Skip directly to content

IV. SAṄGHĀDISESUDDESO (PHẦN ĐỌC TỤNG VỀ GIỚI SAṄGHĀDISESA)

Ime  kho  panāyyāyo  sattarasa  saṅghādisesā  dhammā  uddesaṃ  āgacchanti.

Bạch chư đại đức ni, mười bảy điều saṅghādisesa (tăng tàng) này được đưa ra đọc tụng.

1.  Yā  pana  bhikkhunī  ussayavādikā  vihareyya  gahapatinā  vā  gahapatiputtena  vā  dāsena  vā  kammakārena  vā  antamaso  samaṇaparibbājakenāpi,  ayampi  bhikkhunī  paṭhamāpattikaṃ  dhammaṃ  āpannā  nissāraṇīyaṃ  saṅghādisesaṃ. 

1.  Vị tỳ khưu ni nào sống làm người thưa kiện với nam gia chủ, hoặc với con trai của nam gia chủ, hoặc với người nô tỳ, hoặc với người làm công, hoặc ngay cả với sa-môn du sĩ, vị tỳ khưu ni này phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) ngay lúc vừa mới vi phạm, cần được tách riêng. (ttg.1, tkni.)[4]

2.  Yā  pana  bhikkhunī  jānaṃ  coriṃ  vajjhaṃ  viditaṃ  anapaloketvā  rājānaṃ  vā  saṅghaṃ  vā  gaṇaṃ  vā  pūgaṃ  vā  seṇiṃ  vā  aññatra  kappā  vuṭṭhāpeyya,  ayampi  bhikkhunī  paṭhamāpattikaṃ  dhammaṃ  āpannā  nissāraṇīyaṃ  saṅghādisesaṃ. 

2.  Vị tỳ khưu ni nào biết được nữ đạo tặc có tội tử hình được loan báo mà vẫn nhận vào cho tu khi chưa xin phép đức vua, hoặc hội chúng, hoặc nhóm, hoặc phường hội, hoặc phường thợ, ngoại trừ có sự được phép; vị tỳ khưu ni này cũng phạm tội ngay lúc vừa mới vi phạm, là tội saṅghādisesa (tăng tàng) cần được tách riêng. (ttg.2, tkni.)

3.  Yā  pana  bhikkhunī  ekā  vā  gāmantaraṃ  gaccheyya,  ekā  vā  nadīpāraṃ  gaccheyya,  ekā  vā  rattiṃ  vippavaseyya,  ekā  vā  gaṇamhā  ohiyeyya,  ayampi  bhikkhunī  paṭhamāpattikaṃ  dhammaṃ  āpannā  nissāraṇīyaṃ  saṅghādisesaṃ. 

3.  Vị tỳ khưu ni nào đi vào trong làng một mình, hoặc đi sang bờ bên kia sông một mình, hoặc ban đêm trú ngụ riêng một mình, hoặc một mình tách rời ra khỏi nhóm; vị tỳ khưu ni này cũng phạm tội ngay lúc vừa mới vi phạm, là tội saṅghādisesa (tăng tàng) cần được tách riêng. (ttg.3, tkni.)

4.  Yā  pana  bhikkhunī  samaggena  saṅghena  ukkhittaṃ  bhikkhuniṃ  dhammena  vinayena  satthusāsanena  anapaloketvā  kārakasaṅghaṃ  anaññāya  gaṇassa  chandaṃ  osāreyya,  ayampi  bhikkhunī  paṭhamāpattikaṃ  dhammaṃ  āpannā  nissāraṇīyaṃ  saṅghādisesaṃ. 

­­4.  Vị tỳ khưu ni nào khi chưa xin phép hội chúng thực hiện hành sự và không quan tâm đến ước muốn của nhóm lại phục hồi cho vị tỳ khưu ni đã bị hội chúng hợp nhất phạt án treo theo Pháp theo Luật theo lời dạy của bậc Đạo Sư; vị tỳ khưu ni này cũng phạm tội ngay lúc vừa mới vi phạm, là tội saṅghādisesa (tăng tàng) cần được tách riêng. (ttg.4, tkni.)

5.  Yā  pana  bhikkhunī  avassutā  avassutassa  purisapuggalassa  hatthato  khādanīyaṃ  vā  bhojanīyaṃ  vā  sahatthā  paṭiggahetvā  khādeyya  vā  bhuñjeyya  vā,  ayampi  bhikkhunī  paṭhamāpattikaṃ  dhammaṃ  āpannā  nissāraṇīyaṃ  saṅghādisesaṃ. 

5.  Vị tỳ khưu ni nào nhiễm dục vọng tự tay thọ nhận vật thực loại cứng hoặc loại mềm từ tay của người nam nhiễm dục vọng rồi nhai hoặc ăn; vị tỳ khưu ni này cũng phạm tội ngay lúc vừa mới vi phạm, là tội saṅghādisesa (tăng tàng) cần được tách riêng. (ttg.5, tkni.)

6.  Yā  pana  bhikkhunī  evaṃ  vadeyya  kiṃ  te  ayye  eso  purisapuggalo  karissati  avassuto  vā  anavassuto  vā  yato  tvaṃ  anavassutā  iṅgha  ayye  yaṃ  te  eso  purisapuggalo  deti  khādanīyaṃ  vā  bhojanīyaṃ  vā  taṃ  tvaṃ  sahatthā  paṭiggahetvā  khāda  vā  bhuñja  vāti,  ayampi  bhikkhunī  paṭhamāpattikaṃ  dhammaṃ  āpannā  nissāraṇīyaṃ  saṅghādisesaṃ. 

