1.- Điều Kiện Nhiếp Tâm – An Trú Tâm
Giai đoạn này tập luyện để đạt cho được sự tĩnh giác trong chánh niệm, nghĩa là nhiếp tâm trong hơi thở, trên bước đi kinh hành và trong Thân Hành Niệm. Nhiếp cho được, đừng để bị thất niệm, tức là đừng quên. Quên không theo dõi hơi thở hay bước đi hay thân hành một tí xíu thôi thì cũng là bị thất niệm rồi. Dù niệm đó là thân hành, hơi thở hay bước đi đều là niệm của thân là Thân Hành Niệm. Vì vậy Thầy nói tập luyện từng hơi thở, từng hành động của niệm thân hành.
Nhưng đây chỉ là giai đoạn đầu thôi, đừng nghĩ xa hơn là nhiếp tâm vào trong hơi thở để đi vào định. Chưa tới giai đoạn định đâu. Đây chỉ là giai đoạn tập luyện để được tĩnh giác và nhiếp được tâm vào trong niệm của thân hành để có được niệm thôi.
Khi nhiếp được tâm trong niệm của thân hành, rồi sau đó mới tập làm sao để an trú tâm trong niệm thân hành. Nghĩa là tập để tâm nhiếp được vào trong hơi thở, rồi làm sao cho tâm được an trú trong hơi thở. Tức làm cho cả thân và tâm được an trú. Để đạt được điều này thì phải tập luyện trải qua hai giai đoạn : một là nhiếp phục tâm, hai là an trú tâm. An trú không có nghĩa là giữ đừng cho có niệm kéo dài trong thời gian thật dài. Không phải vậy. Khi biết hơi thở hít vô thở ra mà cảm thấy toàn thân an ổn vô cùng thì lúc đó là đã an trú trong hơi thở.
Nhưng muốn an trú tâm kéo dài ổn định thì điều kiện là đời sống phải sống cho đúng giới luật. Sống không đúng cách, sống không đúng giới luật thì nó không chịu kéo dài an trú đâu. Tại sao vậy? –Tại vì tâm không thanh tịnh. Khi tiếp duyên, nói chuyện, làm động tâm, phá hạnh độc cư, thì không an trú được. Nếu có cảm giác an là tại vì tập luyện có tưởng, chỉ an trú tưởng. Khi không ức chế, tức khi trở về 4 Niệm Xứ mà có an trú thì đó mới thật được an trú.
Nhiều người mới tập luyện mà có trạng thái hỉ lạc an trú thì các trạng thái đó đều là tưởng hết. Trong tập 5 Giáo Án Tu Tập của Người Cư Sĩ, những người trình kết quả tập luyện của họ, đó là những sự an trú tưởng, không phải an trú thật.
An trú thật là dẫn nó vào. Còn đây họ nhiếp tâm ức chế nên nó hiện tướng đó ra. Đó là họ an trú theo kiểu ức chế tâm. Họ nói họ dẫn nhưng thật sự không phải.
Bây giờ cần nhớ kĩ việc tập luyện chính của con là nhiếp phục tâm trong hơi thở hay trong bước đi kinh hành và an trú cho được thân và tâm vào trong hơi thở và trong bước đi, chỉ cần 5 phút. Chỉ bấy nhiêu thôi. Nhiếp phục được tâm trong 5 phút hay 3 phút tức là chế ngự được tâm trong thời gian chỉ 5 hay 3 phút để được an trú mới hội đủ điều kiện tập luyện cái khác. Không phải nhiếp phục được tâm kéo dài trong 1 giờ, hay 2, 3 giờ là để cho hết vọng tưởng. Không phải vậy. Chỉ vào tới Lậu Tận Minh mới hết vọng tưởng.
Tập luyện nhiếp phục và an trú tâm là mục đích phải đạt trong thời gian này. Nếu chưa nhiếp phục tâm và chưa an trú tâm là còn lấy sức của mình để tập luyện tức còn bị hao năng lượng. Khi nhiếp phục và an trú tâm được rồi thì bắt đầu từ đó sự tập luyện sẽ phát sinh ra năng lượng, không còn bị hao hụt năng lượng nữa. Lúc đó nó sẽ tự động làm cho con giảm giờ ngủ lại, tăng giờ tập luyện lên. Con sẽ đạt được kết quả vững vàng, sung mãn và thâm sâu trong các pháp và sức tĩnh giác tăng cao.
Để nhiếp phục tâm mà phải trải qua thời gian dài tập luyện thì bị hao năng lượng. Và cố gắng tập nhiều giờ thì năng lượng tiêu hao nhiều hơn. Hậu quả là buồn ngủ, ngủ gật, ngủ mê, sức khoẻ suy kém, lần lần sự tập luyện bị thối chuyển, hoặc là cảm thấy yếu đuối, mất sức nhiều vì phải vận dụng tập luyện nhiều giờ. Phải tránh không để xẩy ra tình trạng này.
Cho nên cần tập luyện từng hơi thở cho có chất lượng. Làm sao trong 5 phút phải nhiếp phục và an trú tâm cho được. Nếu sau 5 phút mà chưa nhiếp phục và chưa an trú tâm được thì cũng tạm ngưng vài phút, rồi lập lại tập 5 phút khác. Đừng tập luyện liên tục một lèo 30 phút. Có hại, không có lợi. Khi đã nhiếp phục và an trú tâm được trong từng hơi thở thì nối kết dần từ hơi thở này đến hơi thở tiếp sau liên tục từ một phút tới lâu nhất là 30 phút thôi, không vượt qua thời gian này. Thật ra nếu tâm an trú được trong suốt khoảng thời gian 5 phút không gián đoạn là đủ dài lâu, chứ không cần gì kéo dài an trú đến 30 phút đâu.
Cũng không phải bó buộc tập luyện cho đủ 30 phút theo ấn định của mỗi pháp môn, mà tùy theo sức khoẻ của con. Thí dụ trọn thời tập luyện là 30 phút, con chia ra làm 4 lần tập luyện 5 phút và 4 lần nghỉ xả. Như vậy, trong một thời tập luyện 30 phút chia ra nhiều đoạn 5 phút, cách khoản nhau bằng vài ba phút nghỉ xả. Nhưng khi tập được 2 lần hay 3 lần 5 phút mà thấy mệt thì nên nghỉ xả, không bắt buộc tập đủ 4 lần 5 phút. Cho dù tập chỉ 5 phút thứ nhất của 4 lần 5 phút mà đạt được chất lượng nhiếp phục và an trú tâm hoàn toàn thì đủ rồi; dù thời gian còn lại của pháp môn là 25 phút nữa cũng nghỉ xả; không buộc, không cần thiết tập luyện thêm nhiều hơn, nếu cảm thấy mệt.
Khi đã nhiếp phục được tâm thì cũng có thể an trú được tâm. Nếu thời tu nào tập cũng nhiếp tâm được như vậy thì Thầy sẽ dạy thêm để an trú trong hơi thở hay trên bước đi cũng trong 5 phút đó. Còn tập luyện nhiều mà chưa an trú thì năng lượng bị hao nhiều. Đó là cái sai, con cần tránh.
Bây giờ con chỉ cần tập luyện cho đạt được sự an trú đó, còn nhiếp tâm thì đã nhiếp được rồi vì theo sự trình bày cách tập luyện hơi thở thì con đã nhiếp tâm được. Dù tập luyện ít mà nhiếp được tâm trong hơi thở, như đức Phật nói đừng để thất niệm, là đã nhiếp tâm được rồi. Thầy nghĩ chỉ nên tập làm sao trong thời gian 5 phút phải đạt được sự an trú tâm. Khi hết 5 phút thì phải nghỉ một vài phút rồi tiếp tục tập 5 phút khác. Nếu kéo dài lâu hơn 5 phút thì hao năng lượng nhiều quá. Cố gắng nhiếp phục và an trú tâm lâu như thế sẽ trở thành ức chế chứ không phải chế ngự tâm. Tập luyện 5 phút là chế ngự, nhiều hơn 5 phút là ức chế.
2.- Mục Đích Nhiếp Tâm và An Trú Tâm
Mục đích nhiếp tâm và an trú tâm để làm gì? – Đó là khi nhiếp tâm và an trú tâm được thì mới đẩy lui được chướng ngại pháp trên 4 chỗ thân, thọ, tâm, pháp, tức là đủ năng lực để chuyển qua tập luyện 4 Niệm Xứ.
Đức Phật nói “Trên thân quán thân để khắc phục tham ưu; trên thọ quán thọ để khắc phục tham ưu; trên tâm quán tâm để khắc phục tham ưu; trên pháp quán pháp để khắc phục tham ưu”. Tham ưu là các chướng ngại pháp, tức là những gì xẩy tới trên bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp làm cho con khó chịu, phiền não, đau khổ, nhức nhối gì đó thì làm sao đẩy lui cho được bằng pháp 4 Niệm Xứ. Đẩy lui được mới gọi là khắc phục tham ưu. Nếu chưa có khả năng an trú tâm này thì hãy khoan, đừng tập luyện 4 Niệm Xứ.
Điều này không mấy ai biết, cho nên ở nơi khác dạy 4 Niệm Xứ mà các con không được dạy để có khả năng khắc phục tham ưu. Người ta cứ nghĩ khắc phục tham ưu là cứ ở trên đó mà quán. Thí dụ quán bất tịnh, quán từ bi hoặc là hít thở này kia. Thật sự không phải vậy. Hoàn toàn không phải vậy.
Khi bắt đầu tập luyện thì trên thân tâm thoải mái không có gì. Nhưng đến khi ngồi bị muỗi đốt, hay tê chân, hay đau tay thì đó là bị ác pháp rồi. Khi đó phải khắc phục đẩy nó ra, không được để trên thân, thọ, tâm, pháp của con. Nhưng nếu không có năng lực do nhờ luyện Định Niệm Hơi Thở thì không đẩy lui được. Buộc lòng phải tập luyện Định Niệm Hơi Thở cho đạt kết quả trước. Muốn tập luyện Định Niệm Hơi Thở thì phải luyện Chánh Niệm Tĩnh Giác. Muốn tập pháp tĩnh giác đó thì cần phải đi kinh hành.
Khi ngồi mà ngủ gục tới gục lui thì đó là mất tĩnh giác, không còn được tĩnh giác. Quên tập trung vào đối tượng, mới ngủ gục. Nếu không đẩy lui được chướng ngại quên tập trung này, không có cách thức nào để đẩy nó lui thì chỉ ngồi đó mà gục tới gục lui rồi ngủ thôi. Khi còn ngủ gục thì không phải là lúc tập luyện 4 Niệm Xứ. Không thể tập luyện trong tình trạng như vậy được. Cho nên buộc lòng phải tập nhiếp tâm và an trú tâm cho đến khi được rồi thì mới tập luyện 4 Niệm Xứ.
