Phần: Hiểu Biết Thêm Chung
LỜI TÂM TÌNH CÙNG PHẬT TỬ TRẺ
Kính gửi: Quý bạn thanh niên Tăng, Ni tuổi trẻ thân mến. Kính thưa các bạn! Hôm nay chúng tôi cùng các bạn trao đổi tâm tư và nguyện vọng đối với Phật giáo và tín đồ.
Các bạn đã từng học trong kinh sách Nguyên Thủy Nikaya thuộc tạng kinh Pali và kinh sách phát triển Hán tạng do các Tổ kiến giải biên soạn dịch ra và được kết tập trong Hán tạng. Gần đây quý bạn có dịp được đọc bộ sách Đường Về Xứ Phật của chúng tôi biên soạn, khiến cho các bạn hoang mang dao động giống như mình từ trên trời vừa rơi xuống.
Từ lâu quý bạn đã tin vào kinh sách phát triển và kinh sách Thiền Đông Độ, hôm nay bộ sách này đã làm đảo lộn toàn bộ tư tưởng của các bạn. Hiện giờ quý bạn sẽ không biết tin vào ai, không biết các Tổ đúng hay chúng tôi đúng? Các Tổ sai hay chúng tôi sai? Một câu hỏi rất lớn trong đầu của các bạn.
Kính thưa các bạn! Các bạn hãy bình tĩnh và suy tư cho đúng đắn đừng chủ quan mà hãy khách quan phán xét: Như Đức Phật đã dạy: “Lấy Giới luật làm Thầy.” Thầy ở đây quý bạn đừng hiểu theo nghĩa ông thầy, ông Tổ, mà phải hiểu theo nghĩa là người dẫn đường chỉ lối cho chúng ta đi không lạc bước vào nơi nguy hiểm, có hiểu được như vậy các bạn mới xác định được chúng tôi sai hay các Tổ sai. Các bạn đừng nghĩ rằng cái gì của thầy Tổ biên soạn và viết ra là đúng hết, đúng sao Đức Phật lại bảo chúng ta đừng tin gì của thầy Tổ, đừng tin gì của kinh tạng,… đúng sao thầy Tổ tu hành không giải thoát mà chết trong đau khổ như vậy.
Bởi vì một giới luật của Phật là một hành động đạo đức làm Người làm Thánh, hành động đạo đức làm Người làm Thánh là hành động thiện. Cho nên chúng ta giữ gìn được một giới luật của Phật là chúng ta đã tăng trưởng lên một điều thiện, tăng trưởng thêm một điều thiện là làm giảm bớt đi một điều ác, giảm bớt đi một điều ác là giảm bớt một sự khổ đau của mình của người, giảm bớt sự khổ đau của mình của người là giải thoát phải không hỡi các bạn? Như vậy giới luật của Phật là một vị Thầy của chúng ta, là người dẫn đường cho chúng ta đi trên lộ trình giải thoát, như vậy giới luật có xứng đáng là Thầy của chúng ta không hỡi các bạn?
Vì lợi ích cho con người như vậy, nên Đức Phật mới di chúc: “Lấy giới luật Ta làm Thầy, làm chỗ nương tựa tu hành vững chắc.” Lời di chúc này chắc các bạn không quên.
Đi tu, cuộc đời xuân trẻ và tương lai của các bạn bỏ xuống hết để vào chùa tu học, mong sao tìm cầu được sự giải thoát chân thật của cuộc đời mình, vô tình các bạn đã gặp thầy Tổ là những người đang sống phạm giới, phá giới, bẻ vụn giới tức là đã lìa xa người Thầy dẫn đường mình đi thì làm sao mình đi đúng đường hỡi các bạn?
Khi còn trẻ tuổi mới vào chùa tu học, chúng tôi cũng chẳng khác gì như các bạn bây giờ, thầy Tổ sống như thế nào, chúng tôi sống như thế nấy và dạy sao chúng tôi tu học như vậy, đâu có biết pháp nào sai, pháp nào đúng, luôn luôn đặt thầy Tổ trên đầu, trên cổ, những lời thầy Tổ dạy là vàng, là ngọc, là châu báu. Nếu chúng tôi không đủ may mắn thì cuộc đời tu hành của chúng tôi cũng chỉ hoài công vô ích và trở thành một ông thầy cúng, một giảng sư, một người lừa đảo có sách vở mà thôi.
Những người thầy giới luật không nghiêm túc hướng dẫn các bạn tu hành, các bạn có giữ gìn giới luật nghiêm túc được không? Hay lại phải sống theo như thầy Tổ của mình, phá giới, phạm giới, bẻ vụn giới v.v... các bạn không thể làm ngược lại được vì các bạn là đệ tử của họ, có nghĩa là các bạn cũng phải sống chạy theo dục lạc: ăn ngủ phi thời, phải ở trong chùa to Phật lớn, sống như những người giàu sang quyền quý. Cuộc sống như vậy còn nghĩa lý gì của giới luật, của phạm hạnh người tăng sĩ. Thiểu dục tri túc, ba y một bát, lấy gốc cây làm giường nằm, còn đâu nữa. Phải không hỡi các bạn?
Thầy Tổ của chúng ta hiện giờ ông nào cũng có cấp bằng tiến sĩ Phật học được đào tạo tại các trường Đại Học Phật giáo hữu danh như: Miến Điện, Ấn Độ, Nhật Bản, Đài Loan v.v… nhưng xét qua giới luật Phật thì thầy, Tổ của chúng ta người nào cũng không lấy giới luật làm thầy mà lấy sự học, lấy cấp bằng làm thầy. Có đúng như vậy không các bạn?
Như vậy đối với Phật giáo hiện giờ thầy Tổ đúng hay là chúng tôi đúng, nếu đem giới luật ra so sánh thì chúng tôi giữ gìn giới luật nghiêm túc, tâm ly dục ly ác pháp, nhập Tứ Thánh Định, tịnh chỉ được hơi thở làm chủ sự sống chết, chấm dứt luân hồi và thực hiện được trí tuệ Tam Minh, còn thầy Tổ của chúng ta chỉ có học để nói chứ không làm được. Vậy ai đúng thưa các bạn?
Bây giờ chúng tôi và các bạn tiếp tục phán xét lần thứ hai: thầy Tổ của chúng ta tu hành bằng cách ngày đêm tứ thời công phu tụng kinh, niệm Phật, lần chuỗi, cúng bái, tế lễ, cầu siêu, cầu an, cầu cho thế giới hòa bình, nhân sanh an lạc v.v... nhưng các bạn phán xét sự tu hành này có lợi ích thiết thực cho thầy Tổ và cho những người trên hành tinh này có hoà bình, có an lạc hay không? Các bạn cứ nghiệm xét lại xem những lời chúng tôi nói có đúng không hỡi các bạn?
Mọi người có an lạc không? Có tiêu tai thoát nạn không? Thế giới có hòa bình chăng? Chắc các bạn đã thấy rõ sự lừa đảo của kinh sách này. Thầy Tổ chúng ta đã hết mình tu tập và còn dạy bảo cho chúng ta hành trì. Ngày đêm tứ thời tụng niệm không biếng trễ, nhưng nào có lợi ích gì đâu các bạn.
Từ khi được gia nhập vào làng Phật giáo thì quý bạn thấy những pháp hành này có thực tế không? Hay chỉ là một trò lừa đảo, nay chùa này tổ chức tụng kinh Dược Sư cầu siêu cho các vong linh, mai chùa kia tổ chức tụng kinh Pháp Hoa cầu an cho bá tánh, cầu hòa bình cho thế giới để phật tử cúng dường tiền và thực phẩm, nhưng cuối cùng tiền ấy được bỏ vào túi của các thầy trụ trì tự do tiêu phí.
Kính thưa quý bạn thanh niên Tăng, Ni tuổi trẻ thân mến. Thưa quý bạn! Suốt 10 tập Đường Về Xứ Phật hơn 3000 trang giấy, các bạn đã được đọc và có cảm tưởng những gì về bộ sách này chăng? Các bạn có tư duy suy nghĩ và hiểu nỗi lòng của tác giả đã viết lên những trang sách này không?
Các bạn có biết chăng những trang sách này tác giả đã viết lên với tâm huyết và nguyện vọng làm sáng tỏ lại Phật giáo mà trên hơn hai mươi thế kỷ nay nó đã bị dìm mất. Các bạn có biết chăng? Những trang sách này tác giả đã viết lên với lòng thương yêu chân thành vì tín đồ Phật giáo trên hành tinh này đã, đang và sẽ hướng về Phật giáo với một lòng tha thiết cầu sự giải thoát nơi pháp mầu của đức Thế Tôn. Lòng tha thiết ấy đã thể hiện tâm nguyện của người cư sĩ qua những bức tâm thư gửi về tu viện bằng những giọt nước mắt chân thành tha thiết cầu khẩn chúng tôi trụ thế lâu dài để dìu dắt họ thoát khỏi những phong ba bão táp của kiếp sống làm người.
Ôi! Đời người nước mắt nhiều hơn nước biển, ở thế gian này không ai là không khóc một lần! Vì thế mà tiếng kêu tha thiết tận đáy lòng của những người con Phật, vì thời đại này mà tìm thấy một con người bằng xương bằng thịt cũng cha sanh, mẹ đẻ như mọi người khác, thế mà người ấy sống trọn vẹn đầy đủ giới luật đức hạnh làm người của Phật giáo. Vả lại người ấy còn có đủ năng lực thiền định làm chủ sinh, già, bệnh, chết, chấm dứt luân hồi. Người làm được như vậy trên đời này quá hiếm, khó tìm thấy được. Phải không các bạn?
Kính thưa các bạn! Phật giáo ra đời dạy người tu tập có đạo đức nhân bản làm người không làm khổ mình khổ người, lấy thiện pháp làm cuộc sống, luôn luôn ngăn ngừa và tận diệt các ác pháp để đem lại cho mình và cho mọi người sự an lạc, hạnh phúc, nên lúc nào cũng không còn làm khổ cho nhau nữa. Đấy là Phật giáo các bạn ạ! Một tôn giáo như Phật giáo dạy người có lối sống cao thượng và đẹp đẽ tuyệt vời, cớ sao các bạn lại lạm dụng nó, lại lấy nó làm danh làm lợi cho riêng cá nhân mình.
Một tôn giáo dạy người tu tập làm chủ sự sống chết, chấm dứt sự luân hồi tái sanh, hoàn toàn đưa dắt con người đến đỉnh cao của kiếp làm người không còn bị nô lệ nhân quả. Cớ sao các bạn lại nỡ tâm lợi dụng nó để lừa đảo tín đồ Phật giáo, mạo danh tu hành để học tập lấy cấp bằng này bằng nọ bằng tiền của, mồ hôi nước mắt của phật tử thay vì cha mẹ của các bạn phải có bổn phận trách nhiệm lo cho các bạn học tập, các bạn có thấy bất công không? Các bạn có thấy việc làm của các bạn là thiếu đạo đức không? Các bạn có thấy việc làm của các bạn là nguy hại cho Phật giáo biết là dường nào không?
Đạo Phật ra đời vốn để cho người ta tu tập làm người có đạo đức không làm khổ mình khổ người, chứ không phải ra đời để cho các bạn mượn nó học tập để làm danh, làm lợi, để nói láo lường gạt người. Các bạn có biết không?
Kính thưa các bạn! Các bạn đã có bằng tiến sĩ Phật học, các bạn thuyết giảng Phật pháp quá hay, nhưng nhìn lại đời sống của các bạn có hay ho chỗ nào đâu? Khi mà các bạn sống phạm giới, phá giới, bẻ vụn giới, sống không đúng phạm hạnh của một người tu sĩ, một bậc Thánh Tăng và Thánh Ni, các bạn có tự hổ thẹn chăng? Hay là các bạn hiu hiu tự đắc cho rằng mình có cấp bằng tiến sĩ, có học thức cao.
Kính thưa các bạn! Bằng tiến sĩ chỉ là một sự trang bị vừa đủ kiến thức chuyên môn cho các bạn hiểu về kinh điển Phật giáo qua những danh từ tưởng giải của các Tổ, chứ nó chẳng có ích lợi gì cho bản thân của quý bạn cả, cho nên nó chưa đúng nghĩa chân thật của Phật giáo thì lấy đâu căn cứ cho rằng các bạn thuyết giảng là đúng nghĩa Phật dạy. Bằng tiến sĩ Phật học chỉ là một mảnh giấy chứng nhận cho các bạn nói láo có sách vở mà thôi, chứ các bạn thử nhìn lại cuộc đời của mình, các bạn đã làm chủ được những gì cho cuộc sống bản thân của các bạn sanh, già, bệnh, chết và luân hồi chưa? Bằng tiến sĩ Phật học không giúp cho các bạn sự giải thoát chân thật của đạo Phật mà đưa đẩy các bạn vào hố sâu tội lỗi vì các bạn nói được mà không làm được, đó là một tội rất lớn, tội lừa đảo. Các bạn có biết không?
Kính thưa các bạn! Tại sao các bạn bỏ cha, bỏ mẹ, bỏ cả sản nghiệp cuộc đời của các bạn để đi tu, đi tu hay là đi tìm cơm ăn, áo mặc, bằng cấp? Nếu các bạn tu hành theo Phật giáo mà không tìm được sự giải thoát làm chủ sanh tử, luân hồi mà chỉ có cơm ăn áo mặc và cấp bằng, chùa to Phật lớn, xe cộ v.v... thì không xứng đáng các bạn ạ! Đừng lợi dụng Phật giáo mà sống như vậy thì không tốt đâu các bạn! Các bạn đã hại mình và hại Phật giáo rồi.
Ngoài đời còn biết bao nhiêu nghề nghiệp làm để sống thanh cao và đẹp đẽ. Làm chi cái nghề giảng sư nói láo, cái nghề tụng niệm cúng bái cầu siêu, cầu an v.v... mê tín lừa đảo. Cầu cúng như vậy làm sao có siêu được? Làm sao có an được? Thuyết giảng chỉ là nói suông, làm sao có giải thoát được? Còn bảo rằng các bạn có tứ thời công phu, ngồi thiền hoặc niệm Phật, lần chuỗi niệm chú, bắt ấn, thì các bạn hãy nhìn lại xem thầy Tổ của chúng ta công phu như vậy và bây giờ đến các bạn cũng tu tập như vậy có làm chủ sự sống chết được chưa?
Khi luật nhân quả đã chi phối đời sống của các bạn từng thời gian và từng không gian thì các bạn sẽ tránh đâu cho khỏi những tai ương họa khổ vì sự cầu an, cầu siêu của các bạn là một sự lừa đảo. Mà các bạn hành nghề đó là các bạn đã tự biết đó là nghề lừa đảo, nghề như vậy không tốt đâu các bạn ạ!
Các bạn có cấp bằng tiến sĩ Phật học, đó là giấy chứng nhận hành nghề giảng sư. Các bạn có tin rằng nghề giảng sư là nghề cao quý không? Không cao quý đâu các bạn, nó là nghề nói láo đó các bạn như chúng tôi đã nói ở trên, các bạn có tin chúng tôi nói không? Các bạn cứ suy ngẫm lại xem. Dạy người khác phải tu tập như thế này, như thế kia thì hết tham, sân, si, nhưng giảng sư có hết tham, sân, si chưa? Nếu chưa hết tham, sân, si thì đó có phải là nói láo không? Hay lấy câu trong kinh sách phát triển để che đậy sự nói láo của mình “Y pháp bất y nhân, y nghĩa bất y ngữ.”
Chúng tôi có một người bạn già, ông chuyên làm nghề thuyết giảng là Ủy Viên Hoằng Pháp Tỉnh Hội Phật giáo, ông thuyết giảng rất hay, nhưng bây giờ ổng ra sao các bạn có biết không? Ổng bị bán thân rồi các bạn ạ! Ăn ỉa đái có một chỗ, tiếng nói thì ngọng nghịu, thật là muôn vàn sự khổ đau để đền tội nói láo đấy các bạn. Lấy những gương đó chúng tôi xin các bạn hãy cảnh giác.
Kính thưa các bạn! Khi vào chùa tu thì phải tu như thế nào để được giải thoát thân tâm mình, trước là đền ơn chư Phật và ơn sanh thành dưỡng dục của mẹ cha, sau cùng ơn đàn na thí chủ. Nếu không tu được như vậy thì các bạn là trùng trong lông sư tử sẽ giết sư tử chết, nói một cách cho rõ hơn, nếu các bạn sống không đúng giới luật phạm hạnh thì các bạn là những người đã giết Phật giáo, “Giới luật còn là đạo Phật còn, giới luật mất là đạo Phật mất.”
Kính thưa các bạn! Theo chúng tôi thiết nghĩ, đạo Phật thà có ít người tu mà mỗi người tu là một vị A-la-hán sống đầy đủ những đức Thánh, làm gương sáng cho tín đồ hơn là số lượng quá đông mà toàn là sâu mọt thì tai hại cho cả đời lẫn đạo.
Kính thưa các bạn! Nếu thấy mình tu không nổi thì nên trả chiếc áo lại cho nhà chùa chứ đừng sống phá giới, phạm giới và bẻ vụn giới như: cất giữ tiền bạc, ăn ngủ phi thời, ở chùa to Phật lớn v.v... như vậy là không tốt cho các bạn, vì đó là các bạn đã tạo thêm tội lỗi cho mình và chính những hành động này các bạn đã giết chết Phật giáo. Các bạn hãy lượng sức mình, đừng nên tạo tội lỗi mà luật nhân quả sẽ không dung tha một ai cả.
Các bạn hãy nhìn xem các bậc tôn túc thầy Tổ của chúng ta trước khi chết phải chịu khổ đau muôn vàn, nên lấy đó làm gương, đừng nghĩ rằng làm phước làm thiện mà chuyển được quả khổ. Làm phước làm thiện của quý thầy, quý sư cô là tiền của mồ hôi nước mắt của người khác chứ quý thầy và quý cô không có bỏ ra một xu, một hào nào cả mà vẫn được danh từ thiện. Làm thiện như quý thầy và quý sư cô chỉ một thời gian ngắn để cầu danh nổi tiếng là nhà từ thiện. Các bạn có thấy sư cô Trí Hải không? Đi làm từ thiện mà chết trong tai nạn giao thông thật kinh khủng.
Kính thưa các bạn! Nghề duy nhất của người tu sĩ đạo Phật là nghề đi xin ăn. Đi xin ăn chỉ duy nhất ngày có một bữa, không xin tiền, không cất giữ vàng bạc châu báu, không để dành thực phẩm qua đêm, xin ngày nào ăn ngày nấy. Đó là một nghề đi xin ăn thanh cao, không phải vì ăn mà vì sự giải thoát ra khỏi sự tham ưu của cuộc đời. Không phải vì ăn mà vì sự làm chủ sanh, già, bệnh, chết; không phải vì ăn mà vì gieo duyên độ chúng sanh; không phải đi xin ăn như những kẻ phàm phu tục tử chỉ biết cơm ăn và tiền bạc v.v…
Người đi xin ăn thì lấy tiền đâu mà làm từ thiện. Vây mà tu sĩ đi làm từ thiện có đúng không thưa các bạn? Ngày xưa Đức Phật có làm từ thiện theo kiểu này không? Bây giờ các bạn đi tu mà không hành nghề chân chánh của bậc Thánh Tăng và Thánh Ni mà lại hành nghề của kẻ phàm phu tục tử như:
1, Các bạn học nghề đông y để hành nghề cứu dân độ thế, đó là nghề làm Bồ Tát.
2, Các bạn học nghề Ứng Phú đạo tràng để cúng bái tụng niệm cầu siêu, cầu an, cúng sao giải hạn xem ngày giờ tốt xấu, cũng là nghề làm Bồ Tát.
3, Nghề làm tương chao, nghề làm nhang, nghề đương đát, nghề trồng trọt cây trái rau cải, nghề nông v.v… đó cũng là nghề làm Bồ Tát.
4, Nghề dạy học, nghề y tá, nghề bác sĩ, nghề bán thực phẩm chay v.v... đó cũng là nghề làm Bồ Tát.
5, Nghề giảng sư, nghề làm trụ trì v.v… cũng là nghề làm Bồ Tát.
Kính thưa các bạn! Hôm nay các bạn đi tu theo đạo Phật mà các bạn không học cái nghề giải thoát của Phật mà lại đi học cái nghề làm ra tiền, làm ra của cải tài sản thì ở ngoài đời người ta không làm những nghề này sao?
Vì sự sống theo danh và lợi nên dù nghề có ác, có gian xảo người ta vẫn làm, còn các bạn là tu sĩ tìm tu để được giải thoát, chứ đâu phải người đời mà phải đi học những nghề thế tục như vậy sao? Các bạn hành những nghề nghiệp này thì con đường tu của các bạn sẽ đi về đâu? Hay chỉ lo cơm ăn áo mặc thì còn có nghĩa lý gì của cuộc đời tu hành của các bạn.
Với mục đich tìm tu giải thoát và mục đích ấy không còn nữa phải không hỡi các bạn? Các bạn đã đi lạc hướng rồi, từ đây các bạn chỉ còn làm nô lệ cho ăn, ngủ, danh và lợi, cuộc đời của các bạn mượn chiếc áo đạo tạo cuộc sống đời đâu còn gì ý nghĩa của sự giải thoát chân chánh đạo Phật. Các hành nghề như vậy các bạn đã phạm giới, các bạn có biết không? Các bạn hãy đọc lại giới kinh Phạm Võng thì sẽ rõ, Các bạn sẽ là trùng trong lông sư tử đấy.
Kính thưa các bạn! Sự tu hành của các bạn chỉ còn là chiếc áo cà sa và cái đầu cạo trọc chứ đâu còn ý nghĩa gì giải thoát. Miệng nói giải thoát mà tâm không giải thoát chút nào, miệng nói thiền định mà chẳng biết thiền định như thế nào? Cho nên ngài Thường Chiếu bảo: “Một con chó sủa thì một bày chó sủa theo.” Hiện giờ các bạn cũng vậy, các Tổ nói sao thì các bạn cũng rập khuôn nói như vậy, đúng là các bạn đang nhai lại bã mía của người xưa. Thật là buồn cười cho cuộc đời tu hành của các bạn. Tu như các bạn sẽ đi về đâu? Rủ nhau các bạn đang đi xuống địa ngục, vì tội lừa đảo.
Kính thưa các bạn! Các bạn tuổi còn trẻ, là những mầm non của Phật giáo, tương lai của các bạn còn dài và sáng chói huy hoàng. Nếu các bạn tu hành theo đúng pháp môn “Giới, Định, Tuệ”, con đường chân chánh của đạo Phật thì mọi người ai ai cũng kính trọng và tôn quý các bạn. Và chính bản thân các bạn cũng tìm thấy được cứu cánh giải thoát nơi thân tâm và cuộc sống của các bạn một cách rõ ràng và cụ thể, các bạn có một cảm giác hạnh phúc vô cùng. Và hơn thế nữa các bạn còn có một năng lực mầu nhiệm làm chủ được sự sống chết rõ ràng bằng pháp Như lý Tác ý. Và còn hơn thế nữa, các bạn sẽ bắt gặp những hình ảnh và âm thanh của thời quá khứ xa xưa còn lưu lại trong không gian.
Một điều quan trọng nhất là các bạn làm sáng tỏ lại nền đạo đức của Phật giáo, sống không làm khổ mình khổ người, đó là đời sống phạm hạnh của các bạn, các bạn nên nhớ kỹ phạm hạnh là hành động sống hằng ngày của các bạn, hành động ấy là gương hạnh đạo đức để mọi người soi, hành động ấy là gương hạnh buông xả, nhờ đó tâm các bạn ly dục ly ác pháp. Tâm ly dục ly ác pháp là tâm không phóng dật. Tâm các bạn tự nhiên không phóng dật là các bạn đã thành Chánh Giác, đã chứng đạt chân lý.
Lúc sắp vào Niết Bàn, Đức Phật đã bảo với chúng ta: “Ta thành Chánh Giác là nhờ tâm không phóng dật.” Nếu muốn tâm không phóng dật thì các bạn phải nghiêm trì giới luật, luôn sợ hãi những lỗi nhỏ nhặt. Và hằng ngày trên Tứ Niệm Xứ các bạn tu tập Tứ Chánh Cần, ngăn ác diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện Pháp. Chúng tôi bảo đảm với các bạn, các bạn sẽ đủ khả năng làm chủ sự sống chết của các bạn ngay trong đời sống này.
Phật pháp không có chi nhiều, chỉ có bấy nhiêu đây, nhưng phải với nhiệt tâm, nhiệt huyết, dũng mãnh, can đảm, bền chí, siêng năng, kiên cường v.v… thì đạo giải thoát không còn khó khăn nữa.
Đến đây xin dừng bút, thân ái chào các bạn, chúc các bạn vượt qua những khó khăn trong giai đoạn Phật giáo suy đồi, bóng ma vương đang phủ trùm vạn pháp.
Kính ghi
Tu Viện Chơn Như
Ngày 02 tháng 3 năm 2001
1. LÒNG THA THIẾT CẦU XIN THẦY ĐỪNG BỎ CÁC CON
Hỏi: Kính thưa Thầy, thưa cô Diệu Quang, chúng con cũng như tất cả chúng sanh muôn người như một, khi đã được đọc sách của Thầy, biết rõ chánh pháp của Phật, chúng con đều thầm ước nguyện rằng như bác cư sĩ H.N.H tác giả cuốn sách Tâm Nguyện có chỗ bác ấy viết: Chúng con mong Thầy ở lại mãi mãi với chúng con để chúng con có bè sang sông giải thoát, kẻo không thì sẽ chìm cả đám, vì lông cánh chúng con còn yếu quá. Vả lại chúng con gặp được pháp của Thầy quá muộn màng. Chúng con xin Thầy ở lại để dìu đắt chúng con cho đến ngày giải thoát.
Thầy ơi! Chúng con còn đang chơi vơi giữa hai dòng nước: Một là dòng nước thế gian và một là dòng nước pháp, hai tay còn nắm cả hai dòng nước thì làm sao lên bờ được, có phải thế không thưa Thầy? Vậy chọn lấy một dòng nước pháp, đó là bến bờ “vô ngã, vô lậu” và “minh.” Phải chia tay với dòng nước khổ đau, sanh ra muôn vàn thứ đau khổ và muôn kiếp luân hồi. Phải mạnh dạn lên như con cá nhảy ra ngoài vũ môn thì mới thực hiện được ước mơ làm chủ sanh tử luân hồi khổ đau. Có phải thế không thưa Thầy?
Trước lúc ra đi vào giai đoạn II, con xin lấy gia đình làm nơi xả và ứng dụng các pháp hướng để cho tâm được như đất và sửa những tính tình xấu xa đen tối của mình cho thanh tịnh thì con sẽ xin về gần Thầy, gần cô để Thầy và cô hướng dẫn cho con đi về bến bờ giải thoát. Con xin phép hạ bút.
Đáp: Tiếng kêu gọi tha thiết từ trong tận đáy lòng của các con mong muốn Thầy trụ thế lâu dài để dẫn dắt các con đi đến tận cùng bờ giải thoát. Các con có biết chăng? Thân nhân quả là thân đau khổ, là ổ bệnh tật, con người mang thân này như mang gông cùm có gì là hạnh phúc, đi đâu mang theo cái thân này như mang cả núi Thái Sơn.
Người phàm phu xem thân là quý trọng, luôn luôn trau dồi làm cho thân đẹp đẽ, ăn uống bồi bổ nuôi dưỡng thân, khiến thân mập mạnh khỏe, do thân mập mạnh khỏe sanh ra nhiều dục, do nhiều dục mà tạo ra nhiều ác pháp, do nhiều ác pháp nên con người phải chịu muôn vàn khổ đau, cho nên nguyên nhân là vì quá quý trọng thân nên đã tạo cho tâm hồn khổ đau. Mỗi lần có bệnh đau là sợ thân chết, do sợ thân chết nên tâm buồn bã, lo lắng, khổ đau.
Khi tu xong Thầy cảm thấy bỏ thân này sớm chừng nào tốt chừng nấy. Năm 1980, Thầy về thăm Hòa Thượng Thanh Từ được Hòa Thượng Thanh Từ trắc nghiệm bằng công án Thiền Tông:
- Ba cân gai là gì?
- Bạch Thầy: Lá cây rung trước gió.
Hòa Thượng Thanh Từ gật đầu. Lúc bấy giờ Thầy quỳ xuống xin Hòa Thượng cho Thầy nhập Niết Bàn
Hôm nay các con được đọc bộ sách ĐVXP, thấy rõ đường đi và cách thức tu tập của Phật giáo và những cái sai của kinh sách phát triển và Thiền Tông là nhờ ơn đức của Hòa Thượng, Người đã giữ Thầy ở lại để giúp Người chấn hưng Thiền Tông Việt Nam, trước lòng tha thiết của Hòa Thượng, Thầy ở lại. Nhưng 20 mươi năm chịu nhiều cay đắng và khổ đau vì các pháp bên ngoài và thân tứ đại vô thường, nếu không có nội lực vững vàng thì Thầy đã bị ngã gục trước các ác pháp cay nghiệt.
Đối với các con hiện giờ được gặp pháp môn chân chánh của Phật giáo và tu tập có lợi ích thiết thực như ngày hôm nay là công ơn của Hòa Thượng rất sâu dày. Đối với các con hiện giờ có được học và sống trong đạo đức nhân bản nhân quả không làm khổ mình khổ người, thường mang đến hạnh phúc an vui cho mình cho người thì công ơn của Hòa Thượng không thể nào quên được. Tại sao vậy?
Khi Thầy tu xong, Hòa Thượng khuyên Thầy nên đọc lại toàn bộ kinh sách Đại Thừa, Thiền Tông, kinh sách Nguyên Thủy và lịch sử Phật giáo. Suốt hơn hai năm trời, dùng trí tuệ ly dục ly ác pháp quan sát toàn bộ kinh sách của Phật giáo hiện giờ như núi, như rừng. Thầy đã phát giác ra được tất cả những điều sai trái, mê tín, dị đoan, phi đạo đức và mâu thuẫn trong kinh sách, nhất là kinh sách phát triển thì sự sai trái lừa đảo lường gạt tín đồ lại nhiều hơn, biến thành một truyền thống phong tục mê tín từ những người tri thức đến những người bình dân ít học.
Nhờ đó hôm nay các con mới biết được sự thật của Phật giáo, nếu không có Hòa Thượng sách tấn Thầy trên bước đường tu tập thì làm gì có ngày nay Thầy dám nói ra sự thật, dám nói ra sự thật là nhờ lời dạy của Hòa Thượng: “Phật pháp còn là còn người tu chứng.”Tóm lại công ơn của Hòa Thượng đối với các con rất sâu dày:
1, Khuyên Thầy ráng tu tập để cho Phật giáo được trường tồn, cũng giống như hiện giờ Thầy khuyên các con: ráng tu hành vì lợi ích cho mình cho mọi người trên hành tinh này và cho tất cả chúng sanh.
2, Khuyên Thầy ở lại giúp Hòa Thượng chấn hưng Thiền Tông Việt Nam.
3, Khuyên Thầy đọc lại kinh sách để xây dựng Thiền Tông Việt Nam theo đúng đường lối Phật giáo.
Sau khi bộ sách Đạo Đức Làm Người được ra đời, đến với các con thì Thầy xin trả chiếc thân cát bụi này cho cát bụi, chừng ấy các con đã có người thay thế Thầy để dìu dắt các con trên đường giải thoát mà không còn sợ sai lệch. Hiện giờ Thầy biết lúc nào đi, lúc nào ở, các con hãy yên tâm, Thầy không bỏ các con giữa đường đâu.
Khi Thầy mất đi là thầy đã thoát ra khỏi cái thân thường đau khổ này như thoát ra khỏi ngục tù, như vậy các con phải vui, phải mừng mới đúng, mới thương Thầy. Còn các con khóc, các con buồn là không thương Thầy phải không? Vì mang chiếc thân này khổ lắm các con ạ! Rời khỏi nó là một sự an vui vô cùng vô tận. Vì thế, các con nên vui đừng buồn, buồn là ác pháp các con ạ! Như vậy các con buồn là không xứng đáng là con của Thầy, phải thanh thản an lạc xem như không có việc gì xảy ra. Bởi vì các con phải hiểu luật nhân quả tuần hoàn, “Nước đi ra biển lại mưa về nguồn.”
Vài hàng thăm và chúc các con vui mạnh tu tập xả tâm tốt.
Kính thư
Thầy của các con
2. TRẦN NHÂN TÔN
Chơn Như ngày 21 tháng 1 năm 2001
Kính bạch Thầy, con xin đê đầu đảnh lễ Hòa Thượng ba lạy, cúi mong Hòa Thượng từ bi hoan hỷ chỉ dạy cho con được ân triêm công đức.
Do nhiệt tâm cầu pháp có chút duyên lành từ nhiều kiếp. Nguyên do như thế con đã đón nhận bốn quyển sách ĐVXP và hai quyển Cầm nang Tu Phật của HT giảng dạy, từ một người bạn đưa cho con.
Lúc đầu con thấy tâm trạng bàng hoàng như người chới với giữa dòng sông pháp. Thật vậy, cũng bởi nghiệp ác gây tạo từ nhiều kiếp trước, cho nên quả báo kiếp này sinh ra đời gặp 20 điều khó như trong kinh Tứ Thập Nhị Chương dạy: “Được làm người khó, làm đàn ông khó, gặp Phật khó, gặp chánh pháp khó, gặp minh sư khó v.v...”
Phàm phu thức ám, nghiệp tập sâu dày (vô minh) ngăn che. Pháp Phật thì nhiều không lường khó thấy, chân giả lẫn lộn, chẳng biết đâu là cây tùng, đâu là cỏ dại.
Từ năm 1996 đến nay con hằng tu theo pháp môn tu thiền, tu tập tại gia dưới sự chỉ giáo của HT Thích Thanh Từ tại tu viện Trúc Lâm (Đà lạt). Qua nghiên cứu hai pháp môn của hai Hòa Thượng, theo thiển nghĩ riêng con, con thấy có nhiều điểm tương đồng, có chăng chỉ khác trên danh từ và pháp hành mà thôi. Bởi HT Thanh Từ là đệ tử của HT Thiện Hoa. Mà trong những quyển ĐVXP của HT lại hay dùng những câu pháp của HT Thiện Hoa áp dụng giảng dạy, cho nên một điều an ủi tự bảo với con rằng: “Tuy chưa gần nhưng cũng chẳng phải xa lạc...” Pháp môn tu thiền HT Thanh Từ khơi nguồn từ đời nhà Trần (vua Trần Nhân Tôn). Quyển Thánh Đăng Lục nói về năm vị vua thời Trần.
Vua Trần Nhân Tôn viên tịch, trà tỳ thu xá lợi loại to bằng hạt ngô được 500 viên, loại nhỏ thì vô kể. Lúc lâm bệnh Ngài nói: “Trong người bốc nóng, mồ hôi ướt đẫm, chỉ có cái khố mẹ sanh chưa hề ướt.”
Ngài hỏi Bảo Sái: “Bây giờ là mấy giờ? Giờ Tý là giờ Ta đi.” Như thế Ngài đã làm chủ sanh, già, bệnh, chết chưa?
Nhắc lại mười điều Phật dạy: “Chớ nên tin …?” Con bâng khuâng? Song có một điều là Ngài đã từ bỏ ngai vàng, điện ngọc, vợ con thê thiếp, dứt áo ra đi lên núi Yên Tử xuất gia tu Phật. Điều đó chắc chắn có thật. Qua đấy Ngài đã làm chủ được cuộc sống (sanh y).
Đáp: Câu hỏi này có ba ý: 1, Xá lợi của Trần Nhân Tôn; 2, Biết giờ chết; 3, Bỏ cung vàng điện ngọc, thê thiếp, vợ đẹp con xinh, v.v…
Để trả lời câu thứ nhất về Xá Lợi, Thầy đã trả lời trong tập 9 ĐVXP rất kỹ, đó là lối lừa bịp của Thiền Đông Độ (để lại nhục thân, xá lợi). Phật tử nên đọc lại thì sẽ rõ sự lừa đảo này. Thầy có một người cháu con của một người anh ruột, cháu năm nay mới 19 tuồi ở thành phố Hồ Chí Minh, cháu không biết tu hành là gì cả, bị nghiện thuốc phiện mà chết, đem thiêu xác thì những mảnh xương vụn không cháy hết còn quá nhiều. Như vậy xá lợi đâu có nghĩa lý gì cho đường tu tập, nó chỉ là những mảnh xương vụn bất tịnh không có giá trị gì cả, chứ không phải chỉ có người tu thiền mới còn những xương này. Xá Lợi không phải là những hạt kim cương đâu con ạ!
Để trả lời câu thứ hai về sự làm chủ sanh, già, bệnh, chết của vua Trần Nhân Tôn.
Chúng ta đọc sử về tôn giáo (Thiền phái Trúc Lâm) của Trần Nhân Tôn, chúng ta không tìm thấy ở Trần Nhân Tôn có một sự tu chứng thiền định làm chủ sanh, già, bệnh, chết thật sự như Phật. Sự chứng thiền của Ngài là chứng ngộ các công án thiền chứ không phải chứng thiền định làm chủ sự sống chết như thiền định của Đức Phật ngày xưa. Nếu quý vị nghiên cứu không lầm thì thiền phái Trúc Lâm là một mô hình rập khuôn theo Thiền Tông Trung Hoa, từ thơ văn đến công án không có gì là mới lạ, chỉ có pha trộn nghi thức tụng niệm sám hối giống như Tịnh Độ Tông nhưng Việt hóa nghi thức ấy.
Ngài biết giờ chết chứ không làm chủ giờ chết. Một nhà Nho họ không tu thiền định gì cả, nhưng họ chỉ sống đúng đức hạnh của Nho giáo: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, đến khi chết họ vẫn biết ngày giờ vì họ sống trong thiện pháp. Một nông dân sống cần cù làm ăn lương thiện không tham lam trộm cắp của ai thường sẵn lòng giúp đỡ những người bất hạnh khác trong xã hội, đến khi sắp chết ông đi thăm mọi người, từ giã bà con quyến thuộc rồi về nhà đêm đó ông ngủ và chết luôn.
Nhà Nho và ông nông dân biết ngày giờ chết của mình là vì họ sống trong thiện pháp, tâm hồn thanh thản nên trực giác báo cho ông biết cái chết của mình.
Ông ngoại của Thầy là một ông đồ nho, trong cơn bệnh ngặt nghèo ông xem sách âm dương ngày giờ xung khắc hay hòa hợp và xác định tháng, ngày và giờ chết của ông cho những người thân biết. Đến khi chết ông đã xác định đúng, như vậy không sai một tí nào cả. Đây là biết giờ chết chứ không phải làm chủ giờ chết. Cho nên Trần Nhân Tôn biết giờ chết qua trực giác tưởng của mình mà thôi chứ không làm chủ sự chết, bên Tịnh Độ ngài Từ Vân cầu nguyện trong sám Từ Vân:
“Cầu cho tôi chết biết ngày
Biết giờ, biết khắc, biết rày tánh linh,
Cầu cho bệnh khổ khỏi mình,
In như thiền định họ Bàng thuở xưa.”
Các nhà Tịnh Độ chỉ cầu cho mình khi chết biết ngày, biết giờ là họ quá mãn nguyện, nhưng họ không biết cách sống như thế nào để đạt được ước nguyện ấy. Vì thế đôi khi các nhà tu Tịnh Độ cũng có người chết biết được ngày giờ chết của mình, nhưng cũng có nhiều người chẳng biết được gì cả, vẫn mờ mịt như đi trong đêm tối. Một nhà Nho, một nông dân không ước nguyện, không cầu mong mà họ chỉ sống đúng đạo đức làm người, đến khi chết họ cũng biết được ngày giờ chết của họ.
Trần Nhân Tôn trước khi chết biết được giờ có gì là lạ đâu. Biết giờ chết đâu có nghĩa là làm chủ sanh, già, bệnh, chết. Vì thế, chúng ta thấy Ngài không có sử dụng thiền định làm chủ sanh tử trước giờ phút lâm chung như Đức Phật.
Để trả lời về sự bỏ ngai vàng thê thiếp của Trần Nhân Tôn. Đúng là Trần Nhân Tôn là một vị xuất gia “cạo bỏ râu tóc đắp áo cà sa, sống không gia đình, không có nhà cửa”, nhưng Ngài không phải là du tăng khất sĩ, không ba y một bát, không lấy gốc cây làm giường nằm, tâm hồn chưa phóng khoáng như hư không, chưa trắng bạch như vỏ ốc, vì còn lấy đỉnh Yên Tử làm đài quan sát để bảo vệ Tổ quốc. Như vậy vua Trần Nhân Tôn là một nhà đại chánh trị biết lấy núi Yên Tử làm quan sát đài để giữ gìn biên cương lãnh thổ, biết lấy tôn giáo làm tinh thần chiến đấu của toàn dân toàn quân để bảo vệ Tổ quốc quê hương. Bằng chứng là ba lần quân Nguyên xua quân đánh nước ta là ba lần chiến bại.
Vua Trần Nhân Tôn là một nhà đại chánh trị chứ không phải là một nhà đại tôn giáo, biết lấy mình sử dụng tôn giáo đúng cách để giải quyết nội bộ gia đình và đoàn kết toàn dân trong tinh thần Thiền Tông Phật giáo để chiến đấu với giặc mạnh (quân Nguyên) bảo vệ Tổ quốc quê hương. Vì thế sự ly gia cắt ái xuất gia tu hành của Ngài khác hơn Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Ngài biết lấy tôn giáo lãnh đạo đất nước, đem lại hòa bình cho quê hương, Ngài là một anh quân sáng suốt của dân tộc Việt Nam, biết hy sinh sự hưởng thụ cá nhân của mình để lo cho dân cho nước.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni bỏ cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con thơ, đi tìm sự giải thoát bốn sự đau khổ của con người. Ngài sống đời khổ hạnh lấy gốc cây làm giường nằm, thiểu dục tri túc, ba y một bát, tâm hồn trắng bạch như vỏ ốc, phóng khoáng như hư không, không còn lo việc nước việc nhà, là một du tăng khất sĩ rày đây mai đó, vì thế không có chùa to Phật lớn, đi xin ăn từng nhà, từng bữa. Ngài là ân nhân của nhân loại, của con người trên hành tinh này, Ngài không phải của riêng của một nước nào vì Ngài để lại cho thế gian Bốn Chân Lý của loài người. Trong bốn chân lý ấy có một chân lý là chương trình giáo dục đạo đức nhân bản – nhân quả sống không làm khổ mình khổ người để xây dựng hành tinh sống này trở thành Thiên Đàng, Cực Lạc.
Vua Trần Nhân Tôn thì khác, dám bỏ ngai vàng điện ngọc thê thiếp để thành một vị tu sĩ Phật giáo là vì gia đình và Tổ quốc, là vì toàn dân Việt Nam phải thoát ra khỏi ách thống trị của ngoại bang. Ngài hy sinh cá nhân hưởng thụ trong cung vàng điện ngọc để bảo vệ được gia đình và Tổ quốc. Vậy các nhà sử học hãy nghiên cứu kỹ có đúng vậy không? Chúng tôi là những người tu sĩ Phật giáo thấy sao nói vậy, đứng trong tôn giáo Phật giáo mà nhìn ra phán xét cái sai cái đúng của Phật giáo chứ chúng tôi chẳng phải là nhà sử học nên không dám phán xét ai cả. Chúng tôi nói thẳng là vì Phật giáo phải được chấn chỉnh lại cho đúng để tránh khỏi mọi người nghi ngờ Phật giáo thế này thế khác mà tu hành chẳng ra gì
Vua Trần Nhân Tôn là một nhà chánh trị đại tài như chúng tôi đã nói ở trên, biết lấy mình làm tôn giáo để đoàn kết tinh thần toàn dân bảo vệ quê hương Tổ quốc trước giặc ngoại xâm mạnh như vũ bão. Vì thế, khi Nhà Trần bị diệt thì phái Thiền Trúc Lâm cũng suy vi và bị diệt theo, chỉ có một thời vang bóng “Trúc Lâm Tam Tổ.”
Xưa Đức Phật dạy mười điều: “chớ có tin …”. Bây giờ cư sĩ đã rõ được nguyên nhân bỏ cung vàng điện ngọc … của vua Trần Nhân Tôn cũng như Trần Cảnh (Trần Thái Tôn) vì trong gia đình bất an mà đi tu chứ không phải tìm đường thoát khổ như Đức Phật. Tam Tổ Trúc Lâm chưa có một vị nào làm chủ sanh, già, bệnh, chết như Phật, chỉ sống trong tưởng tri Thiền Tông: “Trong người bốc nóng, mồ hôi ướt đẫm, chỉ có cái khố mẹ sanh chưa hề ướt.” Đó là một công án của Thiền Tông giống như câu nói của Lục Tổ Huệ Năng: “Chẳng niệm thiện niệm ác bản lai diện mục hiện tiền của Thượng Tọa Huệ Minh.”
Lời Phật dạy:
“Ai quá, hiện, vị lai
Không một sở hữu gì
Không sở hữu, không nắm
Ta gọi Bà La Môn”.
Kinh Pháp Cú Phẩm Bà La Môn.
Giảng nghĩa:
Bốn câu kệ trên đây để xác định một vị tu sĩ Phật giáo giữ đúng Thánh hạnh mà ngày xưa Đức Phật thường xem mình như một Bà La Môn nghiêm trì giới luật không hề sai phạm.
Câu kệ thứ nhất dạy: “Ai quá, hiện, vị lai.” Có nghĩa là người tu sĩ nào trong ba thời gian quá khứ, vị lai và hiện tại sống không có của cải tài sản, sống không gia đình, không nhà cửa, đời sống luôn luôn thiểu dục tri túc, chỉ có ba y một bát, tâm hồn trắng bạch như vỏ ốc, phóng khoáng như hư không. Đó là Phạm hạnh của người tu sĩ Phật giáo. Người sống đúng Phạm hạnh như vậy mới được gọi là Bà La Môn.
Vì thế câu kệ thứ hai đã xác định điều này: “Không một sở hữu gì.” Cho nên người tu sĩ không có của cải tài sản, không có gia đình, không có nhà cửa thì không có sự ràng buộc, không bị dính mắc. Do không bị tài sản, của cải ràng buộc, dính mắc thì đó là giải thoát các bạn ạ! Giải thoát phần thô về vật chất. Nếu phần vật chất đã lìa xa thì phần nội tâm quét cũng không còn khó khăn. Hai phần này gom lại là tâm đã ly dục ly ác pháp. Tâm ly dục ly ác pháp là tâm không phóng dật. Tâm không phóng dật là tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ.
Cho nên câu kệ thứ ba dạy: “Không sở hữu, không nắm.” Người tu sĩ tu tập mà đạt được tâm bất động như vậy thì Đức Phật mới gọi là Bà La Môn. Một vị tu sĩ Bà La Môn mà được Đức Phật chấp nhận là phải có những tiêu chuẩn hẳn hoi như trên đã nói. Các bạn có nhận xét điều này không? Bởi vậy trong thời đại này, nhìn các tu sĩ Phật giáo trong các hệ phái khác nhau thì chúng ta biết rõ Phật giáo đã bị chia chẻ tan nát.
Chia chẻ từ hình thức ăn mặc cho đến tinh thần giáo pháp, nhất là Đại Thừa Phật giáo tự vỗ ngực xưng mình có 84 ngàn pháp môn. Có 84 ngàn pháp môn, nếu ai chấp vào pháp môn nào thì có thể chia ra làm nhiều hệ phái khác nữa. Và như vậy Phật giáo còn gì gọi là đoàn kết, giáo lý của Phật chỉ là những pháp môn góp nhặt. Đó là nói lên sự suy yếu rất lớn của Phật giáo.
Phật giáo chỉ có một pháp môn duy nhất, đó là Đạo Đế. Đạo Đế là một chân lý trong bốn chân lý bất di bất dịch của đạo Phật, không ai có thể thay đổi được. Thế mà bây giờ lại có tám mươi bốn ngàn pháp môn thì các bạn nghĩ sao. Có đúng là pháp môn của Phật không?
Ngày xưa tu hành Đức Phật không có tham vọng như các Tổ ngày nay. Ngài tự thấy mình là một Bà La Môn, một Bà La Môn sống có đạo đức, không mê tín, không cúng bái, cầu siêu, cầu an, v.v... không lừa đảo người trước mặt cũng như sau lưng, chỉ tu hành sống đúng Phạm hạnh, nhờ đó Ngài mới tìm thấy có sự giải thoát rõ ràng, cụ thể. Cho nên trong kinh Pháp Cú, Ngài thường nhắc nhở các vị tỳ-kheo nào sống đúng giới luật thì người ấy được gọi là Bà La Môn chân chánh, còn những vị nào sống không đúng giới luật, phá giới, phạm giới thì Đức Phật gọi là Bà La Môn ngoại đạo.
Trong thời gian hoằng hóa độ sanh, Đức Phật cũng tự cảm thấy mình là một Bà La Môn, nhưng một Bà La Môn sống trước mặt cũng như sau lưng mọi người không hề thiếu mười hai Đức Thánh hạnh này. Đó là:
1- Như Lai; 2- A-la-hán; 3- Ứng Cúng; 4- Chánh Biến Tri; 5- Minh Hạnh Túc; 6- Thiện Thệ; 7- Thế Gian Giải; 8- Vô Thượng Sĩ; 9- Điều Ngự Trượng Phu; 10- Thiên Nhân Sư; 11- Phật; 12- Thế Tôn
Chúng tôi xin giải nghĩa của mười hai hiệu Đức Thánh này:
1- Như Lai: Dịch âm tiếng Phạn Tathàgata có nghĩa là vì theo con đường như thật đi tới mà thành Chánh Giác. Như Lai cũng có nghĩa là bậc tu hành đã xong, không còn tái sinh trở lại cuộc đời này nữa tức là đã làm chủ sinh, tử và chấm dứt luân hồi. Như Lai là một “Đức Thánh Không Đến Không Đi.”
2- A-la-hán: Dịch âm tiếng Phạn Arahant. A-la-hán đồng nghĩa với Ứng Cúng có nghĩa là giết giặc phiền não, bất sanh mãi mãi ở trong Niết Bàn, xứng đáng nhận sự cúng dường của Trời, Người. Tóm lại bậc A-la-hán đã thoát khỏi phiền não, được tự do tự tại, hoàn mỹ về mặt đạo lý, làm chủ được tư tưởng của mình, biết hết tất cả, có đủ sáu pháp huyền diệu, không phải chịu quả báo sống chết lần thứ hai. Danh hiệu này Đại Thừa cho là còn thấp kém, chỉ là quả cao nhất của Tiểu Thừa. A-la-hán còn gọi là “Đức Thánh Vô Lậu.” Đức không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh.
3- Ứng Cúng: Dịch âm tiếng Phạn Arahant nghĩa là bậc đã xa lìa mọi điều ác, xứng đáng được hưởng thọ sự cúng dường của Người, Trời. Bậc đầy đủ phước báu không ai hơn. Ứng Cúng là đức hạnh xa lìa những điều ác xứng đáng là nơi phước báu vô lượng để chúng sanh Trời Người cúng dường, nên gọi là “Đức Thánh Phước Điền.”
4- Chánh Biến Tri: Dịch âm tiếng Phạn Samya-sambuddha nghĩa là chánh trí biết rõ mọi pháp như thật. Chánh biến tri còn có nghĩa là trí hiểu biết chân chánh không bị tà pháp, tà kiến, tưởng kiến, tà giáo lừa đảo, trí hiểu biết vượt ra khỏi sự hiểu biết trong khuôn khổ nề nếp phong tục, tập quán và các hệ tư tưởng của các tôn giáo trên thế gian này. Chánh Biến Tri còn gọi là “Thánh Hạnh Liễu Tri.”
5- Minh Hạnh Túc: Dịch âm tiếng Phạn: (Vidyàcarana sampana) có nghĩa là bậc có đầy đủ trí tuệ và đức hạnh.
Trí Tuệ gồm đủ có ba: a) Ý thức tuệ; b) Tưởng thức tuệ; c) Tam minh tuệ.
Tam Minh Tuệ gồm có ba: a) Vô thời gian tuệ; b) Vô không gian tuệ; c) Vô lậu tuệ.
Thánh đức gồm có bốn: Đức Từ, Đức Bi, Đức Hỷ, Đức Xả.
Thánh hạnh gồm có năm hạnh: Thắng hạnh, Chánh hạnh, Trực hạnh, Diệu hạnh, Tịnh hạnh.
6- Thiện Thệ: Dịch từ tiếng Phạn Sugata nghĩa là bậc đã tu tập hoàn thành con đường Bát Chánh Đạo, bậc đã làm xong các hạnh lành, không còn trở lui về ác pháp và cuộc đời này nữa. Thiện Thệ còn gọi là “Thánh hạnh tự tại sinh tử.”
7- Thế Gian Giải: Dịch từ tiếng Phạn Lokavit: có nghĩa là giải thích rõ các pháp trong thế gian, không còn pháp nào mà không giải thích được. Thế gian giải có nghĩa là bậc thông suốt tất cả các pháp thế gian. Bậc có thể hiểu rõ các lý và sự của loài hữu tình và vô tình. Thế Gian Giải còn gọi là “Thánh hạnh giải thông suốt các pháp thế gian.”
8- Vô Thượng Sĩ: Dịch từ tiếng Phạn Anu Hara: có nghĩa là bậc cao hơn hết trong các hàng chúng sanh. Một con người làm chủ tột đỉnh giải thoát, không còn có sự giải thoát nào cao hơn nữa. Vô thượng sĩ còn gọi là “Thánh hạnh giải thoát cao nhất.”
9- Điều Ngự Trượng Phu: Dịch từ tiếng Phạn Purusa-danya-sàrathi: có nghĩa là bậc điều khiển được mình và tất cả chúng sanh tức là bậc đã làm chủ được mình và tất cả các pháp, nói một cách dễ hiểu hơn là bậc tâm đã bất động trước các pháp và các cảm thọ. Điều Ngự Trượng Phu còn gọi là “Thánh hạnh nhiếp phục các pháp và các cảm thọ.”
10- Thiên Nhân Sư: Dịch theo tiếng Phạn Sàtàde-vanà- syànàm: nghĩa là bậc Thầy của Trời, Người. Dạy cho Trời, Người những gì nên làm và những gì không nên làm. Thiên Nhân Sư còn gọi là “Đức Thánh Thầy Trời, Người.”
11- Phật: Dịch âm chữ Buddha có nghĩa là bậc giải thoát hoàn toàn, bậc Giác Ngộ. Phật còn gọi là “Đức Thánh Giác Ngộ.”
12- Thế Tôn: Dịch âm tiếng Phạn Bhagavat có nghĩa là bậc cao hơn hết trong cõi Trời, Người, được tất cả Trời, Người đều tôn kính trọng. Thế Tôn còn gọi là “Đức Thánh tôn kính.”
Mười hai đức hạnh tối cao trên đây nếu người tu sĩ nào làm được thì Đức Phật gọi người ấy là Bà La Môn. Tóm lại bài kệ trên đây đã xác định một người Bà La Môn đúng tiêu chuẩn của Phật giáo là không có một vật sở hữu nào cả suốt trong ba thời gian quá khứ, hiện tại và vị lai thì mới đúng nghĩa:
“Ai quá, hiện, vị lai.
Không một sở hữu gì.
Không sở hữu, không nắm.
Ta gọi Bà La Môn.”
Đúng vậy, lúc nào cũng nhớ giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh và hạnh tri túc thì mới xứng đáng là Bà La Môn của Phật giáo. Đọc bài kệ này chúng ta mới biết Phật giáo là do người sau lập thành tôn giáo lấy tên là Phật giáo, còn riêng Đức Phật thì không có ý đó.
Tại sao vậy?
Bởi đạo Phật là đạo đức của con người trên hành tinh này, nó là chân lý của loài người nên không thể xây dựng nó thành tôn giáo được, vì tôn giáo sẽ bị hạn cuộc trong một số người rất ít chứ không được phổ cập rộng rãi khắp mọi người, mọi nơi. Và khi thành lập ra tôn giáo là sẽ chia chẻ con người, mà chia chẻ con người thì không còn là đạo đức. Hình thức chia chẻ là vì quyền lợi riêng tư cho cá nhân hay tập thể nhỏ. Cho nên các Tổ không hiểu điều này, vì quyền lợi riêng tư mà các Tổ đã làm một việc rất sai lầm, biến chân lý và đạo đức của loài người thành chân lý và đạo đức riêng tư của tôn giáo. Một bằng chứng rất hùng hồn, từ những tham vọng ấy, các Tổ đã chia nát Phật giáo ra nhiều hệ phái, làm cho Phật giáo suy yếu và mất gốc. Từ Phật giáo của chung của nhân loại đã trở thành của riêng và còn của riêng nhiều vị Tổ nữa. Thật là đau lòng, phải không hỡi các bạn?
Riêng Đức Phật chỉ thấy mình là một Bà La Môn và cố gắng làm tốt hơn cho Bà La Môn giáo chứ không có mục đích thành lập tôn giáo riêng tư, chỉ vì người sau không hiểu ý Phật nên dựa vào mười hai danh hiệu của Ngài mà đặt tên cho tôn giáo. Từ đó mới có tên là Phật giáo.
4. KỆ LÚC THÀNH ĐẠO
Lời Phật dạy:
“Thiên thượng, thiên hạ
Duy ngã độc tôn
Nhất thiết thế gian
Sanh, lão, bệnh, tử.”
Giảng nghĩa:
Bốn câu kệ trên để chứng minh và xác định đạo Phật ra đời vốn giải quyết bốn sự đau khổ lớn nhất của loài người: “sanh, già, bệnh, chết.” Vì thế mục đích tu hành của đạo Phật là “tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ,” chứ không phải vì Thiên đàng, Cực Lạc, Niết Bàn, Phật Tánh, v.v...
Trong tất cả các pháp môn của Đức Phật đều dạy chúng ta tu tập để thực hiện đạo đức làm Người, làm Thánh. Muốn làm người có đạo đức không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh thì duy chỉ có thiện pháp mới giải quyết mọi sự đau khổ của chúng ta, tức là không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh nữa.
Muốn được thân tâm thanh thản, an lạc và vô sự đều phải sống đúng thiện pháp, hằng ngày thường ngăn và diệt ác pháp; muốn làm chủ sanh tử luân hồi và chấm dứt tái sanh đều phải sống đúng thiện pháp. Nếu không do thiện pháp mà tu tập thì không bao giờ làm chủ và chấm dứt được nó, vì thế đời đời phải chịu trôi lăn trong sáu đường luân hồi khổ đau.
Thiền định có nhập được cũng phải do thiện pháp, ngoài thiện pháp đi tìm thiền định thì không bao giờ có, chỉ có tà thiền của ngoại đạo mà thôi. Do đó chúng ta thấy ai tu thiền định mà không giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh thì biết ngay họ tu tà thiền, tà định, dù họ có tu muôn đời, muôn kiếp cũng chẳng có kết quả giải thoát gì, chỉ uổng phí một đời tu hành mà thôi.
Đối với đạo Phật thiện pháp có một tầm rất là quan trọng trên bước đường tu hành giải thoát, nếu không tu thiện pháp thì dù có tu tất cả các pháp môn nào khác cũng đều tu hành không đúng pháp môn của đạo Phật. Vì thế, tu theo Phật giáo mà không tu tập thiện pháp tức là không giữ gìn giới luật nghiêm túc thì đừng mong làm chủ sanh, già, bệnh, chết như trong bài kệ Đức Phật đã tự tán thán mình:
“Thiên thượng, thiên hạ,
Duy ngã độc tôn
Nhất thiết thế gian,
Sanh, lão, bệnh, tử.”
Sau khi tu chứng đạo, Đức Phật dùng trí tuệ Tam Minh quan sát thấy rằng khắp trên thế gian này từ vô thủy cho đến ngày nay (ngày Đức Phật tu chứng) không thấy có một người nào làm chủ sanh, già, bệnh, chết như Ngài, nên Ngài nói lên bài kệ này là để xác định vị trí và thế đứng độc lập của đạo Phật. Cho nên, đạo Phật không vay mượn giáo lý của bất cứ một tôn giáo nào khác. Một bằng chứng hiển nhiên là tất cả các tôn giáo khác trên hành tinh này đều tin tưởng có thế giới siêu hình, còn Phật giáo thì không chấp nhận thế giới siêu hình. Cũng như tất cả các tôn giáo khác đều không có nền tảng đạo đức vững chắc như đạo Phật. Đạo đức tự lực không dựa vào thần quyền.
Vì thế đạo đức của Phật giáo là đạo đức nhân bản – nhân quả, một đạo đức cao thượng sống không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh; một đạo đức cao quý tuyệt vời làm chủ được sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt tái sanh luân hồi; một đạo đức biến cuộc sống loài người trên thế gian này thành cõi Thiên Đàng, Cực Lạc.
Nói đến đạo đức nhân bản – nhân quả là phải dẹp bỏ tha lực, nếu còn cầu cúng, tế lễ, cầu phước, cầu tự, cầu an, cầu siêu, v.v... là đi ngược lại đạo đức nhân bản – nhân quả của đạo Phật và con người sẽ sống trong ảo tưởng, mê tín và lạc hậu. Đạo Phật là đạo tự lực nên Đức Phật khuyên các đệ tử của mình: “Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi, Ta chỉ là người hướng đạo, không thể đi thay cho các con được.” Vì tự mình phải thắp đuốc lên mà đi, nên Phật giáo phải xây dựng một nền tảng đạo đức nhân bản – nhân quả vững chắc cho ngôi nhà thiền định. Cho nên thiền định của Phật giáo mới được gọi là chánh định, bởi chánh định có một nội lực giúp cho chúng ta làm chủ thân tâm, tự tại trong sự sống chết như bài kệ trên đã nói.
5. BẬC CHIẾN THẮNG
Lời Phật dạy:
“Bậc trâu chúa, thù thắng.
Bậc anh hùng, đại sĩ.
Bậc chiến thắng, không nhiễm.
Bậc tẩy sạch, giác ngộ.
Ta gọi Bà La Môn.”
Kinh Pháp Cú.
Giảng nghĩa:
Người tu hành theo Phật giáo phải như con trâu chúa, lúc nào cũng phải đứng lên trên Trời, Người, nên câu kệ thứ nhất trong bài này Đức Phật dạy: “Bậc trâu chúa, thù thắng.” Đúng vậy, Người tu sĩ Phật giáo phải là người anh hùng, kiên gan, bền chí như đất trời không hề lùi bước trước gian nan khó khăn nào cả. Nên câu thứ hai Đức Phật dạy người tu sĩ theo Phật giáo xem cái chết nhẹ như lông hồng phải chứng tỏ mình: “Bậc anh hùng, đại sĩ.”
Thế mà thời nay nhìn lại tu sĩ Phật giáo phá giới, phạm giới, bẻ vụn giới thì còn gì là bậc trâu chúa, bậc thù thắng, bậc anh hùng đại sĩ. Phải không các bạn? Toàn là những bậc ăn bám vào tín đồ giống như loài ký sinh trùng (trùng trong lông sư tử).
Người tu sĩ Phật giáo phải luôn luôn là người chiến thắng giặc ăn, giặc ngủ, giặc hội họp, giặc tham, giặc sân, giặc si... Muốn chiến thắng được như vậy thì giới luật là khuôn phép để chúng ta khép mình sống đúng Thánh hạnh để tôi luyện mình trở thành những thanh thép hữu ích cho mình, cho người, cho đời, cho xã hội, cho quê hương đất nước, cho thế giới, cho cả sự sống trên hành tinh này.
