tri kiến của người bình thường không thể hiểu biết được. Hiện giờ chúng ta không đủ khả năng hiểu được về linh hồn thì nên tin lời day của một người tu chứng đạo, đó là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Ngài đã day: “Ba mươi ba cõi trời là tưởng tri chứ không phải liễu tri”, tức là Đức Phật đã xác định: “Không có linh hồn, không có thế giới siêu hình.” Như vậy, chúng ta hãy tin theo lời Ngài dạy mới không bị ảnh hưởng sai lệch của những tôn giáo khác, của những phong tục truyền thừa từ xưa tới nay.
Bây giờ chúng ta hãy theo chân một bác sĩ khác để biết nhà khoa học này xác định có linh hồn hay không:
“Một bác sĩ khác cũng cố gắng chứng minh sự tồn tại của linh hồn bằng những thí nghiệm khoa học, đó là Gerand Nahum, giám đốc bộ phận nghiên cứu của Công ty Dược phẩm Berlex. Ông đã bỏ ra hai mươi năm chỉ để nghiên cứu lĩnh vực này. Theo Nahum, vấn đề khó nhất để xác định sự tồn tại của linh hồn là phải tìm được những chuỗi điện từ phát ra từ thi thể người chết. Ông đặt hàng loạt những máy dò hiện đại xung quanh thi thể: máy viba, máy dò tia hồng ngoại, tia gama, điện tử… để tìm ra linh hồn.
Nahum chắc chắn rằng sau khi chết, tất cả những gì thuộc về người đó khi họ còn sống không thể ngay lập tức mất đi hoàn toàn được. Nó sẽ phải qua một quá trình chuyển biến đến một nơi nào đó trong không gian. Tại những nơi đó, chúng sẽ được giữ gìn và tồn tại vĩnh cửu. Nhưng khi ông thử trình bày ý tưởng của mình với các trường đại học tại Mỹ thì tất cả đều từ chối, ngay cả nhà thờ Thiên Chúa giáo cũng không chấp nhận tài trợ cho những nghiên cứu của Nahum. Vì thế, những nỗ lực của nhà khoa học này dẫm chân tại chỗ…”
Một thất bại rất lớn cho sự nghiên cứu của bác sĩ Nahum, những điều ông nghiên cứu khi đưa ra trong giới trí thức họ đều không ai tin. Một lần nữa cho những ai muốn đi tìm linh hồn. Khi Đức Phật bảo rằng linh hồn không có thì dù quý vị có nghiên cứu gì cũng hoài công vô ích. Vì linh hồn không có mà đi tìm cho có thì không bao giờ có được…
Cuối cùng, các nhà khoa học không thể chứng minh có linh hồn vì thế họ thoái thác bằng lý luận:
“Đó không phải là thứ dành cho đôi mắt mà là trái tim. Đối với chúng ta, có lẽ sự nhìn nhận bằng đôi mắt và cả sự cảm nhận bằng trái tim chia sẻ cho câu trả lời chính xác nhất. (Lời nói này của vị Lạt ma mà cha Tiso gặp tại Kham đã nói).
Tại đại học Virginia, một chuyên gia tâm thần học là Gruce Greyson cũng có các nghiên cứu liên quan đến sự tồn tại của linh hồn. Greyson là người đầu tiên tập trung vào tâm lý của những người đang ở ranh giới của sự sống và cái chết, ông phát hiện ra rằng một vài người đang hấp hối đều nhìn thấy một luồng ánh sáng xanh rất mạnh, và cảm thấy một đường hầm đang dẫn họ về phía trước. Nhưng thực ra Greyson lại không hoàn toàn tin tưởng vào sự tồn tại hay không tồn tại của linh hồn.”
Đây là sự nhìn nhận bằng trái tim mới biết linh hồn. Nhìn nhận có linh hồn bằng trái tim chứ linh hồn không thể nào nhìn nhận bằng đôi mắt, bằng ý thức được. Như vậy, sự nhìn nhận linh hồn bằng trái tim như thế nào?