Đó chính là hướng buộc lòng phải đi để có khả năng đẩy lui cho được các chướng ngại pháp. Chừng đó mới đủ năng lực để tập luyện 4 Niệm Xứ trong thời gian 7 ngày, 7 tháng, 7 năm giúp đạt được chứng quả. Chỉ có pháp 4 Niệm Xứ mới chứng quả được thôi, không có pháp nào khác. Trong bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp mà được thanh thản an lạc vô sự, và tất cả thời đều thanh thản an lạc vô sự không bị gián đoạn, kéo dài từ ngày thứ nhất cho tới lâu lắm là ngày thứ bảy thì chứng đạo.
Nếu ngày thứ nhất trong suốt từ 12 giờ cho đến 24 giờ mà trạng thái thanh thản kéo dài được như vậy, không bị gián đoạn, tâm không còn phóng niệm phóng dật nữa, thì năng lực của 7 Giác Chi, tức 7 trạng thái Bồ Đề, cũng là 7 trạng thái Giải Thoát xuất hiện. Chỉ khi năng lực đó xuất hiện thì mới sử dụng nó để tập luyện 4 Như Ý Túc. Bởi 4 Như Ý Túc mà không có năng lực 7 Giác Chi thì không tập luyện được. Chỉ có năng lực 7 Giác Chi này mới tạo thành được 4 Như Ý Túc, mà chỉ có 4 Niệm Xứ mới làm xuất hiện năng lực 7 Giác Chi này.
Còn pháp Thân Hành Niệm kiên cố như cỗ xe sẽ sử dụng tới, nếu sau khi giữ tâm thanh thản an lạc vô sự kéo dài liên tục suốt thời gian 24 giờ nói trên mà năng lực 7 Giác Chi này chưa xuất hiện, lúc đó cần phải dùng pháp Thân Hành Niệm, con tác ý trong từng hành động của thân để lực tác ý sanh khởi lực hướng tâm đặng nó làm cho năng lực 7 Giác Chi xuất hiện. Nếu ngồi 4 Niệm Xứ giữ tâm thanh thản an lạc vô sự được mà năng lực 7 Giác Chi xuất hiện đủ thì khỏi tập luyện Thân Hành Niệm. Thân Hành Niệm là pháp trợ giúp cho năng lực 7 Giác Chi xuất hiện nhanh lên thôi.
Nhưng pháp Thân Hành Niệm không phải là pháp có thể thực hành tập luyện ngay liền bây giờ được, bởi vì khi thực hành tập luyện nó mà 4 Niệm Xứ chưa viên mãn thì bị phản ứng. Nếu tập luyện nhiều thì bị đau này kia, bởi vì các tâm dục ác pháp còn mà dùng Thân Hành Niệm là ức chế quá độ nên nó phản ứng bằng cách làm bị đau. Cho nên bây giờ tập luyện pháp này là chỉ để biết cách thức, tập làm quen, rồi để dành cho phần sau khi đã tập luyện 4 Niệm Xứ rốt ráo sau này.
3.- Cách Nhiếp Phục, An Trú Tâm
Chữ an trú trong kinh và sự an trú trong các pháp tập luyện có ý nghĩa như thế nào? Cụ thể là trong Kinh Hành Tĩnh Giác sự an trú là sao, làm thế nào để không bị ức chế?
An trú vào hơi thở không có nghĩa là ngồi xuống rồi hít thở ngay liền. Đó chỉ là biết hơi thở. Đi mà tập trung hết tâm ý vào bước đi để các niệm không có thể khởi ra là đang hoạt động nhiều. Đó chỉ mới trú mà chưa an.
Đây là điểm mà đức Phật dạy là thiện xảo an trú. Khi đi biết bước chân đang đi là TRÚ chứ chưa an. Phải AN TRÚ mới đúng nghĩa. Đầu tiên phải trú cho được, sau mới tới an. Trú tức là cái tâm ở trong niệm kinh hành hoặc hơi thở, tức là nhiếp tâm vào bước đi hay hơi thở. Khi ngồi hay đi mà chốc lại có niệm này, chốc lại co niệm kia, tức là không trú được, chưa trú được. Nó phải nhiếp, phải ở được một thời gian cần thiết mới có trạng thái yên ổn, tức an trú.
Muốn được an trú vào trong hơi thở hay khi kinh hành thì phải biết thiện xảo. Trú là phải dẹp hết, không làm gì nữa, nhưng chưa vô hơi thở đâu. Mọi việc phải từ từ, không gì vội vàng. Phải làm cho rảnh rang cả tâm và thân, phải tập như vầy:
Trước tiên ngồi thẳng lưng, kiết già, thu xếp tay chân thân mình cho yên ổn, không còn chướng ngại gì, với mục đích là phải an trú. Ngồi yên lặng cho thân yên ổn rồi quan sát tâm thấy cũng yên tịnh, một lúc độ 3 – 5 phút, giữ cho thân tâm đều an, không có gì hết, sau đó tác ý để cho tâm nhiếp vào trong hơi thở thì nó sẽ an trú vô trong hơi thở. Tức ngồi giữ thân bất động, giữ tâm không niệm khởi, rồi tác ý an trú. Con phải biết và nhớ điều này. Đó là cách an trú. Khi mới vô ngồi thì giữ tâm dễ lắm, chưa có vọng tưởng đâu. Còn nếu vừa ngồi xuống, tâm còn lăng xăng mà đã lo chú tâm hít thở thì tâm không nhiếp được, không an trú được.
Khi làm đúng vậy thì con sẽ an trú nghĩa là lúc đó cảm thấy an lạc thật sự. An trú đúng thì có trạng thái an lạc, trạng thái của sự an trú. Một giờ mà an trú được thì đó mới đạt kết quả của một giờ tập luyện. Nếu an trú không được mà cố gắng làm cách này cách kia cho an thì chẳng qua ức chế mà thôi. Không phải ngồi yên là có sự an trú. Ngồi yên chỉ có sự yên ổn thôi. Cho nên nói an trú trên hơi thở hay an trú trên thân hành thì trước tiên phải làm cho thân tâm an tịnh hoàn toàn, rồi mới vào an trú được.
Thầy chỉ rõ cách thức an trú như thế, chừng áp dụng vào tập luyện vài lần thì con sẽ biết cách vào an trú được.
Vì tập luyện bị hao năng lượng nên con cần phải giữ giờ giấc tập luyện và ngủ nghỉ cho nghiêm chỉnh và phải ngủ đủ mới phục hồi lại năng lượng để tập luyện cho đạt được sự nhiếp phục và an trú tâm. Ngay cả khi đang đi mà vọng tưởng tới dồn dập thì nên đứng lại, giữ yên lặng một lúc cho tâm ổn định rồi tập trung tâm ý tập luyện lại. Tập luyện đi 20 bước xong đứng lại chuẩn bị cho 20 bước kế tiếp. Làm vậy là tập luyện kĩ, rất kết quả, hơn là đi liên tục suốt 30 phút hay liên tục từng 20 bước. Đó là cách thiện xảo để an trú cho được tâm trên thân hành. Có nhiều cách thức để thiện xảo tùy theo đặc tướng của mỗi người.
Khi đi Kinh Hành Tĩnh Giác, nếu có tạp niệm xen vào nhiều, con đã sử dụng câu tác ý “An tịnh tâm hành tôi biết tôi đang đi” thì đúng rồi. Đó là những câu mà đức Phật trang bị sẳn để khi tâm không an dẫn cho nó an, tâm không tịnh dẫn cho nó tịnh. Cũng như khi thân không an thì cũng có pháp trang bị làm cho an. Đức Phật trang bị đủ hết mọi điều kiện, chỉ có mình chịu ôm pháp tập luyện hay không thôi. Phải siêng năng và tập luyện đúng pháp thì mọi chướng ngại, chướng pháp sẽ bị dẹp hết.
Người muốn tu tập theo đạo Phật cần có 5 điều kiện, trong đó có điều kiện người này phải có trí. Có nghĩa là khi được nghe nói thì phải tư duy, phải hiểu ý nghĩa của điều được nghe. Trong kinh, đức Phật nói các danh từ nghe dường như rất dễ hiểu nhưng thật ra rất khó thực hành.
4.- Tinh Tấn Tập Luyện
Vừa tập luyện xong Định Niệm Hơi Thở thì chuyển qua Định Thư Giãn để có thời gian nghỉ ngơi, rồi Chánh Niệm Tỉnh Giác, rồi Định Thư Giãn lại. Như vậy là tập luyện liên pháp, liên tục, không có nghỉ. Nghỉ là tập luyện Định Thư Giãn. Giữa hai pháp kia xen Định Thư Giãn vào. Cách thức thư giản không phải dễ thực hành đâu, coi chừng bị ức chế mà không hay.
Khi đã ấn định thời gian 30 phút cho mỗi pháp thì chỉ tới 30 phút thôi, không nên vượt quá. Phải tập cho quen sự nghiêm chỉnh giờ giấc này. Đó cũng là sự tập luyện: tập luyện sự làm chủ. Nếu ấn định 30 phút thì trong 30 phút đó dù có cái gì, thọ lạc, thọ khổ, cũng cứ ôm chặt pháp đủ trong giới hạn thời gian đó. Gặp trường hợp gì cũng phải giữ, phải ôm chặt pháp trong 30 phút. Khi có thọ lạc, muốn đi kinh hành lâu hơn cũng không được đi, nhất định phải ngừng. Hay ấn định một giờ là chỉ một giờ, đúng 1 giờ, không vượt quá, cũng không dưới xa mức ấn định đó. Dù khó khắc phục cũng phải vượt tới 1 giờ, tức dù đau chân, tê chân, cũng phải đến một giờ mới được xả nghỉ.
Khi tập luyện không chấp nhận thọ nào, dù là thọ lạc, là thọ khổ, mà phải giữ đúng pháp, ôm pháp. Thông thường nhiều người bữa nào tốt, tập luyện khoẻ thì họ hay tăng giờ lên, bữa nào dở thì giảm xuống. Như vậy không nên. Dù tập luyện tốt lành hay yếu dở cũng phải ráng giữ cho đúng giờ. Đừng nghĩ rằng khi tốt lành thì tập luyện thêm là có lợi ích. Không phải vậy đâu. Chừng nào con thấy đủ sức tăng lên thì mới tăng lên cho tất cả mọi thời tu. Phải chủ động điều khiển tập luyện trên pháp.
5.- Phải Tĩnh Giác Trong Khi Tập
Muốn được lúc nào cũng tĩnh giác thì phải lúc nào cũng nhiếp phục được tâm trong thân hành nội là hơi thở, và trong thân hành ngoại là hành động của tay, chân, thân hình. Để được vậy thì phải luyện sự an trú tâm trong thân hành đạt chất lượng ít nhất phải trong 30 phút , mà phải là không ức chế. Ức chế là sai, quá sức rồi, không được.
