Bắt đầu học, tu tập và muốn đạt được một đời sống Giới Hành Niệm Hơi Thở Ra, Hơi Thở Vô nghiêm chỉnh thì phải thông hiểu: Giới Đức, Giới Hạnh và Giới Hành của nó.
Giới Đức Giới Hành niệm hơi thở ra, hơi thở vô là những lời dạy đạo đức về đời sống của con người tức là Chánh Nghiệp.
Giới Hạnh Giới Hành niệm hơi thở ra, hơi thở vô là những lời dạy về Phạm Hạnh tức là oai nghi tế hạnh thường thể hiện qua giới hành niệm hơi thở ra, hơi thở vô như: nói, nín, tiếp giao với mọi người, v.v... Những oai nghi tế hạnh như vậy được gọi là Chánh Nghiệp.
Trước khi muốn tu tập về giới hành niệm hơi thở ra, hơi thở vô thì ta hãy lắng nghe lời đức Phật dạy La Hầu La: “Này La Hầu La, hãy tu tập sự tu tập về niệm hơi thở vô, hơi thở ra, làm cho sung mãn, nên được quả lớn, được lợi ích lớn.
Và này La Hầu La, thế nào là tu tập niệm hơi thở ra, hơi thở vô làm cho sung mãn nên được quả lớn, được lợi ích?”.
Vậy làm cho sung mãn như thế nào? Được quả lớn, được lợi ích lớn như thế nào?
Chữ sung mãn có nghĩa là đầy đủ, sung túc, tràn đầy, dư thừa không thiếu hụt. Trước khi thực hiện nghĩa này thì phải tập an trú tâm trọn vẹn trong hơi thở tức là biết hơi thở vô, hơi thở ra một cách nhẹ nhàng, tự nhiên, thoải mái, an lạc. Đó là làm cho tràn đầy sung túc, dư thừa, không thiếu về niệm hơi thở.
Quả lớn có nghĩa là kết quả to lớn của sự tu tập về hơi thở vô, hơi thở ra. Quả lớn còn có nghĩa là kết quả của sự tu tập đạt được sự giải thoát một cách cụ thể rõ ràng, hay nói cách khác là làm chủ được sanh, già, bệnh, chết tức là tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ.
Được lợi ích lớn là gì?
Lợi ích lớn có năm nghĩa là:
1: Đời sống được an vui, hạnh phúc không có ác pháp nào làm giao động được tâm, tâm luôn luôn thanh thản, an lạc và vô sự, thường thản nhiên trước mọi dục lạc thế gian, mọi sự cám dỗ vật chất, mọi ác pháp, v.v...
2- Làm chủ được tuổi già có nghĩa là khỏe mạnh quắc thước như một thanh niên cường tráng.
3- Làm chủ được mọi bệnh tật không sợ ốm đau như người thường tục.
4- Làm chủ được sự sống chết, muốn sống thì sống, muốn chết thì chết.
5- Chấm dứt tái sanh luân hồi.
Đây là năm điều lợi ích lớn của kiếp sống làm người do tu tập hơi thở vô, hơi thở ra mang lại.
Vậy trước khi muốn tu tập giới hành hơi thở vô, hơi thở ra thì chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy La Hầu La: “Ở đây này La Hầu La, vị Tỳ khưu đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống và ngồi kiết già, lưng thẳng và an trú chánh niệm trước mặt. Tỉnh giác, vị ấy thở vô, tĩnh giác vị ấy thở ra”.
Khu rừng, gốc cây, ngôi nhà trống là địa điểm để tu tập, có nghĩa là tìm nơi chốn yên tịnh, vắng vẻ để tu tập hơi thở vô, hơi thở ra. Nếu địa điểm không tìm được như đức Phật đã dạy, thì sự tu tập về hơi thở vô hơi thở ra rất khó khăn. Quý vị lưu ý và xin nhớ kĩ những lời dạy này, vì rất cần thiết cho sự tu tập. Quý vị đừng cho rằng bất cứ nơi đâu tu cũng được. Nếu vậy thì đức Phật dạy điều này để làm gì? Có quan trọng đức Phật mới dạy như vậy. Đừng nghe theo những lời nói: “Bất cư chỗ nào tu cũng được, tu trong bốn oai nghi, tu trong công việc làm”. Lời nói này đi ngược lại lời dạy của đức Phật, và chỉ nói suông, không tu tập được.