6.  Vị tỳ khưu ni nào nói như vầy: “Này ni sư, cá nhân người đàn ông ấy nhiễm dục vọng hay không nhiễm dục vọng thì sẽ làm gì ni sư khi ni sư không nhiễm dục vọng? Này ni sư, cá nhân người đàn ông ấy dâng vật thực loại cứng hoặc loại mềm nào đến ni sư, ni sư cứ tự tay thọ nhận vật ấy rồi nhai hoặc ăn đi;” vị tỳ khưu ni này cũng phạm tội ngay lúc vừa mới vi phạm, là tội saṅghādisesa (tăng tàng) cần được tách riêng. (ttg.6, tkni.)

7.  Yā  pana  bhikkhunī  sañcarittaṃ  samāpajjeyya  itthiyā  vā  purisamatiṃ  purisassa  vā  itthimatiṃ  jāyattane  vā  jārattane  vā  antamaso  taṅkhaṇikāyapi,  ayampi  bhikkhunī  paṭhamāpattikaṃ  dhammaṃ  āpannā  nissāraṇīyaṃ  saṅghādisesaṃ. 

7.  Vị tỳ khưu ni nào tiến hành việc mai mối ý định của người nam đến người nữ, hoặc là ý định của người nữ đến người nam trong việc trở thành vợ chồng, hoặc trong việc trở thành nhân tình, thậm chí chỉ là cuộc tình trong chốt lát, vị tỳ khưu ni này cũng phạm tội ngay lúc vừa mới vi phạm, là tội saṅghādisesa (tăng tàng) cần được tách riêng. (ttg.5, tk.)

8.  Yā  pana  bhikkhunī  bhikkhuniṃ  duṭṭhā  dosā  appatītā  amūlakena  pārājikena  dhammena  anuddhaṃseyya  appeva  nāma  naṃ  imamhā  brahmacariyā  cāveyyanti,  tato  aparena  samayena  samanuggāhiyamānā  vā  asa  manuggāhiyamānā  vā  amūlakañceva  taṃ  adhikaraṇaṃ  hoti  bhikkhunī  ca  dosaṃ  patiṭṭhāti,  ayampi  bhikkhunī  paṭhamāpattikaṃ  dhammaṃ  āpannā  nissāraṇīyaṃ  saṅghādisesaṃ. 

8.  Vị tỳ khưu ni nào xấu xa, sân hận, bất bình vị tỳ khưu ni (khác) rồi bôi nhọ về tội pārājika không có nguyên cớ (nghĩ rằng): “Chắc là ta có thể loại cô ấy ra khỏi Phạm hạnh này.” Sau đó vào lúc khác, dầu được hỏi hay không được hỏi và sự tranh tụng ấy thật sự không có nguyên cớ, và vị tỳ khưu ni (dầu có) thú nhận lỗi lầm, vị ni này cũng phạm tội ngay lúc vừa mới vi phạm, là tội saṅghādisesa (tăng tàng) cần được tách riêng. (ttg.8, tk.)

9.  Yā  pana  bhikkhunī  bhikkhuniṃ  duṭṭhā  dosā  appatītā  aññabhāgiyassa  adhikaraṇassa  kiñcidesaṃ  lesamattaṃ  upādāya  pārājikena  dhammena  anuddhaṃseyya  appeva  nāma  naṃ  imamhā  brahmacariyā  cāveyyanti,  tato  aparena  samayena  samanuggāhiyamānā  vā  asamanuggāhiyamānā  vā  aññabhāgiyañceva  taṃ  adhikaraṇaṃ  hoti,  kocideso  lesamatto  upādinno  bhikkhunī  ca  dosaṃ  patiṭṭhāti,  ayampi  bhikkhunī  paṭhamāpattikaṃ  dhammaṃ  āpannā  nissāraṇīyaṃ  saṅghādisesaṃ. 

9.  Vị tỳ khưu ni nào xấu xa, sân hận, bất bình vị tỳ khưu ni (khác) rồi nắm lấy sự kiện nhỏ nhặt nào đó thuộc về cuộc tranh tụng có quan hệ khác biệt và bôi nhọ về tội pārājika (nghĩ rằng): “Chắc là ta có thể loại cô ấy ra khỏi Phạm hạnh này.” Sau đó vào lúc khác, dầu được hỏi hay không được hỏi, và cuộc tranh tụng ấy là có quan hệ khác biệt hẳn, sự kiện nhỏ nhặt nào đó đã được nắm lấy, và vị tỳ khưu ni (dầu có) thú nhận lỗi lầm; vị ni này cũng phạm tội ngay lúc vừa mới vi phạm, là tội saṅghādisesa (tăng tàng) cần được tách riêng. (ttg.9, tk.)

