II. SỰ TOÀN HẢO VỀ GIỚI
II. SĪLAPĀRAMITĀ
1. Mātuposakacariyaṃ
1. Hạnh của Vị Nuôi Dưỡng Mẹ:
***
148. Yadā ahosi pavane kuñjaro mātuposako
na tadā atthi mahiyā guṇena mama sādiso.
148. Vào lúc ta là con voi nuôi dưỡng voi mẹ ở trong rừng rậm. Lúc bấy giờ, ở trên trái đất không có người tương đương với ta về giới đức.
149. Pavane disvā vanacaro rañño maṃ paṭivedayi
tavānucchavo mahārāja gajo vasati kānane.
149. Có người đi rừng, sau khi nhìn thấy ta ở khu rừng rậm, đã thông báo với đức vua rằng: “Tâu đại vương, có con voi được xứng đáng với ngài đang sống ở trong rừng.
150. Na tassa parikhāya’ttho napi āḷhakakāsuyā
samaṃ gahite soṇḍāya sayameva idhehiti.
150. Không cần phải gây thương tích cho nó, cũng không cần đến cọc trói và hầm hố. Khi được nắm ở vòi của chính nó, tự thân nó sẽ đi đến chỗ này.”
151. Tassa taṃ vacanaṃ sutvā rājāpi tuṭṭhamānaso
pesesi hatthidamakaṃ chekācariyaṃ susikkhitaṃ.
151. Nghe được lời nói ấy của ông ta, ngay cả đức vua cũng có tâm trí hớn hở và đã phái đi người thuần hóa voi, là bậc thầy kinh nghiệm, đã được huấn luyện rành rẽ.
152. Gantvāna so hatthidamako addasa padumassare
bhisamulālaṃ uddharantaṃ yāpanatthāya mātuyā.
152. Sau khi đi đến, người thuần hóa voi ấy đã nhìn thấy (ta), ở trong hồ sen, đang nhổ lên rễ và ngó sen nhằm mục đích nuôi dưỡng mẹ.
153. Viññāya me sīlaguṇaṃ lakkhaṇaṃ upadhārayi
ehi puttāti vatvāna mama soṇḍāya aggahi.
153. Biết được giới đức của ta, người này đã xác định các đặc điểm và đã nói rằng: “Này con trai, hãy đi đến,” rồi đã nắm chặt cái vòi của ta.
154. Yaṃ me tadā pākatikaṃ sarīrānugataṃ balaṃ
ajja nāgasahassānaṃ balena samasādisaṃ.
154. Khi ấy, sức mạnh tự nhiên đồng hành với cơ thể của ta là tương đương với sức mạnh của một ngàn con voi ngày hôm nay.
155. Yadihaṃ tesaṃ pakuppeyyaṃ upetānaṃ gahanāya maṃ
paṭibalo bhave tesaṃ yāva rajjampi mānusaṃ.
155. Nếu ta nổi cơn giận dữ với những người đã đi đến để bắt ta, ta có thừa khả năng đối với bọn họ, thậm chí luôn cả vương quốc của những người ấy nữa.
156. Api cāhaṃ sīlarakkhāya sīlapāramī pūriya
na karomi citte aññathattaṃ pakkhipante mamāḷhake.
156. Hơn nữa, vì gìn giữ giới để làm viên mãn sự toàn hảo về giới, ta không làm thay đổi tâm ý trong khi họ xô đẩy ta vào cây cọc trói.
157. Yadi te maṃ tattha koṭṭeyyuṃ phrasūhi tomarehi ca
neva tesaṃ pakuppeyyaṃ sīlakhaṇḍabhayā mamāti.
157. Nếu bọn họ có làm tổn thương ta bằng những cái rìu và những cây thương, ta cũng chẳng nổi cơn giận dữ đối với bọn họ vì ta có nỗi lo sợ bị đứt giới.
Mātuposakacariyaṃ paṭhamaṃ.
Hạnh của Vị Nuôi Dưỡng Mẹ là phần thứ nhất.
--ooOoo--
2. Bhūridattacariyaṃ
2. Hạnh của (Đức Bồ-tát) Bhūridatta:[23]
***
158. Punāparaṃ yadā homi bhūridatto mahiddhiko
virūpakkhena mahāraññā devalokamagacchahaṃ.
158. Vào một thời điểm khác nữa, khi ta là Bhūridatta có đại thần lực. Ta đã đi đến cõi trời cùng với vị Đại Vương Virūpakkha.[24]
159. Tattha passitvāhaṃ deve ekantaṃ sukha samappite
taṃ saggaṃ gamanatthāya sīlabbataṃ samādiyiṃ.
159. Sau khi nhìn thấy chư thiên ở tại nơi ấy được thọ hưởng an lạc trọn vẹn, ta đã thọ trì giới cấm nhằm mục đích đi đến cõi trời ấy. [25]
160. Sarīrakiccaṃ katvāna bhūtvā yāpanamattakaṃ
caturo aṅge adhiṭṭhāya semi vammikamuddhani.