Khi nhiếp tâm và an trú tâm là phải thấy thoải mái trong thân hành trong 30 phút. Tập luyện tĩnh giác thì phải tĩnh giác trên niệm thân hành. Đầu tiên phải đạt cho được sự tĩnh giác tức là nhiếp phục và an trú tâm trên các thân hành. – Đó mới chỉ tĩnh giác thôi. Sau đó khi xả ra và trong sự phòng hộ của con thì đó là tỉnh thức, có nghĩa là khi có TĨNH GIÁC mà được phòng hộ thì đó là TỈNH THỨC , tức là khi áp dụng 3 cái Thánh: Thánh Giới Uẩn, Thánh Phòng Hộ Các Căn, Thánh Chánh Niệm Tĩnh Giác, đó là Thánh Tỉnh Thức. Thiếu tĩnh giác thì không áp dụng được, không đạt được kết quả gì cả. Cần phân biệt rõ hai giai đoạn này trong khi tập luyện.
Khi đi Kinh Hành, hay Định Niệm Hơi Thở hãy sử dụng cái biết rõ ràng, đừng để cái gì xen vào làm cái biết không rõ, bị lờ mờ. Trạng thái tĩnh giác sẽ phát sinh khi tập luyện với cái biết thật rõ, thật tỉnh táo, đầy đủ ý thức. Tập luyện kinh hành trong đêm tối thì cũng thật tỉnh táo, sáng suốt như ban ngày. Đừng luyện các pháp cùng chung với tưởng nhiều dù tập luyện trong bóng tối hay trong ánh sáng. Phải dùng tối đa sức cảm biết trong ý thức sáng suốt để tập luyện . Ban ngày tập luyện như thế nào thì ban đêm như thế ấy.
Mức độ tĩnh giác càng cao thì khi tập luyện các động tác diễn tiến càng chậm hơn. Như trong Kinh Hành Tĩnh Giác, hồi trước con đi tốc độ 60, 70 bước một phút, nay chậm lại độ dưới 40 bước mỗi phút, theo dõi sát kĩ các động tác của chân. Các động tác tập Thân Hành Niệm cũng chậm hơn nhiều, theo dõi sát kĩ các động tác của toàn thân theo lệnh của ý đưa ra. Chậm mà tâm cẩn thận bám sát không bỏ sót chuyển động của thân hành là đúng cách. Không sai đâu.
Thí dụ lúc trước tập luyện theo các pháp, các thân hành của con nhanh, mặc dù cố gắng để đạt sự tĩnh giác không có niệm khởi, nhưng không phải dễ làm. Bây giờ chậm hơn, con cũng tập luyện để đạt sự tĩnh giác chủ động theo dõi mọi chuyển động của thân hành nhưng ít cố gắng hơn, trong khi nhẹ nhàng quan sát tâm để biết rõ từng tâm niệm. Cái này mới là cái chánh, cái quan trọng mà Thầy hay nhắc nhở. Giai đoạn này không nên làm cho ý thức bị chìm đi, tạo cơ hội để tưởng hiện ra. Cho nên con phải luôn luôn dùng ý thức mà tập luyện. Tập luyện với sức tĩnh giác cao, đừng để lọt vào tưởng, cũng đừng để bị buồn ngủ, ngủ gật. Chậm lại để có sự quan sát kĩ. Con tập ít, tập kĩ. Thì giờ còn lại, ngồi quan sát, tư duy suy nghĩ, hoặc ngồi chơi cho thư giãn xem có những niệm nào khởi. Đó là suy tìm đạo lý.
6.- Suy Tìm Đạo Lý
Đâu phải tập luyện Chánh Niệm Tĩnh Giác chuyên suốt hoài được. Sau khi xả ra thì bắt đầu suy tìm đạo lý. Ngồi mà tư duy, bởi tư duy giúp triển khai tri kiến, làm cái biết được thực hiện trên đạo đức. Triển khai tri kiến ra mới thấy được cái sai cái đúng của con từ xưa tới giờ nó như thế nào. Con nhớ lại, thấy lại những việc xẩy đến trong cuộc đời của con. Khi ngồi tư duy thấy suốt từ hồi mới biết cho đến bây giờ có những cái thiện, cái ác như thế nào. Với sự tư duy đó làm cho tri kiến được mở rộng ra, có tầm nhìn đúng. Hồi nào tới giờ sống mà chưa có cái nhìn như vậy cho nên thấy cái nào cũng đúng. Bây giờ ngồi lại suy tư mới thấy những cái sai trong số những cái đó. Thí dụ cách đây 5, 10 năm có chuyện gì đó có cái sai này mà bây giờ con mới thấy. Chính sự tư duy đó làm cho con có lợi ích hướng tới tương lai và đồng thời thấy được hướng áp dụng cho tương lai mà niệm không bị ác pháp chen lấn vô. Có tư duy những cái gì đã xẩy ra thì mới có cái nhìn hiểu thấu suốt. Còn nếu không chịu quán quá khứ để thấy được cái sai cái đúng thì tương lai không định hướng được đâu. Đây là dùng tri kiến làm chủ trong giai đoạn Giới.
Đó là cách thức suy tìm đạo lý. Thấy cái sai thì con cố gắng khắc phục; còn thấy đúng mà con đã làm được thì không khoe khoang với ai hết. Chính đó là chỗ chủ động bằng ý thức và tri kiến giải thoát để nâng cao giá trị đạo đức, nâng cao được tâm li dục li ác pháp để rồi lấy ý thức mà tập luyện.
Trong 8 Chánh Đạo có Chánh Tri Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh Định thì Chánh Tư Duy quan trọng nhất. Gặp đối tượng ta mới nhìn được, dùng Chánh Tư Duy mà suy tư thì nó hoá giải các đối tượng đó tức khắc, vì vậy mà biến ra lời nói Chánh Ngữ, biến ra hành động Chánh Nghiệp, là hành động thân của ta. Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp nói chung là cái thân mạng của chúng ta. Thân và tâm an ổn đó là Chánh Mạng, còn thân tâm đau khổ, giao động thì đó đâu phải chánh mạng. Tự làm đau khổ là thiếu đạo đức đối với bản thân. Cho nên đạo Phật xác định rất rõ. Bắt đầu trong đạo lý của Chánh Kiến, Chánh Tư Duy suy diễn mà tới cái quả của nó là Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp tức là biến ra hành động. Nếu nó thiện thì có Chánh Mạng, còn không thiện là Tà Mạng, là khổ đau.
Phải có nền tảng để tư duy, phải dựa trên những gì đức Phật dạy, để có cơ bản, có tầm nhìn theo đạo giải thoát. Hiểu sự giải thoát theo lời đức Phật dạy, lấy đó làm tiêu chuẩn để nắm vững mà tư duy. Nên con cần nghiên cứu, học đọc kinh Nguyên Thủy Nikaya. Nếu không lấy kinh Nguyên Thủy Nikaya làm nền tảng thì vẫn theo thói quen tư duy theo thế gian, thế tục, hay thế tục hóa theo các lập luận Phật giáo phát triển, chứ không tư duy theo hướng giải thoát tri kiến đúng của Phật.
Vả lại có những việc xẩy ra mà trong kinh không nói tới cho nên không phân định được thiện hay ác thì con cần phải có vị Thầy tu chứng, có đủ trí tuệ mới nhìn thấy chỗ thiện chỗ ác. Có những bài kinh nhìn ra thì đúng mà sao ở trường hợp này con không truy tìm ra tiêu chuẩn để nhìn lại hoàn cảnh đang xẩy ra thì hãy mau mau hỏi vị Thầy của con; đừng hỏi ai khác vì họ đưa ý kiến của họ, coi chừng bị lạc hướng. Chỉ vị Thầy tu chứng mới xác định đây là cái gì thì con mới quyết định được đâu thiện đâu ác, rồi mới tăng trưởng nó hay ngăn và diệt nó. Có vậy mới đem lại niềm.
7.- Luyện Thân Tâm An Tịnh
Phật dạy Định Niệm Hơi Thở đề mục 5 “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra” và đề mục 7 “An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh tâm hành tôi biết tôi thở ra”. Vậy thì “an tịnh” là gì, bằng cách nào, làm thế nào để được an tịnh? Nương vào hơi thở là thế nào, làm sao để nương vào hơi thở. Từ đó những căn bản được đặt ra, suy nghĩ làm sao cho nó an. Cho đến khi đạt được kết quả an tịnh thì đã phải nhiều lần suy tư, quán xét, áp dụng cách này cách khác. Nhờ có sự suy tư và tập luyện như vậy cho nên khi nghe lời vị Thầy nói kinh nghiệm của ông thì mình mới thấy, mới biết cách thức để thiện xảo. Còn nếu không suy tư, không tập luyện thì khi nghe vị Thầy nói mình không lưu ý đâu; có chăng thì chỉ hiểu chung chung thôi, chứ không hiểu rốt ráo để tập luyện.
Khi muốn cho thân an tịnh thì làm sao? Tịnh có nghĩa là thanh tịnh, còn an là an ổn. Giai đoạn này chỉ tập luyện để có trạng thái an tịnh của thân, chưa đến giai đoạn an tịnh của tâm. Trong Định Niệm Hơi Thở, phần an tịnh của thân có đề mục riêng, phần an tịnh của tâm có đề mục riêng. Bây giờ những cảm thọ của thân là đau nhức chỗ này chỗ kia trong thân mà muốn cho nó an tịnh, tức là muốn không còn đau nữa thì phải an trú cho được các cảm thọ này.
Trước khi an trú được bệnh đau thì phải an trú thân cho được. Vậy cần tập luyện từng hơi thở. Mỗi khi con tác ý “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra”. Tác ý như vậy để làm gì? – Để khi hít vô lắng nghe thân có an tịnh hay không, chứ không phải cái an tịnh ở đâu bên ngoài đến với thân. Không phải nó đến mà tự con lắng nghe thấy rõ ràng thân có an thật sự, không động đậy, không nhúc nhích chỗ nào hết. Tịnh là yên lặng mà thanh tịnh, tức là không bị động chút nào hết, hoàn toàn yên lặng. Đó là thân vừa an mà vừa tịnh, không bị chướng ngại gì hết. Như vậy là tốt.