Nếu không tôi luyện mình như vậy thì thân tâm dễ bị ô nhiễm những dục lạc thế gian. Phải không các bạn? Bởi vậy bậc chiến thắng là đệ tử của Đức Phật phải là những người không đắm nhiễm; không đắm nhiễm tất cả mọi dục lạc. Nếu chỉ còn đắm nhiễm một chút xíu dục lạc nhỏ như hạt phù sa sông Hồng (1) thì cũng chưa phải là người chiến thắng giặc sanh tử, cho nên Đức Phật dạy: “Bậc chiến thắng, không nhiễm.” Từ không nhiễm lớn đến không nhiễm nhỏ, hoàn toàn phải sạch bóng sự ô nhiễm thì mới được gọi là bậc Giác Ngộ. Vì thế trong bài kinh Pháp Cú đã dạy: “Bậc tẩy sạch, giác ngộ.”
Nếu không quét sạch giặc tham, sân, si..., ngũ triền cái, thất kiết sử..., thì làm sao có sự thanh bình trong tâm hồn mình. Phải không hỡi các bạn? Qua bài kệ này, muốn được Đức Phật chấp nhận mình là một Bà La Môn đúng nghĩa của Bà La Môn thì phải sống đầy đủ đức hạnh không làm khổ mình khổ người và khổ chúng sanh. Dựa vào lời dạy trên đây chúng ta xét thấy trong thời Đức Phật còn tại thế có thể chia ra bốn loại Bà La Môn:
- Bà La Môn phạm giới, phá giới, bẻ vụn giới.
- Bà La Môn cúng bái tế tự, cầu siêu, cầu an, làm những điều mê tín, v.v...
- Bà La Môn xây dựng thế giới tâm linh, sống trong ảo tưởng, mơ mộng hư ảo; lừa đảo, lường gạt người để được ngồi trong mát ăn bát vàng.
- Bà La Môn chuyên tu tập luyện thần thông trừ tà, yểm quỷ, bắt ma trị bệnh bằng phù phép tạo ra một thế giới siêu hình huyền ảo khiến cho con người mất hết sức tự chủ, chỉ còn biết tựa nương vào Thần Thánh, Tiên, Phật hoặc Bồ Tát cứu khổ cứu nạn.
Những hạng Bà La Môn này ngày xưa Đức Phật còn tại thế không bao giờ chấp nhận, chỉ có ngày nay Đại Thừa chấp nhận và vì thế những người tu sĩ Đại Thừa có một nếp sống và những việc làm mơ hồ ảo tưởng, mê tín lạc hậu, bùa chú thần thông pháp thuật cũng giống như những Bà La Môn ngày xưa đã nói ở trên. Còn Đức Phật thì cho những tu sĩ đó là Ma Ba Tuần đang phá và diệt Phật giáo.
Qua bài kệ này chúng ta thấy rõ ràng Đức Phật đã tự cho mình là Bà La Môn “Ta gọi Bà La Môn” theo nghĩa Bà La Môn phải là những bậc:
“Bậc trâu chúa, thù thắng
Bậc anh hùng, đại sĩ.
Bậc chiến thắng, không nhiễm
Bậc tẩy sạch, giác ngộ.”
Nhìn vào tiêu chuẩn bốn bậc Bà La Môn ở trên đây thật khó cho một người không có quyết tâm cao, không có nhiệt tâm nồng cháy trong việc đi tìm đường giải thoát, đi tìm đường liễu sinh thoát tử trở thành những bậc này. Phải không hỡi các bạn?
[(1) Sông Hồng là một dòng sông lớn xuất phát từ bên Trung Quốc chảy ra biển Đông ngang qua nước Việt Nam. Tác giả mượn tên sông Hồng là chỉ cho người Việt Nam cũng làm được một việc vĩ đại như người Ấn Độ có sông Hằng.]
6. BÀ LA MÔN
Lời Phật dạy:
“Ai biết được đời trước
Thấy Thiên giới, đọa xứ
Đạt được sanh diệt tận
Thắng trí, tự viên thành
Bậc Mâu Ni đạo sĩ
Viên mãn mọi thành tựu
Ta gọi Bà La Môn.”
Kinh Pháp Cú.
Giảng nghĩa:
Một lần nữa Đức Phật xác định cho chúng ta thấy một tu sĩ Phật giáo được gọi như thế nào là một Bà La Môn chân chánh trong những tiêu chuẩn nào? Đọc bài kệ trên đây trong kinh Pháp Cú chúng ta mới thấy rõ một vị tu sĩ Phật giáo được gọi là Bà La Môn chân chánh thì phải hội đủ những tiêu chuẩn:
1- Biết được đời trước của mình là phải có Tam Minh. Trong Tam Minh có Túc Mạng Minh. Có Túc Mạng Minh mới biết được nhiều đời, nhiều kiếp trong quá khứ của mình và của người khác. Một Bà La Môn chân chánh tu tập phải có Túc Mạng Minh biết được nhiều đời của mình thì mới được gọi là một Bà La Môn, bằng không biết thì không được gọi là Bà La Môn. Cho nên câu kệ này dạy: “Ai biết được đời trước.”
Chúng ta hiện giờ nhìn lại tu sĩ Phật giáo có vị nào tu tập biết được nhiều đời nhiều kiếp trong quá khứ của mình chưa? Nếu chưa biết thì chưa được gọi là Thánh Tăng, Thánh Ni, chưa được gọi là Bà La Môn chân chánh. Phải không các bạn?
2- Một người được gọi là Bà La Môn là phải có trí tuệ nhân quả thấy thiện và ác rất rõ ràng. Người thấy thiện ác rõ ràng là người có chánh tri kiến. Người có chánh tri kiến là người ly dục ly ác pháp. Người ly dục ly ác pháp là người tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ. Người có tâm bất động là người xứng đáng được gọi là Bà La Môn chân chánh.
Hiện giờ nhìn xem những tu sĩ Phật giáo thì chúng ta biết ngay họ chưa ly dục ly ác pháp vì họ còn ăn uống và ngủ nghỉ phi thời, tâm còn ham vui, thích tài sản, của cải, tiền bạc, nhà cửa sang đẹp, như chùa to Phật lớn, v.v... Chính họ không thấy những sự ham muốn đó là dục, là ác pháp. Do như vậy họ chưa xứng đáng làm Thánh Tăng, Thánh Ni; chưa xứng đáng làm Thánh Tăng, Thánh Ni thì làm sao xứng đáng làm đệ tử của Phật được. Họ là những người không thấy nhân quả thiện ác thì làm sao được gọi là Bà La Môn chân chánh. Cho nên câu kệ thứ hai Đức Phật đã xác định: “Thấy Thiên giới, đọa xứ.” Câu này chúng ta phải hiểu nghĩa cho rõ ràng. Vậy Thiên giới và đọa xứ là gì?
Thiên giới là cõi Trời; đọa xứ là địa ngục. Ở đây không phải là cõi Trời mà là mười thiện, ở đây không phải là địa ngục mà là mười ác. Thấy thiên giới, đọa xứ là thấy mười thiện, mười ác. Thấy mười thiện và mười ác là thấy nhân quả. Thấy được nhân quả thì mới được Đức Phật chấp nhận là Bà La Môn chân chánh. Có hiểu nghĩa như vậy mới hiểu lời Đức Phật dạy. Các bạn có hiểu đúng nghĩa như vậy không?
Nhưng một vị Bà La Môn chân chánh đâu phải tu tập có bấy nhiêu pháp thôi, mà còn phải tu tập nhiều hơn nữa, phải làm chủ sanh tử như câu kệ dưới đây: “Đạt được sanh diệt tận.” Vậy, sanh diệt tận nghĩa là gì?
Sanh là đời sống, sự sống; diệt là chết, sự chết; tận là tận cùng, cuối cùng, chấm dứt. Toàn nghĩa câu này là phải đạt cho được sự tận cùng sống chết của kiếp làm người thì mới được Đức Phật chấp nhận là một Bà La Môn chân chánh, còn chưa tu tập được như vậy thì chưa xứng đáng là Tăng, là Ni đệ tử của Phật. Làm một đệ tử của Đức Phật đâu phải dễ. Phải không hỡi các bạn?
Phải đầy đủ thắng trí. Vậy thắng trí là gì? Thắng trí là một trí tuệ chiến thắng mọi ác pháp và các cảm thọ, một trí tuệ không bao giờ chịu khuất phục trước mọi trở ngại, gian nan hay mọi việc khó khăn nào, luôn luôn giành phần thắng về mình. Có thắng trí như vậy là có sự chiến thắng vẻ vang trong trận đánh giặc sanh tử luân hồi. Người có thắng trí mới xứng đáng là đệ tử của Đức Phật, mới xứng đáng là Bà La Môn chân chánh, nên câu kệ dạy: “Thắng trí, tự viên thành.”
Người có thắng trí là người thành tựu đạo giải thoát dễ dàng, đâu cần gì tu tập nữa. Có đúng như vậy không các bạn? Hai câu kệ cuối cùng để tán thán một người tu sĩ Phật giáo thành tựu viên mãn đạo giải thoát:
“Bậc Mâu Ni đạo sĩ.
Viên mãn mọi thành tựu.”
Vậy Mâu Ni và viên mãn nghĩa là gì?
Mâu Ni dịch âm tiếng Phạn là Mouni có nghĩa là năng nhơn, năng từ, năng mãn, năng tịch, v.v... Năng nhơn nghĩa là lòng thương người; năng từ là lòng từ bi; năng mãn là tâm tròn đầy đức hạnh; năng tịch là tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ. Tóm lại nghĩa của toàn câu kệ này là bậc đạo sĩ đầy đủ những năng lực siêu việt không có một người nào hơn được “Bậc Mâu Ni đạo sĩ.”
Viên mãn: là tròn đầy, đầy đủ, không còn thiếu khuyết một chỗ nào cả. Nghĩa của câu này là tất cả những pháp môn tu hành của Phật giáo đều đã tu hành xong: “Viên mãn mọi thành tựu.” Đọc bài kệ trên đây chúng ta thấy được những kết quả vĩ đại của một người tu theo Phật giáo mà đáng được gọi là Bà La Môn đâu phải dễ như toàn bài kệ:
“Ai biết được đời trước
Thấy Thiên giới, đọa xứ
Đạt được sanh diệt tận
Thắng trí, tự viên thành
Bậc Mâu Ni đạo sĩ
Viên mãn mọi thành tựu
Ta gọi Bà La Môn.”
Được gọi là Bà La Môn là phải tu tập cho đến nơi đến chốn chứ không phải tu danh, tu lợi theo kiểu Đại Thừa và Thiền Tông. Có đúng như vậy không các bạn?
7. CHỌN BẠN
Lời Phật dạy:
“Tìm không được bạn đường
Bằng mình hay hơn mình
Thà quyết sống một mình
Không làm bạn kẻ ngu.”
Kinh Pháp Cú, V- Balavagga - Phẩm Ngu
Giảng nghĩa:
Ca dao Việt Nam có câu:
“Thói thường gần mực thì đen,
Anh em bạn hữu ta nên chọn người”.
Trong kinh Pháp Cú Phật dạy:
“Tìm không được bạn đường
Bằng mình hay hơn mình
Thà quyết sống một mình
Không làm bạn kẻ ngu.”
Đọc câu ca dao và bốn câu kệ trên đây cho chúng ta thấy rằng đời cũng như đạo Phật đều dạy chúng ta nên chọn thầy hay, bạn tốt, hoặc chọn bạn bằng mình hay hơn mình. Nếu thầy bạn kém hơn mình thì chẳng ích lợi gì cho mình, nhiều khi còn bị đắm nhiễm theo thói hư tật xấu của những người này. Thầy Tổ phạm giới, phá giới, sống không đúng Phạm hạnh và bạn bè thiếu đạo đức, do đó nhất định không nhận họ làm thầy Tổ, không làm bạn với kẻ ngu.
Những câu kệ này Đức Phật dạy chúng ta nên chọn một người bạn giỏi hơn mình, đó cũng là một vị thầy của mình để mình sẽ học hỏi được nhiều điều hay, điều tốt, còn chọn một người bạn dở hơn thì mình có học hỏi được gì đâu, đôi khi lại bị ô nhiễm tính xấu như gian tham, trộm cướp, nói láo, giết người, v.v...
Vào đạo tu học cũng nên chọn một vị thầy giới luật nghiêm túc, đức hạnh đầy đủ. Vì thế Đức Phật thường dạy:
“Này các tỳ-kheo, ở đây, có kẻ phàm phu ít nghe, không được thấy các bậc Thánh, không được thân cận các bậc Thánh, không thuần thục pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh, không được thấy các bậc Chơn Nhơn, không được nghe các bậc Chơn Nhơn, không được thân cận các bậc Chơn Nhơn, không thuần thục pháp các bậc Chơn Nhơn, không tu tập các bậc Chơn Nhơn.”
Đoạn kinh trên đây Đức Phật khuyên chúng ta nên chọn những bậc Thánh, bậc Chơn Nhơn đạo hạnh như vậy để thân cận mới được lợi ích cho mình cho người khác. Bởi vì chúng ta thiếu sự cân nhắc kỹ lưỡng khi chọn thầy, tìm bạn nên sự lầm lẫn của chúng ta đã phải trả một giá quá đắt cho cuộc đời tìm đạo tu hành.
Vào đạo với lòng tin Phật, tin thầy Tổ. Nhưng Phật đã mất đi rồi không còn gần gũi khuyên nhắc chúng ta nữa, chỉ còn thầy Tổ mà thôi. Nhưng thầy Tổ sống phạm giới, phá giới, Thánh hạnh thầy Tổ không còn thì biết tin và nương tựa vào ai nữa đây? Nhìn gương hạnh sống của thầy Tổ hiện giờ mà lòng chúng ta đau xót tận cùng vì giới luật đức hạnh của Phật dạy còn đây mà thầy Tổ thì ném bỏ vào sọt rác. Ôi, đau xót vô cùng! Còn biết nương tựa vào đâu nữa?
Thật là bất hạnh cho mọi người chúng ta biết chừng nào! Thầy hay khó gặp, bạn tốt khó tìm.
8. HẠNH VÀ MINH
Lời Phật dạy:
“Với Minh và với Hạnh, thành tựu hai pháp này. Này các tỳ-kheo, tỳ-kheo đạt đến cứu cánh của cứu cánh:
1- Cứu cánh an ổn khỏi khổ ách
2- Cứu cánh Phạm hạnh
3- Cứu cánh mục đích
Bậc tối thượng giữa chư Thiên và loài Người.”
Kinh Tăng Chi Bộ, tập 4, trang 663.
Giảng nghĩa:
Xét duyệt qua đoạn kinh này có ba cứu cánh:
1- Cứu cánh an ổn khỏi khổ ách là do chánh tri kiến. Chánh tri kiến là sự hiểu biết mọi vật như thật, do hiểu biết mọi vật như thật nên mọi khổ ách đều được hóa giải. Vì vậy gọi là cứu cánh an ổn khỏi khổ ách tức là Minh Giải Thoát.
2- Cứu cánh Phạm hạnh là do giới luật. Một tu sĩ sống đúng giới luật, không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào là có giải thoát ngay liền. Giới ly dục ly ác pháp mà tâm ly dục ly ác pháp là tâm bất động. Tâm bất động là tâm không phóng dật. Do giới luật mà tâm được giải thoát nên gọi là Hạnh Giải Thoát tức là Cứu Cánh Phạm Hạnh.
3- Cứu cánh mục đích là tri kiến và giới luật. “Giới luật ở đâu là tri kiến ở đó, tri kiến ở đâu là giới luật ở đó. Tri kiến làm thanh tịnh giới luật, giới luật làm thanh tịnh tri kiến.” Đó là cứu cánh giữa Minh và Hạnh nên gọi là cứu cánh mục đích.
Trên đây là nói về giai đoạn mới bắt đầu vào tu tập giới luật bằng tri kiến, còn ở giai đoạn hai và ba thì đoạn kinh này Đức Phật dạy “Minh và Hạnh.” Minh và Hạnh đạt được là cứu cánh của cứu cánh. Vậy Minh và Hạnh là gì?
Minh là trí tuệ Tam Minh; Hạnh là đức hạnh không làm khổ mình khổ người và khổ tất cả chúng sanh, hay nói cách khác Hạnh là Giới luật. (Xem thêm nghĩa Minh Hạnh Túc). Cho nên người tu theo Phật giáo đầu tiên cần phải đạt được Đức Hạnh của Giới luật. Đức hạnh của giới luật đó là hạnh ly dục ly ác pháp. Hạnh ly dục ly ác pháp là hạnh bất động tâm. Hạnh bất động tâm là tâm định tỉnh, nhu nhuyến, dễ sử dụng. Từ tâm này chúng ta mới có đủ năng lực nhập Bốn Thánh Định và thực hiện Tam Minh.
Như trên đã nói Hạnh tức là Giới luật rất quan trọng cho con đường tu tập theo Phật giáo. Phải không các bạn? Không có Giới luật thì thiền định và Tam Minh không bao giờ có. Vì vậy các bạn nên hiểu Hạnh là nền tảng đạo đức của Phật giáo, còn Minh là kết quả cuối cùng của con đường tu tập giải thoát của Phật giáo, nên Đức Phật bảo: “Này các tỳ-kheo, tỳ-kheo đạt đến cứu cánh của cứu cánh.”
Xin các bạn tu theo Phật giáo nên lưu ý điều này: Hạnh mà không sống đúng thì không làm sao có Minh. Người có Giới hạnh không thể nào tu tập lạc vào tà pháp ngoại đạo. Thấy ai sống không đúng giới hạnh thì biết ngay người ấy tu tập rơi vào tà pháp ngoại đạo.
Cho nên Minh và Hạnh là thước đo sự tu tập của Tăng Ni và cư sĩ, là tiêu chuẩn duyệt xét sự chứng quả của họ. Do đó những người tu giả, tu thật chúng ta đều biết rất rõ. Biết rõ để làm gì các bạn? Nếu người thật tu, thật chứng thì chúng ta xin được thân cận; nếu người tu giả thì từ giã xa lánh.
9. NIẾT BÀN
Lời Phật dạy:
“Hãy cầu vui Niết Bàn
Bỏ dục không nhiễm uế
Kẻ trí tự rửa sạch
Mọi cấu uế nội tâm.”
Kinh Pháp Cú.
Giảng nghĩa:
Tất cả các pháp trên thế gian đều vô thường, mà pháp vô thường là pháp khổ. Pháp khổ từ dục sinh ra. Dục là uế nhiễm, bất tịnh. Do đó chúng ta cần phải bỏ tất cả dục; dục hết là tâm bất động; dục hết là hết khổ, là tâm an vui. Trên thế gian không có pháp nào mang đến cho chúng ta chân hạnh phúc trọn vẹn, chỉ vì điên đảo mà chúng ta chạy theo các pháp vô thường tìm hạnh phúc trong đó, cũng giống như chúng ta tìm lông rùa, sừng thỏ, có nghĩa là tìm hạnh phúc trong các pháp vô thường thì không bao giờ có được. Vì thế Đức Phật dạy: “Hãy cầu vui Niết Bàn.” Vậy Niết Bàn là cảnh giới gì đây? Sao Đức Phật lại bảo chúng ta hãy cầu vui Niết Bàn?
Thưa các bạn! Niết Bàn không phải là một cảnh giới, cũng không phải là một thế giới siêu hình, cũng không phải cõi Thiên Đàng, Cực Lạc hay bất cứ một cõi Trời nào, cũng không phải Bản Thể vũ trụ, Phật Tánh. Niết Bàn là một trạng thái tâm hết tham, sân, si. Cho nên trong bốn chân lý của đạo Phật gọi nó là “Diệt Đế.” Diệt Đế là một trạng thái tâm không còn dục, không còn ác pháp; tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ; tâm thanh thản, an lạc và vô sự. Trong tâm bất động như vậy nó có một niềm vui an lạc mà không có dục.
Vì nó mang cho mọi người một chân hạnh phúc như vậy nên Đức Phật dạy: “Hãy cầu vui Niết Bàn.” Nhưng muốn cầu vui Niết Bàn thì phải làm sao?
Thưa các bạn! Muốn cầu vui Niết Bàn thì đây là một con đường mà mọi người đều phải bước đi bằng trí óc và đôi chân của mình chứ không có người nào đi thay cho mình được. Đó là con đường Bát Chánh Đạo. Con đường Bát Chánh Đạo chia ra làm ba cấp tu tập:
- Cấp I thuộc về Giới Luật
- Cấp II thuộc về Thiền Định
- Cấp III thuộc về Trí Tuệ
Mỗi cấp đều có pháp học và pháp hành. Sau khi học và hành đúng, có nghĩa là phải trải qua ba cấp và tám lớp học thì tâm người ấy mới vô lậu hoàn toàn, chứng quả A-la-hán. Sự tu học của Phật giáo cũng giống như chương trình học thức ngoài đời gồm có ba cấp: Tiểu học – Trung học – Đại học. Mỗi cấp đều có nhiều lớp học, cuối năm học mỗi lớp đều có thi chuyển lớp. Cuối mỗi cấp đều có thi chuyển cấp hay thi tốt nghiệp của cấp đó. Ví như: Tiểu học có bằng Tiểu học; Trung học có bằng Trung học; Đại học có bằng Đại học. Trong các cấp tu hành của Phật giáo cũng vậy:
- Cấp I: Giới Luật. Khi học hết cấp này trọn vẹn thì được “cấp bằng” Nhập Lưu (Tu Đà Hoàn), còn chưa học hết cấp thì tùy ở sự hiểu biết, tu tập và giữ gìn giới luật được nhiều hay ít, ít thì Hướng Lưu; nhiều thì Dự Lưu.
- Cấp II: Tứ Thánh Định. Tu học hết cấp này trọn vẹn thì mới được “cấp bằng” Bất Lai, còn chưa trọn vẹn thì chỉ có “chứng chỉ” Thất Lai (Tư Đà Hàm) cao hơn một chút nữa thì có “chứng chỉ” Nhất Lai (A Na Hàm).
- Cấp III: Trí Tuệ Tam Minh. Tu học hết cấp này thì tâm vô lậu hoàn toàn được “cấp bằng” Niết Bàn (A-la-hán). “Cấp bằng” cao nhất trong đạo Phật là Niết Bàn. Vì thế Đức Phật dạy: “Hãy cầu vui Niết Bàn.” Xem thế, chúng ta thấy rất rõ con đường tu theo Phật giáo, tu tới đâu có kết quả tới đó. Kết quả là sự giải thoát đúng như thật trong đời sống hằng ngày của chúng ta. Tu ít kết quả ít, tu nhiều kết quả nhiều, nhưng phải tu tập đúng pháp, đúng cách, cũng giống như chương trình học ngoài đời vậy, học tới đâu biết tới đó, học ít biết ít, học nhiều biết nhiều.
Muốn đạt được Niết Bàn theo như lời Phật dạy:
“Bỏ dục không nhiễm uế
Kẻ trí tự rửa sạch
Mọi cấu uế nội tâm”.
Thưa các bạn! Đọc ba câu kệ trên đây, chúng ta xét thấy pháp môn tu hành của đạo Phật rất đơn giản và cũng không khó hiểu. Phải không các bạn? Nhưng làm được việc này là một kỳ công. Vậy bỏ dục không nhiễm uế phải làm sao? Muốn bỏ dục không nhiễm uế hay tự rửa sạch mọi cấu uế nội tâm thì các bạn cần phải tu tập Tứ Chánh Cần, Tứ Niệm Xứ và Thân Hành Niệm, tức là hằng ngày phải ngăn ác diệt ác pháp, ly dục ly bất thiện pháp. Đó là những phương pháp rửa sạch mọi cấu uế ở nội tâm. Tuy lời nói trong kinh Pháp Cú đơn giản nhưng tu hành phải tận lực, nếu không tận lực tu tập thì khó đạt được kết quả như ý mong ước.
Điều mà các bạn cần nên lưu ý: đó là tu tập Tứ Chánh Cần, Tứ Niệm Xứ, Thân Hành Niệm, các bạn không thiện xảo thì bị ức chế tâm. Và ức chế tâm là các bạn không xả tâm. Không xả tâm thì dục không bao giờ hết. Cho nên phải lưu ý và quan tâm khi hành pháp.
10. THIỀN ỨC CHẾ TÂM
Hỏi: Kinh bạch Thầy, theo thiển nghĩ của con: “Đi xa từ gần, lên cao từ thấp, muốn dễ phải khó.” Phải chăng HT Thích Thanh Từ đã bỏ qua chân lý này nên Ngài đã áp dụng pháp môn tu thiền dùng pháp hành ngồi cô lập tứ chi dẹp vọng (ức chế tâm) Ngài cho là thù thắng.
Nhưng qua trắc nghiệm con thấy đúng là bế tắc. Ngồi một ngày ba thời, mỗi thời hai tiếng cô lập thân tâm, dẹp vọng, chân thì đau mà vọng chẳng dẹp được, nó còn mống lên, như thế có phải tự mình làm khổ mình không?
Đáp: Đúng vậy, ngồi thiền như vậy là ức chế cả thân tâm tự mình làm khổ mình. Trong kinh sách Nguyên Thủy Đức Phật đã dạy: “Ngăn ác diệt ác pháp” để được giải thoát, thế mà ngồi đau chân khổ sở mà không chấp nhận nó là ác pháp sao?
Tu không giải thoát đã tự làm khổ mình thêm mà cứ tu, đó có phải là vô minh không? Tu không tìm thấy sự giải thoát ngay liền thì không đúng với đường lối đạo Phật. Xưa Đức Phật dạy: “Pháp Ta không có thời gian, tu tập sẽ có kết quả ngay liền.” Vậy mà ngồi thiền đau chân như ai bẻ giò bẻ cẳng thì làm sao có kết quả ngay liền được? Đó là tu sai pháp Phật rồi, tự làm khổ mình mà không biết. Như vậy là chúng ta đã tu theo pháp môn của ngoại đạo.
Tu theo đạo Phật dù ít dù nhiều ta cũng tìm thấy sự giải thoát ngay liền, cho nên Đức Phật nêu lên mười điều kiện: “Chớ có tin, chớ có tin …,” chỉ tin vào pháp thiện, pháp tu tập không đau khổ. Vậy mà mọi người tu trong đau khổ mà vẫn tin là pháp giải thoát. Thật là buồn cười cho những người vô minh mà cứ tưởng mình là minh.
11. BẬC PHI HÀNH BIẾN HÓA
Hỏi: Kính bạch Thầy, chương I (Tứ thập nhị chương) dạy: Từ thân xuất gia tu hành bốn chân đế, chứng A-la-hán, là bậc phi hành biến hóa (biến hóa tự tại) sống lâu vô cùng, ở đâu thì chuyển động cả đất trời ở đấy, như vậy có đúng không?
Đáp: Đoạn kinh này xác định bậc A-la-hán như vậy là rất đúng, vì khả năng tu chứng của bậc A-la-hán là một siêu nhân không thể lấy trí hữu hạn mà hiểu thấu năng lực siêu việt ấy được. Vậy mà các Tổ dám dựng lên câu chuyện ông Ca Diếp và Ông Phú Lâu Na tranh chấp về sự việc bỏ những giới nhỏ nhặt để hạ bệ các bậc A-la-hán đại đệ tử của Đức Phật.
Đối với bậc A-la-hán về việc bỏ những giới nhỏ nhặt mà ông A Nan quên hỏi Phật là bỏ những giới luật nào thì quá dễ. Chỉ cần hai vị A-la-hán này nhập vào Niết Bàn hỏi Phật thì rõ ràng, có đâu mà lại tranh chấp hơn thiệt để mang tiếng là bậc A-la-hán tư tưởng vẫn bất đồng nhau. Theo chúng tôi thiết nghĩ về vấn đề bỏ những giới nhỏ nhặt, điều đó không khó đối với ông Ca Diếp và ông Phú Lâu Na, chỉ có người sau không hiểu mới có câu chuyện vô lý này.
Như chúng ta đã biết từ giới luật mà sanh ra chư Phật và A-la-hán, ngoài giới luật ra thì không có Phật và A-la-hán. Vậy mà giới luật nào lại bỏ được. Giới luật là hành động đạo đức của chư Phật và A-la-hán, dù là giới luật nhỏ nhặt nhất nó cũng là hành động đạo đức làm người làm Thánh. Chỉ có những người không hiểu giới luật mới xem thường giới luật để chạy theo dục vọng thế gian mới bày trò bỏ những giới nhỏ nhặt không hợp thời để tự tung, tự tác phá giới, phạm giới, bẻ vụn giới mà không ai dám chỉ trích chê trách phê phán họ.
Người muốn tu chứng quả A-la-hán thì phải sống đúng giới luật tức là phạm hạnh của một vị Thánh Tăng, ngoài phạm hạnh của một vị Thánh Tăng ra thì không thể nào chứng quả A-la-hán được. Tóm lại bậc A-la-hán là bậc siêu nhân như trong kinh đã dạy điều đó là đúng sự thật, chứ không phải như các Tổ hiểu theo trí hữu hạn nên nói bậc A-la-hán còn tranh chấp, chỉ có Phật mới là hết tranh chấp.
Bậc A-la-hán là bậc vô lậu hoàn toàn, họ thường sống trong tâm bất động, không có một ác pháp nào làm động tâm họ được. Họ là người ra khỏi tam giới, không còn bị quy luật nhân quả chi phối.
12. PHẬT VÀ A-LA-HÁN
Hỏi: Kính bạch HT, trong sách HT giảng: “Phật và A-la-hán chứng quả như nhau (không có cao thấp). Thế sao về danh từ không chung là một mà lại còn tách bạch ra hai?
Đáp: Phật và A-la-hán đều chứng quả như nhau, nhưng Phật là người sáng lập ra đạo Phật nên gọi được là Phật, còn A-la-hán là những người tu chứng giải thoát như Phật nhưng phải theo giáo pháp của Đức Phật, vì thế nên không được gọi là Phật, chỉ được gọi là A-la-hán mà thôi.
Vì nếu gọi tất cả A-la-hán là Phật thì cũng không sao, nhưng lòng người muốn phân biệt danh từ A-la-hán và Phật như vậy là vì họ muốn tỏ lòng tôn kính Đức Phật Thích Ca Mâu Ni hơn, là vì Đức Phật là người đã dầy công tu tập mới sáng lập ra đạo Phật và để lại cho loài người một giáo pháp đạo đức tuyệt vời, công ơn ấy rất lớn.
Phật và A-la-hán khác nhau là ở những chỗ mà chúng tôi đã nêu ở trên, vì thế danh từ gọi Phật và A-la-hán phải khác nhau. Cho nên Phật có thể gọi mình là A-la-hán, nhưng A-la-hán không thể gọi mình là Phật được. Đạo Phật duy nhất chỉ có Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là đấng giáo chủ, ngoài Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ra thì không có một đấng giáo chủ nào khác cả, nếu có một đấng giáo chủ nào khác là do con người sau bịa đặt ra. Vì thế trước và sau Phật Thích Ca Mâu Ni thì không có một vị Phật giáo chủ nào cả.
Những vị Phật độc giác là phải tự mình tìm lấy pháp tu hành không theo một giáo pháp nào cả nhưng tu chứng giải thoát như Phật Thích Ca Mâu Ni, có nghĩa là phải làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi thì mới được gọi là Độc Giác Phật.
13. NGŨ NHÃN CÒN QUÁ ÍT
Hỏi: Vả lại tu Tứ Thánh Định chứng Tam Minh là quả vị A-la-hán, sao chỉ nói có thiên nhãn Minh mà không nói ngũ nhãn như kinh Kim Cang: nhục nhãn, tuệ nhãn, Phật nhãn…?
Đáp: Phật tử nên phân tích rõ những danh từ dùng trong kinh sách Phật, nói thiên nhãn mà không nói minh tức là chỉ có thiên nhãn mà thôi, nhưng nói thiên nhãn minh thì có nghĩa khác. Trong Thiên Nhãn Minh là một trí tuệ siêu không gian và thời gian nên nó đầy đủ cả ngũ nhãn và còn nhiều hơn nữa mà kinh Kim Cang chỉ có nêu lên ngũ nhãn thật là quá ít.
Ngũ nhãn gồm có: 1, Nhục nhãn; 2, Thiên nhãn; 3, Tuệ nhãn; 4, Pháp nhãn; 5, Phật nhãn.
Trong Thiên Nhãn Minh gồm có: Giới nhãn, định nhãn, tuệ nhãn, nhân quả nhãn, vô lậu nhãn, nhục nhãn, thiên nhãn, Phật nhãn tức là A-la-hán nhãn, túc mạng minh nhãn, Thánh đức nhãn, đại thần lực nhãn, đại uy lực nhãn, đại minh lực nhãn, lậu tận minh nhãn v.v…
14. BỐ THÍ
Hỏi: Chương 11 kinh Tứ thập nhị: Bố thí của. Từ bố thí cho một người hiền bằng bố thí cho 100 người ác, đến thết (cúng dường) 1000 ức vị Tam Thế Chư Phật không bằng thết một vị: Vô niệm, vô trụ và vô chứng. Như vậy là như thế nào, xin HT chỉ dạy cho chúng con được rõ?
Đáp: Đúng là kinh phát triển dạy bố thí phi đạo đức chứ kinh sách Nguyên Thủy không có dạy như vậy. Quý phật tử hãy suy nghĩ lời dạy này có đúng đạo lý không? Bố thí cho một trăm người ác phước báo bằng bố thí cho một người thiện. Kinh sách phát triển dám lấy một người thiện mà so với một trăm người ác. Theo thiển ý của chúng tôi dù lấy một ngàn, một vạn, một triệu, mười triệu hay trăm triệu, vạn triệu cho đến vô lượng người ác cũng không thể so sánh với một người thiện. Vì thiện và ác là hai đường song song không thể gặp nhau trên một điểm nào cả thì làm sao so sánh được, hễ có cái thiện thì không có cái ác, có cái ác thì không có cái thiện. Thế sao các nhà Đại Thừa lại dùng thiện ác mà so sánh như vậy, đây là các nhà Đại Thừa tưởng giải để lừa đảo người không biết, chứ người biết thì kinh sách phát triển sẽ bị lật tẩy ra khỏi môi trường tôn giáo Phật giáo.
Đã bảo rằng Tam Thế Chư Phật, có nghĩa là ba đời chư Phật. Ba đời chư Phật là những người tu hành đã thành Phật trong quá khứ, hiện tại và vị lai. Những người này đã giải thoát hoàn toàn, thế mà một ngàn ức vị Phật như vậy không bằng một vị vô niệm, vô trụ, vô chứng.
Vậy chúng ta tìm hiểu một vị vô niệm, vô trụ, vô chứng như thế nào mà các nhà Đại Thừa ca ngợi tán thán như vậy.
Vô niệm như thế nào? Vô niệm là không có niệm thiện niệm ác trong đầu (Chẳng niệm thiện niệm ác bản lai diện mục hiện tiền), công án Thiền Tông.
Vô trụ như thế nào? Vô trụ là tâm không trụ bất cứ một nơi nào cả (Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm), kinh Kim Cang
Vô chứng là gì? Vô chứng là không thấy mình chứng đắc, còn thấy mình chứng đắc là chưa chứng đắc (Vô sở đắc), kinh Kim Cang.
Theo các nghĩa trên đây chúng ta xác định một người tu theo Đại Thừa và Thiền Tông khi thành tựu họ hoàn toàn vô niệm, vô trụ, vô chứng. Một người được cúng dường xứng đáng hơn 1000 ức vị Phật trong ba đời. Như vậy vị vô niệm, vô trụ, vô chứng là một vị Phật tối thượng phước báo hơn gấp 1000 lần Phật Thích Ca Mâu Ni. Bởi vì Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sống còn niệm, còn trụ, còn tu chứng. Tại sao chúng ta biết như vậy? Tại vì Đức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy: “ngăn ác diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp.” Như vậy chứng tỏ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni còn niệm thiện, không như Thiền Tông chẳng niệm thiện niệm ác.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni còn dạy chúng ta tăng trưởng thiện pháp tức là còn trụ trong thiện pháp để tăng trưởng nó lớn lên, do đó chúng ta biết Đức Phật Thích Ca còn trụ trong thiện pháp vì lợi ích cho chúng sanh. Còn chúng ta trụ trong thiện pháp là để không làm khổ mình khổ người.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni tự xưng mình tu chứng: “Ta thành chánh giác là nhờ tâm không phóng dật,” hay khi chứng đạo Đức Phật đã nói lên bài kệ nầy:
“Thiên thượng thiện hạ.
Duy ngã độc tôn,
Nhất thiết thế gian,
Sanh, lão, bệnh, tử.”
Đối với kinh sách Đại Thừa và Thiền Đông Độ thì Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là người chưa vô niệm, vô trụ, vô chứng tức là người chưa chứng đạo. Người chưa chứng đạo mà làm Giáo Chủ sáng lập ra Phật giáo, còn người vô niệm, vô trụ, vô chứng lại không phải là giáo chủ. Vậy Phật giáo Đại Thừa và Thiền Tông là Phật giáo gì?
Dù không đối tượng ác pháp nhưng thiện pháp vẫn còn mãi mãi, vì thiện pháp là nền tảng đạo đức làm người, là nền móng giải thoát của đạo Phật, cho nên người tu sĩ đạo Phật nào cũng đều phải trụ vào đó để không làm khổ mình khổ người tức là tu giải thoát, tức là làm lợi ích cho chúng sanh.
15. VÌ VÔ MINH TA SỐNG VIỄN LY
Hỏi: Kính bạch Thầy, “Vì vô minh ta sống viễn ly.” Theo ý hiểu cạn cợt của con. Con suy xét trên bình diện sự và lý.
Về sự: Ta vẫn sống hội nhập cùng mọi người, ăn ở sinh hoạt trong đời thường.
Về lý: Ta dũng cảm bỏ đi tất cả (ly dục ly ác pháp), phải có tâm kiên cố và dứt khoát để chiến thắng nó.
Sen nở trong bùn mà không có mùi bùn. Có chúng sanh mới có Phật và ngược lại. Trong Tập Đế HT dạy: “chúng sanh vì si mê nên khổ vì tưởng. Tưởng là không có thật nên không chấp. Ví dụ như bị mất trộm, bị đánh, bị chửi rủa là đồ trâu chó v.v... Phải đối cảnh với thực tế này. Lập tức con nghĩ ngay đến nhân quả. Chẳng phải kiếp này mà còn từ kiếp trước ta đã tạo nên những nghiệp này, thì bây giờ có dịp phải trả vay là đúng “hoạn nạn là giải thoát.” Họ chửi ta là đồ trâu chó … là họ nhắc lại cho ta kiếp trước ta là những con vật ấy rồi. Hiểu như vậy tức là ta “chánh niệm tỉnh giác?”
Đáp: Đúng vậy, đời sống con người khổ vì lòng ham muốn và các ác pháp, nhưng lại khổ vì tưởng, lầm cho những cái không có cho là có thật, nên khổ cũng không phải ít. Ví dụ: Thế giới siêu hình không có, người ta tưởng cho nó có, vì thế người ta phải khổ với nó rất nhiều.
Quán xét về nhân quả, đây là một góc độ tu tập của Định Vô lậu. Định Vô Lậu là trí tuệ tri kiến giải thoát, người thường hay quán xét thì trí tuệ tri kiến giải thoát phát triển khiến cho ba lậu hoặc không tác động vào tâm được. Định Vô Lậu là một loại định triển khai trí tuệ tri kiến giải thoát vô lậu như chúng tôi đã nói ở trên, nó có nhiều góc độ để quán xét như:
1- Quán xét về nhân quả như cư sĩ đã quán xét ở trên.
2- Quán xét về lý duyên khởi.
3- Quán xét về Tứ Niệm Xứ.
4- Quán xét về Tứ Vô Lượng Tâm
5- Quán xét Tứ Bất Hoại Tịnh.
6- Quán xét Tứ Chánh Cần.
7- Quán xét Thất Giác Chi.
8- Quán xét Tứ Thánh Định.
9- Quán xét Tứ Như Ý Túc.
10- Quán xét Tam Minh.
Nhờ tư duy quán xét nhân quả chúng ta mới thấu rõ nhân quả thảo mộc; mới thấu rõ đường đi nhân quả của con người; mới thấu rõ thân vô thường, khổ, không, vô ngã; mới thấu rõ thân ngũ uẩn; mới thấu rõ ngũ triền cái; mới thấu rõ thất kiết sử; mới thấu rõ Tứ Vô Lượng Tâm v.v…
Nhờ có thấu rõ nên không có ác pháp nào tác động vào thân tâm chúng ta được, vì thế mà lậu hoặc không còn, tâm hồn lúc nào cũng thanh thản an lạc và vô sự. Một sự giải thoát ngay liền.
16. SÁT SANH MÀ KHÔNG TỘI
Hỏi: Kính bạch Thầy, giết những con vật phá hại, hoặc kẻ ác, (chuột bọ sâu kiến…) HT dạy là không tội? Con đặt nghi vấn:
1, Nếu nặng, do lợi ích cho riêng mình (lòng ích kỷ, đố kỵ).
2, Nếu nhẹ, bản thân mình làm nhưng mang lại lợi ích cho nhiều người. Thêm vào đó mình chưa ly dục ly ác pháp. Một nhân quả rất công lý và công bằng thì tránh sao khỏi không bị chi phối? Khởi niệm giết là chịu nhân một hành động rồi. Nhân quả vậy mà.
Đáp: Trong Giới luật của Phật có hai nghĩa: 1- Là đức hạnh; 2- Là pháp luật nghiêm cấm.
Căn cứ theo giới luật của Phật mà nói thì giới luật là pháp luật nhân quả. Pháp luật nhân quả luôn luôn áp dụng cho muôn loài vạn vật trên hành tinh này rất bình đẳng, không có một pháp luật nào bình đẳng hơn được.
Khi nói đến nhân quả là phải nói đến môi trường sống, hễ nói môi trường sống thì phải nói đến một đạo luật công bằng và công lý. Chuột, bọ, sâu, rầy, kiến … là một loài động vật như bao nhiêu loài động vật khác, trong đó có con người, chúng cũng có một sự sống như bao nhiêu sự sống khác, chúng cũng biết đau khổ, biết sợ chết … Vì thế vô cớ mà chúng ta xâm phạm đến đời sống của chúng và còn tìm chúng để giết hại thì dù là một con kiến, con trùng, con dế v.v… vẫn bị kết tội nặng cũng như giết một mạng người. Đó là pháp luật nhân quả định tội, có định tội như vậy mới là một đạo luật công bằng.
Ngược lại, chúng xâm chiếm vào đời sống của chúng ta, phá hại mùa màng do công lao của chúng ta làm ra bằng mồ hôi nước mắt, vì thế chúng ta có quyền bảo vệ sự sống của chúng ta. Bằng cách phải diệt trừ kẻ ác để tự vệ, không những riêng cho chúng ta mà còn bao nhiêu loài vật khác nữa. Luật nhân quả phải công bằng trên vấn đề này. Vì loài sâu bọ chuột đang phá hoại mùa màng và đang giết người và giết các loài vật khác, chúng ta và các loài vật khác sẽ bị chết đói.
Theo công lý, những loài sâu bọ côn trùng chuột v.v… có tội trộm cướp và cố sát loài người và các loài vật khác, tội ấy là tội tử hình, như vậy chúng ta giết các loài sâu bọ, chuột để tự vệ bảo toàn sự sống của mình và các loài vật khác thì bất cứ một pháp luật nào chúng ta cũng đều là người vô tội.
Ví dụ: Một nước đang bị ngoại xâm, toàn dân nước ấy đứng lên chống ngoại xâm giết giặc tức là giết người mà không có tội, còn kẻ cướp nước kia mới là kẻ có tội.
Tại sao vậy? Vì môi trường sống chung thì phải được bảo vệ để cho mọi loài động vật trên hành tinh này được sống bình đẳng và an ổn. Vì thế phải diệt trừ những loài vật phá hoại môi trường sống. Luật nhân quả sẽ công bằng trị tội nếu ai phá hoại môi trường sống sẽ tự chuốc hậu quả. Loài côn trùng, sâu, bọ, chuột v.v... cũng vậy. Do chúng tạo nhân chẳng lành thì chúng phải trả quả là chúng ta diệt chúng. Đó là luật nhân quả rất công minh. Đối với kẻ có tội trộm cướp giết hại sự sống của loài người thì pháp luật thế gian cũng đều kết án tử hình huống là luật nhân quả, do đó ta giết hại côn trùng phá hại mùa màng của ta là không có tội.
17. NGÃ VÀ VÔ NGÃ
Hỏi: Kính bạch Thầy, câu tác ý: Tôi đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành. Con hỏi: Đã phá bản ngã thì làm gì có tôi và của tôi. Vậy thay bằng chữ thân đi kinh hành có khác nhau không?
Đáp: Dù có thay danh từ nào thì nghĩa của nó cũng chỉ là “tôi.” Người ta đã chịu ảnh hưởng của Thiền Tông và kinh sách phát triển quá sâu, cho là con người tu theo đạo Phật thì phải không có ngã, không có cái ta, không có cái của ta thì người ấy mới giải thoát, cho nên thường tránh những danh từ xưng hô cái tôi, cái ta mà xưng hô là trò, là con v.v... là có ý dẹp ngã, đó là một việc làm sai. Theo đạo Phật sự cung kính trước mặt cũng như sau lưng đều cung kính thì đó là đạo đức chân thật lợi ích cho mình cho người, còn trước mặt xưng hô là trò, là con mà sau lưng thì khác thì cái đó là giả dối chứ không phải diệt ngã xả tâm.
Theo chỗ chúng tôi hiểu Đức Phật dạy: “Vô thường, khổ, vô ngã,” đây là tam pháp ấn để xác định một sự thật về thế giới hiện tượng này, do chúng ta không hiểu ý này nên lo đập phá cái ngã của mình. Bởi vì người ta thường lầm chấp cho thế giới này là thường hằng, không khổ, là hạnh phúc. Vì sự lầm chấp dính mắc này nên Đức Phật dạy cho chúng ta hiểu để không dính mắc, chứ Đức Phật không bảo chúng ta tu hành để trở thành cây đá (vô ngã, không ta, không cái của ta).
Đức Phật dạy: “diệt ngã” là xả lòng ham muốn của mình, chứ không phải diệt cái ngã, xả lòng ham muốn của mình là Diệt đế. Diệt đế là một chân lý trong bốn chân lý của đạo Phật chứ không phải diệt ngã như người ta hiểu. Vô thường, khổ thì ai cũng rõ, nhưng vô ngã thì người hiểu như thế này, kẻ hiểu như thế kia. Có người lại hiểu rằng: Vô ngã là Niết bàn, hiểu như vậy có nghĩa là trong Niết Bàn không có ngã. Vậy không có ngã thì ai là người biết Niết Bàn? Không người biết Niết Bàn sao Đức Phật lại biết mà dạy cho chúng ta Diệt đế.
Trong Diệt đế theo chúng tôi hiểu thì phải có ngã, vì Diệt đế là mục đích giải thoát của con người cho nên nó là một chân lý của loài người không ai chối cãi được. Một sự giải thoát chân thật không ai phủ nhận được vì nó có người biết Niết Bàn, có người biết tự Niết Bàn trong tâm của mình thì không thể nào là vô ngã được.
Đức Phật dạy: “Pháp không có thời gian đến để mà thấy.” Khi tu theo đạo Phật chúng ta thấy sự giải thoát rõ ràng, vậy không thể nào vô ngã được. “Ngăn ác diệt ác, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp,” vậy cái gì ngăn và diệt ác pháp, cái gì sanh thiện tăng trưởng thiện?
Thưa quý vị! Cái gì không giải thoát, cái gì giải thoát? Ác pháp là không giải thoát, thiện pháp là giải thoát. Như vậy người tu có cần gì diệt ngã, cái ngã chỉ cần biết sống trong thiện pháp là Niết Bàn rồi.
Đạo Phật ra đời vốn vì con người khổ chứ không phải vì cái ngã của con người. Đạo Phật biết lấy cái ngã ác của con người tu sửa trở lại để trở thành cái ngã thiện, nhờ thế con người sống toàn thiện, đó là Niết Bàn, chứ không phải vô ngã là Niết Bàn như kinh sách phát triển dạy.
Đại Thừa và Thiền Đông Độ đã lầm nên đã ca ngợi những người vô niệm, vô trụ, vô chứng là tối thượng, vô niệm, vô trụ, vô chứng là vô ngã mà vô ngã là gốc cây cục đá rồi. Nếu còn có cái biết thì không thể nào gọi là vô ngã được.
Con người tu để vô ngã thì không bao giờ tu vô ngã được, cũng như con người bảo rằng không tài sản thì không thể nào có người không tài sản được. Vì thế, hữu ngã thiện pháp mới thật sự là vô ngã.
Có của cải tài sản mà không dính mắc của cải tài sản mới thật sự là không tài sản, nhờ đó mà tâm được an vui, hạnh phúc. Cho nên hữu ngã thiện mới không làm khổ mình, khổ người, gọi là giải thoát.
Đạo Phật tu hành chỉ hiểu biết rõ thiện và ác, lúc nào cũng ngăn và diệt ác pháp thì mục đích của Phật giáo nơi đó là đã chứng đạo.
18. LỤC ĐỘ BA-LA-MẬT
Hỏi: Kính bạch Thầy, trong pháp hành: Nếu ngồi kiết già thẳng lưng thời gian 30 phút, có thực hiện được sáu Ba La Mật không? Nếu đi kinh hành nhiều, vô tình dày đạp lên những con vật nhỏ xíu có phạm vào giới sát không?
Đáp: Ngồi kiết già lưng thẳng giữ tâm không niệm thiện niệm ác thì đó là tu sáu Ba La Mật rồi. Bởi vì sáu Ba La Mật kể ra cho nhiều, nghe cho vui chứ chính bản chất của nó là không (người cho mà không biết mình cho và người nhận không biết mình nhận thì đó mới là bố thí Ba La Mật). Những điều này là những điều hý luận, toàn là thứ bánh vẽ. Cho nên từ xưa đến giờ không có ai tu sáu độ Ba La Mật được cả, chỉ lừa đảo người mà thôi.
Đi kinh hành sợ dẫm đạp lên chúng sanh, chính sự sợ dẫm đạp lên chúng sanh mới là đi kinh hành, còn không sợ dẫm đạp lên chúng sanh mà đi kinh hành thì không có nghĩa là đi kinh hành nữa.
Vô tình sát hại chúng sanh vẫn có tội, do có tội nên đi kinh hành rất cẩn thận, như vậy mới thật sự kinh hành tỉnh thức, mới có nghĩa là tu tập kinh hành. Nhờ sợ dẫm đạp lên chúng sanh mà đi kinh hành đúng đắn, đi kinh hành đúng đắn là tỉnh thức.
19. TỨ THIỀN CÓ GIỐNG VÔ TÂM KHÔNG?
Hỏi: Kính bạch Thầy, tu đến Tứ Thiền: xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh có giống Vô tâm không?
Đáp: Không! Trong trạng thái Tứ Thiền chúng ta có một tâm lực siêu việt dùng để thực hiện Tứ Như Ý Túc và Tam Minh, không phải vô tâm như Thiền Đông Độ. Tứ Thiền là một loại định của thân, vì thế khi nhập Tứ Thiền thì thân bất động, hơi thở tịnh chỉ, hơi thở tịnh chỉ thì các hành trong thân đều ngưng nghỉ.
Vô tâm là một loại thiền định của Đại Thừa và Thiền Đông Độ, vì thế thân nó không định tức là thân còn hoạt động (còn thở ra, vô). Thân không định thì không thể nào thực hiện Tứ Như Ý Túc và Tam Minh được. Nếu không thực hiện được Tứ Như Ý Túc và Tam Minh thì không bao giờ làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt tái sanh luân hồi.
20. PHÁP THÂN
Hỏi: Kính bạch Thầy, trong sách Cẩm Nang Tu Phật, Thầy giảng về hành Mười Thiện: 1, Thân hữu sắc (thân do duyên hợp giả có). 2, Tâm là vô sắc (không có hình), vậy gọi là pháp thân có được không?
Có giống như trong nước biển có muối, không một mà cũng chẳng phải hai, hay trong nước có bọt nước. Vậy câu: “Sắc tức là không, không tức là sắc” có hợp lý không?
Đáp: Không! Pháp thân là một trạng thái vô dục của tâm chứ không phải tâm, vì tâm là một uẩn trong ngũ uẩn. Khi sắc uẩn hoại diệt thì toàn cả ngũ uẩn đều hoại diệt, ngũ uẩn hoại diệt thì tâm đâu còn. Trong năm uẩn chỉ có sắc uẩn là hữu sắc còn bốn uẩn kia là vô sắc, cho nên không thể lấy một uẩn vô sắc mà gọi là pháp thân được. Vì lấy tâm uẩn cho là pháp thân thì thọ uẩn, hành uẩn và tưởng uẩn cũng cho là pháp thân được sao?
Trong thân nhân quả (thân ngũ uẩn) của chúng ta chỉ thuần có một vị khổ, không có vị giải thoát, nếu chúng ta không tu tập đúng chánh pháp thì không bao giờ có vị giải thoát. Trong luật nhân quả có vị giải thoát và không giải thoát, thiện và ác, thiện là giải thoát, ác là khổ đau. Cho nên đem thân ngũ uẩn ví như nước biển, cũng như nước và bọt nước thì e rằng không đúng vì thân ngũ uẩn là một hợp chất của các duyên chứ không thật có thì làm sao như nước và bọt nước được. Vì thế câu kinh: “sắc tức là không, không tức là sắc” thì không đúng ý nghĩa của Phật giáo. Cho nên Đức Phật dạy: “Nếu còn có một chút xíu gì trong thân ngũ uẩn này thường hằng thì Đạo Phật không ra đời.” Tại sao vậy? Tại vì không giải thoát khổ cho loài người.
Vài lời thăm và chúc con thân tâm an lạc, kiên cố tu hành đến ngày viên mãn.
Kính thư! Sa Môn Thích Thông Lạc
Chơn Như ngày 20 tháng 01 năm 2001.
21. NIỆM VÀ HÀNH CÁC PHÁP NHƯ THẾ NÀO?
Chơn Như ngày 8 thàng 2 năm 2001
Kính thưa Thầy! Vì Phật pháp, lúc này nếu Thầy ra đi chúng con e rằng: Giới luật của Đức Phật người ta còn bẻ vụn, vậy Đường Về Xứ Phật của Thầy người ta sẽ phá đi để đi con đường khác Thầy ạ! Do đó ước nguyện của chúng con muốn Thầy vì Phật Pháp trường tồn, vì dìu dắt chúng sanh đang đắm chìm trong biển khổ. Kính xin Thầy, một thời gian nữa Thầy hãy ra đi Thầy nhé!
Thưa Thầy, con nghĩ rất nhiều, con không thể viết ra được, con không có văn hay, chữ tốt, lỗi chính tả của con cũng có, con mong Thầy cảm thông cho con. Sau đây con mong Thầy giải thích cho con hiểu một số câu hỏi:
Niệm và Hành các pháp này như thế nào?
Kính thưa Thầy, ở miến Bắc các cư sĩ thường đọc và tụng kinh sách của Đại Thừa nhiều nên đã ăn sâu vào tâm trí của mọi người. Đến nay chúng con có phước duyên gặp được chánh pháp của Phật, chúng con mong Thầy giảng rõ cách niệm, cách hành trì và phân biệt những câu dưới đây để mọi người hiểu được rõ ràng để khi tu tập cho có kết quả.
1, Cách niệm thân, thọ, tâm và pháp như thế nào?
2, Cách quán thân, thọ, tâm, pháp như thế nào?
3, Cách niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới như thế nào?
Ở miền Bắc nói đến niệm là mọi người cứ đọc: “Nam Mô A Di Đà Phật” hoặc “Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật” v.v… Còn niệm Pháp thì cứ nghĩ tưởng là tụng kinh, họ đâu biết kinh là lời Phật dạy các pháp thiện hoặc ác để mọi người tu tập tránh điều ác làm điều lành để mọi người không còn làm khổ cho nhau, đó là giải thoát, chứ đâu có nghĩ kinh sách để mà tụng gọi là niệm Pháp.
Từ lâu trên thế gian này chúng con có bao giờ được nghe giảng về các pháp này đâu. Vì vậy chúng con ngưỡng mong Thầy từ bi thương xót chúng con, nói rõ như Thầy đã giảng “Thất Giác Chi” trong tập 9 Đường Về Xứ Phật."
Đáp: Niệm theo lời Đức Phật dạy thì không phải là miệng đọc thầm hoặc đọc to tiếng một danh hiệu Phật hoặc một câu kinh, câu kệ, câu thần chú v.v…
Niệm có nghĩa là tâm tâm niệm niệm một việc gì, một gương hạnh đạo đức cao thượng, một pháp môn tuyệt vời để sống đúng, làm đúng, tu tập đúng, không hề làm sai, hành sai, sống sai v.v…
1- Cách niệm thân, thọ, tâm, pháp là luôn luôn quan sát để ý trên bốn chỗ này tức là thân, thọ, tâm và pháp. Hễ khi thấy có chướng ngại pháp nào trên đó thì phải tìm mọi cách đẩy lui chúng ra khỏi bốn chỗ này. Nhờ tu tập như vậy mà tâm được giải thoát nên gọi là tu tập Tứ Niệm Xứ hay gọi là cách niệm thân, thọ, tâm, pháp và vì vậy còn gọi là niệm bốn niệm xứ.
2- Quán thân, thọ, tâm và pháp là cách tư duy, suy nghĩ về thân, thọ, tâm và pháp. Ví dụ:
Quán về thân, tức là tư duy suy nghĩ về sự vô thường, sự bất tịnh, sự đau khổ của thân. Thân không phải là ngã, là ta, là của ta, là bản ngã của ta, thân là do nhân quả tạo thành, thân là do tứ đại hòa hợp, thân là ổ bệnh tật, là tai họa, khổ ách v.v…
Quán về thọ, thọ cũng vô thường, cũng khổ đau, thọ không phải là ta, là của ta, là bản ngã của ta, thọ là do nhân quả mà có, thọ là thọ chứ không có người chịu thọ khổ đau như phần đông người ta tưởng “Có người chịu thọ khổ đau.”
Quán về tâm, tâm vô thường, vô ngã, tâm là khổ đau, tâm không phải là ta, của ta, không phải là bản ngã của ta, tâm là do duyên ngũ uẩn tạo thành, tâm là chủ chốt của hành động nhân quả thiện và ác, tâm ham muốn là khổ, tâm không ham muốn là giải thoát, tâm ác là khổ, tâm thiện là giải thoát.
Quán về pháp, các pháp là vô thường, là khổ, là vô ngã, các pháp không phải là ta, của ta, bản ngã của ta v.v…
Về phương pháp niệm Phật, Pháp, Tăng và Giới thì các con nên đọc lại Tứ Bất Hoại Tịnh mà Thầy đã giảng dạy trong bộ sách Đường Về Xứ Phật. Trong kinh Nguyên Thủy Đức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy:
Niệm Phật có nghĩa là Phật sống như thế nào thì chúng ta sống như thế nấy thì gọi là niệm Phật.
Niệm Pháp có nghĩa là pháp dạy như thế nào thì chúng ta sống đúng như pháp đã dạy thì đó là niệm Pháp.
Niệm Tăng có nghĩa là chúng Tăng sống hòa hợp như thế nào thì chúng ta sống hòa hợp như thế nấy, đó là niệm Tăng.
Niệm Giới có nghĩa là giới luật dạy như thế nào thì chúng ta phải sống đúng giới luật không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào thì đó là niệm giới.
Chỉ tu tập theo đúng lời dạy trên đây thì có sự giải thoát ngay liền, còn niệm Phật theo kiểu Đại Thừa, cứ đọc tụng danh hiệu Phật tức là chửi Phật thì có tội chứ chẳng có ích lợi gì cả. Ví dụ: Như có ai cứ gọi tên mình mãi mình có buồn giận không? Chẳng hạn người ta gọi tên con: “Tâm Thanh ơi! Tâm Thanh ơi! …!
Như vậy con thấy sao? Gọi tên con mà con giúp gì được cho họ khi mà luật nhân quả đã công bằng và công lý xử phạt công minh cho những kẻ làm ác.
22. THỌ BÁT QUAN TRAI
Hỏi: Kính thưa Thầy, thọ Bát Quan Trai như thế nào cho đúng? Bên Đại Thừa trong một tháng thọ Bát Quan Trai chọn lấy hai ngày, ngày 15 và ngày 30, ngày ấy đem kinh Phạm Võng đến chùa để nghe thuyết giảng và giữ giới. Bây giờ chúng con được nghe Thầy dạy thọ Bát Quan Trai chúng con cũng chọn lấy hai ngày ấy, nhưng ngày đó gia đình có việc bận rộn, chúng con có thể thọ vào ngày khác được không?
Đáp: Thọ Bát Quan Trai tức là người cư sĩ phải sống đúng trong một ngày như Phật (tập làm Phật trong một ngày) không hề vi phạm tám giới, sống trầm lặng độc cư một mình, không nói chuyện tào lao, không làm ồn náo, không nghe thuyết giảng, không ăn uống phi thời, không ca hát và nghe ca hát, không trang điểm làm dáng làm đẹp, giữ tâm từ bi thương xót chúng sanh, không khởi tâm dâm dục, không nói lời không đúng sự thật, không uống rượu và những thứ nghiện ngập, không tham lam trộm cắp.
Suốt trong 12 tiếng chuyên tâm tu tập thường hằng đẩy lui các chướng ngại pháp trên thân, thọ, tâm, và pháp. Tu như vậy mới gọi là Thọ Bát Quan Trai. Còn tu tập Thọ Bát Quan Trai theo kiểu Đại Thừa thì tụng kinh, niệm Phật, nghe pháp, ngồi thiền, đó là lối giải trí tôn giáo chứ tu tập như vậy không có lợi ích gì cả.
Trong một tháng các con chọn một ngày nào rảnh thì tu tập Thọ Bát Quan Trai đều tốt, chứ không riêng gì ngày 15 và ngày 30. Các con là cư sĩ, gia duyên có rất nhiều việc không thể bỏ quên trọng trách và bổn phận của mình đối với những người thân thương trong gia đình? Các con chớ phải đợi ngày 15 và ngày 30 mới Thọ Bát Quan Trai mà ngày nào cũng tốt, miễn là các con được rảnh công việc. Ngày 15 và ngày 30 Đại Thừa tổ chức như vậy là tạo thành ngày hội thói quen để vui chơi giải trí tôn giáo.
Mặc dù trong kinh sách Nguyên Thủy có dạy ngày 15 và ngày 30 Thọ Bát Quan Trai có nghĩa là chia đều trong tháng cách 15 ngày một kỳ Thọ Bát, nhưng đó là sự chia đều để dễ tu chứ không phải là sự tu tập để làm Phật trong một ngày. Theo Thầy thiết nghĩ ngày nào rảnh rang là ngày đó dễ tu nhất, vì đây là pháp tu xả tâm chứ không phải ức chế tâm, các con cứ suy ngẫm có đúng không?
23. CÁCH XƯNG HÔ
Hỏi: Kính thưa Thầy, trong ngày Thọ Bát Quan Trai chúng con xưng hô như thế nào cho đúng? Chúng con thường xưng hô như thế này: “Các cô và con. Các đạo hữu và tôi.” Chúng con mong Thầy từ bi lân mẫn dạy bảo để chúng con biết cách xưng hô với nhau cho đúng là người đệ tử của Phật, là người dân Việt Nam mà không bị đồng hóa với dân tộc khác.
Đáp: Các con nên xưng hô với nhau: Người nhỏ tuổi nên gọi người lớn tuổi hơn bằng cụ, cô, bác, anh, chị như tiếng xưng hô ngoài đời, nhưng phải thêm vào pháp danh.
Ví dụ: Thưa cụ Minh Tâm, con muốn hỏi một điều; …, thưa cô Liễu Tâm, cháu muốn nhờ cô giúp cho…; thưa bác Tâm Như, …; thưa anh Từ Quang, …; thưa chị Liễu Hạnh v.v…
Người lớn tuổi xưng hô với người nhỏ tuổi hơn bằng cách gọi pháp danh.