160. Sau khi làm phận sự đối với cơ thể [26] và thọ dụng chỉ đủ để nuôi sống, ta đã quyết định về bốn chi phần (của cơ thể) [27] rồi đã nằm ở trên đỉnh của gò mối.
161. Chaviyā cammena maṃsena nahāruaṭṭhikehi vā
yassa etena karaṇīyaṃ dinnaṃ eva harātu so.
161. Đối với người nào có việc cần dùng đến da ngoài, da trong, thịt, các sợi gân, hoặc các khúc xương (ở cơ thể ta), chính vì là vật đã được bố thí nên hãy để người ấy mang đi.
162. Saṃsito akataññunā ālambano mamaggahi
peḷāya pakkhipitvāna kīḷeti maṃ tahiṃ tahiṃ.
162. Khi ta đang nằm, kẻ vô ơn Ālambana [28] đã nắm lấy ta ném vào trong giỏ rồi đã bắt ta làm trò vui ở nơi này nơi khác.
163. Peḷāya pakkhipantepi sammaddantepi pāṇinā
ālambane na kuppāmi sīlakhaṇḍabhayā mama.
163. Ngay cả trong khi ông ấy ném (ta) vào giỏ, thậm chí trong khi ông ấy dùng bàn tay đè bẹp (ta) xuống, ta không giận dữ đối với Ālambana vì ta có nỗi lo sợ bị đứt giới.
164. Sakajīvitapariccāgo tiṇato lahuko mama
sīlavītikkamo mayhaṃ paṭhavī-ubbattanā viya.
164. Sự xả bỏ sanh mạng bản thân của ta là nhẹ hơn cọng cỏ. Sự phá giới đối với ta tương tợ như việc đảo ngược trái đất.
165. Nirantaraṃ jātisataṃ cajeyyaṃ mama jīvitaṃ
neva sīlaṃ pabhindeyyaṃ catudīpānahetupi.
165. Liên tục một trăm kiếp sống, ta có thể xả bỏ mạng sống của ta chứ không thể nào làm đứt giới cho dù là vì nguyên nhân (làm vua cai trị) bốn châu lục.
166. Api cāhaṃ sīlarakkhāya sīlapāramipūriyā
na karomi citte aññathattaṃ pakkhipantamhi peḷaketi.
166. Hơn nữa, vì gìn giữ giới để làm viên mãn sự toàn hảo về giới, ta không làm thay đổi tâm ý trong khi (Ālambana) ném (ta) vào trong giỏ.
Bhūridattacariyaṃ dutiyaṃ.
Hạnh của (đức Bồ-tát) Bhūridatta là phần thứ nhì.
--ooOoo--
3. Campeyyanāgacariyaṃ
3. Hạnh của Con Rồng Campeyya: [29]
***
167. Punāparaṃ yadā homi campeyyako mahiddhiko
tadāpi dhammiko [30]āsiṃ sīlabbatasamappito.
167. Vào một thời điểm khác nữa, khi ta là Campeyyaka có đại thần lực. Vào thời ấy, ta cũng đã là người nghiêm túc, hành trì giới cấm.
168. Tadāpi maṃ dhammacāriṃ upavutthaṃ uposathaṃ
ahituṇḍiko gahetvāna rājadvāramhi kīḷati.
168. Cũng vào khi ấy, trong khi ta là người hành pháp đang thực hành ngày trai giới, một người luyện rắn đã tóm bắt lấy ta rồi đã bắt ta làm trò vui ở cổng hoàng cung.
169. Yaṃ so vaṇṇaṃ cintayati nīlaṃ pītañca lohitaṃ
tassa cittānuvattento homi cintitasantibho.
169. Gã ấy nghĩ về màu nào, xanh, vàng, hoặc đỏ, còn ta, trong khi biến đổi theo ý nghĩ của gã ấy, trở thành (có màu sắc) giống như đã được suy nghĩ (bởi người ấy).
170. Thalaṃ kareyyaṃ udakaṃ udakampī thalaṃ kare
yadihaṃ tassa pakuppeyyaṃ khaṇena jārikaṃ kare.
170. Ta có thể biến đất thành nước, và cũng có thể biến nước thành đất. Nếu ta nổi giận đối với gã ấy, ta có thể biến (gã ấy) trở thành tro bụi trong một sát-na.[31]
171. Yadi cittavasī hessaṃ parihāyissāmi sīlato
sīlena parihīṇassa uttamattho na sijjhati.
171. Nếu như ta thể hiện năng lực của tâm, ta sẽ từ bỏ giới; (và) mục đích tối thượng không được thành tựu đến người từ bỏ giới.
172. Kāmaṃ bhijjatu yaṃ kāyo idheva vikirīyatu
neva sīlaṃ pabhindeyyaṃ vikirante bhusaṃ viyāti.
172. Dầu sao đi nữa, hãy để thân xác này bị tan vỡ, hãy để nó bị phân tán ở ngay đây; trong khi bị tan tác giống như bụi phấn, ta cũng không thể nào làm đứt giới.
Campeyyanāgacariyaṃ tatiyaṃ.
Hạnh của Con Rồng Campeyya là phần thứ ba.