Do đó khi hít vô con lắng nghe theo hơi thở thì thấy thân an; thở ra cũng như hít vô, thấy thân an. Lắng nghe đủ 5 hơi thở, tác ý lại lần nữa. Lắng nghe để xem thân an tịnh. Con đang chú ý sự an tịnh thì cứ tác ý để sự an tịnh lúc nào cũng hiện khởi trong thân, không để nó bị mờ dần. Mỗi lần tác ý là một lần “hâm nóng lại”, làm cho nó đứng lại đó. Không tác ý, không lắng nghe thì sự an tịnh lịm dần và sẽ biến mất. Khi lắng nghe như vậy thì niệm vọng tưởng, tức là niệm không phải niệm an tịnh mà ta đang lắng nghe, sẽ không có, không được có. Và khi đó, khi con đang lắng nghe và thấy an tịnh, thì dường như từ trong thân phóng xạ một từ trường bảo vệ thân không bị muỗi mòng quấy phá. Do đó phải tập luyện từng hơi thở và lắng nghe. Nếu con có được hơi thở dài thì dễ đủ thời giờ lắng nghe toàn thân hơn.
Trạng thái an của thân khi lắng nghe được rồi thì khi nhiếp vào hơi thở nó sẽ rất an tịnh. Rất an tịnh có được rồi thì sự lắng nghe sự an tịnh đó làm cho tâm gom rất mạnh, tức là nhiếp phục tâm. Chỉ khi an tịnh có được rồi thì thân mới có cảm giác im lặng mà sáng tỏ, lại yên ổn. Thật khó diễn tả bằng lời trạng thái này ngoại trừ con cũng vào được trạng thái an tịnh này mới hiểu biết rõ. Lúc đó thấy thân khoẻ khoắn lạ thường, không có một chút gì gọi là mỏi mệt, dù ngồi bao lâu hay ngồi cả ngày đi nữa cũng không có dấu hiệu khó chịu nào, mà chỉ thoải mái dễ chịu thôi. Khi đó không có cảm thọ nào trên thân đánh mình được. Đó là trạng thái hoàn toàn an trú trong sự an ổn của thân.
Để thân được an tịnh thì con còn lắng nghe. Đó là giai đoạn an tịnh của thân. Nhưng khi thân có sự an trú thì khỏi cần lắng nghe nữa, tự nó có an trú rồi.
Nếu tập luyện mà không chịu lắng nghe sự an tịnh tức là sự thanh tịnh an ổn trong thân (cũng như sự thanh tịnh của tâm) thì – mặc dù chúng có đó – nhưng do con không nhận ra, hay không biết được sự an ổn thanh tịnh đã hiện khởi, nên chúng bị mờ nhạt và biến mất, hay chúng không hiện khởi trong thân cho con tập luyện. Còn con cố công lắng nghe, từ phút này qua phút khác thì càng ngày sự an ổn thanh tịnh càng hiện ra. Chúng là những cái cần thiết phải đạt cho được trước khi có thể li dục li ác pháp. Nhờ có chúng, tức sự thanh tịnh an ổn trong thân và sự thanh tịnh của tâm, cho nên khi cảm thọ đến thì con làm chủ cảm thọ được.
Tại sao đức Phật nói con mắt và các vật (sắc) không dính nhau đâu. Vật không cám dỗ mắt mà mắt cũng không thu hút vật, nhưng tại sao nó dính? – Tại cái thức của ta nó vừa biết vật này là nó khởi lên ái dục liền, nên nó bị dính. Có sự ham muốn là có dính. Khi phòng hộ được mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý thì dù có thấy vật nhưng mắt không bị dính là do tâm không muốn. Đó là li dục (tâm không muốn chính là tâm xả li). Làm cho mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý là sáu căn và sáu trần sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp không dính là li. Tâm li dục và li ác pháp được rồi thì lúc đó tâm thanh thản an lạc vô sự; tâm trở về trạng thái an ổn vô sự (là tâm 4 Niệm Xứ).
Khi tập luyện được vậy rồi, tức là không còn dính mắc nữa, thì đương nhiên có sự an trú. Có được sự an trú thì lúc bấy giờ con không còn buồn ngủ bởi vì buồn ngủ là sự an trú của dục. Ăn mà có sự an trú của dục mới tìm sự ăn ngon. Ngủ mà có an trú của dục mới tìm cầu ngủ nghỉ. “Chính vì không biết cách tập luyện để an tâm cho nên chúng sanh mới đi tìm lạc của dục”, Đức Phật nói hay quá!
Trong Tu Viện, người nào an trú được thì họ sống một mình thôi, còn ai chưa thì họ phải đi tìm dục lạc, họ đi nói chuyện này kia. Đó là vì không an trú. Ta thấy thì biết liền.
Trong các bộ kinh, Thầy thích đọc nhất là bộ Tương Ưng (Samyutta Nikaya, do HT. Minh Châu dịch) vì trong kinh này chuyên dạy li dục li ác pháp. Chính bộ Tương Ưng cứu Thầy khỏi tự sát.
8.- Thất Niệm
Trong kinh đức Phật thường dạy ta đừng để thất niệm.
Trên thân có ác pháp mà tác ý đẩy lui thì không phải thất niệm, vì ta chủ động. Còn khi đang ngồi tập Định Niệm Hơi Thở, bổng dưng có một niệm khởi thì niệm theo dõi hơi thở bị gián đoạn, bị mất thì đó là thất niệm, thất cái niệm đang tập luyện.
Ác pháp thì phải đẩy lui, hoặc ngăn hoặc diệt. Có ác pháp mà cố gắng chịu đựng, cam chịu đựng trong khi có thể tránh được là ức chế, là sai với đường lối của Phật.
Thí dụ: Khi một con kiến cắn, thì mình khởi tâm từ đừng giết nó, tìm cách đẩy nó đi. Đó là phương pháp đẩy lui chướng ngại pháp trên thân, đừng để nó ở đấy, cho nên đức Phât nói “Trên thân quán thân để khắc phục tham ưu”.
Khi bị một con muỗi đốt trong khi đang ngồi tập luyện, con chủ động cách để ác pháp đó không tác động nữa bằng cách đuổi nó đi hay dùng câu tác ý “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra” để làm cho thân cảm nhận sự an tịnh mà quên đi cảm nhận của con muỗi đốt thì đó là thay đổi niệm chứ không phải thất niệm. Đó là chủ động khắc phục tham ưu, không phải là thất niệm.
Con tập luyện từ từ theo lời Thầy dạy, làm thế nào để đạt cho được sự nhiếp tâm và an trú tâm trong thời gian tu tập ngắn. Đừng tu tập dài lâu, dài là ức chế. Tập luyện Định Niệm Hơi Thở chỉ 5 hơi, tác ý xả, rồi tập luyện 5 hơi khác. Kinh Hành Tĩnh Giác cũng vậy, đi 10 bước, hay 20 bước, đứng lại tác ý xả. Có ác pháp thì tác ý đẩy lui. Cứ tác ý dù chúng có lui hay không. Bây giờ thì chưa có sức gì, nhưng chắc chắn ngày nào đó tác ý sẽ có sức đẩy lui ác pháp, miễn là liên tục tập luyện bền chí tác ý không gián đoạn.
Điều quan trọng là làm sao tập nhiếp tâm và an trú tâm trong hơi thở cho quen. Thầy biết con đã quen được sự nhiếp tâm trong bước đi, cũng như trong hơi thở rồi, bây giờ tiếp tục tập an tịnh cho được. An tịnh được mới tới an trú.
Khi đi kinh hành con tập tĩnh giác cho tâm lắng trong bước đi, có nghĩa là khi đi không tác ý gì khác ngoài sự chú tâm theo dõi bước đi. Đi đủ 20 bước đứng lại tác ý.
Thầy nhắc lại, ở vị trí của người mới tập luyện, sự nhiếp tâm và an trú tâm là phần cơ bản nhất cần đạt cho được. Đức Phật dạy ta phải chế ngự tâm, làm sao cho thân tâm an trú được trong hơi thở. Muốn được vậy thì thân và tâm phải an tịnh tức là quán sát thân tâm để nhận biết ngay lúc nó vừa có được an tịnh. An tịnh được thì an trú mới được.
Chỉ tập cho đạt sự an trú kéo dài trong 10 phút thôi, sau đó chuyển qua các đề mục khác của Định Niệm Hơi Thở là quán li tham... quán li sân... Mục đích của các đề mục này là khi có ác pháp tham, sân, si thì ở trên hơi thở dùng đề mục đo mà đẩy lui; còn không có thì không cần tập luyện, chỉ cần giữ tâm thanh thản an lạc vô sự (tâm 4 Niệm Xứ).
Khi không có ác pháp thì tâm ở trong Bất Động Tâm (tâm thanh thản an lạc vô sự). Mặc dù có được tâm thanh thản an lạc vô sự, tức là tâm li dục li bất thiện pháp, nhưng chưa nhập Sơ Thiền, chưa vào được Sơ Thiền. Nghĩa là chỉ mới có bất động tâm tức là chỉ mới li dục li ác pháp trong bất động tâm chứ chưa phải vào Sơ Thiền. Chỉ đang bước vào giai đoạn luyện 4 Niệm Xứ, chỉ bắt đầu có Chánh Niệm và chỉ mới được Bất Động Tâm chứ chưa vào định (cho dù là định do li dục li ác pháp sanh hỉ lạc – Sơ Thiền). Muốn vào định thì phải có đủ năng lực của 7 Giác Chi. Có năng lực của 7 Giác Chi mới nhập được Sơ Thiền cho đến Tứ Thiền.
Đừng nghe nói li dục li ác pháp nhập Sơ Thiền rồi tập li dục li ác pháp nhập Sơ Thiền. Không phải vậy đâu. Ức chế thấy nó im lặng vậy chứ sự thật không phải là Sơ Thiền. Chưa hoàn mãn Chánh Niệm tức chưa sung mãn 4 Niệm Xứ thì đừng mong thực hiện Chánh Định. Pháp 4 Niệm Xứ mà sung mãn được rồi thì phải có năng lực 7 Giác Chi.
9.- Thời Giờ Tập Luyện
Các pháp môn tập luyện, không bó buộc chúng có giờ tập luyện bằng nhau. Thí dụ một pháp nào tập luyện 30 phút thì không bó buộc các pháp khác cũng tập luyện trong 30 phút.
Định Niệm Hơi Thở nhiếp tâm được trong 30 phút thì pháp này tập luyện kéo dài trong 30 phút, còn Kinh Hành Tĩnh Giác nhiếp tâm lâu hơn, thí dụ là 1 giờ thì đi 1 giờ được.