Ví dụ: Minh Tâm, bác nhờ cháu giúp điều này, Minh Trí, em giúp chị điều này, Liễu Châu, cô muốn nói chuyện với cháu, Liễu Ngọc, em lấy cho chị cái rổ, Từ Hạnh, cháu giúp bác cắm lọ hoa, Từ Đức giúp cô mời cụ Tâm Quang v.v… Nếu lịch sự hơn một chút thì chúng ta thay đổi vị trí cháu, em, đứng trước pháp danh. Ví dụ: cháu Diệu Thiện, em Từ Hạnh …
Về việc xưng hô các con đừng dùng (không nên dùng) những danh từ Hán ngữ như: “hiền tỷ, hiền muội, hiền huynh, đạo hữu, đạo huynh, sư tỷ, sư muội, sư huynh, sư bá, sư thúc v.v…” Xưng hô như vậy rất là Trung Hoa, nghe không phải là người Việt Nam, phải không các con? Người Việt Nam xưng hô bằng ngôn ngữ Việt Nam và những ngôn ngữ ấy rất thân mật và cao đẹp, ngôn ngữ và âm thanh ấy diễn đạt được đạo đức tình thương thấm thía từ người này cảm thông đến người kia như chia xẻ ngọt bùi cay đắng của kiếp làm người và cũng nói lên được sự cảm thông nhau trên đường tu tập xả tâm ly dục ly ác pháp là pháp khó khăn vô cùng vô tận. Ngôn ngữ xưng hô của dân tộc Việt Nam không thể thua một ngôn ngữ nước nào trên hành tinh này, nó nói lên đúng ý nghĩa tinh thần tình cảm của dân tộc Việt Nam, nhờ thế chúng ta không bị đồng hóa với một dân tộc nào khác phải không hỡi các con?
Dân tộc Việt Nam không thiếu ngôn ngữ xưng hô, thế mà trong tôn giáo lại dùng những ngôn ngữ ngoại lai xưng hô với nhau mà lại còn hãnh diện. Thật là đau lòng! Người Việt mà không biết dùng tiếng Việt xưng hô với nhau thì có nỗi buồn và xấu hổ nào hơn phải không các con?
24. NGƯỜI CƯ SĨ CÓ NHẬP ĐƯỢC SƠ THIỀN KHÔNG?
Hỏi: Kính thưa Thầy, người cư sĩ có nhập được Sơ Thiền không? Chúng con là những cư sĩ tại gia, cũng ăn trường chay, có người cũng ăn ngày một bữa, không ăn uống phi thời và đang tu tập ly dục ly ác pháp. Nhưng bổn phận và trách nhiệm làm người nội trợ gia đình nên chúng con phải đi mua các loại thịt cá mà người bán đã làm sẵn. Chúng con chỉ có cắt, thái, xào nấu cho gia đình ăn. Đó là chúng con tùy thuận gia đình. Nhưng với tâm chúng con thì không dính mắc có nghĩa là chúng con không còn ưa thích ăn thịt cá nữa.
Với việc làm này chúng con tu tập có nhập được Sơ Thiền hay không? Và có tội lỗi gì không? Xin Thầy vui lòng chỉ dạy cho chúng con được rõ để chúng con tu tập cho có kết quả. Chúng con xin biết ơn Thầy.
Đáp: Người cư sĩ vẫn nhập được Sơ Thiền, nhưng phải siêng năng tu tập Thọ Bát Quan Trai giữ gìn rất đúng phạm hạnh, không hề vi phạm tám giới đã thọ thì chuyển hóa được nghiệp gián tiếp sát sanh.
Thầy sẽ cố gắng nội trong năm này bộ sách Đạo Đức Làm Người ra đời giúp cho tất cả gia đình của các con không còn ưa thích thực phẩm động vật, các con sẽ không còn thấy sự sống chết khổ đau của chúng sanh dưới bàn tay của các con nữa.
Hiện giờ tuy rằng các con không tự tay giết hại chúng nhưng còn có người ăn thì còn có người giết hại. Càng suy ngẫm chúng ta lại càng thương tâm cho chúng sanh, trước lúc chết chúng phải chịu nhiều sự hành hạ khổ đau, giãy giụa, kêu la phải không hỡi các con?
Người tu theo đạo Phật không nỡ nhẫn tâm nhìn sự đau khổ và chết chóc trước cảnh thảm thương đó. Người tu theo đạo Phật không nỡ nhẫn tâm bỏ thịt cá vào miệng nhai nuốt. Nhai nuốt làm sao được mỗi miếng thịt cá là mỗi sự khổ đau giẫy giụa kêu la trên dao dưới thớt. Thật là đau xót vô cùng.
25. NGƯỜI TU SĨ PHÁ GIỚI
Hỏi: Đi tu có được học giới luật không? Nếu đã được học giới luật, sao không giữ gìn giới luật mà để vi phạm?
Người tu sĩ sao lại ăn uống phi thời, ngày ăn ba bốn bữa như vậy có đúng là tu sĩ không?
Người tu sĩ sao lại ăn thịt chúng sanh? Lòng từ bi của họ ở đâu? Sao lại theo đạo từ bi mà không có từ bi chút nào?
Người tu sĩ sao không có oai nghi tế hạnh, đi đứng nằm ngôi nói năng không đúng cách, họ chẳng khác gì người cư sĩ tại gia, tại sao vậy?
Xin Thầy chỉ dạy cho chúng con được rõ.
Đáp: Theo Phật giáo Nguyên Thủy, trước khi muốn trở thành một tu sĩ của Phật giáo, người cư sĩ cũng như người tu sĩ ngoại đạo phải bốn tháng được sống và học tập giới luật, nếu bốn tháng cảm thấy sống thích thú với đời sống phạm hạnh tức là không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào cả thì Đức Phật mới chấp nhận trở thành người tu sĩ của Phật giáo. Bởi vì giới luật là đạo hạnh của người tu sĩ.
Đối với người tu sĩ Phật giáo thì không thể thiếu được đạo hạnh, nếu thiếu giới luật đạo hạnh thì người tu sĩ ấy là người tu sĩ ngoại đạo không phải tu sĩ của Phật giáo. Đức Phật đã xác định điều này: “Giới luật còn là đạo Ta còn, giới luật mất là đạo Ta mất,” như vậy một tu sĩ sống không đúng giới luật là không phải tu sĩ của Phật giáo.
Như vậy các tu sĩ Phật giáo hiện giờ dù Bắc Tông hay Nam Tông; Thiền Tông hay Tịnh Độ Tông, Mật Tông hay tất cả Tông nào khác… đều sống không đúng giới luật thì đó không phải là tu sĩ của ngoại đạo sao? Các phật tử hãy suy ngẫm lời Đức Phật đã dạy trên đây để chúng ta nhận xét tu sĩ nào là tu sĩ Phật giáo và tu sĩ nào là tu sĩ ngoại đạo không còn khó khăn nữa phải không quý phật tử?
Bốn tháng thử thách giới luật của một người mới vào tu, không phải là bốn tháng học và sống đúng giới luật sao? Những hành động sai phạm giới mà con đã nêu ở trên, đó là những tu sĩ của kinh sách phát triển, những tu sĩ này có xứng đáng làm thầy của cư sĩ các con không?
Họ là những tu sĩ thiếu đạo đức làm người thì nói gì đến đạo đức làm Thánh; họ là những tu sĩ không xứng đáng làm gương hạnh tốt cho người cư sĩ; họ không xứng đáng là tu sĩ để các con cúng dường, đảnh lễ, cung kính và tôn trọng.
26. QUÁN ĂN THỊT NHƯ ĂN RAU
Hỏi: Kính thưa Thầy, dựa vào đâu mà các sư thầy nói: “Quán ăn thịt như ăn rau.” Có một số quý thầy và một số thượng tọa nói với các phật tử: “Đi đâu họ làm cỗ mặn ta cứ quán ăn thịt như ăn rau là để hòa chúng.”
Con đọc sách Bảo Đàn Kinh nói về Lục Tổ Huệ Năng, trong thời gian ẩn dật cùng phường săn trong rừng, hằng ngày Ngài hái rau rừng bỏ vào một góc của nồi thịt, khi ăn Ngài chỉ ăn rau mà thôi, do đó khi đi đâu con đều tùy thuận mọi người làm vui lòng họ, con cũng gắp cũng ăn cứ miếng rau, miếng măng, còn miếng thịt miếng cá thì con không gắp, không ăn.
Nhìn miếng thịt miếng cá con quán tưởng như thịt của cha mẹ mình, vì cha mẹ mình đã chết đi được tái sinh làm những con thú vật này, bây giờ người ta giết chết làm cỗ bàn thì nỡ lòng nào chúng ta ăn thịt được. Còn hòa chúng như các thầy ăn thịt có đúng không? Hay làm vui lòng như chúng con là đúng? Kính xin Thầy dạy bảo cho chúng con được rõ.
Đáp: Những người tu sĩ này lòng từ bi thương xót chúng sanh không có nên tâm còn tham ăn thịt chúng sanh. Vì thế dựa vào tưởng tri để luận ra câu nói này chứ trong kinh sách không có dạy, câu nói này do các Tổ sư Nam Tông đặt ra để thỏa mãn dục vọng hung ác ăn thịt chúng sanh như quỷ La Sát chuyên ăn thịt người.
Người tu theo đạo Phật mà không hiểu bổn phận trách nhiệm đạo đức làm người làm Thánh thì lấy pháp gì mà giáo hóa chúng sanh, ngoài đạo đức làm người, làm Thánh thì còn pháp gì mà dạy chúng sanh tu hành giải thoát. Cho nên người ta bỏ giới luật đạo đức lấy Thiền, Mật, Tịnh dạy người tu tập cho nên không thành Phật giải thoát mà thành những loại vi trùng truyền nhiễm bệnh phá giới: “quán ăn thịt như ăn rau.” Đã đi tu mà còn thèm thịt cá cho nên quán thịt thành rau để mà ăn, làm như rau cải không còn ai trồng nữa.
Lại thêm dùng miệng lưỡi lừa đảo người gọi là hòa chúng. Một tu sĩ hòa chúng để trở thành những người phàm phu tục tử, như vậy đi tu để làm gì? Đi tu để làm Thánh, làm Phật chứ không lẽ đi tu rồi lại giống như người thế tục, giống như người thế tục thì đi tu để làm gì? Không lẽ đi tu chỉ có chiếc áo cà sa và cái đầu cạo trọc hay sao?
Phật phải độ chúng sanh để được giải thoát làm Phật, còn quý thầy hiện giờ là Phật, vì hòa hợp với chúng sanh nên bị chúng sanh đồng hóa không giải thoát mà thành chúng sanh, và còn tệ hơn nữa: thành ký sinh trùng, làm gánh nặng cho xã hội. Vậy mà không biết xấu hổ lại còn nói: “Quán thịt thành rau để hòa hợp chúng.”
Người tu sĩ đạo Phật lấy gương hạnh đạo đức mà giáo hóa chúng sanh, cớ sao lại tùy thuận với chúng sanh để phạm giới, phá giới và bẻ vụn giới thì lấy gương đạo đức ở đâu mà giáo hóa như chúng tôi đã nói ở trên, hay chỉ lấy những lời hý luận lừa đảo người.
Phật giáo suy thoái là do những tu sĩ vô đạo đức này mới có những câu nói: “Ăn mặn nói ngay, ăn chay nói dối.” Vì Phật giáo suy đồi nên mới có những hạng tu sĩ như vậy, những hạng tu sĩ này sống được là do những phật tử mê tín, lạc hậu, thiếu trí tuệ, kém thông minh nên dễ bị các tu sĩ này lừa đảo. Vì thế mới tin: “Ăn mặn nói ngay, ăn chay nói dối hay quán tưởng ăn thịt thành rau để hòa hợp chúng.”
27. NHỮNG TU SĨ PHÁ GIỚI LÀ NHỮNG
TU SĨ NGOẠI ĐẠO ĐANG DIỆT PHẬT GIÁO
Hỏi: Kính bạch Thầy, đệ tử của Phật sao lại nói dối? Chùa ngoài Bắc, các thầy lập đàn quy y cho cư sĩ, bảo chúng con đi chợ mua thức ăn thì nên mua con cá to đỡ tội hơn nhiều con cá bé. Có thầy còn lại nói: “Ăn mặn nói ngay ăn chay nói dối.” Theo như con, một người cư sĩ còn không nói dối huống là một tu sĩ nói ra như vậy còn thể thống gì là tu sĩ. Một người tu sĩ mà ăn nói như vậy là phá giới, phạm giới, là loại quỷ vương đội lốt nhà tu để diệt Phật giáo chứ những hạng người này có tu hành gì đâu. Nghe chúng con ăn trường chay, các thầy khuyên: “Các con còn công việc nhà nên mỗi tháng chỉ ăn mấy ngày thôi.”
Kính thưa Thầy, chúng con ăn trường chay mấy năm nay rồi, cơ thể hơi gầy đi một chút, nhưng công việc gia đình chúng con làm tất cả và không thấy ảnh hưởng xấu gì cho đời sống của chúng con. Chị Liễu Hương ăn trường chay mà còn ăn ngày một bữa, chị rất khỏe, làm mọi công việc. Chúng con mong Thầy dạy rõ về ăn chay và ăn mặn có lợi và có hại như thế nào để mọi người thấu rõ.
Đáp: Những lý luận của các tà sư ngoại đạo luôn luôn luận để phá giới luật của Phật, đó là một ý đồ diệt Phật giáo trên hành tinh này. Các cư sĩ đệ tử của Phật phải tránh xa những ác tri thức này, họ không phải là những người tốt với đạo Phật.
Họ biến ông Phật thành ông thần, họ biến chùa Phật thành cảnh du ngoạn cho khách hành hương, Phật và chùa không còn là cảnh tu hành nữa. Họ chỉ còn biết ăn uống, xe cộ, tiền bạc danh lợi, chùa to, Phật lớn v.v… chứ sự giải thoát không còn nữa.
Phật giáo đến hồi đen tối mới sản xuất ra những người tu sĩ này, mượn chiếc áo cà sa ngồi mát ăn bát vàng, các phật tử nên đề cao cảnh giác đừng để mắc lừa những vị thầy này. Họ là Ma Ba Tuần trong đạo Phật, họ đang tìm cách diệt Phật giáo để cho họ được tự do chạy theo dục lạc thế gian. Quý phật tử cần nên đề cao cảnh giác những người tu sĩ này.
28. ĐẠO PHẬT CÓ CÒN TRỞ LẠI NHƯ NGÀY XƯA NỮA KHÔNG?
Hỏi: Kính bạch Thầy, đến bao giờ các vị sư là bậc Thánh Tăng? Đến bao giờ đạo Phật trên hành tinh này mới trở về đúng nghĩa như thời kỳ Đức Phật còn tại thế? Đến bao giờ các vị sư mới giữ gìn đúng giới luật?
Đáp: Tùy theo phước báo của chúng sanh trên hành tinh này mà các bậc Thánh Tăng xuất hiện ra đời để quét sạch những tà sư ngoại đạo mạo danh là Phật giáo, chừng đó tất cả tu sĩ Phật giáo mới là những bậc Thánh Tăng.
Khi nào tu sĩ sống đúng giới hạnh thì Phật giáo trên hành tinh này mới trở về đúng nghĩa đạo giải thoát như thời kỳ Đức Phật còn tại thế.
Khi nào tất cả phật tử thông suốt đạo đức nhân bản nhân quả không làm khổ mình khổ người của Phật giáo thì các vị sư mới giữ gìn đúng giới luật.
Khi nào sự mê tín trong các chùa không còn nữa thì các vị sư mới giữ gìn đúng giới luật.
Khi nào tất cả phật tử không cúng dường trai Tăng cho những vị Tăng phạm giới, phá giới, bẻ vụn giới thì các vị sư mới giữ gìn đúng giới luật.
Khi nào chương trình giáo dục đào tạo tám lớp học Bát Chánh Đạo được mở mang khắp nơi để phật tử và Tăng Ni tham dự những lớp học này thì các vị sư mới giữ gìn đúng giới luật.
29. TIỀN THÂN
Hỏi: Kính bạch Thầy, trong sách có nói về Tô Đông Pha tiền kiếp trước là một thiền sư nổi tiếng. Vậy điều đó đúng hay sai? Và tại sao một thiền sư không tiến thân ở kiếp sau là một tu sĩ giải thoát mà phải lui lại làm một cư sĩ có vợ con?
Đáp: Từ một thiền sư tu hành chứng đạo thân tâm thanh tịnh làm chủ sự sống chết, chấm dứt luân hồi. Thế mà lại có hậu kiếp, như vậy Thiền Tông có đúng là con đường của đạo Phật không? Khi một người tâm đã hết tham, sân, si, mạn, nghi thì làm sao còn tương ưng với ai mà tái sinh luân hồi được. Phải không con?
Hậu kiếp là một cư sĩ có thê thiếp như Tô Đông Pha thì còn nghĩa lý gì của đạo giải thoát? Từ nước đục trở thành nước trong là khó chứ không phải dễ, từ nước trong trở thành nước đục là dễ chứ đâu phải khó. Cho nên Thiền Đông Độ tu hành không giải thoát nên có những câu chuyện ngược đời mà người trí không thể chấp nhận được. Bởi vậy người ta phá giới luật của Phật, người ta sống không có đạo đức, sống không có đạo đức thì lấy cái gì dạy người khác tu, do đó mới có những cư sĩ có vợ con, tâm còn dâm dục, ăn uống phi thời mà dạy đạo giải thoát thì giải thoát chỗ nào?
Chỉ có kinh sách phát triển mới có cư sĩ Duy Ma Cật v.v... Thiền Tông mới có cư sĩ Tô Đông Pha v.v… Người ta đâu biết rằng giới luật đạo đức của đạo Phật là pháp môn tu hành làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi. Vì thế người nào sống phạm giới, phá giới mà nói tu giải thoát là nói vọng ngữ, là lừa đảo người khác.
Có bao giờ chúng ta nghe Phật Thích Ca thành Phật mà còn trở lại làm chúng sanh nữa không? Trước khi chết Ngài nói: “Ta chỉ còn một kiếp làm người này nữa thôi.” Nghĩa là Ngài tu thành Phật rồi thì không bao giờ tái sanh làm người nữa. Vì từ nước đục Ngài lóng được nước trong, cho nên nước đã trong thì không bao giờ Ngài để nước đục trở lại, vì đạo Phật là đạo trí tuệ.
Câu chuyện tiền thân Đức Phật là câu chuyện ngụ ngôn, câu chuyện người sau bịa đặt để ca ngợi Đức Phật dùng Bồ Tát Hạnh hành Bồ Tát Đạo theo kiểu kinh sách phát triển. Chỉ còn có một kiếp này mà thôi cho nên Đức Phật di chúc: “Các con tự thắp đuốc lên mà đi” và “Hãy lấy Giới luật và Giáo pháp của Ta làm Thầy.”
Thiền Đông độ và kinh sách phát triển dùng danh từ hóa độ chúng sanh để lừa đảo tín đồ, khi làm Phật, khi làm chúng sanh, vì thế câu chuyện Tô Đông Pha là câu chuyện tưởng của các học giả bịa đặt ra để chứng tỏ Bồ Tát Hạnh hành Bồ Tát đạo.
Câu chuyện Quan Công - Hạng Võ; câu chuyện Tần Cối - Nhạc Phi; Câu chuyện Phật Ấn - Tô Đông Pha là những câu chuyện nhân quả luân hồi theo kiểu Trung Hoa chứ Phật giáo không có nhân quả tưởng như vậy.
Những câu chuyện này đã xác định cho quý vị biết Thiền Tông tu hành chẳng đi đến đâu. Xin quý vị lưu ý và cảnh giác lưỡi lừa của các thiền sư Đông Độ.
Kính ghi
Thầy của các con.
30. CHUYỂN NHÂN QUẢ QUÁ KHỨ TRONG KIẾP HIỆN TẠI
Chơn Như ngày 25 tháng 12 năm 2000
Kính gửi: Cháu Hương
Trong kiếp này cháu gặp nhiều điều không may mắn, cuộc sống hiện tại có nhiều điều bất an, đó là do kiếp trước cháu gieo duyên chẳng lành mà tạo thành quả cho đời nay. Do đó khi sanh ra làm người cháu phải gặp nhiều hoàn cảnh và những đối tượng không như ý để trả quả khiến cho cháu cuộc đời lỡ dở và nhiều khổ đau. Sống trong hoàn cảnh này, nếu cháu biết giải tỏa thì cháu thoát ra khỏi cảnh khổ đau.
Vậy giải tỏa như thế nào?
Giải tỏa có nhiều cách như: Cháu nên hiểu và chấp nhận mình là một người đang thiếu nợ, mà đã chấp nhận mình là một người thiếu nợ thì phải chấp nhận trả nợ. Chấp nhận trả nợ thì phải vui lòng mà trả nợ, có vui lòng trả nợ thì nợ mới dứt, còn nếu cháu không vui mà trả nợ thì làm sao nợ dứt được phải không cháu? Trả nợ mà không vui tức là vừa trả mà cũng vừa vay, cháu có nhận ra điều này không? Đã tự làm mình khổ mà nợ cũng không dứt đó là một bằng chứng cụ thể cho kiếp làm người nếu ai không hiểu Phật pháp đều phải đi dẫm lại lối mòn khổ đau này của nhau.
Nợ nhân quả mà cứ vay trả, trả vay như vậy thì đời này sang đời khác trả nợ cũng chưa xong, hiện giờ cháu đang sống buồn khổ là cháu đang trả nợ, mà trả như vậy thì làm sao cháu trả cho xong. Tại sao vậy?
Vì nợ này không phải nợ tiền bạc của cải tài sản, mà nợ buồn khổ, cho nên cháu còn buồn khổ là còn nợ, chừng nào cháu hết buồn khổ là cháu hết vay nợ.
Tuy cháu đã hiểu được nhân quả như vậy thì lòng cháu như gió đã dừng nhưng sóng chưa dừng cháu ạ! Muốn cho sóng dừng thì cháu nên dẫn tâm cháu vào chỗ không có sóng thì cháu nên nhắc tâm:
a- Buồn khổ là ác pháp hãy rời khỏi tâm ta.
b- Lúc nào tâm cũng phải thanh thản an lạc vui vẻ không được buồn khổ.
c- Dù bất cứ hoàn cảnh nào ta cũng phải an vui không được buồn khổ, buồn khổ làm cho đời úa tàn khô héo.
d- Tâm như đất không nên buồn khổ, buồn khổ là nợ của nhân quả.
e- Buông xuống đi! Hãy buông xuống đi! Buồn khổ làm chi có ích gì? Thở ra chẳng lại còn chi nữa. Vạn sự vô thường buông xuống đi. Chúc cháu thành công trong việc rèn luyện tâm mình được an vui hạnh phúc.
Kính thư. Thầy của các cháu.
31. BỒ ĐOÀN
Hỏi: Kính bạch Thầy, theo ý Thầy ngồi thiền có cần gối không? Và tại sao?
Đáp: Ngồi thiền không cần gối, vì ngồi thiền cần gối là tạo thành một thói quen, khi thành thói quen lúc ngồi không có gối là sẽ ngồi không được. Tu thiền mục đích để cầu giải thoát chứ không phải tập thành một thói quen khác. Vốn con người dễ bị nhiễm ô và thành thói quen, khi đã thành thói quen thì rất khó bỏ, thế mà chúng ta lại vướng thêm một cái gối (bồ đoàn), đi đâu cũng phải mang theo thật là phiền phức.
Người ngồi thiền cần gối là một việc làm không giải thoát, đó là chạy theo sự êm ấm của dục lạc thân tâm của mình. Nó không ích lợi và còn làm cho chúng ta khó chịu khi ngồi thiền không có Bồ đoàn.
Nếu chúng ta tập ngồi không gối, thân mới đầu ngồi hơi khó chịu một chút nhưng lần lần cơ thể được uốn nắn theo tư thế ngồi rất tự nhiên, trông giản dị và thẳng góc với mặt bằng của đất. Đi đâu cũng không vướng bận phải mang vác gối theo, đến chỗ nào ngồi thiền cũng rất tiện. Trông các thiền sư Đông Độ đi đâu cũng phải mang theo tọa cụ bồ đoàn thật là phiền phức.
Xưa Đức Phật, đời sống chỉ có ba y một bát, đi đến đâu đều lấy gốc cây làm giường nằm, ngồi thiền thì không có bồ đoàn (gối) kê tay, kê mông, chỉ có chiếc y rách cũ dùng để nằm hoặc ngồi. Là một du tăng khất sĩ nay đây mai đó, mang thêm tọa cụ bồ đoàn là một vật làm vướng bận không đúng hạnh buông xả giải thoát của một tu sĩ Phật giáo.
Thiền Tông nói không dính mắc, tâm như như tự tại vô ngại nhưng một việc nhỏ như bồ đoàn tọa cụ mà không xả được thì lời nói và việc làm không nhất quán?
Hôm nay con hỏi về gối ngồi thiền thì con nên hiểu: “thiền là giải thoát mà thêm gối là không giải thoát con ạ!” Đi tìm con đường giải thoát mà không buông bỏ sạch thì không thể giải thoát được, dù là một vật nhỏ như một chiếc gối.
32. CÂY BỒ ĐỀ Hỏi: Kính thưa Thầy, tại sao Đức Phật chọn ngồi thiền dưới cội cây? Và tại sao lại chọn cây bồ đề? Đáp: Đời sống của Đức Phật là một du tăng khất sĩ, sống không nhà cửa, không gia đình thì phải lấy gốc cây làm giường nằm, làm chỗ ngồi thiền, còn cội cây thì làm nhà ở, đậy nắng che mưa. Hiện giờ mọi người ai cũng gọi cây đó là cây bồ đề, nhưng trước khi Đức Phật chưa thành đạo thì cây đó được gọi là cây đa. Cây đa ở Ấn Độ lá có đuôi dài hơn cây đa của chúng ta. Từ khi Đức Phật ngồi dưới cây đa đó tu hành thành chánh giác, vì thế nó mới có tên là cây bồ đề. Ví như Đức Phật ngồi dưới cội một cây xoài tu hành chứng quả, người ta sẽ gọi cây xoài là cây bồ đề có được không? Đức Phật không phải chọn cây bồ đề mà chọn cây có lá mát mẻ, không phải để ngồi thiền mà để tu tập thiền định, bởi vì thiền định không phải ngồi mà ở chỗ tâm “ly dục ly ác pháp.” Thiền định thời nay người ta đã lầm nên chấp ngồi, vì chấp ngồi nên tạo ra gối để ngồi cho êm, do đó người thời nay tu thiền ngồi nhiều, ngồi nhiều thành cóc chứ không thể giải thoát. Các nhà học giả xưa và nay không hiểu cho Đức Phật chọn cây bồ đề để ngồi thiền tu hành đó là sai. Tu thiền định là do tu tập tâm ly dục ly ác pháp chứ không phải do ngồi dưới cội cây bồ đề mà giải thoát, cho nên sống dưới cội cây nào tu tập cũng thành đạo chứ không riêng gì cây bồ đề, vì thế chỗ tu là ở tâm chứ không phải ở cây, cây nào ngồi tu cũng được không riêng bất cứ một cây nào. Tóm lại cây bồ đề chỉ là một cây đa như cây đa nước ta (Việt Nam). Từ khi Đức Phật chứng đạo nó mới có tên là cây bồ đề như trên Thầy đã nói. Chúng ta đừng hiểu lầm chỉ có ngồi dưới cây bồ đề mới tu chứng đạo, hiểu như vậy là sai. Khi tu chứng đạo cây nào ngồi cũng tu chứng được cả. 33. SÁNG SỚM NGỒI THIỀN TRƯỚC HAY ĐI KINH HÀNH TRƯỚC Hỏi: Kính bạch Thầy, buổi sáng sớm khi con vừa thức dậy, giữ chánh niệm trong mọi sự sinh hoạt, sau đó con nên đi kinh hành trước hay ngồi thiền trước? Đáp: Khi nào con thấy tâm tỉnh táo không có buồn ngủ, không có hôn trầm, thùy miên, không có lười biếng thì ngồi thiền trước tiên tốt nhất, còn khi nào thấy buồn ngủ, hôn trầm, thùy miên, lười biếng thì đi hành thiền trước tiên tốt nhất. Đức Phật dạy đừng cố chấp vào thời khóa, phải khéo léo linh động tu tập theo đặc tướng của thân tâm mình từng pháp môn, chứ không phải nhất định giờ nào tu pháp môn nấy. Mục đích tu tập ở đây vốn tu tập bất cứ các loại thiền định nào và thiền hành nào cũng đều nhắm vào chỗ tâm ly dục ly ác pháp chứ không phải chỗ ngồi, chỗ đi, chỗ thiền hành hoặc chỗ mọi hành động của thân. Tóm lại tu hành theo đạo Phật là chỗ tu tập như thế nào để tâm không phóng dật, nhưng tâm không phóng dật không phải là chỗ ức chế tâm, các con nên nhớ kỹ chỗ này, chỗ tâm không phóng dật là cốt tủy thiền định của đạo Phật. Ngồi trước hay ngồi sau không quan trọng, nhưng dù sao người mới tu cũng nên giữ giờ giấc nghiêm chỉnh là tốt nhất. 34. ĐI NHIỄU QUANH BA VÒNG Hỏi: Kính thưa Thầy, theo kinh sách kể lại, đệ tử của đức Phật thường đi nhiễu quanh ba vòng trước khi vào chỗ ngồi, có phải là đi thiền hành ba vòng không? Lợi ích của việc đó là gì? Đáp: Đi nhiễu quanh ba vòng là để tỏ lòng cung kính chứ không phải đi hành thiền, đó là một phong tục đạo đức tốt đẹp của người Ấn Độ. Muốn tỏ lòng cung kính và tôn trọng ai thì họ phải đi nhiễu quanh ba vòng. Ở đất nước Việt Nam không có phong tục văn hóa như vậy, ở đây chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa, khi gặp nhau đều chấp tay lên trước ngực chào hỏi, chứ không có đi nhiễu quanh ba vòng. 35. ĂN NGÀY MỘT BỮA Hỏi: Kính thưa Thầy, vì có bệnh tiểu đường gần 20 năm, bác sĩ khuyên con ăn ngày sáu bữa để lượng đường trong máu không cao, nhưng 20 năm qua vẫn không tiến bộ. Nghe lời Thầy dạy, con ăn ngày một bữa và tiết kiệm năng lực tối đa bằng cách: nói chỉ khi cần, tập chánh niệm trong việc làm hằng ngày, tập không phê phán, không diễn tả bằng sự cảm hứng mà cố giữ tâm thanh thản. Trong mấy tháng vừa qua có kết quả như sau: 1, Lượng đường trong máu được quân bình. 2, Lưỡi của con trước kia bị đen (20 năm) nay những vết đen không còn. 3, Bệnh phù thũng cũng không còn. Mặc dù con tin tưởng tuyệt đối vào việc con có thể ăn ngày một bữa, qua kết quả tốt như kể trên, nhưng người thân con vô cùng lo âu và khuyên con ăn trở lại như cũ. Vậy con phải làm gì cho họ có được an tâm? Đáp: Ăn ngày một bữa là một đức hạnh của bậc Thánh Tăng, là pháp môn vô lậu ly tham đoạn ác pháp của đạo Phật, là một sự sống giải thoát cụ thể rõ ràng trên lộ trình hướng về đất Phật. Ăn ngày một bữa vừa đủ để nuôi sống cho những ai là những người vô sự chuyên về tu tập thiền định xả tâm diệt ác pháp. Đạo Phật là đạo giải thoát nên ngày ăn một bữa là giải thoát, giải thoát có nghĩa là không bận rộn phiền toái về ăn uống, nhưng đối với người làm việc ít, lao động nhẹ. Còn những người làm việc nhiều, lao động nặng mà muốn ăn ngày một bữa thì phải chọn một bữa ăn chính, còn hai bữa ăn kia chỉ uống sữa hoặc nước trái cây mà thôi, giống như các nhà sư Nam Tông. Đối với đạo Phật là tìm sự giải thoát ngay trong đời sống nên ăn uống có nghĩa là phải đơn giản nhất và tiện lợi nhất như thế nào để được sống với tâm hồn thanh thản, an lạc. Bởi vì chủ trương của đạo Phật là ăn để sống chứ không sống để ăn. Ăn ngày một bữa cũng là một phương pháp nghỉ ngơi và giảm bớt sự lao động trong cơ thể để cơ thể dồn năng lực đề kháng vào bệnh tật khi cơ thể có bệnh. Con nhờ ăn ngày một bữa, đó là giảm bớt sự lao động trong cơ thể của con và còn biết tiết kiệm năng lực không để tiêu hao bằng cách: - Không nói chuyện những điều không cần thiết, cắt giảm việc tắm gội giặt giũ, tránh đi mua sắm đồ đạc, tránh đám đông, tránh đàm luận, tránh tranh cãi. - Tránh không suy nghĩ những điều không cần thiết dù trong một giây phút hiện tại. - Tránh đổi tâm đang bình thản ra tâm giận hờn, phiền não v.v... - Cố gắng lúc nào có thời gian rảnh cũng giữ gìn tâm thanh thản, an lạc và vô sự - Cố gắng giữ gìn tâm đừng để tâm buồn lo, sợ hãi. - Thường tập sống trầm lặng độc cư ngày ít nhất cũng phải 30 phút để sống cho mình. - Thường đi kinh hành không nên chú ý nơi đâu cả mà chỉ để tâm hồn tự nhiên như người vô sự. Đức Phật và chúng Thánh Tăng ngày xưa ăn ngày một bữa, Phật đã sống đến tám mươi tuổi, ông Anan đã sống đến 120 tuổi. Con còn lao động nhiều nhưng không phải vì lý do đó mà vì đạo đức không làm khổ mình khổ người, vì thế Thầy khuyên con nên ăn ngày một bữa như các sư Nam Tông. Chính đạo đức làm người là trên hết, mình an vui mà mọi người cũng đều được an vui thì đó là hạnh phúc, là giải thoát con ạ! 36. ĂN SAU GIỜ NGỌ Hỏi: Kính thưa Thầy, về ăn đôi khi con không có điều kiện ăn trước 12 giờ trưa. Con có thể ăn trễ một chút được không? Đáp: Được! Ngày ăn một bữa dù con ăn giờ nào cũng được chứ không phải đợi đến 12 giờ trưa, vì tại Mỹ 12 giờ trưa thì ở Việt Nam và các nước khác không phải là 12 giờ trưa, đôi khi là 12 giờ khuya nữa là khác. Khắp trên thế giới múi giờ không giống nhau được là vì trái đất phải theo quỹ đạo đi vòng quanh mặt trời, cho nên không căn cứ vào giờ giấc mà phải căn cứ vào sự tiện lợi cho mình và cho người khác trong giờ ăn uống. Do đó Đức Phật chọn vào giờ trưa là vì buổi trưa nhà nào cũng có nấu cơm để ăn, trong khi đi xin ăn về có trễ lắm thì cũng 12 giờ trưa, còn ngoài giờ trưa tức là buổi sáng và buổi chiều thì đi xin ăn là một điều bất tiện cho người khác, nên Đức Phật cấm tu sĩ không ăn chiều và sáng là lý do này. Như Thầy đã dạy: ăn ngày một bữa là Thánh hạnh, phàm phu khó mà sống được, vì tâm tham dục của họ còn nhiều, nhất là về ăn uống. Nếu ai ngày ăn một bữa, dù bữa ăn đó trong giờ nào cũng được, miễn là đừng ăn phi thời, ăn lặt vặt nhiều bữa thì người đó sống trong Thánh hạnh. Như vậy vào giờ nào con ăn cũng tốt, nhưng phải ăn một bữa vào ban ngày vì ban đêm mà ăn uống thì vất vả nhiều hơn phải không con? Con có duyên với Thánh hạnh của Phật nên ăn ngày một bữa mà hết bệnh, đó là lấy Thánh hạnh của Phật chuyển hóa nhân quả của con và nếu trên bước đường hướng về đất Phật chắc chắn con sẽ đạt được ý nguyện. Nhưng phải tu tập đúng chánh pháp của Phật. |
|||
37. CÓ THÂN NGƯỜI MỚI ĐỦ
ĐIỀU KIỆN TU HÀNH GIẢI THOÁT
Hỏi: Kính bạch Thầy, trong sách của Thầy có nói: “Người đánh mất thân này đến muôn ngàn kiếp sau cũng khó mà được làm người, ví như con rùa mù tìm bộng cây ngoài biển.”
Theo con hiểu đó là sau lúc chết đi, đến kiếp sau họ đâu còn biết họ là ai nữa, đó là cái nghiệp khổ của họ, chứ không phải họ chết rồi bị đi đầu thai làm các con vật khác, phải vậy không thưa Thầy?
Đáp: Sự hiểu biết của cháu là sự hiểu biết chấp đoạn, cái nghiệp ác kia tiếp tục đi tái sanh luân hồi, cái nghiệp đó do ai làm ra? Có phải chính trong cuộc sống của chúng ta đã tạo ra nó không? Khi con người còn sống thường huân tập ác và thiện do lòng ham muốn tạo ra. Khi người chết chẳng còn một vật gì cả nghĩa là không có thần thức, Phật tánh hoặc linh hồn, tất cả đều hoại diệt theo thân xác của họ, nhưng cái còn lại là gì?
Hành động thiện ác của chúng ta còn lại, nó trở thành một cái lực rất mạnh nên kinh gọi nó là nghiệp lực. Nghiệp lực cũng giống như đứa con của chúng ta sanh ra, tạo ra, rồi đứa con nghiệp lực của chúng ta lại sanh ra cháu nghiệp lực của chúng ta, cháu nghiệp lực của chúng ta lại sanh ra chít nghiệp lực của chúng ta và cứ thế mãi mãi sanh ra trong vô lượng kiếp. Và mỗi nghiệp lực sanh ra như vậy đều do chúng ta mà có, thế mà chúng ta vô trách nhiệm với những nghiệp lực này sao? Khi mà những nghiệp lực này mang đầy đau khổ lúc nó thọ lấy thân người hoặc thân chúng sanh và mãi mãi muôn đời muôn kiếp thì chúng ta là người cha (thân ngũ uẩn) sanh nó ra, cớ sao chúng ta không thấy trách nhiệm mình sao?
Trong thư con hỏi: “Sau lúc chết đi, đến kiếp sau, họ đâu còn biết họ là ai nữa, đó là cái nghiệp khổ của họ, chứ không phải là họ chết đi bị đầu thai làm các con vật, phải không thưa Thầy?”
Ví dụ: như cháu có một đứa con, cháu có muốn cho đứa con ngoan tốt, hiền lành có hiếu thảo, chăm học, không ham chơi hay muốn có một đứa con không ngoan tốt, hung dữ, bất hiếu, không chăm học, thích chơi đùa không? Nếu cháu có một đứa con ngoan tốt, hiền lành, có hiếu thì cháu có sung sướng không? Chắc hẳn là sung sướng phải không cháu? Bằng ngược lại cháu có một đứa con không ngoan tốt, tánh tình hung ác, bất hiếu thường thích chơi, không thích học thì cháu có khổ không? Chắc hẳn là khổ rồi phải không cháu? Và như vậy, dù biết hay không biết về nghiệp của cháu ở quá khứ hay vị lai, cháu cũng đều phải có trách nhiệm trong hành động thiện, ác của cháu đối với nghiệp. Vả lại, trong hiện kiếp của cháu, sự khổ vui của đời cháu đều do chính hành động nghiệp thiện ác của cháu, nhưng trong thư cháu bảo:
“Cũng không biết kiếp trước mình là ai cả, cũng như con, giờ đây con đâu biết kiếp trước mình là ai? Ở đâu? Do vậy họ đâu có sợ làm điều ác, vì kiếp sau họ đâu biết họ là ai để mà đau, mà tiếc, mà ân hận v.v...”
Như Thầy đã dạy: Dù con có biết hay không biết kiếp đã qua và kiếp vị lai của con là ai? Nhưng trong hiện tại con làm điều ác thì con không thể tránh khỏi mọi sự khổ đau. Vì thế con phải có trách nhiệm bổn phận về đời sống hiện tại của con, nhất là con phải thấy và hiểu biết trách nhiệm và bổn phận của con trong cuộc sống hiện tại là con không nên làm khổ con, không nên làm khổ người khác bằng những hành động ác thân miệng ý của con. Vì những hành động ác ấy trong hiện tại đã khiến cho đời sống hiện kiếp của con phải gặp nhiều sự bất hạnh, khổ đau, bất toại nguyện và cay đắng v.v... con có biết không?
Cho nên con còn phải hiểu biết về luật nhân quả đang chi phối những hành động nghiệp thiện ác của con ở tương lai sau này. Vì những hành động thiện ác của con trong hiện kiếp mà vị lai bao nhiêu chúng sanh do nghiệp thiện ác ấy sanh ra phải chịu khổ đau, vui buồn, bất an, bất toại nguyện v.v… Đó là trách nhiệm đạo đức làm người con ạ! Con không thể thờ ơ để cho hành động thiện ác của con đi tái sanh mặc khổ vui kệ nó.
Bởi vậy Đức Phật dạy: “chúng sanh là những người thừa kế của nghiệp, nghiệp là cha đẻ ra chúng sanh.” Thừa kế của nghiệp tức là nghiệp sanh ra chúng ta ra. Nếu chúng ta có đôi mắt nhìn xuyên thủng qua lớp áo thân nghiệp của chúng sanh thì chúng ta sẽ thấy tất cả chúng sanh đều do nghiệp lực của chúng ta sanh ra, chừng đó chúng ta có nỡ lòng nào ăn thịt chúng sanh không? Vì cầm dao cắt cổ gà, đập đầu cá là cầm dao cắt cổ cha mẹ mình, là đập đầu con cháu mình thì thử hỏi con người có tình cảm, biết khổ đau, biết thương khóc, biết nức nở khi mất cha mất mẹ thì làm sao chúng ta có những hành động ác ấy được.
Còn ăn thịt chúng sanh là như ăn thịt cha mẹ, con cháu của mình chứ đâu phải ai xa lạ, chỉ có loài thú vật mới không có sự hiểu biết, mới ăn thịt cha mẹ con cháu như vậy. Nhưng con người thì chúng ta sao nỡ có những hành động ác độc ấy được, là con người thì không thể sống như con thú vật được. Vì con người sống có đạo đức làm người, sống có tình cảm, sống có trí tuệ hiểu biết thì không thể nào sống man rợ hung ác như loài cầm thú được.
Ví dụ: để cháu thấy nghiệp lực một người bình thường không có sân, đến khi gặp việc trái ý, nghịch lòng, người ấy tức giận giống như một con thú dữ, đó gọi là nghiệp lực của sân.
Chúng ta giết hại chúng sanh để ăn thịt, lâu ngày thành thói quen ăn thịt, thói quen ăn thịt tức là nghiệp lực nên khi ăn uống không có thịt chúng sanh thì ăn uống không ngon. Do đó nghiệp thích ăn thịt chúng sanh vẫn còn nên tương ưng với thịt chúng sanh mà tái sanh làm chúng sanh. Một nghiệp lực như vậy có thể sanh ra làm trăm muôn con vật để rồi tiếp tục sanh tử theo nghiệp của nó, vay trả trả vay. Còn những nghiệp lực thiện cũng tiếp tục tái sanh làm người, một nghiệp lực thiện có thể sanh ra nhiều người tùy theo môi trường sống của hành tinh, tức là môi trường nhân quả trên quả địa cầu này.
Mặc dù họ không biết họ là ai trong kiếp kế, nhưng nghiệp lực thiện ác của họ luôn luôn tiếp tục tái sanh luân hồi làm mọi thân chúng sanh. Khi cuộc sống hiện tại họ đã giết hại chúng sanh như thế nào thì họ phải vay trả như thế nấy. Làm thân chúng sanh chỉ biết khổ đau mà không biết cách thoát khổ, nghĩa là làm thân chúng sanh không biết thiện ác, chúng làm theo bản năng tự nhiên của chúng để bảo vệ sự sống, vì thế chúng phải chịu khổ vô vàn trong vô lượng ngàn muôn kiếp.
38. ĐƯỢC THÂN NGƯỜI KHÓ
Hỏi: Kính bạch Thầy, người đánh mất thân này đến muôn ngàn kiếp sau cũng khó mà được làm người, ví như con rùa mù tìm bọng cây ngoài biển, xin Thầy chỉ dạy cho con được rõ.
Đáp: Đức Phật dạy: “được thân người là khó,” khó có nghĩa là khó được thân người chứ không phải là không được thân người, khi hành động thiện ác của con đã trải qua một thời gian trả nghiệp của nó thì nghiệp ấy lại được sanh làm người.
Một người làm ác luôn luôn làm khổ mình khổ người và khổ tất cả chúng sanh thì nghiệp ác ấy chẳng bao giờ trở lại làm người. Cho nên Đức Phật ví dụ bọng cây và con rùa mù giữa biển, có nghĩa là nghiệp ác không bao giờ trở lại làm thân người nữa được, phải thời gian lâu lắm trả cho hết nghiệp ác đã làm, khi trả hết nghiệp ác đã làm thì nghiệp còn lại tương ưng với loài người thì mới sanh ra làm người. Ở đây con nên hiểu mang lốt nghiệp chúng sanh là mang lốt nghiệp trả nợ máu xương mà con người đã từng gieo rắc, đến chừng trả hết nghiệp ác của mình đã gây ra thì mới tương ưng với nghiệp làm người tức là mới đủ duyên sanh làm người.
Vấn đề tái sanh luân hồi và nghiệp thiện ác không phải là vấn đề để cho người còn trí hữu hạn hiểu biết, càng luận về nhân quả luân hồi càng bị tưởng tri lừa đảo thành ra hiểu sai mất. Vấn đề này phải là người có trí vô hạn không bị ngăn cách bởi không gian và thời gian mới thấu suốt, không bị tưởng tri đánh lừa. Vấn đề này là vấn đề không ích lợi nên Đức Phật gọi là hý luận. Trong lúc con người còn bản năng loài cầm thú hung dữ, chà đạp lên nhau vì miếng cơm manh áo và vật chất, kẻ mạnh ăn hiếp kẻ yếu, cuộc sống con người không còn có đạo đức khiến cho loài người quá khổ đau vì phải bon chen trong cuộc sống.
Vấn đề Phật giáo là vấn đề lợi ích cho cuộc sống của con người, đó là đạo đức nhân bản không làm khổ mình khổ người chứ không phải ngồi thiền, niệm chú, tụng kinh, niệm Phật hay để tìm hiểu nhân quả ba đời mà khiến cho con người hết khổ. Ngồi thiền, niệm chú, niệm Phật, tụng kinh sám hối hay tìm hiểu nhân quả ba đời đó là những điều dễ bị tưởng lừa đảo dối gạt người.
Đạo Phật có mặt trên đất nước Việt Nam hơn 2000 năm, chùa cất khắp nơi đâu đâu cũng có mà dân tộc Việt Nam có hết khổ chưa? Chùa càng nhiều càng tạo ra nhiều việc mê tín, lừa đảo, tiền mất tật mang. Hiện giờ chùa tháp xây cất hàng tỷ tỷ bạc, chùa nào cũng đẹp đẽ khang trang như cung vàng điện ngọc, tiền bạc của tín đồ đổ vào như nước mà có ích lợi gì? Đời khổ vẫn còn khổ như vậy và còn khổ hơn.
Đạo đức con người càng ngày càng xuống dốc, ngồi thiền, niệm Phật, niệm chú, tụng kinh, sám hối v.v... có giải quyết được những gì lợi ích cho xã hội đâu, hay là một sự tránh né của những người tiêu cực hoặc của những người mượn sự vô minh của người khác làm giàu trên mồ hôi nước mắt bằng danh nghĩa tôn giáo.
Trong lúc nhân dân Việt Nam nói riêng và con người trên hành tinh này nói chung đang cần có một nền đạo đức để con người đối xử với con người đừng làm khổ cho nhau. Bởi vậy cháu hỏi những điều này là những điều lừa bịp của các tôn giáo nói về con người bằng cách này hay bằng cách khác chứ không bao giờ nói đúng về con người cả.
Được thân người khó là khó ở năm tiêu chuẩn làm người chứ không phải khó ở thân người. Thân người cũng giống như thân của loài động vật. Động vật sinh ra trùng trùng thì con người cũng sinh ra trùng trùng. Như vậy thân người như thân động vật thì không khó, nhưng thân người khó là khó ở chỗ năm đức hạnh.
39. CON NGƯỜI NGÀY MỘT ĐÔNG HƠN
Hỏi: Kính bạch Thầy, hiện nay trên thế giới, dân số ngày một đông hơn mà điều ác càng ngày càng tinh vi và xảo quyệt hơn, tức là càng có nhiều điều ác hơn trước, vậy mà loài người càng lúc càng đông hơn. Vậy có trái với luật nhân quả hay không?
Thưa Thầy, vì nhiều người làm ác thì không được làm người càng nhiều sau khi chết mà sao dân số càng đông lên là sao vậy? Thưa Thầy, theo luật nhân quả thì người phải ít đi mà súc vật phải nhiều mới đúng, mong Thầy giải thích cho con hiểu?
Đáp: Theo kinh sách của Đức Phật đã dạy và xác định luật nhân quả rõ ràng: “Chư Thiên giảm thì con người tăng,” có nghĩa là thiện pháp giảm, ác pháp tăng. Câu hỏi của cháu trong thư ở trên: “Theo luật nhân quả như con hiểu thì người phải ít đi mà súc vật phải nhiều mới đúng.” Con hiểu luật nhân quả tái sinh như vậy không đúng. Con hiểu như vậy là hiểu theo linh hồn đi tái sinh chứ không phải theo nghiệp thiện ác đi tái sanh. Con nên hiểu con người cũng chỉ là một loài động vật như bao nhiêu loài động vật khác nhưng nó được xem là một loài động vật cao cấp hơn các loài động vật khác mà thôi.
Người ta ví loài người là một loài động vật ác độc nhất trong các loài động vật trên hành tinh này, nó có thể diệt tất cả các loài động vật trên hành tinh này, nhưng môi trường sống nhân quả sẽ không cho phép nó. Vì thế nó càng ác độc thì nó lại càng sanh sôi này nở nhiều hơn. Để làm gì? Để nó tự giết nó và tự nó, nó sẽ diệt toàn bộ loài người trên hành tinh này. Nếu không có một nền đạo đức nhân bản – nhân quả để giúp nó thoát ra khỏi bản chất của loài động vật thì nó tự diệt chủng lấy nó.
Tất cả các loài vật khác sanh ra với bản chất hiền lành tự nhiên của chúng, chúng chẳng có sự tư duy và biết thiện, ác, phải trái v.v… như con người, chúng chỉ biết sống và bảo vệ sự sống, nên có lúc chúng ta thấy chúng rất hung dữ, cái hung dữ của chúng là bản năng tự vệ chứ không phải cái hung dữ như con người. Trong môi trường sống thì có bốn loại sinh: 1, Thấp sanh; 2, Noãn sanh; 3, Thai sanh; 4, Hóa sanh.
Thấp sanh là những vật sanh ra nơi ẩm ướt như cỏ cây và những loài vi sinh vật, những loài vật này sanh trước tiên. (thuộc về ác nghiệp).
Noãn sanh là những loài sanh trứng như loài chim, loài bò sát, là những loài vật này được sanh ra sau các loại thấp sanh. (thuộc về ác nghiệp).
Thai sanh là những loài vật sanh con, những loài vật này được sanh ra sau loài sanh trứng. (thuộc về ác nghiệp).
Hóa sanh là những từ trường thiện được sanh ra do hành động làm thiện của con người, nó luôn luôn có sự hiện diện trong môi trường sống của chúng ta. Nếu con người làm ác nhiều thì từ trường thiện sẽ giảm đi và con người làm thiện nhiều thì từ thiện tăng lên. Từ trường thiện tăng lên thì con người và tất cả loài vật trên hành tinh này đều sống an vui, hạnh phúc, không bệnh tật, không tai nạn và không khổ đau. Môi trường sống sẽ không bị ô nhiễm, sức khỏe của con người và loài vật được bảo đảm an toàn, lúc bấy giờ bệnh viện chỉ còn là một cổ tàng viện để con người đến tham quan vui chơi chứ không có bệnh nhân.
Với đôi mắt của Đức Phật nhìn suốt qua lốt nghiệp của mọi chúng sanh nên chỉ thấy nó toàn là ác nghiệp chứ không phải có người và loài vật. Tức là từ con người cho đến những loài vật khác nhỏ nhít như loài côn trùng sâu bọ đều là con người đang trả vay của một đạo luật nhân quả rất công bằng và công lý.
Khi vô tình hay hữu ý họ đã làm những điều ác mà giờ này họ phải làm thân chúng sanh để trả quả, trả chừng nào hết thì họ mới được tái sanh làm người. Khi làm người họ không biết thiện ác nên chạy theo tâm ham muốn sanh ra nhiều ác pháp làm khổ mình khổ người và khổ chúng sanh tạo thành nghiệp ác hay nói cho rõ hơn là từ trường ác. Từ trường ác ấy tiếp tục sanh làm các loài vật để thọ lấy những sự khổ đau mà không có phương pháp nào giải cứu được. Ngoại trừ chỉ có loài người nhờ có trí tuệ phân biệt được thiện ác, nên Đức Phật, Ngài để lại cho chúng ta một kinh nghiệm sống của một con người thoát khổ, chấm dứt sự trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi và mãi mãi ở trong từ trường thiện vĩnh viễn.
Vì thế Đức Phật dạy: “Chư Thiên tăng thì con người giảm, chư thiên giảm thì con người tăng.” Có nghĩa là từ trường thiện tăng thì từ trường ác giảm, từ trường ác tăng thì từ trường thiện giảm. Nói cách khác cho dễ hiểu hơn: nhân quả thiện tăng thì nhân quả ác giảm, nhân quả ác tăng thì nhân quả thiện giảm. Bằng chứng con người sanh nhiều và làm ác nhiều thì nhân quả ác tăng, nhân quả thiện giảm, nhân quả ác tăng, nhân quả thiện giảm thì con người trên hành tinh này khổ nhiều từ thiên tai dịch họa đến những sự gian xảo lừa đảo giết hại nhau và những bệnh tật đủ mọi thứ cho đến những bệnh thời đại không thuốc trị.
Bức thư của cháu so sánh ở trên giữa con người và con vật thì không đúng luật nhân quả. So sánh luật nhân quả là so sánh thiện và ác, cho nên trong sáu nẻo luân hồi của đạo Phật là sáu trạng thái của tâm:
1, Trời là trạng thái tâm sống trong mười điều lành gọi là mười thiện.
2, Người là trạng thái tâm sống trong năm điều lành gọi là năm giới.
3, A Tu La là trạng thái nóng giận, la hét, chửi mắng, đấm ngực, cào mặt.
4, Ngạ quỷ là trạng thái đang bị đói mà không có thực phẩm ăn
5, Súc sanh là trạng thái ti tiện nhỏ mọn, ích kỷ.
6, Địa ngục là trạng thái đau khổ như đang đau nhức do bệnh tật, do bị đánh đập.
Trong sáu nẻo này theo nhân quả được chia ra làm hai phần: thiện và ác.
1. Trời là cõi mười thiện có 33 cõi Trời tức là có 33 từ trường thiện, hay là 33 cấp thiện của Trời.
2. Người là cõi năm giới. Cõi năm giới có năm đức:
i- Đức hiếu sinh;
ii- Đức từ bỏ lấy của không cho;
iii- Đức chung thủy;
iv- Đức thành thật;
v- Đức Minh mẫn
Người giữ gìn và sống năm giới trọn vẹn mới thật sự là ở cõi người, còn không giữ gìn trọn vẹn như vậy thì không được gọi là cõi người mà là mang hình người nhưng ở trong các cõi giới khác như: A Tu La, ngạ quỷ, súc sanh và địa ngục. Người và các loài động vật đang ở trạng thái này đều được gọi là ở cõi ác, cõi khổ đau.
Người làm ác phải thọ chịu những quả khổ. Những người đó được gọi là A Tu La, ngạ quỷ, súc sanh, địa ngục; A Tu La, ngạ quỷ, súc sanh, địa ngục là những cấp bực khổ của con người, và sự khổ tận cùng là địa ngục.
Trên đây là sự phân chia nhân quả để chúng ta khái niệm hình dung một mô hình nhân quả thiện ác của Trời, Người, A Tu La, ngạ quỷ và súc sanh, đó là một trạng thái thật sự chứ không phải chúng ta tưởng tượng ra cảnh giới của sáu cõi luân hồi vừa siêu hình vừa hữu hình. Cho nên kinh sách giàu tưởng tượng nói ra như vậy là kinh sách lại còn sai biệt mù.
Như trong thư cháu nói: “Theo luật nhân quả người phải ít đi mà súc vật nhiều mới đúng.” Có lẽ cháu đã hiểu câu: “Được thân người là khó” nên mới suy luận nhân quả như vậy.
Ý của Đức Phật ở đây so sánh trong các loài động vật thì loài người nhờ có bộ óc thông minh hơn các loài vật khác, nhờ đó loài người mới vượt thoát ra bốn sự đau khổ và chấm dứt luân hồi, còn các loài động vật khác thì không thể vượt thoát được. Khi một người mất thân khó tìm lại được thân chứ không phải Đức Phật nói con người ít đi, giảm đi hoặc con người không sanh ra nữa.
Điều này không phải, cách đây hơn 2500 năm trong thời Đức Phật còn tại thế, loài động vật trên hành tinh này gồm chung cả loài người thì số lượng loài vật và người so sánh với hiện giờ thì chỉ bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần triệu. Còn hiện giờ loài động vật mà người ta ăn thịt: vừa săn bắt những loài động vật hoang dã và vừa những loài động vật nuôi, một ngày loài người đã giết bao nhiêu loài vật trên hành tinh này để cung cấp làm thực phẩm. Nhu cầu hằng ngày cho con người như vậy số lượng đâu phải ít, chỉ có loài vật hoang dã thì giảm và có loài động vật bị loài người diệt chủng.
Loài người càng sanh ra nhiều mà sống trong ác pháp thì đó là một nỗi lo âu của những người trí, vì nó sẽ diệt các loài động vật khác mà còn tự diệt nó bằng trí óc thông minh của nó, bằng chứng hiện giờ “Kế hoạch hóa gia đình” là một hiện tượng con người giết con người.
Cháu phải hiểu nhân quả tái sinh chứ không phải linh hồn tái sinh. Vì thế một người còn sống mà đã tạo ra nhân quả thì nhân quả tiếp đi tái sinh làm những con người và những con vật khác. Nhưng người ấy vẫn còn sống và tiếp tục những hành động nhân quả thiện ác khác, rồi những hành động này tương ưng tiếp tục tái sinh cho đến khi những hành động cận tử nghiệp của người ấy đi tái sinh khi người ấy chết. Cho nên nhân quả trùng trùng duyên sanh và cũng trùng trùng duyên diệt. Đó là lời Đức Phật đã dạy: “Nhân quả trùng trùng sinh khởi.”
Cháu hãy nhìn cây đu đủ kia, trong một quả đu đủ có nhiều hạt, mỗi hạt lên một cây đu đủ; mỗi cây đu đủ cho nhiều trái; mỗi trái có nhiều hạt; mỗi hạt lên một cây, nhưng cây đu đủ mẹ vẫn còn sống. So sánh nhân quả của cây đu đủ và nhân quả của con người thì có khác chi đâu. Vì mọi vật trên thế gian này được sinh ra đều do nhân quả, sống trong nhân quả và chết cũng đi về nhân quả, trừ những người tu chứng họ đã ra ngoài quy luật nhân quả không còn bị chi phối.
Chúc cháu vui mạnh và sống đúng đạo đức làm người, không làm khổ mình khổ người.
Kính thư. Thầy của các con!
TB: Sách của Thầy viết là triển khai lại lời dạy của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Người đã dạy không có thế giới siêu hình, Thiên Đàng, Địa Ngục, những cảnh giới siêu hình toàn là cảnh giới tưởng tri. Sách của thầy Chơn Quang viết nói có thế giới siêu hình là do ảnh hưởng của kinh sách phát triển Bà La Môn và các tôn giáo khác nhất là không hiểu ý Phật dạy trong kinh Nikaya (Nguyên Thủy). Người tu giải thoát không có đi về đâu vì không có cõi Niết Bàn để đi. Niết Bàn chẳng qua là một danh từ để chỉ cho chân lý thứ ba (Diệt đế). Diệt đế là một trạng thái tâm hết tham, sân, si tức là một trạng thái tâm ly dục ly ác pháp v.v... Cho nên một trạng thái tâm ly dục ly ác pháp là cảnh giới của người giải thoát ở đó. Đó là một từ trường, không còn có cảnh giới nào khác nữa.
Khi tâm ly dục ly ác pháp thì không còn nghiệp nên không có tái sanh luân hồi. Khi người còn sống tâm ly dục ly ác pháp thì giới luật nghiêm chỉnh, không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào. Người giới luật nghiêm chỉnh, không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào là ly dục ly ác pháp hoàn toàn, là người có tri kiến giải thoát. Tri kiến giải thoát là “Minh” chứ không còn “Vô minh” nữa. Trong Minh gồm có giới luật và tri kiến giải thoát, nên Phật dạy: “Tri kiến ở đâu thì giới luật ở đó, Giới luật ở đâu thì tri kiến ở đó. Tri kiến làm thanh tịnh giới luật, giới luật làm thanh tịnh tri kiến.” Như vậy chỗ Niết Bàn đâu phải chỗ hết niệm, vì hết niệm làm sao có tri kiến, có giới luật?
Tóm lại Niết Bàn không phải là một cõi giới siêu hình, nó chỉ là chỗ tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ.
Chơn Như ngày 19-5-2000.
Thầy của các con!
40. KHỈ VƯỢN CÓ PHẢI LÀ
THỦY TỔ CỦA LOÀI NGƯỜI KHÔNG?
Hỏi: Kính thưa Thầy, từ trước tới nay khoa học đều khẳng định rằng con người là do khỉ vượn sinh ra tức là thủy tổ của loài người, đó là thuyết tiến hóa. Vậy đạo Phật Nguyên Thủy và theo trí vô hạn của Thầy thì nguồn gốc loài người và rộng hơn là nguồn gốc vũ trụ là thế nào?
Đáp: Con khỉ không phải là thủy tổ của loài người như các nhà khoa học đã khẳng định, con khỉ chỉ là con khỉ, một loài động vật như các loài động vật khác. Theo đạo Phật con khỉ chỉ là một loài động vật cao cấp gần giống như con người. Nếu lấy con người làm tiêu chuẩn thì con khỉ chỉ là con khỉ mà thôi chứ không thể tiến hoá làm con người được, chỉ có nghiệp lực của con khỉ, khi con khỉ chết nó sẽ tiếp tục luân hồi tái sanh làm người.
Từ con người “Cổ Sơ” sống đơn giản, dựa vào thiên nhiên. Mức sống của thiên nhiên thì có hạn, còn con người sanh sản thì vô hạn nên con người buộc phải tiến hoá dần để bảo vệ sự sống còn của mình và duy trì cho đến ngày nay. Do đó con người trở thành văn minh phát triển theo chiều hướng khoa học hiện đại hóa để sản xuất ra vật chất phục vụ cho đời sống con người như hiện nay.
Loài khỉ sống thanh tịnh trong sạch hơn các loài động vật khác, nhờ hành động sống tự nhiên theo nghiệp nhân quả thiện tạo thành nghiệp lực thiện. Khi con khỉ chết, nghiệp lực thiện chiêu cảm môi trường thiện luân hồi tái sanh thành con người. Đừng hiểu rằng con người chết là sẽ tiếp tục sanh làm con người nữa, hiểu như vậy là không đúng luật nhân quả. Đức Phật dạy: “được thân người là khó, khó như con rùa mù tìm bọng cây giữa biển khơi.” Chỗ này có dịp Thầy sẽ giảng dạy để hiểu biết rõ ràng hơn.
