Skip directly to content

THỰC HIỆN SỐNG MƯỜI ĐIỀU LÀNH

Kinh A-Hàm dạy: “Bệnh sắc dục dùng bất tịnh trị”. Thực vậy, đứng trước sắc đẹp phụ nữ, khi tâm tham dục khởi, chúng ta phải dùng quán thân bất tịnh để đối trị. Nghĩa là phải suy tư quán xét cho thấu đáo tất cả vạn hữu đều có sắc tướng bất tịnh, dễ ô nhiễm, sinh ra mùi hôi thúi ghê tởm, dù cho chúng có những sắc tướng khêu gợi khiến cho tâm tham sắc dục dễ nổi lên cũng đều là bất tịnh.

        Muốn làm chủ được tâm tham sắc dục không có pháp môn nào để chế ngự hơn là kinh nghiệm bản thân. Phải trực tiếp mắt thấy tai nghe mũi ngửi mùi, tay sờ mó vào sắc tướng của đối tượng đang phơi bầy trước mắt ta những hình ảnh ghê tởm uế trược, hôi thúi và còn nhiều sự bất tịnh khác nữa. Nhờ có trực tiếp như vậy nên khi vừa thấy sắc là ta thấy ghê tởm ngay liền.

Muốn chế ngự và hàng phục tâm sắc dục, điều tối quan trọng là phải thông suốt:

Ở đâu có khoái lạc, ở đó có khổ đau. Sự đau khổ nhắc cho chúng ta thức tỉnh trong sự mong cầu khoái lạc.

Xét về thân và tâm của mình, từ xương, răng, da, tóc, đờm nhớt, máu mũ, thảy đều bất tịnh. Về phần tinh thần, ta cũng dễ bị ô nhiễm, dính mắc các sắc tướng vạn hữu; vì thế chúng ta càng khởi tâm tham dục lạc thì càng thọ vô lượng thứ đau khổ.

            Người sống với MƯỜI ĐIỀU LÀNH phải thể hiện đúng MƯỜI ĐIỀU LÀNH của Phật dạy, và còn phải nhìn thấu suốt thực chất sắc tướng của vạn hữu đang vây quanh chúng ta.

Người mang bệnh sân hận nặng muốn đối trị phải dùng từ tâm. Nghĩa là chúng ta phải biết đem lòng từ bi tha thứ và thương yêu những kẻ lầm lỗi, những người hung ác, gian tham, tật đố, v.v... Tại sao vậy? Vì họ là người thiếu giáo dục đạo đức, không được ánh sáng chân lý soi chiếu vào tâm tư họ nên đời sống họ luôn luôn bám chặt vào vật chất chịu nhiều thứ đau khổ.

Chúng ta là người sống với MƯỜI ĐIỀU LÀNH phải thấu rõ lý nhân quả, thường dùng chánh kiến và luôn thực hiện LÒNG THƯƠNG YÊU đối với mọi người. Nhờ vậy lòng đau khổ, sự giận hờn mới chấm dứt.

Ý thức được sự ích kỷ, nhỏ mọn của mình là thuốc độc giết chết tâm mình, chỉ có LÒNG YÊU THƯƠNG mới cứu chúng ta sống  an vui.

Muốn trị bệnh ngu si mà không chịu học Phật pháp thì không làm sao có trí tuệ giải thoát, không thể làm chủ được tư tưởng của mình và thấu suốt được vạn hữu. Vả lại người ngu si không thể nào biết áp dụng phương tiện của đức Phật dạy. Bởi vậy kẻ ngu si không đủ trí hiểu biết luôn luôn sống một đời đầy đau khổ, sân hận, lúc nào cũng nô lệ cho vật chất.

Người sống với MƯỜI ĐIỀU LÀNH là phải biết dùng pháp môn quán của Đức Phật đã giảng dạy suốt con đường “A-Ham”, tức “Nhị Thừa”. Pháp môn này dùng để đối trị tất cả tư tưởng phiền não. Khi thấu suốt con đường quán của Nhị Thừa, chúng ta mới thấu rõ là tất cả hiện tượng vạn vật thiên nhiên trong vũ trụ đều do duyên hợp tạo thành, chớ không do một đấng vạn năng nào biến hóa ra.

Xét cho cùng tột về cuộc sống của chúng ta, ta mới thấy ngã không, người không và vạn hữu nều không. Kinh A-Hàm dạy: “Nay Thích Đề Hoàn Nhơn! Như vậy tất cả hiện tượng nều quy về không; không ta, không người, không thọ mạng, không sĩ phu, không hình tướng, không nam nữ”.

Ở nây chúng ta nghe Đức Phật dạy tất cả hiện tượng trong thế gian nều quy về không; không ta, không người, không thọ mạng, không sĩ phu, không hình tướng, không nam nữ, thế mà mọi vật trước mắt chúng ta sờ sờ mà bảo là không thì hóa ra lời dạy kia phi lý và mâu thuẫn với chính nó hay sao?