Nhìn nhận linh hồn bằng trái tim là nhìn nhận bằng tưởng tri. Do vậy, linh hồn chỉ có là bằng tưởng tri của con người mà thôi. Và tưởng tri cho có linh hồn thì linh hồn không có thật, đó chỉ là sự tưởng tượng mà thôi. Từ nghiên cứu này đến nghiên cứu khác, các nhà khoa học đưa ra biết bao nhiêu lý thuyết, nhưng lý thuyết nào cũng không xác định được có. Rồi cuối cùng cũng chấp nhận không có linh hồn. Chỉ vì người ta không tin lời Đức Phật dạy nên mới bỏ biết bao công sức đi tìm linh hồn.
Ngày xưa Đức Phật đã xác định: Không có linh hồn. Do vậy dù chúng ta có chạy Đông, chạy Tây để tìm xem có linh hồn hay không, nhưng cuối cùng đến giờ này không ai xác định linh hồn có thực sự: “Những câu trả lời có căn cứ từ khoa học đến các tôn giáo hiện nay vẫn chưa có thể coi là thỏa đáng.”
Chúng ta quyết định theo chân các nhà khoa học để xem họ đang làm gì và đang nghiên cứu những gì để biết có linh hồn hay không. Nếu thật có linh hồn thì Đức Phật là người nói không đúng. Phải không quý vị? Một ngàn lần các nhà khoa học đi tìm linh hồn thì một ngàn lần các ngài sẽ gặp thất bại, chỉ uổng phí công của các ngài mà thôi.
“Qua ba mươi năm tìm hiểu về trạng thái tâm thần của người hấp hối, ông đã phát hiện thấy 10% số người trong số các nạn nhân suy tim đều có dấu hiệu hoạt động của não trong khi họ đang bất tỉnh. Sau khi được cứu chữa và tỉnh lại, những bệnh nhân này cho biết họ thấy những hoạt động của bác sĩ và y tá ở một điểm cao hơn.
Tiếp tục nghiên cứu, Greyson cho đặt một màn hình với những giao diện khác nhau bên ngoài phòng cấp cứu bệnh nhân bị suy tim. Năm mươi người đã được thử nghiệm, nhưng không một ai biết được màn hình có màu gì. Nhà khoa học giải thích rằng đó là do tác dụng của thuốc gây mê đã cản trở sự thoát ra của linh hồn.
Pim Van Lommet, bác sĩ chuyên khoa tim người Đan Mạch cũng đồng ý với quan điểm của Greyson. Lommet cho rằng con người không chỉ có một ý thức trong khi họ đang ở trong tình trạng hấp hối thì những ý thức khác hoạt động và mở rộng phạm vi của nó nhiều hơn so với bất cứ thời điểm nào trước đó. Lúc đó họ có thể hồi tưởng lại những khoảng thời gian xa xôi nhất trong quá khứ và cảm nhận được một cách rõ ràng hơn bình thường sự vật và con người xung quanh. Trong khi đó thần kinh trung ương của họ vẫn đang ngừng hoạt động.”
Các nhà khoa học truy tìm ngoài cái biết của ý thức còn có một cái biết đặc biệt hơn, nhưng các ngài không biết nó là cái gì đang thay thế ý thức khi ý thức ngưng hoạt động. Do điều này mà các ngài cho đó là linh hồn ư?
Không! Không phải đâu! Các ngài đã lầm. Rất sai lầm. Hiện tượng cái biết ngoài ý thức mà các ngài đang tìm và cho là linh hồn thì các ngài quá sai.
Thưa quý vị! Nó không phải là linh hồn mà là Tưởng uẩn hoạt động như Đức Phật đã xác định trên thân mỗi con người đều có năm uẩn:
1- Sắc uẩn; 2- Thọ uẩn; 3- Tưởng uẩn; 4- Hành uẩn; 5- Thức uẩn.