Trí hữu hạn của con người không cho phép các nhà khoa học hiểu hơn, cho nên các ngài dùng sự so sánh những hành động và sự cơ cấu cơ thể của loài khỉ vượn giống như những hành động và cơ cấu của cơ thể của loài người cổ xưa “tiền sử” mà cho rằng thủy tổ của loài người là khỉ vượn. Đó là cái hiểu sai của các nhà khoa học.
Muốn gây tạo giống con người thì phải có môi trường thích hợp với con người. Chính các duyên của con người, chứ chưa có các duyên của con người thì không thể nào gây tạo giống con người được, cho nên thuyết tiến hóa từ con vật thành con người thì mơ hồ, trừu tượng không chính xác. Bởi phần sắc uẩn của con người đầy đủ hơn loài động vật, nhất là sự cấu tạo bộ óc của con người về tế bào não, phần sử dụng về tinh thần tưởng uẩn và thức uẩn thì loài khỉ vượn không thể có được.
Vả lại cái sai của các nhà khoa học nữa, đó là trí tuệ của loài khỉ vượn và trí tuệ của những người tiền sử đều sống dựa trên thiên nhiên. Loài khỉ vượn trí tuệ không sáng tạo và phát minh những cái gọi là văn minh và sáng tạo của loài khỉ vượn được. Cho nên khỉ vượn ngàn đời chỉ là khỉ vượn, còn người tiền sử đời sống cũng giống như loài khỉ vượn nhưng lại biết phát minh và sáng tạo nên để lại cho chúng ta sau này một kho tàng văn minh vĩ đại từ ngôn ngữ, toán học, y học, sử học, đạo đức học, đến khoa học v.v... Chúng ta chỉ là những người thừa kế và dựa theo cơ sở đó mà phát triển khoa học hiện đại, nếu không có văn minh của người tiền sử để lại liệu chúng ta có thể có một nền văn minh khoa học hiện đại và kỹ nghệ hóa như ngày hôm nay chăng?
Cho nên loài khỉ vượn không có trí tuệ thông minh như con người, nó thường sống theo bản năng tự nhiên, thường bắt chước loài người hơn là sáng tạo phát minh như con người. Thủy tổ của loài người rất thông minh, khi con người có mặt trên hành tinh này, nếu loài người không có sự thông minh thì nó đã bị diệt chủng ngay từ lúc ban đầu. Tại sao vậy?
Vì cấu trúc cơ cấu cơ thể của loài người tuy có giống như loài khỉ vượn nhưng hoàn toàn không giống hẳn, có những chỗ còn sai khác. Vì thế con người không thể dùng sức mạnh để bảo vệ sự sống như loài mãnh thú, cũng không thể trốn chạy chuyền nhảy nhanh nhẹ như loài khỉ vượn hươu nai được.
Loài người bảo vệ sự sống bằng trí tuệ thông minh của mình nên thường phát minh và sáng tạo đều do bộ óc. Đó là điều cần thiết của loài người mà các loài động vật khác không thể có được. Cho nên loài khỉ vượn là thủy tổ của loài người là mơ hồ trừu tượng. Chỉ có qua sự so sánh những bộ xương của người tiền sử và những bộ xương của loài khỉ vượn giống nhau rồi các nhà khoa học quá vội vàng tuyên bố, e rằng sự tuyên bố này sẽ làm mất uy tín của khoa học, một vài sự chứng minh khoa học đó chưa đủ để xác chứng thuỷ tổ của loài người là khỉ vượn.
Luật nhân quả đã xác định mọi tiêu chuẩn của mọi loài chúng sanh, nếu chúng sanh sống và tạo những tiêu chuẩn đó thì sẽ sanh làm loài vật đó chứ không phải tiêu chuẩn đó mà làm loài vật khác được. Có nghĩa là loài động vật đó sống thiện ở cấp độ thiện đó sẽ sanh làm loài chúng sanh đó, còn ngược lại sống ác ở cấp độ ác đó thì sẽ sanh làm loại chúng sanh đó. Luật nhân quả rất công bằng và công lý nên tiêu chuẩn thiện ác của nó rõ ràng, không thể sai khác được. Với trí tuệ vô hạn của Đức Phật, Ngài đã thấu suốt luật nhân quả, do đó Ngài dạy cho chúng ta cách thức sống năm tiêu chuẩn thiện để còn tiếp tục làm thân người thiện, và chỉ có thân người thiện mới đủ trí tuệ thông minh rèn luyện tu tập chấm dứt khổ đau và luân hồi.
Các pháp vô thường luôn luôn theo sát những hành động nhân quả của muôn loài. Vì thế các pháp liên tục thay đổi tạo thành một nghiệp lực, nghiệp lực đó tiếp tục tiến hóa tái sanh làm loài vật cao cấp như loài Trời, Người. Nếu nghiệp lực đó thoái hóa thì phải tái sanh làm loài động vật hạ cấp. Đó là một đạo luật công bằng và công lý đối với tất cả các loài động vật trên hành tinh này, nó không áp dụng riêng cho con người mà cho tất cả. Vì muôn loài vật do môi trường sống vô minh duyên hợp sinh ra, do đó từ con vật lớn, nhỏ cho đến loài người đều vô minh lầm chấp.
Nhưng loài người nhờ trí tuệ thông minh thường tìm tòi sáng tạo và phát minh nên đã thấy sự vô minh của mình. Khi đã thấy sự vô minh của mình thì đó là minh, mà đã có minh thì con người làm chủ được môi trường sống của mình, làm chủ môi trường sống của mình tức là làm chủ sanh, già, bệnh, chết. Làm chủ sanh, già, bệnh, chết là làm chủ nhân quả. Làm chủ nhân quả là làm chủ mọi sự đau khổ và chấm dứt tái sanh luân hồi. Chấm dứt tái sanh luân hồi tức là giải thoát ra khỏi thân nghiệp.
41. NGUỒN GỐC VŨ TRỤ
Hỏi: Kính bạch Thầy, nguồn gốc vũ trụ như thế nào? Xin Thầy chỉ dạy cho chúng con được rõ.
Đáp: Nguồn gốc vũ trụ chỉ là một môi trường sống hoặc chết đối với trí hữu hạn của chúng ta. Nếu muốn tìm hiểu biết rõ hơn nữa thì trí hữu hạn không cho phép chúng ta hiểu, còn trí vô hạn của chúng ta chưa có mà chúng ta muốn hiểu thì chúng ta sẽ hiểu bằng tưởng tri. Mà hiểu bằng tưởng tri thì sai sự thật, cho nên bây giờ chúng ta nên tìm hiểu cái gì có lợi ích thiết thực cho chúng ta và mọi người thì không phí thì giờ quý báu, thì giờ đó chúng ta làm những việc ích lợi khác còn có ý nghĩa hơn. Cho nên ngày xưa có những ai hỏi Phật những điều không ích lợi, những hý luận ảo tưởng mơ hồ thì Đức Phật làm thinh không trả lời. Còn ở đây Thầy cố gắng giải thích để mọi người hiểu một cách đại khái về nguồn gốc của vũ trụ.
Dù chúng ta có biết rõ về nguồn gốc của vũ trụ thì cũng chẳng có ích lợi gì cho cuộc sống mà hằng ngày chúng ta thọ chịu biết bao nhiêu là sự khổ đau. Bây giờ cháu hãy lắng nghe cho kỹ nguồn gốc của vũ trụ:
Chỗ nào có môi trường sống là nơi đó có cỏ cây và loài động vật xuất hiện, còn chỗ nào không có môi trường sống thì nơi đó là môi trường chết như trên Thầy đã dạy. Chết ở đây nghĩa là chưa có muôn loài vật sống, chứ riêng hành tinh ấy vẫn sống vì nó đang hoạt động, đang đi trên quỹ đạo của nó, cho nên nói nó chết là không đúng.
Những phi thuyền thám hiểm cung trăng và được các nhà khoa học nghiên cứu cho biết mặt trăng là hành tinh chết. Điều này không đúng, vì mặt trăng đang đi quanh trái đất. Nó đang hoạt động như vậy sao bảo là nó chết. Mặt trăng đang hành như vậy thì nó sẽ tạo duyên hợp cho các duyên hiện có thành những duyên mới, những duyên mới hợp với những duyên cũ tạo thành những duyên mới khác nữa. Khi duyên hợp trùng trùng như vậy thì một ngày kia mưa gió sẽ thuận hoà và cỏ cây sẽ xuất hiện. Cỏ cây sẽ xuất hiện thì lần lượt loài động vật xuất hiện. Loài động vật xuất hiện thì loài người trên cung trăng sẽ xuất hiện. Như vậy một vài triệu năm nữa cung trăng cũng có môi trường sống như trái đất của chúng ta.
Nói đến môi trường thì không thể nào nói đến môi trường đơn điệu được. Tại sao vậy? Vì khi có cái này thì phải có cái kia, vì thế Đức Phật dạy: “Thế giới là do các duyên hợp.” Có duyên hợp mới có thế giới. Có thế giới mới có vũ trụ, nhưng ở đây ai tạo ra duyên hợp?
Thưa quý vị! Các hành đấy. Không có hành thì không có duyên hợp, không có duyên hợp thì không có thế giới, không có vũ trụ. Đến đây chúng ta bảo rằng các hành là nguồn gốc của vũ trụ thì chưa đúng. Vì các hành phải có sự điều khiển của ai đó. Vậy ai đó điều khiển các hành?
Xin thưa, không có ai điều khiển các hành, vì các hành thường hoạt động theo sự vô minh của mình, nên Phật dạy: “Vô minh.” Như vậy vô minh là nguồn gốc của vũ trụ ư? Không đúng đâu quý vị. Nguồn gốc của vũ trụ là mười hai nhân duyên chứ không thể một nhân duyên mà thành nguồn gốc của vũ trụ được.
Mười hai nhân duyên gồm có:
1, Duyên Vô minh;
2, Duyên Hành;
3, Duyên Nghiệp;
4, Duyên Danh sắc;
5, Duyên Lục nhập;
6, Duyên Xúc;
7, Duyên Thọ;
8, Duyên Ái;
9, Duyên Hữu;
10, Duyên Thủ;
11, Duyên Sanh;
12, Duyên Ưu bi, sầu khổ, bệnh tử.
Đó là nguồn gốc vũ trụ hiện bày một thế giới quan đầy khổ đau của loài người mà Đức Phật đã xác định rõ ràng. Bài pháp mười hai nhân duyên là Đức Phật đã chỉ rõ cho mọi người biết nguồn gốc vũ trụ. Nếu mười hai nhân duyên này không có thì vũ trụ này không có. Vũ trụ này không có thì con người và vạn vật không có. Con người và vạn vật có thì vũ trụ này có. Con người và vạn vật có đều do mười hai nhân duyên. Vì thế nguồn gốc vũ trụ là mười hai nhân duyên như trên đã xác định.
42. ĐƯỜNG ĐI CỦA NHÂN QUẢ
Hỏi: Kính bạch Thầy, vừa qua con có nghe một số câu hỏi khiến cho tâm con bất an, vì con còn si mê nên việc ấy con có suy tư để tự mình phân tích và trả lời cho tâm mình? Có chỗ con thông hiểu và có chỗ con chưa thông hiểu. Nay con xin mạnh dạn hỏi thẳng vào những chỗ con chưa hiểu thấu đáo để từ đây con không còn u tối và cả những vị đặt ra câu hỏi cũng được thông suốt?
Đáp: (Để trả lời câu hỏi thứ nhất). Với trí hữu hạn người ta không thể thấy loài gia súc là những người thân thương của mình. Vì ái kiết sử chưa đoạn nên khi bỏ thân người, tình cảm thương yêu con cháu vẫn còn. Do cuộc sống tạo tội ác ăn thịt chúng sanh thành nghiệp, nên những người thân của chúng ta phải tái sanh làm thân gia súc để được gần gũi con cháu. Cô Diệu Quang nuôi mèo chó, không bao giờ đánh đập chúng, quý trọng hơn thân mình, có thể liều chết cứu mèo chó. Cô đối xử với chúng là đối xử theo luật nhân quả của ái kiết sử để đoạn dứt nhân quả tiền kiếp bằng cách lấy thiện chuyển nghiệp, chứ không phải nuôi để tạo nghiệp mới.
Nếu một người nuôi gia súc bằng cách đi mua hoặc xin về nuôi là tạo nhân quả mới, còn từ đâu loài súc vật đến nhà mình, đó là duyên nhân quả kiếp trước phải trả. Cô Diệu Quang trả nợ nhân quả, nhưng trả bằng cách nào mà người trả và người vay đều trong thiện pháp có nghĩa là không làm khổ mình khổ người nữa, tức là không gieo nhân quả mới của kiếp tới.
Loài chó mèo là loài thú ăn thịt sống, chúng thường săn đuổi bắt các loài vật khác ăn thịt. Ở đây cô Diệu Quang cho chúng ăn cá bể:
1, Thứ nhất cho chúng ăn chay, chúng thèm thịt nên ăn rất ít và hay tạo tác bắt loài vật khác ăn thịt, làm nên tội tự sát sanh.
2, Thứ hai cho chúng ăn cá bể là mục đích giúp cho chúng đừng tự sát sanh vì nghiệp tự sát sanh là tội rất nặng, nhưng loài chó mèo đã tạo nghiệp ác nhiều đời nên nay đã thành thói quen như vậy. Tạo cho chúng gián tiếp sát sanh tội nhẹ hơn là để tự chúng đi săn bắt và giết các loài vật khác.
3, Thứ ba thấy chúng ăn chay chưa quen nên ăn ít quá thân gầy ốm. Ví dụ như mình nuôi cha mẹ mà cha mẹ ăn chay không được thân gầy ốm thì mình phải làm sao? Để cho cha mẹ ăn được và ít tội lỗi tự sát sanh hơn. Do suy nghĩ đó cô không ngại người ta chỉ trích cô, cô cứ nghĩ khen chê là bề mặt của danh ở đời, không thực chất của đạo. Còn bây giờ cô đang trả nghiệp nhân quả, loài mèo chó từ đâu đến chứ cô không thích nuôi chúng, nhưng chúng đến cô phải nuôi tận tình như nuôi cha mẹ mình vậy. Cô nghĩ rằng loài gia súc là cha mẹ nhiều đời của mình có duyên mà gặp lại trong đời nay là do lòng thương yêu chưa dứt thì phải hết lòng cung phụng, dù ai có nói gì cô sẵn sàng chấp nhận, miễn là làm tròn bổn phận đạo đức làm người. Việc làm này ai hiểu được, trừ những người có đôi mắt nhân quả hoặc có Tam Minh thì mới rõ.
Loài chó mèo là loài ăn thịt sống, chúng thường săn đuổi bắt các loài vật khác ăn thịt. Nếu không cho chúng ăn cá bể thì chúng sẽ bắt những con vật khác hiền lành vô tội để ăn thịt thì phạm vào tội tự sát sanh, tội rất nặng như Thầy đã nói ở trên. Còn nếu cho chúng ăn cá bể ôi thúi thì chúng ít tạo tội tự sát sanh. Vậy mà chúng còn bắt giết những con vật khác vô tội như: rắn, rắn mối, cóc, nhái, cào cào, chuột và gà vịt của người khác. Tuy chúng không ăn vì được cô Út nuôi chúng no đủ, vậy mà bản chất sát sanh hung ác, chúng thường giết chết những loài vật hiền lành này, nhờ ăn cá bể nên chúng ít đi săn lùng. Nhờ cho ăn cá bể mà chó mèo ở đây ít tạo tội ác tự sát sanh, đó là việc làm của cô Diệu Quang giúp những người thân của mình hay nói cách khác là giúp cho loài chúng sanh có duyên với cô sớm thoát khỏi thân mèo chó.
Vì nợ nhân quả đời trước nên đời này chó mèo vây quanh cô Út để đòi nợ. Khi cô trả nợ xong, mèo chó cũng sẽ chết hết. Để rồi các con xem hiện giờ tất cả mèo đã chết hết rồi, chỉ còn mấy con chó mà thôi, nhưng rồi đây khi cô Út hết nợ nó cũng sẽ ra đi vĩnh viễn.
Người không hiểu biết còn ở trí hữu hạn cho cô Út mua cá bể cho chó ăn là làm tội ác, đó là không thấy được nhân quả nên kết tội kẻ khác. Kết tội kẻ khác tức là tạo tội cho mình, vì luật nhân quả rất công bằng xử phạt ngay liền không thể tránh khỏi. Khi mình kết án người là chướng ngại pháp đến với tâm mình khiến cho mình bất an, cho nên Đức Phật dạy: “đừng biết chuyện người mà hãy biết chuyện mình.”
Ví dụ: quý phật tử nuôi cha mẹ, cha mẹ ăn chay không được thì quý phật tử nghĩ sao? Phải cho cha mẹ ăn thứ gì? Trong lúc cha mẹ thèm thịt và cá?
Việc làm của cô Út có hai việc lợi ích:
1, Làm giảm bớt tội lỗi cho loài chúng sanh.
2, Để thử thách những người tu có theo đúng lời Phật dạy hay không “Biết chuyện mình đừng nên biết chuyện người,” thế mà các cô tu hành luôn biết chuyện người, tu như vậy có đúng lời Phật dạy hay không? Nếu thuận duyên thì đâu thấy được tâm người tu, nhờ có nghịch duyên này mới rõ được các cô không xả mà ức chế tâm, luôn biết chuyện người, thấy phải, thấy trái, thấy tốt, thấy xấu, thấy thiện, thấy ác của người khác mà sao không thấy phải, trái, tốt, xấu, thiện, ác, trắng, đen của mình. Khi mình đem việc của người khác nói ra thì mình là người tốt lắm sao? Nhất là người tu hành mở miệng nói xấu người ân của mình, người giúp đỡ mình từ miếng cơm manh áo, từ pháp tu hành, từ lời nhắc nhở, khuyên răn đến những lời la rầy chạm tự ái để mình được giải thoát.
Không lẽ người đi tu cầu giải thoát mà vì những lời la rầy, chạm tự ái để mình xả tâm mà ôm ấp trong lòng sanh ra thù hận nói xấu, thù hận nói xấu để được những gì? Hay để tạo thêm nhân quả ác cho mình, trong khi cô Diệu Quang la rầy, chạm tự ái để mong mình xả tâm sống đúng đức hạnh nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng là thắp sáng ngọn đèn Phật giáo.
Biết chuyện mình tức là biết lỗi mình để không làm lỗi nữa; biết chuyện mình tức là biết chướng ngại pháp trong tâm mình để mình đẩy lui chướng ngại pháp trong tâm thì tâm mình được an vui thanh thản, không phải là giải thoát hạnh phúc sao? Biết chuyện mình có lợi ích lớn như vậy thế mà các cô tu hành luôn luôn cứ biết chuyện người mà chẳng hề biết chuyện mình. Biết chuyện người có lợi ích cho mình những gì đâu mà còn làm hại cho con đường tu của mình là không xả tâm được.
Do nhờ chuyện nuôi mèo chó mà cô biết được tâm của mọi người tu không xả nên cô càng đập mạnh hơn nữa, nhất là các cô đã xuất gia. Tu theo kiểu ức chế tâm không chịu xả, cứ thích ngồi trong thất rồi đi nói chuyện phiếm và kiếm chuyện nói xấu người này người kia. Trong khi cô hết sức giúp đỡ cho các cô về đời sống và tu tập, thế mà các cô trả ơn bằng những lời chỉ trích nói xấu không hiểu việc làm của cô như thế nào. Tâm mình còn xấu ác nên thấy việc người đều xấu ác, tâm mình hết xấu ác nên thấy việc người không xấu ác, đó là ngăn ác diệt ác pháp sanh thiện tăng trưởng thiện pháp.
Đập mạnh của cô Út có nghĩa là giúp cho các cô xả tâm diệt ngã để hoàn thành được đạo giải thoát, tâm bất động. Còn nếu không xả tâm thì rời khỏi tu viện, đừng lấy sự tu hành mà lường gạt người khác ngồi mát ăn bát vàng, lợi dụng mồ hôi nước mắt và sức lao động của người khác làm ra cơm ăn áo mặc đem cúng dường, để rồi tu chẳng ra gì mà mang hình thức tu sĩ để ăn không ngồi rồi cho khoẻ thân.
Năm năm trời tu tập ngồi trong thất không làm động móng tay, Minh Tông đã bị cô Út đập cho một trận liền rơi xuống vực thẳm, thế mới biết tâm như đất chưa? Mục đích của đạo Phật là tâm bất động, cho nên người phật tử dễ nhận ra người tu chơn và người tu giả.
Chính vì các cô nói xấu cô Diệu Quang mà con đường tu chẳng ra gì, còn mang nghiệp quả rất nặng. Bằng chứng cháu Liễu Ngọc đã nghe lời các cô nặng nhẹ nói xấu cô Út mà thọ quả điên khùng, hiện giờ lại còn bị phỏng nặng. Rồi đây các cô đã, đang, sẽ thọ những quả, khi mà cô Diệu Quang chịu muôn vàn sự cực khổ mọi mặt và nhiều tiếng tai không tốt, nhưng cô quyết chí để thắp sáng lại ngọn đèn Phật giáo, làm lợi ích cho người đời sau.
43. NGƯỜI CƯ SĨ ĂN PHI THỜI
Đáp: (Để trả lời câu hỏi thứ hai). Các cô ăn phi thời, vì các cô còn là cư sĩ chưa thọ đại giới. Theo cô Diệu Quang: “Chiếc áo cư sĩ tập tu đạo đức làm người chưa xong, tâm còn sân hận ầm ầm, lòng còn ham muốn đủ thứ, lúc nào cũng sanh tâm ganh tỵ hơn thua và còn tệ hơn nữa là tâm hay thù vặt tìm kẽ hở của người khác mà nói xấu.”
Ăn cơm ngọ ngày một bữa là hàng xuất gia chứ không phải cư sĩ tại gia, cho nên các cô nói cô Diệu Quang và các cô phụ nhà bếp sao ăn phi thời, điều phê phán này sai. Phải chi cô Diệu Quang và các cô phụ nhà bếp đã xuất gia mà còn ăn phi thời là không đúng. Rõ ràng các cô xuất gia mà so bì như vậy là các cô không hiểu giới luật của Phật, chỉ vì bị cô Diệu Quang đập mà thù ghét đặt ra nói xấu mà thôi.
Tâm ô uế, hôi thúi bẩn thỉu như một đống rác thành phố mà vội xuất gia tu hành với chiếc áo cà sa và cái đầu trọc để làm hình thức lừa đảo thiên hạ mà còn bảo rằng ăn ngọ, ngày một bữa và ăn lén lút, hoặc thấy người khác ăn lại sanh tâm thèm khát, đó là lừa gạt người khác. Thà là làm cư sĩ ăn phi thời không có tội lỗi.
Thời nay tu sĩ nói ngày ăn một bữa chứ kỳ thực là ba bữa: sáng ăn bánh mì uống sữa hoặc ăn phở, mì gói; chiều ăn trái cây uống bột ngũ cốc. Đối với những tu sĩ này cô Út đập phá rất mạnh, tu được thì tu cho đúng, còn tu không được thì nên đi về đời mà sống như mọi người, đừng có mượn chiếc áo đạo mà tạo cuộc đời. Tu không chịu xả tâm tham, sân, si, hễ ai làm theo ý của mình thì ưa thích, ai làm trái ý mình thì ghét cay ghét đắng, tu như vậy mà muốn mọi người kẻ hầu người hạ bưng cơm dâng nước cho mình sao?
Đối với Phật giáo, người tu sĩ phải giữ mười giới nghiêm chỉnh thì sự tu tập mới có kết quả. Còn người cư sĩ thì năm giới phải sống trọn vẹn, không hề trái phạm một lỗi nào thì đạo đức làm người mới không làm khổ mình khổ người và khổ tất cả chúng sanh. Đó là những tiêu chuẩn mà cư sĩ theo năm giới và tu sĩ theo mười giới. Vì thế chúng ta đừng đứng góc này mà phê phán góc kia thì không đúng cách. Phê phán giới không đúng cách, người ta biết mình chưa thông hiểu giới luật mà nói giới luật, đó là làm trò cười cho mọi người.
44. ĐỨC PHẬT KHÔNG DẠY PHÁP MÔN ĐẬP PHÁ
Đáp: (Để trả lời câu hỏi thứ ba). Trong kinh Nguyên Thủy có bài kinh “Khu Rừng” Đức Phật dạy:
“Chỗ nào có cơm ăn áo mặc, nhà ở đầy đủ tiện nghi, sống một đời sống sung sướng mà tu hành tâm tham, sân, si, và các ác pháp khác không từ bỏ được, không xa lìa được thì nên bỏ đi, dù có mời thỉnh ở cũng không ở lại.” “Chỗ nào không có cơm ăn áo mặc, nhà ở không đầy đủ tiện nghi và không có đời sống sung sướng mà tu hành ly tham, sân, si và đoạn diệt các ác pháp thì dù ở đó có đói khát, có khổ sở, có đánh đập, có chửi mắng, có đuổi đi, có bỏ đói thì nhất định cũng không đi.”
Chúng ta học theo đạo Phật ai cũng biết “Ngăn ác diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp.” Và trong mọi thời gian lúc nào cũng cảnh giác đẩy lui các chướng ngại pháp, đó là những pháp tu hành của đạo Phật, cho nên chỗ không có cơm ăn áo mặc thì đó không phải là chướng ngại pháp sao? Mà chướng ngại pháp thì không phải là ác pháp sao? Nếu biết diệt ác pháp, đẩy lui chướng ngại pháp thì tâm có an vui, thanh thản không? Câu kế Đức Phật dạy: “Dù có chửi mắng đuổi đi,” câu này có phải là ác pháp không? Nếu người không có kinh nghiệm tu hành thì sẽ hiểu bài kinh Khu Rừng là một bài kinh yếm thế tránh né ác pháp. Theo đạo Phật tu hành mà tránh né ác pháp tức là ức chế tâm chứ không phải xả tâm, ức chế tâm thì tu hành không bao giờ có giải thoát.
Đọc bài kinh Khu Rừng này, rõ ràng Đức Phật không có dạy chúng ta tu hành đi tìm cảnh thuận theo ý muốn của mình mà hãy tìm nghịch cảnh để xả chướng ngại pháp trong tâm. Cô Diệu Quang tạo cảnh chướng ngại pháp trong tâm giúp cho quý vị tu hành xả tâm chướng ngại để được giải thoát thì quý vị bảo rằng trong kinh sách Phật không có dạy như cô Diệu Quang.
May mắn thay! Trong kinh Nguyên Thủy còn có những bài kinh như: kinh Song Tầm, kinh An Trú Tầm, kinh Khu Rừng, kinh Tứ Chánh Cần, kinh Pháp Cú và Thời Khóa Tu Tập Trong thời Đức Phật, đủ để xác chứng. Nếu không có những lời Đức Phật dạy này thì chắc chắn quý vị bảo cô Diệu Quang dạy không đúng.
Chính ngày xưa khi Đức Phật còn tại thế, Ngài đã dạy: “Chớ có tin những lời Ta nói … mà hãy tin những gì Ta dạy tu tập có kết quả lợi ích cho mình cho người.” Lời dạy này chúng ta nghiệm thấy rất rõ khi cô Út Diệu Quang đập phá mà chúng ta xả được tâm, tâm như đất thì đó không phải là lợi ích lớn cho chúng ta sao? Chỗ tu hành có lợi ích thiết thực như vậy, cho nên Đức Phật bảo: “đuổi cũng không đi.”
Thầy bảo rằng cô Út là người đã từng tu học với Đức Phật ngày xưa cách đây 2544 năm. Cô chưa từng học kinh sách của Phật bao giờ mà cô lại dạy không sai lời của Đức Phật. Khi đọc lại kinh sách Nguyên Thủy thì Đức Phật đã dạy như vậy rất rõ ràng trên giấy trắng mực đen trong tạng kinh Nikaya. Còn Thầy là đệ tử của kinh sách phát triển nên dạy lừng chừng không dứt khoát kinh sách phát triển và Nguyên Thủy, cho nên đến bây giờ mà chưa có người đệ tử nào tu xong.
Nếu quý vị đã nghe lời cô Út Diệu Quang dạy từ lúc đầu thì bây giờ quý vị đã giải thoát từ lâu, tâm quý vị bất động như đất. Chỉ vì quý vị không tin người thiện hữu tri thức của mình, người thân cận, người luôn tạo ra nghịch cảnh để cho quý vị xả tâm. Mong cho quý vị tu hành sớm giải thoát, cô hết sức tận lực giúp đỡ cơm ăn áo mặc và còn chọc tức quý vị để quý vị xả tâm mà không hề sợ quý vị thù ghét và tai tiếng nói xấu xa của quý vị, miễn sao quý vị tu hành tâm bất động như đất là thắp sáng lại ngọn đèn chánh pháp của Phật. Đó là điều mơ ước của cô Diệu Quang, cô quyết tâm lấy thân tâm mình lót đường cho quý vị đi, để thắp sáng lại ngọn đèn Phật giáo. Cô không hề mơ ước danh và lợi, chỉ làm sao mà giúp cho mọi người xả tâm ác pháp để đi đến giải thoát hoàn toàn. Dù cho ai có khen hay chê cô cũng chẳng màng. Ngược lại quý vị không hiểu tâm ý tốt của cô nên sanh ra hờn giận căm ghét và còn đặt ra nhiều điều nói xấu người bạn thân cận tốt nhất của mình. Vì vậy đến giờ này quý vị còn phải chịu lận đận trên đường tu tập và mang đầy một tâm trạng hoang mang về sự tu hành của mình.
Ở đời, người ta ai cũng thích những lời ngon ngọt, nịnh hót, a dua, còn những lời thẳng thừng nghịch ý trái lòng thì ai cũng không ưa. Nhưng người tu theo đạo Phật với mục đích là phải đạt được tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ, do đó gặp chướng ngại pháp như gió mùa hè khiến cho tâm hồn mát mẻ vô cùng. Trái lại quý vị tu theo đạo Phật mà gặp chướng ngại pháp thì tâm quý vị như lửa cháy mà đổ thêm dầu khiến cho lòng quý vị sôi sục căm tức nên mới có những điều nói xấu theo tưởng tượng đặt ra. Những điều này được đặt ra chứng tỏ quý vị không có xả tâm mà chính quý vị đã mở cửa địa ngục cho mình bước vào.
Còn ngược lại quý vị thấy cô Diệu Quang có thù oán ghét quý vị không? Mặc dù cô biết rất rõ mọi người nói xấu cô như thế nào, nhưng khi quý vị trở lại tu viện thì cô Diệu Quang vẫn tiếp tục dạy bảo và phân tich tỉ mỉ cách thức xả tâm để cho quý vị tu cho bằng được, để tìm thấy sự giải thoát nơi thân tâm của quý vị. Một người như cô Diệu Quang không biết thù giận ai cả mà chỉ biết giúp cho người tu bằng được sự giải thoát.
Quý vị có nhớ không? Nếu không có duyên Liễu Tâm hỏi những câu này thì muôn đời quý vị mãi còn ôm ấp sự nghi ngờ đối với cô Diệu Quang. Có hỏi Thầy mới nói ra, còn không hỏi thì chẳng bao giờ các con được nghe những điều này, những lời Đức Phật đã dạy từ ngàn xưa mà cô Diệu Quang đã dạy lại các con.
Trong thời khóa biểu ngày xưa của Đức Phật, Ngài dạy chúng ta tu tập đẩy lui các chướng ngại pháp. Nếu quý vị tránh né trốn chạy các chướng ngại pháp thì quý vị lấy pháp gì làm chướng ngại mà tu tập đẩy lui? Cho nên niệm Phật, ngồi thiền tụng kinh, bái sám, niệm chú, luyện tập Yoga v.v... làm sao đẩy lui các chướng ngại pháp trong tâm được.
Đó là quý vị đã bị kinh sách phát triển lừa đảo, ảnh hưởng tu tập những điều sai này đã thành thói quen nhiều đời, từ các Tổ ngày xưa cho đến các thầy của chúng ta ngày nay. Tiếp đến các bạn bè thân hữu của chúng ta cùng với những cư sĩ hằng ngày đến chùa cúng dường tứ sự cho tu sĩ, họ đều nỗ lực tu hành hết sức. Nhưng kết quả, thời gian mấy chục năm nay chúng ta đã thấy đạt được những gì? Còn thầy Tổ của chúng ta biết bao nhiêu người tu hành có cả trăm năm, ngàn năm mà chẳng có người nào làm chủ được sự sống chết, hình thức tu hành thì có nhưng kết quả thì không.
Vậy, hiện giờ ai là người tu tập theo Tịnh Độ, Mật Tông, Thiền Tông mà tâm đã hết tham, sân, si tức là tâm bất động làm chủ được tâm mình; ai là người tu tập theo ba tông phái này làm chủ được bệnh hay phải đi bác sĩ, bệnh viện trị bệnh; ai là người tu tập theo ba tông phái này làm chủ được sự chết hay phải chịu chết trong sự bất lực đối với nó.
Bởi ảnh hưởng của ba tông phái này nên nói đến tu là người ta nghĩ ngay đến nhập thất, tránh duyên, tìm cảnh tịnh để luyện bùa, ngồi thiền, nhập định, hoặc luyện tập Yoga v.v… Sự thật tu luyện theo kiểu này tức là ức chế tâm và thân, tự làm khổ mình nhiều hơn.
Ví dụ: ngồi thiền hai chân đau, tê, nóng mà phải cố gắng cắn răng chịu đau cho hết giờ, thật là tự mình làm khổ mình. Tu là phải có giải thoát ngay liền như Đức Phật đã dạy: “Pháp thiết thực, cụ thể, hiện tại không có thời gian,” còn bây giờ Tổ dạy tu sao mà khổ quá vậy? Đời đã khổ vì sanh, già, bệnh, chết, thế mà đi tu là làm cho mình lại bệnh khổ hơn, nhưng thói quen tu tập này đã thành nghiệp nên rất khó bỏ. Từ đó người ta tu tập nói xả tâm chứ kỳ thật mọi người đang tu tập ức chế tâm.
Do sự tu sai này, chúng ta kiểm điểm lại tất cả huynh đệ của chúng ta, hiện giờ có người tu trên bốn năm chục năm, có người được Giáo hội Phật giáo tấn phong làm Hòa Thượng, Thượng Tọa, Viện Chủ, Viện Trưởng, Trụ Trì v.v... nhưng nhìn lại thầy nào cũng bệnh đau, sống bằng thuốc, bằng gạo lức muối mè. Ngồi thiền thì hai ba tiếng đồng hồ, lần chuỗi niệm Phật suốt ngày đêm lúc nào tay cũng không rời xâu chuỗi thế mà không tịnh chỉ được hơi thở thì làm sao làm chủ sự sống chết được. Nói chung tín đồ Phật giáo hiện giờ gồm chung: Tăng, Ni và cư sĩ nam nữ đang bị giáo pháp kinh sách phát triển lừa đảo. Nếu không tỉnh giác sớm trở về con đường giáo pháp Nguyên Thủy của Đức Phật thì phí cả một cuộc đời tu hành của mình chẳng đi về đâu, đến đâu cả.
Cô Diệu Quang đã hết sức tận tình tạo mọi phương tiện để giúp cho quý vị tu tập đúng như lời Đức Phật đã dạy: “Đẩy lui các chướng ngại pháp.” “Ngăn ác diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp.” “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành.” “Biết chuyện mình đừng nên biết chuyện người.” “Đứng lại thì chìm xuống, tiến tới thì trôi giạt, chỉ có vượt qua v.v..”
Quý vị hãy bỏ những lối tu theo kiểu kinh sách phát triển dạy thì ngay đó quý vị tìm thấy sự giải thoát liền, tâm quý vị thanh thản, an lạc và vô sự. Bây giờ quý vị đã rõ Đức Phật dạy đẩy lui các “chướng ngại pháp” và phương tiện cô Diệu Quang tạo “chướng ngại pháp” để cho quý vị đẩy lui thì có khác gì Đức Phật dạy đâu. Nếu không tạo chướng ngại pháp như vậy thì quý vị tu tập sẽ bị ức chế tâm theo kiểu kinh sách phát triển và như vậy tu suốt đời quý vị chẳng tìm được sự giải thoát.
Thời gian quá dài gần bảy tám năm trời quý cô đã chịu ảnh hưởng của các hệ phái trên nên không nhìn thấy sự tu tập sai của mình, tới giờ này quý cô chẳng biết tu cái gì, tâm quý cô dao động và bất an. Theo quý cô nghĩ đi tu là xuất gia cạo tóc mặc áo cà sa ngồi thiền, niệm chú, tụng kinh, sám hối, ức chế tâm không vọng tưởng, chừng nào hết vọng tưởng là xong. Nghĩ như vậy là sai, tu như vậy không có giải thoát mà còn sanh bệnh, cho nên quý cô và quý thầy tu sai mà thành bệnh.
Cô Diệu Quang tạo các chướng ngại pháp như Thầy đã nói ở trên để các cô tu tập hạnh nhẫn nhục, tùy thuận và bằng lòng làm tấm gương sáng cho quý phật tử soi. Nhưng các cô không biết lấy đó làm đối tượng tu tập tâm mình để được giải thoát. Ngược lại lấy đó làm oán hận sanh ra đặt điều nói xấu: nào là mua cá cho chó mèo ăn; nào là gây chướng ngại làm động, Phật không có dạy như vậy; nào là các cô ăn phi thời; nào là lấy bột sắn của Phật tử cúng dường cho chó uống v.v… Khi nói như vậy phật tử không hiểu, tin theo và căm ghét cô Diệu Quang chứ phật tử đâu biết rằng: khi những con chó bị đau cô mới lấy một ít bột sắn làm thuốc trị bệnh cho chúng. Những việc làm của cô Diệu Quang đều thể hiện một lòng yêu thương bình đẳng từ con người đến con vật. Cô làm với tánh cách tự nhiên ước nguyện đời trước của mình, không có tính toán danh lợi, khen chê nên không làm bề mặt khéo che khéo đậy phật tử.
Vì thế cô không ghét, không thù, không oán ai hết, mặc dù mọi người đang oán ghét dùng những lời lẽ thêm bớt nói xấu, làm mất uy tín cô, quý cô lại còn khiến cháu Ngọc giả điên dùng những lời lẽ của các cô để sỉ mạ cô Diệu Quang một cách thậm tệ nhưng cô vẫn thản nhiên. Chính sự thản nhiên này mà cháu Ngọc thành điên thật, khiến cả gia đình và mẹ của cháu phải khổ sở vô cùng và gần như hạt giống Phật đã bị ung thúi. Nếu mẹ cháu Ngọc đời trước không gieo duyên sâu dày thì hôm nay chắc không còn tu hành gì cả.
Hoàn cảnh đưa cô Diệu Quang vào vị trí hướng dẫn quý cô tu tập chứ cô chẳng cầu, cũng chẳng mong điều này.
Luật nhân quả hết sức công bằng và công lý, quý cô và quý thầy tu hành không vì sự nghiệp giải thoát mà vì tự ái, bản ngã của mình quyết hạ nhục cô Diệu Quang là một thiện hữu tri thức thân cận giúp đỡ mình từ cơm ăn áo mặc đến những pháp tu hành xả tâm để được giải thoát ra khỏi nhà sanh tử, ơn không có mà oán lại chất đầy. Vì thế nên phải trả một giá quá đắt, lận đận trên đường tu và mất hướng tu giải thoát.
Người tu theo đạo Phật hiện giờ đang chịu ảnh hưởng và thường dính mắc kiến chấp của ngoại đạo, nhất là tu thiền ức chế tâm mong cho hết vọng tưởng nên đã thành một thói quen khó bỏ. Cho nên việc thưa hỏi của các con là một điều rất cần thiết để hiểu đúng giáo pháp của Đức Phật.
Nhờ có thưa hỏi các con mới biết giáo pháp đúng sai để tu tập mới có kết quả, nếu không thưa hỏi thì những điều quý cô cũng như quý thầy đã có cái nhìn lệch lạc, đưa ra những điều nghi vấn và còn tưởng ra những điều không đúng chánh pháp, bóp méo sự thật giáo pháp của Đức Phật như cô Diệu Tịnh đã nói: “Kinh sách Nguyên Thủy Đức Phật không có dạy đập phá bản ngã…” Nhưng trong kinh Nguyên Thủy Đức Phật chẳng những dạy đập phá bản ngã mà còn dạy phải diệt bản ngã nữa. Đó là lối đưa ra lý luận nuôi bản ngã của các cô mà chính những điều này đã làm lệch hướng của đạo Phật, khiến tâm mọi người dao động nghi ngờ giáo pháp mà cô Diệu Quang đã dạy là sai không đúng lời Phật dạy. Cũng như thầy Chơn Đức đặt ra câu nghi vấn khiến cho mọi người dao động: “Coi chừng Thầy Thông Lạc lấy đệ tử làm thí nghiệm pháp môn của mình.”
Này các con! Xưa Đức Phật đã dạy: “Xuất gia sống không nhà cửa, không gia đình, chỉ còn ba y một bát.” Lời dạy này có phải của Thầy hay của Đức Phật? Nếu ai thấy được đời sống như vậy là giải thoát thì nên theo đạo Phật tu hành, còn thấy bỏ nhà cửa, xa vợ con không được thì có ai ép buộc đâu mà đi tu rồi lại cảnh giác bằng lời nói phi Phật giáo như vậy. Lời dạy này Đức Phật dạy chứ không phải Thầy dạy. Thầy dạy những gì là Đức Phật đã dạy. Thầy đâu có bảo họ bỏ gia đình, vợ con, nhà cửa, của cải, tài sản đi tu. Mà Thầy bảo phải sống có đạo đức không làm khổ mình, khổ người, phải giải quyết mọi mặt cho hết bổn phận đạo đức làm người thì mới đủ duyên tu theo đạo Phật chứ đừng vào chùa ngồi tu mà nhớ vợ con, tiếc của cải tài sản thì không đúng.
Lời Phật dạy rõ ràng như vậy mà Thầy Chơn Đức bảo “Phải coi chừng pháp môn của Thầy thí nghiệm đệ tử,” làm như Thầy mới chế ra một thứ thuốc để thí nghiệm bệnh nhân, cũng giống như cô Diệu Tịnh nói: “Trong kinh sách Nguyên Thủy Phật dạy không có đập phá ngã” mà Thầy đã nói ở trên. Vậy câu: “Diệt ngã xả tâm ly dục ly ác pháp” là ai đã dạy lời này? Không phải ở trong kinh Nguyên Thủy sao? Cô Diệu Quang đập ngã là còn ít, Đức Phật dạy diệt ngã mới là nhiều.
Đã đi tu theo đạo Phật, mục đích là phải đập phá diệt ngã và xả bỏ tất cả mọi thứ trói buộc là chính, Đức Phật đã dạy như vậy và còn nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần. Thế mà quý thầy và quý cô đặt ra nghi vấn để làm cho mọi người thối tâm, nếu Liễu Tâm không thưa hỏi thì Thầy không bao giờ đem sự việc này ra dạy bảo. Mặc dù Thầy biết rất rõ những điều quý cô nói về cô Diệu Quang, vì Thầy nghĩ rằng nếu con người không đủ phước thì dù có muốn giúp cho họ tu hành giải thoát thì cũng chẳng bao giờ được. Mọi pháp trên thế gian này đều do duyên, duyên của mọi người đã gieo trong tà pháp thì dù có muốn lôi họ vào chánh pháp cũng phải chịu nhọc nhằn và vô cùng khó khăn.
Vì lợi ích cho loài người và thắp sáng lại ngọn đèn Phật giáo nên Thầy và cô Diệu Quang phải đem hết sức ra làm việc để mong sao ngày nào đó tuy đốm lửa nhỏ nhưng sẽ thắp sáng trên hành tinh này. Nếu có điều gì nghi ngờ thắc mắc thì các con nên thưa hỏi. Hỏi để không còn nghi ngờ; hỏi để thấu rõ con đường mình đang đi có đúng hay sai; hỏi để tránh khỏi những sự lừa đảo của kẻ khác, vì tự ái mặc cảm với tâm ích kỷ nhỏ mọn và vì danh, vì lợi mà bẻ cong giáo pháp của Đức Phật, nhất là sự lừa đảo của các tôn giáo. Chính những người đang lãnh đạo tôn giáo đó họ vẫn bị tôn giáo của họ lừa đảo như thường mà chẳng bao giờ họ biết.
Chính Thầy trả lời những câu hỏi của các con là đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề thuộc về tôn giáo, nhất là đạo Phật. Cho nên bộ sách Đường Về Xứ Phật có một sự lợi ích rất lớn cho các con nói riêng và lợi ích cho mọi người nói chung. Các con đừng sợ Thầy mệt nhọc, mà sợ đời sau không ai dám trả lời như Thầy thì lấy gì các con hiểu để tránh những cạm bẫy của những kẻ manh tâm gian ác, dùng lý luận giết Phật giáo như ngài Long Thọ, ngài Thế Thân, ngài Vô Trước v.v… Hiện giờ còn biết bao nhiêu người khác nữa, tu theo đạo Phật mà không chịu diệt ngã xả tâm, đạo thì muốn tu mà đời không chịu bỏ rồi sanh ra những lý luận giết Phật giáo như các Tổ, nhất là Tổ Long Thọ đã làm và bây giờ cũng có một số người vô tình lý luận bóp méo sự thật để diệt Phật giáo.
Đạo Phật ra đời vốn không ép buộc cũng không cám dỗ ai theo đạo mình. Chỉ có những người nào ý thức được đời là khổ và biết khổ như thật thì xả bỏ hết các pháp thế gian để tìm đường giải thoát thì mới mong thấy được sự giải thoát. Còn người nào tu hành chẳng biết buông xả tâm mình thì đời chẳng ra đời mà đạo chẳng ra đạo, vì thế làm gì thấy được sự giải thoát của đạo Phật. Sự giải thoát của đạo Phật rất đơn giản, chỉ cần ngăn ác diệt ác pháp, sống thiện tăng trưởng thiện pháp là có giải thoát ngay liền. Ai biết ngăn ác pháp, ai biết diệt ác pháp thì người ấy là Phật tại thế gian, chứ đâu phải Phật ngồi thiền, niệm chú, tụng kinh bái sám v.v...
Quý cô và quý thầy tu hành chẳng ngăn ác pháp, chẳng diệt ác pháp mà tu theo đạo Phật thì chỉ phí công mà thôi, lại còn mang nợ của đàn na thí chủ, sống trong địa ngục của miệng lưỡi mà không hay biết, thật là đáng thương.
Hỏi: Kính thưa Thầy, chúng con xin hứa khả trước bậc Thầy tôn kính là: “Con xin cố gắng nỗ lực hơn nữa, rèn luyện và khắc kỷ tinh tấn nhiều hơn nữa, để làm tròn những lời dạy bảo răn nhắc của Thầy về đức hạnh làm người cho tròn và ước nguyện con còn muốn đi xa hơn nữa. Đó là theo bước chân của Phật và của Thầy đã đi qua, cô Út Diệu Quang đang đi tới. Con còn phải tu tập xả tâm tham, sân, si, mạn, nghi và các kiết sử cho rốt ráo hơn nữa, nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng là chặng đường con mới đặt chân lên, con tự thấy con còn yếu ớt quá, không hiểu rồi đây, kiếp đời này con có làm được như ý nguyện lớn lao này không?
Tuổi đời cũng đã cao, gia duyên con còn nặng quá! Sức khỏe vô thường không biết nó sẽ chi phối lâu mau như lời dạy của Thầy: “Các con hiện giờ như chiếc xe cũ... lại đổ dốc... ôi! Chắc đôi mắt “thông suốt đường đi lối về của nhân quả” mà Thầy của chúng con nay đã nhìn thấy.... Chúng con đang chơi vơi ở đáy sông đáy biển mà không hay biết gì cả. Chúng con chỉ còn một cách là tự cứu mình như lời dạy của Thầy. Con xin ghi khắc và cố gắng xả tâm diệt ngã để cho mau chóng “tâm như cục đất.”
Kính thưa Thầy, lá thư con dâng lên trình Thầy vào đúng ngày 15-4-2000 âm lịch, là ngày Đản Phật Thích Ca Mâu Ni. Chúng con nguyện ngày hôm nay là ngày thọ tám giới. Chúng con cố gắng sức nỗ lực tinh tấn hơn các ngày khác để lấy công đức tu hành nhỏ bé này dâng lên cúng dàng Phật Tổ và đức Từ Phụ để tỏ lòng biết ơn sâu dầy đến bậc Chánh Đẳng Chánh Giác đã tìm ra, và dựng lại con đường Chánh Pháp mà bấy lâu nay đã dần tắt ngấm.
Đáp: Đức Phật đã hiểu rõ hoàn cảnh của người cư sĩ không thể nào xuất gia tu hành ngay liền được, nên Ngài đã chỉ dạy cho cư sĩ trong mỗi tháng nên tu tập một hoặc hai ngày “Thọ Bát Quan Trai,” tức là tập sống đúng như Phật và chúng Thánh Tăng. Trong ngày ấy giữ gìn tám giới thanh tịnh và ôm pháp tu tập, tức là không lìa pháp, nghĩa là ngày ấy lấy pháp ngăn ác diệt ác pháp, sống thiện tăng trưởng thiện pháp.
Vì thế ngày ấy phải sống trầm lặng độc cư không được nói chuyện tào lao, nói chuyện Phật pháp, nghe băng, luận đạo v.v... Ngày ấy được xem là ngày làm Phật, làm Thánh Tăng, làm Thánh Ni, làm bậc Hiền Thánh trong đạo Phật. Ngày ấy được xem như là một ngày quan trọng nhất của đời người, vì ngày ấy là ngày giải thoát sanh tử và chấm dứt luân hồi muôn đời muôn kiếp.
Cho nên các con hãy xem ngày thọ Bát Quan Trai là một ngày cao thượng và cao đẹp nhất của đời sống làm người của các con. Một ngày sống toàn thiện cho chính bản thân các con, cho mọi người và mọi loài chúng sanh. Các con có trân trọng và tôn quý ngày ấy thì các con không vi phạm những lỗi lầm nhỏ nhặt, những lỗi lầm thường xảy ra trong ngày ấy là: nói chuyện, nghe băng pháp, lo ăn uống, hỏi những điều thắc mắc chưa rõ, lý luận, tranh cãi, cho cái này đúng cái kia sai v.v...
Tất cả những sự việc này phải dẹp qua một bên. Ngày ấy các con đến đây để làm Thánh thì phải im lặng như Thánh, phải sống đơn giản như Thánh, phải ăn uống như Thánh, phải ngủ nghỉ như Thánh, phải tôn trọng những người bạn Hiền Thánh của mình, những người đồng một chí hướng với mình.
Nếu các con thực hiện đúng được như vậy và trước giờ xả Bát Quan Trai, các con kiểm điểm lại từ sáng đến chiều các con tu tập có lầm lỗi một điều gì chăng? Có vi phạm một lỗi lầm nào không? Nếu hoàn toàn không có thì ngày ấy chính là ngày các con đã hưởng trọn một ngày thanh thản, an lạc và vô sự. Ngày ấy là ngày giải thoát hoàn toàn không còn ác pháp, ngày ấy là ngày các con đã tập làm chủ nhân quả nghiệp báo, ngày ấy là ngày thanh bình nhất trong tâm hồn của các con.
Nếu cuộc đời của các con chưa đủ duyên tu hành trong kiếp này thì ngày thọ Bát Quan Trai là ngày mà các con tạo nghiệp Thánh thiện để kiếp sau nối tiếp duyên tu hành cho đến nơi đến chốn giải thoát hoàn toàn, chấm dứt luân hồi. Cho nên ngày thọ Bát Quan Trai các con hãy tu tập cho đúng pháp, trong cuộc sống hiện tại của các con, các con sẽ là người có đức hạnh không làm khổ mình khổ người, luôn biết nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng, tạo cảnh sống cho mình cho người một mùa xuân an lạc, một mùa xuân vĩnh cửu. Nếu ngược lại các con còn thấy mình có lầm lỗi thì hãy rút ra những kinh nghiệm của lần tu tập này để kỳ thọ Bát Quan Trai tới sẽ không còn phạm phải nữa.
46. XÁ LỢI CÓ PHẢI DO KẾT QUẢ TU THIỀN?
Hỏi: Kính bạch Thầy, sau đây chúng con có một vài thắc mắc, cúi xin Thầy và cô Út từ bi xót thương chỉ dạy cho chúng con dứt những điều nghi và an tâm tu tập: Xá Lợi có nhất thiết là kết quả tất yếu của người tu thiền hay không? Có một cư sĩ là cựu sĩ quan VNCH xuất gia, tu hành được vài năm (chưa hẳn là tu thiền hoàn toàn), tên là thầy Minh Đạt, khi chết thiêu xác thì người ta bảo thầy ấy có xá lợi rất đẹp. Đệ tử của HT Tuyên Hóa chụp nhiều ảnh cho thấy HT có quá nhiều xá lợi, từ những cục to nhỏ, đến các mảnh xương dẹp hình răng cưa thật to.
Chúng con có cảm tưởng là người ta cố tình thiêu chưa hết hoàn toàn nên mới có nhiều mảnh xương như vậy. Chúng con nhớ đã đọc hay nghe các thầy ngày xưa dạy rằng: “xá lợi là kết tinh của người đồng ấu xuất gia. Nó là tinh, là tủy của người tu hành chân chánh.” Xin Thầy từ bi chỉ dạy.
Đáp: Trong kinh Nguyên Thủy Đức Phật không bao giờ ca ngợi tán thán xá lợi hay là để lại nhục thân, hoặc cho rằng do công đức tu hành thiền như thế này, như thế kia mới có xá lợi hay nhập định để lại nhục thân. Chỉ có dạy ông A Nan: khi Đức Phật tịch lấy những mảnh xương vụn đốt cháy còn sót lại (Xá lợi) xây tháp mà thờ:
“Này A Nan, khi trà tỳ xong, nhặt lấy những mảnh xương vụn dựng tháp treo phan, tại ngã tư đường, để những người đi ngang qua trông thấy tháp Phật mà tưởng nhớ Đức Như Lai đã dùng chánh pháp giáo hóa chúng sanh, ngõ hầu sống được phước lợi, thác được sanh Thiên.”
Lời dạy trên đây là cách thức để chúng ta nhớ ơn Phật, nhớ đến ơn Phật là phải thực hiện những lời Ngài dạy để có lợi ích trong cuộc sống hiện tại, nhưng đến khi chết cũng được sanh vào cõi thiện hưởng được sự an vui.
Xá lợi là một danh từ cung kính tôn trọng nắm xương tàn của Đức Phật chứ không có nghĩa lý gì về sự tu tập thiền định kết tinh lại thành. Các Tổ sau này đã tự vẽ ra lừa đảo lường gạt tín đồ: “Xá lợi là kết tinh của người đồng ấu xuất gia, nó là tinh, là tủy của người tu hành chân chánh, của những người nhập được thiền định.” Lời dạy này rất sai vì Đức Phật đâu phải là đồng ấu xuất gia mà khi trà tỳ xá lợi quá nhiều đem chia cho tám nước. Còn bảo rằng do tu thiền kết tinh lại thành xá lợi thì lại còn sai hơn nữa, có nhiều người không tu thiền, thiêu xác vẫn có xá lợi.
Đức Phật đã chẳng bảo: “Thân người là những chất bất tịnh do bốn đại: đất, nước gió, lửa hòa hợp mà thành” thì có cái gì gọi là kết tinh, kết tủy để thành xá lợi, dù có kết tinh kết tủy như thế nào thì nó cũng chỉ là vật vô thường, bất tịnh có gì cho chúng ta quý trọng. Vậy mà các Tổ dựng lên do “Công phu tu hành kết tinh mà có” theo kiểu tưởng của thiền Tiên đạo luyện tinh, khí, thần. Đạo Phật không có loại thiền lừa đảo đó, vì xá lợi là những vật vô thường bất tịnh đó chẳng có ích lợi gì cho con người trên hành tinh này.
Đạo Phật vốn quý trọng ở chỗ đạo đức không làm khổ mình khổ người (giải thoát) chứ không phải quý trọng chỗ thân trường thọ bất tử hoặc tu luyện như thế nào đến khi chết để lại nhục thân không hoại diệt, như bộ xương khô hoặc để lại xá lợi rất nhiều thì như vậy mới gọi là người đắc thiền, đắc đạo. Đức Phật không có tuyên bố điều này. Thiền đạo này không lợi ích thiết thực cho con người mà chỉ là một trò lừa đảo để làm tiền thiên hạ với những ai quá tin mù quáng.
Người ở đời thấy ai tu hành có thần thông pháp thuật hoặc để lại nhục thân, hoặc để lại nhiều xá lợi là cho chứng đạo, chứng thiền. Thiền đạo đó là những thứ thiền không đúng của đạo Phật. Thiền đạo của đạo Phật là sống không làm khổ mình khổ người, tâm hồn luôn luôn bất động trước các pháp và các cảm thọ nên thường ở trong trạng thái thanh thản, an lạc và vô sự mà Đức Phật gọi là nhập Bất Động Tâm Định. Bất Động Tâm Định là một trạng thái Diệt Đế trong Tứ Diệu Đế tức là Niết Bàn. Đến khi Đức Phật diệt độ, Ngài xuất Tứ Thiền và nhập vào trạng thái bất động tâm này. Đây là một trạng thái khi sống tu hành xong cũng như lúc chết Đức Phật đều an trú trong đó, một trạng thái thực tế và cụ thể không mơ hồ chút nào. Cho nên Tứ Diệu Đế gọi là bốn chân lý của đạo Phật thật là xứng đáng chân lý của loài người, một chân lý mà lúc sống cũng như chết người ta cũng đều tìm được hạnh phúc ở nơi đó và nơi đó là nơi toàn là mùa xuân vĩnh cửu an lạc, yên vui.
Những bộ xương khô và xá lợi dù có để lại hay không có để lại thì nó cũng chỉ là một di tích lịch sử của những ai đã làm lợi ích cho nhân loại. Nhìn thấy những di tích này hay không thấy, con người vẫn mãi mãi biết ơn và luôn luôn tỏ lòng cung kính, tôn trọng. Còn những bộ xương khô và xá lợi của những ai làm hại nhân loại để lại bao nhiêu kinh sách dạy con người những điều mê tín, phi đạo đức, lừa đảo lường gạt từ đời này sang đời khác, từ thế hệ này đến thế hệ khác thì chúng ta xem như là những thứ bất tịnh, không xứng đáng cho chúng ta cung kính và tôn trọng.
Cho nên người tu theo đạo Phật là tu theo đạo trí tuệ, đạo trí tuệ thì phải luôn luôn sống trong chánh kiến chứ không bao giờ sống trong tà kiến. Như Đức Phật đã xác định: “Trí Tuệ ở đâu là giới luật (đức hạnh) ở đó, đức hạnh ở đâu là trí tuệ ở đó. Đức hạnh làm thanh tịnh giới luật, giới luật làm thanh tịnh đức hạnh.” Còn những bộ xương khô và xá lợi là những điều lừa đảo và lường gạt người bằng cách thêu dệt cho rằng những thứ bất tịnh này là kết tinh của sự chứng thiền, chứng đạo do tu hành chân chánh mới có. Đó là một điều điên đảo lừa gạt mà trong kinh sách Phật không có dạy như trên chúng tôi đã nói.
Có một số người tu theo hạnh Bồ Tát thường cầu chư Phật gia hộ cho thế giới hòa bình và chúng sanh hết khổ. Những hành trì này chúng sanh có hết khổ đâu, và thế giới có hòa bình chưa? Hay chỉ là một trò hà hơi rờ vuốt hết bệnh tức khắc nhưng rồi bệnh thiên hạ vẫn trở lại như thường. Biết bao nhiêu ông thầy thuốc, thầy thuốc Nam, thầy thuốc Bắc, thầy thuốc Tây, thầy rờ, thầy vuốt, thầy nước lạnh, thầy nhịn ăn, thầy gạo lức muối mè, thầy dùng khí công trị bệnh, thầy dùng nhân điện v.v... nhưng có bao giờ thế gian hết người bệnh không?
Bồ Tát Quan Thế Âm cứu khổ cứu nạn chúng sanh mà hiện giờ chúng sanh có hết khổ nạn bệnh tật hay không? Từ xưa đến giờ cái trò lừa đảo lường gạt người quá nhiều đủ mọi loại mánh khóe gian xảo bằng mọi hình thức tôn giáo, bằng các loại tưởng uẩn của con người. Chỉ vì chúng ta u mê không chịu sống trong đạo đức nhân bản – nhân quả làm người không làm khổ mình khổ người mà Đức Phật đã dạy: “Trí tuệ đâu ở thì đức hạnh ở đó.” Chúng ta không sống trong đức hạnh làm người mà cứ chạy theo và dựa lưng vào những sự mê tín thế giới siêu hình, thần thánh gia hộ, ông thầy này, bà cốt nọ thì có bao giờ hết khổ đâu.
Những điều như trên đã nói là những điều không đức hạnh thì chúng ta không nên tin. Luật nhân quả là một đạo luật công bằng và công lý luôn luôn áp dụng cho loài người trên hành tinh này. Tai nạn bệnh tật khổ đau của loài người là do con người làm ra thì con người phải chịu lấy quả khổ do chính mình, chứ không có Bồ Tát nào chịu thế cho ai được đâu, và cũng không bao giờ cầu khẩn được cho ai cả. Chỉ có con người sống đừng làm khổ mình khổ người thì bệnh tật tai nạn kia sẽ chấm dứt. Cho nên có những người làm việc mê tín gọi là độ chúng sanh, còn dùng những danh từ rất kêu “cứu thế độ nhân” lừa bịp thiên hạ làm như mình là Thánh Thần quá thương yêu chúng sanh “Bồ Tát bệnh vì chúng sanh bệnh.” Mới nghe thì tưởng là có lòng thương yêu chúng sanh đệ nhất không còn ai hơn, nhưng không ngờ đó là một sự lừa đảo đệ nhất.
Đến khi chết những hàng đệ tử khôn khéo này lại còn dùng những mảnh xương vụn bất tịnh để cướp tiền của thiên hạ giữa ban ngày mà pháp luật không kết tội được. Khi còn sống các thầy Tổ này dạy toàn là những pháp mê tín phi đạo đức, phi Phật giáo, đến khi chết thì học trò tiếp nối lừa đảo người làm giàu trên mồ hôi nước mắt của tín đồ.
Đạo Phật nhìn các sắc pháp của thế gian là vô thường thì có sự kết tinh nào cũng đều là vô thường “Hữu sắc là hữu hoại.” Nên xá lợi đối với đạo Phật không có nghĩa lý gì cả, nó cũng chỉ là những vật bất tịnh tầm thường như những vật khác trong thế gian này. Những mảnh xương bẩn thỉu đó dù có kết tinh thành kim cương, ngọc bích thì đối với người tu theo đạo Phật lại càng tránh xa và cũng không cần tu những loại thiền định có sự kết tinh những vật quý giá như vậy, dù vật quý giá hoặc không quý giá thì đối với đạo Phật nó cũng là pháp vô thường. Những mảnh xương vụn đó chỉ nói lên được lòng cung kính, tôn trọng biết ơn của chúng ta đối với những người quá cố làm lợi ích cho loài người, chứ nó không phải là kết quả tất yếu của người tu thiền định.
Xá lợi là một hiện tượng rất bình thường, vì thân người có những đặc tướng khác nhau; có người trong thân có nhiều chất vôi, khi chết đem thiêu xương cháy không hết nên còn lại rất nhiều, chứ không phải do tu mà có; có người trong thân ít chất vôi khi chết đem thiêu xương thịt cháy hết. Pháp môn của đạo Phật không có luyện tinh khí thần như ngoại đạo, mà chỉ có sống một đời sống ngăn ác diệt ác pháp để cho cuộc sống của mình được giải thoát mà không làm khổ mình khổ người, nhờ thế cuộc sống của mọi người ai ai cũng có một tâm hồn thanh thản, an lạc và vô sự.