10.  Yā  pana  bhikkhunī  kupitā  anattamanā  evaṃ  vadeyya  buddhaṃ  paccācikkhāmi  dhammaṃ  paccācikkhāmi  saṅghaṃ  paccācikkhāmi  sikkhaṃ  paccācikkhāmi  kinnumāva  samaṇiyo  yā  samaṇiyo  sakyadhītaro  santaññāpi  samaṇiyo  lajjiniyo  kukkuccikā  sikkhākāmā  tāsāhaṃ  santike  brahmacariyaṃ  carissāmīti.  Sā  bhikkhunī  bhikkhunīhi  evamassa  vacanīyā  māyye  kupitā  anattamanā  evaṃ  avaca  buddhaṃ  paccācikkhāmi  dhammaṃ  paccācikkhāmi  saṅghaṃ  paccācikkhāmi  sikkhaṃ  paccācikkhāmi  kinnumāva  samaṇiyo  yā  samaṇiyo  sakyadhītaro  santaññāpi  samaṇiyo  lajjiniyo  kukkuccikā  sikkhākāmā  tāsāhaṃ  santike  brahmacariyaṃ  carissāmīti  abhiramāyye  svākkhāto  dhammo  cara  brahmacariyaṃ  sammā  dukkhassa  antakiriyāyāti.  Evañca  sā  bhikkhunī  bhikkhunīhi  vuccamānā  tatheva  paggaṇheyya  sā  bhikkhunī  bhikkhunīhi  yāvatatiyaṃ  samanubhāsitabbā  tassa  paṭinissaggāya,  yāvatatiyañce  samanubhāsiyamānā  taṃ  paṭinissajjeyya  iccetaṃ  kusalaṃ  no  ce  paṭinissajjeyya,  ayampi  bhikkhunī  yāvatatiyakaṃ  dhammaṃ  āpannā  nissāraṇīyaṃ  saṅghādisesaṃ. 

10.  Vị tỳ khưu ni nào nổi giận, bất bình rồi nói như vầy: “Tôi lìa bỏ đức Phật, tôi lìa bỏ đức Pháp, tôi lìa bỏ hội chúng, tôi lìa bỏ sự học tập. Các nữ sa-môn Thích nữ này là các nữ sa-môn hạng gì? Cũng có những nữ sa-môn khác thanh tịnh, khiêm tốn, có hối hận, ưa thích sự học tập, tôi sẽ thực hành Phạm hạnh trong sự hiện diện của các nữ sa-môn ấy.” Vị tỳ khưu ni ấy nên được nói bởi các tỳ khưu ni như sau: “Này ni sư, khi nổi giận, bất bình chớ nói như vầy: ‘Tôi lìa bỏ đức Phật, tôi lìa bỏ đức Pháp, tôi lìa bỏ hội chúng, tôi lìa bỏ sự học tập. Các nữ sa-môn Thích nữ này là các nữ sa-môn hạng gì? Cũng có những nữ sa-môn khác thanh tịnh, khiêm tốn, có hối hận, ưa thích sự học tập, tôi sẽ thực hành Phạm hạnh trong sự hiện diện của các nữ sa-môn ấy.’ Này ni sư, hãy hoan hỷ, Pháp đã được khéo thuyết giảng, hãy thực hành Phạm hạnh một cách đúng đắn để chấm dứt khổ đau.” Và khi được nói như vậy bởi các tỳ khưu ni mà vị tỳ khưu ni ấy vẫn chấp giữ y như thế, vị tỳ khưu ni ấy nên được các tỳ khưu ni nhắc nhở đến lần thứ ba để từ bỏ việc ấy. Nếu được nhắc nhở đến lần thứ ba mà dứt bỏ việc ấy, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ, vị tỳ khưu ni này cũng phạm tội (khi được nhắc nhở) đến lần thứ ba, là tội saṅghādisesa (tăng tàng) cần được tách riêng. (ttg.7, tkni.)

11.  Yā  pana  bhikkhunī  kismiñcideva  adhikaraṇe  paccākatā  kupitā  anattamanā  evaṃ  vadeyya  chandagāminiyo  ca  bhikkhuniyo  dosagāminiyo  ca  bhikkhuniyo  mohagāminiyo  ca  bhikkhuniyo  bhayagāminiyo  ca  bhikkhuniyoti,  sā  bhikkhunī  bhikkhunīhi  evamassa  vacanīyā  māyye  kismiñcideva  adhikaraṇe  paccākatā  kupitā  anattamanā  evaṃ  avaca  chandagāminiyo  ca  bhikkhuniyo  dosagāminiyo  ca  bhikkhuniyo  mohagāminiyo  ca  bhikkhuniyo  bhayagāminiyo  ca  bhikkhuniyoti,  ayyā  kho  chandāpi  gaccheyya  dosāpi  gaccheyya  mohāpi  gaccheyya  bhayāpi  gaccheyyāti.  Evañca  sā  bhikkhunī  bhikkhunīhi  vuccamānā  tatheva  paggaṇheyya  sā  bhikkhunī  bhikkhunīhi  yāvatatiyaṃ  samanubhāsitabbā  tassa  paṭinissaggāya,  yāvatatiyañce  samanubhāsiyamānā  taṃ  paṭinissajjeyya  iccetaṃ  kusalaṃ  no  ce  paṭinissajjeyya,  ayampi  bhikkhunī  yāvatatiyakaṃ  dhammaṃ  āpannā  nissāraṇīyaṃ  saṅghādisesaṃ. 