Năm uẩn này kết hợp lại mới thành thân và tâm của con người. Một con người bình thường hằng sống với sắc uẩn. Sắc uẩn gồm có sáu cái thức (biết), sáu thức đó là:
1- Nhãn thức; 2- Nhĩ thức; 3- Tỷ thức; 4- Thiệt thức; 5- Thân thức; 6- Ý thức.
Thông thường con người sử dụng ý thức nhiều nhất, còn mắt, tai, mũi, miệng, thân đều hoạt động để phụ giúp cho ý thức làm việc phân biệt, nhận thức, quan sát, cảm nhận cho chính xác. Cho nên mỗi con người đều biết qua sáu cái biết này, còn cái biết của tưởng uẩn thì ít ai lưu ý.
Tưởng uẩn làm việc không thua gì ý thức. Khi chúng ta ngủ thường có chiêm bao là do tưởng uẩn làm việc. Cho nên các nhà khoa học và mọi người đã sai lầm cho tưởng uẩn là linh hồn con người, vì họ nghiên cứu rất rõ ý thức ngưng hoạt động, vậy sao con người còn có một cái biết nữa.
Thưa các nhà khoa học, con người có ba cái biết chứ không phải có một cái biết. Ba cái biết ấy như Đức Phật đã dạy trong các kinh gồm có:
Cái biết thứ nhất là Sắc thức.
Cái biết thứ hai là Tưởng thức.
Cái biết thứ ba là Thức thức.
Ba cái biết này, một con người bình thường sử dụng hai cái biết, đó là Sắc thức và Tưởng thức. Còn cái biết thứ ba Thức thức chỉ dành cho người tu chứng đạo. Cho nên, người đời thường nhận định Sắc thức là cái biết trong đời sống hàng ngày, và Tưởng thức là cái biết trong chiêm bao, mộng mị và còn cho là linh hồn. Còn người tu Thiền Đông Độ cho Sắc thức (sáu thức) là Phật tánh: tánh biết, tánh thấy, tánh nghe, v.v…
Bác sĩ Pim Van Lommet và bác sĩ Greyson đều cho tưởng thức là linh hồn. Bởi vậy, các nhà khoa học chỉ có kiến thức thế gian thì làm sao biết linh hồn là gì mà tìm kiếm để chứng minh cho có thì cũng chỉ hoài công vô ích mà thôi.
Và linh hồn sẽ đi về đâu sau khi chết?
Chúng ta sẽ tiếp tục theo chân của những nhà khoa học bác sĩ này để tìm xem họ truy tìm linh hồn.
“Những giả thuyết đặt ra một sự nghi ngờ đối với kiến thức mà chúng ta đã biết và thừa nhận từ lâu: Ý thức là sản phẩm của não bộ.”
Đúng vậy, ý thức là sản phẩm của não bộ, ngoài não bộ đi tìm ý thức không bao giờ có. Cho nên người chết thì ý thức bị diệt mất, như vậy lời xác định trên là đúng không sai.
Chúng ta hãy nghe tiếp các nhà khoa học đã nghiên cứu trên lâm sàng nhiều bệnh nhân và đi đến kết luận: “Điều đó giờ đây có thể không còn chính xác nữa, bởi vì nếu như vậy ý thức sẽ không thể tồn tại nếu não bộ ngừng hoạt động. Nhưng các thí nghiệm ở trên thì đều chứng minh ngược lại.”
Nhiều lần nghiên cứu, khi não bộ ngưng hoạt động mà lại còn có cái biết nên các nhà khoa học cho đó là linh hồn. Do không hiểu trong thân người có ba cái biết nên các nhà khoa học vội kết luận cho cái biêt ngoài ý thức là linh hồn. Đó là một sai lầm rất lớn. Do những điều này mà chúng ta biết ý thức của con người không thể hiểu biết được con người có linh hồn hay không.