Ngồi kiết già là tư thế ngồi xếp bằng tréo hai chân đan vào nhau. Đó là tư thế ngồi của người tu thiền định. Tư thế ngồi này rất vững chắc để thân tâm dễ gom vào một đối tượng thân hành nội (hơi thở).
Đi, đứng, nằm, ngồi, co tay, duỗi chân, ngước nhìn, nói, nín, ăn, nhai, nuốt, hơi thở vô, hơi thở ra, v.v... đều là thân hành, nhưng phải biết rõ tất cả thân hành của thân là thân hành ngoại chỉ trừ có hơi thở là thân hành nội. Phải hiểu rõ mới có thể tu tập được.
An trú chánh niệm là ở yên ổn trong niệm chân chánh. Niệm chân chánh là gì?
Trong đạo Phật có bốn chỗ niệm chân chánh:
1/ Niệm thân.
2/ Niệm thọ.
3/ Niệm tâm.
4/ Niệm Pháp.
Chữ chánh niệm ở đây gồm chung 4 niệm, như vậy an trú chánh niệm tức là an trú trong bốn niệm. Vậy an trú trong cả bốn niệm một lần có được không? An trú bốn niệm một lần là tu tập 4 Niệm Xứ. Cho nên 4 Niệm Xứ còn gọi là 4 Chánh Niệm.
Ngoài bốn niệm thân, thọ, tâm, pháp còn có niệm nào khác nữa không?
Trên thân gồm có hai niệm:
1/ Thân hành niệm nội.
2/ Thân hành niệm ngoại.
Trên thọ gồm có ba niệm:
1/ Niệm thọ lạc.
2/ Niệm thọ khổ.
3/ Niệm thọ bất lạc bất khổ.
Trên tâm gồm có hai niệm:
1/ Niệm tịnh.
2/ Niệm động.
Trên pháp gồm có hai niệm:
1/ Niệm thiện.
2/ Niệm ác.
Bài kinh này đức Phật đang dạy La Hầu La về hơi thở vô, hơi thở ra, vì thế chánh niệm ở đây phải hiểu là thân hành niệm nội, tức là hơi thở vô hơi thở ra. Vậy an trú chánh niệm trước mặt tức là an trú hơi thở vô, hơi thở ra ở trước mặt.
Tĩnh giác nghĩa là gì? Tĩnh giác nghĩa là biết rất rõ ràng từng chi tiết nhỏ, biết rất kĩ lưỡng, biết không có mờ mịt một chút xíu nào cả. Ở đây chúng ta nên hiểu đức Phật dạy La Hầu La phải biết rất kĩ từng hơi thở vô, từng hơi thở ra.
Người giữ gìn giới hành hơi thở vô hơi thở ra có nghĩa là tu tập an trú trong hơi thở vô hơi thở ra, phải biết rất rõ ràng, không được để quên, để mất, để mờ mịt hơi thở vô ra.
Vì tâm chúng ta hay quên (vô ký) nên phải dùng pháp tác ý dẫn tâm tĩnh giác mãi mãi, làm cho tâm sáng suốt thấy biết rất rõ ràng từng hơi thở vô, ra: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”. An trú được trong hơi thở là đạt được căn bản về phương pháp tu Định Niệm Hơi Thở.