Muốn rõ lý sắc không, chúng ta phải có sự tư duy cho tường tận mới thấy vạn hữu là không. Ví dụ muốn dựng một cái nhà phải do nhiều thứ hợp lại như kèo, cột, vách, lá, phên, cửa, đòn dông hợp lại tạo nên một cái nhà. Nếu lấy một cây cột mà bảo nó là cái nhà thì không đúng.

Câu chuyện vua Malinda hỏi tỳ kheo Nagasena trong Kinh Malinda:

- Thưa Đại Đức! Quý danh Ngài là gì?

- Tâu bệ hạ! Người ta gọi tôi là Nagasena, nhưng không có thật tôi.

Nhà vua hỏi :

- Nếu không có thật NGÃ thì ai cúng dường. ai truyền giáo, ai tham thiền, ai thực hành giáo lý và ai tu chứng Niết Bàn? Vậy cái gì mới thực là Nagasena?  Hay tóc trên đầu là Nagasena chăng?

- Tâu bệ hạ! Không phải tóc là tôi.

- Lông nơi thân là Nagasena chăng?

- Tâu bệ hạ cũng không.

- Vậy thì sự cảm xúc, sự nhận biết vui buồn là Nagasena chăng?

- Tâu bệ hạ cũng không.

- Vậy thì ngũ uẩn, tứ đại là Nagasena chăng?

- Tâu bệ hạ cũng không.

- Như thế ngoài thân còn cái gì là Nagasena chăng?

- Tâu bệ hạ cũng không có cái thân nào khác ngoài Nagasena.

- Vua Malinda hỏi xong, Nagasena hỏi lại:

- Tâu bệ hạ! Ngài đến đây bằng gì?

- Bạch Đại Đức! Trẫm đến đây bằng xe.

-Vậy bệ hạ có thể giải thích xe là gì chăng ? Có phải gọng là xe chăng?

- Không phải thế.

- Cái trục lăn có phải là xe chăng?

- Bạch Đại Đức không.

- Hai bánh có phải là xe chăng?

- Cũng không.

- Vậy nhà vua nói các thứ đó có cái gì là xe không?

- Cũng không.

            Câu chuyện vua Malinda cho chúng ta thấy rõ ràng Phật giáo chủ trương con người không có bản ngã. Sinh mạng của con người chỉ kết hợp do tứ đại và tâm thức. Hay nói một cách khác hơn, con người do duyên hợp bởi đời sống vật chất và tâm lý. Đời sống vật chất gọi là sắc uẩn, đời sống tâm lý gọi là thọ, tưởng, hành, thức uẩn; gọi chung là Ngũ Uẩn.

Đứng về phương diện không gian, vạn hữu trong vũ trụ vốn giả hợp; còn về phương diện thời gian thì vạn hữu vốn sanh diệt không ngừng; cho nên thân ngũ uẩn tạm có gọi là sanh mệnh chúng sanh, khi ngũ uẩn tan rã thì gọi là sanh mạng chúng sanh chấm dứt hay chết.

Vạn hữu mượn danh mà đặt tên, chớ không có thực tên, cũng như cái chúng ta thấy gọi là xe thì nó đâu có một bản thể chính yếu, ngoài các bộ phận như gọng, bánh, trục, căm v.v... thì xe không thành hình được. Xe chỉ là một danh từ để chỉ sự kết hợp của các bộ phận ấy mà thôi. Tôn giả Tu Bồ Đề còn giảng những ví dụ giải thích cho chúng ta thấy vạn hữu do duyên hợp tạo nên, khi hết duyên thì duyên tan, nó sẽ hoại diệt. Ví như cây cổ thụ xum xuê tàng lá, một cơn gió to cành lá phải xác xơ. Một vườn cây đang kết hoa đẩy nụ làm quả, một trận mưa đá, tuyết rơi làm hư hoại tất cả. Đó là duyên tan. Một cơn mưa to trút xuống, các cây cành đang héo úa gặp mưa liền đâm chồi nẩy tược. Đó là duyên hợp. Khéo quán xét chúng ta đào sâu vào sự bất động của vạn hữu, ta mới thấy rằng bệnh tật không từ đâu sanh, chẳng phải thân sanh mà cũng chẳng phải ý sanh. Vì thế, bệnh tật không phải do thân hay do ý, mà chính là duyên hợp tạo nên. Pháp do duyên mà có, duyên hợp là động, động thì pháp sanh.

Pháp pháp tự diệt, nghĩa là hết duyên thì pháp tự hoại diệt, tự trở về sự bất động của nó. Kinh A-Hàm dạy: “Nay Thích Đề Hoàn Nhơn! Pháp pháp loạn động, pháp pháp tự diệt. Ta trước kia mắc bệnh đau đớn khổ sở, ngày nay đã trừ được, không còn bệnh khổ”. Lời dạy của Tôn giả Tu Bồ Đề, chúng ta nhận thức như thế nào? Có phải chăng khi suy tư quán xét liền thấu rõ cội nguồn của bệnh tật là hết bệnh chăng? Hay một duyên cớ gì mà ông Tu Bồ Đề bảo bệnh ông đã hết?