Còn thiền định của đạo Phật thì không có tu tập rèn luyện cơ thể bằng cách này, bằng cách khác như thiền Yoga mà chỉ có dùng pháp hướng tịnh chỉ các hành trong thân để nhập các định làm chủ sự sống chết.
Mục đích của đạo Phật rất rõ ràng là làm chủ sanh, già, bệnh, chết chứ không có lừa đảo lường gạt người bằng những việc kỳ lạ tưởng tri như các Tổ: “Nào là xá lợi kết tinh do sự tu hành chân chánh; nào là để lại nhục thân do nhập thiền định.” Trong khi các Tổ chưa biết thiền định là như thế nào? Nhập định phải làm sao? Trước khi nhập định phải tu tập cái gì? Chứ đâu phải ngồi khoanh chân kiết già rồi ức chế tâm cho hết vọng tưởng, tức là không còn niệm thiện niệm ác mà cho đó là thiền định thì thật là vô minh, thật là thiếu hiểu biết. Vì tu thiền định như vậy cho nên phải tưởng tri xá lợi và nhục thân khô đét như con khỉ khô là kết tinh của thiền định. Thiền định của các Tổ là một loại thiền định tưởng có nghĩa là các Tổ tưởng ra cho nó là thiền định chứ kỳ thực nó không phải là thiền định.
Bởi vậy thiền định mà không có người tu hành chứng được thì người sau tưởng ra mà tu tập thành ra tu thiền tà, thiền ngoại đạo. May là kinh sách Nguyên Thủy của Đức Phật còn ghi lại rõ ràng chứ nếu không thì biết đâu mà tu. Con người trên hành tinh này làm sao biết thiền, biết định như thế nào. Cho nên những điều lừa đảo lường gạt vô tình hay hữu ý của các Tổ thì làm sao chúng ta biết được. Vì thế chúng ta phải tin theo và rất quý trọng thường có dịp bỏ tiền ra đi chiêm bái xá lợi một cách mù quáng.
Đối với thiền định của đạo Phật như nhập Diệt Thọ Tưởng Định, nhập Diệt Thọ Tưởng Định là tất cả các hành trong thân đều ngưng nghỉ toàn bộ như khẩu hành, thân hành, ý hành. Cho nên thân và tâm bất động toàn bộ vì sức định này diệt các hành uẩn không còn rung động một chút xíu nào cả. Từ trong định lực của thiền định này lưu xuất ra một từ trường để bảo vệ nhục thân không bị ảnh hưởng thời tiết nắng, mưa, gió, bão, nóng, lạnh xâm thực, và còn giữ gìn nhục thân tươi nhuận như người còn sống chứ không phải khô đét như khỉ khô.
Từ trường đó nó còn bảo vệ không cho loài thú vật xâm chiếm và phá hoại nhục thân. Một từ trường bảo vệ nhục thân như vậy mà Đức Phật còn cho là huyễn hóa lừa đảo người, nên khi Đức Phật tịch thì thiêu đốt bỏ. Nhưng vì lòng kính trọng của mọi người đối với Đức Phật nên những mảnh xương vụn ấy được đệ tử của Ngài chia cho tám nước về xây tháp để tưởng nhớ công ơn của Người đã có công giáo hóa đạo đức giải thoát cho loài người. Còn dân chúng trong tám nước này đều xin tro thiêu nhục thân Phật đem về xây tháp để tưởng nhớ công ơn.
Kinh Du Hành trong Trường A Hàm tập I trang 233: “Bấy giờ ông Hương Tánh lấy một cái bình và dùng bát đá chia đều xá lợi làm tám phần bằng nhau … Lúc đó người trong thôn Tất Bát cũng đến xin mọi người một phần tro còn lại để dựng tháp cúng dường.”
Các Tổ khéo léo dùng thuốc ướp xác trước khi chết bằng cách uống vào người rồi ngồi kiết già, lúc bây giờ thuốc ngấm dần vào cơ thể diệt sự sống của cơ thể và cơ thể nhờ đó không bị hôi thối, từ từ khô dần giống như khỉ khô. Bên Tây Tạng người ta ướp xác bằng cách mổ bỏ ruột gan, còn Việt Nam và Trung Hoa thì ướp xác đặc biệt hơn.
Trong thời Nam - Bắc triều phân ranh, Chúa Trịnh Giang có một người cung nữ chết rồi ướp xác chôn. Gần đây các nhà khảo cổ Việt Nam đã khai quật những ngôi mộ cổ và xác nàng cung nữ vẫn còn nguyên vẹn tươi tốt như người ngủ.
Giả thiết Trung Hoa và Việt Nam có một loại thiền tu tập để ướp xác thật sự như bộ xương khô của Lục Tổ Huệ Năng, Vũ Khắc Minh và Vũ Khắc Trường thì loại thiền này có ích lợi gì cho loài người. Khi pháp môn của các vị này dạy, chúng tôi chẳng thấy có đạo đức gì cả, như vậy có lợi ích gì cho đời sống của loài người đâu. Nếu so sánh pháp môn thiền định của Lục Tổ Huệ Năng và đạo đức của Khổng Phu Tử thì đạo đức của Khổng Phu Tử làm lợi ích cho loài người hơn nhiều.
Đạo đức của đạo Phật dạy cho chúng ta ngăn ác diệt ác pháp để đem lại sự ích lợi cho cuộc sống của mình và của mọi người. Vì thế người tín đồ của đạo Phật phải sống thường áp dụng Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng và Chánh Tinh Tấn. Nhờ biết áp dụng đúng cách nên đệ tử của Đức Phật sống không làm khổ mình khổ người đem lại một trạng thái thanh thản, an lạc, vô sự cho cuộc sống chung nhau trên hành tinh này, biến cuộc sống trở thành Niết Bàn, Cực Lạc. Còn đến khi chết thì cũng giống như bao nhiêu thân xác của người khác, vì thân xác của người nào cũng đều là bất tịnh, cũng do tứ đại hòa hợp tạo thành, còn có cái gì quý giá ở đâu, sống mà không thiện, chết thì còn có cái gì quý? Để lại làm gì những mảnh xương ô nhiễm môi trường, khi chết đem thiêu xác, đem chôn vào lòng đất cho kín để giữ gìn môi trường trong sạch là điều tốt nhất cho những người còn sống.
Chúng ta hãy dẹp cái trò lừa đảo để lại nhục thân và Xá Lợi là tu chứng Thiền chứng Thánh, đó là vọng ngữ, là nói láo. Đạo Phật không chấp nhận những điều mê tín, lừa đảo này.
Tóm lại, chúng ta nên đọc một đoạn kinh Du Hành trong Trường A Hàm tập 1 trang 240 để biết rõ: trong lúc trà tỳ Đức Phật có nhiều xá lợi như vậy là nhờ dập tắt lửa để lấy những mảnh xương vụn cháy chưa hết để chia nhau xây tháp, chứ không phải do kết tinh tu thiền: “Dân chúng Mạt La bảo nhau: Ngọn lửa cháy mạnh quá khó dập tắt e cháy tiêu hết xá lợi! Chúng ta phải lấy nước ở đâu để tưới? Lúc đó có một vị Thần Ta La đang hầu một bên, dùng thần lực làm tắt ngọn lửa.” Đoạn kinh trên xác minh xá lợi của Đức Phật không phải do kết tinh của thiền định.
Đến đây chúng tôi xin nhường lại những ý kiến chân chánh của quý phật tử và quý vị tư duy như thế nào, đừng để kẻ khác lừa đảo chúng ta nữa.
47. CÚNG DƯỜNG ĐÚNG CHÁNH PHÁP
Hỏi: Kính bạch Thầy, từ khi đọc bài của Thầy dạy rằng: “cúng dường một đồng cho các thầy tu phạm giới, phá giới, bẻ vụn giới, dùng miệng lưỡi lý luận mơ hồ trừu tượng gây mê tín và thần thông, bùa chú lừa đảo người còn nhẹ tội hơn là một người cúng dường một tỷ đồng.” Nhất là nhớ đến đạo đức nhân quả thì chị Nghiêm không dám cúng dường hàng tháng cho các tu viện nữa. Trước đó anh chị có hứa hằng tháng bảo trợ cho các Tăng Ni Tây Tạng tu học. Bây giờ chị ấy ngưng vì sợ tạo thêm tội. Anh em chúng con có người cho rằng: “các tu sĩ Tây Tạng đâu có lỗi gì. Họ chẳng may tu phải một pháp môn không phải của Đức Phật. HT Thanh Từ bảo rằng cúng dường cho người tu là gieo duyên cho họ mắc nợ mình để kiếp sau còn gặp nhau để họ dạy dỗ, nhắc nhở mình tu hành. Xin Thầy chỉ dạy cho chúng con.
Đáp: Những người dùng tôn giáo và tà pháp dạy những điều mê tín, phi đạo đức, tạo ra những điều kỳ lạ quyến rũ những người nhẹ dạ để đem tiền bạc hoặc thực phẩm cúng dường cho những người đó ăn không ngồi rồi mà chẳng làm ích lợi gì cho ai cả. Khi đã học xong họ lại còn đem những sở học tà giáo ngoại đạo ra phổ biến rộng khắp dạy mọi người làm những điều mơ hồ, trừu tượng không chân chánh “Tiền mất tật mang,” không có nghĩa lý và đạo đức gì cho cuộc sống làm người.
Chúng ta đã biết pháp của họ là những pháp mê tín, trừu tượng, ảo giác, lừa đảo lường gạt thiên hạ mà cứ đem tiền bạc cúng dường cho những người đó ăn thì chúng ta tự xét lại mình có phải mình là người khờ dại hay là người thông minh? Cúng dường như vậy có được phước báo gì? Đức Phật dạy: “cúng dường không đúng chánh pháp như đem hạt giống tốt gieo trên đất chai xấu, chẳng có phước báo mà còn tổn phước.” Tại sao vậy? Vì “giúp người làm ác.”
Cúng dường gieo duyên như Hòa Thượng Thanh Từ bảo là cúng dường đúng chánh pháp. Nhờ cúng dường đúng chánh pháp mà chúng ta gặp được chánh pháp, còn cúng dường cho tà pháp thì đời đời sẽ gặp tà pháp. Mà gặp tà pháp thì làm sao chúng ta sống có đạo đức làm người làm Thánh, và làm sao tu hành được giải thoát khỏi sanh tử luân hồi thì kiếp kiếp đời đời chúng ta sẽ thọ khổ vô lượng vô biên biết chừng nào cho chấm dứt. Vả lại cúng dường cho những người tu theo tà pháp mê tín phi đạo đức là nối giáo cho kẻ khác diệt nền đạo đức của Phật giáo. Bằng chứng là quý phật tử từ xưa đến giờ đã bị kinh sách phát triển lừa đảo mà quý vị không biết nên cúng dường. Do đó chúng duy trì và phát triển nên diệt sạch Phật giáo, khiến cho loài người 25 thế kỷ nay đã đánh mất nền đạo đức nhân bản - nhân quả làm người tuyệt vời.
Bây giờ khắp trên thế giới con người sống bất an, thường xâu xé chà đạp lên nhau vì cuộc sống, cho nên chiến tranh thế giới không lúc nào yên, lần lượt con người sẽ thoái hóa trở thành những loài thú dữ và còn tệ hơn là trở thành ác quỷ. Bởi vậy cúng đường không đúng chánh pháp tức là cúng dường cho tà pháp, cúng dường tà pháp là quý vị có tội. Tội là vì xã hội con người không có đạo đức nên cuộc sống bất an, cuộc sống bất an thì quý vị cũng đang sống trong cảnh bất an đó.
Quý vị cứ suy ngẫm lại xem, từ lâu con người không theo tôn giáo này thì lại theo tôn giáo khác, không theo triết học này thì cũng theo triết lý khác. Các tôn giáo dạy người cầu khẩn cúng tế cầu cho quốc thái dân an, thế giới hoà bình bằng cách này hoặc bằng cách khác, nhưng chúng ta có thấy quốc thái dân an bao giờ chưa? Có thấy thế giới hòa bình không chiến tranh chưa? Hay phải muốn quốc thái dân an thì phải bằng sức lực của con người, và thế giới muốn có hòa bình thì cũng phải bằng sức lực của con người chứ không có một đấng siêu hình nào của các tôn giáo mà đem lại sự hòa bình cho loài người được.
Do đó bằng những hình thức cầu khẩn, cúng tế lạy cầu hoặc tam bộ nhất bái để cầu quốc thái dân an và hòa bình thế giới thì đó là một điều lừa đảo lường gạt thiên hạ. Vậy mà chúng ta đem tiền của cúng dường cho những hạng người này là làm một việc phi đạo đức, nghĩa là không có phước báo mà còn có tội đối với loài người. Nhờ chúng ta cúng dường mà những người lừa đảo mới tiếp tục sống lừa đảo, còn nếu chúng ta không cúng dường thì chúng không thể sống lừa đảo được, buộc chúng phải sống lương thiện bằng mồ hôi nước mắt của mình làm ra để mà sống như chúng ta vậy.
Ví du: Mọi người đều biết pháp môn của kinh sách phát triển là pháp môn lừa đảo thì không ai còn cúng dường thì mấy ông thầy của kinh sách phát triển không còn nói láo được nữa, và nhờ đó các ông sống trở lại đời sống lương thiện, đời sống không làm khổ mình khổ người.
Đức Phật dạy: “Cúng dường đúng chánh pháp, là cúng dường cho cá nhân thanh tịnh và tập thể thanh tịnh.” Cá nhân thanh tịnh và tập thể thanh tịnh như thế nào? Cá nhân thanh tịnh và tập thể thanh tịnh là cá nhân và tập thể phải sống đúng giới luật. Người sống đúng giới luật có nói láo không? Quý phật tử hãy nhìn lại quý thầy của kinh sách phát triển và các Thiền Sư Trung Hoa có sống đúng giới luật chưa? Có nhập định làm chủ sự sống chết được chưa? Có hết tham sân, si chưa? Nếu chưa sống đúng giới luật, chưa làm chủ sự sống chết, chưa hết tham, sân, si thì quý thầy đó thuyết giảng dạy người khác tu là nói láo, có đúng không? Mình tu chưa được mà dạy người khác tu là những người đó có xạo không? Mà người xạo, người nói láo thì có nên cúng dường không? Vì thế cúng dường cho người lừa đảo, người nói láo là mình có tội thêm và tội rất lớn, do thế cúng dường một đồng ít tội hơn người cúng một tỷ đồng là vậy.
Hòa Thượng Thanh Từ bảo rằng: “Cúng dường cho những người tu chân chánh là gieo duyên cho họ mắc nợ mình để kiếp sau còn gặp nhau để họ dạy dỗ, nhắc nhở mình tu hành.” Lời dạy này của Hòa Thượng rất đúng. Đúng là đúng với chánh Pháp của Đức Phật, vì pháp của Đức Phật là đạo đức làm người không làm khổ mình khổ người. Còn như chúng ta đã biết Thiền, Mật, Tịnh là tà pháp ngoại đạo thường dạy người mê tín, phi đạo đức, phi nhân quả và có những điều dạy rất mơ hồ, trừu tượng chỉ hiểu bằng tưởng tri.
Nếu chúng ta thường đem tứ sự cúng dường cho những bậc thầy này để họ mắc nợ chúng ta, để kiếp sau còn gặp nhau để họ dạy dỗ nhắc nhở mình tu hành những điều mê tín, phi đạo đức thì chúng ta có nên cúng dường gieo duyên với những người này hay không? Gieo duyên với họ đã tốn tiền của và công sức nhưng cuối cùng được những gì? Hãy nhìn các bậc thầy Tổ của chúng ta họ giải thoát được những gì hay chỉ lừa đảo chúng ta mà thôi.
Tóm lại quý phật tử phải sáng suốt trong lúc cúng dường hay bố thí, phải chọn cho đúng đối tượng. Bậc tu hành giới luật nghiêm túc và người được bố thí thật sự ở trong cảnh khổ.
48. RÈN LUYỆN NGHỊ LỰC BỀN CHÍ, KIÊN NHẪN
Hỏi: Chúng con theo thời khóa tu tập mà Thầy chỉ dạy trong ĐVXP VIII, nhưng thay vì thức dậy từ 02 giờ sáng, chúng con thức dậy lúc 03 giờ, có khi làm biếng dậy lúc 3,30 hoặc 4 giờ (thật xấu hổ, ham ngủ mà đòi tu thiền và mong được giải thoát!).
Thay vì ngồi kiết già thở 5 hơi thở rồi đứng dậy đi kinh hành, chúng con làm biếng (trong lòng thì nghĩ rằng 5 hơi thở quá dễ, đứng lên ngồi xuống hoài mỏi giò quá) tụi con ngồi thở vài chục hơi mới đứng dậy kinh hành. Chúng con tu tập như thế có được không?
Đáp: Hành giả tu hành phải theo đặc tướng của mình, cho nên thời khóa của người này thì không nên áp dụng cho người kia. Vì thế Đức Phật dạy khi tu hành phải thiện xảo, phải khéo léo trong sự tu tập cũng giống như người lên dây đàn, căng dây quá thì không đúng âm, chùng quá thì không thành âm, chỉ có căng dây vừa thì phát âm đúng. Người mới tu tập thì phải tu tập thọ Bát Quan Trai tức là tập sống như Phật để ly dục ly ác pháp. Ly dục ly ác pháp là để tập tâm không phóng dật, tập tâm không phóng dật có nhiều cách:
1, Tập sống đúng tám giới (Thầy có gửi băng cho các con tu tập thọ Bát Quan Trai Giới hãy nghe theo đó mà tu cho đúng);.2, Sống đơn giản; 3, Sống một mình; 4, Tập tỉnh thức đi hoặc ngồi; 5, Tập xả chướng ngại pháp; 6, Tập phá hôn trầm.
Dựa theo thời khóa tu tập trong tập 8 Đường Về Xứ Phật con nên sửa lại cho phù hợp với đặc tướng của mình.
Con không hiểu mục đích tu năm hơi thở rồi đứng dậy đi kinh hành một vòng, đó là sự rèn luyện nghị lực, bền chí, kiên cường và sự tinh cần. Nếu người tu mà không có nghị lực, không có bền chí, không có kiên cường và không có tinh cần thì khó mà thành tựu con đường giải thoát của đạo Phật. Nó không phải dùng để ức chế vọng tưởng mà để phá tâm lười biếng. Nếu không tu tập năm hơi thở cho quen như vậy thì sau này gặp hôn trầm thùy miên rất khó phá. Còn tu tập năm hơi thở đi kinh hành một vòng đã thành thói quen thì hôn trầm thùy miên đến dẹp rất dễ dàng. Đây là pháp hành để phá tâm si mê của các con, giúp các con tỉnh thức. Đối với tâm tham, sân người ta không sợ, mà chỉ sợ tâm si, trạng thái của tâm si là hôn trầm, thùy miên.
Ăn, ngủ, độc cư, ăn ngày một bữa người ta có thể ăn được, nhưng ngủ không phải dễ, mọi người đều bỏ cuộc tu hành do không phá được hôn trầm thùy miên. Còn nói đến độc cư thì chưa có ai làm được. Phá được tâm si để có tâm tỉnh thức đâu phải dễ, có tâm tỉnh thức mới sống độc cư được, còn tâm chưa tỉnh thức mà nói sống độc cư là người nói không thật.
Tỉnh thức trên hành động thân hoặc trên hành động hơi thở thì không khó chứ tỉnh thức trên các chướng ngại pháp thì khó khăn vô cùng. Nếu không tập năm hơi thở rồi đi kinh hành thì khó có tỉnh thức, cho nên phương pháp tu năm hơi thở đi kinh hành một vòng là một pháp môn rèn luyện nghị lực, bền chí, kiên cường và sự tinh cần đệ nhất. Nghị lực giúp chúng ta vượt qua và diệt ác pháp trong tâm; tinh cần giúp chúng ta ngăn các ác pháp, bền chí, kiên cường giúp chúng ta gặp khó không lui.
Ví dụ: Khi một cơn sân nổi lên dữ dội, nếu không có nghị lực chúng ta không thể nào dập tắt cơn sân được tức là diệt ác pháp. Còn nếu không có chịu khó tinh cần thì ác pháp sẽ xâm chiếm tâm ta và như vậy chúng ta phải chịu khổ đau, cho nên tinh cần là pháp ngăn ác pháp và nghị lực là pháp diệt ác pháp đệ nhất như trên Thầy đã dạy.
Tóm lại, năm hơi thở đi kinh hành một vòng là một pháp môn căn bản sơ khởi cho người mới tu để rèn luyện thân tâm có một sức lực bền bỉ dẻo dai để tiến tu trên đường đạo mà không sợ chùng bước trước mọi sự khó khăn, gian khổ.
49. TƯỞNG TỨC
Hỏi: Kính bạch Thầy, có lúc hơi thở sao quá nhẹ, tưởng chừng như nó không có tựa vào đâu cả, có lúc con lại cảm thấy làm biếng không muốn thở nữa, mặc dù biết ngưng thở là mình sẽ chết. Nhưng không biết tại sao con lại thích muốn ngưng thở. Xin Thầy chỉ dạy cho.
Đáp: “Hơi thở quá nhẹ tưởng chừng như không tựa vào đâu cả,” đó là con đã rơi vào trạng thái “tưởng tức,” hãy xả bỏ ngay liền, đứng dậy đi kinh hành vì tu như vậy là tu lạc đường. Hằng ngày cố gắng mà xem xét bốn chỗ “thân, thọ, tâm, pháp” (Tứ Niệm Xứ) có chướng ngại pháp hay không? Nếu không thì tâm con sẽ thanh thản, an lạc và vô sự. Tâm con nó rất tự nhiên định vào thân con mà không bị ức chế tập trung.
Nó định như thế nào? Khi nó không phóng dật theo các pháp trần bên ngoài. Vậy nó đang biết cái gì? Nó đang biết hơi thở bình thường và hơi thở đó rất bình thường không có một chút gì thay đổi, vì nó không bị ức chế. Nếu hơi thở có thay đổi là do con gom tâm tập trung trong hơi thở, do gom tâm tập trung vào hơi thở nên con rơi vào tưởng tức, thành ra tu sai, các con tu tập nên lưu ý điều này.
Khi nào tâm không phóng dật là lúc bấy giờ tâm định trên hơi thở. Tâm định trên hơi thở tức là tâm không những chỉ biết hơi thở mà còn cảm nhận được toàn thân giống như đề mục Định Niệm Hơi Thở dạy: “Cảm giác toàn thân tôi biết tôi hít vô, cảm giác toàn thân tôi biết tôi thở ra.” Đó là tâm định trên thân. Tâm định trên thân tức là tâm đang quán thân như trong kinh Tứ Niệm Xứ đã dạy: “Trên thân quán thân để nhiếp phục tham ưu.” Khi tâm đang quán thân thì tâm không phóng dật. Tâm không phóng dật là chứng đạt chân lý. Vì thế Đức Phật đã tuyên bố: “Ta thành chánh giác là nhờ tâm không phóng dật.” Người tu hành đến đây là xong, mong quý vị lưu ý!
50. CHƯA ĐỦ DUYÊN XUẤT GIA
Hỏi: Kính bạch Thầy, hoàn cảnh của con (Thạch) thật khó khăn, con muốn về Việt Nam tu tập nhưng ai cũng can gián cho rằng chưa chắc người ta để yên cho con tu. Bây giờ thì con hết mơ xuất gia ở thiền viện Trúc Lâm, mặc dù con đã được HT Thanh Từ hứa khả. Con muốn tu theo pháp môn của Thầy, nhưng thức dậy lúc 2 giờ sáng thì con làm chưa được. Với lại như lời Thầy dạy, chưa xả tâm, chưa ly dục ly ác pháp mà đòi giải thoát luân hồi sanh tử là điều khó thực hiện.
Con hiện không có bị gia duyên ràng buộc, liệu con tu theo Thầy và cô Út có được không? Hay là như một số người khuyên con: “ráng gieo duyên để kiếp sau tu sớm hơn thì được, bây giờ tu rốt ráo chưa được đâu.” Xin Thầy từ bi chỉ dạy. Từ khi trở qua Mỹ, ba tháng nay con tu tập theo pháp môn của Thầy nhưng không có ai nuôi cơm, không có chùa để ở. Chùa còn phải tìm cách thu hút phật tử đến cúng dường và tu hành không đúng pháp Phật. Cuối cùng con đành phải đi dạy học lại mà trong lòng rất tiếc những ngày tháng được thong dong, an lạc tu tập xả tâm ly dục ly bất thiện pháp.
Con đã nhận lời dạy ban đêm (kể từ ngày 19/ 6/ 2000) nên ban ngày và buổi công phu khuya con còn giữ được. Con nhớ lời Thầy dạy là: “người cư sĩ cũng có thể tu hành như người tu sĩ xuất gia.”
Xin Thầy từ bi chỉ dạy cho con. Con định hè năm 2001 thì con về tu viện Chơn Như tu học một tháng. Từ nay đến đó con sẽ cố gắng chuẩn bị thân tâm để theo kịp các huynh đệ bên nhà.
Đáp: Về vấn đề tu hành của con, con là người Việt Nam trở về quê cha đất tổ để tu hành, làm sáng tỏ lại Phật giáo Việt Nam, làm rạng rỡ Tổ Tiên nòi giống dân tộc Việt Nam như những bậc chân tu Việt Nam dám ăn dám nói thẳng sự thật mà các con đã biết.
Ở đây con nên tự xét lòng con có quyết tìm tu giải thoát hay không? Nếu có thật lòng quyết tìm tu giải thoát và quyết tâm dựng lại một nền đạo đức nhân bản – nhân quả làm người của Phật giáo có lợi ích rất lớn cho loài người trên hành tinh này mà nó đã bị dìm mất từ lâu. Khi có quyết tâm như vậy thì ngăn sông cách núi không phải là một việc khó mà khó là ở chỗ lòng con chưa quyết tâm. Thầy chấp nhận những người quyết tìm tu giải thoát cho mình và làm lợi ích cho người, cho Phật giáo thì dù hoàn cảnh có khó khăn nào, có đến đâu Thầy cũng tìm mọi cách giúp cho người đó tu hành đến nơi đến chốn.
Đức Phật đã dạy: “Được thân người là khó, khó như con rùa mù tìm bọng cây giữa biển, nhưng gặp được chánh pháp còn khó hơn.” Lời dạy này con cứ suy ngẫm sẽ thấy rất đúng. Mất thân rồi khó tìm được thân con ạ! Gặp pháp tu hành giải thoát cũng không phải dễ, nhưng con nên nhớ đạo đức nhân bản của đạo Phật không cho phép chúng ta làm khổ mình khổ người, nhất là những người thân thương của mình vì đó là duyên nghiệp nhân quả phải trả, mà phải trả trong thiện pháp, trong đạo đức làm người chứ không được làm khổ nhau trong ác pháp, làm khổ nhau trong ác pháp thì trả vay không bao giờ hết. Cho nên chúng ta đi tu không có quyền làm khổ người, nhất là những người thân thương của mình trong gia đình.
Từ khi có đạo Phật xuất hiện trên đời này, đạo đức nhân bản làm người có mặt thì sự cắt ái ly gia là một điều quan trọng, nhưng cắt ái ly gia như thế nào mà không làm khổ mình khổ người thì mới được Đức Phật chấp nhận. Nó thuộc về ái kiết sử. Trong thất kiết sử, ái kiết sử là khó đoạn dứt nhất, dứt ngang thì nghiệp nhân quả không tròn. Khi vào chùa tu sống độc cư một mình thì mới thấy nghiệp nhân quả ái kiết sử là khó dứt. Trốn nó thì dễ, dứt nó thì khó, chỉ có làm hết bổn phận đạo đức nhân quả thì ái kiết sử đoạn lìa. Nhưng không phải vì cớ đó mà chúng ta không có đường tu, chính vì lý do đó mà Đức Phật dạy chúng ta thọ Bát Quan Trai Giới và hằng ngày trong chiếc áo của người cư sĩ áp dụng đạo đức không làm khổ mình khổ người. Nếu chúng ta thành tựu đạo đức không làm khổ mình khổ người thì chúng ta đã ly dục ly ác pháp và vì vậy mà ái kiết sử đã bị đoạn dứt.
Người ly dục ly ác pháp là người có đầy đủ phước vô lậu nên khi tâm họ khởi muốn xuất gia tu hành thì mọi người thân thương trong gia đình đều hoan hỷ và tán thán ca ngợi hạnh xuất gia của họ. Họ ra đi với lòng hân hoan của mọi người tiễn đưa một bậc Thánh nhân mà người trong gia đình ai cũng nhận thấy qua hành động đạo đức của người này đã từng sống với mọi người. Với chiếc áo người cư sĩ, tu xả tâm không có gì khó đâu. Các đối tượng là chướng ngại pháp nó đến với chúng ta đó là điều kiện để chúng ta diệt ngã xả tâm đẩy lui các chướng ngại pháp. Như Đức Phật đã dạy tu tập Định Vô Lậu, còn bình thường tâm không có ác pháp thì chúng ta nên nhớ rèn luyện pháp Hướng Tâm để cho tâm có một đạo lực, đạo lực ấy sẽ giúp chúng ta nhập các định sau này, còn hiện giờ nó là pháp dẫn tâm chúng ta thường sống thanh thản, an lạc và vô sự.
Hiện giờ con đang sống bên Mỹ, đừng đến các chùa tu hành không đúng pháp sẽ làm con mất thì giờ vô ích. Mỗi tháng con nên chọn một hoặc hai ngày thọ Bát Quan Trai tức là tập sống như đức Phật, ăn ngày một bữa, không nghe ca hát, không nằm giường cao rộng lớn, không trang điểm, sống độc cư trầm lặng một mình, những hành động sống này là tập hạnh giải thoát.
Thời gian tu tập con thấy thích sống như vậy tức là trong một đời này con sẽ tu tập làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi, còn con không thấy thích thì kiếp này tu chưa xong. Trong những ngày thọ Bát Quan Trai, sống trầm lặng độc cư mà tâm con không phóng đật, tâm thường tự nhiên định trên hơi thở thì con hãy trở về Việt Nam lập tức gặp Thầy để Thầy trực tiếp hướng dẫn nhập các định và Tam Minh. Người quyết tâm tu hành tìm sự giải thoát thì hoàn cảnh nào tu hành cũng tốt, có thì giờ rảnh lúc nào thì chúng ta tu ngay lúc ấy dù là một phút cũng đừng phí bỏ rất uổng.
“Tấc bóng thời gian một tấc vàng,
Tấc vàng tìm được không gì khó.
Tấc bóng thời gian khó hỏi han.”
Các con đều đã lớn tuổi hết rồi, năm tháng còn lại quá ít, phải tinh cần ly dục ly ác pháp, thường đẩy lui các chướng ngại pháp trong tâm và đừng quên rèn luyện “pháp như lý tác ý.” Một lần nữa Thầy xin nhắc lại, các con đừng quên thường nhắc tâm: “Tâm như cục đất phải lìa tham, sân, si cho thật sạch.” Đó là những điều cần thiết mà các con phải hằng tu tập rèn luyện từng phút từng giây, tự thắp đuốc lên mà đi thì ngay đó là Niết Bàn của các con, các con đừng tìm đâu xa, đừng nghe lời lừa đảo của kẻ khác mà hãy tin tưởng xưa kia đức Phật đã thành tựu cũng do pháp này, ngày nay trong sáu tháng Thầy cũng thành tựu nơi pháp ấy.
Từ lâu các con đã tu thiền theo kinh sách phát triển, nó đã trở thành thói quen, hãy cố mà bỏ xuống, tu tập lại năm hơi thở đi kinh hành một vòng. Nếu sức các con khỏe thì nên tu nhiều một chút, còn sức khỏe các con kém thì nên tu ít lại một chút. Tu như thế nào mà cảm giác toàn thân tâm được thanh thản, an lạc chứ không phải tu mà làm khổ thân tâm của mình quá mệt nhọc thì đó là tu sai, tu mà còn làm khổ mình thì không đúng.
Ví dụ: ngồi thiền hai chân đau quá mà cứ ráng ngồi chịu đau đó là tu sai. Các con nên nhớ pháp của Đức Phật không tu thì thôi mà đã chấp nhận tu là có thanh thản, an lạc, vô sự, nhẹ nhàng giải thoát ngay liền trong đời sống hiện tại. Đó là một sự xác chứng cụ thể của đạo Phật: “Pháp của Ta thiết thực không có thời gian, đến để mà thấy…”
Sau cùng Thầy có lời thăm và chúc cả gia đình của các con được an vui mạnh khoẻ, chúc các con tu tập xả tâm tốt.
Kính thư.
Thầy của các con.
51. HOÀI VỌNG
Hỏi: Kính bạch Thầy, việc này con cũng như Thầy hoài vọng vào thầy Minh Tông, Mật Hạnh và Thiện Thuận vì đã vào được Tam Thiền, nhưng nay nghe ra quý thầy đã là số không, vậy chờ ai nữa cho mau hỡi Thầy? Con lo quá! Không lẽ Thầy dạy cách hành rõ như vậy mà thời này không còn ai tu chứng để cùng Thầy tạo chỗ đứng cho chánh pháp càng sâu rộng hay sao? Mỗi lần nhìn thấy một bậc gọi là tỳ-kheo, Hòa Thượng mà cung cách sống không hạnh, không đức con cảm thấy xót xa. Vì nghĩ rằng những người và vô số người theo họ, kính phục họ phải bất hạnh biết là dường nào!
Cũng như con từ khi Quy Y Tam Bảo, trải qua 20 năm, con cũng đã lầm đường lạc nẻo, lang thang từ vị thầy này đến vị thầy kia những tưởng là chánh pháp đây rồi, dừng chân được rồi. Nhưng sau đó học, đọc những bài pháp, những kinh không phải cái “gì” sâu thẳm, nhiệm mầu mà con tìm. Con luôn nghĩ còn có cái pháp nào đó sẽ chỉ cho con thấu suốt và làm chủ được cái tâm, chứ không phải nói chung chung và lập luận, triết lý nghe nhức cả đầu mà không có mùi vị giải thoát gì cả của những thầy Tổ từ vô số bài thuyết pháp mà con đã nghe.
Đáp: Từ ngày mở tu viện để tiếp độ người tu hành, cho đến nay nhìn lại chưa có người nào làm chủ sanh tử chấm dứt luân hồi, đó là một nỗi tư duy khắc khoải trong lòng của Thầy. Phật giáo ra đời chỉ sống có 100 năm và sau đó chúng tỳ-kheo chạy theo dục lạc danh lợi, sanh ra kiến chấp rồi phân hóa giáo đoàn thành nhiều bộ phái, lợi dụng điều này Bà La Môn giáo biến Phật giáo chân chánh thành tà giáo ngoại đạo.
Thầy là người chịu khổ đau nhất trong cuộc đời tu hành của mình, là nạn nhân của các tà giáo ngoại đạo này, nỗi lòng khắc khoải của Thầy từ khi tu hành xong cố sức hết mình tìm mọi cách để đào tạo những người tu hành được như Thầy, ngõ hầu thắp sáng lại Phật giáo khiến cho người người đều được lợi ích trong cuộc sống trên hành tinh này. Khi đọc bức thư của con, Thầy cảm thông được nỗi lo lắng ưu tư của con như chia xẻ nỗi lòng của Thầy. Nếu Phật giáo không được chấn hưng trở lại thì những người buôn Phật bán pháp có cơ hội phát triển và nhiều thủ đoạn lừa đảo lường gạt tín đồ Phật giáo, trong khi tín đồ Phật giáo làm sao biết được đâu là chánh pháp và đâu là tà pháp. Nếu Phật giáo chấn hưng được thì người ta phân biệt Phật giáo và ngoại đạo rất dễ dàng:
1- Phật giáo đời sống ly dục ly ác pháp.
2- Ngoại đạo đời sống không ly dục ly ác pháp.
Cho nên kinh sách phát triển triển khai phi giới luật nên dễ phát triển theo sự sống trong dục lạc nên tu sĩ ưa thích hơn. Còn Nguyên Thủy sống khó phát triển vì theo hướng giới luật ly dục ly ác pháp.
Minh Tông, Mật Hạnh, Thiện Thuận v.v… tuy có công tu tập, nhưng đời chưa bỏ hẳn được, chưa đoạn dứt lòng ham muốn, chưa ly dục ly ác pháp trọn vẹn, vì thế làm sao nhập sâu vào thiền định và thực hiện Tam Minh được. Thầy rất tiếc cho họ, số phận của họ chỉ là những người còn nặng nghiệp nhân quả chưa chuyển được, dù muốn cho họ cao hơn nhưng họ phải tự lực xả bỏ đời thường tình thế gian thì mới tiếp nhận một cuộc sống cao thượng được.
Thầy cũng đành chịu thôi, nhìn số phận nghiệp báo của những người đệ tử của mình mà lòng bồi hồi thương tiếc cho những tâm hồn lạc lõng đang hướng về ngõ cụt của cuộc đời, và xót xa cho loài người trên hành tinh này còn kém phước nên Phật giáo không có người đủ tài đức đảm đương việc lợi ích lớn. Nhưng dù sao, tuy có chậm, Thầy là người đã thực hiện được chánh pháp của Đức Phật thì những lời Thầy dạy sẽ có những bậc vĩ đại tiếp nối, nhưng tuyên bố trước là đem tai hại cho những người này, vì khối lượng của Phật giáo phát triển quá vĩ đại, nó sẽ diệt mất những mầm non của Phật giáo.
Các con mỗi người khi nhận ra chánh pháp của Đức Phật thì các con hãy ráng mà cứu mình, hãy tự thắp đuốc lên mà đi, không ai đi thế con đường ấy cho các con được.Chánh pháp là như thế, hãy tin vào mình mà đừng tin vào người khác, hãy thắp đuốc lên mà đi cho mình và chính mình làm sáng tỏ lại Phật giáo, đừng hy vọng vào người khác mà hãy hy vọng vào chính mình các con ạ!
52. NGUYỆN ƯỚC
Hỏi: Kính thưa Thầy! Nhiều khi con cảm thấy tại sao con ít nói, tại sao con thích ngồi một mình trầm lặng, tại sao con thích chỗ vắng lặng của cảnh thiên nhiên mà không thích chỗ ồn náo, có kiến trúc cực kỳ văn minh, sang trọng. Và tại sao con thích đơn giản, không cầu kỳ hình thức, ngày nào cũng như ngày nào, không ngày nào mà không thấy buồn khổ của mình và của tất cả chúng sanh, kể cả ngày Xuân (Tết).
Thưa Thầy, hiện giờ tâm con là như thế, con thấy biết Tứ Diệu Đế rất rõ nhưng con chưa đủ duyên để thực hành thành công Đạo, Diệt. Thầy bảo rằng con yếu đuối không thể thực hiện đạo giải thoát bằng giai đoạn hai. Theo con nghĩ tại con chưa đủ duyên hay duyên chưa tới. Vì nếu tới thì rất dễ như trở bàn tay. Con xin Thầy quán xét, con kiếp nào mới thực hiện được nguyện ước xuất gia tu hành chấm dứt sanh tử luân hồi ưu bi khổ não. Con cũng xin Thầy quán xét Nhựt có bước vào Chánh pháp của Phật được không?
Đáp: Đạo Phật tu không khó, ai có thân người đều có thể tu chứng được chứ không như lý luận của kinh sách phát triển: “Tu phải trải qua nhiều kiếp,” nhưng người tu phải có quyết tâm xả bỏ cuộc sống tầm thường, ích kỷ, hèn hạ, nhỏ mọn v.v… thì mới tiếp nhận được cuộc sống thanh khiết và cao thượng.
Con đủ duyên vì gặp được chánh pháp của Phật, nhưng duyên chưa tới là vì Thầy chưa có một Cấp Cô Độc cúng đường cơ sở cho chúng tỳ-kheo tu tập để sống đúng Thánh hạnh.
Ví dụ: Chương trình học và học sinh đã có sẵn, nhưng trường ốc chưa có, đó là duyên chưa tới, nhiều người hiểu sự tu quá đơn giản. Họ luận: “Tu thì ở đâu lại tu không được, tu ở tâm chứ đâu phải là chỗ ở.” Đạo Phật không chủ trương như vậy, mà chủ trương sống thành thói quen, cho nên có môi trường tốt thì con người sẽ sống thành thói quen tốt, môi trường xấu con người sẽ sống thành thói quen xấu, đó là một bằng chứng cụ thể hiển nhiên, cho nên Đức Phật lấy giới đức làm đầu của sự sống “sống là tu, tu là sống chứ không phải sống khác, tu khác.”
Chỗ Thầy đang ở là cơ sở của Đại Thừa và Thiền Đông Độ, không phải là cơ sở chúng Thánh tăng ở. Trong cơ sở này Thầy đã chuyển hóa rất nhiều, loại trừ những cúng bái tụng niệm, mê tín, chỉ còn chưa tổ chức cách thức về ăn uống cho trọn vẹn. Ăn uống ở đây còn giống Đại Thừa (nấu ăn), mà hạnh về ăn uống của đạo Phật rất là quan trọng vì nó là nuôi chánh mạng cho các tu sĩ, nếu không tổ chức khâu này thì đương nhiên sống theo kiểu Đại Thừa là nuôi tà mạng. Mà nuôi tà mạng thì tu sĩ không bao giờ ly dục ly ác pháp được, nếu không ly dục ly ác pháp thì tu sĩ không bao giờ nhập chánh định được.
Vì thế con có duyên với Chánh Pháp mà duyên tu chưa tới, nếu có cơ sở sống đúng phạm hạnh Thầy hướng dẫn tu tập, đừng tu sai lời dạy của Thầy thì quyết định trong một đời này con sẽ thực hiện được nguyện ước xuất gia tu hành, chấm dứt sanh tử luân hồi. Cháu Nhựt cũng vậy, chỉ trong một đời này mà thôi. Con và cháu Nhựt đều có đủ duyên với chánh pháp nên đã gặp Thầy và có lòng tin những gì Thầy dạy, nhưng duyên chưa tới nên cháu Nhựt và con vẫn còn trôi lăn trong kinh doanh.
Tám năm trời Thầy giao cho Chơn Tâm lo liệu cơ sở tu hành ở Phước Hải, nhưng gặp nhiều trắc trở khó khăn cho đến nay chưa xong. Âu đó cũng là duyên chưa đủ, phước chúng sanh còn mỏng nên Thầy bảo con còn yếu chưa tu được ở giai đoạn hai là lý do này để con yên tâm tu tập xả tâm trong các đối tượng giao tiếp của gia đình và xã hội.
Vài hàng con rõ, Thầy có lời thăm chúc cả gia đình con được mạnh khoẻ, an vui sống đúng đạo đức nhân quả không làm khổ mình khổ người
Kính thư! Thầy của các con.
53. TU SAO LÂU QUÁ?
Hỏi: Cô Út tu thời còn Đức Phật, đến nay vẫn chưa xong, sao lâu quá vậy, thưa Thầy?
Đáp: Không những riêng cô Út mà còn biết bao nhiêu người khác chưa xong. Số đệ tử của Đức Phật rất đông kể cả cư sĩ và tu sĩ, chỉ riêng tu sĩ là 1250 vị tỳ-kheo còn cư sĩ thì vô số kể mà thành tựu thì chẳng có là bao nhiêu.
Thời gian 2544 năm mà được thân người trở lại là một sự may mắn nhất và còn nhớ lại chánh pháp của Đức Phật là một điều hy hữu. Biết bao nhiêu người trước kia đã từng theo tu học với Đức Phật mà hiện giờ là Hòa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức Tăng, Ni và vô số cư sĩ học giả từng biên soạn viết kinh sách thế mà chẳng nhớ đúng được chánh pháp của Đức Phật. Trong khi kinh sách Nguyên Thủy họ nghiên cứu rất kỹ, còn cô Út thì không học kinh sách một chữ nào mà tu tập và thực hành đúng chánh pháp. Còn Thầy thì phải lặn hụp trong giáo pháp của kinh sách phát triển trên 30 năm rồi mới trở về đúng chánh pháp của Phật. Nếu đời nay cô chỉ biết giúp người tu mà không lo cứu mình thì cũng còn trôi lăn biết bao nhiêu đời nữa mới xong.
54. CHẤN HƯNG PHẬT PHÁP
Hỏi: Kính bạch Thầy, xưa Đức Phật thường quan sát chúng sanh nào đủ duyên để độ, nay sao Thầy không làm thế để cho chánh pháp của Phật được chấn hưng nhanh? Còn như quý vị đệ tử của Thầy như thầy Minh Tông từng sống gần bên Thầy ba năm, đáng lẽ phải biết Thầy nhiều và tin Thầy hơn. Sao lại còn cho Thầy bịa lý “tịnh chỉ hơi thở”?
Đáp: Khi tu xong, Thầy đã quan sát chúng sanh thấy không có duyên nên xin Hòa Thượng nhập diệt. Hòa Thượng không chấp nhận, yêu cầu Thầy ở lại giúp Hoà Thượng, cho nên Thầy ở lại chỉ có trợ giúp cho Hoà Thượng để lôi họ về với chánh pháp của Đức Phật. Nhưng duyên chúng sanh quá mỏng đối với chánh pháp nên khó tạo cho họ có niềm tin, còn bây giờ là Thầy tạo duyên mới để chúng sanh biết được chánh pháp của Đức Phật. Từ tám, chín năm nay Thầy nhận người vào tu là nhận theo cách miễn cưỡng, chứ Thầy đã biết rằng họ không tu được vì họ mang đầy những kiến chấp và những thói quen tu tập sai nhiều đời. Chỉ riêng có Mật Hạnh kiến chấp và tu sai pháp thì không có nhưng nghiệp đời còn nặng. Mật Hạnh giống như tỳ-kheo Citta trong thời Đức Phật ba lần hoàn tục và cuối cùng chứng quả A-la-hán.
May mà Thầy dạy những gì trong kinh sách của Phật đều có dạy, chứ nếu Thầy dạy ngoài kinh sách theo kinh nghiệm bản thân tu tập của mình thì chắc chắn không bao giờ ai tin Thầy. Dạy đúng trong kinh như vậy mà Minh Tông còn nói Thầy bịa. Khi tu hành có được chút ít kiến giải, có những thần thông tưởng rồi tự cho mình là hơn Thầy, con người thời nay là vậy. Họ tu hành không lấy sự giải thoát thân tâm mà lấy thần thông và kiến giải cho là cứu cánh. Đó là cách thức đi ngược lại với Phật giáo, đi ngược lại với Thầy để rồi sau này sẽ có những sự hối tiếc.
Minh Tông có trình độ học thức trên đại học, ham tu, tu theo Mật Tông, Tịnh Độ Tông, có nghiên cứu kinh sách Phật nhưng không nắm được yếu chỉ của đạo Phật vì bị ảnh hưởng kinh sách phát triển. Khi gần Thầy còn mang bản ngã rất lớn cho mình có học cao nên không nghe lời Thầy dạy xả tâm, cứ tu ức chế tâm cho hết vọng tưởng. Nghe nói tịnh chỉ âm thanh và tịnh chỉ hơi thở thì cứ dùng pháp hướng tâm để tịnh chỉ âm thanh và hơi thở cho đạt được. Do tu sai ức chế tâm nên rơi vào tưởng pháp, đưa ra nhiều tưởng giải, Thầy dùng lý chánh pháp của Đức Phật bác sạch những tư tưởng của Minh Tông. Không ngờ Minh Tông quá cố chấp những tưởng giải của mình nên mới nói Thầy bịa đặt “tịnh chỉ hơi thở và không chấp nhận hạnh độc cư,” thách thức với Thầy trong thời gian ngắn Minh Tông sẽ chứng đạo bằng một lộ trình khác và thực hiện thần thông cho Thầy xem.
Nào ngờ con đường khác của Minh Tông dẫn Minh Tông đi đến thổ huyết một cách kinh khủng. Khi bị ra huyết như vậy phải đi bác sĩ trị bệnh một thời gian khá lâu. Do không tin Phật pháp, có lời phỉ báng chánh pháp của Phật nên phải trả một quả nữa, sau khi được con bảo lãnh ra nước ngoài thì lại té thang lầu gần như muốn chết. Thật đáng thương!
Bởi Phật pháp là một chân lý của loài người, khi tu hành chưa chứng đạo thì đừng nên ăn nói một cách bừa bãi làm lệnh lạc nghĩa lý của Phật thì phải chịu quả báo trong hiện kiếp không thể nào tránh khỏi. Trên đây là một dẫn chứng cụ thể, rõ ràng qua gương nói sai nghĩa lý Phật pháp mà thọ quả báo như vậy. Xin quý vị lưu ý cảnh giác, khi tu hành chưa tới nơi tới chốn thì nên im lặng như Thánh.
55. DÙNG THẦN THÔNG ĐỘ CHÚNG SANH
Hỏi: Kính bạch Thầy! Thầy không dùng thần thông để độ Minh Tông và Mật Hạnh, để uổng phí công lao tu hành mà không đến đích, để giúp Thầy chấn hưng Phật pháp.
Đáp: Có chứ, Thầy đã thể hiện thần thông giáo hóa vào mùa hạ năm 1995, ngồi suốt 15 ngày đêm không ăn uống, tịnh chỉ hơi thở hoàn toàn. Và cuối năm 1999, sau khi làm việc quá sức, bệnh phổi Thầy tái phát, vi trùng phổi đề kháng thuốc nên uống và chích thuốc không thuyên giảm, mỗi lần ho đều khạc ra máu. Bác sĩ và Phật tử khuyên Thầy nên đi nằm bệnh viện. Thầy xác định với phật tử:
“Đã là một người tu thì không chấp nhận nằm bệnh viện, phải làm chủ bệnh tật như thế nào để mọi người trực tiếp nhìn thấy sự làm chủ đó qua Phật pháp mầu nhiệm.”
Thầy vào thất và xin cô Út mỗi bữa ăn ngọ cho Thầy thêm một ly nước cam tươi, nếu không có thì cho Thầy một ly sữa. Suốt 15 ngày Thầy dùng tâm lực của mình để hồi phục cơ thể, lúc bây giờ Minh Tông cũng đã chứng kiến điều này.
Về thần thông có ba loại:
1- Thần thông giáo hóa; 2- Thần thông ký thuyết; 3- Thần thông biến hóa. Những thần thông mà Thầy vừa thể hiện ở trên là thần thông giáo hóa, vì thần thông này có lợi ích rất lớn cho người tu tập như con đã thấy:
1- Để chứng minh: Thầy nhập thất mười lăm ngày không ăn uống, hơi thở hoàn toàn tịnh chỉ mà không chết, đó là sự lợi ích làm chủ được sự sống chết.
2- Bệnh lao phổi vi trùng đề kháng thuốc thì bác sĩ cũng phải chết, huống chi là một người như Thầy. Thế mà dùng tâm lực trị bệnh chỉ có 15 ngày mà cơ thể từ 35 ký tăng lên 44 ký và chỉ trong 12 tiếng đồng hồ không còn khạc ra máu nữa.
Đức Phật đã không chấp nhận hai loại thần thông, đó là thần thông ký thuyết và thần thông biến hóa. Hai loại thần thông này là thần thông huyễn hóa lừa đảo người, chỉ làm trò hý luận cho người giải trí. Do đó Thầy không bao giờ dùng nó để lừa đảo ai cả, mặc dù Thầy đủ khả năng sử dụng, nhưng không thể sử dụng hai loại thần thông này để gieo vào lòng đệ tử của mình sự ham muốn. Người tu hành theo đạo Phật chỉ có lòng ham muốn duy nhất là ham muốn làm chủ bốn sự đau khổ của kiếp làm người: sanh, già, bệnh, chết.
Khi Minh Tông đến xin Thầy tu thì Minh Tông đã trèo lên tảng đá rất cao trước Tổ đường để biểu diễn thiền định của mình. Thấy bản ngã của Minh Tông quá lộ liễu, và khi được vào tu hành thì nhắm vào thần thông chứ không phải đi tìm sự thoát khổ, nên Thầy đã thử thách cho ngồi trên vết thương rướm máu hơn sáu tháng trời. Thế mà bản ngã cũng chưa từ bỏ. Người như Minh Tông mà dùng thần thông biến hóa độ thì Minh Tông sẽ trở thành một lãnh chúa làm bá chủ hoàn cầu, đã không chấn hưng Phật pháp mà còn tai hại cho loài người trên hành tinh này. Minh Tông là một con người có đầu óc chính trị hơn là một nhà tu hành, nhưng biết chuyển hóa thì cũng trở thành người tu hành tốt.
Đạo Phật là đạo không ức chế tâm, nên tâm còn hướng ra ngoài là đi ngược lại đạo Phật, nhờ có những người tu không nghe lời dạy của Thầy như một số quý thầy mà làm sáng tỏ thêm đường lối và giáo pháp của Đức Phật. Họ chỉ là đá trải đường cho người sau đi mà thôi.
56. THIỀN YOGA CŨNG TỊNH CHỈ ĐƯỢC HƠI THỞ
Hỏi: Kính bạch Thầy, các tu sĩ ngoại đạo Yoga sao họ chưa ly dục ly ác pháp mà tịnh chỉ được hơi thở, vì Thầy dạy tịnh chỉ được hơi thở khi tâm xả sạch dục và ác pháp?
Đáp: Các tu sĩ Yoga tịnh chỉ được hơi thở là do tu tập tưởng định, tưởng định sẽ thở bằng lỗ chân lông, bằng rốn, bằng tai, bằng mắt v.v… do sự luyện tập bằng tưởng thì đâu cần ly dục ly ác pháp.
Mục đích của đạo Phật là ly dục ly ác pháp để làm chủ cuộc sống bất động tâm trước các pháp và các cảm thọ, để tâm hồn được giải thoát thanh thản, an lạc. Còn mục đích của thiền Yoga là luyện thần thông tịnh chỉ hơi thở, chôn trong đất, dìm trong nước, đi trên lửa đỏ, mặc chiếc áo mỏng đi dưới trời lạnh OOC để khiến cho người ta thán phục và kính nể, nhờ đó mới lập nhiều thiền đường Yoga khắp trên thế giới để bành trướng giáo phái Yoga.
Nhưng các con xét kỹ nó đem lại sự lợi ích gì thiết thực cho con người hay là để trị bệnh. Bệnh là do gốc nghiệp ác mà muốn hết bệnh thì chỉ có ly dục ly ác pháp thì bệnh sẽ hết, chứ đâu phải do luyện tập Yoga mà hết bệnh. Hết bệnh của Yoga là hết bệnh tưởng chứ bệnh của nghiệp ác không làm sao hết được.
Tất cả những phương pháp ngừa bệnh và trị bệnh trên thế gian này đều là những phương pháp trị ngoài ngọn, chứ không phải trị ở gốc, mà trị bệnh ở ngọn là sự lừa đảo, lường gạt người “tiền mất tật mang.” Chúng ta cứ quan sát xem có đúng không? Biết bao nhiêu phương pháp ngừa bệnh và trị bệnh mà con người có hết bệnh chưa? Chúng ta nên phân biệt cho rõ ràng, thiền Yoga tịnh chỉ được hơi thở là do “tưởng lực” khéo tu tập tưởng, thiền của Phật tịnh chỉ được hơi thở là do “tâm lực” khéo ly dục ly ác pháp.
57. THƯỜNG BẤT KHINH BỒ TÁT
Hỏi: Kính bạch Thầy! Thầy bảo không có Bồ Tát mà chỉ do kinh sách phát triển đặt ra, sao bài tu hạnh “bằng lòng” Thầy dẫn chứng Thường Bất Khinh Bồ Tát? Thật hay là huyền thoại?
Đáp: Bồ Tát chỉ là một danh từ chỉ cho những người tu hành chưa xong. Bồ tát độ chúng sanh, cứu khổ chúng sanh là một sản phẩm của kinh sách phát triển. Vì tu chưa chứng mà độ người làm sao độ được, cũng giống như một người mù dẫn một đoàn người mù đi thì sự nguy hiểm trước mắt rõ ràng. Cho nên Bồ Tát Quan Thế Âm, Bồ Tát Địa Tạng, Bồ Tát Thế Chí, Bồ Tát Phổ Hiền, Bồ Tát Văn Thù v.v… là không có thật, đó là huyền thoại.
Còn Thường Bất Khinh Bồ Tát là một con người tu chưa chứng, ông còn đang tu hạnh nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng nên gặp ai ông cũng tôn trọng và cung kính. Ông không dám khinh rẻ ai hết, do đó người ta mới đặt cho ông cái tên là Thường Bất Khinh Bồ Tát. Người ta đâu ngờ rằng ông đang thực hiện tâm ly dục ly ác pháp để đạt được cứu kính của đạo Phật, vì thế Thầy mới dẫn chứng vị bồ tát này làm gương cho chúng ta bắt chước tu hạnh “bằng lòng.”
Danh từ bồ tát cũng giống như danh từ hành giả có nghĩa là người đang tu. Ngược lại, kinh sách phát triển ca ngợi một vị Bồ Tát không đúng sự thật mà còn đưa vị Bồ Tát đến những việc làm phi đạo đức không công bằng và công lý của xã hội loài người như Bồ Tát Quan Thế Âm.
Trong kinh sách Nguyên Thủy Đức Phật có nói đến Bồ Tát, nhưng Bồ Tát chỉ là một người tu chưa chứng: “Này các tỳ-kheo, khi Ta còn là Bồ Tát chưa chứng ngộ Chánh Đẳng Chánh Giác …” Đức Phật nói đến Bồ Tát không có nghĩa là nói đến Bồ Tát Quan Thế Âm, Địa Tạng v.v… mà nói đến người đang tu chưa chứng đạo, đó là nghĩa của kinh sách Nguyên Thủy. Còn nghĩa của kinh sách phát triển thì Bồ Tát là những người tu đã chứng đạo, vì thương tưởng chúng sanh mà chưa chịu thành Phật, luôn luôn làm Bồ Tát để độ chúng sanh, chừng nào chúng sanh thành Phật hết thì các vị này mới thành Phật. Thật là pháp khí đệ nhất trên thế gian này, chỉ có kinh sách phát triển mới sản sanh ra những loại tưởng tri, ảo giác, lừa đảo này đối với những người còn vô minh như thế.
Bồ tát là một danh từ để chỉ cho những người tu hành chưa xong, háo danh muốn làm thầy thiên hạ. Đó là một người mù muốn dẫn dắt một số người mù cùng đi thì sự khổ đau không thể nào tránh khỏi.
Kính ghi.
Thầy của con!
58. THỜI KHÓA TU TẬP CHO NGƯỜI CƯ SĨ
Hỏi: Kính bạch Thầy, xin Thầy hướng dẫn và chỉ rõ thời khóa tu tập cho cư sĩ tại gia, nhất là những cư sĩ bận việc buôn bán, chỉ rảnh vào buổi tối, ngưỡng mong Thầy hết lòng chỉ dẫn cho, con xin thành kính tri ân?
Đáp: Vào mỗi tối phật tử được rảnh rang nên chọn ngay buổi tối tu tập, phải tu tập liên tục. Khi đã chọn buổi tối, đừng bỏ qua một buổi tối nào cả thì sẽ có kết quả giải thoát ngay liền, đó là làm chủ được sự sống của mình do tâm biết buông xả các ác pháp. Nhất là tu tập được như vậy thì phật tử sẽ sống trong mọi oai nghi đạo đức nhân bản – nhân quả cao thượng không làm khổ mình khổ người. Nếu không tu thì thôi mà đã tu thì phải cố gắng tu tập hết sức mình để trước báo ân đức của Phật, sau báo ân cha mẹ, ân Thầy và Tổ Tiên Ông Bà, v.v…
Trước khi tọa thiền tu Định Niệm Hơi Thở, con nên đến trước bàn thờ Phật, ngồi xếp bằng ngay ngắn, chắp tay trước ngực, mắt nhìn tượng Phật, con thầm ước nguyện trong lòng:
“Hôm nay con nguyện ước, mong rằng thân, miệng, ý của con không làm điều ác, xin Đức Phật chứng minh.”
Sau khi ước nguyện xong, con quan sát, xem xét từ sáng đến tối xem coi thân, miệng, ý của con có làm khổ mình khổ người không? Tức là có làm điều gì không phải, khiến cho mình hay người khác buồn, giận, phiền não v.v… Nếu từ sáng đến tối không có một việc gì làm khổ mình, khổ người thì con biết rất rõ trong thân tâm của mình hơn ai hết. Khi thấy biết rõ như vậy con thầm nói trong lòng:
“Đây là một ngày tốt lành, đẹp đẽ, thanh thản, an lạc và vô sự nhất của đời con, con xin Đức Phật chứng minh cho.”
Bằng ngược lại có những việc làm khổ mình, khổ người con thầm nói trong lòng:
“Đây là một ngày xấu nhất trong đời con. Con xin sám hối với chư Phật và nguyện ước khắc phục tâm con ngăn ác diệt ác pháp sẽ không làm khổ mình khổ người nữa, ngưỡng mong Đức Phật từ bi chứng giám cho con.”
Khi ước nguyện như vậy xong, con tiếp tục ngồi kiết già hay bán già lưng thẳng, hai bàn tay đặt vào lòng hai bàn chân tu tập Định Niệm Hơi Thở như Thầy đã dạy trong sách Đường Về Xứ Phật ở trên.
Bắt đầu tu tập con nên cố gắng ngồi từ 5 phút rồi từ từ tăng dần lên 30 phút. Khi tu tập được 30 phút con đừng tăng lên nữa. Lúc bấy giờ con tu đề mục khác. Ví dụ: Con tu tập Định Niệm Hơi Thở với đề mục thứ nhất xong, con bắt đầu tu tập đề mục thứ hai, nếu đề mục thứ hai tu tập xong, con nên tu tập đề mục kế và tu tập như vậy cho đến khi các đề mục trong Định Niệm Hơi Thở tu tập xong hết mới chuyển qua pháp khác.
Thầy gửi cho con tập sách Cẩm Nang II để con tham khảo thêm về pháp môn tu tập. Thăm và chúc con dồi dào sức khỏe, tu tập xả tâm tốt.
Kính thư.
Thầy của con.
59. BỐN LOẠI THỨC ĂN
Hỏi: Kính bạch Thầy, xin Thầy hoan hỷ chỉ dạy cho chúng con những điều sau đây:
Trong nẻo thứ năm của Đạo Đế là Chánh Mạng. Thầy mới giảng tóm tắt về bốn loại thức ăn: 1, Đoàn thực loại thô hay loại tế; 2- Xúc thực. 3- Tư niệm thực; 4- Thức thực. Chúng con xin Thầy hoan hỷ chỉ dạy cụ thể và những chi tiết bốn loại thức ăn này để chúng con theo đó mà hành trì.
Đáp: Theo Phật giáo, để thực hiện Chánh Mạng thì có bốn cách nuôi thân mạng:
1- Đoàn thực còn gọi là đoạn thực, đoạn thực có nghĩa là cách ăn phân ra từng đoạn, từng miếng, từng phần thường dùng tay, đũa, nĩa, dao, muỗng v.v… Cách thức ăn uống này thường dùng mũi, lưỡi làm thể để ăn các món ăn.
2- Xúc thực còn gọi là lạc thực, lạc thực có nghĩa là cách ăn bằng sự cảm xúc vui buồn.
Ví dụ: trong khi vui mừng, thấy mình no, hoặc khi buồn rầu, lo lắng, sợ hãi, tức giận, cũng cảm thấy mình no; trong khi xem hát, nghe nhạc hoặc xem bóng đá cả ngày chẳng thấy đói. Như vậy lấy chỗ tâm mình cảm xúc mà làm thể ăn.