11.  Vị tỳ khưu ni nào bị xử thua trong cuộc tranh tụng nào đó nên nổi giận, bất bình rồi nói như vầy: “Các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì thương, các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì ghét, các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì si mê, các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì sợ hãi.” Vị tỳ khưu ni ấy nên được nói bởi các tỳ khưu ni như sau: “Này ni sư, khi bị xử thua trong cuộc tranh tụng nào đó rồi nổi giận, bất bình chớ nên nói như vầy: ‘Các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì thương, các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì ghét, các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì si mê, các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì sợ hãi.’ Chính ni sư mới thiên vị vì thương, mới thiên vị vì ghét, mới thiên vị vì si mê, mới thiên vị vì sợ hãi.” Và khi được nói như vậy bởi các tỳ khưu ni mà vị tỳ khưu ni ấy vẫn chấp giữ y như thế, vị tỳ khưu ni ấy nên được các tỳ khưu ni nhắc nhở đến lần thứ ba để từ bỏ việc ấy. Nếu được nhắc nhở đến lần thứ ba mà dứt bỏ việc ấy, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ, vị tỳ khưu ni này cũng phạm tội (khi được nhắc nhở) đến lần thứ ba, là tội saṅghādisesa (tăng tàng) cần được tách riêng. (ttg.8, tkni.)

12.  Bhikkhuniyo  paneva  saṃsaṭṭhā  viharanti  pāpācārā  pāpasaddā  pāpasilokā  bhikkhunisaṅghassa  vihesikā  aññamaññissā  vajjappaṭicchādikā,  tā  bhikkhuniyo  bhikkhunīhi  evamassu  vacanīyā  bhaginiyo  kho  saṃsaṭṭhā  viharanti  pāpācārā  pāpasaddā  pāpasilokā  bhikkhunisaṅghassa  vihesikā  aññamaññissā  vajjappaṭicchādikā  viviccathāyye  vivekaññeva  bhaginīnaṃ  saṅgho  vaṇṇetīti.  Evañca  tā  bhikkhuniyo  bhikkhunīhi  vuccamānā  tatheva  paggaṇheyyuṃ,  tā  bhikkhuniyo  bhikkhunīhi  yāvatatiyaṃ  samanubhāsitabbā  tassa  paṭinissaggāya,  yāvatatiyañce  samanubhāsiyamānā  taṃ  paṭinissajjeyyuṃ  iccetaṃ  kusalaṃ  no  ce  paṭinissajjeyyuṃ,  imāpi  bhikkhuniyo  yāvatatiyakaṃ  dhammaṃ  āpannā  nissāraṇīyaṃ  saṅghādisesaṃ. 

12.  Hơn nữa, các tỳ khưu ni sống thân cận (với thế tục), có hạnh kiểm xấu xa, có tiếng đồn xấu xa, có sự nuôi mạng xấu xa, là những người gây khó khăn cho hội chúng tỳ khưu ni, và là những người che giấu tội lẫn nhau. Các tỳ khưu ni ấy nên được nói bởi các tỳ khưu ni như sau: “Các sư tỷ sống thân cận (với thế tục), có hạnh kiểm xấu xa, có tiếng đồn xấu xa, có sự nuôi mạng xấu xa, là những người gây khó khăn cho hội chúng tỳ khưu ni, và là những người che giấu tội lẫn nhau. Này các ni sư, hãy tự tách rời ra. Hội chúng khen ngợi sự tách rời của các sư tỷ.” Và khi được nói như vậy bởi các tỳ khưu ni mà các tỳ khưu ni ấy vẫn chấp giữ y như thế, các tỳ khưu ni ấy nên được các tỳ khưu ni nhắc nhở đến lần thứ ba để từ bỏ việc ấy. Nếu được nhắc nhở đến lần thứ ba mà dứt bỏ việc ấy, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ các vị tỳ khưu ni này cũng phạm tội (khi được nhắc nhở) đến lần thứ ba, là tội saṅghādisesa (tăng tàng) cần được tách riêng. (ttg.9, tkni.)

13.  Yā  pana  bhikkhunī  evaṃ  vadeyya  saṃsaṭṭhāva  ayye  tumhe  viharatha  mā  tumhe  nānā  viharittha  santi  saṅghe  aññāpi  bhikkhuniyo  evācārā  evaṃsaddā  evaṃsilokā  bhikkhunisaṅghassa  vihesikā  aññamaññissā  vajjappaṭicchādikā  tā  saṅgho  na  kiñci  āha  tumhaññeva  saṅgho  uññāya  paribhavena  akkhantiyā  vebhassiyā  dubbalyā  evamāha  bhaginiyo  kho  saṃsaṭṭhā  viharanti  pāpācārā  pāpasaddā  pāpasilokā  bhikkhunisaṅghassa  vihesikā  aññamaññissā  vajjappaṭicchādikā  viviccathāyye  vivekaññeva  bhaginīnaṃ  saṅgho  vaṇṇetīti.  Sā  bhikkhunī  bhikkhunīhi  evamassa  vacanīyā  māyye  evaṃ  avaca  saṃsaṭṭhāva  ayye  tumhe  viharatha  mā  tumhe  nānā  viharittha  santi  saṅghe  aññāpi  bhikkhuniyo  evācārā  evaṃsaddā  evaṃsilokā  bhikkhunisaṅghassa  vihesikā  aññamaññissā  vajjappaṭicchādikā  tā  saṅgho  na  kiñci  āha  tumhaññeva  saṅgho  uññāya  paribhavena  akkhantiyā  vebhassiyā  dubbalyā  evamāha  bhaginiyo  kho  saṃsaṭṭhā  viharanti  pāpācārā  pāpasaddā  pāpasilokā  bhikkhunisaṅghassa  vihesikā  aññamaññissā  vajjappaṭicchādikā  viviccathāyye  vivekaññeva  bhaginīnaṃ  saṅgho  vaṇṇetīti.  Evañca  sā  bhikkhunī  bhikkhunīhi  vuccamānā  tatheva  paggaṇheyya  sā  bhikkhunī  bhikkhunīhi  yāvatatiyaṃ  samanubhāsitabbā  tassa  paṭinissaggāya,  yāvatatiyañce  samanubhāsiyamānā  taṃ  paṭinissajjeyya  iccetaṃ  kusalaṃ  no  ce  paṭinissajjeyya,  ayampi  bhikkhunī  yāvatatiyakaṃ  dhammaṃ  āpannā  nissāraṇīyaṃ  saṅghādisesaṃ. 