Khi dùng pháp Quán để thấu suốt cội nguồn của bệnh tật, để rõ được nguyên nhân này chỉ do duyên hợp nhiều đời và cũng như ngay trong đời hiện tại đang tạo tác. Nhờ thấu rõ cội nguồn của bệnh tật, nên tâm tư không còn lo ngại sợ sệt, thường nhìn thẳng vào bệnh tật, lòng không chút sợ hãi lo lắng. Đủ duyên hợp lại thành bệnh tật, khổ đau, vui buồn, thương ghét, giận hờn... Hết duyên tất cả phiền lụy đều tan hết.

Thấu suốt được lý này, hành giả phải chấp nhận bệnh tật, hoặc tai nạn. Không bao giờ sợ hãi và tìm cách trốn tránh. Lúc nào cũng vui vẽ trả nghiệp và luôn luôn tạo NGHIỆP LÀNH. Do lòng an vui chấp nhận các NGHIỆP KHỔ mà tinh thần dũng mãnh, can đảm chịu đựng những thử thách để rồi vượt qua, NGHIỆP KHỔ dần dần tan biến.

Nói đến duyên hợp, duyên tan mà không nói đến nhân quả là một điều thiếu sót quá lớn. Nhơn quả là do NGHIỆP LÀNHhay NGHIỆP ÁCmà có. Muốn đối trị quả khổ thì phải thấu lý nhân quả, tức là biết rõ quả THIỆN ÁCđang chủ động tác động vào đời sống con người, khiến cho con người cực khổ thất điên bát đảo.

Vậy chúng ta phải thường hằng sống với MƯỜI ĐIỀU LÀNH, phải cố gắng gieo NHÂN LÀNH. Khi NHÂN LÀNHđầy đủ thì sự phiền não, đau khổ sẽ chấm dứt. Muốn cứu nguy bệnh tật của thân, mưu tìm chân hạnh phúc cho gia nình thì phải sống với MƯỜI ĐIỀU LÀNH. sống với MƯỜI ĐIỀU LÀNH là chuyển từ NGHIỆP ÁCthành NGHIỆP THIỆN, chuyển điều dữ thành điều lành, khiến cho đời sống chúng ta hoàn toàn được thuận duyên. Nhờ đó mà cuộc hành trình về XỨ PHẬTkhông còn trở ngại nữa.

Muốn sống với MƯỜI ĐIỀU LÀNH mà thiếu trí tuệ thì không bao giờ thực hiện được việc này. Muốn có trí tuệ chúng ta phải học Phật pháp, nhờ học Phật pháp trí tuệ mới sáng suốt, mới chánh kiến giải thoát, nhờ đó mà PHẬT PHÁPmới thấm nhuần. Nhờ đó tâm chúng ta xuất hiện LÒNG YÊU THƯƠNG, nhờ LÒNG YÊU THƯƠNGmới dễ thực hiện đức nhẫn nhục, nhờ có đức nhẫn nhục chúng ta mới thể hiện sống với MƯỜI ĐIỀU LÀNHdễ dàng. Chỉ có sống với MƯỜI ĐIỀU LÀNHthì quả ác mới chấm dứt, cuộc sống mới được an vui, hạnh phúc.

Tóm lại, con người muốn thoát khỏi bệnh tật khổ đau, tai nạn hiểm nghèo thì không có phương tiện nào hay pháp môn nào mau chóng bằng pháp môn sống với MƯỜI ĐIỀU LÀNH. Dù thuốc hay thầy giỏi cũng không tránh khỏi thân bệnh, dù các bậc vua chúa hay các y sư giỏi nhất thế gian cũng không thoát khỏi bệnh tật, và cũng phải chịu chung luật sanh tử.

Thế nên học PHẬT PHÁPmà biết khôn khéo áp dụng vào đời sống hằng ngày thì thân bệnh sẽ không còn nữa và tâm thường được an vui.

Chúng ta hãy nghe bài kệ của Tôn giả Tu Bồ Đề để gắng công tu tập sống với MƯỜI ĐIỀU LÀNH:

“Hãy nói như lời này

Căn bản thấy đầy đủ

Người trí được an ổn

Nghe Pháp dứt các bệnh”

(Kinh Tăng Nhất A-Hàm)

Chúc quý vị tu tập thành công để luôn luôn sống được an vui, hạnh phúc.                        

Sống với MƯỜI ĐIỀU LÀNH được viết ra thành sách là nhờ giúp cho con gái của bà Lâm Chưởng để thoát khỏi bệnh hiểm nghèo.

Chúc quý vị tu tập thành công để luôn luôn sống được an vui, hạnh phúc.

Tu viện Chơn Như, ngày 1 tháng giêng, năm Bính Dần, 1986.

 

                        Tỳ Kheo Thích Thông Lạc

                        kính ghi