3- Tư thực còn gọi là niệm thực, Tư có nghĩa là tư duy, suy nghĩ; Thực có nghĩa là ăn. Tư thực có nghĩa là cách thức ăn bằng ý nghĩ suy tư, đó là cách thức ăn bằng ý thức tư duy.
Ví dụ: Một người đang đói, họ nghĩ đến bữa cơm, canh, thực phẩm thơm ngon, sự tư duy nghĩ về ăn uống như vậy là tư thực. Lâu ngày không ăn phở khởi tâm muốn ăn phở nên suy tư về tô phở, đó là tư thực. Trong thời Tam Quốc khi Tào Tháo xua quân đi đánh giặc, ngang qua một sa mạc quân lính khát nước, Tào Tháo bảo: “Phía trước có một rừng me và trái me rất nhiều, chúng ta hãy tiến quân đến đó ăn me sẽ đỡ khát nước.” Quân sĩ nghe đến me nên nước miếng tiết ra nhiều khiến cho quân lính không còn thấy khát nước nữa nên quân lính Tào Tháo vượt khỏi sa mạc. Đó là nhờ tư thực.
4- Thức thực là cách thức ăn bằng ý thức, khi ý thức khởi ham thích cái này cái nọ cái kia, đó là thức thực.
Ví dụ 1: Ý thức khởi thèm muốn ăn bánh trung thu, thèm muốn ăn tức là thức thực.
Ví dụ 2: Ý thức khởi ham muốn một chiếc xe hơi, ham muốn chiếc xe hơi tức là thức thực. Khi chúng ta khởi tâm ham muốn một điều gì, một vật gì, một món ăn gì, ngay đó là chúng ta đang thức thực.
Đối với đạo Phật được xem bốn sự ăn uống này là ác pháp, là bất tịnh, là khổ đau, là trói buộc. Người tu hành theo Phật giáo cần phải quán xét nhàm chán trên bốn sự ăn uống này. Người đời không biết tu tập nên chạy theo bốn sự ăn uống này nên suốt đời thọ lấy biết bao nhiêu điều khổ đau từ đời này sang đời khác. Người tu sĩ đạo Phật cần phải cảnh giác, cần phải tu tập, cần phải quán xét và cần phải sanh tâm nhàm chán trong bốn sự ăn uống này.
Tóm lại, bốn sự ăn uống này là bất tịnh uế trược, là ô nhiễm, là hôi thối bẩn thỉu. Người tu hành theo Phật giáo cần phải từ bỏ, cần phải xa lìa. Ai cũng biết: “Ăn để sống, chứ không phải sống để ăn.” Quý vị nên nhớ kỹ, đừng để những loại ăn uống này làm ô nhiễm thân tâm chúng ta. Phải không quý vị?
60. CÓ BA HẠNG NGƯỜI TU TẬP GIỚI – ĐỊNH – TUỆ
Hỏi: Kính bạch Thầy, có ba hạng người tu hành giới, định, tuệ:
1- Hạng người thứ nhất ưa thích bóng tối, sống trong bóng tối, tu tập trong bóng tối.
2- Hạng người thứ hai ưa thích ánh sáng, sống trong ánh sáng, tu tập trong ánh sáng.
3- Hạng người thứ ba tùy thuận bóng tối tự nhiên, tùy thuận theo ánh sáng tự nhiên. Sống trong bóng tối tự nhiên, sống trong ánh sáng tự nhiên. Tu tập theo bóng tối tự nhiên, tu tập theo ánh sáng tự nhiên.
Trong ba hạng người này, loại người nào tu đúng, sống đúng theo giáo lý của Đức Phật và có thể tiến tới chánh trí, chứng ngộ Niết Bàn? Xin Thầy chỉ dạy cho chúng con được hiểu rõ và theo đó hành trì.
Đáp: Trong ba hạng người này:
1- Hạng người thứ nhất ưa thích bóng tối, sống trong bóng tối, tu tập trong bóng tối. Đó là những hạng người làm việc mờ ám, gian lận, lừa đảo, lường gạt người khác, không xứng đáng là người tu sĩ Phật giáo. Người ưa thích bóng tối, sống trong bóng tối, tu tập trong bóng tối là những người trộm cắp cướp giựt, là những loài thú vật đi ăn đêm, là những người gian xảo lừa đảo v.v… Người tu sĩ đạo Phật không chấp nhận những điều này, ăn thật, nói thật, làm thật.
Vả lại tu hành là giải thoát cho mình chứ đâu phải giải thoát cho ai, tu hành đâu có cầu danh, cầu lợi, cầu khen ngợi, ca tụng v.v… mà chỉ vì sự sống chết bệnh khổ và tái sanh luân hồi.
Tại sao chúng ta đã bỏ cuộc đời đi tu mà lại tu giả, tu dối, tu không thật? Tại sao chúng ta đã bỏ cuộc đời đi tu mà còn ham vui thích nói chuyện, nói chuyện có ích lợi gì? Vừa làm cho mình tu không được mà cũng vừa làm hại người khác chẳng an tu hành. Tại sao chúng ta đã bỏ cuộc đời đi tu, không tu đúng lời dạy của Thầy, nỡ tâm phá hạnh độc cư của mình bằng mọi cách để rồi cuộc đời tu hành của mình chẳng ra gì? Đời chẳng ra đời, đạo chẳng ra đạo, lại hằng ngày thọ dụng của đàn na thí chủ mà chẳng biết xấu hổ.
Những người tu hành trong bóng tối là những người lười biếng, lợi dụng bóng tối để thỏa thích lòng tham ngủ, còn tham ăn tham ngủ là người còn mang bản năng thú vật, sống chỉ biết tranh đấu cho cái ăn, cái ngủ thì không còn nghĩa lý gì cho cuộc sống, nhất là cuộc sống của người tu sĩ Phật giáo.
Đừng luận rằng Đức Phật ngày xưa đâu có dầu đèn thắp, nên bây giờ mình tập sống trong bóng tối. Luận như vậy là sai, xưa Đức Phật đến chỗ nào sống không đèn đuốc thì vẫn sống tu không đèn đuốc như bình thường, nhưng đến nơi có đèn đuốc thì Đức Phật cũng sống tu trong ánh sáng đèn đuốc, chứ không có đèn đuốc đòi cho có đèn đuốc hoặc có đèn đuốc lại tắt tối thui để tránh sự dòm ngó của người khác trong khi mình lén ngủ.
Trong tu viện sự tu tập có thời khóa rõ ràng, giờ tu, giờ nghỉ, người sử dụng bóng tối tu tập là có gian ý lười biếng để đánh lừa người khác.
2- Hạng người thứ hai ưa thích ánh sáng, sống trong áng sáng, tu tập trong áng sáng. Đó là những người dùng ánh sáng làm bình phong che mắt mọi người, dùng ánh sáng để chứng tỏ mình là người tốt, người siêng năng tu tập, người làm thiện chứ thật ra cũng là cách thức lừa đảo lường gạt người khác. Đối với người tu sĩ đạo Phật còn một chút xíu tâm lừa đảo, gian lận thì tâm niệm đó còn mang đầy ác pháp, làm sao tu hành cầu giải thoát được. Phật dạy: “Các pháp ác chớ làm, nên làm các pháp thiện.” Tâm còn gian xảo dùng ánh sáng để che đậy sự xấu, sự lười biếng, để lường gạt kẻ khác.
Ví dụ: Một nhà giàu có muốn làm giàu hơn trong sự bất chánh họ dùng mánh khóe từ thiện để qua mắt Nhà nước và mọi người. Một ông thầy thuốc Nam bốc thuốc từ thiện, nhưng lại muốn làm tiền bằng cách khôn khéo lợi dụng lòng tin Phật của bệnh nhân nên đặt một tượng Bồ Tát Quan Thế Âm và một thùng phước sương trong phòng mạch. Nhờ đó ông thầy lang tuy không nhận tiền thuốc mà vẫn làm giàu còn được tiếng làm phước thiện.
Thường trong các chùa của Đại Thừa trước điện Phật đặt một cái tủ nhỏ gọi là thùng phước sương, thùng phước sương là một hình thức lừa đảo tín đồ mê tín, đó cũng là một nguồn lợi đáng kể trong nhà chùa. Đó là lấy ánh sáng che mắt thiên hạ để lừa đảo dễ dàng. Người tu hành gian xảo dùng ánh sáng che mắt mọi người, cứ cho đèn cháy sáng rồi mặc tình mà ngủ. Họ đâu biết rằng tu hành là tu cho họ chứ đâu phải tu cho người khác, thế mà họ cũng lừa đảo người khác. Người tu theo đạo Phật tu như vậy để làm gì? Có ích lợi gì? Nên trở về sống đời sống cư sĩ với đạo đức nhân bản - nhân quả làm người còn tốt hơn.
Những năm tháng trong tu viện chúng tôi đã chứng kiến mọi sự lừa đảo của tu sĩ giả dối, người dùng bóng tối ngủ thẳng chân, kẻ dùng ánh sáng ngáy khò khò. Những điều này đã khiến cho chúng tôi rất thương tâm cho những người còn tham đắm, si mê trong ăn ngủ mà muốn tu theo đạo Phật thì làm sao được.
3- Hạng người thứ ba tùy thuận bóng tối tự nhiên, tùy thuận ánh sáng tự nhiên, sống trong bóng tối tự nhiên, sống trong ánh sáng tự nhiên, tu tập theo bóng tối tự nhiên, tu tập theo ánh sáng tự nhiên. Đây là những hạng người biết sống đúng nghĩa bóng tối và ánh sáng, biết tùy thuận đúng nghĩa bóng tối và ánh sáng, biết tu tập đúng nghĩa bóng tối và ánh sáng.
Tùy thuận bóng tối tự nhiên như thế nào?
Khi bóng đêm đến, trời tối chúng ta nên sống trong tự nhiên với bóng đêm mà không đòi hỏi phải có đèn đuốc ánh sáng. Nếu chúng ta đòi hỏi hoặc chuẩn bị đèn đuốc hoặc đèn sáp, đèn cầy, đó là sự không tùy thuận trong bóng đêm khiến cho tâm bất an phải lo lắng, nên tâm hồn không được thanh thản, an lạc và vô sự. Tâm hồn không được thanh thản, an lạc và vô sự đó là chướng ngại pháp trong tâm, chướng ngại pháp trong tâm tức là ác pháp, nếu tâm gặp ác pháp phải mau mau quán xét đẩy lui hoặc diệt cho thật sạch và luôn lúc nào cũng giữ gìn tâm bất động trước các chướng ngại pháp, đó mới chính biết tùy thuận bóng tối tự nhiên. Thời nay người tu hành chẳng biết tùy thuận bóng tối tự nhiên nên chẳng làm chủ sự sống chết và chấm dứt luân hồi.
Tùy thuận và tu tập theo ánh sáng tự nhiên như thế nào?
Trong khi chúng ta sống trong ánh sáng ban ngày mà ước muốn có ánh sáng trăng ban đêm, cũng như chúng ta đang sống trong ánh sáng đèn dầu mà đòi hỏi phải có ánh sáng đèn điện v.v... Những sự ước muốn này là sống không tùy thuận, không bằng lòng, không tu tập ánh sáng tự nhiên.
Ví dụ: chúng ta đang ngồi dưới ánh sáng đèn điện bỗng nhiên bị cúp điện, tất cả mọi vật đều trở thành bóng đen, do đó tâm ta rất khó chịu, phải đi tìm đèn đuốc thắp lên, đó là sự sống không tùy thuận, không bằng lòng, không tu tập ánh sáng tự nhiên. Ánh sáng có như thế nào thì chúng ta sống tùy thuận, sống tu tập theo ánh sáng đó đã có, ánh sáng không có thì chúng ta sống tùy thuận và tu tập theo ánh sáng không có.
Người biết tùy thuận sống và tu tập như vậy là người biết ngăn ác diệt ác pháp, còn ngược lại sống không biết tùy thuận và tu tập như vậy thì dù có nói ngăn ác diệt ác pháp một triệu lần thì cũng chỉ là lời nói suông mà thôi chẳng có ích lợi gì cho mình cho người và tu hành như vậy chỉ hoài công vô ích, uổng một cuộc đời bỏ công tu tập.
Tùy thuận và tu tập theo bóng tối tự nhiên như thế nào?
Sống tùy thuận và tu tập theo bóng tối tự nhiên là sống theo bóng tối như thế nào thì chúng ta sống theo bóng tối như thế nấy, không than trách, không phiền toái là hôm nay trời tối quá hoặc trời sáng quá. Tối hay sáng không có nghĩa làm bận tâm cho người tu sĩ. Người tu sĩ sống theo bóng tối tự nhiên là luôn luôn giữ gìn tâm, cảnh giác tâm trong mọi thời gian để phòng hộ bảo vệ tâm lúc nào tâm cũng thanh thản an lạc và vô sự thì đó là sống theo bóng tối tự nhiên.
Sống tùy thuận và tu tập theo bóng tối tự nhiên là người biết ngăn ác diệt ác pháp không cho tâm bị chướng ngại pháp vì thế bóng tối như thế nào họ sống như thế nấy, sống một cách an vui nhẹ nhàng thanh thản an lạc của một tâm hồn vô sự.
Tùy thuận và tu tập theo ánh sáng tự nhiên như thế nào?
Sống tùy thuận và tu tập theo ánh sáng tự nhiên tức là không lưu ý đến thời gian và không gian, có nghĩa là không để ý đến trời sáng, chiều, tối, khuya luôn luôn ôm pháp tu tập không để kẽ hở khoảng trống nào cả, lúc nào cũng phòng hộ sáu căn, luôn giữ gìn tâm thanh thản, an lạc và vô sự.
Sống tùy thuận và tu tập theo ánh sáng tự nhiên là sống dưới mọi ánh sáng như: tối không ánh sáng, sáng mờ mờ, sáng tỏ, sáng trắng, sáng nhạt v.v... đều tự nhiên sống dưới ánh sáng đó, không bất toại nguyện, không than thở, không buồn phiền, không trách cứ, không lo ngại, tâm luôn thanh thản, an lạc và vô sự trước mọi thứ ánh sáng.
Sống tùy thuận và tu tập theo ánh sáng tự nhiên tức là sống không làm khổ mình khổ người, sống không dối trá, lừa đảo, lường gạt người khác, trước mặt cũng như sau lưng không bao giờ nói xấu, nói lén ai cả.
Sống tùy thuận và tu tập theo ánh sáng tự nhiên tức là sống không giết hại sanh linh, sống không làm khổ chúng sanh, sống không ăn thịt chúng sanh, sống với tâm từ bi thương yêu muôn loài vạn vật, thậm chí đến ngàn cây nội cỏ tâm hồn vẫn luôn biết thương yêu như con của mình.
61. TỪ TRƯỜNG
Hỏi: Kính bạch Thầy, do nhân gì, duyên gì mà các loài động vật, nhất là loài động vật sống hoang dã rất thích sống gần các nhà tu hành theo đạo Phật? Xin Thầy chỉ dạy cho chúng con được rõ.
Đáp: Các loài động vật hoang dã rất thích sống gần những người tu hành bởi vì:
1- Thứ nhất họ không giết hại các loài vật, dù là con vật hung dữ và nguy hiểm.
2- Thứ hai hằng ngày họ thường ăn và để dành những thực phẩm đều mang cho chúng ăn.
3- Thứ ba người tu hành thường không giết hại và ăn thịt chúng sanh nên xung quanh họ tỏa ra một từ trường hiền lành khiến cho các loài vật không sợ hãi, nhất là những loài vật có khứu giác tinh vi bén nhậy, khi bắt gặp từ trường đó, chúng an tâm và khi tiến gần vị tu sĩ thì cảm giác chúng lại còn an tâm hơn nữa, do đó nên các loài thú hoang dã đến gần những người tu sĩ chân chánh không còn sợ hãi, hầu như chúng cảm thấy gần gũi bên những người tu sĩ này như có một sự che chở cho bảo vệ chúng.
Nói đến từ trường tức là nói đến nghiệp lực nhân quả thiện ác do con người hành động theo ba chỗ Thân, Miệng, Ý của họ tạo ra một khoảng không gian rộng hẹp nhất định theo sự huân tập nhiều ít của họ. Từ tâm lực thiện của người ấy phóng từ trường ra trong khoảng không gian, khi loài thú vật hoang dã đến gần hoặc đi vào khoảng không gian đó, khứu giác và trực giác của chúng giao cảm được từ trường thiện nên chúng không cảm thấy sợ hãi, rất an tâm. Vì thế chúng thường quấn quít bên những người tu sĩ, có khi chúng bò lên hoặc đậu lên tay chân của những người tu hành ấy.
Chúng tôi xin nói thêm các loại từ trường để quý vị suy ngẫm. Lúc Hòa Thượng Huệ Hưng còn sống, ông nói với chúng tôi rằng: “Khi đến thăm Thượng Tọa Pháp Tri, nơi chỗ Thượng Tọa ở sao mà sát khí đằng đằng, cảm giác ớn lạnh người.”
Tại sao nơi chỗ Thượng Tọa ở lại sát khí đằng đằng? Đó là một từ trường bất thiện mà Hòa Thượng Huệ Hưng cảm nhận được khi bước chân vào đó. Lúc bấy giờ chúng tôi không biết Thượng Tọa Pháp Tri là ai, nên hỏi Hòa Thượng, Hòa Thượng bảo: “Đó là một nhà sư Phật giáo thuộc hệ phái Nam Tông.”
Nơi đâu có giết hại và ăn thịt chúng sanh là nơi đó có từ trường ác. Nơi đâu không giết hại và không ăn thịt chúng sanh nhưng nơi đó không có lòng từ bi thương xót chúng sanh thì nơi đó cũng không có từ trường thiện vì tâm người còn ác, không có lòng hiếu sinh nên phóng xuất từ trường ác, chính vì tâm con người ở đó còn tham, sân, si, mạn, nghi ngút ngàn. Nơi đâu có lòng từ bi thương xót muôn loài chúng sanh thì nơi đó có từ trường thiện. Nơi đâu có đạo đức không làm khổ mình khổ người thì nơi đó có từ trường thiện. Nơi đâu ly dục ly ác pháp là nơi đó có từ trường thiện.
Ngược lại, nơi đâu còn có tâm tham, sân, si, mạn, nghi là nơi đó có từ trường ác như chúng tôi đã nói ở trên. Nơi đâu tu sĩ Phật giáo đời sống phạm hạnh không có, thường phạm giới, phá giới, bẻ vụn giới thì nơi đó có từ trường ác.
Trên đây là những từ trường thiện ác trong cuộc sống hằng ngày của con người phóng ra theo hành động đạo đức nhân bản - nhân quả và không đạo đức .
Từ đó chúng ta suy ra mới thấy được môi trường sống trong không gian trên hành tinh này tốt hay xấu, ô nhiễm hay trong sạch đều do hành động thiện hay ác của loài người và loài động vật cùng ngàn cây nội cỏ. Từ những hành động thiện ác của loài người phóng ra thường mang đến cho loài người hạnh phúc hay khổ đau.
Nếu con người trên hành tinh này sống có đạo đức nhân bản – nhân quả không làm khổ mình khổ người và khổ tất cả chúng sanh thì từ trường trong không gian này toàn thiện và như vậy môi trường sống của con người sẽ không bị ô nhiễm.
Môi trường sống không ô nhiễm thì con người không có bệnh đau, thiên tai, hỏa hoạn, động đất, hồng thủy v.v... không bén mảng. Thiên tai, hỏa hoạn, động đất, hồng thủy và bệnh tật đều do con người sống trong ác pháp, với tâm tham, sân, si ngút ngàn.
Còn có những từ trường khác hơn những từ trường trên đây, đó là từ trường của các loại định, mỗi loại định đều có những từ trường khác nhau như:
1- Định Nhị Thiền khi khẩu hành tịnh chỉ thì ý thức ngưng hoạt động. Ý thức ngưng hoạt động có nghĩa là sáu thức ngưng hoạt động. Sáu thức như: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức. Người nhập định này mắt không còn thấy sắc tướng, tai không còn nghe âm thanh dù âm thanh to lớn như tiếng trời sét cũng không nghe v.v… Khi khẩu hành tịnh chỉ, sáu thức ngưng hoạt động tức là khẩu hành định, sáu thức định, thì từ trong các định này phóng ra một loại từ trường để bảo vệ khẩu hành và sáu thức của nó. Đây là từ trường của định Nhị Thiền, mắt thường không thể thấy được, chỉ có khứu giác tinh vi hoặc trực giác mới nhận ra được.
2- Định Tam Thiền do ly 18 loại hỷ dục tưởng, lìa 18 loại hỷ dục tưởng này thì có một từ trường phóng ra để bảo vệ giấc ngủ an lành không có mộng mị.
3- Định Tứ Thiền tịnh chỉ hơi thở, các hành trong thân ngưng hoạt động, để bảo vệ sự sống của thân tứ đại, từ trong thân hành tịnh chỉ này phóng ra một từ trường. Từ trường ấy làm cho các cơ quan nội ngoại của cơ thể không bị hư hoại trong một khoảng thời gian dài. Nhờ có từ trường đó mà cơ thể có thể phục hồi sự sống lại một cách dễ dàng.
Các từ trường trên đây chỉ là một luồng khí vô hình, nhưng nội lực mạnh yếu đều do hành động thiện ác nhiều ít của con người hoặc sức tịnh chỉ các hành trong thân tùy theo khẩu hành, thân hành và ý hành tạo ra định lực sâu cạn nhiều ít mà phân ra các loại định. Mỗi loại định đều có từ trường phóng ra để bảo vệ người đang nhập định.
4- Định Diệt Thọ Tưởng là một loại định diệt thọ ấm và tưởng ấm, muốn diệt thọ ấm và tưởng ấm thì phải tịnh chỉ ý hành. Ý hành tịnh chỉ thì ý căn phải ngưng hoạt động, ý căn ngưng hoạt động thì cơ thể hoàn toàn giống như người chết. Vì muốn bảo vệ cơ thể không bị hoại diệt nên Định Diệt Thọ Tưởng phải phóng ra một từ trường rất kinh khủng. Lớp từ trường như một kính pha lê che phủ cơ thể người nhập định, ở xa thì trông thấy, nhưng đến gần thì không được, dù cho thời tiết mưa nắng cũng không xâm thực được, lửa không cháy, nước không làm ướt được, tất cả loài vật và người không bao giờ xâm chiếm đến gần được. Từ trường ấy tuy vô hình, trong suốt như pha lê, nhưng vững chắc hơn thành đồng vách sắt, không có một vật gì trên thế gian này làm hại được thân người nhập định này.
62. CÚNG DƯỜNG VÀ NHẬN CÚNG DƯỜNG NHƯ THẾ NÀO ĐÚNG?
Hỏi: Kính bạch Thầy, quý vị cư sĩ phật tử cúng dường cho chư Tăng như thế nào là đúng pháp và như thế nào là không đúng pháp? Chư Tăng khi nhận đồ cúng dường như thế nào đúng pháp và như thế nào là không đúng pháp? Phải làm gì khi thọ nhận sự cúng dường? Xin Thầy chỉ dạy cho chúng con được rõ.
Đáp: Người cư sĩ phật tử cúng dường đúng chánh pháp là phải chọn một vị Tăng giới đức nghiêm chỉnh, phải đầy đủ oai nghi tế hạnh, phải có một đời sống phạm hạnh, phải thiểu dục tri túc giống như Phật và chúng Thánh Tăng ngày xưa thì sự cúng dường ấy mới đúng là chánh pháp.
Chọn được một vị tu sĩ như vậy thì phải thành tâm dâng lên cúng dường với một tấm lòng cung kính ngưỡng mộ, mặc dù của ít lòng nhiều, không phải đòi hỏi ở những món ăn cao lương mỹ vị mới có lòng thành, mà chỉ là những món ăn đơn giản như cơm muối củ khoai và tương chao rau đậu luộc v.v…
Người cư sĩ phật tử cúng dường không đúng chánh pháp là cúng dường cho những vị Tăng phạm giới, phá giới, bẻ vụn giới, sống không đúng oai nghi tế hạnh. Cúng dường cho những vị Tăng này là nối giáo cho ngoại đạo diệt Phật giáo. Bởi Đức Phật dạy: “Giới luật Ta còn là Đạo Ta còn, giới luật Ta mất là Đạo Ta mất.” Câu nói này có nghĩa là tu sĩ còn giữ gìn giới hạnh nghiêm chỉnh thì đạo Phật còn, tu sĩ không giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh thì đạo Phật mất. Lời dạy năm xưa của Đức Phật đến giờ này nó còn có một giá trị rất lớn, giúp cho chúng ta quan sát đạo Phật còn hay mất.
Theo lời dạy này, đạo Phật không còn nữa. Từ khi Đức Phật và chúng Thánh Tăng đã viên tịch hết thì không còn ai giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh nữa nên đạo Phật đã mất từ đó.
Hiện giờ quý vị cư sĩ phật tử muốn cúng dường đúng chánh pháp thì phải chọn những vị Tăng xứng đáng, giới luật nghiêm trì không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào thì mới cúng dường. Còn ngược lại thì quý vị không nên cúng dường cho những vị Tăng phạm giới, phá giới, vì cúng dường như vậy là gián tiếp quý vị diệt Phật giáo “Phật giáo còn là giới luật còn, Phật giáo mất là giới luật mất.” Các vị Tăng phạm giới, phá giới là những vị Tăng đang diệt Phật giáo, đang giết chết Phật giáo. Quý vị cư sĩ hãy cảnh giác những vị Tăng này, họ là những Ma Vương đội lốt tu sĩ Phật giáo để diệt Phật giáo.
Còn quý vị Tăng tu hành chân chánh khi nhận sự cúng dường đúng chánh pháp thì không được nhận tiền bạc, vàng, châu báu, y áo vải hàng tốt đẹp mà phải bằng vải hàng thô xấu. Cách thức ăn mặc của một vị Tăng chân chánh thì không được ăn mặc sang đẹp, vì ăn mặc sang đẹp là chưa nhàm chán thế gian, chưa nhàm chán thế gian là lòng tham muốn còn đầy đủ. Tâm tham muốn còn đầy đủ là người thế gian chứ không phải là người tu, tâm chưa phải là người tu thì không nên nhận sự cúng dường, nhận sự cúng dường như vậy thì không đúng chánh pháp. Cho nên những tu sĩ ăn mặc sang đẹp, ở trong chùa to Phật lớn, xe cộ đủ loại, tiền bạc cất giữ mà nhận của cúng dường thì không đúng chánh pháp.
Một vị Tăng phải giữ gìn giới luật nghiêm túc, đời sống phải ba y một bát, thiểu dục tri túc, luôn luôn sợ hãi trong các lỗi nhỏ nhặt mới xứng đáng nhận của cúng dường. Nhận sự cúng dường như vậy mới đúng chánh pháp.
Một vị Tăng chân chánh khi xứng đáng nhận đồ cúng dường là phải tu tập những pháp môn rất nghiêm chỉnh như sau:
1- Thứ nhất phải sống một đời sống phạm hạnh thì mới xứng đáng thọ nhận của cúng dường, bằng ngược lại thì mang nợ đàn na thí chủ.
2- Thứ hai là phải sống một đời sống giới luật nghiêm chỉnh, thấy các lỗi nhỏ nhặt phải sợ hãi mới xứng đáng thọ nhận của cúng dường, bằng ngược lại thì mang nợ đàn na thí chủ.
3- Thứ ba là phải nhập cho được Bất Động Tâm Định. Bất Động Tâm Định tương đương với Sơ Thiền. Người nhập được Bất Động Tâm là người ly dục ly ác pháp, người ấy mới xứng đáng nhận của cúng dường, nếu tâm chưa ly dục ly ác pháp thì chưa xứng đáng nhận của cúng dường.
4- Thứ tư là phải siêng năng chuyên cần tu tập Tứ Chánh Cần tức là ngăn ác diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp. Nếu một vị Tăng mà không tu pháp môn này thì không xứng đáng nhận của cúng dường.
5- Thứ năm là phải siêng năng tu tập Tứ Niệm Xứ để đẩy lui các chướng ngại pháp tức là khắc phục tâm tham ưu của mình thì mới xứng đáng thọ nhận sự cúng dường.
6- Thứ sáu là phải siêng năng tu tập Tứ Bất Hoại Tịnh, tức là niệm Phật, niệm Pháp, Niệm Tăng và niệm Giới thì mới xứng đáng thọ nhận sự cúng dường.
7- Thứ bảy là phải siêng năng phòng hộ giữ gìn các căn không cho dính mắc các trần tức là tu tập ngũ căn thì mới xứng đáng thọ nhận sự cúng dường.
63. NỖI ĐAU VỀ THỂ XÁC
Hỏi: Kính thưa Thầy! Con có bà ngoại năm nay ngoài 70 tuổi đang bị bệnh ung thư, sự sống không còn bao lâu nữa. Tuy ở xa nhưng con có cảm tưởng hiện giờ ngoại đang chịu nỗi đau về thể xác (sự hoành hành của bệnh), nỗi đau về tinh thần (lo sợ cái chết). Con là trong những đứa cháu được ngọai yêu quý. Trong tình cảm này con rất muốn làm một việc gì đó thiết thực giúp cho ngoại. Thầy có thể chỉ dạy cho con được không?
Đáp: Trước tiên con nên về gặp bà ngoại con và an ủi bà để cho bà đừng dao động tâm khi cơn bệnh hoành hành và khuyên ngoại con: “Đây là nhân quả của bà ngoại do tiền kiếp ngoại có biết không?”
“Nhân là hạt, quả là trái. Khi vô tình hay hữu ý mình đã gieo hạt giống xấu (hành động ác) thì ngay trong hiện tại mình phải gặt lấy tai họa hay bệnh tật khổ đau. Ngoại bệnh đau cũng vậy, đời trước hay trong kiếp này vì thương chồng, thương con vô tình ngoại đã gieo một hạt giống xấu, bây giờ ngoại phải chịu bệnh một mình như vậy. Ngoại đừng buồn khổ nghe ngoại! Ngoại không buồn khổ là ngoại sẽ hết bệnh mau.”
Ví dụ 1: Ngay trong đời sống hiện tại mình lái xe không cẩn thận, lạng lách, vượt qua mặt, chạy ẩu sang lề khác, phạm vào luật lệ giao thông, đó là nhân. Nên tai nạn xảy ra làm cụt tay gãy chân, có khi mất mạng, đó là quả.
Ví dụ 2: Ngay trong đời sống hiện tại mình không giữ vệ sinh chung, quăng rác bẩn thừa thải khắp nơi; hoặc ăn uống không vệ sinh, đụng đâu ăn đó, không biết dơ sạch, đó là nhân. Khi bị bệnh đau phải tốn tiền đi bác sĩ, đến bệnh viện có khi bị chết, đó là quả.
Ví dụ 3: Ăn thịt chúng sanh, đụng con gì ăn con vật nấy, không biết trong thịt chúng sanh có nhiều chất độc tố, đó là nhân. Đến khi bị bệnh đau, gặp những bệnh nan y khó trị, phải chịu khổ sở đau nhức, lăn lộn trên giường bệnh, đó là quả.
Ví dụ 4: Ỷ quyền thế la lối chửi mắng người, xem mọi người dưới quyền như tôi tớ, người làm công không ra gì, đó là nhân. Khi bị bệnh đau hoặc tai nạn xảy ra cho mình hay những người thân trong gia đình, đó là quả. Cho nên nhân quả thường đi song song với nhau, hễ có nhân là có quả. Vừa mở miệng nói xấu người khác, đó là nhân, thì ngay đó bị người khác xem thường mình, cho mình là người xấu ác, đó là quả.
Nhưng muốn chuyển nhân quả ấy thì phải làm sao?
Nhân quả muốn chuyển được thì phải vui vẻ chấp nhận để trả nợ nhân quả. Khi đứng trước hoàn cảnh tai nạn, bệnh tật thì không nên buồn rầu, lo sợ, không nên than thân, trách phận, không nên đổ thừa cho ai cả mà hãy vui vẻ nhận chịu một cách tự nhiên đầy can đảm và dũng cảm.
Khi nhân quả đến muốn chuyển hóa nhân quả thì phải sống đúng tám giới luật của Phật tức là Thọ Bát Quan Trai. Tám giới luật của Phật là chín đức hạnh làm người. Chín đức hạnh làm người là chín pháp thiện. Nhờ sống đúng chánh pháp thiện mà chuyển tất cả quả khổ. Vậy con hãy lắng nghe Đức Phật dạy mà hướng dẫn cho ngoại con: “Này các tỳ-kheo muốn ước nguyện một điều gì, điều đó được viên mãn thì giới luật phải nghiêm chỉnh.”
Tám giới luật Phật tức là chín đức hạnh. Chín đức hạnh gồm có:
1- Đức hiếu sinh. (Lòng thương yêu sự sống của muôn loài).
2- Đức buông xả. (Không gian tham trộm cắp cướp giựt, móc túi, lấy của không cho).
3- Đức chung thủy. (Không tà dâm lấy vợ người, chồng người khác).
4- Đức thành thật. (Không nói dối).
5- Đức sáng suốt. (Không uống rượu).
6- Đức tự nhiên. (Không trang điểm, đeo vòng vàng chuỗi ngọc và thoa dầu thơm).
7- Đức trầm lặng độc cư. (Không ca hát, không nghe ca hát, không gõ mõ tụng kinh, niệm Phật, niệm chú).
8- Đức thanh bần. (Không nằm giường cao rộng lớn).
9- Đức ly dục. (Không ăn uống phi thời, không ăn uống lặt vặt, chỉ ăn ngày một bữa).
Sau khi sống đúng 9 giới luật (Bát Quan Trai) tức là những đức hạnh làm người thì con hướng dẫn ngoại con dùng hai cánh tay đưa ra, đưa vào và tác ý. Trước khi đưa tay ra thì bảo: “An tịnh thân hành tôi biết tôi đưa tay ra.” Khi đưa tay ra xong thì tác ý tiếp: “An tịnh thân hành tôi biết tôi đưa tay vô.” Khi đưa tay ra thì dùng tưởng nghĩ như bệnh theo tay mà đi ra. Cứ nhiếp tâm an trú vào cánh tay đẩy lui bệnh tật như vậy thì bệnh sẽ hết, nhưng khi đưa tay vô thì dùng tưởng thân không bệnh đi vô.
Đây không phải là phương pháp trị bệnh mà đây là phương pháp chuyển nghiệp. Do chuyển nghiệp nên phải sống đúng giới luật. Phương pháp chuyển bệnh này mà trong kinh Tứ Chánh Cần gọi là “Ngăn ác diệt ác pháp, sinh thiện tăng trưởng thiện pháp.” Nếu ngoại con tin tưởng nơi Phật pháp là pháp mầu nhiệm cứu ngoại con thoát bệnh khổ thì ngoại con nên yên tâm ôm pháp chuyển bệnh thì không bao lâu ngoại con sẽ hết bệnh khổ.
Không biết con có nhận được một bức thư của Thầy gởi cho ngoại con không? Nếu được bức thư ấy mà ngoại con nương vào đó giữ tâm thanh thản, an lạc và vô sự cho đến khi bỏ thân tứ đại thì chấm dứt tái sanh luân hồi.
64. PHÁP TU CỦA CHÚNG TÔI Hôm nay có nhân duyên do một vị Thượng Tọa ở chùa Phi Lai, Châu Đốc đến viếng thăm Tu Viện Chơn Như với mục đích bài bác giới luật tu hành của chúng ta ở đây. Thầy ấy cho rằng: ngày ăn một bữa và ngủ có bốn tiếng đồng hồ là không đủ sức khỏe để tu hành, rằng đó là tu hành ép xác, khổ hạnh, vô lý. Thầy đã đến xin gặp Thầy Phương Trượng và hỏi: - Bạch Thượng Tọa, Tu Viện ở đây tu pháp môn gì? - Bạch Thượng Tọa, “đói ăn, khát uống, mệt ngủ liền” là tự tại, vô ngại, giải thoát. Như xưa kia, Tuệ Trung Thượng Sĩ ăn thịt cá, uống rượu với các quan trong triều rất tự nhiên, người chị thấy vậy mới hỏi: “Tại sao em tu theo đạo Phật mà còn ăn thịt cá, uống rượu như vậy?” Tuệ Trung trả lời: “Em là em, em không phải là Phật, Phật không phải là em. Giới luật là giới luật, giới luật không phải là em, và em cũng không phải là giới luật.” Bạch Thượng Tọa, lời nói ấy rất là giải thoát. Không có hạt bụi nào ở thế gian làm vấy bẩn được Ngài, dù là pháp môn xuất thế gian như của Phật. Giới luật cũng không trói buộc được Ngài. Bạch Thượng Tọa, theo con nghĩ, qua lời dạy này chứng tỏ rằng ai còn kẹt trong giới luật là chưa giải thoát! - Thầy nói cũng đúng đấy, nhưng đúng ở góc độ Thiền Đông Độ, không phải Thiền của đạo Phật. Sự tự tại, vô ngại, giải thoát này là của Thiền Đông Độ chứ không phải là sự tự tại, vô ngại, giải thoát của đạo Phật. Cho nên hầu hết các thiền sư Đông Độ không có phạm hạnh, phá giới luật, như Lâm Tế chém rắn, Nam Tuyền sát miêu, Phần Dương làm cỗ thịt cá đãi chư Tăng, Tuệ Trung Thượng Sĩ ăn thịt cá, uống rượu. - Bạch Thượng Tọa, nếu Thượng Tọa bảo rằng: Thiền Đông Độ không phải của Phật giáo, vậy chứ trên Hội Linh Sơn, ai “niêm hoa vi tiếu” và ai mỉm cười? - Đó là câu chuyện bịa đặt sau này. Trong kinh Nguyên Thủy, Đức Phật không có người thừa kế. Lời di chúc cuối cùng Đức Phật dạy: “Các con hãy lấy giới luật làm thầy.” Vậy, chỉ có giới luật là người thừa kế Đức Phật mà thôi! (Đức Phật không có phú chúc cho một đệ tử nào dù là Trưởng Lão Xá Lợi Phất hay là thị giả A Nan. Không có chuyện “Niêm Hoa Vi Tiếu”!) - Bạch Thượng Tọa, vậy kinh điển Đại Thừa không phải của Phật thuyết hay sao? - Vậy Giới, Định, Tuệ là ba pháp môn tu tập làm cho hết lậu hoặc, cho nên gọi là Vô Lậu. Giới là pháp môn trong ba pháp môn của Tam Vô Lậu Học. Giới là một pháp môn để tu tập chứ không phải là một giáo điều. Nó cũng không phải là pháp luật thế gian bắt buộc mọi người phải tuân theo, phải giữ gìn, không được vi phạm. Giới luật của đạo Phật không có trói buộc ai hết, vì nó là pháp môn để tu giải thoát tâm con người ra khỏi tam độc Tham, Sân, Si. Vì thế, giới luật gắn liền với các pháp môn khác như thiền Định và Trí Tuệ. Ở đây chúng tôi dùng pháp môn giới luật để tu tập tâm mình, làm sao cho tâm được thanh tịnh, giải thoát khỏi lậu hoặc. Nói một cách khác là làm cho tâm khỏi ô nhiễm ngũ dục lạc thế gian. Đó mới là thực tế giải thoát của đạo Phật. Vậy bảo chúng tôi chấp giới, mà chấp giới để làm gì? Để được người ta khen mình giữ gìn giới luật nghiêm túc ư? Như vậy chúng tôi tu để được khen chứ không phải tu để giải thoát. Lấy giới luật trói buộc mình có ích lợi gì? Hay để khỏi bị tù tội? Hay là để khỏi bị tẩn xuất, lột áo đuổi ra khỏi tăng đoàn? Nếu đi tu mà còn sợ hãi như vậy thì đi tu làm gì? Bây giờ tôi xin hỏi Thầy, Thầy cứ thành thật mà trả lời. Thí dụ: Thầy lấy một cục phèn chua để lóng nước trong, khi nước đã trong rồi, Thầy còn dùng cục phèn đó nữa không?
- Bạch Thượng Tọa: Không. - Như vậy tại sao lúc nãy Thầy bảo rằng chúng tôi chấp giới? Bây giờ tôi hỏi Thầy lại nữa, Thầy cứ thành thật mà trả lời. Lúc bấy giờ nước đã trong, Thầy có dùng đất bụi dơ để làm nước đục trở lại không?
- Bạch Thượng Tọa: Không. - Như vậy chúng tôi tu tập ở đây, ăn ngày một bữa, ngủ 2, 3 tiếng đồng hồ. Trước kia khi chưa tu tập, chúng tôi ăn một ngày 3 bữa và còn ăn uống lặt vặt, bánh, trái cây và nước ngọt nữa. Ngủ thì suốt 7, 8 tiếng đồng hồ mà còn ham ngủ nữa. Nhờ tu giới luật mà chúng tôi đã thoát ngũ dục lạc thế gian. Hiện giờ chúng tôi thảnh thơi, an lạc hoàn toàn, không thấy đói, không thấy khát, không còn bận bịu lo nấu nướng, và cũng không thèm ăn uống lặt vặt như trước kia nữa. Còn ngủ thì chúng tôi chỉ ngủ 2, 3 tiếng đồng hồ mà thôi. Ăn và ngủ như vậy mà chúng tôi vẫn mạnh khỏe, lao động tốt, không thua kém ai. Khi chúng tôi biết rõ đây là sự giải thoát chân thật rồi, nếu bây giờ có ai bảo chúng tôi ăn uống ngủ nghỉ trở lại như lúc chưa tu thì chúng tôi có nên làm hay không? - Bạch Thượng Tọa: Không. - Tự tại, vô ngại, giải thoát mà còn chạy theo ngũ dục lạc, ăn uống ngủ nghỉ như Thầy đã nói lúc nãy: “Đói ăn, khát uống, mệt đi ngủ.” Như vậy, nếu nửa đêm nghe bụng đói, phải thức dậy lấy nồi nấu cơm và ngồi chờ đến gần sáng để được ăn. Đó là tự tại giải thoát hay sao? Cũng như nói mệt đi ngủ thì có lúc 5 giờ sáng hoặc 3 giờ chiều hay 8 giờ tối, hoặc có lúc 10 giờ đêm hoặc 3 giờ khuya, lúc nào cảm thấy mệt liền đi ngủ. Ngày hôm sau lại ngủ khác giờ giấc, vì lẽ mệt thì đi ngủ cho nên sự ngủ nghỉ không có chừng mực. Một vị thiền sư ăn ngủ không điều độ, hứng hồi nào thì ăn ngủ hồi đó, tức là con người sống không có chừng mực. Sống như vậy mà gọi là tự tại vô ngại giải thoát hay sao? Thầy nghĩ gì về nếp sống như vậy? Người thế gian còn không thể sống như vậy được. Câu nói ấy thoáng nghe thì rất hay, nhưng xét cho kỹ thì đó là lời dối gạt thiên hạ. Chúng tôi tu hành ăn uống phải điều độ, ngủ nghỉ phải có giờ giấc nghiêm túc. Không phải muốn ăn lúc nào là ăn, muốn ngủ lúc nào thì ngủ. Phải ăn ngủ đúng theo giờ giấc quy định của chúng tôi, nghĩa là chúng tôi làm chủ được cái ăn, cái ngủ của mình, chứ không phải là “đói ăn, khát uống, mệt đi ngủ.” Nếu không làm chủ được cái ăn, cái uống, cái ngủ nghỉ của mình thì mong gì làm chủ được cái tâm? Trong thiền sử Trung Hoa có kể chuyện một thiền sư đi đến một ngôi chùa xin ở tu hành. Vị trụ trì chấp nhận nhưng ông ta cứ ăn rồi ngủ li bì. Một hôm vị trụ trì mới hỏi: “Sao ông đến đây tu hành mà không thấy tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền gì hết?” Ông ta đáp: “Đó là để cho kẻ còn đói, cho nên phải ăn mà thôi!” Đó là sự tự tại, giải thoát của Thiền Đông Độ! Tự tại, giải thoát như thế thì chúng tôi không dám bàn đến, vì đây là hai con đường đi đến hai mục đích khác nhau, chúng tôi tu theo Phật giáo không thể gặp họ ở một điểm cố định được. Nếu xét cho kỹ, người thế gian đang quay cuồng trong ngũ dục lạc, chạy theo tâm ham muốn của mình thì cũng là tự tại, vô ngại, giải thoát. Họ cũng đang chạy theo tâm ham muốn của ngũ dục lạc nên bảo đói ăn, khát uống, mệt ngủ. Nghĩa là tâm mình ham ngủ là đi ngủ, ham ăn là đi ăn, ham uống là đi uống. Thật ra chúng ta tu hành là để làm chủ cái đói, cái khát, cái mệt, chứ không phải chạy theo sự sai bảo của nó. Chính vì sự giải thoát này mà chúng tôi lấy pháp môn giới luật tu tập cho hết đói, hết khát, hết mệt. Vậy ăn ngày một bữa có đói không? Nếu một người chưa tu giới luật thì phải thấy đói, còn một người đã tu giới luật rồi thì họ vẫn không cảm thấy đói. Nếu bảo rằng đói thì chúng tôi không có sống được như thế này. Con người ăn uống và ngủ nghỉ không điều độ, không đúng giờ giấc thì cái đó không phải là giải thoát của đạo Phật. Cho nên, câu nói “đói ăn, khát uống, mệt đi ngủ” chỉ là lời bào chữa cái tâm chạy theo ngũ dục lạc thế gian, để che đậy cái không làm chủ của mình. Đối với một vị thiền sư, khi mệt không cần ngủ, chỉ cần tọa thiền, nhập định trong giây lát là hết mệt. Vậy mệt có cần ngủ không? Nếu mệt đi ngủ theo kiểu thế gian thì đó là ham ăn, ham ngủ của ngũ dục lạc. Tóm lại, chúng tôi đã thể nghiệm sự giải thoát của tâm mình bằng pháp môn giới luật, rõ ràng và cụ thể trong cuộc sống của chúng tôi hiện giờ. Cho nên dù bất cứ một luận thuyết nào cũng không bài bác chúng tôi được, vì sự tu hành của chúng tôi thực tế và rất khoa học. Bởi vì “con đường của đạo Phật thiết thực, không có thời gian, đến để mà thấy.” Nếu ai chưa đến với đạo Phật thì không thấy, còn những ai đã đến với đạo Phật chỉ trong một ngày, một đêm cũng vẫn thấy được sự giải thoát ngay liền lập tức. Đó là con đường đúng của đạo Phật. Còn tu lạc vào pháp môn khác không phải của đạo Phật thì không được như vậy. Pháp môn thiền định mà Thầy vừa nói, đó là pháp môn chạy theo ngũ dục lạc bằng cách lấy vải thưa che mắt mọi người “đói ăn, khát uống, mệt đi ngủ.” Nếu bây giờ chúng tôi ăn ngủ trở lại, hoặc giết hại chúng sanh, hoặc tà dâm, vọng ngữ, uống rượu, để bảo rằng không chấp giới như Lâm Tế, Nam Tuyền, Phần Dương, Tuệ Trung Thượng Sĩ mà gọi là vô ngại, tự tại giải thoát thì đó không phải là sự giải thoát của đạo Phật, mà là giải thoát của Thiền Đông Độ, Trung Hoa, Nhật Bổn, Việt Nam. Chúng tôi không có ý kiến gì về vấn đề này. Theo chúng tôi nghĩ, tất cả chúng sanh trong cõi thế gian này, đều có duyên với các pháp môn khác nhau. Ai có duyên với pháp môn nào thì tu theo pháp môn nấy, đừng lý luận tranh cãi hơn thua mà sanh ra không tốt cho Phật Pháp. Chúng ta hãy tùy duyên của mỗi chúng sanh mà đến với Phật Pháp. Nếu chúng ta đến với đạo Phật thì chúng ta phải đến với Tam Vô Lậu Học, và phải tu ba pháp môn này. Không thể ngoài pháp môn này mà có cái gì gọi là đạo Phật khác nữa. Chúng tôi đã từng sống bằng ba pháp môn này nên thấy sự lợi ích giải thoát của nó rất thiết thực cho đời sống. Nó không phải là lời nói suông như Thầy đã nói. Trên con đường tu tập của Đức Phật, chúng tôi dùng giới mà ly dục, dùng thiền định mà đoạn dục, dùng trí tuệ mà giải thoát. Mùa Hạ năm đó, Đức Phật cùng 500 vị tỳ-kheo đang an cư kiết hạ thì có một người đến hỏi Phật: “Bạch Đức Thế Tôn, trong số 500 vị tỳ-kheo đang tu tập dưới sự hướng dẫn của Đức Thế Tôn, có phải tất cả các vị này đều thành tựu đạo giải thoát hết hay không?” Đức Phật trả lời: “Ở đây chúng tôi tu hành đều thành tựu cả. Hiện giờ đã có 90 vị chứng trí tuệ, 90 vị chứng được thiền định, còn lại bao nhiêu đều chứng giới luật.” Như vậy Thầy thấy rõ ràng mọi người đến với đạo Phật đều có sự chứng đắc giải thoát trong cuộc đời đầy đau khổ này. Ở đây chúng tôi cũng vậy, tuy số Tăng Ni rất ít nhưng chúng tôi cũng có sự thành tựu như thời Đức Phật, không có người nào không chứng đắc. Con đường của đạo Phật đã vạch cho chúng tôi thấy rất rõ ràng và cụ thể, không có mơ hồ, hư ảo. Chúng tôi chỉ y cứ theo đó đặt trọn niềm tin của mình và tận lực hành trì với một ý chí sắt đá, một tấm lòng kiên trì, dõng mãnh. Chúng tôi tin chắc rằng sớm muộn gì chúng tôi cũng đạt được mục đích này mà thôi. Vậy hôm nay Thầy còn có ý kiến gì về giới luật của chúng tôi không? Thầy có còn thắc mắc gì về vấn đề tu tập của chúng tôi không? - Bạch Thượng Tọa, nếu Thượng Tọa không chê con lớn tuổi, và nếu con còn có thể tu được, xin Thượng Tọa nhận con về đây tu hành. - Ngày xưa Hiếp Tôn Giả đã 80 mà còn theo đạo Phật tu hành đắc quả A-la-hán, huống gì Thầy, năm nay mới 74 tuổi, và sức khỏe cũng còn khá lắm. Nhưng có điều là tuổi của Thầy đã lớn, Thầy đã từng sống quen trong các chùa, bây giờ nếu ăn ngủ như chúng tôi là một điều rất khó đối với Thầy. Vả lại, hiện giờ chúng tôi đang nhập thất, nên không có ai hướng dẫn tu hành và kỷ luật Tu Viện không nhận người đến trong khi Tu Viện chưa mở khóa tu. Vậy Thầy hãy chờ đợi khóa sau. Bây giờ Thầy về tu tập giới luật trở lại, ăn và ngủ cho quen dần. Sau khi được nhập Tu Viện thì Thầy sẽ theo kịp chúng tu hành mà không còn gặp khó khăn nữa. - Bạch Thượng Tọa, con xin ghi nhớ và cố gắng thực hiện. Chừng nào Tu Viện mở khóa tu, con sẽ trở lại xin Thượng Tọa nhận con. Đến đây buổi nói chuyện giữa Hòa Thượng Viện Chủ Tu Viện Chơn Như và Thượng Tọa chùa Phi Lai, Châu Đốc đã chấm dứt. Xin quý Thầy và quý phật tử ghi nhớ và suy ngẫm về con đường tu hành của chúng ta. Chúc tất cả quý thầy, quý sư cô cùng các phật tử tu tập tốt và vững niềm tin ở pháp môn tu tập giải thoát của Đức Thế Tôn. Chúng tôi đã kiên trì tu tập pháp môn ấy (Giới. Định, Tuệ) và đạt kết quả mỹ mãn thì quý vị cũng sẽ được kết quả như ý nguyện. Nên nhớ ngoài pháp môn này chẳng có pháp môn nào khác có thể đưa đến an lạc, giải thoát sinh tử luân hồi. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. |
|||
65. NHÀ TU HÀNH CÓ LÀM LỢI ÍCH GÌ CHO XÃ HỘI?
Hỏi: Kính thưa Thầy! Có một nhà giáo hỏi: “Các bác sĩ, kỹ sư, nhà giáo, thợ may, thợ mộc, thợ dệt, thợ hồ, v.v... họ đang làm lợi ích cho xã hội, còn các nhà tu hành ở chùa, tụng kinh, gõ mõ, thân thể ngày một mập béo. Vậy họ làm lợi ích gì cho xã hội?” Xin Thầy chỉ dạy cho chúng con được rõ.
Đáp: Đừng nhìn ở góc độ hạn hẹp của những tu sĩ Phật giáo phát triển hiện giờ mà đánh giá trị đạo Phật thì rất là oan uổng. Những tu sĩ hiện giờ đang sống trong các chùa là những tu sĩ bị thế tục hóa hoặc bị Bà La Môn hóa, họ dùng những danh từ rất kêu “Phật giáo phát triển” chuyên sống làm nghề cúng bái, tụng niệm thuyết giảng và làm những việc mê tín, kêu gọi phật tử đóng góp xây cất chùa tháp hằng tỷ tỷ bạc và còn kêu gọi phật tử đóng góp tiền của thực phẩm để tạo danh làm việc từ thiện, cứu trợ xã hội, nhưng chính bản thân của những tu sĩ này cũng chưa bỏ ra một xu cứu trợ ai hết, làm từ thiện miệng nhưng họ cũng sống và tiêu phí tiền từ thiện của người khác.
Nếu theo đúng nghĩa của một tu sĩ Phật giáo thì không nên làm những việc này, vì chính bản thân họ là kẻ đi ăn xin của phật tử thì tiền đâu mà cất chùa to, xây tháp, đúc chuông, tượng Phật lớn và tiền đâu cứu trợ đồng bào bất hạnh. Nếu quý thầy có cơ sở làm kinh tế thì quý thầy cứu trợ là phải, nhưng nếu quý thầy có cơ sở làm kinh tế thì quý thầy không phải là tu sĩ đạo Phật, vì Chánh Nghiệp của đạo Phật là hạnh đi xin ăn để ly dục ly ác pháp, tức là từ bỏ và xa lìa danh lợi và các ác pháp thế gian. Người tu sĩ Phật giáo chân chánh luôn luôn chỉ biết lấy một cuộc sống đạo đức Hiền Thánh làm gương hạnh đạo đức để cho mọi người noi theo, nhờ thế mọi người mới có đạo đức. Nhờ sống có đạo đức họ mới thấy được tâm hồn thanh thản, an vui và mới xứng đáng làm người không làm khổ mình, khổ người.
Nhờ có noi gương theo Thánh hạnh đạo đức của những bậc chân tu, con người không còn làm khổ cho nhau, họ luôn luôn xây dựng tạo nên một xã hội lành mạnh, tốt đẹp, có một đời sống tâm hồn cao thượng, biết thương yêu và đùm bọc lẫn nhau.
Đạo đức của đạo Phật không phải là một thứ đạo đức miệng, cũng không phải là một thứ đạo đức anh hùng cá nhân gọi là đạo đức quân tử mà từ xưa đến giờ quý vị đã từng gặp những loại đạo đức này trong kinh sách Khổng giáo. Đạo đức nhân quả không làm khổ mình, khổ người, đó mới thật sự đạo đức của Phật giáo, đạo đức của mọi người, hầu hết quý vị chưa bao giờ biết đến thứ đạo đức này, nhưng quý vị đã từng sống với nó chút ít vì lương tâm của con người. Tại vì quý vị chưa biết rõ nó nên chưa sống trọn vẹn mà thôi.
Đạo Phật hiện giờ là đạo Phật của Bà La Môn giáo, đạo Phật bị thế tục hóa, chứ không phải là đạo Phật chơn chánh Nguyên Thủy nên nó chuyên làm việc mê tín, cúng bái, tán tụng, ngồi thiền, niệm Phật, niệm chú, yếm bùa, trừ tà ma, tạo thần thông trị bệnh, lừa đảo người bằng nhiều hình thức khác nhau nên thỉnh thoảng Công An phát giác ra được và truy tố tội ác của những vị sư thầy này.
Họ chỉ biết lừa đảo, gợi lòng tham của người phật tử bằng những danh từ phước báo như: tụng kinh, niệm Phật, trì chú được phước báo thông minh; bố thí cúng dường được phước báo giàu sang, hạnh phúc v.v... Đó là những danh từ lừa đảo lường gạt của giáo pháp này để gợi lòng tham được thông minh, tham muốn bệnh tật tiêu trừ, tai qua nạn khỏi và được giàu sang. Do gợi đúng lòng tham này, người phật tử mới cúng dường nhiều tiền của vàng bạc châu báu để xây chùa to Phật lớn, nhờ đó quý thầy mới làm danh, làm giàu với thiên hạ, ai trông thấy cũng phải kính nể.
Sự thật trong kinh Đức Phật đã dạy: “Người cư sĩ bố thí, cúng dường sẽ được phước báo, nhưng không bằng giữ giới luật phước báo sẽ nhiều hơn.”
Lại có một bài kinh khác Đức Phật dạy: “Cúng dường bố thí, phải đúng chánh pháp, không đúng chánh pháp như đem hạt giống tốt gieo trên đất cằn cỗi khô xấu.”
Rõ ràng ở đây ý của Đức Phật muốn dạy chúng ta nên giữ gìn đạo đức giới luật sẽ được phước báo nhiều hơn là bố thí cúng dường đúng pháp. Bố thí cúng dường đúng pháp chỉ có phước báo nhỏ, phước báo nhỏ đó là phước báo hữu lậu, tức là trong phước báo vẫn có sự đau khổ, chứ không phải là phước báo lớn đó là phước báo vô lậu.
Phước báo vô lậu là do biết giữ gìn đạo đức giới luật, tức là không làm khổ mình, khổ người; không làm khổ mình, khổ người là một đạo đức nhân bản của con người chung sống trong một xã hội, đem lại cho đời sống của mỗi con người một sự an vui, hạnh phúc, hòa hợp, đoàn kết, không còn người này chà đạp lên người kia, xâu xé nhau vì miếng cơm manh áo. Đó là phước vô lậu như chúng tôi đã nói ở trên, phước vô lậu là phước báo không có sự khổ đau. Người tu sĩ đạo Phật chỉ cần làm gương đạo đức như vậy, tức là thực hiện phước vô lậu, thực hiện phước vô lậu là làm lợi ích cho xã hội rất lớn thì thử hỏi bác sĩ, kỹ sư, thầy giáo, v.v... có làm lợi ích bằng những tu sĩ này hay không?
Còn cúng dường, bố thí không đúng chánh pháp như: cúng đường xây chùa to, đúc tượng Phật lớn hoặc đúc chuông thì chẳng có phước báo nào cả mà còn phi công đức là khác nữa. Lần lượt chúng tôi sẽ lật ngược lại những trang sử thời Nhà Lý và Nhà Trần ở nước Việt Nam của chúng ta. Thời Nhà Lý và Nhà Trần, Phật giáo rất hưng thịnh, vua quan là tu sĩ Phật giáo nên xây dựng rất nhiều chùa to Phật lớn và đúc chuông đồng vĩ đại làm hao tốn tiền của dân chúng biết bao, thế mà Nhà Lý và Nhà Trần được những phước báo gì? Hay là một sự khổ đau tranh quyền tranh lợi, giết hại lẫn nhau và cuối cùng cũng chỉ làm vua mấy triều đại mà thôi và những dòng họ này cũng bị diệt mất. Vậy mà bảo rằng cúng dường, bố thí xây chùa to Phật lớn, đúc chuông, tạc tượng là được phước báo vô lượng thì đây không phải là sự lừa đảo hay sao?
Bây giờ chúng ta hãy nhìn xem những trang sử Phật giáo Trung Quốc, trong thời nhà Đường, Phật giáo rất hưng thịnh, Đường Huyền Trang đi thỉnh kinh Đông Độ, chùa to Phật lớn được nhà vua xây cất rất nhiều và độ biết bao nhiêu Tăng chúng tu hành, nhưng phước báo của nhà Đường đâu không thấy, chỉ thấy Võ Tắc Thiên diệt nhà Đường lập nhà Châu và cuối cùng Đường Minh Hoàng thấy Phật giáo không có lợi ích mà hại dân hại nước, làm ô uế cửa Phật, những người trốn sưu lậu thuế, làm những điều mê tín dị đoan, lừa đảo dân gian bằng đủ mọi hình thức và các thủ đoạn gian ác, nên Đường Minh Hoàng bắt chư Tăng hoàn tục, các chùa to đều xung vào công quỹ làm kho đụn.
Bởi, người tu sĩ của Phật giáo lấy giới luật đức hạnh không làm khổ mình, khổ người mà làm gương sống cho mọi người soi, muốn giữ gìn đức hạnh được như vậy phải xả bỏ hết vật chất thế gian, chỉ còn ba y một bát, sống không gia đình, không nhà cửa, chứ có đâu như tu sĩ bây giờ lại xây cất chùa to, Phật lớn như cung vàng điện ngọc của vua chúa, của Chánh phủ. Biến chỗ tu hành thành chỗ du lịch tham quan của mọi người. Đó chỉ có những tu sĩ của Bà La Môn sống và làm như vậy, họ luôn làm hại dân hại nước, bằng cách buôn Phật bán Pháp. Nhìn những tu sĩ này, quý vị mới đặt ra những câu hỏi trên: “Một kỹ sư, một nhà bác học, một bác sĩ, một nhà giáo, một bác nông phu, một chị thợ may, một anh thợ hồ v.v...”.
Với những việc làm của họ đều có lợi ích cho xã hội về vật chất, nhưng cái lợi ích đó không bằng một vị tu sĩ có đạo đức sống không làm khổ mình, khổ người, luôn luôn làm gương đạo đức cho mọi người thì sự lợi ích rất lớn cho xã hội về tinh thần. Và nhờ đó, con người sẽ không còn chà đạp và dày xéo lên nhau nữa vì miếng cơm manh áo. Họ luôn luôn thể hiện lòng thương yêu, san sẻ và tha thứ cho nhau. Nhờ đó, gia đình có hạnh phúc, xã hội có trật tự, đất nước phồn vinh thịnh trị, thế giới hòa bình không còn chiến tranh, cuộc sống người người no ấm, an vui, thanh thản.
Quý vị đừng nghĩ rằng kỹ sư, bác sĩ nhà giáo, v.v... đều đang làm lợi ích cho xã hội, sự thật không phải vậy, như quý vị đã nghĩ, phần nhiều họ đang làm vì lợi ích cho cá nhân bản thân và gia đình của họ, nhưng nghề nghiệp của họ có tương quan và tương liên tốt trong cuộc sống chung của xã hội, chứ thực ra họ chẳng có tâm làm lợi ích cho xã hội. Nếu thực ra, một bác sĩ làm lợi ích cho xã hội thì không bao giờ nhận tiền và quà biếu của bệnh nhân, chỉ nhận tiền lương hằng tháng của mình mà thôi, còn nếu bệnh nhân không quà biếu và tiền bạc thì sự chăm sóc bệnh nhân của bác sĩ đối với họ chẳng ra gì. Cho nên hiện giờ, bệnh nhân rất than phiền về các ông, bà bác sĩ. Người nghèo thật là bất hạnh khi đi bệnh viện. Ngày xưa, người ta gọi bệnh viện là nhà thương, còn bây giờ không gọi nhà thương nữa vì nơi đó người ta thương tiền, thương quà biếu, chứ không thương bệnh nhân nghèo. Đối với lương tâm nghề nghiệp của một bác sĩ không cho phép làm ngơ, mặc kệ trước sự chết sống hoặc đau đớn nhức nhối của bệnh nhân, như vậy mới làm lợi ích cho xã hội. Một nhà giáo cũng vậy, không quà biếu thì học sinh giỏi cũng thành dở; có quà biếu thì học sinh dở cũng thành giỏi.