Tuỳ pháp nào con tập luyện mà được an lạc an trú thì pháp đó tăng dần lên. Còn pháp nào chưa an trú được thì cứ giữ giờ tập luyện cho đến khi được an trú. Thí dụ có pháp con tập luyện 10 phút mà vẫn chưa an trú, trong khi có pháp đã an trú được nên con tập nó trong 1 giờ. Cái này được, không sao, không e ngại. Hay có thể an trú lên hơn nữa, thí dụ 2 giờ, 3 giờ thì con cũng tăng lên tới mức đó. Còn pháp kia chỉ 10 phút mà chưa được an trú thì không được tăng lên thêm, đủ 10 phút phải nghỉ xả, tập luyện pháp khác. Pháp tập luyện mà an trú được, hợp với con thì mặc dù giờ tập tăng dần lên nhưng con vẫn nhiếp tâm trong đó, ôm chặt pháp đó.
Giữ thời gian đã tăng cho cố định, không lùi lại sau khi đã tăng lên. Không bỏ pháp môn nào. Khi pháp này tăng lên được thì chẳng bao lâu sau pháp kia cũng tiến bộ được nhờ sự trợ giúp của pháp này. Ví dụ hơi thở tập luyện hoài 10 phút mà không thấy tốt trong khi pháp kinh hành tốt, được tăng lên thì rồi pháp hơi thở cũng nhờ đó mà càng tốt ra.
Nhưng không phải pháp nào cũng tập luyện với thời gian bằng nhau. Thí dụ 30 phút đều tất cả các pháp. Không phải vậy. Phải linh động khéo léo. Bởi có người đi kinh hành rất tốt nhưng có người kinh hành dở thì họ phải ngồi lâu. Chỉ tuỳ theo đặc tướng của từng người.
Khi nâng thời gian tập luyện thì lưu ý như vầy: Mỗi thời khóa là 3 giờ, con thu xếp tập luyện các pháp môn như thế nào đó mà đầy 3 giờ rồi. Khi nâng một pháp môn lên, thí dụ 15 phút thêm nữa thì khóa tập luyện trở thành 3 giờ 15 phút mỗi khóa và khóa tập luyện nào cũng là 3 giờ 15 phút. Vậy mới được xem là nâng pháp đó lên, chứ không phải nâng giờ pháp này lên mà giảm giờ các pháp kia lui.
Làm vậy là thất bại, không tiến bộ. Các pháp kia phải giữ y giờ đã tập luyện chúng từ trước cho đến đó; còn pháp này thêm giờ thì nâng đều trong các thời khóa lên bằng vậy. Cho nên giờ của thời khóa phải tăng thêm. Chừng khi các pháp kia cũng được tăng, thì giờ tập luyện của thời khóa lại tăng thêm lên nữa, lâu hơn nữa, có thể mỗi thời khóa kéo dài đến 3 giờ 30 hay 4 giờ và thời nào cũng dài như vậy.
Do sự tăng thêm giờ này mà tâm con hết phóng dật dần dần nhờ nương vào giờ tập luyện được kéo dài trong mọi thời khóa. Và đến chừng khoảng nghỉ xả hơi giữa hai thời khóa không còn nữa là con đã tập luyện liên tục 8 giờ mỗi khóa và chỉ còn tập luyện hai khóa trong ngày, nghỉ xả hơi có hai lần trưa và khuya, trong mỗi lần cũng chỉ nghỉ 2 giờ. Lúc đó tâm con đã gần được thanh tịnh.
Pháp tập luyện được tốt tức là phù hợp với đặc tướng, hay không được tốt cũng phải tập luyện cẩn thận kĩ lưỡng, không được bỏ pháp nào mà cũng không chỉ ôm pháp nào vì pháp của Phật là 37 Phẩm Trợ Đạo, cái nào cũng quý, cũng lợi ích rất lớn nhưng vì đặc tướng của con mà dễ tiến bộ ở pháp này, chậm tiến bộ ở pháp kia. Cho nên phải giữ hết, không được bỏ một pháp nào.
Điều đặc biệt quan trọng cần lưu ý là chỉ nâng giờ tập luyện pháp môn nào lên khi trong suốt thời gian tập luyện của pháp môn đó hoàn toàn được nhiếp tâm và an trú tâm, không một phút giây nào bị thất niệm. Nếu chưa được vậy mà nâng lên thì sẽ bị nó quật ngược trở lại làm thành những chướng ngại rối loạn, tập luyện không tiến được.
Trong thời gian đầu đang tu tập Tứ Chánh Cần này, tập luyện mỗi pháp 30 phút là lâu rồi, không được cho cái nào lên hơn 30 phút hết. Sau đó khi thấy pháp môn nào nhiếp tâm vô dễ dàng con nâng nó lên, các pháp kia vẫn giữ ở thời gian cũ đó.
Sau thời gian tập luyện, con kiểm soát thấy đã được kết quả nhiếp phục được tâm vào trong thân hành (hoặc đi, hoặc hơi thở) rồi bắt đầu tập cho an trú. Thí dụ như hơi thở nhiếp chưa được, mà chỉ nhiếp và an trú được trên bước đi. Do nhiếp và an trú được ổn định trong bước đi thì pháp kinh hành được tăng lên đến một giờ mà các pháp kia chỉ giữ ở 10 phút thôi. Sau khi ổn định nhiếp và an trú tâm trong bước đi, chừng đó quay qua hơi thở con sẽ thấy nó có khác biệt nhiều. Nếu chỉ mới nhiếp tâm trên bước đi thì chưa có gì khác ở hơi thở đâu.
Muốn thấy rõ được sự tập luyện tiến bộ như thế nào thì con có thể so sánh mức độ hiện nay với tháng trước hoặc nhiều tháng trước, chứ so sánh sau một vài ngày thì không nhận ra rõ ràng được.
10.- Phá Buồn Ngủ, Ngủ Gục
Khi bị ngủ mê khá nặng, Thầy sẽ chỉ dạy cách thức để đối trị nó. Con đã áp dụng câu tác ý “Với tâm định tỉnh tôi biết tôi đi kinh hành” nhưng chưa có kết quả. Vậy trước khi ngủ, vừa nằm xuống, nên tác ý câu “Thân và tâm phải hoàn toàn định tỉnh khi ngủ cũng như khi thức, phải biết đúng giờ giấc!” Con cứ tác ý mỗi khi đi ngủ, lâu dần tâm sẽ rõ biết. Cứ tác ý mãi cho đến khi nào có kết quả. Phải bền chí.
Nguyên nhân khác khiến bị ngủ mê là do tập luyện chưa đạt được sự an trú của tâm vào các pháp môn. Khi được an trú, khi mất nên nội lực chưa đủ, chưa phát triển, bị hao năng lực nhiều nên mỏi mệt và ngủ mê. Khi tập luyện đã an trú được thì nội lực có, sẽ không hoặc ít bị hao năng lực của bản thân. Vậy thì làm sao cho khi mới vô tập luyện phải an trú được ngay liền thì nội lực đã không mất mà nó còn được bồi bổ thêm.
Lại nữa tập luyện càng có tiến bộ nhiều thì chướng ngại – còn gọi là ác ma – tới quấy phá, làm mình không tập luyện được, làm mình vi phạm giới luật để rồi thối thất tập luyện. Khi tập luyện thì cần quyết tâm chiến thắng các ác ma (buồn ngủ, ngủ mê, tâm phóng dật, phá hạnh độc cư,...). Lúc đầu thì có thể nhờ người giúp để giữ đúng giờ giấc, nhưng phải tập dần dần để quen tự chủ.
Con áp dụng câu tác ý và thực hành với sự tĩnh giác cao trong lúc tập luyện như vậy là tốt. Nếu không bị căng đầu, căng mặt là hợp với đặc tướng của con, sức chịu đựng được, đủ khả năng, đủ lực để nhiếp phục tâm, để dẫn nó vào an trú.
Không căng mặt, không kéo dài thời gian tập luyện quá lâu là nhiếp phục. Nếu căng mặt, nặng đầu là ức chế, là trật.
Muốn biết cách phá si như thế nào thì cần phải biết nghĩa và các tướng trạng của các loại ma chướng buồn ngủ (hôn trầm), ngủ mê (thùy miên), mất chú ý (vô ký) và mất ý thức (ngoan không) này. Khi các loại ma chướng này sắp xẩy ra thì có những tướng trạng, là những báo động để nhận biết trước chúng. Khi chúng đã xẩy ra thì không còn biết được cho đến một lúc lâu sau tùy theo từng loại ma chướng. Khi tập luyện người ta gặp chúng nhiều lần nên rất dễ biết chúng để phá. Người chưa kinh nghiệm thì không thể thấy được tướng trạng báo trước của các loại ma này đâu.
Ngủ gục là hôn trầm. Đang ngồi tập luyện mà buồn ngủ, thiếp gục xuống. Ngủ gục thì chỉ mới gục xuống là giật mình tỉnh lại. Buồn ngủ, ngủ gục dễ biết nên không bị nó kéo dài.
Khi có tướng trạng buồn ngủ xẩy ra thì đừng ngồi nữa, ngồi tiếp sẽ bị gục tiếp, gục hoài. Phải đứng dậy đi kinh hành, hay dùng pháp môn khác mà phá cái buồn ngủ này. Không nên ngồi lì.
Làm sao để biết là mình đã phá được buồn ngủ? Đó là lúc ngồi tập luyện các pháp môn mà không còn bị thiếp gục xuống, thời tập nào cũng tỉnh táo suốt toàn thời. Ngày nào, thời nào cũng được vậy thì đó là đã hết bị buồn ngủ, phá được buồn ngủ, ngủ gục. Nếu còn gục là phá buồn ngủ chưa xong. Nhưng cần lưu ý khi buồn ngủ hết thì bắt đầu mất ý thức tới. Hãy tĩnh giác mà đề phòng. Ma chướng không đánh chúng ta bằng sự ngồi ngủ mê (thùy miên) mà đưa chúng ta vào mất ý thức (ngoan không).
Ngồi ngủ mê là ngủ thật, nghẻo cổ ngủ, gục đầu ngủ, gập người ngủ, ngủ say mê. Trước khi ngủ mê như vậy thì có dạng hơi thở lặng lặng kiểu như ru ngủ. Hơi thở đi nhè nhẹ vô. Khi thấy hơi thở thay đổi thì coi chừng sắp chìm vào cơn ngủ mê. Khi đã bị chìm vào cơn ngủ mê rồi thì phải sau ít ra nửa giờ, hay 20 phút mới biết đã bị ngủ mê. Nó lặn vô lặng im làm mình thấy an ổn, rồi đi luôn với an ổn đó. Đến chừng giật mình thức dậy thì đã qua nửa giờ, 20 phút rồi. Ngủ ngon lành; ngủ ngon thiệt! Nhưng ít khi bị ngồi ngủ mê, thường bị ngủ gật nhiều hơn.