Để thực hiện giới hành này chúng ta nên theo lời đức Phật dạy Tôn Giả La Hầu La mà tu tập như sau: Trước tiên chúng ta tìm nơi vắng vẻ, yên tịnh, rồi tập ngồi kiết già lưng thẳng. Sau khi tập ngồi kiết già lưng thẳng được có nghĩa là ngồi tréo chân mà không thấy khó chịu, hoặc đau hoặc tê chân chừng nửa tiếng đồng hồ thì mới đặt niệm hơi thở vô, hơi thở ra trước mặt và tác ý như sau: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”. Khi tác ý xong câu này ta truyền lệnh: “Hít”, truyền lệnh xong mới hít vô, tĩnh giác theo dõi rất kĩ hơi thở vô. Sau khi hơi thở vô hết ta truyền lệnh “Thở”, khi truyền lệnh xong mới thở ra và phải sáng suốt tĩnh giác theo hơi thở ra. Cứ như vậy mà tu tập 1 phút.
Nếu tu tập 1 phút mà sức tĩnh giác rất tốt, có nghĩa là trong một phút không bao giờ quên hơi thở, cũng không có một niệm vọng tưởng nào xen vào. Phải thật thuần thục ở mức một phút rồi tăng dần lên từng phút một cho đến khi đạt được 10 phút. Trong thời gian tăng dần này phải rà soát xét xem toàn bộ cơ thể có xảy ra trạng thái gì không. Ví dụ: nặng đầu, nặng mặt, choáng váng chóng mặt, v.v... Nếu có bất kỳ trạng thái nào xảy ra thì đó là đã bị ức chế tâm, khiến thân cơ bắp và thần kinh rối loạn, v.v.... Hãy nên báo cho Thầy biết để kịp thời sửa lại cho đúng cách tu tập.
Trong giới hành về hơi thở vô, hơi thở ra có 19 đề mục tu tập:
Đề Mục Thứ Nhất : “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”.
Đó là đề mục để tu tập nhiếp tâm trong hơi thở. Đề mục này tập trung tâm tại nhân trung giữa hai lỗ mũi, biết hơi thở ra vô tại chỗ đó, chứ không được theo hơi thở vô lồng ngực và ngược lại, hơi thở từ lồng ngực chạy ra. Hay đưa hơi thở chạy xuống bụng hay bất kỳ chỗ nào khác trong cơ thể. Nếu nhiếp tâm được 30 phút mà không quên hơi thở tức là không có tạp niệm xen vào thì đã tu tập viên mãn đề mục thứ nhất. Khi tu tập viên mãn đề mục thứ nhất thì nên xin Thầy kiểm tra hơi thở để biết đúng thời tu tập đề mục thứ hai.
Đề Mục Thứ 2: “Hít vô dài tôi biết tôi hít vô dài; thở ra dài tối biết tôi thở ra dài”.
Đề mục này có mục đích làm giảm nhẹ nơi tập trung tâm. Theo Phật giáo không được tập trung tâm một chỗ, vì rất có thể làm rối loạn các cơ và thần kinh, gây ra bệnh tưởng.
Khi tu tập đề mục này thì chú ý vào hơi thở chậm và nhẹ, vì khi tác ý như vậy thì hơi thở bắt đầu thở chậm và nhẹ một cách tự nhiên, không dùng các cơ vận dụng để thở chậm và nhẹ. Dùng là sai. Chỉ cần tác ý thì tự động hơi thở sẽ thở chậm nhẹ.
Đề Mục Thứ 3 : “Hít vô ngắn tôi biết tôi hít vô ngắn; thở ra ngắn tôi biết tôi thở ra ngắn”.
Đây là cách điều khiển hơi thở ngắn bằng pháp như lý tác ý.
Xin các bạn lưu ý: Tu tập về hơi thở thì phải làm chủ được hơi thở. Muốn thở dài thì hơi thở phải dài, muốn thở ngắn thì hơi thở phải ngắn.
Xin nhớ kĩ: Khi nào chúng ta thở dài, thở ngắn mà không thấy có sự rối lọan hô hấp thì điều đó cho biết chúng ta đã làm chủ hơi thở. Đề mục thứ hai và ba chỉ tu tập khi đã hoàn toàn làm chủ được hơi thở.