Hiện giờ, đất nước chúng ta đang xây dựng kinh tế nên mọi nghề nghiệp đều nhắm vào cá nhân chứ không phải nhắm vào xã hội. Nhìn vào cuộc sống của con người đều phải có sự tương quan, tương liên với nhau để mà sống. Nếu bảo rằng bác sĩ, kỹ sư, thầy giáo, v.v... làm lợi ích cho xã hội thì không đúng. Người làm nghề này, kẻ làm nghề kia để trao đổi cùng nhau trong cuộc sống chứ chẳng ai làm lợi ích cho ai cả. Họ làm ra được những gì là đem đến danh lợi cho họ chứ chẳng đem đến danh lợi cho ai hết. Nhiều khi chúng ta lợi dụng nghề nghiệp bắt chẹt hoặc cắt cổ thiên hạ để làm giàu trên xương máu của người khác.
Nghề bác sĩ và nghề thầy giáo là hai cái nghề được mọi người trong xã hội xem là cao quý nhất mà họ còn làm như vậy thì thử hỏi các nghề khác họ phải làm còn hơn nữa, nhất là nghề thương mại thì làm sao gọi là các nghề làm ích lợi cho xã hội được? Cho nên các tu sĩ Phật giáo phát triển hiện giờ họ cũng lấy cái nghề làm “tôn giáo” để làm ích lợi cho bản thân cá nhân của họ, cũng như các nghề khác trong xã hội vậy. Chính vì những sự việc này mà chúng ta biết đạo đức trong xã hội đang xuống dốc tận cùng. Bởi vậy, đạo đức là trên hết, nếu có đạo đức thì xã hội mới có ích lợi thật sự, chứ không phải kỹ sư, bác sĩ, nhà giáo, thợ mộc, thợ hồ, v.v... làm lợi ích cho xã hội được.
Các tôn giáo cũng vậy, chỉ là một cái nghề làm tôn giáo để sống như mọi nghề khác, nếu người làm tôn giáo không có đạo đức thì cũng chẳng lợi ích gì cho xã hội mà còn thêm tội lừa đảo lường gạt người khác. Người làm tôn giáo có đạo đức là làm gương tốt cho mọi người soi, có đạo đức thì không có lừa đảo, đó là người làm lợi ích cho xã hội, các nghề khác cũng vậy, nếu người hành nghề nào mà có đạo đức là làm lợi ích cho xã hội.
Nếu nói về nghề nghiệp trong cuộc sống của loài người thì mỗi người đều có một nghề riêng, làm ra vật chất và để trao đổi với nhau để sống, chứ không phải làm lợi ích cho xã hội. Người hiểu các nghề nghiệp sản xuất ra vật chất là làm lợi ích cho xã hội thì không đúng. Cho nên hiện giờ nghề làm tôn giáo cũng chỉ là một nghề như bao nhiêu nghề nghiệp khác mà thôi.
Người có nghề nghiệp làm ra vật chất là người không ăn bám xã hội, người không ăn bám xã hội mà cho rằng họ làm lợi ích cho xã hội thì cũng không đúng. Chỉ có những người sống có đạo đức không làm khổ mình, khổ người là những người làm lợi ích cho xã hội, còn hoàn toàn ngoài ra mọi người dù có nghề nghiệp lương thiện, họ còn chẳng làm lợi ích cho họ huống là làm lợi ích cho ai.
Tại sao vậy?
Tại vì họ còn làm khổ họ và khổ người khác, lời nói của chúng tôi ở đây xin quý vị suy ngẫm, đừng vội tin.
Trong thiên niên kỷ thứ nhất và thứ hai, đạo đức phong kiến của Nho giáo và đạo đức của các tôn giáo khác đã đem lại sự lợi ích cho con người. Nhưng nó chỉ giải quyết cho những người trong giai cấp thượng lưu như vua (giai cấp sĩ phu), quan và Bà La Môn giáo, còn giai cấp bình dân thì những đạo đức này không phổ cập. Chỉ có thứ đạo đức mê tín của các tà giáo ngoại đạo mà hiện giờ chúng ta vẫn còn thấy những tập tục truyền thống lâu đời trong dân gian. Hiện giờ biết những loại đạo đức này sai, không lợi ích nhưng rất khó bỏ.
Đạo đức Nho giáo là một thứ đạo đức của giai cấp lãnh đạo, “tề gia, trị nước, bình thiên hạ”; đạo đức Nho giáo còn gọi là đạo đức quân tử (đạo đức anh hùng cá nhân). Trên hành tinh này đã có thật sự một nền đạo đức nhân bản không làm khổ mình khổ người, nhưng đã bị dìm mất, cho nên tất cả mọi người đều đứng trong góc độ của các tôn giáo cũng như trong các góc độ nghề nghiệp cuộc sống ở đời, phần nhiều người ta chỉ có hình thức đạo đức miệng, đạo đức danh, đạo đức lợi (vì danh lợi mà làm đạo đức).
Ai là người làm lợi ích thật sự cho xã hội và ai là người làm lợi ích thật sự cho cá nhân của mình?
Thưa quý vị, theo chúng tôi hiểu, hiện giờ trên trái đất này chỉ có một ít người làm lợi ích cho xã hội, còn hầu hết chưa có ai và cũng chưa có ai làm lợi ích cho cá nhân của mình. Tại sao vậy? Tại vì mọi người còn đang làm khổ mình, khổ người. Và đã, đang còn làm khổ mình, khổ người thì thử hỏi những việc làm đó có lợi ích gì cho ai, chỉ là đua nhau theo một trò danh lợi hão mà thôi. Chúng tôi nói, quý vị đừng vội tin mà hãy suy ngẫm kỹ có thật như vậy không, rồi mới tin.
Một kỹ sư nếu không vì cuộc sống của ông ta thì chắc gì ông đã làm chiếc cầu, ông ta làm không phải vì sự đi lại của mọi người quá khó khăn nhọc nhằn khi qua sông. Khi lãnh làm một chiếc cầu, ông kỹ sư cầu cống vẫn đòi hỏi giá cả sòng phẳng và đôi khi còn đòi hỏi giá cao hơn nữa thì như vậy có phải ông làm lợi ích cho xã hội không?
Một người nông dân không phải vì cuộc sống của người khác mà ông ta lo cấy cày, gặt hái quanh năm suốt tháng, vất vả chân lấm tay bùn mà chính vì cuộc sống của ông ta.
Một bác sĩ, khi con bệnh sắp chết đến nơi vì thiếu máu, nhưng nếu không có tiền thì bác sĩ cũng vẫn làm ngơ trước cái chết như chỉ mành treo chuông. Một bệnh nhân trước khi đi mổ mà không biếu cho người làm công đẩy xe năm ngàn, mười ngàn đồng thì chiếc xe không bao giờ được đẩy đi nhẹ nhàng, êm ái và người đẩy xe lại còn làm xe động mạnh hơn. Cho nên, một người bệnh nhân vào nằm trong bệnh viện mà không có tiền bạc, gặp bệnh ngặt nghèo thì chỉ có chờ chết mà thôi. Đó có phải bác sĩ, kỹ sư, thầy giáo, nhà nông, lao công, v.v... làm lợi ích cho xã hội hay lợi ích cho họ? Xin quý vị suy ngẫm. Nếu không có quà cáp cho bác sĩ, lao công thì bệnh nhân phải chịu thiệt thòi nhiều mặt, tức là không được chăm sóc kỹ lưỡng, đó là họ làm lợi ích cho xã hội phải chăng?
Một nhà giáo, khi một học sinh nghèo học giỏi siêng năng nhưng cũng đành bỏ học, nhà giáo cũng không thể giải quyết được, đó là làm lợi ích xã hội ư? Đừng lấy những danh từ nghề nghiệp cao quý và cao thượng như: bác sĩ, kỹ sư, nhà giáo mà cho rằng họ làm lợi ích cho xã hội. Thật sự mọi vật, mọi thứ trên đời này chỉ có “tiền” là duy nhất, đó là thứ đạo đức nhất của con người hiện nay, và cũng là thứ phi đạo đức nhất.
Đứng về mặt Phật giáo, quý thầy làm lợi ích xã hội cũng phải có tiền, nhưng tiền móc túi kẻ khác chứ quý thầy chẳng bỏ ra một đồng xu, một giọt mồ hôi nước mắt nào cả. Chỉ có những kẻ mơ ước phước báo hão huyền của kinh sách phát triển nên bị người khác lừa đảo bằng những danh từ rất kêu: cúng dường bố thí, làm từ thiện v.v...
Phước báo không phải từ chỗ cầu khẩn, cúng bái, tế lễ, cúng dường xây chùa tháp, đúc chuông, đúc tượng Phật v.v... Phước báo cũng không phải từ chỗ bố thí, tụng kinh, niệm Phật, trì chú, ngồi thiền v.v... Phước báo chỉ đến với con người, khi con người sống đúng giới luật đức hạnh làm người không làm khổ mình, khổ người. Điều này Đức Phật đã xác định trong bài kinh Ước Nguyện rõ ràng cụ thể, phước báo từ đạo đức mà đến với mọi người. Đạo đức thì không tham lam trộm cắp của người, không lường gạt kẻ khác bằng mọi thủ đoạn, không làm giàu sang trên xương máu, mồ hôi, nước mắt của người khác, không lừa đảo làm tiền bằng sự mê tín bói khoa, xem ngày tốt xấu, cúng sao, giải hạn, xin xăm, cầu siêu, cầu an, v.v... làm tiền bạc một cách phi đạo đức và vô nhân đạo.
Bố thí là đem lòng thương yêu của mình đến với những người bất hạnh, an ủi và xoa dịu vết thương đau của họ, đó cũng chỉ là một góc độ làm người mà thôi, việc làm bố thí như vậy thì phước báo sẽ đến với mình, mình sẽ được lòng thương của mọi người, gặp lúc nạn tai, mọi người sẽ an ủi và giúp đỡ lại mình chứ không phải bố thí đem tiền bạc cho người là sẽ có phước báo lớn giàu sang, muốn gì được nấy, như vậy thì Minh Phụng không có ở tù và mang án tử hình. Minh Phụng đã làm việc từ thiện bố thí biết bao nhiêu là tiền của cho những kẻ bất hạnh trong xã hội, thế mà phước đâu không thấy, vẫn phải chịu khổ tù tội và còn mất mạng.
Xả trừ tâm ác và lìa cả sự ăn thịt chúng sanh thì tuổi thọ được kéo dài, đó là đạo đức không làm khổ mình, khổ chúng sanh chứ không phải phóng sanh để được phước báo tuổi thọ lâu dài và ít bịnh tật khổ đau.
Xả trừ tâm sân hận hoặc sợ hãi và tánh hung dữ chửi mắng người thì ít tai nạn khổ đau chứ không phải ăn chay, niệm Phật, bố thí thuốc thang cho kẻ khác là ít tai nạn hiểm nghèo.
Con người sống trong xã hội này, dù có tôn giáo hay không tôn giáo, nếu thiếu đạo đức nhân quả, không làm khổ mình, khổ người thì không có ai làm lợi ích cho xã hội cả, còn bảo họ làm lợi ích xã hội đó chỉ là những danh từ suông ngoài đầu môi chót lưỡi mà thôi.
Làm lợi ích cho xã hội khi nào con người có đạo đức. Đừng đứng ở góc độ nghề nghiệp này chỉ trích góc độ nghề nghiệp khác là sai, tu sĩ của các tôn giáo cũng là làm một nghề sống như các nghề khác. Nói đến nghề thì nghề nào mà xã hội còn cần thì nó còn có người hành nghề đó, chỉ khi nào xã hội không cần nó nữa thì người ta không hành nghề đó.
Ví dụ: Người ta còn mê tín thì có người hành nghề mê tín, người ta không còn mê tín thì người ta dẹp nghề mê tín; người ta cần xây nhà tốt đẹp thì có người làm nghề thợ mộc, thợ hồ; người ta không cần làm nhà, xây nhà tốt đẹp thì thợ mộc, thợ hồ không có. Tôn giáo cũng vậy, người ta còn cần tôn giáo thì có người làm nghề tôn giáo. Nghề tốt hay xấu đều do con người có đạo đức hay không có đạo đức; nghề làm lợi ích cho xã hội hay không lợi ích cho xã hội cũng đều do con người có đạo đức hay không có đạo đức mà thôi.
Đạo Phật không phải là một tôn giáo, mà là một nền đạo đức nhân bản của loài người trên hành tinh này để quân bình vật chất và tinh thần đời sống của con người. Người ta không hiểu nên xây dựng nó trở thành một tôn giáo, nhưng tại sao trên đầu Phật giáo lại không có một đấng Giáo Chủ toàn năng như các tôn giáo khác? Chính Đức Phật ngày xưa khi tu chứng đạo, Ngài quỳ xuống đảnh lễ giáo pháp chân chánh mà Ngài đã tìm ra được, Ngài tôn xưng nó là Thầy của mình và sau này di chúc lại cho các đệ tử: “Hãy lấy giới luật của Ta làm Thầy, làm chỗ nương tựa vững chắc tu hành, giới luật còn là đạo Ta còn, giới luật mất là đạo Ta mất.”
Thưa quý vị! Giới luật là gì? Giới luật là đạo đức không làm khổ mình, khổ người; không làm khổ mình, khổ người là giải thoát không còn khổ đau nữa. Xét như vậy, chúng ta thấy đạo Phật không phải là một tôn giáo, mà là một nền đạo đức của con người. Do không hiểu đạo Phật, nên người ta đã biến nó trở thành một tôn giáo, rồi từ đó biến tôn giáo trở thành nghề nghiệp sống như: nghề tụng niệm, cúng bái, nghề thuyết giảng, nghề viết kinh sách, nghề ảo thuật (thần thông), nghề làm bùa yểm tà ma, trị bệnh, nghề bói khoa, nghề thầy thuốc, nghề dưỡng sinh, nghề ngồi thiền ngừa bệnh và trị bệnh v.v...
Tại sao chúng tôi dám nói như vậy? Chúng tôi dám nói như vậy là vì chúng tôi đã từng sống trong tôn giáo, cho nên biết tôn giáo cũng chỉ là một cái nghề, tốt hay xấu là do người sử dụng cái nghề đó.
Ví dụ: Một ông bác sĩ đứng trước các con bệnh, ông đều tận tâm chữa trị dù người nghèo cũng như người giàu thì đó là một ông bác sĩ tốt, biết thương người (lương y như từ mẫu), có đạo đức, đó là người làm lợi ích xã hội. Còn ngược lại, người giàu có quyền thế thì ông chăm sóc tận tụy, còn người nghèo thì ông trị bệnh sơ sài qua loa, sống chết ông chẳng cần thì bác sĩ đó không thể nào gọi là người tốt, có đạo đức, làm lợi ích cho xã hội. Cái nghề của ông ta tốt và cao quý, nhưng việc làm của ông ta không tốt, tức là không lợi ích cho xã hội.
Một vị tu sĩ Phật giáo cũng vậy, nếu ông ta giữ gìn giới luật nghiêm túc, sống đầy đủ đức hạnh, không làm khổ mình, khổ người, tức là sống đời sống ly dục ly ác pháp. Ông là một vị chân tu thật sự làm gương hạnh đạo đức cho mọi người noi theo, không hề lừa đảo, dối trá, xảo quyệt lường gạt mọi người bằng nhiều hình thức mê tín, dị đoan hay thuyết giảng những điều mình chưa làm được, v.v... Như vậy ông là người tốt, làm lợi ích cho xã hội khiến cho mọi người không vì miếng cơm, manh áo mà chà đạp giày xéo lên nhau và cũng khiến cho mọi người không còn hao tốn tiền bạc, của cải, tài sản vì cái thế giới siêu hình mê tín, lạc hậu và những luận thuyết suông v.v...
Ngược lại, một vị tu sĩ Phật giáo mà sống không đúng giới luật đức hạnh, không ly dục ly ác pháp, bày đặt vẽ ra thế giới siêu hình, dùng tưởng thức tạo ra nhiều hình thức linh thiêng, huyền bí kỳ lạ khiến trí hữu hạn của con người không thể hiểu và suy luận chứng minh được, nên tin rằng, có thế giới siêu hình thật sự. Lợi dụng lòng tin này, bày ra nhiều thứ mê tín dị đoan để lừa đảo, lường gạt người khác bằng cách dùng bùa chú, nước lã, tàn hương trị bệnh, tụng kinh cầu siêu, cầu an, xin xăm, bói quẻ, lên đồng nhập xác, cầu cơ, xem ngày tốt xấu, cúng sao giải hạn, cúng dường xây chùa, đúc tượng, đúc chuông để cầu được phước báo giàu sang phú quý, bệnh tật tiêu trừ, tai qua nạn khỏi hoặc tạo ra nhiều phương cách tập luyện gọi là thiền này, định kia, cũng như tưởng tượng ra trạng thái này, trạng thái kia, gọi là Bản Thể Vạn Hữu, Phật Tánh, Chơn Như, Đại Ngã, Tiểu Ngã, Thiên Đàng, Địa Ngục, Cực Lạc Tây phương, Ngọc Hoàng, Thượng Đế, v.v... khiến cho con người đã điên đảo lại càng điên đảo hơn. Với những hình ảnh trừu tượng siêu hình này và cũng từ đó khiến con người bỏ phí biết bao nhiêu công lực và tiền bạc, nhưng khi hiểu lại, mình chỉ là một người ngu bị lừa đảo mà không biết.
Chúng tôi nói đến đây, quý vị đừng tin chúng tôi mà hãy suy ngẫm và để ý những người đang theo các tôn giáo tu hành, họ sẽ đạt được những gì và đạo đức của họ có hơn quý vị hay không? Mình chưa có đạo đức thì không nên nói đạo đức với ai cả, vì nói đạo đức, tức là đạo đức miệng, nếu người có đạo đức, dù có kẻ khác chửi mắng mình thì mình đâu có giận hờn, vì có giận hờn như vậy, là người không có đạo đức, không có đạo đức với mình, tức là mình làm khổ mình. Cho nên đức Phật dạy: “làm khổ mình, khổ người là người không có đạo đức.” Đó là chưa nói đến khi chúng ta không ngăn một điều làm ác của mình, như tức giận mắng chửi, nói nặng nhẹ người khác khi mình có quyền thế và tiền của; mắng chửi nói nặng nhẹ người khác là không có đạo đức. Có đạo đức sao lại mắng chửi nói nặng nhẹ người khác được?
Làm lợi ích cho xã hội, không phải đem tiền của cho họ, mà chính đừng làm khổ mình, khổ người thì mới đem lại lợi ích thiết thực cho xã hội. Dù chúng ta có mang đến cho họ sự giàu sang đầy đủ mà cứ làm khổ họ thì sự giàu sang đó cũng chẳng có lợi ích gì cho họ. Bác sĩ, kỹ sư, nhà giáo, v.v... làm lợi ích cho xã hội mà la hét, mắng rủa, chửi vợ con, kẻ ăn người ở trong nhà, sân hận với kẻ khác trong xóm làng, tức tối với tâm mình, ăn ngủ không yên, còn có những hành động như vậy thì làm sao gọi là làm lợi ích cho xã hội.
Người làm những nghề bác sĩ, kỹ sư, nhà giáo là làm những nghề cao quý nhưng không giận hờn và không làm đau khổ cho ai thì mới thật sự là làm lợi ích cho xã hội, còn ngược lại mà còn giận hờn, tham tiền bạc, làm việc không hết lương tâm, làm đau khổ người khác thì đó không làm lợi ích cho xã hội mà chỉ vì làm lợi ích cho mình, nô lệ cho tiền bạc và vật chất. Cho nên trong tôn giáo cũng vậy, các nhà tu ở chùa tụng kinh, gõ mõ làm điều mê tín lường gạt tín đồ, ngồi mát ăn bát vàng, thân thể ngày càng mập béo, đó là chỉ gạt được những người vô minh tham đắm ảo huyền, cầu phước báo một cách phi đạo đức.
66. TRƯỞNG LÃO
Lời Phật dạy:
“Nếu rõ pháp như thật
Vô hại đối quần sanh
Bỏ các hạnh uế ác
Đây gọi là Trưởng Lão.”
“Ta gọi người Trưởng Lão
Chưa hẳn đã xuất gia
Tu gốc nghiệp lành này
Phân biệt ở chánh hạnh.”
“Nếu có người tuổi nhỏ
Các căn không thiếu sót
Phân biệt chánh pháp lành
Đây gọi là Trưởng Lão.”
a. TU HÀNH KHÔNG KHÓ, KHÓ LÀ NGƯỜI KHÔNG LY DỤC LY ÁC PHÁP
Đọc bài kệ trên đây chúng ta thấy tu hành theo Phật giáo không khó, khó là tại chúng ta không chịu ly tâm tham, tâm sân, tâm si. Nếu chịu khó và quyết tâm lìa tâm tham, sân, si thì ngay đó được gọi là Trưởng Lão. Trưởng Lão trong đạo Phật được xem là một bậc tu chứng đã giải thoát hoàn toàn như bậc A-la-hán. Trưởng Lão không phân biệt tu sĩ hay cư sĩ, không phân biệt tuổi tác nhỏ hay lớn, dù là người tu sĩ lớn tuổi hay trẻ tuổi, người cư sĩ cũng vậy, một khi đã tu chứng thì đều được gọi là Trưởng Lão. Ngược lại dù một vị tỳ-kheo tám mươi tuổi mà tu không chứng thì không được gọi là Trưởng Lão, chứ không phải tu lâu năm rồi thành sư cụ theo kiểu Đại Thừa.
Đọc bài kệ này chúng ta thấy rất rõ muốn tu chứng đạo giải thoát của Phật giáo thì phải thấu rõ pháp môn của Đức Phật dạy tu như thế nào.
Câu kệ đầu: “Nếu rõ pháp như thật” nhấn mạnh vào ba chữ “rõ như thật.” Vậy rõ như thật là rõ cái gì? Rõ như thật có hai nghĩa các bạn cần phải hiểu: Biết rõ như thật pháp của Phật dạy không bị lầm lạc pháp của ngoại đạo. Hiểu rõ nghĩa lý thiện pháp và ác pháp đúng như lời Đức Phật đã dạy.
Muốn hiểu rõ nghĩa lời Phật dạy trong câu kệ thứ hai: “Vô hại đối quần sanh” thì cần phải hiểu cái gì vô hại. Đó chính là pháp thiện, pháp không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh. Vậy mục đích của đạo Phật dạy chúng ta tu hành là dạy sống trong thiện pháp không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh. Không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh “tức là ly dục ly ác pháp.”
Để xác định, một lần nữa Đức Phật dạy: “Bỏ các hạnh uế ác.” Câu này Phật dạy quá rõ ràng không còn nghi ngờ gì nữa, chỉ rõ pháp thiện như thật để ngăn và diệt ác pháp, luôn luôn sống trong thiện pháp không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh thì ngay đo là một bậc tu chứng của đạo Phật. Có đúng như vậy không các bạn? Pháp tu như vậy có khó không? Nếu các bạn đã sống tâm ly dục ly ác pháp thì các bạn là bậc giải thoát, là người tu đã chứng đạo. Như vậy ngồi thiền, niệm Phật, tụng kinh, bái sám, v.v... có giải thoát không? Có chứng đạo không? Xin các bạn trả lời đi!
Các bạn cứ xem từ xưa cho đến ngày nay, Đại Thừa và Thiền Tông dạy người ngồi thiền, niệm Phật, tụng kinh, lạy hồng danh chư Phật và sám hối mà có ai ly dục ly ác pháp không? Có ai là người xứng đáng được gọi là bậc Trưởng Lão chưa? Hay thấy một vị tu sĩ ở chùa lâu năm, làu thông kinh sách, tán tụng hay thì gọi là Trưởng Lão. Trưởng Lão này cũng giống như sư cụ ở chùa lâu năm mà thôi.
Câu thứ tư trong bài kệ nhấn mạnh một cách xác quyết: “Đây gọi là Trưởng Lão.” Nếu một người tu theo đạo Phật không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh thì đó là bậc Trưởng Lão, tức là người đã tu chứng quả giải thoát. Thật ra, muốn không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh là phải có một quá trình tu tập chứ không phải nói suông mà có được dễ dàng. Đọc bốn câu kệ này các bạn thấy pháp của Đức Phật đâu có dạy ngồi thiền ức chế tâm cho hết vọng tưởng để kiến tánh thành Phật; hay niệm Phật cầu vãng sanh Cực Lạc Tây phương; hay niệm chú để có thần thông pháp thuật biến hóa tàng hình; hay để có Tha Tâm Thông biết chuyện quá khứ vị lai của mọi người; hay tụng kinh, sám hối, lạy hồng danh chư Phật để cho tiêu tai, giải nạn, v.v...
Ở đây Đức Phật chỉ có dạy chúng ta sống ngăn ác diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp tức là không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh thì chứng đạo, chứ không phải cần thấy tánh mới thành Phật như Thiền Tông đã dạy: “Kiến tánh thành Phật.” Khi tu hành nhận được “tánh thấy, tánh nghe, tánh biết” mà tâm tham, sân, si vẫn còn thì giải thoát ở chỗ nào? Nên có người mới hỏi thiền sư tại sao vậy? Thiền sư trả lời: “Tại vì tạp khí còn.” Do câu trả lời này mà người ta bảo rằng lưỡi của thiền sư là lưỡi lừa. Đúng vậy, Thiền Đông Độ và kinh sách Đại Thừa quả thật đã lừa đảo chúng ta.
Bài kệ này trong kinh Nguyên Thủy thuộc hệ A Hàm trong Hán Tạng mà còn giữ gìn được nguyên gốc lời dạy chân chánh của Đức Phật thì quả thật chúng sanh còn nhiều duyên lành với Chánh pháp của Phật. Bài kinh này dạy tu hành rất cụ thể và xác thực từ lúc bắt đầu tu cho đến khi giải thoát hoàn toàn một cách rõ ràng cụ thể: “Pháp Ta không có thời gian đến để mà thấy...”. Pháp Phật tu tập không mơ hồ, không trừu tượng như pháp môn của kinh sách Đại Thừa và Thiền Đông Độ.
Như chúng ta đã biết kinh Nguyên Thủy A Hàm thuộc Hán Tạng là do các Tổ Bà La Môn kết tập nên đã bị các Tổ thêm bớt rất nhiều, khiến cho Tạng kinh này không còn mang tính chất Nguyên Thuỷ rạch ròi của nó. Hòa Thượng Thích Minh Châu khi lập luận án Tiến sĩ Phật học, Ngài đã đem hai bộ kinh Trung A Hàm thuộc Hán Tạng và Trung Bộ kinh thuộc Tạng kinh Pali ra so sánh thì thấy có rất nhiều điểm sai khác to lớn khiến cho người sau đọc kinh A Hàm không biết lời dạy nào đúng là lời của Phật và lời dạy nào không đúng. Vì thế, trên bước đường tu học của chúng ta ngày nay nếu không có thiện hữu tri thức có kinh nghiệm hướng dẫn thì chắc chắn sẽ dễ dàng tu sai lạc vào pháp môn của ngoại đạo.
Theo bốn câu kệ này, nếu chúng ta nhiệt tâm tinh cần tu tập hằng ngày sống trong thiện pháp không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh thì chúng ta sẽ chứng đạo. Chứng đạo một cách dễ dàng chứ không phải như mọi người đã nghĩ: Khó quá!
Kính thưa quý vị! Tu như bài kệ trên đây dạy thì không khó. Phải không quý vị?
Tu, chúng ta chỉ cần biết sống cho đúng thiện pháp, không làm khổ mình, khổ người, khổ chúng sanh. Tu như vậy là hạnh phúc, là an vui, thanh thản và vô sự cho mình, cho mọi người và cho muôn loài chúng sanh. Đó chính là sự giải thoát chân thật của đạo Phật, chứ đâu tu tập là phải chịu cực khổ vào chùa làm công quả, rồi hằng ngày niệm Phật, tụng kinh, bái sám, cầu nguyện cho tiêu tai giải hạn nghiệp chướng; cho bệnh tật tiêu trừ; cho được vãng sanh về Cực Lạc Tây phương; hoặc ngồi thiền để kiến tánh thành Phật; hay lạy hồng danh chư Phật để được gia hộ giải thoát.
Luật nhân quả không chấp nhận những điều này, nên dù cho suốt tháng ngày niệm Phật, tụng kinh, cầu nguyện cũng không bao giờ bệnh tật tiêu trừ, tai qua nạn khỏi; dù có lạy hồng danh chư Phật đến mòn đầu gối cũng không giải thoát. Giải thoát đâu chẳng thấy mà chỉ thấy phí công vô ích. Còn ngồi thiền thì đau chân như ai bẻ, tê chân như ai đần, nóng chân như ai đốt lửa, đạo đâu chẳng thấy, chỉ thấy mình ngu si tự làm khổ mình.
Ngồi thiền cố gắng tập trung tư tưởng không cho niệm thiện, niệm ác xen vào đến nỗi đầu nặng như đội đá, mặt căng như da trống. Tuy khổ đau như vậy nhưng vẫn tu tập không dám bỏ một phút, một giây nào, cho đến khi bị nhức óc, đau đầu như ai lấy dây xiết quanh đầu, đau nhức như bưng, thế mà Phật tánh có giúp cho mình hết khổ đau được không? Có hết tham, sân, si, mạn, nghi không? Rõ ràng bỏ của, bỏ công, phí sức tu tập mà không tìm giải thoát được, chỉ toàn sống trong xúc tưởng hỷ lạc ảo giác, do ngu si không hiểu biết thiền định nên cho đó là thiền định. Thật là tội nghiệp cho những người mù muốn biết màu sắc.
Ôi! Đáng thương xót vậy.
Tóm lại bốn câu kệ trên cho thấy sự tu hành của đạo Phật không khó, tu đến đâu là có giải thoát đến đó ngay liền; có khó chăng là chỉ những người không muốn tìm sự giải thoát nên không chịu bỏ những ác pháp, không chịu từ bỏ xa lìa tâm ham muốn dục lạc thế gian.
Thường những người ưa thích ngồi thiền kéo dài nhiều thời gian không vọng niệm để kiến tánh thành Phật, hoặc ham mê thần thông nên tu khổ hạnh chịu đau khổ, không muốn rời sự đau khổ, lấy sự đau khổ làm sự giải thoát để đạt được mục đích thần thông. Đối với đạo Phật những sự tu tập đó là đi ngược lại đường lối giải thoát của Phật. Do những sự ham mê như trên đã nói nên họ thấy tu tập là tu khó.
Đối với những người có quyết tâm vượt thoát ra khỏi bản chất loài cầm thú của mình thì đạo Phật tu hành không khó, tu hành rất dễ dàng; chỉ khó đối với những người không chịu lìa xa, không muốn từ bỏ bản chất cầm thú của mình nên đành phải chịu khổ đau muôn đời, muôn kiếp.
b. NGƯỜI TU CHỨNG KHÔNG PHÂN BIỆT NGƯỜI XUẤT GIA HAY TẠI GIA
Người đời thường có quan niệm cho rằng người xuất gia mới tu chứng Thánh quả A-la-hán, mới thành Phật, còn người tại gia thì không bao giờ tu chứng được. Đối với đạo Phật những quan niệm này là sai lầm. Đạo Phật không phân biệt người xuất gia hay tại gia mà chỉ dành cho những người có quyết tâm tìm tu giải thoát để thoát ra khỏi biển khổ sanh tử luân hồi. Nhưng điều quan trọng trong sự tu tập này là phải thấu rõ giáo pháp của Đức Phật là “Thiện pháp” là “Đức hạnh cao quý” của loài người và của Thánh nhân, nên muốn tu tập là phải luôn luôn khắc phục tâm, chế ngự tâm, dẫn tâm và làm chủ tâm mình để biết sống trọn vẹn trong những hành động đạo đức nhân bản – nhân quả không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh.
Muốn được vậy thì người tu tập phải nhiệt tâm tinh cần sống một đời sống đạo đức toàn thiện. Người sống được một đời sống như vậy là người chứng đạo, chứ không phải chứng đạo ở chiếc áo cà sa và chiếc đầu cạo trọc. Người tu sĩ Phật giáo tu tập giới luật không nghiêm túc, thường phạm giới, phá giới tức là không ly dục ly ác pháp thì được xem là một cư sĩ trọc đầu. Cho nên Đức Phật đã xác định điều này qua hai câu kệ dưới đây rất rõ ràng:
“Ta gọi người Trưởng Lão,
Chưa hẳn đã xuất gia.”
Đây là lời Đức Phật dạy, chắc quý vị cư sĩ không còn nghi ngờ gì nữa, cũng không e ngại và cũng không mặc cảm với chiếc áo cư sĩ của mình sẽ không tu chứng. Hãy luôn luôn tin chắc rằng mình sẽ tu chứng quả giải thoát không thua tu sĩ. Bởi tu chứng theo đạo Phật không có gì khó khăn, chỉ có biết sống đúng đời sống đạo đức nhân bản - nhân quả, không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh như trên đã nói thì dù là người xuất gia hay tại gia cũng đều chứng đạo như nhau cả. Nếu không ngăn ác, diệt ác pháp thì người xuất gia cũng như người tại gia không thể nào sống đúng đạo đức nhân bản – nhân quả này được. Không sống đúng đạo đức nhân bản – nhân quả này thì chẳng bao giờ chứng đạo, dù có tu pháp môn nào cũng chẳng có giải thoát. Xin quý vị lưu ý lời dạy này.
Một vị tu sĩ của đạo Phật tu chứng đạo rất dễ nhận xét: Đó là người nào ly dục ly ác pháp, sống đúng giới luật, tức là sống đúng đạo đức nhân bản – nhân quả không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh. Chính những người ấy đã chứng đạo, hay nói cách khác là người ấy sống thường tư duy suy xét lại tâm mình có lỗi thì ngăn chừa, cho nên không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào. Người sống không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào là người chứng đạo. Có phải vậy không quý vị? Chứng đạo đâu có nghĩa là kiến tánh thành Phật; chứng đạo đâu có nghĩa là phải có thần thông, phép thuật tàng hình, kêu mây gọi gió, biết chuyện quá khứ vị lai của mọi người, v.v...; chứng đạo đâu phải ngồi thiền năm bảy ngày, một tháng, hai tháng, một năm, hai năm, v.v... Chứng đạo chỉ là tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ, quý vị ạ!
Từ xưa đến nay người ta cứ nghĩ rằng người tu chứng đạo là người phải siêu việt, phải có đầy đủ thần thông, phép thuật, phải có hào quang ánh sáng chói lọi khắp bầu trời, v.v... chứ người ta đâu nghĩ rằng người tu chứng đạo chỉ là người sống trọn vẹn đầy đủ đạo đức làm người không làm khổ mình, không làm khổ người và không làm khổ tất cả chúng sanh.
Đó là đạo Phật, đạo giải thoát sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi. Đây mới thật sự là giải thoát, mới thực sự là đạo từ bi, mới thật sự là đạo trí tuệ, mới thực sự là đạo bất động tâm. Còn những loại pháp môn khác chuyên tụng kinh, niệm Phật, sám hối, ngồi thiền, niệm chú, bắt ấn, cầu an, cầu siêu, thần thông phép thuật, biết chuyện quá khứ vị lai, xem sao, đoán vận mạng, xem ngày giờ tốt xấu cất nhà dựng vợ gả chồng, v.v... toàn là những pháp môn lừa đảo, lường gạt người, mua danh bán lợi, buôn Phật bán pháp. Cho nên Đức Phật gọi đó là những trò ảo thuật lừa bịp, gian xảo của những Ma Vương Ba Tuần, của Quỷ La Sát, v.v...
Để mọi người thấy rõ giáo pháp của Đức Phật hơn, bằng hai câu kệ dưới đây Ngài đã xác định cho mọi người biết rõ để khỏi lầm lạc tà pháp của ngoại đạo:
“Tu gốc nghiệp lành này,
Phân biệt ở chánh hạnh.”
Trong đời sống hằng ngày, chúng ta không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh thì đó không phải là gốc thiện sao? Câu kệ thứ hai chỉ cho chúng ta thấy rõ hơn, nếu muốn biết người tu chứng đạo thì hãy nhìn vào đạo đức của họ: “Phân biệt ở chánh hạnh.” Phân biệt ở chánh hạnh, quý vị thấy có khó không?
Chánh hạnh là gì? Chánh hạnh là những hành động đoan chánh ngay thẳng, thấy sai nói sai, thấy đúng nói đúng, thấy của Phật nói của Phật, thấy của Đại Thừa nói của Đại Thừa chứ không nịnh bợ, a dua hay thấy sai mà không dám nói sai, thấy của Đại Thừa lại nói là của Phật. Đối với Phật giáo, đó là tà hạnh hèn nhát không phải chánh hạnh.
Từ xưa đến nay chúng ta thường bị các pháp môn ngoại đạo lừa đảo: nào là có thế giới siêu hình; nào là ông Thánh này bà Chúa kia ban phước giáng họa; nào là Thiên Đàng, Cực Lạc, Niết Bàn; nào là Địa ngục, Diêm vương, Quỷ sứ, Ngưu đầu, Mã diện, Ngọc Hoàng Thượng Đế, Thánh, Thần, Tiên, Phật, tà ma, quỷ quái đủ loại, v.v... nào là ngồi thiền nhập định; nào là để lại nhục thân; nào là tái sanh luân hồi biết chuyện tiền kiếp của mình; nào là đại ngã tiểu ngã; nào là bản thể vạn hữu; nào là có đấng Tạo hoá, Phật tánh, thần thức, linh hồn, v.v... đều là những trò ảo thuật lừa đảo mọi người mà thôi. Những trò ảo thuật này chẳng có gì thiết thực cụ thể, toàn là ảo tưởng, mơ hồ, ảo giác,... và chẳng có gì lợi ích cho loài người mà còn làm hại cho con người “tiền mất tật mang.”
Tóm lại những gì đạo Phật đã dạy cho chúng ta tu tập và sống thiện pháp đều nằm trong cuộc sống rất thực tế, cụ thể, thường đem lại lợi ích thiết thực cho con người. Là con người, chúng ta chỉ cần biết sống có đạo đức không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh thì ngay đó là hạnh phúc, là giải thoát rồi, còn có gì đâu mà đòi hỏi phải có thần thông, pháp thuật; phải ngồi thiền năm bảy ngày; phải được vãng sanh vào cõi Cực lạc, Thiên đàng, Niết Bàn, v.v... Tu hành theo Phật giáo thì giải thoát ngay liền không cần chờ đợi không gian và thời gian nào cả.
c. MỌI NGƯỜI GIÀ TRẺ ĐỀU TU CHỨNG
Đạo Phật là đạo bình đẳng: người già cũng như người tuổi trẻ, người nào cũng có thể tu chứng đạo giải thoát và cũng được Đức Phật xem như nhau. Đạo Phật là đạo vô giai cấp, người tu sĩ cũng như người cư sĩ, nếu ai tu chứng cũng đều được gọi là Trưởng Lão giống như nhau. Khi tu chứng người nào cũng giống như người nào, người nào cũng vô lậu. Trong đạo Phật không có người tu chứng cao, người tu chứng thấp, vì thế đạo Phật là đạo bình đẳng.
Tuổi trẻ mà biết phân biệt được thiện pháp và ác pháp, biết sống ngăn ngừa và diệt ác pháp, luôn luôn sống với mọi người, với mọi loài chúng sanh trong thiện pháp, tức là không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh thì người ấy được gọi là Trưởng Lão. Hai câu kệ dưới đây Đức Phật đã xác định rõ điều này:
“Phân biệt chánh pháp lành,
Đây gọi là Trưởng Lão.”
Lời Đức Phật dạy rõ ràng như vậy, cớ sao quý vị tu tập khó quá! Quý vị có biết tại sao không? Chỉ vì quý vị còn tiếc dục và ác pháp nên chưa muốn từ bỏ, chưa muốn xa lìa. Có phải vậy không? Hai câu kệ trên đây đã xác quyết con đường giải thoát của đạo Phật không ngoài thiện pháp. Cho nên không cần phải tụng kinh, niệm Phật, luyện bùa, đọc thần chú, ngồi thiền nhập định mới là giải thoát. Có những người cho rằng: Những hạng người căn cơ còn thấp kém thì phải tụng kinh niệm Phật, ngồi thiền, v.v... Niệm Phật, ngồi thiền tưởng, cúng bái, tế lễ, cầu siêu, cần an, v.v... là những pháp môn mê tín. Cho nên lời dạy này là lời ngụy biện che đậy những tà pháp. Như chúng tôi đã hiểu không lầm, căn bản của đạo Phật là giới luật, là đạo đức làm người, làm Thánh. Vì thế hành giả phải biết khắc phục tâm mình; phải biết sửa lỗi lầm khi mình phạm phải; phải biết xấu hổ khi làm một điều ác, khiến cho mình khổ, người khổ, chúng sanh khổ.
Người nào còn chấp Thiền, chấp Định, chấp Tịnh, chấp Mật là đã tu sai đạo Phật. Một bằng chứng cụ thể chứng minh cho chúng ta thấy rằng: Từ xưa đến nay trong bốn tông phái này không có một vị tu sĩ hay một vị cư sĩ nào sống toàn thiện không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh. Vì thế, cho đến ngày nay chưa thấy có một vị sư, thầy hay một vị cư sĩ nào làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi; thường chết trong bệnh đau và chết trong tưởng định. Cho nên kinh Pháp Cú đã xác định rõ rằng: muốn tâm thanh tịnh để nhập các loại định làm chủ sự sống chết, chấm dứt luân hồi thì chỉ có ngăn ác diệt ác pháp và luôn sống trong thiện pháp:
“Chư ác mạc tác
Chúng thiện phụng hành.
Tự tịnh kỳ ý
Thị chư Phật giáo.”
Dịch:
“Các pháp ác chớ làm
Các pháp thiện nên làm
Tự tâm ý thanh tịnh
Đây lời chư Phật dạy.”
Tóm lại, ba bài kệ trên đây đã xác định khi tu theo đạo Phật là phải thực hiện pháp nào đúng của đạo Phật. Nếu không xác định được pháp môn tu hành chính của đạo Phật thì dù chúng ta có tu ngàn đời, muôn kiếp cũng chẳng tìm thấy được sự giải thoát, chỉ uổng phí một đời tu hành, chẳng ích lợi gì cho mình và cho người khác. Trên đời này chỉ có Phật giáo mới có pháp duy nhất dạy người tu tập thoát ra bốn sự khổ đau sanh, già, bệnh, chết. Đạo Phật lấy đạo đức nhân bản – nhân quả, không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh làm tiêu chuẩn sống để tu tập và rèn luyện thân tâm mình cho có những hành động đạo đức, khiến mình và mọi người đều được thanh thản, an vui và hạnh phúc. Đây mới chính là mục đích giải thoát của Phật giáo.
67. KHÓ! KHÓ!! KHÓ!!!
Lời Phật dạy:
“Như Lai ra đời rất khó gặp, thân người khó được, sanh trưởng vào trung tâm của đất nước cũng khó được, gặp thiện hữu tri thức cũng khó, gặp được chánh pháp cũng khó, nghe được pháp cũng khó.”
Tăng Nhất A Hàm tập 3 trang 218
Đời người sanh ra có sáu cái khó mà mọi người chẳng ai lưu ý, vì thế cuộc đời phải chịu biết bao nhiêu điều thống khổ. Khi tu hành chứng đạo, Đức Phật nhìn thấy chúng sanh bạc phước vô duyên nên cảnh báo cho biết có sáu điều khó để mọi người cảnh giác như đoạn kinh trên đây đã xác định:
1- Khó thứ nhất: “Như Lai ra đời rất khó gặp.”
Vậy Như Lai nghĩa là gì? Như Lai là một danh hiệu của Đức Phật. Sanh ra được đồng thời với Đức Phật là một điều khó, cũng như chúng ta hiện giờ làm sao sanh ra đồng thời với Đức Phật được. Phải không hỡi các bạn?
Chúng ta sinh ra đời đã cách xa Đức Phật 2548 năm, đến ngày nay nhìn lại tu sĩ hay cư sĩ của Phật giáo ngoài hình thức đầu tròn áo vuông của một tu sĩ hay một cư sĩ mà thôi, còn bên trong chỉ là Ma Ba Tuần đội lốt để kinh doanh mê tín, trừu tượng, ảo giác thế giới siêu hình. Vì thế người tu theo Phật giáo rất đông nhưng chẳng có ai giải thoát thực sự. Nếu tất cả mọi người được sanh ra đồng thời với Đức Phật là một điều may mắn nhất trên đời, nhờ đó chúng ta nương tựa vững chắc vào Ngài tu hành thì đến nay mọi người sẽ tu hành chứng đắc quả A-la-hán không biết bao nhiêu kể cho hết.
Bởi vậy gặp Phật là khó, ngày xưa khi Đức Phật sinh ra, nhà vua nhờ vị Tiên nhân Asita đến xem tướng số cho Đức Phật thì ông quỳ xuống đảnh lễ Phật sơ sinh và khóc to. Nhà vua thấy thế mới hỏi:
- Sao ông lại khóc?
Tiên nhân Asita trả lời:
- Ngày sau này thái tử lớn lên đi tu thành Phật, lúc bây giờ tôi đã chết rồi còn đâu hỏi đạo tu hành nên tôi khóc vì buồn tủi.
Sinh ra không đồng thời với bậc Giác ngộ là một điều bất hạnh to tát của đời người, bởi vì “Như Lai ra đời rất khó gặp.” Gặp được Phật ra đời là khó. Sinh ra đồng thời với Phật không phải dễ. Nhưng biết bao nhiêu người sinh ra đồng thời với Phật mà chưa hề biết đến Phật. Người biết đến Phật trong thời đó chỉ là thiểu số trong dân tộc Ấn Độ. Nhưng có những kẻ gặp được Phật lại phỉ báng Phật, lăng nhục Phật, muốn giết Phật, v.v... Thật là “vô duyên đối diện bất tương phùng.”
2- Khó thứ hai: “Được thân người là khó, khó như con rùa mù tìm bọng cây giữa biển Đông.”
Lời dạy này chúng ta hãy tư duy. Khi mất thân này rồi, trăm muôn ngàn kiếp không biết có đủ duyên để sanh lại làm người nữa hay không? Chắc khó lắm. Nhưng thân người chỉ sống có một thời gian quá ngắn ngủi, thế mà người đời đã tiêu phí năm tháng của thân này một cách nhảm nhí, chẳng có ích lợi gì cả, chỉ loanh quanh để phục vụ cho những điều bất tịnh: ăn, ngủ, dâm dục, đi cầu chứ chẳng có nghĩa lý gì tốt đẹp. Có phải vậy không các bạn?
Người cư sĩ cũng như người tu sĩ, họ đều biết cuộc đời là khổ, thế nhưng họ không dám buông bỏ. Không dám buông bỏ, nhưng rồi cũng phải buông bỏ để đi vào cõi chết với hai bàn tay trắng. Con người chết đi thân ngũ uẩn tan hoại hết, không còn tồn tại một vật gì, nhưng vì cuộc sống hằng ngày luôn tạo thiện hay tạo ác. Do hành động tạo thiện ác đó đã trở thành nghiệp lực tham, sân, si. Nghiệp lực tham, sân, si tiếp tục tương ưng với tâm tham, sân, si của mọi người và mọi loài vật mà tái sanh luân hồi.
Bởi không buông bỏ tâm tham, sân, si tức là chấp nhận nó để tiếp tục sống trong sự đau khổ như tất cả các loài chúng sanh khác. Còn nếu theo lộ trình tu hành của đạo Phật mà biết buông bỏ sạch thì họ không còn khổ đau nữa và cũng chấm dứt luân hồi. Tu sĩ và Cư sĩ thời nay chẳng có vị nào buông bỏ cả. Họ tích lũy thêm vật chất, sống rất tiện nghi như một người giàu có và họ cũng còn ham vui như người thế tục. Đi tu như họ chỉ uổng công mà thôi. Họ không tiếc thời gian của thân họ sắp tàn tới nơi rồi, tuổi đời không còn mấy năm nữa, nên Phật dạy: “được thân người là khó” thế mà mấy ai biết !!!
Khi chết rồi không chắc gì chúng ta sẽ sinh làm thân người liền, mà phải sanh làm loài vật như cá, tôm, vịt, gà, heo, dê, trâu, bò, chó, ngựa, v.v... chỉ vì chúng ta đã giết chúng để ăn thịt. Nợ xương máu phải trả chứ không thể nào trốn chạy thoát khỏi. Ăn một mạng chúng sanh phải trả mười mạng. Các bạn có biết không?
Như vậy được thân người là khó chứ đâu phải dễ. Một đời của bạn biết bao nhiêu tôm, cá, gà, vịt, heo, dê đã chôn vùi trong thân bạn. Một con vật bị bạn ăn thịt thì bạn phải tái sanh làm mười con vật. Và như vậy từ khi bạn mới biết ăn thì cha mẹ đã cho bạn ăn thịt cá, đến suốt cuộc đời bạn bảy tám mươi tuổi thì số lượng thịt cá bạn ăn không thể tính hết được. Theo luật nhân quả phải nhân lên gấp mười lần thì biết chừng nào bạn trả cho hết thân mạng chúng sanh! Cho nên được thân người là khó lắm bạn ạ!
Được thân người mà làm người thật người thì còn khó hơn. Phải không hỡi các bạn? Bởi vì như các bạn đã biết: con người thật người thì phải sống đúng năm tiêu chuẩn này:
1- Đạo đức Hiếu sinh
2- Đạo đức Buông xả và cần lao
3- Đạo đức Chung thủy
4- Đạo đức Thành thật
5- Đạo đức Sáng suốt, minh mẫn
Hiện giờ như chúng ta đã biết: con người chỉ là hình người mà tâm địa là loài động vật. Có phải vậy không các bạn? Cho nên con người sinh ra nhiều nhưng không phải người thật các bạn ạ. Vì thế chúng ta xác định những con người mà chúng ta gặp hằng ngày là từ loài thú vật đã trải qua nhiều kiếp làm loài thú vật để trả nợ nhân quả, vì thế họ đã huân nhiều sự ác độc, hung dữ. Đến khi họ được sinh ra làm người thì bản chất loài thú vật vẫn còn nguyên. Cho nên con người hiện giờ rất hung dữ, tham lam và độc ác. Mọi người vì miếng cơm manh áo mà chà đạp lên cuộc sống của nhau chẳng chút thương tâm.
Xét cho cùng, một con người chết đi đến khi được sinh ra làm người trở lại thì phải trải qua làm thân chúng sanh vô lượng vô biên kiếp. Do vậy Đức Phật bảo rằng: quá khó. Nếu xét ra các bạn có thấy đúng như vậy không?
Từ những con người đã có gieo duyên với chánh pháp của Phật bằng cách “Thọ Bát Quan Trai” nên may mắn nhờ duyên này gặp lại được chánh pháp. Từ đó chúng ta tu sửa lần lần bỏ những ác hạnh bản chất của loài động vật, sống đúng năm thiện hạnh, không còn sai trái vi phạm những lỗi lầm. Nhờ sự tu tập theo thiện pháp ngăn và diệt ác pháp, chúng ta đã trở thành con người thật người. Từ con người thật người khi chết đi chúng ta tiếp tục sinh làm người ngay liền, vì chúng ta không có vay nợ máu xương của loài động vật khác nữa, do đó nhân quả không có. Cho nên một con người thật người sinh ra là không ăn thịt chúng sanh, không tham lam trộm cắp, cướp của, không vọng ngữ, không tà dâm, không ưa thích uống rượu. Những đứa trẻ sinh ra mà mang bản chất như vậy là con người thật người. Những con người ấy được nuôi dưỡng theo đúng chánh pháp của Phật thì những người này sẽ dễ dàng trở thành những bậc Thánh A-la-hán sau này.
Ở đây chúng tôi xin lưu ý các bạn, muốn sinh ra được làm người thì không phải khó, bởi vì Đức Phật đã cho chúng ta biết năm tiêu chuẩn để được làm người. Chỉ cần các bạn sống đúng năm tiêu chuẩn ở trên thì lúc nào bỏ thân này các bạn sẽ có thân người mới ngay liền, không có khó khăn, vì năm tiêu chuẩn ở trên là năm tiêu chuẩn làm người chân thật không còn mang bản chất loài cầm thú. Cho nên hiện giờ các bạn thấy người sinh ra rất nhiều, nhưng người thật người rất ít các bạn ạ!
Các bạn cũng nên nhớ: Được thân người còn mang bản chất loài thú vật đã khó khăn vô cùng, phải trải qua vô lượng kiếp làm chúng sanh như trên đã nói, huống là được thân người thật người còn khó hơn. Phải không hỡi các bạn? Bởi vậy, muốn được thân người thật người thì các bạn ngay bây giờ hãy bắt đầu tập sống cho đúng năm điều thiện ở trên đã nói. Nhờ sống đúng năm điều thiện này thì không bao giờ các bạn còn làm thân chúng sanh nữa. Các bạn có nhớ không?
3- Khó thứ ba: “Được sanh vào trung tâm của đất nước là khó.”
Những con người sinh ra ở những nơi biên cương thống khổ vì nơi đó thường hay có giặc giã, trộm cướp, v.v...; những nơi ấy đất cày lên sỏi đá, chai cằn cỗi; những nơi ấy khó được học tập kiến thức sâu rộng; những nơi ấy làm ra thực phẩm rất vất vả và khó khăn. Cho nên “Được sanh vào trung tâm của đất nước là khó.” Chỉ nơi trung tâm của đất nước mới có sự yên ổn, mới có cơm ăn áo mặc đầy đủ, mới có đủ duyên trao dồi kiến thức và nơi đó mới có những bậc Thánh xuất hiện dạy người sống có đạo đức để tu tập trở thành những bậc Thánh Hiền.
4- Khó thứ tư: “Được gặp thiện hữu tri thức là khó.”
Trong thời đại nào cũng vậy, ác hữu tri thức thì nơi đâu cũng có, còn thiện hữu tri thức thì dù có thắp đuốc đi suốt ngày đêm từ năm này đến năm khác cũng rất khó gặp. Bởi vì, trong thời đại tu hành theo Phật giáo hiện tại của chúng ta, ác hữu tri thức thì không thiếu gì. Họ chỉ học hỏi kiến giải trong kinh sách chứ chưa có vị nào tu chứng đắc. Lấy sự học ra làm thầy hoặc tu hành chỉ có hình thức, tu chưa đến đâu mà vội đem ra dạy thiên hạ tu hành thì các bạn nghĩ sao? Có phải những hạng thầy này chỉ là những hạng giỏi lừa gạt người bằng khoa ngôn ngữ học lỏm của người khác? Cho nên người tu theo Phật giáo thì đông như kiến, nhưng thành tựu đạo giải thoát thì chẳng có ai. Vì thế Đức Phật dạy: “Được gặp thiện hữu tri thức là khó.”
Thưa các bạn! Thiện hữu tri thức đâu phải dễ tìm. Họ là những bậc tu chứng: thứ nhất là chứng Giới luật; thứ hai là chứng Thiền Định; thứ ba là chứng Tuệ Tam Minh. Những bậc tu chứng như vậy mới được gọi là thiện hữu tri thức, mới là những bậc Thầy của chúng ta. Khi chúng ta muốn tìm một bậc thiện hữu tri thức nào thì phải xem xét cho kỹ ba cấp chứng đạo này. Nếu trong ba cấp này xét thấy họ không chứng được cấp nào hết thì họ là những ác tri thức, chúng ta không nên thân cận.
Bậc thiện hữu tri thức là người không những học thức thông suốt giáo pháp mà còn tu hành chứng đạo, sống một đời sống đạo đức trọn vẹn, giới luật không hề vi phạm, thường làm gương đức hạnh cho mọi người soi. Những bậc này trong đời người rất khó tìm kiếm. Cho nên Đức Phật bảo gặp thiện hữu tri thức khó là như vậy.
5- Khó thứ năm: “Gặp Chánh pháp là khó.”
Gặp chánh pháp là khó, vì hiện giờ quý vị muốn tìm chánh pháp để tu tập được giải thoát thì đâu phải là một việc dễ, bởi vì Phật giáo hiện đang có tám mươi bốn ngàn pháp môn của Đại Thừa. Chính tám mươi bốn ngàn pháp môn này đã đánh lạc hướng quý vị. Quý vị có biết không? Trong khi ấy đạo Phật duy chỉ có một pháp môn chân chánh. Đó là Bát Chánh đạo. Bát Chánh Đạo đang bị dìm mất nên hỏi đến tín đồ Phật giáo thì họ đều ngơ ngẩn không biết tu tập Bát Chánh Đạo như thế nào, và họ cũng không hiểu nữa. Do đó muốn tu theo Phật giáo họ chẳng biết tìm đâu ra pháp chân chánh, vì chùa nào hiện giờ cũng dạy ngồi thiền, tụng kinh, niệm Phật, cầu cúng, lễ bái, sám hối, v.v... Vì thế Đức Phật dạy: “Gặp Chánh pháp là khó.”
Đúng vậy. Hiện giờ muốn tu hành theo Phật giáo mà không có một vị tu chứng quả A-la-hán hướng dẫn thì rất khó cho chúng ta biết pháp nào tu tập đến nơi đến chốn giải thoát hoàn toàn. Cho nên “Gặp Chánh pháp là khó,” lời dạy ấy không bao giờ sai. Phải không quý vị?
6- Khó thứ sáu: “Nghe được Chánh pháp là khó.”
Nghe được Chánh pháp là khó. Tại sao vậy? Vì quý vị đã chịu ảnh hưởng giáo pháp của Đại Thừa và Thiền Tông quá sâu đậm nên kiến chấp (kiến kiết sử) về tà giáo này quá kiên cố. Nó đã trở thành một thói quen tu hành ức chế thân tâm của quý vị rất khó bỏ, nhất là ngồi thiền giữ tâm hoặc niệm Phật nhất tâm, hoặc sổ tức, tùy tức không cho niệm khởi. Khi tu tập ức chế tâm như vậy đã trở thành một thói quen với 18 loại hỷ tưởng xuất hiện, mà các vị sư thầy trong Đại Thừa và Thiền Tông cho đó là nhập định. Từ đó thói quen này đã trở thành một nếp nhăn trong đầu óc của quý vị sư thầy này.
Bị kiến chấp quá kiên cố nên khi nghe pháp môn tu thiền xả tâm thì quý vị đâu hiểu rõ xả như thế nào, cho nên khi tu tập quý vị đều rơi vào pháp ức chế tâm mà không biết. Khi tu pháp thiền ức chế tâm, quý vị đã quen tập trung tâm cho hết vọng tưởng; khi không vọng tưởng cho là mình tu tập tốt, còn có vọng tưởng cho là mình tu tập thất niệm, tu không chất lượng, tu không tiến bộ. Cũng như do từ kiến chấp pháp môn của Đại Thừa và Thiền Tông cho rằng không niệm khởi là tu đúng. Với kiến chấp và thói quen như vậy quý vị muốn gạt bỏ nó để tu hành trở lại pháp môn xả tâm chân chánh của đạo Phật thì rất khó, khó muôn vàn. Phải không quý vị?
- Thứ nhất, là vì thói quen tập trung gom tâm vào một đối tượng như ngựa quen đường cũ.
- Thứ hai, tư tưởng chưa thông suốt chân lý Phật giáo, còn bán tin bán nghi Đại Thừa và Nguyên Thủy, chưa biết phân biệt pháp nào đúng, pháp nào sai.
68. QUẢ BÁO CÓ HAY KHÔNG?
Hỏi: Kính thưa Thầy, kẻ tham nhũng làm điều phi đạo lý trong xã hội ngày một béo tốt, nhiều tiền lắm của, kẻ ăn cắp ngày một giàu lên. Vậy họ đang tạo nghiệp ác, đến bao giờ họ phải trả nghiệp ác này, ít ra thì cũng phải trả trong đời hiện tại này để mọi người thấy được. Còn họ trả nghiệp ác này trong tương lai thì trừu tượng quá vậy? Xin Thầy dạy cho chúng con rõ.
Đáp: Phước đời trước họ khéo tạo, nên đời nay họ mới sanh vào chỗ làm dễ ra tiền. Thế mà, vì lòng tham không đáy nên họ đã làm tiền phi đạo lý như: tham nhũng, trộm cắp, hối lộ v.v... Tuy hiện tại chúng ta chưa thấy quả báo của họ là vì phước báo của họ còn dư thừa chưa hết, nhưng khi phước báo ấy đã cạn hết thì thiên tai hỏa hoạn đến, lúc đó họ chỉ còn sống trong màn trời chiếu đất, thậm chí cơm không đủ ăn, áo không có mặc. Các con đừng nghĩ rằng nhân quả trừu tượng, nhân quả là một định luật đạo đức công bằng và công lý mà trong thế gian này không có một định luật nào công bằng và công lý hơn nó được.
Nếu họ biết dừng ngay những điều làm ra tiền phi đạo lý của họ thì bây giờ họ cũng phải trả quả trong hiện tại, huống là họ chẳng biết dừng những việc làm ác đó thì họ sẽ phải trả quả ngay trong kiếp này để cho mọi người chứng kiến biết rõ luật nhân quả công minh khi phước họ đã cạn hết chứ không phải ở kiếp sau. Bằng chứng các con có đọc báo Công An thành phố Hồ Chí Minh, nhiều kẻ làm giàu phi đạo lý sẽ bị tù tội, tử hình, tài sản và nhà cửa đều bị tịch thu như: Minh Phụng, Trần Đàm v.v...
Nhân quả không trừu tượng như các con đã hiểu, những phước báo của kẻ tạo ra những điều phi đạo lý chưa hết nên họ còn hưởng thêm một vài ngày, nếu phước báo kia vừa hết thì quả báo khổ đau sẽ đến với họ liền.
“Phước bất trùng lai họa vô đơn chí,” người xưa đã nói như vậy tức là họ đã có kinh nghiệm trong cuộc sống nên đã nhận ra được luật nhân quả rõ ràng và cụ thể “vay một trả mười.” Nhân quả không những phải trả ở tương lai trong kiếp khác mà còn phải trả ngay trong kiếp hiện tại. Chỉ khi nào người tạo quả ác đã hết phước thì họ phải trả ngay liền, còn quả ở vị lai thì nó đã trở thành nghiệp lực để tiếp tục tương ưng với nhân quả của người khác mà tái sanh vào môi trường sống xấu hơn nếu họ làm ác nhiều, hoặc tốt hơn nếu họ làm thiện nhiều.
Trước mắt chúng ta đã thấy bao nhiêu kẻ làm ác mà chẳng thấy quả khổ của họ nên mọi người đâm ra nghi ngờ luật nhân quả. Họ đâu biết rằng luật nhân quả rất công bằng và công lý, ai làm thiện thì hưởng phước, còn ai làm ác thì thọ chịu quả khổ, không có một ai tránh khỏi, chỉ có phước thừa của họ chưa hết nên họ làm ác vẫn còn thấy được an vui, nhưng sự an vui chưa thật sự là an vui. Nếu chúng ta nhìn kỹ cái vui của họ là tiếng khóc, cái hãnh diện của họ là những ưu tư da diết trong lòng chứ chưa phải là hạnh phúc đâu.
Trong thế gian này, duy nhất chỉ có một đạo luật nhân quả là công bằng và công lý, đó là một đạo luật do từ những hành động thiện ác của con người tạo ra để phân xử lấy họ, chứ không có ai hoặc một đấng sáng tạo nào đặt ra cả. Từ hành động thiện ác của loài người mà con người phải chịu quả khổ vui chính hành động của họ, chứ không phải quả khổ vui tự nhiên mà có hay có ai xét xử phạt tội ban phước cho chúng ta.
Phật dạy: “Các pháp trong thế gian là do duyên hợp mà thành, nhưng sự thành hoại đều do hành động nhân quả mà có.” Nhân quả có lúc hiện rất rõ, lại có lúc thấy như không có nhân quả, nhưng chúng ta phải biết nhân quả lúc nào cũng đang chi phối loài người theo mỗi hành động của con người. Và vì vậy, con người mới thấy có khổ, có vui, có giận hờn, thương ghét, có buồn phiền đau khổ, có oan ức, có hận thù v.v...