Ngồi ngủ mê thì đã bị ngủ rồi mới tỉnh thì đâu có cách nào phá nó; chỉ tập cho quen để biết tướng trạng báo động bằng hơi thở lặng lặng mà đứng dậy, đi kinh hành để phá, không được ngồi tiếp. Hay khi thấy hơi thở thay đổi nhẹ nhẹ của cơn ngủ thì hãy thở mạnh lại để phá nó. Dùng hơi thở thì con ra khỏi trạng thái ngủ mê liền, cho nên khỏi phải đi kinh hành để phá ngồi ngủ mê. Nếu không biết đây là ngủ mê thì người ta thường đi kinh hành. Cái gì cũng đi kinh hành là người không biết phân biệt tướng trạng để dùng cách thức khác nhau mà đối trị. Người tập luyện sắp bị ngồi ngủ mê có trạng thái báo biết trước khi ngủ. Đó là hơi thở lặng lặng.
Khi vào giấc ngủ bình thường, nếu tỉnh con sẽ thấy hơi thở từ từ nhẹ dần, hơi thở phải lặng dần dần thì mới vào giấc ngủ. Chứ nếu hơi thở còn tỉnh thức mà bảo ngủ, không ngủ được đâu. Trước khi ngủ nó có báo. Tại mình không tĩnh giác nên khi vào giấc ngủ không biết được. Người tập luyện thì khi muốn ngủ có trạng thái muốn ngủ báo động qua hơi thở. Nó yên, nó lặn vào hơi thở theo kiểu ngủ. Hai loại hơi thở khi thức và khi ngủ khác nhau. Có người ngủ ngáy, còn mình ngủ không ngáy thì hơi thở nhè nhẹ, chứ không phải giống như lúc thức.
Nắm vững các trạng thái cùng cách đối trị thì nó không đánh được.
Mất chú ý : Bị giật mình là bị mất chú ý tức là bị quên, quên pháp đang tập luyện. Bị mất chú ý là khi bị thất niệm nó mới vô được. Mất chú ý là dạng của thất niệm, quên. Mất chú ý còn bị xem là không tĩnh giác.
Trạng thái mất chú ý thì hay giật mình. Khi thấy như thế thì hãy đứng dậy đi kinh hành, đừng ngồi nữa. Khi giật mình thì tự rõ biết sự mất chú ý tới, mà mất chú ý thì không bao giờ dẹp hết vọng tưởng đâu. Mất chú ý là quên tập trung ý thức trên đối tượng nên vọng tưởng xẹt vô. Đứng lên đi kinh hành để đừng mất chú ý nữa. Chú ý bước chân hoặc tác ý liên tục từng hơi thở thì không có kẽ hỡ để mất chú ý xen vô được.
Mất ý thức là ngồi tỉnh nhưng nó không ngơ, không biết gì hết, giống như ngủ, nhưng con thấy con tỉnh. Ngủ thì có dạng khác của sự buồn ngủ, còn không ngơ là mình ngồi tập luyện mà như nhập định. Đó là mất ý thức.
Mất ý thức thì báo động bằng trạng thái an lạc. Tỉnh và an lắm. Bị vài lần thì con sẽ nhận ra được sự an lạc của mất ý thức. Khi còn biết thì thấy nó an lạc lắm nhưng cái an này nó sẽ đẩy mình vào không.
Khi biết được sắp bị mất ý thức thì gồng mình lên cho mất cái an đó. Cái an sẽ đưa liền tới cái không, giờ mình phá cái an đó thì cái không không tới được. Gồng cho cơ bắp tay chân mất an, cho trở lại trạng thái bình thường, rồi ôm pháp tập luyện lại.
11.- Giữ Giới – Giữ Tâm Bất Động
Nếu con hiểu được đường lối tập luyện của đức Phật, của Thầy, con tập luyện và sống cho đúng giới hạnh thì mới vô thiền định dễ. Bí quyết thiền định chính là hạnh sống. Nó là Thánh Giới Đức, thuộc về Thánh Hạnh. Sống không đúng Thánh hạnh thì tập luyện li dục không được. Đúng giới mới li dục được. Cho nên Giới sanh Định là đó. Giữ gìn giới đúng, tu tập đúng pháp thì tâm tự li dục chứ không có cách nào khác mà li được.
Ăn, ngủ, độc cư, nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng đều chỉ nhắm mục đích li dục. Tất cả những cái đó đều là những Thánh hạnh. Cố khép mình chặt trong giới luật thì quyết chắc đạt được chí nguyện thôi. Không cách nào không đạt. Những pháp Thầy dạy là những pháp rất căn bản.
Đức Phật chỉ dạy cho chúng ta biết mục đích giải thoát là Bất Động Tâm, là Tâm Thanh Thản An Lạc Vô Sự. Tập luyện để trước các ác pháp, trước các đối tượng của tâm mà tâm bất động là đúng. Nhưng phải nhớ kĩ không tập luyện sai để kết quả không sai. Ức chế là vô tưởng, là hỏng. Tập luyện phải hiểu sức mình ở mức độ như thế nào.
Bất kỳ trạng thái nào xẩy ra cũng phải đừng chấp. Trạng thái thân khinh an, hay có thần thông gì gì thì phải dẹp nó đi. Kinh hành mà có cái lực gì đẩy thì thôi dừng dừng. Các cái đó không phải của Phật đâu. Không đúng đâu. Pháp giải thoát của Phật là tâm bất động, là tâm thanh thản an lạc vô sự. Sơ thiền thì li dục li ác pháp nhưng nó có 5 chi thiền. Còn Tâm Bất Động là đối trước các ác pháp, các cảm thọ mà tâm không giao động, thản nhiên, cho nên gọi là Tâm Thanh Thản An Lạc Vô Sự. Phải nắm vững chỗ này mới biết kết quả tập luyện, chứ không rõ thì coi chừng vô các trạng thái không đúng mà chấp đúng, là sai.
Như có những người tự thấy mình chứng Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền. Họ biết gì về bốn Thiền đó mà dám tuyên bố. Khi chưa đủ năng lực để nhập các Thiền, tức là sức tĩnh giác chưa có, Chánh Niệm chưa xong tức 4 Niệm Xứ chưa hoàn tất, thì làm sao có đủ năng lực nhập định mà họ dám nói họ nhập Sơ Thiền, Nhị Thiền... Những người đó thấy có trạng thái an trú, họ lầm tưởng đó là Sơ Thiền, Nhị Thiền... Nếu đọc được những gì Thầy giảng ra thì họ bắt chước nói theo. Họ tập luyện chưa chứng mà nói vọng ngữ. Cho nên Thầy chỉ giảng Thiền Căn Bản ở chỗ nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng, còn sự chứng nhập Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền, chưa nói tới để tránh cho họ khỏi vọng ngữ. Họ hay nói theo tưởng để lòe, để họ lừa đảo người khác. Cái đó nguy hiễm cho cả người nói và người nghe.
12.- Thánh Giới Uẩn
Giới là ranh giới, là phạm vi. Qua khỏi ranh giới là phạm giới. Ở trong ranh giới của pháp tập luyện thì không bị phạm. Giới là như vậy.
Thánh Giới Uẩn là lấy 5 uẩn làm giới để giữ gìn tâm. Nói uẩn thì nói cả 5 uẩn. Năm uẩn là sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Uẩn gồm tất cả 5 uẩn này mà Thánh Giới là cách thức giữ gìn cả 5 uẩn đó. Đó gọi là Thánh Giới Uẩn.
Thí dụ sắc uẩn, tức thân tứ đại. Ở trong thất độc cư thì giữ gìn thân cho đúng, ra khỏi thất cũng phải giữ gìn thân cho đúng. Khi ra ngoài thất có tiếp duyên thì phải giữ gìn rất dè dặt cẩn thận trước các ác pháp, trong đó có ác pháp dục gợi tham muốn và khiến chúng ta dễ phiền não tức giận. Do đó ta phải phòng hộ thân. Khi bị người ta nói điều gì gây phiền não thì phải cố gắng giữ gìn tâm, đừng để lộ ra qua sắc tướng của ta. Đó là giữ gìn Sắc giới uẩn Sắc thân khi đi ra ngoài tiếp xúc với mọi duyên. Còn khi ở trong thất, khi tập luyện các pháp thì các oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi trong khi tập luyện phải giữ gìn sắc giới uẩn của chúng ta sao để đi, đứng, nằm, ngồi đúng với các pháp. Thí dụ tập luyện Thân Hành Niệm, 4 Niệm Xứ thì thân phải như thế nào, thì đó là giữ gìn sắc giới uẩn.
Cho nên người đang tập luyện, mỗi khi cầm muỗng để ăn cơm, hoặc mang bát, mặc y thì phải giữ gìn, tư duy. Nếu oai nghi nào không đúng thì không nên làm, chỉ làm oai nghi nào đúng. Lần lượt trong thất tự rèn luyện thì con sẽ thành tựu những giới hạnh. Nếu bộ Giới Hạnh Thầy soạn viết xong, con nghiên cứu về Sắc Giới Uẩn thì mới có thể đầy đủ chứ không thể nói trong 10 phút, nửa giờ mà đủ được giới hạnh, giới hành của Sắc Giới Uẩn này được.
Vậy trong khi chờ có sách, con về thất nhập tu thì tự con sáng ý ra mà tập luyện. Đến khi Thầy viết xong bộ Giới Hạnh mà đức Phật đã dạy thì lúc đó con nghiên cứu kĩ để giữ gìn Sắc Giới Uẩn khi ở trong thất cũng như khi đi ra ngoài. Đó là cách thức tập luyện về Thánh Giới Uẩn. (Năm 2006, Thầy Thông Lạc đã viết xong tập 1 và 2 trong số 6 tập thuộc bộ Giới Hạnh và đã được Nhà Xuất Bản Tôn Giáo cho in dưới tựa “Văn Hóa Phật Giáo Truyền Thống”)
Về thọ, tưởng, hành, thức cũng vậy, luôn luôn cẩn thận dè dặt giữ gìn như Sắc Giới Uẩn để không hề bị vi phạm. Khi đau thì không nên vì lý do nào để trở nên như người thế tục, như đi nhà thương, đi bác sĩ, hay giải phẩu. Phải gan dạ hơn, giữ gìn thọ giới uẩn để đừng làm theo kiểu phàm phu tục tử khi có thọ thân hay khi có thọ tâm. Khi chúng ta lo lắng sợ hãi, thương ghét, phiền não thì phải phòng hộ cho kĩ ngũ uẩn của chúng ta.
Thầy nói tổng quát đại ý như vậy, con theo đó mà giữ gìn cho trọn vẹn thì ở trong thất tập luyện càng ngày càng kết quả. Chừng khi sách dạy về Giới Luật Tỳ khưu viết xong Thầy sẽ gởi cho con. Con nên ráng học tập rèn luyện trong những Thánh Hạnh đó, nhất là giới luật về thân giới uẩn của người đang tập luyện. Giữ cho được trọn vẹn thì sự li dục li ác pháp sẽ thực hiện rất rõ ràng. Nhờ những Thánh Giới Uẩn đó chúng sẽ giúp cho con rất tĩnh giác trên từng hành động của thân, của tâm khi có pháp tác động vào. Chúng giúp con bình tỉnh, rất vững vàng, không bị rối loạn, không bị sa ngã hay sợ hãi.