--ooOoo--
4. Cullabodhicariyaṃ
4. Hạnh của (Đức Bồ-tát) Cullabodhi:[32]
***
173. Punāparaṃ yadā homi cullabodhi susīlavā
bhavaṃ disvāna bhayato nekkhammaṃ abhinikkhamiṃ.
173. Vào một thời điểm khác nữa, khi ta là Cullabodhi, là người có giới hạnh. Nhìn thấy hiện hữu là nguy hiểm, ta đã ra đi theo hạnh xuất ly.
174. Yā me dutiyikā āsi brāhmaṇī kanakasantibhā
sāpi vaṭṭe anapekkhā nekkhammaṃ abhinikkhamī.
174. Ta có người vợ dòng dõi Bà-la-môn có nước da như vàng ròng. Cô ta cũng không mong muốn luân hồi nên đã ra đi theo hạnh xuất ly.
175. Nirālayā chinnabandhū anapekkhā kule gaṇe
carantā gāmanigamaṃ bārāṇasimupāgamuṃ.
175. Không dính mắc, thân quyến đã lìa, không mong muốn về gia đình, (hay) về đồ chúng, chúng tôi du hành qua làng mạc phố chợ và đã đi đến Bārāṇasī.
176. Tattha vasāma nipakā asaṃsaṭṭhā kule gaṇe
nirākule appasadde rājuyyāne vasāmubho.
176. Ở tại nơi ấy, chúng tôi đã sống khôn khéo, không cấu kết gia đình, bè đảng. Cả hai đã sống trong khu vườn của đức vua, không bị quấy rầy, ít có tiếng động.
177. Uyyānadassanaṃ gantvā rājā addasa brāhmaṇiṃ
upagamma mamaṃ pucchi tuyhesā kassa bhāriyā.
177. Đức vua đã đi đến ngoạn cảnh khu vườn và đã nhìn thấy người nữ Bà-la-môn. Ngài đã đi đến gặp ta và hỏi rằng: “Nàng ấy là vợ của khanh hay của ai?”
178. Evaṃ vutte ahaṃ tassa idaṃ vacanamabravi
na mayhaṃ bhariyā esā sahadhammā ekasāsanī.
178. Được nói như vậy, ta đã nói với đức vua lời này: “Nàng ấy không phải là vợ của thần, nàng là người đồng đạo, cùng chung giáo lý.”
179. Tassāsārattādhigato gāhāpetvāna ceṭake
nippīḷayanto balasā antepuraṃ pavesayī.
179. Bị ái luyến và khát khao nàng ấy, đức vua đã ra lệnh các thuộc hạ bắt giữ rồi dùng sức mạnh để ép buộc đưa nàng vào nội cung.
180. Odapattakiyā mayhaṃ sahajā ekasāsanī
ākaḍḍhitvā nayantiyā kopo me uppajjatha.
180. Nàng là người vợ của ta theo nghi thức chạm vào bát nước, đồng thời xuất gia cùng chung giáo lý. Trong khi nàng bị lôi kéo đưa đi, sự giận dữ đã khởi lên ở ta.
181. Saha kope samuppanne sīlabbatamanussariṃ
tattheva kopaṃ niggaṇhiṃ nādāsiṃ vaḍḍhitūpari.
181. Cùng lúc khi cơn giận đã được phát khởi, ta đã nhớ lại giới cấm. Ngay tại nơi ấy, ta đã nén lại cơn giận và đã không cho bộc phát lên.
182. Yadihaṃ brāhmaṇiṃ koci koṭṭeyya tiṇhasattiyā
neva sīlaṃ pabhindeyyaṃ bodhiyāyeva kāraṇā.
182. Nếu như có ai dùng con dao bén đâm chém người nữ Bà-la-môn ấy, ta cũng không thể nào làm đứt giới với lý do chỉ là vì quả vị giác ngộ.
183. Na me sā brāhmaṇī dessā na pi me balaṃ na vijjati
sabbaññutaṃ piyaṃ mayhaṃ tasmā sīlānurakkhissanti.
183. Người nữ Bà-la-môn ấy không có bị ta ghét bỏ, cũng không phải là sức mạnh của ta không có. Ðối với ta quả vị Toàn Giác là yêu quý; vì thế ta sẽ gìn giữ giới hạnh.
Cullabodhicariyaṃ catutthaṃ.
Hạnh của (đức Bồ-tát) Cullabodhi là phần thứ tư.
--ooOoo--
5. Mahisarājacariyaṃ
5. Hạnh của Con Trâu Chúa: [33]
***
184. Punāparaṃ yadā homi mahiso pavanacāriko
pavaḍḍhakāyo balavā mahanto bhīmadassano.
184. Vào một thời điểm khác nữa, khi ta là con trâu lang thang ở trong khu rừng rậm, có thân thể phát triển, khỏe mạnh, to lớn, trông thấy phải sợ hãi.
185. Pabbhāre giridugge ca rukkhamūle dakāsaye
hotettha ṭhānaṃ mahisānaṃ koci koci tahiṃ tahiṃ.