Khi tu tập để nhiếp tâm và an trú tâm vào hơi thở (đề mục thứ nhất) thì chỉ nên tu tập hơi thở bình thường, không nên dùng cơ vận dụng hơi thở dài hoặc hơi thở ngắn.
Đề Mục Thứ 4: “Cảm giác toàn thân tôi biết tôi hít vô; cảm giác toàn thân tôi biết tôi thở ra”.
Đây là đề mục dời tụ điểm không còn thấy hơi thở ra vô tại nhân trung nữa. Mỗi lần hít thở cảm nhận sự rung động toàn thân. Trong pháp Thân Hành Niệm dạy: “Cảm giác thân hành tôi biết tôi hít vô; cảm giác thân hành tôi biết tôi thở ra”.
Khi nào từng hơi thở đều cảm nhận được sự rung động của toàn thân thì đo là kết quả của đề mục này.
Đề Mục Thứ 5 : “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra”.
Đây là đề mục rất quan trọng trong sự tu tập mà đức Phật thường nhắc nhở: “Nhiếp tâm và an trú tâm”. Từ đề mục thứ nhất đến đề mục thứ tư là những đề mục nhiếp tâm, còn đề mục thứ năm này là đề mục an trú tâm. Đề mục này rất quan trọng và lợi ích to lớn trong việc đẩy lui các chướng ngại pháp trên thân, thọ, tâm và pháp. Đề mục này tu xong thì tất cả cảm thọ không thể tấn công được. Đây là phương pháp làm chủ bệnh mà 4 Niệm Xứ thường dạy: “Trên thân quán thân để khắc phục tham ưu”, “Trên tâm quán tâm để khắc phục tham ưu”, “Trên thọ quán thọ để khắc phục tham ưu”, “Trên pháp quán pháp để khắc phục tham ưu”.
Quý vị nên lưu ý đề mục này rất quan trọng trong sự tu tập làm chủ sanh, già, bệnh, chết.
Đề Mục Thứ 6 : “Cảm giác tâm hành tôi biết tôi hít vô; cảm giác tâm hành tôi biết tôi thở ra”.
Đề mục này là để hướng dẫn chúng ta ý thức nhận xét sự hoạt động của tâm theo từng hơi thở ra vô chứ không phải biết hơi thở ra vô bình thường. Do đó mỗi lần hít vô hay thở ra đều lắng nghe tâm đang có niệm hay không niệm. Khi tu tập lắng nghe tâm từng hơi thở mà thấy tâm lặng lẽ bất động không một niệm xen vào trong suốt 30 phút hay 1 giờ là đã đạt được kết quả tu tập về đề mục này.
Đề Mục Thứ 7: “An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh tâm hành tôi biết tôi thở ra”.
Khi tâm chúng ta đang bị động mà không có cách nào làm cho nó an được, thì hãy sử dụng ngay đề mục này bằng phương pháp như lý tác ý. Cứ mỗi lần tác ý, chúng ta cảm nhận như tâm có một sự an ổn trong im lặng và mỗi lần hơi thở ra vô là tràn ngập sự an ổn của thân và tâm. Nếu kết quả này kéo dài từ một giờ đến hai giờ là chúng ta đã hoàn thành đề mục này.
Đề Mục Thứ 8: “Quán thân vô thường tôi biết tôi hít vô; quán thân vô thường tôi biết tôi thở ra”.
Khi thân tâm được an trú trong hơi thở vô, hơi thở ra thì suốt trong thời gian tu tập hơi thở các bạn thỉnh thoảng tác ý câu “Quán thân vô thường tôi biết tôi hít vô; quán thân vô thường tôi biết tôi thở ra”. Nương vào hơi thở vô ra và tác ý như vậy thì giúp cho các bạn có một nội lực mạnh mẽ thấy thân vô thường thật sự. Từ đó thân kiến kiết sử bị đoạn dứt. Đây là tu tập Định Niệm Hơi Thở kết hợp với 4 Niệm Xứ.
Đề Mục Thứ 9: “Quán thọ vô thường tôi biết tôi hít vô; quán thọ vô thường tôi biết tôi thở ra”.