13.  Vị tỳ khưu ni nào nói như vầy: “Này các ni sư, các vị hãy sống thân cận, các vị chớ có sống cách khác. Trong hội chúng cũng có những tỳ khưu ni khác có hạnh kiểm như vậy, có tiếng đồn như vậy, có sự nuôi mạng như vậy, là những người gây khó khăn cho hội chúng tỳ khưu ni, và là những người che giấu tội lẫn nhau; hội chúng đã không nói các cô ấy bất cứ điều gì. Nhưng với chính các cô, hội chúng đã nói với sự không tôn trọng, với sự xem thường, không lòng nhẫn nại, theo lối nói tầm phào, có tính chất yếu nhược như vầy: ‘Các sư tỷ sống thân cận (với thế tục), có hạnh kiểm xấu xa, có tiếng đồn xấu xa, có sự nuôi mạng xấu xa, là những người gây khó khăn cho hội chúng tỳ khưu ni, và là những người che giấu tội lẫn nhau. Này các ni sư, hãy tự tách rời ra. Hội chúng khen ngợi sự tách rời của các sư tỷ.’” Vị tỳ khưu ni ấy nên được nói bởi các tỳ khưu ni như sau: “Này ni sư, chớ nói như vầy: ‘Này các ni sư, các vị hãy sống thân cận, các vị chớ có sống cách khác. Trong hội chúng cũng có những tỳ khưu ni khác có hạnh kiểm như vậy, có tiếng đồn như vậy, có sự nuôi mạng như vậy, là những người gây khó khăn cho hội chúng tỳ khưu ni, và là những người che giấu tội lẫn nhau; hội chúng đã không nói các cô ấy bất cứ điều gì. Nhưng với chính các cô, hội chúng đã nói với sự không tôn trọng, với sự xem thường, không lòng nhẫn nại, theo lối nói tầm phào, có tính chất yếu nhược như vầy: Các sư tỷ sống thân cận (với thế tục), có hạnh kiểm xấu xa, có tiếng đồn xấu xa, có sự nuôi mạng xấu xa, là những người gây khó khăn cho hội chúng tỳ khưu ni, và là những người che giấu tội lẫn nhau. Này các ni sư, hãy tự tách rời ra. Hội chúng khen ngợi sự tách rời của các sư tỷ.’” Và khi được nói như vậy bởi các tỳ khưu ni mà vị tỳ khưu ni ấy vẫn chấp giữ y như thế, vị tỳ khưu ni ấy nên được các tỳ khưu ni nhắc nhở đến lần thứ ba để từ bỏ việc ấy. Nếu được nhắc nhở đến lần thứ ba mà dứt bỏ việc ấy, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ vị tỳ khưu ni này cũng phạm tội (khi được nhắc nhở) đến lần thứ ba, là tội saṅghādisesa (tăng tàng) cần được tách riêng. (ttg.10, tkni.)

14.  Yā  pana  bhikkhunī  samaggassa  saṅghassa  bhedāya  parakkameyya  bhedanasaṃvattanikaṃ  vā  adhikaraṇaṃ  samādāya  paggayha  tiṭṭheyya,  sā  bhikkhunī  bhikkhunīhi  evamassa  vacanīyā  māyyā  samaggassa  saṅghassa  bhedāya  parakkami  bhedanasaṃvattanikaṃ  vā  adhikaraṇaṃ  samādāya  paggayha  aṭṭhāsi,  sametāyyā  saṅghena  samaggo  hi  saṅgho  sammodamāno  avivadamāno  ekuddeso  phāsu  viharatīti.  Evañca  sā  bhikkhunī  bhikkhunīhi  vuccamānā  tatheva  paggaṇheyya,  sā  bhikkhunī  bhikkhunīhi  yāvatatiyaṃ  samanubhāsitabbā  tassa  paṭinissaggāya,  yāvatatiyañce  samanubhāsiyamānā  taṃ  paṭinissajjeyya  iccetaṃ  kusalaṃ.  No  ce  paṭinissajjeyya,  ayampi  bhikkhunī  yāvatatiyakaṃ  dhammaṃ  āpannā  nissāraṇīyaṃ  saṅghādisesaṃ.