Thầy nhắc lại, khi ở trong thất tập luyện các pháp môn như Kinh Hành Tĩnh Giác, Thân Hành Niệm, Định Niệm Hơi Thở, Quán Vô Lậu... thì giữ gìn oai nghi cho đúng với pháp môn con đang tập luyện. Thí dụ như khi Kinh Hành Tĩnh Giác mà hôn trầm tới thì con cũng phải đi từ từ, đi nhẹ nhàng theo hạnh của người tập luyện trong pháp môn đó. Đừng chạy nhảy là không đúng Giới Hạnh Thánh Giới Uẩn. Ngay cả để khắc phục buồn ngủ mà đi một đường quyền là không đúng Thánh Giới Uẩn. Phá buồn ngủ thì phải đi đúng cách của pháp cùng với các tác ý là đúng.
Chứ có người đã dùng các cách không đúng Thánh Giới Uẩn như là lấy kim chích vào thịt cho đau cho tỉnh ngủ, hoặc cách này cách khác là không giữ đúng Thánh Giới Uẩn, sai pháp, không đúng cách. Phải áp dụng Thánh Giới, Thánh Hạnh vào tất cả 5 uẩn cho đúng với pháp tập luyện và cho đúng với đặc tướng. Vậy mới gọi là giữ gìn Thánh Giới Uẩn.
Khi tập luyện các pháp môn mà con có những tư tưởng gợi lại tình cảm hay nhớ lại hình ảnh hành động bất tịnh thì phải mau mau tác ý để phá trừ vì nó là những điều kiện phạm giới, không để chúng lưu lại trong tâm một phút giây nào. Phải giữ gìn Thánh Giới Uẩn trong từng tâm niệm. Phải dùng tất cả những phương pháp con đã tập luyện để diệt trừ tâm niệm ác pháp khi chúng vừa xuất hiện. Diệt chúng càng sớm càng tốt, đừng để kéo dài 5, 3 phút là quá lâu, là vi phạm giới.
Đối với người đang tập luyện thì phải giữ gìn Thọ Giới Uẩn, phải luôn cẩn thận, thấy tâm niệm nào phạm giới thì phải phá trừ nó cho tan liền. Xác định được tâm niệm nào là phạm giới thì phải phá trừ để khỏi bị các hậu quả về sau làm cho ta bị phạm giới. Đây là căn bản tập luyện Thánh Giới Uẩn.
Thánh Giới Uẩn lúc nào cũng kèm theo Thánh Hộ Trì Các Căn, tức là các căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, là những cánh cửa mở tiếp xúc các pháp. Thánh Phòng Hộ là phòng hộ như Thánh để ác pháp không chiếm sáu căn của chúng ta. Tất cả ba cái: Thánh Giới Uẩn, Thánh Phòng Hộ Các Căn và Thánh Chánh Niệm Tĩnh Giác lúc nào cũng đi chung nhau, không thể thiếu một Thánh nào mà đạt thành kết quả được. Hiểu biết Thánh Giới Uẩn thì sẽ Thánh Phòng Hộ; phòng hộ muốn được thành đạt thì phải tập luyện Thánh Chánh Niệm Tĩnh Giác. Mà khi có được sự tĩnh giác của bậc Thánh thì phòng hộ các căn như là một bực Thánh; mà phòng hộ các căn theo bậc Thánh là giữ gìn được Thánh Giới Uẩn.
Con nhớ khi trở về trú xứ thì phải hoàn toàn sống độc cư mà tập luyện trọn vẹn cả ba Thánh đức hạnh này.
Khi được đọc “MƯỜI GIỚI ĐỨC THÁNH SA DI”, (Tập 1. Văn Hoá Phật Giáo Truyền Thống, Nhà Xuất Bản Tôn Giáo) con nghiên cứu để sống đúng Giới Đức. Khi hiểu Giới Đức thì giữ gìn hành động sống hằng ngày để bắt đầu thực hiện các pháp thiền định. Khi người ta nói Thánh hạnh như vậy như vậy thì lẽ ra phải đưa pháp hành ra theo để người tu sống cho được trong Thánh hạnh đó nhờ pháp hành. Nhưng vì không đưa pháp hành nên không ai sống tu đúng Thánh hạnh được.
Những pháp mà Thầy đã giảng dạy cho con tập luyện đều giúp thực hiện các Thánh đức hạnh này. Bây giờ con cần phối hợp để hiểu đây là Thánh đức hạnh nó như vầy như vầy, hằng ngày phải làm như vậy. Muốn làm được như vậy thì phải sống cho đúng, đừng vi phạm.
Từ đầu Thầy đã dạy 19 đề mục Định Niệm Hơi Thở và Thân Hành Niệm, những cái đó giúp cho con sống đúng Thánh hạnh, tâm hoàn toàn li dục li ác pháp. Sau khi đọc Mười Giới Đức Thánh Sa Di con sẽ biết giới đó là Thánh hạnh như thế.
Từ lâu nay con biết đức Phật cấm ca hát và nghe ca hát nhưng đâu hiểu giới đức này để làm gì. Nay mới biết đó là Giới Độc Cư. Một tu sĩ sống độc cư mà ca hát, nghe ca hát thì đâu còn sống độc cư; hay gõ mõ tụng kinh thì đâu còn trầm lặng.
Mục đích trầm lặng độc cư là để tâm không phóng dật. Đó là bí quyết thành công của thiền định.
Con tu hành mà không thực hiện pháp hành này thì tập luyện chỉ uổng công. Một ông Thánh mà ngồi ca hát thì không phải là ông Thánh rồi. Con có thấy ông Thánh nào ngồi ca hát không?
Đức Phật cấm uống rượu, không cho mình uống rượu là muốn cho mình có Thánh Hạnh Minh Mẫn. Một người minh mẫn thì không ham thích loại dục lạc đó cho nên không uống rượu. Trái lại, người đời thì ham thích say mê dục lạc, lấy rượu làm vui nên người ta gọi là tiên tửu. Thật sự làm gì có tiên tửu. Ở Trung Hoa có nhà thơ Lý Bạch, mỗi khi uống rượu say thì ông làm thơ rất hay cho nên người đời gọi ông là ông tiên. Thật sự ông ta đâu phải là tiên gì, chẳng qua ông chỉ là một “tửu thi sĩ”, rượu kích thích ông làm thơ hay. Ông ta chỉ là một phàm phu. Tiên có khi nào phạm giới tiên. Tiên cũng có giới luật của tiên chứ!
Ở trong giới, sống đúng giới, điều đó xác định phân biệt như thế nào là Phật, như thế nào là Thánh, như thế nào là Tiên. Không nắm vững giới luật thì không hiểu Phật là sao, Thánh là sao, Tiên là sao. Người ta chỉ tưởng tượng ra thôi. Có thể nào chăng trên trời còn nấu rượu Đào tiên để Tiên uống? Đó là do người ta hiểu sai thế giới của chư Tiên. Do ở đời cái tâm tham muốn không đáy, người ta tham muốn đủ thứ. Nếu trên trời mà còn có lòng tham muốn đủ thứ, muốn gì có nấy thì chắc chắn đó không phải là cõi tiên, không phải là chư Tiên. Tiên thì phải hết dục, chứ đâu còn nhiều dục quá vậy?
Vậy khi đã tu tập thì con phải giữ giới luật cho nghiêm chỉnh. Sống tu tập mà không giữ giới thì tập luyện không tới đâu hết. Giới là Thánh hạnh. Muốn tập luyện thiền định là muốn làm Thánh. Chỉ có Thánh mới có chánh thiền định. Phàm phu làm sao có chánh thiền định là thiền định của bậc Thánh được. Do vậy muốn đạt được chánh thiền định thì Thánh hạnh phải có. Cho nên giới luật của nhà Phật ai đụng đến cũng sợ hết, sống không đúng giới được. Nhưng mình muốn làm Thánh thì không sợ. Ôm toàn bộ giới đi vào. Vững vàng, chững chạc, chắc chắn, tự tin.
13.- Cách Ôm Pháp
Nếu trong lúc tập luyện ở giai đoạn đầu này mà có thọ khinh an thì nguy hiểm, không có lợi đâu vì nó thuộc tưởng. Đức Phật không chấp nhận 3 loại cảm thọ: thọ lạc, thọ bất lạc bất khổ, thọ khổ; chỉ chấp nhận pháp mà thôi, tức là sức tĩnh giác trên niệm thân hành của chúng ta. Nghĩa là niệm thân hành của chúng ta làm sao thì chúng ta phải tĩnh giác trên niệm thân hành đó là đúng, còn bất kỳ cái gì khác tới cũng không chấp nhận vì có thể bị sai. Bởi khi chấp nhận nó, nếu là thọ lạc sẽ sinh ra thích rồi ôm thọ lạc đó trong khi thọ lạc đó là tưởng thọ, nguy hiểm. Chỉ ôm pháp, biết rõ ràng pháp thôi (đi biết bước chân đi; Định Niệm Hơi Thở đề mục 1 biết hơi thở vô ra; đề mục 2 hay 3 biết độ dài độ ngắn của hơi thở; đề mục 4 biết cảm giác toàn thân,...), tức là ôm phao vượt biển; tất cả các cái khác chỉ là sóng, chỉ là gió. Dù sóng gió có đem tới an lạc cũng đừng vì vậy, ôm nó mà bỏ pháp. Thọ lạc làm chúng ta thấy an lạc, thích thú nên vừa vào thấy nó không niệm rồi chúng ta cho như vậy là đạt được, rồi ôm cảm thọ lạc này. Không phải vậy.
Đức Phật nói lấy pháp làm hòn đảo, pháp là chỗ nương tựa. Chúng ta nương tựa pháp, không nương tựa thọ lạc, thọ khổ, thọ bất lạc bất khổ. Khổ là đau nhức, mõi mệt, đi không nổi; thọ lạc thì thoải mái thích thú. Cả hai không nên ôm cái nào, chỉ ôm pháp thôi. Hãy nhớ kĩ điều này thì không bao giờ tập luyện mà bị lạc đường lạc lối, xa rời pháp.
Và điều quan trọng nhứt cần lưu ý là khi tập luyện thì phải ôm pháp; khi không tập luyện, ở trạng thái bình thường thì phải bình thường.
