TRÌ GIỚI LÀ LY DỤC
LỜI PHẬT DẠY 1- Nói trì giới, là để chỉ cho tâm ly dục, ly ác pháp. 2- Nói dục, là chỉ cho tâm bất tịnh, cấu uế, ô trược. 3- Nói lậu hoặc, là chỉ cho tâm đau khổ. 4- Nói tịnh chỉ các hành trong thân, là để chỉ sự làm chủ sống chết. 5- Nói Tam Minh, là chỉ cho tâm vô lậu. 6- Nói Niết Bàn, là chỉ cho tâm vô dục, tâm bất động giải thoát. |
CHÚ GIẢI:
1- Nói trì giới:Là chỉ cho tâm ly dục ly ác pháp, có nghĩa là người tu sĩ và người cư sĩ sống đúng giới luật nghiêm chỉnh không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt, biết sợ hãi trong các lỗi nhỏ nhặt, biết xấu hổ dù là phạm một giới luật nhỏ hoặc một điều ác nhỏ, người như vậy là người đã ly dục ly ác pháp, người đã ly dục ly ác pháp là người đã sống trong trạng thái tâm thanh thản, an lạc và vô sự, người đã sống được trong trong trạng thái tâm thanh thản, an lạc và vô sự là người tâm Bất Động trước các ác pháp và các cảm thọ, người có tâm Bất Động trước các ác pháp và các cảm thọ là người có đạo đức nhân bản, người có đạo đức nhân bản là người không làm khổ mình, khổ người. Người không làm khổ mình, khổ người là người giải thoát của đạo Phật. Cho nên, người giải thoát của đạo Phật là người có tri kiến giải thoát. Tri kiến giải thoát tức là đức hạnh, tri kiến giải thoát và đức hạnh là giới luật của Phật. Cho nên, đức Phật dạy: “Tri kiến ở đâu là giới luật ở đó, giới luật ở đâu là tri kiến ở đó”.
Tóm lại, người trì giới là người có trí tuệ và đức hạnh, người có trí tuệ và đức hạnh là người trì giới, người trì giới là người tu sĩ chân chánh của đạo Phật.
2- Nói dục:Có nghĩa là nói nguyên nhân sinh ra đau khổ, sự đau khổ trong thế gian này được đức Phật xem như là sự bẩn thỉu, ô trược, hôi thối, bất tịnh có nghĩa là chẳng trong sạch, bất tịnh còn có nghĩa là ác pháp, nhưng chúng ta đừng vội vơ đũa cả nắm cho là tất cả dục là ác pháp, là bất tịnh, là sai.
Mặc dù dục là nguyên nhân sanh ra muôn thứ đau khổ nhưng có loại dục không đau khổ, đó là dục không làm khổ mình, khổ người; dục làm lợi ích cho người, cho mình, dục làm chủ sanh, già, bệnh, chết thoát khổ của kiếp làm người; dục chấm dứt luân hồi sanh tử v.v.. Đó là những dục thiện mà người tu sĩ Phật giáo cần phải tăng trưởng.
Bởi vậy dục có thiện dục và có ác dục nên đức Phật dạy chúng ta diệt dục ác không diệt dục thiện. “Ngăn ác diệt ác, sanh thiện tăng trưởng thiện” là nghĩa ấy vậy.
Diệt dục thiện lẫn dục ác thì chúng ta trở thành cây đá còn đâu gọi là đi tìm sự giải thoát. Phải không các bạn?
Có người nghe kinh Tứ Thánh Đế, đến Diệt Đế họ tưởng rằng diệt hết dục là giải thoát, là Niết Bàn, sự hiểu biết như vậy là sự hiểu biết nông cạn, là sai, là không hiểu Phật giáo.
Trong kinh Tứ Chánh Cần đức Phật đã xác định rõ ràng: “Ngăn ác diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp”như vậy chúng ta nên hiểu Kinh Tứ Diệu Đế dạy về Diệt Đế tức là diệt tâm ham muốn ác, chứ không có dạy diệt tâm ham muốn thiện, vì tâm ham muốn ác là tâm làm khổ mình, khổ người. Tâm làm khổ mình, khổ người là tâm không có đạo đức nhân bản, còn ngược lại tâm ham muốn thiện là tâm không làm khổ mình, khổ người, là tâm làm lợi ích cho mình cho người, là tâm giải thoát của đạo Phật, là tâm Niết Bàn, vì cuối cùng của con đường thiện pháp không làm khổ mình, khổ người thì tâm ham muốn thiện kia cũng không còn.
3- Nói lậu hoặc:Là chỉ cho tâm đau khổ, có nghĩa là bất cứ một việc gì làm đau khổ nào cho mình, cho người, cho chúng sanh thì đều gọi là lậu hoặc chứ không phải chỉ có khổ riêng cho mình mới gọi là lậu hoặc.
Ác pháp thường đến cho mình và cho nhiều người, không bao giờ đến đơn điệu cho một người, cho nên nói lậu hoặc, tức là nói một chùm nhân quả khổ đau, chứ không phải nghĩa rò rỉ của các chữ nghĩa Hán ngữ.
Lậu hoặc là chỉ cho thân tâm đau khổ nên nó được chia ra làm ba:
1- Dục lậu.
2- Hữu lậu
3- Vô Minh lậu
Người tu hành theo Phật giáo diệt trừ được ba lậu hoặc này liền chứng đạo.
4- Nói tịnh chỉ các hành trong thân:là để chỉ cho sự làm chủ sống chết, tức là nói về năng lực của pháp Như Lý Tác Ý điều khiển chủ động bằng Tứ Như Ý Túc tức là Tứ Thần Túc. Tứ Thần Túc gồm có:
1- Dục Như Ý Túc
2- Tinh Tấn Như Ý Túc
3- Định Như Ý Túc
4- Tuệ Như Ý Túc
Do những thần lực này mà người tu sĩ Phật giáo mới làm chủ được sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi.
5- Nói Tam Minh:Là chỉ cho tâm vô lậu dứt hết nghiệp tái sanh luân hồi (Lậu Tận Minh), chứ không phải nói thần thông. Nói đến Lục Thông, Tam Minh theo như người ta nghĩ tưởng và ưa thích là nói đến thần thông. Đạo Phật không có dạy tu tập để có thần thông mà chỉ dạy đạo đức nhân bản nhân quả cho con người. Khi con người sống đúng đạo đức thì tâm thanh tịnh nghĩa là không còn tâm tham sân si nữa thì nơi tâm thanh tịnh ấy lưu xuất ra những thần lực trên. Những thần lực này có khả năng nhập các định và thực hiện Tam Minh. Với khả năng ấy mới làm chủ sự sống chết và chấm dứt luân hồi.
Cho nên, Lục Thông, Tam Minh không phải thần thông làm trò ảo thuật cho người ta xem chơi như các nhà Yoga, mà Lục Thông Tam Minh là đạo lực có công năng làm chủ sự sống chết của con người.
Lục Thông có:
1- Thiên Nhãn Thông
2- Thiên Nhĩ Thông
3- Tha Tâm Thông
4- Túc Mạng Thông
5- Thần Túc Thông
6- Lậu Tận Thông.
Tam Minh gồm có:
1- Túc Mạng Minh
2- Thiên Nhãn Minh
3- Lậu Tận Minh.
6- Nói Niết Bàn:Là chỉ cho tâm vô dục, tâm bất động giải thoát, tức là tâm đã lìa xa lòng ham muốn và các ác pháp, tâm lìa xa lòng ham muốn và các ác pháp là tâm thanh thản, an lạc và vô sự.