Đề mục này tu tập như đề mục thứ tám quán thân vô thường để thấm nhuần thọ vô thường thật sự khiến khi thân có bệnh tật khổ đau tâm không giao động sợ hãi. Đó là mục đích của đề mục này. Vậy muốn tâm bất động trước các cảm thọ thì đề mục này phải cần siêng năng tu tập không được biếng trể. Đây là tu tập Định Niệm Hơi Thở câu hữu với 4 Niệm Xứ.
Đề Mục Thứ 10 : “Quán tâm vô thường tôi biết tôi hít vô; quán tâm vô thường tôi biết tôi thở ra”.
Người ở ngoài đời cũng như các tôn giáo khác đều cho tâm này là linh hồn, là Phật tánh, là Tánh Không, là Chơn như, là trí tuệ Bát Nhã, là bản thể của vạn hữu v.v... Đó là sự hiểu biết lầm lạc bằng ảo tưởng.
Tâm là một xứ trong 4 Niệm Xứ: Thân, Thọ, Tâm, Pháp. Cho nên quán tâm vô thường cũng như quán thọ hay quán thân vô thường vậy.
Hằng ngày quán tâm vô thường để chúng ta không bị kiến chấp Linh hồn, Phật tánh thường hằng của tà giáo ngoại đạo. Và luôn nhờ có quán tâm vô thường nên từng tâm niệm sanh khởi chúng ta không bị dính mắc và chấp đắm. Đây là tu tập Định Niệm Hơi Thở kết hợp với 4 Niệm Xứ.
Đề Mục Thứ 11 : “Quán các pháp vô thường tôi biết tôi hít vô; quán các pháp vô thường tôi biết tôi thở ra”.
Đây là một đề mục tu tập hơi thở trong pháp môn 4 Niệm Xứ để thấm nhuần các pháp đều vô thường, nhờ thế các pháp đến đều buông xả sạch, Đề mục này siêng năng tu tập thấm nhuần thì có ích lợi rất lớn, đó là nhìn các pháp mà không dính mắc, không chấp trước. Đây là tu tập Định Niệm Hơi Thở kết hợp với 4 Niệm Xứ.
Đề Mục Thứ 12: “Quán ly tham tôi biết tôi hít vô; quán ly tham tôi biết tôi thở ra”.
Theo lời đức Phật dạy chỉ cần từ bỏ được tâm tham là nhập vào Niết Bàn, chấm dứt tái sanh luân hồi. Như vậy hằng ngày thường tác ý câu: “Quán ly tham tôi biết tôi hít vô; quán ly tham tôi biết tôi thở ra”. Khi tâm tham đã được ly ra thì tâm luôn luôn thanh thản, an lạc và vô sự. Tâm thanh thản, an lạc và vô sự là tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ.
Đề Mục Thứ 13: “Quán ly sân tôi biết tôi hít vô; quán ly sân tôi biết tôi thở ra”.
Nếu một khi tâm sân đã được từ bỏ sạch thì Niết Bàn ở tại đó. Chỉ cần chuyên tu tập một đề mục này từ bỏ được tâm sân thì con đường tu của Phật giáo đâu mấy khó khăn. Đức Phật đã đem lời dạy này ra bảo đảm: “Điều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A La Hán nói đến. Và tôi đã được nghe. Này các Tỳ khưu hãy từ bỏ một pháp, Ta bảo đảm cho các Ngươi không đi đến lại (tái sanh). Thế nào là một pháp? Sân, này các Tỳ khưu là một pháp các Ngươi hãy từ bỏ. Ta bảo đảm cho các Ngươi không đi tái sanh. Thế Tôn nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này được nói đến”. Theo lời dạy trên đây chúng ta chỉ cần tu tập một đề mục này cũng đủ chứng đạo quả giải thoát, chấm dứt tái sanh luân hồi chỉ trong một đời này mà thôi.
Đề Mục Thứ 14 : “Quán từ bỏ tâm tham tôi biết tôi hít vô; quán từ bỏ tâm tham tôi biết tôi thở ra”.