185. Nơi ấy, trong hang động, ở sườn núi dốc, dưới cội cây, (gần) nơi hồ nước, có (các) khu vực rải rác đó đây dành cho loài trâu.
186. Vicaranto brahāraññe ṭhānaṃ addasa bhaddakaṃ
taṃ ṭhānaṃ upagantvāna tiṭṭhāmi ca sayāmi ca.
186. Trong khi đi lang thang ở khu rừng rậm, ta đã nhìn thấy một nơi thuận tiện. Ta đã đi đến nơi ấy, đứng lại, rồi nằm xuống.
187. Athettha kapimāgantvā pāpo anariyo lahu
khandhe nalāṭe bhamuke mutteti ohaṇeti maṃ.
187. Rồi có con khỉ đê tiện, thô lỗ, nhanh nhảu đã đi đến nơi ấy và tiểu tiện, đại tiện ở trên lưng, trên trán, và lông mày của ta.
188. Sakimpi divasaṃ dutiyaṃ tatiyaṃ catutthampi ca
dūseti maṃ sabbakālaṃ tena homi upadduto.
188. Một lần trong ngày, rồi lần thứ hai, lần thứ ba, và thậm chí đến lần thứ tư, nó làm ta bị nhơ bẩn vào mọi lúc; vì điều ấy, ta trở nên bực bội.
189. Mamaṃ upaddutaṃ disvā yakkho maṃ idamabravi
nāsehetaṃ chavaṃ pāpaṃ siṅgehi ca khurehi ca.
189. Nhìn thấy sự bực bội của ta, có con Dạ-xoa đã nói với ta điều này: “Ngươi hãy giết chết cái loài tồi tệ đê tiện ấy bằng các sừng và các móng chân.”
190. Evaṃ vutte tadā yakkhe ahaṃ taṃ idamabraviṃ
kiṃ tvaṃ makkhesi kuṇapena pāpena anariyena maṃ.
190. Được con Dạ-xoa nói như vậy, khi ấy ta đã nói với con Dạ-xoa ấy điều này: “Sao ngươi lại bôi nhọ ta với cái thây ma đê tiện và thô lỗ?
191. Yadihaṃ tassa kuppeyyaṃ tato hīnataro bhave
sīlañca me pabhijjeyya viññū ca garaheyyu maṃ.
191. Nếu ta nổi giận với nó, vì điều đó ta sẽ trở nên tồi tệ hơn, giới của ta có thể bị đứt, và người trí có thể khiển trách ta.
192. Hīḷitā jīvitā cāpi parisuddhena mataṃ varaṃ
kyāhaṃ jīvitahetupi kāhāmi paraheṭhanaṃ.
192. Vả lại, sống mà hổ thẹn thì chết với sự trong sạch là cao quý. Cho dù nguyên nhân là mạng sống, không thể nào ta lại gây ra sự tổn hại cho kẻ khác?
193. Mame vāyamaññamāno aññepevaṃ karissati
teva tattha vadhissanti sā me mutti bhavissati.
193. Trong khi suy nghĩ về những người khác là giống như ta, con khỉ này cũng sẽ hành động như thế. Chính họ sẽ giết chết nó tại nơi ấy, còn ta thì sẽ có được sự giải thoát này.[34]
194. Hīnamajjhimaukkaṭṭhe sahanto avamānitaṃ
evaṃ labhati sappañño manasā yathāpatthitanti.
194. Trong khi nhẫn nhịn sự khinh miệt ở những người kém cỏi, trung bình, hoặc cao quý, như thế bậc thiện trí đạt được theo như điều đã được mong mỏi bởi tâm ý.[35]
Mahisarājacariyaṃ pañcamaṃ.
Hạnh của Con Trâu Chúa là phần thứ năm.
--ooOoo--
6. Rurumigarājacariyaṃ
6. Hạnh của Con Nai Chúa Ruru: [36]
***
195. Punāparaṃ yadā homi sutattakanakasannibho
migarājā rurunāma paramasīlasamāhito.
195. Vào một thời điểm khác nữa, khi ta là vua của loài nai, có tên là Ruru, có màu lông tợ như vàng nung đỏ, đang chú tâm vào giới hạnh tối cao.
196. Ramme padese ramaṇīye vivitte amanussake
tattha vāsaṃ upagañchiṃ gaṅgākūle manorame.
196. Ta đã đi đến trú ngụ tại nơi ấy, ở một khu đất xinh xắn, đáng yêu, thanh vắng, không có loài người, bên bờ sông Gaṅgā [37] thích ý.
197. Atho uparigaṅgāya dhanikehi paripīḷito
puriso gaṅgāya papati jīvāmi vā marāmi vā.
197. Khi ấy, ở thượng nguồn sông Gaṅgā, có người đàn ông bị bức bách bởi những chủ nợ nên đã gieo mình xuống dòng sông Gaṅgā (nghĩ rằng): “Ta hoặc là sống hay là chết.”
198. Rattindivaṃ so gaṅgāya vuyhamāno mahodake
ravanto karuṇaṃ rāvaṃ majjhe gaṅgāya gacchati.