Còn hai nhà học giả của trường đại học Oxford là Stuart Hameroff và Roger Penrose lại giải thích sự tồn tại của linh hồn bằng quá trình lượng tử:
“Theo hai ông, não bộ con người được chia làm hàng tỉ ô siêu nhỏ, các ô này liên kết với nhau thông qua một quá trình di chuyển của các lượng tử. Khi cơ thể của một người ngưng hoạt động, máu sẽ không được chuyển đến các ô này và chúng cũng ngừng hoạt động. Nhưng sự di chuyển của các lượng tử thì không mất đi, chúng sẽ thoát ra bên ngoài não bộ và ghi nhận những gì tồn tại ở không gian xung quanh. Nếu người đó tỉnh lại, các lượng tử sẽ quay trở lại não bộ và hoạt động với chức năng thông thường của chúng. Những gì chúng ghi lại khi thoát ra bên ngoài cũng được não bộ tiếp nhận và đó là lý do tại sao một người hấp hối nhưng sau đó được cứu sống lại có thể biết được những sự kiện mà anh ta không hề tận mắt chứng kiến hoặc được nghe kể lại. Vậy nếu người đó không tỉnh lại được nữa thì các chuỗi lượng tử đó sẽ di chuyển đi đâu?
Tiếp tục mở rộng giả thuyết của Hameroff và Penrose, bác sĩ Jan Stevenson đã nghiên cứu về khả năng chuỗi lượng tử đó sẽ được tiếp nhận trong não bộ của trẻ sơ sinh, hay nói cách khác, đó chính là sự tái sinh. Sau khi Jan Stevenson mất, con trai ông là Tucker tiến hành phỏng vấn rất nhiều trẻ em. Trong số đó ông đã tập hợp được 1400 em có khả năng biết được những sự kiện xảy ra trước khi chúng hồi sinh. Thậm chí một vài em còn có thể kể rất rõ những sự kiện trong cả các giai đoạn phát triển rất sớm của lịch sử loài người.
Thực tế cho đến nay, dù có tập hợp được tất cả các công trình nghiên cứu khoa học về vấn đề này thì chúng ta cũng không thể nào biết được chính xác liệu có sự tồn tại của linh hồn hay không, và nếu có tồn tại thì chúng sẽ tồn tại ở dạng nào. Có lẽ khoa học không phải lúc nào cũng là giải pháp tối ưu cho tất cả mọi vấn đề.”
Cuối cùng các nhà khoa học không thể chứng minh được linh hồn có hay không, chỉ nêu lên những giả thuyết không thể xác định được. Do đó, các vị Lạt ma Tây Tạng chỉ kết luận một cách thiếu khoa học như lời của vị Lạt ma mà cha Tiso gặp tại Kham đã nói:
“Đó không phải là thứ dành cho đôi mắt, mà là của trái tim. Đối với chúng ta, có lẽ sự nhìn nhận bằng đôi mắt và cả sự cảm nhận từ trái tim sẽ cho câu trả lời chính xác nhất.”
Một đất nước mà con người tin vào những sự huyền bí, vì thế tôn giáo nơi đó lợi dụng lòng mê tín ấy mà các vị Lạt ma cố gắng tu luyện thần thông để thể hiện những sự huyền bí Cầu Vồng làm cả thế giới xôn xao, mọi người cho đó là linh hồn.
Tiếng nói của chúng ta không đủ lòng tin của mọi người. Vậy chúng ta hãy để câu trả lời đó cho Đức Phật, một người nói ra mà không ai dám phủ nhận: “Ba mươi ba cõi trời là tưởng tri chứ không phải liễu tri.”
Lời phủ nhận thế giới siêu hình không có quá rõ ràng, vậy chúng ta còn đi tìm linh hồn để làm gì cho phí thời gian và công sức. Như trên đã nói, cái gì không có mà cố đi tìm cho có thì làm sao có được. Phải không quý vị?