Đề mục này tu tập cũng giống như đề mục “Quán ly tham...”, nhưng ở đây “Từ bỏ” mạnh hơn. Vậy khi tu tập ly được tâm tham thì chúng ta kế tiếp tu tập từ bỏ tâm tham thì lại thấm nhuần nhiều hơn và tâm tham sẽ bị diệt trừ.
Đề Mục Thứ 15 : “Quán từ bỏ tâm sân tôi biết tôi hít vô; quán từ bỏ tâm sân tôi biết tôi thở ra”.
Đề mục này tu tập cũng giống như đề mục “Quán ly sân” nhưng ở đây nó mạnh hơn là do “Quán từ bỏ tâm sân”. Nếu người nào bền chí tu tập, chỉ một đề mục này cũng đủ làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi.
Đề Mục Thứ 16 : “Quán đoạn diệt tâm tham tôi biết tôi biết tôi hít vô; quán đoạn diệt tâm tham tôi biết tôi thở ra”.
Đề mục tu tập này có một sự quyết liệt mạnh mẽ hơn những đề mục trên vì “đoạn diệt tâm tham”. Ở trên chỉ có “ly” và “từ bỏ” mà thôi. Tại sao chỉ có tâm tham mà phải ba đề mục tu tập cẩn thận như vậy?
Tâm tham dục là một nguyên nhân sinh ra muôn thứ khổ đau của loài người. Vì thế nó quan trọng đệ nhất trong các pháp ác. Cho nên tu tập tới đề mục này các bạn phải có sự quyết định mạnh mẽ không thể dễ dãi với tâm tham dục được.
Đề Mục Thứ 17 : “Quán đoạn diệt tâm sân tôi biết tôi hít vô; quán đoạn diệt tâm sân tôi biết tôi thở ra”.
Đề mục này cũng có sự quyết định cuộc đời tu hành của mình được hay không được. Nếu một người tu hành mà tâm sân còn thì có nghĩa lý gì là một tu sĩ. Sân là một tính rất xấu và cực ác. Lúc sân, người đó có thể giết người hay làm bất cứ việc gì; lúc sân cũng không sợ bất cứ một thứ gì. Biết sự nguy hiểm của tâm sân như vậy, nên chúng ta quyết liệt đoạn diệt tâm sân tận gốc không còn để một chút xíu trong tâm. Phải chấm dứt ngay liền. Chính dứt được tâm sân là Niết bàn ngay liền tại đây, đâu có xa gì?
Đề Mục Thứ 18 : “Quán tâm định tỉnh tôi biết tôi hít vô; quán tâm định tỉnh tôi biết tôi thở ra”.
Đây là đề mục phá tâm si. Phải cố gắng tu tập với đề mục tu tập này cho nhuần nhuyễn. Khi tu tập đã nhuần nhuyễn thì không bao giờ có buồn ngủ, ngủ gật, ngủ mê và mất ý thức. Nếu tu tập đề mục này chưa nhuần nhuyễn thì sẽ bị buồn ngủ, ngủ gật, ngủ mê và mất ý thức đánh gục. Buồn ngủ, ngủ gật, ngủ mê và mất y thức là một pháp cực ác đối với những người thực hành theo Phật giáo.
Đề Mục Thứ 19 : “Với tâm giải thoát tôi biết tôi hít vô; với tâm giải thoát tôi biết tôi thở ra”.
Đây là đề mục cuối cùng của Định Niệm Hơi Thở, khi tất cả các đề mục trên đều đã hoàn tất viên mãn thì đến đề mục này là tâm bất động hoàn toàn, có nghĩa là tâm lúc nào cũng thanh thản, an lạc và vô sự tức là tâm ở trạng thái không phóng dật. Đức Phật đã xác định cho chúng ta biết trạng thái này là cứu cánh Niết Bàn: “Ta thành Chánh Giác là nhờ tâm không phóng dật, muôn pháp lành cũng đều nơi đó sinh ra.”