198. Trong khi bị cuốn trôi ở giòng nước lớn và kêu la thảm thiết ngày đêm, người ấy trôi ra giữa dòng sông Gaṅgā.
199. Tassāhaṃ saddaṃ sutvāna karuṇaṃ paridevato
gaṅgāya tīre ṭhatvāna apucchiṃ kosi tvaṃ naro.
199. Nghe được tiếng kêu la thảm thiết của người ấy đang than khóc, ta đã đứng ở bờ sông Gaṅgā hỏi rằng: “Ông là người nào?”
200. So me puṭṭho ca vyākāsi attano kāraṇaṃ tadā
dhanikehi bhīto tasito pakkhantohaṃ mahānadiṃ.
200. Và khi được ta hỏi, người ấy đã giải thích hành động của mình: “Sợ hãi những người chủ nợ, bị hoảng hốt, tôi đã lao mình xuống dòng sông lớn.”
201. Tassa katvāna kāruññaṃ cajitvā mama jīvitaṃ
pavisitvā nīhariṃ tassa andhakāramhi rattiyā.
201. Khởi tâm thương xót người ấy, ta đã buông bỏ mạng sống của mình, lao vào (dòng nước), và đã vớt người ấy lên trong bóng tối của ban đêm.
202. Assattha kālamaññāya tassāhaṃ idamabruviṃ
ekaṃ taṃ varaṃ yācāmi mā maṃ kassaci pāvada.
202. Nhận biết được thời điểm đã được hồi phục, ta đã nói với người ấy điều này: “Ta yêu cầu ngươi một ân huệ là ngươi chớ có nói về ta đối với bất cứ người nào.”
203. Nagaraṃ gantvāna ācikkhi pucchito dhanahetuko
rājānaṃ so gahetvāna upagañchi mamantikaṃ.
203. Sau khi đi đến thành phố, người ấy vì nguyên nhân của cải đã nói ra khi được hỏi, rồi đã đưa đức vua đi đến vùng phụ cận của ta.
204. Yāvatā kāraṇaṃ sabbaṃ rañño ārocitaṃ mayā
rājā sutvāna vacanaṃ usuṃ tassa pakappayī
idheva ghātayissāmi mittadubbhiṃ anāriyaṃ.
204. Toàn bộ sự việc đến đâu đã được ta tường thuật cho đức vua. Nghe được lời kể lại, đức vua đã hướng mũi tên vào người ấy (nói rằng): “Trẫm sẽ giết chết kẻ đê tiện phản bội bạn bè ngay tại chỗ này.”
205. Tamahaṃ anurakkhanto nimminiṃ mama attano
tiṭṭhateso mahārāja kāmaṅkāro bhavāmi te.
205. Trong khi bảo vệ cho người ấy, ta đã hoán đổi (người ấy) bằng bản thân của ta (nói rằng): “Tâu đại vương hãy để cho người ấy sống. Thần sẽ là người tạo ra lạc thú cho ngài.”
206. Anurakkhiṃ mama sīlaṃ nārakkhiṃ mama jīvitaṃ
sīlavā hi tadā āsiṃ bodhiyā eva kāraṇāti.
206. Ta đã bảo vệ giới của ta. Ta đã không bảo tồn mạng sống của mình. Bởi vì, vào lúc ấy ta đã là người có giới hạnh với lý do chỉ là vì quả vị giác ngộ.
Rururājacariyaṃ chaṭṭhamaṃ.
Hạnh của Con Nai Chúa Ruru là phần thứ sáu.
--ooOoo--
7. Mātaṅgacariyaṃ
7. Hạnh của (Đức Bồ-tát) Mātaṅga: [38]
***
207. Punāparaṃ yadā homi jaṭilo uggatāpano
mātaṅgo nāma nāmena sīlavā susamāhito.
207. Vào một thời điểm khác nữa, khi ta là đạo sĩ tóc bện nghiêm trì khổ hạnh, có giới đức, định tâm bền vững, tên là Mātaṅga.
208. Ahañca brāhmaṇo eko gaṅgākūle vasāmubho
ahaṃ vasāmi upari heṭṭhā vasati brāhmaṇo.
208. Ta và một vị Bà-la-môn, cả hai sống ở bên bờ sông Gaṅgā. Ta sống ở thượng nguồn, còn vị Bà-la-môn sống ở hạ nguồn.
209. Vicaranto anukūlamhi uddhaṃ me assamaddasa
tattha maṃ paribhāsetvā abhisapi muddhaphālanaṃ.
209. Trong khi đi lang thang dọc theo bờ sông, vị Bà-la-môn đã nhìn thấy khu ẩn cư của ta ở thượng nguồn. Tại nơi ấy, sau khi mắng nhiếc ta, vị ấy đã nguyền rủa về sự vỡ tan cái đầu (của ta).
210. Yadihaṃ tassa pakuppeyyaṃ yadi sīlaṃ na gopaye
oloketvāna’haṃ tassa kareyyaṃ chārikaṃ viya.
210. Nếu ta nổi cơn giận dữ đối với vị này, nếu ta không gìn giữ giới, thì sau khi nhìn vào vị ấy ta có thể làm cho trở thành như là tro bụi.