14.  Vị tỳ khưu ni nào ra sức chia rẽ hội chúng hợp nhất hoặc nắm lấy cuộc tranh tụng đưa đến chia rẽ, rồi loan truyền, chấp giữ. Vị tỳ khưu ni ấy nên được nói bởi các tỳ khưu ni như vầy: “Ni sư chớ có ra sức chia rẽ hội chúng hợp nhất, hoặc nắm lấy cuộc tranh tụng đưa đến chia rẽ, rồi loan truyền, chấp giữ. Ni sư hãy hòa nhập cùng hội chúng vì hội chúng hợp nhất, thân thiện, không cãi cọ, chung một nguyên tắc thì sống được an lạc.” Và khi được các tỳ khưu ni nói như vậy mà vị tỳ khưu ni ấy vẫn chấp giữ y như thế, thì vị tỳ khưu ni ấy nên được các tỳ khưu ni nhắc nhở đến lần thứ ba để dứt bỏ việc ấy. Nếu được nhắc nhở đến lần thứ ba mà dứt bỏ việc ấy, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ vị tỳ khưu ni này cũng phạm tội (khi được nhắc nhở) đến lần thứ ba, là tội saṅghādisesa (tăng tàng) cần được tách riêng. (ttg.10, tk.)

15.  Tassāyeva  kho  pana  bhikkhuniyā  bhikkhuniyo  honti  anuvattikā  vaggavādikā  ekā  vā  dve  vā  tisso  vā  tā  evaṃ  vadeyyuṃ  māyyāyo  etaṃ  bhikkhuniṃ  kiñci  avacuttha  dhammavādinī  cesā  bhikkhunī  vinayavādinī  cesā  bhikkhunī  amhākañcesā  bhikkhunī  chandañca  ruciñca  ādāya  voharati  jānāti  no  bhāsati  amhākampetaṃ  khamatīti.  Tā  bhikkhuniyo  bhikkhunīhi  evamassu  vacanīyā  māyyāyo  evaṃ  avacuttha  na  cesā  bhikkhunī  dhammavādinī  na  cesā  bhikkhunī  vinayavādinī  māyyānampi  saṅghabhedo  ruccittha  sametāyyānaṃ  saṅghena  samaggo  hi  saṅgho  sammodamāno  avivadamāno  ekuddeso  phāsu  viharatīti.  Evañca  tā  bhikkhuniyo  bhikkhunīhi  vuccamānā  tatheva  paggaṇheyyuṃ  tā  bhikkhuniyo  bhikkhunīhi  yāvatatiyaṃ  samanubhāsitabbā  tassa  paṭinissaggāya,  yāvatatiyañce  samanubhāsiyamānā  taṃ  paṭinissajjeyyuṃ  iccetaṃ  kusalaṃ  no  ce  paṭinissajjeyyuṃ,  imāpi  bhikkhuniyo  yāvatatiyakaṃ  dhammaṃ  āpannā  nissāraṇīyaṃ  saṅghādisesaṃ. 

15.  Các tỳ khưu ni là những kẻ ủng hộ của chính vị tỳ khưu ni ấy tức là những kẻ tuyên bố ly khai dầu là một vị, hoặc hai vị, hoặc ba vị, và các vị ni ấy nói như vầy: “Các ni sư chớ có nói bất cứ điều gì về vị tỳ khưu ni này. Vị tỳ khưu ni này là người nói đúng Pháp. Vị tỳ khưu ni này là người nói đúng Luật. Vị tỳ khưu ni này nắm được rồi phát biểu về ước muốn và điều thích ý của chúng tôi, vị ni ấy hiểu và nói cho chúng tôi; hơn nữa điều ấy hợp ý chúng tôi.” Các vị tỳ khưu ni ấy nên được nói bởi các tỳ khưu ni như vầy: “Các ni sư chớ có nói như thế. Vị tỳ khưu ni này không phải là người nói đúng Pháp. Vị tỳ khưu ni này không phải là người nói đúng Luật. Các ni sư chớ có thích ý về việc chia rẽ hội chúng. Các ni sư hãy hòa nhập cùng hội chúng vì hội chúng hợp nhất, thân thiện, không cãi cọ, chung một nguyên tắc, thì sống được an lạc.” Và khi được các tỳ khưu ni nói như vậy mà các vị tỳ khưu ni ấy vẫn chấp giữ y như thế, thì các vị tỳ khưu ni ấy nên được các tỳ khưu ni nhắc nhở đến lần thứ ba để dứt bỏ việc ấy. Nếu được nhắc nhở đến lần thứ ba mà dứt bỏ việc ấy, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ vị tỳ khưu ni này cũng phạm tội (khi được nhắc nhở) đến lần thứ ba, là tội saṅghādisesa (tăng tàng) cần được tách riêng. (ttg.11, tk.)