Điều này rất quan trọng, đây là lời Phật dạy Thầy đã ghi ra trong “Những Lời Phật Dạy”. Chính điểm này mà Thầy đã tập luyện trong 6 tháng được thành tựu Đạo Quả. Thầy không tu pháp thì ngồi giữ tâm thanh thản an lạc bất động nhìn trời, nhìn đất và tác ý hướng tâm: “Tâm thanh thản, an lạc, vô sự” và “Tâm như cục đất, li tham, li sân, li si ra!”. Thầy thường thường ngồi như vậy mà khi khởi có một niệm thì không để nó dừng ngang hay tác ý cho nó dừng mà suy tìm niệm đó xem nó có đúng đạo lý không, nghĩa là suy xét xem niệm đó có mang tính chất tham sân si, có mang tính chất thương ghét giận hờn không. Nếu có thì phải lập tức bỏ liền không được để trong tâm giây phút nào (tức xả tâm). Cứ như vậy mà 6 tháng thì Thầy thành công.
Tâm không còn niệm thì đó là tâm hết phóng dật, là thành công, không cần tập luyện các pháp kia. Cái này rất quan trọng. Nghĩa là tâm không ở pháp nào cho nên tâm bình thường như mọi người nhưng nó không phóng dật (tức nó tự động khộng khởi bất kỳ niệm nào, đó là tâm xả). Thường tâm ta có hai trạng thái, một là động, hai là tịnh. Khi có khởi niệm là động. Tịnh là không khởi niệm nhưng vì vậy mà rất dễ ngủ gật, ngồi ngủ mê (hôn trầm, thùy miên).
Bây giờ con an trú trong pháp, không phóng niệm phóng dật gì hết, nhưng tâm còn “bị pháp”. Nhưng nếu không luyện tập giai đoạn này thì giai đoạn quan trọng vừa nói trên con không xả được; vì vậy con phải tập các pháp đó. Giai đoạn sau cùng lúc tâm bình thường rất khó duy trì (duy trì tâm xả) nếu không tập luyện thật thuần thục các pháp của giai đoạn Tứ Chánh Cần này.
Con ngồi mà suy tìm đạo lý, xem tâm có công đức gì, tức thiện pháp, hay tâm có ác pháp nào tức là có dục, có tham ái. Có ác pháp thì ngăn, thì diệt, mà có công đức thì nhất định không nói. Nếu có ác pháp mà đuổi không được, nó cứ trở lui trở tới hoài, không chịu đi, là do còn có kiến chấp gì đó mà con không hiểu biết được thì phải mau mau tìm thiện hữu tri thức, tìm Thầy, để thưa hỏi, để được dạy cách thức đuổi ác pháp đó đi.
Cho nên cần hiểu nghĩa của câu: có lỗi lầm nào (tức là có ác pháp) thì phải phát lồ sám hối , tức đuổi mà nó không đi là chúng ta có lỗi lầm. Còn có công đức gì (tức là tập luyện mà thấy thanh thản an lạc vô sự) thì không nói ra cho ai biết hết, im lặng như Thánh. Đó là điều kiện giữ tâm. Như vậy đó, con sống bình thường chứ không có ôm pháp gì hết. Khi luyện rốt ráo các pháp 4 Chánh Cần rồi thì cũng phải từ pháp tâm bình thường này mà đắc Đạo, diệt tận lậu hoặc. Cho nên Thầy thường nói ngồi tựa cửa mà nhìn trời là tập luyện cái đó.
Thầy tu thiền Đông Độ mất 9 năm trời, đạt Thức Vô Biên Xứ mà không diệt được lậu hoặc. Thế mà chỉ mất 6 tháng ôm pháp này mọi lậu hoặc bị diệt tận, đắc được 3 Minh. Đó là kinh nghiệm chân thật. Đức Phật tu 6 năm khổ hạnh mà không giải thoát trong khi sau đó chỉ 49 ngày là 49 ngày tâm bình thường này thôi, không gì khác hết. Cho nên bài kinh rất ngắn gọn mà nói về kinh nghiệm tu rất thực tế. Qua kinh nghiệm tu của Thầy mới biết được như vậy.
Nhưng nếu không tập luyện các pháp kia, thí dụ như đức Phật không qua 6 năm khổ hạnh mà vào ôm pháp tâm bình thường này tập luyện thì không tập luyện nổi. Nghĩa là ngồi không mà ôm pháp thì bị ngủ gật, ngồi ngủ mê nên không đạt kết quả giải thoát được.
Ngồi không mà giữ độc cư, không tiếp duyên ai hết, rất dễ bị ngủ gật, ngủ mê. Ngồi một hồi là ngủ. Nếu tập luyện các pháp kia cho thật sự thuần thục một thời gian để phá ngủ gật, ngủ mê cho thật sạch thì ngồi mới tỉnh, ngồi không mới được.
Chín năm trời Thầy tập luyện pháp Tri Vọng lọt trong thiền tưởng rồi Thầy ngồi mới chịu nổi. Giờ con còn lơ mơ mà ngồi thì nó vật ngã liền. Cho nên con phải nỗ lực tập luyện trong những ngày này cho đến lúc đó, lúc đã TỈNH THỨC, con vô mới chịu nổi. Nghĩa là khi tâm bình thường mà nó bất động, chứ khi có ôm pháp thì bất động mà khi rời pháp thì nó động là chưa phải thời. Đó chỉ mới tĩnh giác thôi.
Con phải tập luyện đầy đủ hết các đề mục Định Niệm Hơi Thở, mới qua pháp này được.
14.- Ba Lần Tuôn Trào Tâm
Khi tâm vào 4 Niệm Xứ thì thấy tâm thanh thản an lạc vô sự. Sau đó sẽ trải qua ba giai đoạn tuôn trào của tâm, tức là những niệm ký ức ẩn chứa trong tâm, hiện bày trở lại. Có trải qua tuôn trào tâm thì mới vào được trạng thái kéo dài thời gian liên tục tâm không phóng niệm, không phóng dật. Chưa tuôn trào thì tâm không bao giờ hết phóng niệm phóng dật. Dù con có kềm chế mức độ mạnh mẽ thì nó chỉ không có niệm khi nào ở trong pháp tập luyện chứ xả ra thì có niệm liền. Còn trái lại khi tâm tuôn trào rồi thì bất cứ lúc nào, dù là khi ngồi thiền hay khi xả ra ngồi chơi tâm cũng vẫn im re, không có niệm nào.
Lần đầu khởi niệm liên tục độ một tuần. Mỗi niệm đều mang một lý lẻ để phá con tu tập. Nhưng nếu con giữ hạnh độc cư trọn vẹn thì sau thời gian tuôn trào đó nó tự nhiên quay vô ngưng lại, không tuôn nữa. Khi nó bắt đầu tuôn trào, nếu con tiếp tục giữ độc cư trọn vẹn, giữ tâm bất động, cứ để cho nó tuôn ra liên tục. Khi nó tuôn, con không buồn ngủ, cũng không mệt. Lúc đó đừng lo sợ, đừng lo lắng, cứ để tự nhiên cho nó tuôn, vì ta có làm gì, có tác ý dừng nó cũng không dừng. Nó cứ tuôn ra như vậy, nó lập đi lập lại các niệm đó nhiều lần cho đến cả tuần lễ thì ngưng. Khi ngưng rồi thì tâm trở nên im lặng, không phóng dật, không phóng niệm nữa. Im vắng, thích thú lắm.
Rồi chừng một tháng sau thì nó lại bắt đầu tuôn trào lần thứ hai. Lần này nó kéo dài ít hơn, độ 24 giờ hay 3, 4 ngày thì dứt. Cũng vậy, khi tâm dứt tuôn trào con thấy yên lặng thoải mái, luyện 4 Niệm Xứ thấy sung mãn, lúc nào tâm cũng ở trên thân hành, cũng ít buồn ngủ. Đây là lúc si bị phá. Hiện giờ con chỉ mới phá si ở tầng thô bên ngoài, chứ gốc si, mà kinh gọi là si tùy miên hãy còn nguyên vẹn. Chỉ tới lúc này si tùy miên mới bị phá.
Lần thứ ba của tuôn trào tâm thì nhanh hơn, độ chỉ trong vòng một ngày hay một đêm, hoặc cả một ngày đêm, 24 giờ thôi. Cũng không buồn ngủ. Thời gian này thì năng lực 7 Giác Chi xuất hiện đầy đủ dần. Và khi niệm dừng lại, trở vào, không tuôn trào phóng ra nữa thì cùng lúc toàn bộ năng lực đầy đủ của 7 Giác Chi xuất hiện. Con cảm thấy có thần lực lạ lùng, cơ thể thì nhẹ nhàng, sức lực nghe tràn đầy. Như con đưa tay ra thì cảm thấy tay nhẹ như bông chứ không cảm thấy nặng nề như trước. Lúc đó cơ thể rất nhẹ nhàng, rất thanh tịnh. Không thể diễn tả được trạng thái này đâu, khó nói đúng lắm.
Khi như vậy nếu con hướng tâm cái gì thì nó làm theo cái ấy liền. Đến lúc này con biết là con đủ lực rồi. Đủ lực tức là con có Định Như Ý Túc, thì đi vào 4 Định. Lúc bấy giờ muốn nhập Sơ Thiền thì con chỉ cần hướng tâm thôi.
Lúc đó con nên nhanh chóng về gặp Thầy. Nếu không đủ duyên về thì con nên như thế này: Để tâm cho nó tự nhiên muốn làm gì thì làm, cứ giữ tâm thanh thản thôi. Rồi từ trong 4 Niệm Xứ sung mãn đó con nhẹ nhàng hướng tâm vào các tầng Định theo các câu pháp hướng như trong kinh dạy thì nó dẫn con vào Định. Con không cần làm gì hết. Các Định nào nó chưa làm được thì bây giờ nó tự dẫn con vào Định, nó làm theo sự hướng tâm của con. Cho nên kinh nói nhập 4 Thánh Định: “Không khó khăn, không mệt nhọc, không phí sức”. Tâm con không còn phàm phu nữa. Nó li dục li ác pháp rồi. Nó bất động. Nó có hướng đi rõ ràng lắm, vì thế nó không đi sai đường. Tâm hoàn toàn thanh tịnh, sạch rồi nên nó dẫn con đi tới chỗ sâu xa, tới ba Minh, tới chỗ chấm dứt luân hồi.
Thầy cũng nhờ như thế mà đến chứ Thầy đâu biết làm thế nào. Cho nên Thầy biết khi đức Phật đến thăm ba vị tôn giả trong khu rừng Sừng Bò lần sau thì cả ba vị tu xong rồi chứ đâu có đợi đức Phật đến dạy đâu. Khi tập luyện 4 Niệm Xứ được sung mãn rồi thì Trạch Pháp Giác Chi sẽ tự động dẫn đường cho con đi.