211. Yaṃ so tadā maṃ abhisapi kupito duṭṭhamānaso
tasseva matthake nipati yogena taṃ pamocayiṃ.
211. Lúc bấy giờ, điều mà vị ấy nguyền rủa ta trong lúc bị bực tức và có tâm ý xấu xa lại được áp dụng ở trên cái đầu của chính vị ấy. Ta đã giúp cho vị ấy được thoát khỏi (việc bị bể đầu thành bảy mảnh) bằng thủ thuật. [39]
212. Anurakkhiṃ mama sīlaṃ nārakkhiṃ mama jīvitaṃ
sīlavā hi tadā āsiṃ bodhiyā yeva kāraṇāti.
212. Ta đã bảo vệ giới của ta. Ta đã không bảo tồn mạng sống của mình. Bởi vì, vào lúc ấy ta đã là người có giới hạnh với lý do chỉ là vì quả vị giác ngộ.
Mātaṅgacariyaṃ sattamaṃ.
Hạnh của (đức Bồ-tát) Mātaṅga là phần thứ bảy.
--ooOoo--
8. Dhammadevaputtacariyaṃ
8. Hạnh của Thiên Tử Dhamma: [40]
***
213. Punāparaṃ yadā homi mahesakko mahiddhiko
dhammo nāma mahāyakkho sabbalokānukampako.
213. Vào một thời điểm khác nữa, khi ta là Đại Dạ-xoa tên là Dhamma, có tùy tùng đông đảo, có đại thần lực, có lòng bi mẫn đối với tất cả thế gian.
214. Dasa kusalakammapathe samādapento mahājanaṃ
carāmi gāmanigamaṃ samitto saparijjano.
214. Trong lúc khuyến khích dân chúng hành trì thập thiện nghiệp đạo, ta cùng với bạn bè và những người hầu cận đi đến các thôn làng phố chợ.
215. Pāpo kadariyo yakkho dīpento dasa pāpake
sopettha mahiyā carati samitto saparijjano.
215. Có con Dạ-xoa độc ác, bỏn xẻn, trong lúc giảng giải về thập ác, nó với bạn bè và những người hầu cận cũng đi khắp trái đất này.
216. Dhammavādī adhammo ca ubho paccanikā mayaṃ
dhūre dhūraṃ ghaṭṭayantā samimhā paṭipathe ubho.
216. Là những người nói về chánh pháp và tà pháp, cả hai chúng tôi là đối thủ. Trong khi va chạm càng xe với càng xe ở lối đi ngược chiều, cả hai đối mặt nhau.
217. Kalaho vattatī bhesmā kalyāṇapāpakassa ca
maggā okkamanatthāya mahāyuddho upaṭṭhito.
217. Cuộc xung đột giữa thiện và ác đã xảy ra một cách ghê rợn, và trận chiến đấu lớn lao vì việc rời khỏi đường lộ là sắp sửa xảy ra.
218. Yadihaṃ tassa pakuppeyyaṃ yadi bhinde tapoguṇaṃ
saha parijanaṃ tassa rajabhūtaṃ kareyyahaṃ.
218. Nếu như ta nổi cơn giận dữ đối với gã ấy, nếu như ta phá vỡ đức tính khổ hạnh, ta có thể làm cho gã ấy và đoàn tùy tùng trở thành tro bụi.
219. Api cāhaṃ sīlarakkhāya nibbāpetvāna mānasaṃ
saha janenokkamitvā pathaṃ pāpassa’dāsahaṃ.
219. Tuy nhiên, nhằm mục đích gìn giữ giới hạnh, ta đã làm nguội lạnh tâm ý. Sau khi cùng với đám người bước xuống, ta đã nhường đường cho kẻ ác.
220. Saha pathato okkante katvā cittassa nibbutiṃ
vivaraṃ adāsi paṭhavī pāpayakkhassa tāvadeti.
220. Cùng lúc ta đang rời khỏi đường lộ sau khi đã làm nguội lạnh tâm ý, trái đất ngay lập tức đã tạo ra khe nứt dành cho con Dạ-xoa ác xấu.
Dhammadevaputtacariyaṃ aṭṭhamaṃ.
Hạnh của thiên tử Dhamma là phần thứ tám.
--ooOoo--
9. Alīnasattacariyaṃ
9. Hạnh của (Đức Bồ-tát) Alīnasatta: [41]
***
221. Pañcālaraṭṭhe nagaravare kampillāyaṃ puruttame
rājā jayaddiso nāma sīlaguṇamupāgato.
221. Ở trong kinh thành Kampillā, thành phố tráng lệ thuộc vương quốc Pancāla, có đức vua tên Jayaddisa đã được thành tựu giới đức.
222. Tassa rañño ahaṃ putto sutadhammo susīlavā
alīnasatto guṇavā anurattaparijano sadā.
222. Là Alīnasatta, người con trai của đức vua ấy, ta được học tập, có giới hạnh tốt, có đức độ, luôn luôn quan tâm đến người hầu cận.