16.  Bhikkhunī  paneva  dubbacajātikā  hoti  uddesapariyāpannesu  sikkhāpadesu  bhikkhunīhi  sahadhammikaṃ  vuccamānā  attānaṃ  avacanīyaṃ  karoti  mā  maṃ  ayyāyo  kiñci  avacuttha  kalyāṇaṃ  vā  pāpakaṃ  vā  ahampāyyāyo  na  kiñci  vakkhāmi  kalyāṇaṃ  vā  pāpakaṃ  vā  viramathāyyāyo  mama  vacanāyāti.  Sā  bhikkhunī  bhikkhunīhi  evamassa  vacanīyā  māyyā  attānaṃ  avacanīyaṃ  akāsi,  vacanīyameva  ayyā  attānaṃ  karotu,  ayyāpi  bhikkhuniyo  vadatu  sahadhammena  bhikkhuniyopi  ayyaṃ  vakkhanti  sahadhammena,  evaṃ  saṃvaddhā  hi  tassa  bhagavato  parisā  yadidaṃ  aññamaññavacanena  aññamaññavuṭṭhāpanenāti.  Evañca  sā  bhikkhunī  bhikkhunīhi  vuccamānā  tatheva  paggaṇheyya  sā  bhikkhunī  bhikkhunīhi  yāvatatiyaṃ  samanubhāsitabbā  tassa  paṭinissaggāya,  yāvatatiyañce  samanubhāsiyamānā  taṃ  paṭinissajjeyya  iccetaṃ  kusalaṃ  no  ce  paṭinissajjeyya,  ayampi  bhikkhunī  yāvatatiyakaṃ  dhammaṃ  āpannā  nissāraṇīyaṃ  saṅghādisesaṃ. 

16.  Ngay cả vị tỳ khưu ni có bản tánh khó dạy, trong khi được dạy bảo bởi các tỳ khưu ni về các điều học thuộc về giới bổn lại tỏ ra ương ngạnh: “Các ni sư chớ có nói bất cứ điều gì đến tôi dầu là tốt hay là xấu; tôi cũng sẽ không nói bất cứ điều gì đến các ni sư dầu là tốt hay là xấu. Các ni sư hãy kềm chế lại việc đề cập đến tôi.” Vị tỳ khưu ni ấy nên được nói bởi các tỳ khưu ni như vầy: “Ni sư chớ tỏ ra ương ngạnh, ni sư hãy tỏ ra là người dễ dạy. Ni sư hãy dạy bảo các tỳ khưu ni đúng theo Pháp, các tỳ khưu ni cũng sẽ dạy bảo ni sư đúng theo Pháp; bởi vì như vậy hội chúng của đức Thế Tôn ấy được phát triển, tức là với sự dạy bảo lẫn nhau, với sự khích lệ lẫn nhau.” Và khi được nói như vậy bởi các tỳ khưu ni mà vị tỳ khưu ni ấy vẫn chấp giữ y như thế, thì vị tỳ khưu ni ấy nên được các tỳ khưu ni nhắc nhở đến lần thứ ba để dứt bỏ việc ấy. Nếu được nhắc nhở đến lần thứ ba mà dứt bỏ việc ấy, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ vị tỳ khưu ni này cũng phạm tội (khi được nhắc nhở) đến lần thứ ba, là tội saṅghādisesa (tăng tàng) cần được tách riêng. (ttg.12, tk.)

17.  Bhikkhunī  paneva  aññataraṃ  gāmaṃ  vā  nigamaṃ  vā  upanissāya  viharati  kuladūsikā  pāpasamācārā  tassā  kho  pāpakā  samācārā  dissanti  ceva  suyyanti  ca  kulāni  ca  tāya  duṭṭhāni  dissanti  ceva  suyyanti  ca.  Sā  bhikkhunī  bhikkhunīhi  evamassa  vacanīyā  ayyā  kho  kuladūsikā  pāpasamācārā  ayyāya  kho  pāpakā  samācārā  dissanti  ceva  suyyanti  ca  kulāni  cāyyāya  duṭṭhāni  dissanti  ceva  suyyanti  ca,  pakkamatāyyā  imamhā  āvāsā  alaṃ  te  idha  vāsenāti.  Evañca  sā  bhikkhunī  bhikkhunīhi  vuccamānā  tā  bhikkhuniyo  evaṃ  vadeyya  chandagāminiyo  ca  bhikkhuniyo  dosagāminiyo  ca  bhikkhuniyo  mohagāminiyo  ca  bhikkhuniyo  bhayagāminiyo  ca  bhikkhuniyo,  tādisikāya  āpattiyā  ekaccaṃ  pabbājenti  ekaccaṃ  na  pabbājentīti.  Sā  bhikkhunī  bhikkhunīhi  evamassa  vacanīyā  māyyā  evaṃ  avaca  na  ca  bhikkhuniyo  chandagāminiyo  na  ca  bhikkhuniyo  dosagāminiyo  na  ca  bhikkhuniyo  mohagāminiyo  na  ca  bhikkhuniyo  bhayagāminiyo,  ayyā  kho  kuladūsikā  pāpasamācārā  ayyāya  kho  pāpakā  samācārā  dissanti  ceva  suyyanti  ca  kulāni  cāyyāya  duṭṭhāni  dissanti  ceva  suyyanti  ca  pakkamatāyyā  imamhā  āvāsā  alaṃ  te  idha  vāsenāti.  Evañca  sā  bhikkhunī  bhikkhunīhi  vuccamānā  tatheva  paggaṇheyya  sā  bhikkhunī  bhikkhunīhi  yāvatatiyaṃ  samanubhāsitabbā  tassa  paṭinissaggāya,  yāvatatiyañce  samanubhāsiyamānā  taṃ  paṭinissajjeyya  iccetaṃ  kusalaṃ  no  ce  paṭinissajjeyya,  ayampi  bhikkhunī  yāvatatiyakaṃ  dhammaṃ  āpannā  nissāraṇīyaṃ  saṅghādisesaṃ. 