223. Pitā me migavaṃ gantvā porisādaṃ upāgami
so me pitumaggahesi bhakkhosi mama mā cali.
223. Cha ta đã đi săn thú rừng và đã đến gần bên Porisāda (kẻ ăn thịt người). Gã ấy đã bắt giữ cha ta (nói rằng): “Ngươi là thức ăn của ta, chớ có vùng vẫy.”
224. Tassa taṃ vacanaṃ sutvā bhīto tasitavedhito
ūrukkhambho ahū tassa disvāna porisādakaṃ.
224. Sau khi được nghe lời nói ấy của gã, đức vua đã trở nên hoảng hốt, run rẩy vì sợ hãi, cứng đờ chân cẳng khi trông thấy kẻ ăn thịt người.
225. Migavaṃ gahetvā muñcassu katvā āgamanaṃ puna
brāhmaṇassa dhanaṃ datvā pitā āmantayī mamaṃ.
225. (Đức vua đã nói rằng:) “Hãy giữ lấy con thú rừng, rồi trả tự do cho ta,” và đã hứa hẹn việc sẽ quay trở lại. Sau khi giao lại tài sản cho vị (quan đại thần) Bà-la-môn, cha (ta) đã nhắn nhủ ta rằng:
226. Rajjaṃ putta, paṭipajja mā pamajjī puraṃ idaṃ
kataṃ me porisādena mama āgamanaṃ puna.
226. “Này con, hãy cai quản vương quốc. Chớ bỏ bê thành phố này. Cha đã hứa với kẻ ăn thịt người về việc sẽ quay trở lại của cha.”
227. Mātu pitu ca vanditvā nissajitvāna attānaṃ
nikkhipitvā dhanuṃ khaggaṃ porisādamupāgamiṃ.
227. Sau khi cúi lạy mẹ cha và buông bỏ bản thân, ta đã đặt cung kiếm xuống rồi đã đi đến gặp kẻ ăn thịt người.
228. Sasatthahatthūpagataṃ kadāci so tasissatī
tena bhijjissati sīlaṃ parittāsaṃ kate mayi.
228. Có lẽ gã ấy sẽ sợ hãi người đi đến có vũ khí trong tay. Khi ta đã gây nên nỗi lo sợ, vì điều ấy giới sẽ bị hư hỏng.
229. Sīlakhaṇḍabhayā mayhaṃ tassa dessaṃ na byāhariṃ
mettacitto hitavādī idaṃ vacanamabruviṃ.
229. Vì ta có nỗi lo sợ về việc đứt giới, ta đã không nói điều gây khó chịu đối với gã ấy. Là người nói điều lợi ích, có tâm từ ái, ta đã nói điều này:
230. Ujjālehi mahā-aggiṃ papatissāmi rukkhato
sampakka kālamaññāya bhakkhaya tvaṃ pitāmaha.
230. “Hãy đốt lên ngọn lửa lớn, tôi sẽ lao từ trên cây xuống. Này ông chú, ông hãy biết lúc đã được chín tới, rồi ông hãy thọ thực.”
231. Iti sīlavataṃ hetu nārakkhiṃ mama jīvitaṃ
pabbājesiṃ cahaṃ tassa sadā pāṇātipātikanti.
231. Như thế với việc thực hành giới là nguyên nhân, ta đã không bảo tồn mạng sống của ta. Và ta đã khiến cho gã (ăn thịt người) ấy luôn luôn xa lánh việc giết hại sanh mạng.
Alīnasattacariyaṃ navamaṃ.
Hạnh của (đức Bồ-tát) Alīnasatta là phần thứ chín.
--ooOoo--
10. Saṅkhapālacariyaṃ
10. Hạnh của (Đức Bồ-tát) Saṅkhapāla: [42]
***
232. Punāparaṃ yadā homi saṅkhapālo mahiddhiko
dāṭhāvudho ghoraviso dvijivho uragādhibhū.
232. Vào một thời điểm khác nữa, khi ta là Saṅkhapāla, chúa tể của loài rồng, có đại thần lực, có răng nanh [43] là vũ khí, có nọc độc ghê gớm, và có hai lưỡi.
233. Catuppathe mahāmagge nānā janasamākule
caturo aṅge adhiṭṭhāya tattha vāsamakappayiṃ.
233. Ở tại ngã tư của con đường lớn có sự tụ hội của nhiều hạng người, sau khi quyết định về bốn chi phần (của cơ thể), ta đã thiết lập chỗ cư ngụ ở tại nơi ấy.
234. Chaviyā cammena maṃsena nahāru aṭṭhikehi vā
yassa etena karaṇīyaṃ dinnaṃ yeva harātu so.
234. Đối với người nào có việc cần dùng đến da ngoài, da trong, thịt, các sợi gân, hoặc các khúc xương (ở cơ thể ta), chính vì là vật đã được bố thí nên hãy để người ấy mang đi.
235. Addasaṃsu bhojaputtā kharā luddā akāruṇā
upagañchuṃ mamaṃ tattha daṇḍamuggarapāṇino.
235. Có những gã vô lại thô lỗ, hung dữ, bất nhân, đã nhìn thấy và đã tiến đến gần ta ở tại nơi ấy, các bàn tay có nắm gậy gộc.
236. Nāsāya vinivijjhitvā naṅguṭṭhe piṭṭhikaṇṭake
kāje āropayitvāna bhojaputtā hariṃsu maṃ.
236. Sau khi chọc thủng ở lỗ mũi, ở đuôi, và ở xương sống lưng, những gã vô lại đã đặt ta lên cáng rồi lôi đi.
237. Sasāgarantaṃ paṭhaviṃ sakānanaṃ sapabbataṃ
icchamāno cahaṃ tattha nāsāvātena jhāpaye.
237. Và ở nơi ấy, với luồng gió từ lỗ mũi ta, trong khi mong muốn ta có thể thiêu đốt trái đất có biển bao bọc, có rừng, có núi.
238. Sūlehi vijjhiyantepi koṭṭayantepi sattihi
bhojaputte na kuppāmi esā me sīlapāramīti.
238. Mặc dù đang bị đâm thọc bởi những cọc nhọn, mặc dầu đang bị chặt chém bởi những con dao, ta cũng không tức giận những gã vô lại; đây là sự toàn hảo về giới của ta.
Saṅkhapālacariyaṃ dasamaṃ.
Hạnh của (đức Bồ-tát) Saṅkhapāla là phần thứ mười.
--ooOoo--
239. Hatthināgo bhūridatto campeyyo bodhi māhiso
rurumātaṅgo dhammo ca atrajo ca jayaddiso.
239. Con long tượng, Bhūridatta, (con rồng) Campeyya, (Culla) bodhi, con trâu (chúa), (con nai chúa) Ruru, (đạo sĩ tóc bện) Mātaṅga, (thiên tử) Dhamma, (đức vua) Jayaddisa và người con trai.
240. Ete sabbe sīlabalā parikkhārā padesikā
jīvitaṃ parirakkhitvā sīlāni anurakkhissaṃ.
240. Tất cả (chín) hạnh này đều có năng lực của giới, là những phần thiết yếu, là những yếu tố góp phần (vào sự toàn hảo về giới); (tuy nhiên), ta còn bảo tồn mạng sống rồi mới gìn giữ các giới.
241. Saṅkhapālassa me sato sabbakālampi jīvitaṃ
yassa kassaci nīyantaṃ tasmā sā sīlapāramīti.
241. (Trái lại), mạng sống của ta khi là Saṅkhapāla luôn luôn được ban phát đến bất cứ người nào; do đó, điều ấy là sự toàn hảo về giới.
Sīlapāramīniddeso niṭṭhito.
Dứt phần giảng giải sự toàn hảo về giới.
--ooOoo--
[23] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 543.
[24] Cõi trời này là cõi trời Tāvatiṃsa (Đạo Lợi) và Virūpakkha là một vị thủ lãnh của loài rồng rắn (nāgādhipati), CpA. 117.
[25] Đi đến bằng phương thức tái sanh (uppattivasena), CpA. 117.
[26] Là thực hiện việc chăm sóc cơ thể như rửa mặt, v.v... CpA. 117.
[27] Bốn chi phần của cơ thể là da (ngoài và trong), thịt, gân, xương, CpA. 117, như sẽ được đề cập đến ở câu kế.
[28] Câu chuyện được ghi lại ở CpA. 118-122.
[29] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 506.
[30] dhammiko (người nghiêm túc) được giải thích là dhammacārī (người hành pháp) (CpA. 126). Kế đó, dhammacārī được giải thích là “người thực hành thập thiện nghiệp đạo như là bố thí, trì giới, v.v... và không thực hành điều sai trái dầu là nhỏ nhen” (CpA. 129-30).
[31] Người luyện rắn này hành hạ ta vô cùng tàn bạo và không biết ta thần lực của ta. Khi nỗi cơn giận dữ, ta đã nghĩ rằng: “Vậy thì ta sẽ phô bày thần lực của ta đối với gã này.” Cho dầu chỉ là một sự suy xét, nhưng nếu như ta thể hiện năng lực của tâm thì gã ấy đã bị phân tác tương tợ như một nắm bụi phấn (CpA. 130).
[32] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 443.
[33] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 278.
[34] Là sự giải thoát khỏi khổ đau và sự giết hại sanh mạng, CpA. 143.
[35] Là đạt được trí Toàn Giác theo như ước muốn.
[36] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 482.
[37] Tên con sông này được ghi lại theo âm là Hằng Hà.
[38] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 497.
[39] Đức Bồ-tát đã bảo dùng cục đất sét đặt ở trên đầu của vị Bà-la-môn rồi cho vị ấy lội xuống và đứng ở trong nước. Khi mặt trời mọc lên thì vị Bà-la-môn hụp xuống, đầu chìm ở trong nước. Còn cục đất sét (thay thế cái đầu) ở trên mặt nước đã bị mặt trời làm vỡ tan thành bảy mảnh (CpA. 159).
[40] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 457.
[41] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 513.
[42] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 524.
[43] Có bốn răng nanh, hai trên hai dưới, CpA. 175.
-ooOoo-