17.  Vị tỳ khưu ni sống nương tựa vào ngôi làng hoặc thị trấn nọ là kẻ làm hư hỏng các gia đình và có hành động sai trái. Những hành động sai trái của vị ni ấy không những được nhìn thấy mà còn được nghe đồn nữa. Các gia đình bị hư hỏng vì vị ni ấy không những được nhìn thấy mà còn được nghe đồn nữa. Vị tỳ khưu ni ấy nên được nói bởi các tỳ khưu ni như vầy: “Chính ni sư là kẻ làm hư hỏng các gia đình và có hành động sai trái. Những hành động sai trái của ni sư không những được nhìn thấy mà còn được nghe đồn nữa. Các gia đình bị hư hỏng vì ni sư không những được nhìn thấy mà còn được nghe đồn nữa. Ni sư hãy rời khỏi trú xứ này, sự cư trú ở đây đối với ni sư đã đủ rồi!” Và khi được nói như thế bởi các tỳ khưu ni, vị tỳ khưu ni ấy lại nói với các tỳ khưu ni ấy như vầy: “Các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì thương, các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì ghét, các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì si mê, các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì sợ hãi, cùng với tội như nhau họ lại xua đuổi vị ni này, họ lại không xua đuổi vị ni kia.” Vị tỳ khưu ni ấy nên được nói bởi các tỳ khưu ni như vầy: “Ni sư chớ có nói như thế. Các tỳ khưu ni không có sự thiên vị vì thương, các tỳ khưu ni không có sự thiên vị vì ghét, các tỳ khưu ni không có sự thiên vị vì si mê, các tỳ khưu ni không có sự thiên vị vì sợ hãi. Chính ni sư là kẻ làm hư hỏng các gia đình và có hành động sai trái. Những hành động sai trái của ni sư không những được nhìn thấy mà còn được nghe đồn nữa. Các gia đình bị hư hỏng vì ni sư không những được nhìn thấy mà còn được nghe đồn nữa. Ni sư hãy rời khỏi trú xứ này, sự cư trú ở đây đối với ni sư đã đủ rồi!” Và khi được các tỳ khưu ni nói như vậy mà vị tỳ khưu ni ấy vẫn chấp giữ y như thế, thì vị tỳ khưu ni ấy nên được các tỳ khưu ni nhắc nhở đến lần thứ ba để dứt bỏ việc ấy. Nếu được nhắc nhở đến lần thứ ba mà dứt bỏ việc ấy, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ vị tỳ khưu ni này cũng phạm tội (khi được nhắc nhở) đến lần thứ ba, là tội saṅghādisesa (tăng tàng) cần được tách riêng. (ttg.13, tk.)

Uddiṭṭhā  kho  ayyāyo  sattarasa  saṅghādisesā  dhammā  nava  paṭhamāpattikā  aṭṭha  yāvatatiyakā,  Yesaṃ  bhikkhunī  aññataraṃ  vā  aññataraṃ  vā  āpajjati  tāya  bhikkhuniyā  ubhatosaṅghe  pakkhamānattaṃ  caritabbaṃ.  Ciṇṇamānattā  bhikkhunī  yattha  siyā  vīsatigaṇo  bhikkhunisaṅgho  tattha  sā  bhikkhunī  abbhetabbā.  Ekāyapi  ce  ūno  vīsatigaṇo  bhikkhunisaṅgho  taṃ  bhikkhuniṃ  abbheyya,  sā  ca  bhikkhunī  anabbhitā  tā  ca  bhikkhuniyo  gārayhā  ayaṃ  tattha  sāmīci.  Tatthāyyāyo  pucchāmi  kaccittha  parisuddhā,  dutiyampi  pucchāmi  kaccittha  parisuddhā,  tatiyampi  pucchāmi  kaccittha  parisuddhā.  Parisuddhetthāyyāyo  tasmā  tuṇhī  evametaṃ  dhārayāmīti.

Bạch chư đại đức ni, mười bảy điều saṅghādisesa (tăng tàng)đã được đọc tụng xong, chín điều bị phạm tội ngay lúc vừa mới vi phạm, tám điều (khi được nhắc nhở) đến lần thứ ba. Vị tỳ khưu ni vi phạm điều nọ hoặc điều kia thuộc về các điều này thì vị tỳ khưu ni ấy nên thực hành nửa tháng mānatta nơi có cả hai hội chúng. Vị tỳ khưu ni có hành phạt mānatta đã được hoàn tất thì vị tỳ khưu ni ấy nên được giải tội tại nơi nào có hội chúng tỳ khưu ni nhóm hai mươi vị. Nếu hội chúng tỳ khưu ni nhóm hai mươi vị chỉ thiếu đi một mà giải tội cho vị tỳ khưu ni ấy thì vị tỳ khưu ni ấy chưa được giải tội và các tỳ khưu ni ấy bị khiển trách. Đây là điều đúng đắn trong trường hợp ấy. Trong các điều ấy, tôi hỏi các đại đức ni rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này?Đến lần thứ nhì, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này?Đến lần thứ ba, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này?Các đại đức ni được thanh tịnh nên mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

Saṅghādisesuddeso  niṭṭhito.
(Phần Đọc Tụng Giới Saṅghādisesa được chấm dứt).