Có lúc thấy như không có nhân quả, do đó người ta đã lầm và mất lòng tin nhân quả, nhưng nhân quả lúc nào cũng có mặt trong tất cả mọi con người, nên không có người nào trốn tránh khỏi luật này được, dù kẻ đó có nhiều tiền, nhiều bạc, có quyền cao chức trọng cũng không thoát khỏi luật này phân xử, do đó nó rất công bằng và công lý, mặc dù chúng ta thấy có kẻ kia làm ác mà vẫn không thấy quả khổ đến với họ, đó là vì phước của kẻ kia chưa hết, như chúng tôi đã nói ở trên, nên quả khổ đau của họ chưa đến mà thôi.
69. TÂM THỨC CÒN HAY MẤT KHI NGƯỜI ĐÃ CHẾT?
Hỏi: Kính thưa Thầy, khi xác thân hoại diệt thì tâm thức thường hằng bất biến hay đã hoại diệt hoàn toàn theo thân xác của nó?
Đáp: Đức Phật đã dạy: “Nếu thức còn một chút xíu như đất trong móng tay Ta thì con người trong thế gian này không thể thoát khổ và Đạo Ta cũng không xuất hiện ra đời.”
Đây là lời dạy chân thật, nếu còn một chút xíu thức, tức là còn một vật thường hằng, mà đã còn một vật thường hằng thì con người không thể thoát khổ. Do quán xét thấu suốt lý các pháp duyên hợp nên Đức Phật xác định không có một vật gì thường hằng bất biến, dù là vật có hình sắc hay vô hình trong thế gian này. Và vì vậy, đạo Phật không chấp nhận thế giới siêu hình, thế giới siêu hình chỉ là một thế giới tưởng của con người còn sống, nhưng đến khi chết thì thế giới này cũng tan biến theo mây khói mà thôi.
Kinh sách phát triển xây dựng thế giới siêu hình có một vật vĩnh hằng (Chơn Tâm, Phật Tánh, Bản Lai Diện Mục v.v...) là giáo phái xây dựng thế giới ảo tưởng. Hiện giờ khoa học cũng đã xác định mọi vật đều do nhiều nguyên tố kết hợp lại, chứ không có một vật gì độc lập riêng rẽ, cho nên thế giới thường hằng không có thật, đó chỉ là sự lừa đảo, lường gạt đối với những người còn lạc hậu, chưa có kiến thức về khoa học, những người đang tu theo Phật giáo Phát Triển và Thiền Đông Độ mà thôi.
Ngày nào khoa học tiến triển sâu xa hơn và trình độ kiến thức của con người được nâng cao thì ngày đó tất cả các giáo phái trên hành tinh này đã, đang và sẽ xây dựng thế giới siêu hình thường hằng, bất biến sẽ bị loại trừ ra khỏi đời sống của loài người. Chỉ vì hiện giờ khoa học chưa đủ sức chứng minh thế giới vĩnh hằng có hay là không, vì do tưởng uẩn tạo ra nhiều trò ảo thuật (siêu hình) khiến cho khoa học không thể chứng minh được, đành bó tay. Nhưng đối với những người tu theo Phật giáo Nguyên Thủy không rơi vào thiền tưởng và những người đã nhập được từ Sơ Thiền đến Tứ Thiền và thông suốt Tam Minh thì không thể lừa đảo họ được, vì chính bản thân họ đã thấy được thế giới siêu hình đó từ đâu sanh ra.
70. CÚNG DƯỜNG 1.000 VÀ 100.000 ĐỒNG?
Hỏi: Kính thưa Thầy, có một sĩ quan quân đội hỏi con, vào chùa lễ Phật, một người cúng dường 1000đ và một người cúng dường 100.000đ thì người nào có phước đức hơn?
Đáp: Trong giới luật Phật, cấm các tu sĩ không được cất giữ tiền bạc. Người cất giữ tiền bạc thì bị tội xả đọa (Ni tát kỳ ba dật đề). Phật tử vào chùa lạy Phật, cúng tiền bạc dù một đồng cho đến hằng tỷ đồng đã không có phước báo mà còn phi công đức như:
1- Khiến cho chư Tăng ham mê tiền bạc mà quên giữ gìn Thánh hạnh của mình, đó là phi công đức thứ nhất.
2- Có tiền khiến cho chư Tăng sa ngã chạy theo dục lạc thế gian, sống hưởng thụ, không giữ gìn giới luật, khiến cho người đời khinh chê Phật pháp và cũng vì vậy khiến cho Phật pháp suy đồi, đó là phi công đức thứ hai.
3- Có tiền, khiến chư Tăng chạy theo danh lợi, quên hạnh thiểu dục tri túc, phòng hộ sáu căn, đó là phi công đức thứ ba.
4- Có tiền, khiến cho chư Tăng xây dựng chùa to Phật lớn, làm cho dính mắc vật chất, tâm không xả ly dục và ác pháp, đó là điều phi công đức thứ tư.
5- Có tiền cúng dường của đàn na thí chủ đem về nuôi giòng họ anh em con cháu và xây mồ mả tổ tiên, cất nhà cao cửa rộng cho cha mẹ ở, đó là điều phi công đức thứ năm.
6- Cúng dường tiền bạc cho bọn đầu trộm đuôi cướp gian xảo lợi dụng chiếc áo cà sa đi xin (khất thực) tiền bạc bất chánh, đó là điều phi công đức thứ sáu.
Do sáu điều phi công đức trên đây, người phật tử cúng dường tiền bạc đã không được phước báo mà lại còn thêm sáu tội rất nặng, đó là tội diệt Phật pháp. Xưa, Đức Phật và chư Thánh Tăng đi khất thực tứ sự vừa đủ cho cuộc sống tu hành và thực phẩm, ngày ăn một bữa, không để dành và cũng không có xin tiền bạc. Ngày nay, gặp tu sĩ đi xin tiền bạc thì đó là những tu sĩ giả mạo chứ không phải là người tu chơn chánh.
Người phật tử nào cúng dường tiền bạc là người phật tử đã bị kinh sách phát triển và Thiền Tông lừa đảo lường gạt “phước báo” để lấy tiền làm giàu riêng cho cá nhân ngồi mát hưởng bát vàng. Do sự cúng dường tiền bạc của phật tử thiếu trách nhiệm và bổn phận đối với Phật giáo nên có một số người lợi dụng kẽ hở đó chui vào Phật giáo, kinh doanh buôn Phật bán Pháp lẫn trong chiếc áo cà sa làm việc tồi tệ, khiến cho người đời không kính trọng Phật giáo.
Tóm lại, cúng dường chư Phật và chư Thánh Tăng, dù một đồng hay một tỷ đồng thì cũng không được phước báo một chút gì cả mà lại còn thêm tội. Phải nói người cúng một đồng ít tội hơn người cúng một tỷ đồng, vì cúng dường nhiều khiến cho chư Tăng dễ sa ngã chạy theo vật chất, quên đường tu hành nên phải tội nhiều hơn. Khi cúng dường tiền bạc thì nên giao cho một người cư sĩ nguyện trọn đời mình lo cho đời sống chư Tăng thì được phước, vì đó là cúng dường đúng chánh pháp.
71. TẠI SAO THÂN THƯỜNG BỊ BỆNH
Hỏi: Kính thưa Thầy, thân thường bị bệnh là nghiệp gì? Phải làm sao thân không bệnh?
Đáp: Đã sinh làm người, làm loài động vật là đã mang thân nghiệp. Thân nghiệp tức là thân nhân quả. Thân nhân quả tùy theo nhân quả thiện ác mà thọ chịu quả khổ đau phiền não, giận hờn thương ghét v.v... nặng nhẹ hoặc thọ hưởng sự phước báo yên vui, an ổn, ít bệnh tật, ít tai nạn v.v... chứ không ai mang thân nhân quả nghiệp báo mà không đau khổ; mà không có an vui bao giờ. Thân thường bị bệnh là do nghiệp sát sanh tức là nguyên nhân giết hại và ăn thịt chúng sanh. Người có thân thường hay bị bệnh từ lúc mới sinh ra cho đến già sắp bỏ thân này là do kiếp trước giết hại và ăn thịt chúng sanh quá nhiều nên phải chịu trả quả báo thọ thân bệnh khổ đau liên miên như vậy. Muốn thoát ra thân bệnh tật khổ đau và những tai nạn thì phải thọ Tam Quy Ngũ Giới. Thọ Tam Quy Ngũ Giới là phải giữ gìn đúng những lời Phật dạy thì mới có kết quả thân không còn bệnh tật và tai nạn nữa. Vậy Thọ Tam Quy Ngũ giới là gì? Và thọ bằng cách nào?
Thọ Tam Quy tức là nương theo Phật, Pháp, Tăng. Nương theo Phật là phải sống như Phật; nương theo Pháp là phải sống đúng theo lời dạy của Phật; nương theo Tăng là phải thân cận thiện hữu tri thức, thường thưa hỏi và sống theo gương hạnh hòa hợp của những vị Tăng để hằng ngày sống trọn vẹn đạo đức nhân bản – nhân quả tự không làm khổ mình khổ người và khổ tất cả chúng sinh. Đó là Quy Y Tam Bảo, con nên ghi nhớ.
Thọ ngũ giới là gì? Thọ ngũ giới là chấp nhận sống năm đức hạnh nhân bản - nhân quả tự không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh. Năm giới đức hạnh đó là:
1- Giới thứ nhất không giết hại và ăn thịt chúng sanh, đó là đức hiếu sinh tức là lòng thương yêu sự sống trên hành tinh này vậy.
2- Giới thứ hai không tham lam trộm cắp, cướp giựt, không lấy của không cho, từ bỏ lấy của không cho, đó là đức buông xả, đức thiểu dục tri túc tức là xả ly lòng tham lam, ích kỷ, nhỏ mọn, từ bỏ lấy của không cho.
3- Giới thứ ba không tà dâm tức là đức chung thủy. Đức chung thủy là lòng thương yêu một vợ một chồng, không lang chạ với người khác. Đức chung thủy tạo nên một gia đình đầm ấm, hạnh phúc, chồng thương vợ, vợ thương chồng với một lòng thương yêu chân thật, một tình nghĩa keo sơn gắn bó. Sống đồng tịch đồng sàng, thác đồng quan đồng quách. Đây là một đạo đức gia đình mà mọi người trên thế gian này cần phải học và sống cho đúng để không làm khổ những người thân thương đầu ấp tay gối của mình
4- Giới thứ tư không nói dối tức là đức thành thật. Đức thành thật là một đức hạnh tạo cho mình có đầy đủ lòng tin đối với mọi người. Vì thế chuyện thấy nói thấy, chuyện không thấy nói không thấy; chuyện có nghe nói có nghe, chuyện không nghe nói chuyện không nghe, chứ thấy nói không thấy, chứ nghe nói không nghe là nói dối. Người không có đức hạnh thành thật thường đem chuyện của người này nói cho người khác nghe hoặc đem chuyện người khác nói cho người này nghe hoặc nói thêu dệt, nói lật lọng đều là những người thiếu đức thành thật và đức tôn trọng mình, tôn trọng người.
5- Giới thứ năm không uống rượu, uống cà phê, không hút thuốc lá, thuốc lào, thuốc phiện v.v... đó là đức minh mẫn. Đức minh mẫn là một đức hạnh sáng suốt. Đức minh mẫn sáng suốt là tự biết mình, làm chủ mình, không để mình nghiện ngập rượu, thuốc lá, thuốc lào, cà phê, thuốc phiện v.v... Vì những loại xa xỉ này đem tai hại và khổ đau cho bản thân và gia đình mình như cha mẹ, vợ con.
Trong năm đức này, người có thân bệnh cần phải giữ gìn cho trọn vẹn, đừng vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào trong năm giới này thì ước nguyện thân bệnh tật sẽ được chuyển hóa và tiêu trừ. Khi giữ gìn năm giới trọn vẹn thì phải tu tập các pháp Thân Hành Niệm, Định Niệm Hơi Thở bằng cách dùng cánh tay đưa ra đưa vào và tác ý câu: “An tịnh thân hành tôi biết tôi đưa tay ra, an tịnh thân hành tôi biết tôi đưa tay vô” tác ý xong liền đưa tay ra vô năm lần rồi tiếp tục tác ý như câu trên. Tu tập như vậy đúng 30’ xả nghỉ 30’ rồi lại tiếp tu tập lại nữa chừng nào hết bệnh mới thôi.
Nếu người có duyên với hơi thở thì nên tu tập theo hơi thở và tác ý câu: “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra.” Nương theo hơi thở mà tu tập như vậy một thời gian thì bệnh sẽ được đẩy lui. Trước khi tu tập hơi thở như vậy thì nên tác ý câu: “Thọ là vô thường, cái bệnh nhức đầu (bệnh gì thì nên nói rõ tên bệnh ấy) này phải chấm dứt, phải rời khỏi thân ta.” Đó là một phương pháp chuyển nghiệp nhân quả tuyệt vời, nếu con tin tưởng thì hãy tu tập theo đúng lời dạy trên đây thì kết quả sẽ được như ước nguyện.
Đạo Phật tu tập không những làm chủ bệnh tật mà còn làm chủ bốn sự khổ đau của kiếp người, đó là làm chủ sanh, già, bệnh, chết.
72. TUỔI GIÀ HAY CAU CÓ, LA RẦY
Hỏi: Kính thưa Thầy, cho phép con được hỏi: Mẹ con từ nhỏ cho đến lớn tính tình hiền hòa không có tính cau có khó chịu, nhưng đến nay tuổi đã già yếu, người sinh tật cau có bực dọc thường la hét chửi mắng con cháu, nhất là hay quên. Như vậy mẹ con tạo nghiệp gì mà phải thọ khổ như vậy. Xin Thầy chỉ dạy cho chúng con hiểu. Chúng con thành kính biết ơn Thầy.
Đáp: Cứ theo nhân quả hiện tại mà suy ra nhân quả quá khứ và vị lai. Đó là nhìn quả hiện tại mà biết nhân quá khứ. Ví dụ: Một người có thân thường bị bệnh đau uống thuốc mãi không hết, đó là nhân quá khứ giết hại và ăn thịt chúng sanh. Còn nhìn nhân hiện tại mà biết quả vị lai. Ví dụ: Một người tham lam ăn trộm cắp của ngưới khác là vị lai sẽ bị bắt, bị đánh và bị tù tội giam cầm.
Còn ở đây câu hỏi của con chỉ hỏi về nhân quả hiện tại của mẹ con, lấy cuộc sống hiện tại của mẹ con ăn lành ở hiền trong tuổi trẻ mà nay sao trở về già lại sinh ra ác pháp, sống trong ác pháp thay vì nhân quả trong tuổi trẻ ăn hiền ở lành thì quả về già phải ăn hiền ở lành hơn, cớ sao nhân quả đi ngược lại, chỉ trong một kiếp người nhân ăn hiền ở lành trong thời tuổi trẻ mà quả mang đến cho tuổi già thì không được an vui hạnh phúc.
Con đứng ở nhân quả hiện tại mà suy luận về nhân quả hiện tại thì phải suy luận như thế này: Nhân quả trong thời tuổi trẻ của mẹ con ăn hiền ở lành nên hạnh phúc gia đình rất rõ ràng: Ba của con và anh chị em của con đều được sống trong vòng tay người mẹ ăn hiền ở lành. Đó là nhân và quả của thời tuổi trẻ mẹ của con. Nhân lành quả lành trong tuổi trẻ mà các con đều nhận thấy rõ ở người mẹ. Có đúng như vậy không các con?
Đến khi mẹ con tuổi già sức yếu không còn làm việc bảo bọc gia đình như xưa nữa, vì các con đều lớn hết, đứa nào cũng có công ăn việc làm, bà chỉ còn có công việc ngồi không trông nom nhà cửa cho các con cái đi làm nên từ đó tâm tính bà thay đổi. Tâm tính bà thay đổi đó là nhân; bà cau có hay tức giận la hét hay chửi mắng con cháu là quả của mẹ con không biết tu sửa theo thiện pháp. Và các con cháu sống trong nhà thấy mẹ và bà như vậy nên lấy làm rất khổ tâm, đó là quả của con và các cháu chung cả gia đình. Đó là nhân hiện tại và quả cũng hiện tại. Có đúng như vậy không các con?
Cho nên nhân quả cũng theo quy luật vô thường của các pháp, do đó nhân quả cũng trùng trùng vô thường thay đổi, không bao giờ cố định đứng yên một chỗ, nên ai làm thiện thì hưởng phước báo ngay liền mà ai làm ác thì cũng phải thọ chịu quả khổ đau ngay liền trong cuộc sống hiện tại chứ không phải đợi ở kiếp sau hay ngày mai. Nhân quả ở kiếp sau chỉ là một nền móng mà thôi. Nền móng thiện hay là ác để người tạo nhân quả thiện ác sẽ chịu quả khổ đau hay hạnh phúc mà thôi.
73. NHÂN QUẢ CÓ TRÙNG HỢP KHÔNG?
Hỏi: Kính thưa Thầy cho con được hỏi: “Trong cuộc sống có những sự trùng hợp khó tin và không thể giải thích được, khi đó một cách tự nhiên người ta bắt đầu nghĩ đến khía cạnh nhân quả hay bí ẩn của số phận. Liệu có thể giải thích những chuyện trùng hợp kỳ lạ của nhân quả hay đây là trò chơi của sự ngẫu nhiên và khoa học có những lý thuyết về những vấn đề này?
Thưa Thầy, có phải hai người này từ một nhân sinh ra hay không?
Đáp: Muốn trả lời câu hỏi này xin quý vị hãy đọc lại câu chuyện đã xảy ra ở thánh phố Monza: “Ngày 28 – 7 – 1900, Vua Italy Umberto I ăn tối trong nhà hàng ở thành phố Monza. Người ta được biết chủ của nhà hàng này cũng có tên Umberto, sinh ra cùng ngày với nhà vua, trong cùng một thành phố, vợ của họ có cùng một tên, đám cưới cũng diễn ra trong cùng một ngày, còn nhà hàng khai trương đúng vào ngày nhà vua lên ngai vàng.
Nhà vua và người dân thường này rất vui vẻ nhân cuộc gặp gỡ kỳ lạ này và thống nhất sang ngày hôm sau sẽ đến sân vận động. Nhưng đến buổi sáng, chủ nhà hàng Umberto đột ngột qua đời, nhà vua tỏ lòng tiếc thương và chỉ vài giờ sau ông bị một kẻ vô chánh phủ bắn chết. Số phận của họ chỉ không giống nhau ở điểm hai người chết ở những nơi khác nhau.”
Sau khi đọc xong câu chuyện này quý vị thấy đây là một sự trùng hợp kỳ lạ mà trên đời này cũng rất hiếm thấy, nhưng đó là một sự thật phải có. Có ở đây không phải là một sự ngẫu nhiên mà có ở đây là một sự tương ưng theo quy luật nhân quả. Câu chuyện này chỉ đứng trong nhân quả mới có thể giải thích được. Khoa học dù có nghiên cứu đến đâu cũng không thể nào giải thích được.
Theo luật nhân quả thì hai người này từ một nhân sinh ra nhưng hai người có sự sai khác trong phước báu hữu lậu. Một người có phước báo hữu lậu làm vua nên tiền bạc giàu có, uy quyền đầy đủ, có nhiều kẻ hầu người hạ và binh lính. Còn một người có phước báo hữu lậu nhưng chỉ làm ông chủ nhà hàng giàu sang, nhưng không có uy quyền, không có lính hầu người hạ như nhà vua. Do phước báo hữu lậu có sai khác nên ông chủ nhà hàng chết không cùng giờ và chết được an ổn, trong êm ái hơn, còn nhà vua bị bắn chết, chết trong hỗn loạn, trong thương đau ghê rợn, máu đổ thịt rơi.
Xét qua nhân quả phước báu hữu lậu của hai người mà chúng ta xác định đây là một nhân sinh ra một quả hai người. Đó là nhân Tâm Nguyện và Sở Thích bố thí giúp đỡ người nghèo bất hạnh của hai người trong tiền kiếp giống nhau như hai giọt nước cho nên mới có sự trùng hợp như vậy, nhưng lại có sự sai khác nhau trong giờ khắc chết. Chết trong an ổn và chết không an ổn. Đó là khi tiếp xúc bố thí với mọi người thì người này trực tiếp mang vật phẩm tặng tận tay cho người nghèo; còn người kia thì sai người khác trao tặng. Chỉ có những hành động sai khác ấy mà nhân quả cũng không giống nhau trọn vẹn.
Mọi vật lớn nhỏ trong vũ trụ bao la đều theo quy luật nhân quả không một vật nào thoát ra khỏi quy luật này, chỉ trừ những người tu theo Phật giáo chứng đạt chân lý thì mới thoát ra khỏi quy luật này.
Đây không phải là một sự ngẫu nhiên mà là một sự tương ưng theo quy luật của nhân quả, cho nên không có lý giải theo khoa học được. Muốn hiểu vấn đề trùng hợp này thì chỉ có ở trên góc độ nhân quả trả lời và giải thích những sự việc này mới rõ ràng và cụ thể.
74. LUÂN HỒI
Hỏi: Cái gì luân hồi hay tái sinh?
Đáp: Trả lời ngắn gọn theo thuyết nhà Phật “Nghiệp đi tái sinh luân hồi” nhưng trả lời như vậy quý vị khó hiểu và sẽ hỏi nghiệp là cái gì? Có phải nghiệp là linh hồn, thần thức của người chết hay không? Chúng tôi là những người tu theo Phật giáo thì phải trả lời đúng nghĩa của Phật giáo. Đức Phật dạy: “Con người thừa tự nghiệp”. Vậy nghiệp là gì?
Nghiệp tiếng phạn là Karma có nghĩa là những việc làm hằng ngày của một con người do thân, miệng, ý tạo tác thiện hay ác. Từ hành động tạo tác thiện ác đó mà con người cảm thụ được hạnh phúc an vui hay phiền não đau khổ. Sự cảm thụ được hạnh phúc an vui hay phiền não đau khổ, đó gọi là Nghiệp nhân.
Nghiệp nhân được huân tập hằng ngày nghĩa là mỗi ngày được tăng thêm sự phiền não đau khổ hay hạnh phúc an vui. Sự phiền não đau khổ hay hạnh phúc an vui được tăng lên thì gọi là Nghiệp lực. Nghiệp lực có một sức hút rất mạnh. Ví dụ: Khi vừa nghe người khác mạt sát nói xấu mình tức thì nghiệp sân của mình phát khởi rất nhanh. Sự phát khởi rất nhanh của tâm sân gọi là nghiệp lực còn gọi là sức hút của nghiệp sân. Sức hút của nghiệp sân gọi là từ trường, nó cũng giống như từ trường của nam châm. Có sức hút của từ trường nam châm thì phải có cục nam châm và thanh sắt. Có sức hút của nghiệp thì phải có sáu dục và sáu trần.
Sáu dục gồm có: 1- Nhãn thức dục; 2- Nhĩ thức dục; 3- Tỷ thức dục; 4- Thiệt thức dục; 5- Thân thức dục; 6- Ý thức dục
Sáu trần gồm có: 1- Sắc trần; 2- Thinh trần; 3- Hương trần; 4- Vị trần; 5- Xúc trần; 6- Pháp trần
Sáu dục tiếp xúc sáu trần làm tăng trưởng tâm tham, sân, si, mạn, nghi. Do tăng trưởng tâm tham, sân, si, mạn, nghi mà sinh ra nghiệp lực. Nghiệp lực còn gọi là sức hút của nghiệp hay gọi là sức từ trường của nghiệp. Sức hút từ trường của nghiệp tương ưng với tâm tham, sân, si, mạn, nghi của người và loài động vật khác mà sinh ra nên gọi tắt là Nghiệp đi luân hồi. Vì không rõ chỗ này nên kinh sách phát triển và kinh sách của các tôn giáo khác cùng mọi người còn trong trí hữu hạn nên dựng lên một linh hồn, một thần thức đi tái sinh luân hồi, chứ không ngờ rằng trong thân ngũ uẩn không có linh hồn, không có thần thức.
Khi người chết là năm uẩn tan rã sạch không còn một uẩn nào cả, chỉ còn nghiệp lực thiện ác mà thôi. Đây là câu trả lời đúng theo nghĩa của Phật giáo “Nghiệp đi luân hồi.” Nhưng mấy ai đã chịu hiểu nghĩa cho rõ ràng và ai là người giải thích cho mọi người hiểu? Chúng tôi cố gắng dùng ngôn ngữ thông thường hiện có để giải thích cho mọi người hiểu. Mong sao sự giải thích của chúng tôi giúp quý vị tiếp thu được phần nào thì đó là phần danh dự và điều ước vọng của chúng tôi. Vì ngôn ngữ để giải thích chỗ này không đủ, xin quý vị cảm thông cho. Cũng trong câu hỏi này qua sự giải thích của một người nào đó khiến cho quý vị hiểu lầm nên lại có một câu hỏi kế tiếp. Vậy chúng tôi xin mạo muội trả lời để quý vị hiểu thêm về quy luật của nhân quả.
75. CÁI GÌ CHỊU HẬU QUẢ THIỆN ÁC NẾU KHÔNG CÓ LINH HỒN?
Hỏi: Kính thưa Thầy, từ trường nghiệp ác đi tái sinh chịu hậu quả, chứ người làm ác đâu có đi tái sinh mà chịu hậu quả. Ví dụ: Một người đi ăn trộm làm giàu sung sướng, còn kẻ vô can mà bị ở tù. Vậy đâu là đạo đức nhân quả? Xin Thầy giải thích cho chúng con được hiểu. Thành thật biết ơn Thầy. (Câu hỏi này chúng con dựa vào sự nghi ngờ của anh HCĐ mà dâng lên thưa hỏi, xin Thầy từ bi thứ lỗi cho).
Đáp: Ở câu hỏi trên đã được giải đáp nghiệp đi tái sinh luân hồi, quý vị đã hiểu biết rõ nghiệp là cái gì rồi. Còn câu hỏi dưới đây có nghĩa là người làm ác mà kẻ khác thọ quả khổ, giống như kẻ ăn mắm người khát nước. Xin quý vị hãy lắng nghe cho kỹ câu trả lời về nhân quả mà từ xưa đến nay người ta hiểu nhân quả quá hời hợt nông cạn. Trước tiên chúng tôi xin nhắc lại nghĩa của nhân quả.
Vậy nhân quả nghĩa là gì? Nếu nói theo nghĩa của thảo mộc thì nhân là cái hạt, còn quả là cái trái; nói theo nghĩa của loài người thì nhân là việc làm; quả là kết quả, là hậu quả. Giải nghĩa như vậy có đúng không quý vị? Một việc làm ác thì hậu quả sẽ chịu lấy quả khổ đau.
Ví dụ 1: Một người ăn trộm lấy của cải tài sản của người khác thì kết quả sẽ bị người ta bắt đánh đập và tù tội. Tương lai người ấy cũng bị trộm cắp tài sản. Đó là nhân quả hiện tại và tương lai ông A làm ông A chịu.
Một người ăn trộm lấy của cải tài sản của người khác khiến cho người mất của cải tài sản khổ đau. Từ trường nghiệp tham lấy của cải tài sản và từ trường nghiệp bị mất của cải tài sản hợp chung lại thành một từ trường tương ưng với người có tâm tham lam và sợ mất của cải hợp duyên sinh ra một người khác để chịu quả báo đau khổ bị người khác lấy của cải tài sản. Đó là nhân quả hiện tại ông A làm mà ông B chịu quả khổ đau.
Ví dụ 2: Một người bắt gà làm thịt, khi hành động cắt cổ gà, con gà đau đớn giãy giụa kêu la nhưng không thoát khỏi bàn tay hung ác của con người, cuối cùng con gà chết để trở thành thực phẩm cho con người.
Hành động cắt cổ con gà là nhân ác; còn con gà bị giết đau đớn giãy giụa kêu la là quả khổ. Hành động cắt cổ con gà là nhân ác, là nghiệp ác. Nghiệp ác ấy tương ưng sinh ra con gà để trả quả báo cắt cổ. Đó là nghiệp ông A làm mà ông B chịu.
Còn con gà bị giết đau đớn giãy giụa kêu la là nghiệp quả khổ. Nghiệp quả khổ tương ưng vào bản thân người cắt cổ gà nên phải chịu quả bệnh tật nơi thân đau nhức nơi cổ họng. Đó là nghiệp ông A làm ông A chịu trong hiện kiếp. Nếu ông A cứ giết gà thì nghiệp quả ác tương ưng vào cận tử nghiệp, khi bỏ thân này ông A phải tái sinh làm nhiều gà, vịt, heo, dê, v.v... để trả quả giết hại. Trong khi đó ông A vẫn còn sống nhưng những hành động ác của ông vẫn tiếp tục đi tái sinh luân hồi làm thân gà, vịt, heo, dê, bò, ngựa để trả nghiệp ác.
Quý vị có thấy nhân quả thảo mộc không? Mặc dù cây cam mẹ còn sống nhưng những cây cam con vẫn đâm cành ra bông trái. Cho nên mọi vật trên thế gian này đều sinh ra từ nhân quả, có vật gì được sinh ra mà ở ngoài nhân quả không? Mọi vật sinh ra đều do duyên hợp tạo thành, mà đã duyên hợp tạo thành thì không thể nào ra khỏi quy luật sinh diệt của nhân quả. Vì thế nhân quả trùng trùng duyên khởi, trùng trùng duyên sanh, trùng trùng duyên diệt. Do đó mọi vật đều phải theo quy luật: thành, trụ, hoại, không của nhân quả. Không có một vật gì thường hằng vĩnh viễn trên hành tinh này.
Cho nên nhân quả thiện ác là một bi hài kịch đang diễn xuất theo quy luật vận hành sinh diệt của vũ trụ, vì không hiểu chúng ta lầm chấp cái ta nên bị luân hồi mãi mãi.
76. NHIẾP TÂM KHÔNG VỌNG TƯỞNG
Hỏi: Hiện nay con đang có một vướng mắc trong tu tập. Đấy là những lúc con ngồi thiền và cảm thấy an lạc, nhưng nhiều lúc lại có vọng tưởng nổi lên trong đầu và không thấy an lạc nữa. Con không biết làm cách nào để dẹp bỏ những vọng tưởng đó. Mong Thầy và các đạo hữu chỉ dạy. Con xin cám ơn!
Đáp: Khi ngồi thiền vắng vọng tưởng con có cảm nhận sự an lạc, đó là con đã rơi vào thiền tưởng. Sự an lạc ấy gọi là xúc tưởng hỷ lạc. Còn khi nào ngồi thiền có vọng tưởng thì an lạc không có. Như vậy con đã tu tập thiền định gì mà không nhiếp và an trú tâm được?
Muốn nhiếp được tâm và an trú thì giới luật phải sống nghiêm chỉnh và còn phải tu tập Định Vô lậu, nhờ có sống đúng giới luật và tu tập Định Vô Lậu thì tâm con sẽ ly dục ly ác pháp, nhờ có ly dục ly ác pháp thì vọng tưởng sẽ không còn.
Tu tập đúng pháp khi ngồi thiền thì nhiếp tâm và an trú tâm một cách dễ dàng, chứ không phải tu tập như con lúc không niệm khởi, lúc có niệm khởi mà không biết làm sao?
Một người tu tập thiền của Phật giáo khi nào có Định Như Ý Túc thì mới nhập được các thiền định, còn chưa có Định Như Ý Túc thì nói tu tập thiền định là nói đến định tưởng. Định tưởng là một loại thiền định của ngoại đạo nên không có phương pháp dẫn tâm nhập định mà chỉ ức chế tâm cho hết vọng tưởng bằng những phương pháp tập trung tâm như sổ tức, tùy tức, niệm Phật, tham công án, tham thoại đầu, phòng xẹp Minh Sát Tuệ v.v... Tu tập những pháp này bị căng mặt, nhức đầu, bị rối loạn thần kinh, tẩu hỏa nhập ma, con người tâm ý ngơ ngơ ngác ngác không còn bình thường, luôn sống đặc dị, điên thì chưa điên mà tỉnh thì không tỉnh.
Khi tu tập thiền định thì các con nên chọn một vị thầy giới luật sống nghiêm túc và đã nhập các Thánh định, thực hiện Tam Minh xong. Còn những thầy giới luật sống chưa nghiêm túc và chưa nhập các Thánh định, chưa thực hiện Tam Minh xong mà tu thiền định với họ thì rất nguy hiểm đến sinh mạng của các con. Cần phải lưu ý và cảnh giác.
77. NGHIỆP
Hỏi: Nghiệp là cái gì? Nếu nghiệp là kết quả của hành động không phải là một chủ thể thì làm sao nó lại tái sinh luân hồi được?
Đáp: Nghiệp là do các hành động vô minh của các duyên hợp và các duyên tan trong môi trường sống tạo thành. Các hành duyên hợp và các duyên tan trong môi trường nó là chủ thể tạo tác ra nghiệp. Nhưng các hành duyên hợp và các duyên tan trong môi trương sống là pháp vô thường. Còn nghiệp là những từ trường do những hành động thiện ác của các duyên hợp và các duyên tan trong môi trường sống tương ưng với những hành động vô minh thiện ác của môi trường sống mà tiếp tục tái sanh luân hồi nên gọi là duyên hợp. Thân tâm con người là hành một duyên hợp và cũng là một hành duyên tan của môi trường sống, cho nên nó là các pháp vô thường. Nó là các pháp vô thường nên không đi tái sanh luân hồi mà do các hành động thiện ác của nó phóng xuất ra những từ trường nghiệp thiện ác mà kinh sách Phật gọi tắt là Nghiệp. Nghiệp ấy tương ưng với mọi người nên mới có tái sinh luân hồi, chứ không phải tâm con người đi tái sanh, vì tâm con người là pháp vô thường như trên đã nói. Pháp vô thường không thể đi tái sinh được.
78. NGHIỆP LÀNH CỦA PHẬT
Hỏi: Nếu còn nghiệp thì còn tái sanh. Vậy nghiệp lành của Đức Phật vẫn đang phủ khắp thế giới này, sao nói Người đã thoát khỏi luân hồi sinh tử?
Đáp: Nghiệp lành của Phật là vô nghiệp (vô lậu), nên Đức Phật đã thoát ra khỏi luân hồi tái sinh.
Nghiệp chia làm 3 loại: 1- Nghiệp ác hữu lậu; 2- Nghiệp thiện hữu lậu; 3- Nghiệp thiện vô lậu.
Người ở đời thường sống tạo tác ra hai nghiệp: một là nghiệp thiện, hai là nghiệp ác. Những nghiệp này đều là hữu lậu. Riêng đời sống những đệ tử của Đức Phật thường ngăn ác diệt ác và diệt thiện pháp hữu lậu để luôn luôn sống trong thiện pháp vô lậu, vì thế từ trường vô lậu không tương ưng với từ trường hữu lậu của môi trường sống thế gian nên chấm dứt tái sanh luân hồi. Cho nên từ trường vô lậu của Phật đang phủ trùm khắp thế giới nhưng nó không tái sinh luân hồi, vì không tương ưng.
79. NGHIỆP LÀM SAO CHUI VÀO BÀO THAI?
Hỏi: Một đứa bé khi mới thành hình, đâu đã làm được gì, đâu đã tạo nghiệp, sao nói nó bị nghiệp dẫn, thế cái nghiệp đó ở đâu ra, làm sao chui vào bào thai được?
Đáp: Một đứa bé khi mới hình thành thì đó là hình thành thân ngũ uẩn của đứa bé trong bào thai. Hình thành thân ngũ uẩn của đứa bé trong bào thai là nghiệp (thân nghiệp). Thân nghiệp này đứa bé co tay duỗi chân làm theo các hành động vô minh khi cơ thể lớn dần trong bào thai nên chật chội khó chịu, vì khó chịu nên co tay duỗi chân khiến cho bà mẹ bị đau. Những hành động đó gọi là nghiệp thọ khổ (khổ mẹ, khổ con). Cho nên bảo rằng đứa bé mới thành hình đâu làm được gì, đâu đã tạo nghiệp, sao nói nó bị nghiệp dẫn…?
Hành động co tay duỗi chân của bào thai không phải là nghiệp sao? Thân của đứa bé là nghiệp, còn bảo cái nghiệp đó ở đâu thì cũng giống như một ông già lẫn lộn, đang ở trong nhà mà hỏi nhà bác đâu?
Nghiệp không có chui vào bào thai mà nghiệp tương ưng với nghiệp cha mẹ của cái bào thai. Nghiệp tương ưng với cha mẹ của cái bào thai nên mới có bào thai. Vì tương ưng nên mới duyên hợp mà thành bào thai. Ở đây không có vật gì chui vào bào thai cả mà chỉ có tương ưng duyên hợp mà thành nghiệp mới (đứa bé).
Kính thưa quý phật tử! Chúng tôi cố gắng diễn đạt để quý vị hiểu một chút về sự tương ưng duyên hợp của nhân quả trong môi trường sống trên hành tinh này. Xin quý phật tử hãy đọc đạo đức nhân bản – nhân quả thì rõ.
Thăm và chúc quý phật tử vui mạnh, nhớ xả cho thật tốt.
80. HỒI HƯỚNG
Hỏi: Kính thưa Thầy, hết mỗi giờ tu con hồi hướng cầu siêu, cầu an và phát nguyện như vậy có đúng không thưa Thầy? Trong kinh sách Đại Thừa dạy mỗi khi ăn cơm xong cũng như ngồi tu thiền hoặc niệm Phật, tụng kinh v.v... đến khi xả ra đều hồi hướng cho tất cả chúng sanh được sanh về Tịnh Độ, chúng con đã từng quen hồi hướng như vậy có đúng không xin Thầy chỉ bảo cho chúng con được rõ?
Đáp: Tâm con còn phàm phu, tham, sân, si, mạn, nghi còn ngăn che, thương, ghét, giận, hờn, phiền não, v.v... còn rất nhiều sự đau khổ, gặp duyên còn chướng ngại, chính hiện giờ con đang chung sống với chị em, thế mà con còn không tùy thuận được để mọi người vui vẻ với nhau. Tâm con chưa thanh tịnh, chưa trong sạch, còn ô nhiễm quá nhiều, vậy con hồi hướng cầu siêu, cầu an cho người khác với tâm như vậy thì phỏng có ích lợi gì được cho ai? Hay chỉ là một hình thức suông. Sự hồi hướng như vậy chẳng ích lợi gì cho con mà cũng chẳng ích lợi gì cho người khác, chỉ nói lên sự không thành thật, sự dối trá của con mà thôi.
Con đang tu tập, tâm con chưa thanh tịnh mà con muốn hồi hướng cho người khác thì hồi hướng tâm nào? Tâm xấu hay tâm tốt, tâm tốt thì con chưa có, còn đang tu tập, còn tâm xấu thì không lẽ hồi hướng cho họ sao?
Tâm con chưa thanh tịnh, còn quá nhiều khổ đau mà hồi hướng cho người thì hóa ra con hồi hướng sự bất tịnh, uế nhiễm, sự khổ đau cho người khác, như vậy có đúng không?
Người tu sĩ đạo Phật làm thật, nói thật, nghĩ thật, cớ đâu lại làm giả, nói giả, nghĩ giả. Con đừng nghe theo kinh sách phát triển, những gì kinh sách phát triển đều dạy chúng ta làm những hình thức từ bi, bác ái bên ngoài, đó là làm giả, nghĩ giả, nói giả để lừa đảo, lường gạt người thiếu hiểu biết nên lầm tưởng làm như vậy là trải tâm từ bi vô lượng, vô biên thương xót khắp cùng chúng sanh, để tỏ ra mình là Bồ Tát Thừa độ nhiều người, đó là một điều đi ngược lại và phỉ nhổ vào Phật giáo Nguyên Thủy. Ý đồ của kinh sách phát triển là dìm Phật giáo Nguyên Thủy xuống cho là ngoại đạo Tiểu Thừa (xe nhỏ) ích kỷ, nhỏ hẹp chỉ chở một mình, không độ ai hết, không làm từ thiện, không thương xót ai cả, không dạy người tu hành chỉ lo tu cho mình.
Chủ trương của Phật giáo Nguyên Thủy là khi tu xong mới độ người, còn chưa tu xong thì không dám độ ai. Vì độ như vậy là tự giết mình mà còn giết người khác. Bằng chứng hiển nhiên hiện giờ các nhà kinh sách phát triển đã giết mình mà còn giết nhiều người khác nữa, không những giết một đời người mà còn giết nhiều thế hệ con người. Bởi sự lừa đảo của kinh sách phát triển tự dối mình, dối người bằng những ngôn ngữ lặp đi lặp lại của lời người xưa, để rồi chịu chết trong sự đau khổ từ kiếp này sang kiếp khác, không có làm chủ được sanh, già, bệnh, chết.
Sự hồi hướng của kinh sách phát triển dạy là sự dối trá. Để kết thúc câu trả lời này, con hãy đọc lại bài kinh Ước Nguyện của Phật đã dạy trong kinh Trung Bộ: “Khi nào chúng ta giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh thì sẽ hồi hướng cho mình, cũng như cho người khác sẽ có kết quả tốt đẹp.” Đó chính là hồi hướng tâm thanh tịnh tốt của chúng ta đến mọi người, còn giới luật chưa nghiêm chỉnh thì xin đừng hồi hướng cho ai hết.
Mười bảy điều ước nguyện trong kinh Sa Môn Quả thuộc Trường Bộ kinh đã dạy, nếu sống đúng giới luật đừng vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào thì ước nguyện cho mình cho người đều có hiệu quả.
81. TIÊU CỰC
Hỏi: Kính thưa Thầy, con muốn giữ hạnh đi khất thực ngày một bữa nhưng thân con bịnh thấp khớp, tâm con còn yếu chưa xả ly ghét bỏ được thân này, vì vậy con cần phải có thời gian nhàn rỗi thư giãn, tu tập sức tỉnh thức, gạn lọc lậu hoặc, diệt ngã, xả tâm cho tốt và pháp hướng phải có hiệu quả, ngược lại ra ngoài lao động nhiều, mệt mỏi tu tập rất khó, sức tỉnh thức mất dần, pháp hướng tâm không được hiệu quả. Con thích tu hơn, dù miếng ăn có cực đơn điệu mà tâm thanh thản hơn là ăn ngon mà bị bất an, khó tu.
Kính tthưa Thầy, những ý kiến trên đây của con có đúng không? Xin Thầy mở lòng từ bi chỉ dạy chỗ sai quấy để con sớm diệt trừ, phát huy cái tốt, cái cần cho sự tu tập ở ngày nay cũng như ngày mai. Con xin thành kính tri ân.
Đáp: Hạnh đi xin ăn là đức hạnh cao quý và giải thoát nhất của vị tu sĩ đạo Phật, là Chánh Nghiệp của bậc thánh Tăng, chứ không phải những loại người đi xin ăn thường tình (xin tiền), nó có nhiều ý nghĩa trong đường tu tập giải thoát của đạo Phật. Nhờ đức hạnh đi xin này mà kết quả xả tâm ly dục, ly ác pháp rất dễ dàng, cụ thể và rõ ràng. Đi xin ăn ngày một bữa, không xin tiền xin bạc, chỉ xin thực phẩm vừa đủ ăn trong một bữa, đó là thánh hạnh của bậc chơn tu Phật giáo, chứ người thường tình thế gian không thể sống như vậy được. Hạnh đi xin ăn có nhiều ý nghĩa của cuộc sống giải thoát như:
1- Giải thoát được thân tâm, không bận tâm lo đời sống ăn uống hằng ngày như: nấu nướng, trồng trỉa, gặt hái v.v...
2- Gieo duyên lành với chúng sanh, hay nói cách khác là tạo mối liên hệ để dẫn dắt chúng sanh tu hành giải thoát sau này, gọi là hóa duyên độ chúng sanh.
3- Diệt ngã xả tâm, ly dục ly ác pháp.
4- Lập hạnh nhẫn nhục.
5- Lập hạnh tùy thuận.
6- Lập hạnh xả vật chất.
7- Lập hạnh giải thoát tâm phóng khoáng như hư không.
8- Lập hạnh phòng hộ sáu căn.
9- Lập hạnh thiểu dục tri túc.
10- Cuộc sống trầm lặng và đơn giản giữa mọi người.
Đó là 10 điều lợi ích của đức hạnh đi khất thực, nó vừa trực tiếp với các đối tượng nhưng lại ngầm bên trong tâm gián tiếp lập đức hạnh thánh Tăng của một người tu sĩ đạo Phật có một đời sống bằng những hành động sống thật sự đạo hạnh của người tu sĩ chân chánh.
Theo như mọi người tu thiền định hiện giờ, họ tự nghĩ: phải sống nhập thất suốt ngày này qua ngày khác, không làm việc gì cả, chỉ có chuyên ròng tu tập mà thôi. Với ý nghĩ này không đúng với tinh thần buông xả của đạo Phật. Tại sao vậy? Tại vì ở trong thất tu tập như vậy tức là ức chế tâm, trái ngược lại đạo Phật là đạo xả tâm (ly dục ly ác pháp) nên hạnh đi khất thực là một hành động tu trực tiếp đối với các pháp để xả tâm của mình, trừ trường hợp lúc nhập định mà thôi.
Thời Đức Phật còn tại thế, các vị tỳ-kheo phải đi khất thực vào buổi sáng trước giờ ngọ, ngay cả những người già yếu cũng phải đi xin ăn, chính như Đức Phật đã già tám mươi tuổi mà vẫn còn đi xin ăn hằng ngày như những vị tỳ-kheo khác.
Đi khất thực vào buổi sáng có tu tập được gì không? Có mất thời gian tu tập không? Lấy thời gian buổi sáng đi khất thực là phải nói rằng: chính buổi sáng là thời gian tu tập nhiều nhất, nhất là giao tiếp với các pháp, người tu sĩ nhờ có các đối tượng để tu tập xả tâm như:
2- Giữ tâm trong chánh niệm tỉnh giác (thân hành niệm nội ngoại), hơi thở hoặc bước đi.
3- Trải tâm từ trên bước đi, tránh dậm đạp chúng sanh (Tứ Vô Lượng Tâm từ, bi, hỷ, xả).
Trong một ngày một đêm tu tập có ba thời tu trong cảnh tịnh (chiều, tối, khuya) còn thời gian buổi sáng tu trong cảnh động phòng hộ và xả tâm trong các đối tượng. Chiều, tối, khuya tu rất dễ, chỉ có buổi sáng tu rất khó. Ba thời tu “tỉnh thức”, một thời tu “chánh niệm.” Nhờ có chánh niệm mới diệt ngã xả tâm, ly dục ly ác pháp.
Bởi vậy, cố tránh ngoại cảnh để tu tức là trốn tâm mình, trốn tâm mình khó mà thực hiện được chánh niệm, chánh niệm không thực hiện được thì tâm không bao giờ xả, mà tâm không xả được thì làm sao ly dục ly ác pháp được, mà không ly dục ly ác pháp được thì làm sao nhập được Bất Động Tâm và nhập được Sơ Thiền, nhập Bất Động Tâm chẳng được thì làm sao nhập Sơ Thiền được. Nhập Bất Động Tâm chẳng được thì dù có tu ngàn kiếp cũng chẳng làm chủ được sanh tử luân hồi.
Hiện giờ, trong đất nước chúng ta không thể thực hiện hạnh đi khất thực được vì những bậc thầy Tổ đã chịu nhiều ảnh hưởng giáo lý kinh sách phát triển Bà La Môn nên đã bỏ hạnh đi khất thực từ lâu. Tu như các thầy theo kinh sách phát triển, giới luật không nghiêm chỉnh, đức hạnh không có, ai mà cúng dường, do đó chỉ còn cách đi tụng niệm, cúng bái làm ma chay, làm những điều mê tín để mà sống. Vì thế, trong chùa phải tự tổ chức nấu ăn như người thế tục và ăn ngày ba bữa, do ăn uống nhiều quá, nên phải tổ chức lao động cày cấy, trồng trọt như tổ Bách Trượng đã dạy: “nhất nhựt bất tác, nhất nhựt bất thực” (có nghĩa là một ngày không làm là một ngày không ăn).
Đó là những chùa ở nông thôn. Còn những chùa ở thành thị không có cày cấy trồng trọt được nên phải tổ chức lễ lộc cúng bái làm những điều mê tín dị đoan để lừa đảo tín đồ nhẹ dạ, lạc hậu, phần nhiều là phái nữ, lấy nghề cúng bái, tụng niệm hoặc đi thuyết giảng lung tung mà mình tu hành chẳng được những gì, chỉ toàn vọng ngữ hoặc đi hành hương chùa này, chùa khác để kiếm lời trong mỗi chuyến đi để làm sự sống. Sự sống của tu sĩ Phật giáo hiện giờ là một sự trao đổi bằng cách buôn Phật bán pháp và khéo lừa đảo bằng sự mê tín không chơn chánh, phi đạo đức.
Thời đại hiện giờ, nếu muốn giữ được Chánh Nghiệp của Phật giáo thì phải khéo léo tổ chức nhờ các cư sĩ có nhiệt tâm với Phật giáo để trợ duyên trong giai đoạn đầu cúng dường sớt bát, giải quyết về đời sống của tu sĩ để họ còn giữ gìn hạnh đi xin ăn. Chính nhờ đó mới thực hiện được đời sống giải thoát, có thực hiện được như vậy thì tâm họ mới ly dục ly ác pháp. Còn ngược lại, không giữ được hạnh đi xin thì lần lượt sẽ phạm và phá các giới luật, vì vậy phạm hạnh của người tu sĩ không còn nữa.
Đồng thời vừa đi xin ăn cũng vừa phải tổ chức cho tu sĩ mỗi ngày có năm mười phút lao tác nhẹ như quét dọn vệ sinh chung quanh thất hoặc giảng đường, để họ vừa tu trong hành động lao tác và cũng để cho chung đụng với các đối tượng bên ngoài. Đó là thực hiện các pháp phòng hộ tâm, tức là cách thức sống trầm lặng độc cư, nhẫn nhục, tùy thuận và buông xả v.v... Nhờ có những buổi lao tác này, tu sĩ mới thực hiện chánh niệm, xả tâm ly dục ly ác pháp. Chính vì những lối tu như vậy, người tu sĩ mới thấy được sự giải thoát của đạo Phật trong cuộc sống rất cụ thể và rõ ràng.
Nếu không có những buổi lao tác vệ sinh chung như vậy và không có các đối tượng để tu tập chánh niệm xả tâm mà cứ an nhiên ở trong thất tu tập thiền định thì bị ức chế tâm. Và vì vậy dù có tu tập suốt ngàn đời muôn kiếp cũng chẳng nhập được thiền định gì cả. Nếu cứ ở trong thất mà tu tập thiền định để được nhất tâm bất loạn thì đó là những loại thiền ức chế tâm, không phải thiền xả tâm. Tu như vậy thì chẳng bao giờ làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi, đó chỉ là hình thức tu thiền để lừa đảo người khác mà thôi chứ chẳng có ích lợi gì, phải nói rõ hơn, đó là một trò lừa bịp bằng thần thông tưởng.
Mục đích và đường lối tu tập của đạo Phật là diệt ngã xả tâm, ly dục ly ác pháp, cho nên những pháp tu tập đều nhắm vào ngăn ác diệt ác, sanh khởi thiện tăng trưởng thiện pháp, khiến cho tâm được an vui và thanh thản hoàn toàn, đó là tâm thanh tịnh, tâm giải thoát, tâm không còn tham, sân, si, mạn, nghi che mờ nữa và không còn có thất kiết sử trói buộc, đó là tâm bất động của đạo giải thoát, chính đó mới là thiền định của đạo Phật.
Nếu con không hiểu được vậy mà cứ ở trong thất tu tập tỉnh thức trong cảnh tịnh thì tỉnh thức kia chỉ là tỉnh thức tưởng sẽ rơi vào trạng thái tĩnh lặng tưởng. Như vậy không thể nào giải thoát tâm con được mà còn có thể đưa con đến con đường tà thiền tà định như các thầy Tổ của chúng ta đã bị lạc đường theo giáo pháp kinh sách phát triển từ xưa đến nay.
Con phải tỉnh thức ngay trong các đối tượng, thường sống chánh niệm để tâm con ly xả, từ bỏ và viễn ly các ác pháp. Có như vậy, sự tu tập của con mới thực tế và cụ thể giải thoát, đừng lầm lạc vào giáo pháp phát triển. Vì giáo pháp của kinh sách phát triển chỉ dạy cách thức tu tập không có pháp hành, thường lý luận suông bằng những danh từ, có khi rất trừu tượng, mơ hồ, viễn vông thiếu thực tế, phi đạo đức, khiến cho người tu tưởng mình đã giải thoát theo ngôn ngữ, nhưng nào ngờ, giải thoát đâu không thấy, chỉ thấy bỏ công lao tu tập đến khi gặp việc gì thì tâm nào cũng còn tật nấy. Rốt cuộc chỉ bị kinh sách phát triển lừa đảo bằng miệng lưỡi với những danh từ triết lý suông.
Lao tác của người tu hành là lao tác trong tu tập, chứ không phải lao tác làm ra của cải (kinh tế), cho nên lao tác mà không có mệt nhọc và không có lo lắng, còn lao tác mệt nhọc và lao tác lo lắng là lao tác làm ra cơm gạo để sống (lao tác kinh tế) nên sự lao tác đó phải có sự tư duy, suy nghĩ kỹ lưỡng. Do sự lao tác như vậy nên tâm hồn không được thanh thản, an lạc và vô sự.
Lao tác để tu tập chính là nhờ vào sự lao tác hoạt động của thân thể để nương vào hành động đó mà tâm được tỉnh thức nên thường nhớ hướng tâm như lý tác ý, ly dục ly ác pháp, lao tác như vậy gọi là lao tác tu tập để xả tâm; lao tác như vậy là để thư giãn tinh thần; lao tác như vậy là để sống độc cư, trầm lặng; lao tác như vậy là để phòng hộ sáu căn; lao tác như vậy là để tu tập Tứ Vô Lượng Tâm; lao tác như vậy là để tu tập tịnh chỉ ngôn ngữ; lao tác như vậy là để rèn luyện đức nhẫn nhục, tùy thuận và bằng lòng.
Người tu hành theo đạo Phật phải hiểu lý của đạo cho rõ ràng, biết mục đích của đạo phải cụ thể, không được mơ hồ trừu tượng và còn phải biết cách tu tập cho đúng, phải nương theo mọi cảnh, mọi đối tượng, mọi sự việc xảy ra, phải biết giữ gìn tâm, phòng hộ tâm, mà còn phải biết tu đức hạnh tùy thuận, nhẫn nhục, bằng lòng trước các đối tượng, mọi hoàn cảnh và mọi sự việc đều phòng giữ tâm, xả tâm, diệt tâm, viễn ly và từ khước các ác pháp v.v...
Tu mà còn thích cảnh này, cảnh kia, sống phải như thế này, sống phải như thế kia, ăn như thế này, ăn như thế kia v.v... Thích cảnh tịnh, sợ cảnh động, thích nhập thất ở không, thích ngồi nhiều, thích khổ hạnh, thích giản dị, thích tự do và tự tại theo ý muốn của mình v.v... Đó là cách tu theo lòng ham muốn của mình, tu như vậy là tu tránh né cảnh và các pháp, không bao giờ có sự giải thoát.
Tu là buông xả sự ưa thích, ham muốn trước cảnh, trước pháp, trước mọi cảnh mọi pháp nào tâm chúng ta phải đều buông xả cho được, đó chính là tu tập thiền định của đạo Phật, còn không tu hành đúng như vậy là tu tập tà thiền ngoại đạo.
Con phải nhớ lấy cảnh động và dùng pháp hướng tâm như lý tác ý để giúp tâm con xa lìa ác pháp và lòng ham muốn, nhờ đó tâm được tịnh, đó là giải thoát ngay liền; đó cũng chính là thiền định chơn chánh của đạo Phật, đừng nên tránh né trốn cảnh mà tu, đừng nên lý luận “tâm còn yếu” để rồi tránh cảnh thì tu ngàn kiếp cũng chẳng ra gì! Đừng nghĩ rằng tâm con còn yếu không dám đương đầu với nghịch cảnh, tu như vậy không đúng cách của đạo Phật là hèn nhát con ạ!
Tu là phải nhiệt tâm, gan dạ, kiên trì, phải đầy đủ nghị lực quyết chiến, quyết thắng, phải đem hết sức lực của mình ra chiến đấu đến tận cùng để tâm hồn mới được thanh thản, an lạc và vô sự, chỉ những người có nhiệt tâm, nhiệt huyết muốn ra khỏi cuộc đời đầy đau khổ thì việc tu tập này không còn khó khăn nữa.
Con nên nhớ, người tu sĩ đạo Phật là một dũng tướng như Triệu Tử Long ở trận Đương Dương Trường Bản, có như vậy mới chiến thắng được nội tâm.
82. SÁCH ĐẠO ĐỨC
Hỏi: Có nên đưa sách của Thầy cho người khác xem không thưa Thầy?
Đáp: Khi đưa sách của Thầy cho người khác xem thì con nên chọn những người bạn thân, người bạn tốt, người bạn đối xử có tình, có nghĩa. Còn những người bạn nào có tính cố chấp thì không nên đưa. Kinh là lời dạy của Phật, là lời vàng, lời dạy đạo đức làm Người, làm Thánh khiến cho chúng ta có cái nhìn rộng rãi hơn, thấu suốt những lý lẽ mà ta chưa từng hiểu biết, những lời dạy ấy khiến cho ta có được một tâm lòng cởi mở, một tâm hồn phóng khoáng, thoải mái dễ chịu.
Những lời dạy ấy giúp cho ta mở rộng lòng thương yêu đến với sự sống của muôn loài vạn vật trên hành tinh này. Những lời dạy ấy còn giúp cho chúng ta mở rộng lòng tha thứ những tội lỗi của những người khác, khiến cho thân tâm của chúng ta thanh thản, an lạc và vô sự. Nhờ những lời dạy ấy chúng ta mới xây dựng cho mình một nền đạo đức nhân bản - nhân quả sống cao thượng không làm khổ mình khổ người, khổ chúng sanh.
Những lời dạy quý báu như vậy khi ta cần cho một người nào thì phải xét họ có đủ duyên hay chưa? Nếu họ là người có đủ duyên thì họ phải là người thành thật, không nói láo, không nói thêm bớt, không nói xấu người khác, không vu khống, không nịnh bợ a dua, không nói lời hung dữ v.v...
Nếu xét thấy những người như vậy thì nên cho và giúp họ đọc những lời dạy đạo đức của Phật, của Thầy. Ngược lại con không cho những người mà con chưa hiểu, thì sự không cho ấy là không có tội và không phải là ích kỷ. Cho người khác đọc mà người ta xem thường những lời dạy của Phật là không lợi ích cho họ mà còn tạo thêm tội lỗi phỉ báng Phật giáo nữa.
Cho sách đạo đức làm người mà người nhận sách không xứng đáng thì người cho không được phước, còn người nhận thì càng thêm tội lỗi. Cũng ví như người biết luật mà vi phạm luật thì tội nặng, còn người chưa biết pháp luật mà vi phạm luật thì tội nhẹ hơn nhiều.
83. CHÁNH TRỊ
Hỏi: Người ta nói chánh trị không có tôn giáo trong đó nên con rất phân vân, mong Thầy mở rộng lòng từ bi chỉ dạy cho con.
Đáp: Người ta nói chánh trị không có tôn giáo trong đó, vì người ta hiểu về tôn giáo không chính xác, thường cho rằng tất cả tôn giáo đều là thần quyền, mê tín, chứ người ta đâu biết rằng có những tôn giáo không có thần quyền, không mê tín, như đạo Thờ Ông Bà, đạo Nho giáo, đạo Phật giáo Nguyên Thủy. Những tôn giáo ấy là đạo đức của loài người. Vậy chánh trị rất cần những tôn giáo đạo đức ấy.
Chánh trị không tôn giáo đạo đức là chánh trị độc tài. Chánh trị không tôn giáo mê tín là chánh trị sáng suốt. Tôn giáo mê tín là chánh trị độc tài. Tôn giáo không mê tín là chánh trị đạo đức đem lại hạnh phúc cho muôn người. Chánh trị không tôn giáo đạo đức nhân bản là chánh trị què. Tôn giáo không đạo đức nhân bản là tôn giáo mù, tôn giáo mê tín, tôn giáo thần quyền
84. THÔNG MINH
Hỏi: Ăn mặn có nhiều prôtít để thông minh học giỏi, học bài mau thuộc, còn những người ăn chay trí tuệ không phát triển, học hành càng ngày càng sa sút có đúng như vậy không thưa Thầy?
Đáp: Theo luật nhân quả thì người học giỏi là người đã huân học nhiều đời nhiều kiếp, đến đời này họ chỉ đọc sơ qua là đã thuộc làu. Còn những người không thông minh là những người nhiều đời nhiều kíếp trước không huân học nên đời nay học lâu thuộc bài, cho nên học giỏi hay học dở không phải chỗ ăn mặn hay ăn chay. Có người ăn mặn học giỏi nhưng cũng có người ăn chay học giỏi. Thầy ăn chay từ lúc tám tuổi, thế mà học hành thì không thua ai, còn tu hành thì ai hơn được. Cho nên sự thông minh không phải ăn chay, ăn mặn mà chỗ do siêng năng học tập nhiều đời nhiều kiếp.
85. CHÁNH TRI KIẾN
Hỏi: Kính thưa Thầy! Sau khi con đọc bài Đạo Đế trong Đặc San Kỷ Niệm Ngày Sinh Nhật Thầy, con có một vài điều thắc mắc về những bài học trong lớp Chánh Kiến như: Tứ Bất Hoại Tịnh và nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn... Tại sao lại niệm Phật, niệm Pháp, Niệm Tăng và Niệm Giới trên lớp Chánh Kiến? Tu học như vậy có giống như Đại Thừa không? Khi người mới vào tu thì Đại Thừa dạy: niệm Phật là niệm danh hiệu Đức Phật, niệm pháp là tụng kinh, niệm Tăng là cúng dường trai tăng và niệm giới là tụng giới vào ngày rằm và ngày 30 mỗi tháng. Thưa Thầy lớp Chánh Kiến tu học mà Thầy đã giảng dạy như vậy thì cũng giống như bên Đại Thừa, xin Thầy chỉ dạy cho con được rõ. Còn nhãn căn, nhĩ căn và tỷ căn phải tu học như thế nào trong lớp Chánh Kiến?
Đáp: Nguyên nhân có bài giảng về “Đạo Đế” trong Đặc San Mừng Ngày Sinh Nhật Thầy do phật tử Bảo Châu - Thanh Trí xin Thầy chỉnh lại bài Tứ Diệu Đế, nhưng Thầy thấy trong bài kinh Tứ Diệu Đế quý sư thầy đã giảng sai quá nhiều, nhất là Đạo Đế. Từ xưa các nhà học giả tu hành chưa chứng đạo nên đã giảng dạy Tứ Diệu Đế sai nghĩa, lệch ý không đúng chánh pháp của Phật.
Đạo Đế là một mô hình giáo dục đào tạo đạo đức nhân bản - nhân quả của Đức Phật (Kinh Sa Môn Quả) nhằm để hướng dẫn bốn giới đệ tử của mình tu học trở thành những bậc Thánh A-la-hán. Vì thế nó đã phân ra ba cấp và tám lớp tu học rất rõ ràng giống như chương trình giáo dục văn hóa của các quốc gia trên thế giới.
Thầy đã dự định chương trình soạn thảo giáo trình tu học cho ba cấp và tám lớp học này, nhưng phải lần lượt không thể ngay bây giờ được, vì hiện giờ Thầy còn đang soạn thảo bộ Giới Đức Thánh Tăng, Thánh Ni trên một ngàn trang giấy và còn tiếp đến bộ sách Đạo Đức Nhân Bản - Nhân Quả trên 10 tập, mỗi tập trên 300 trang giấy. Với việc làm quá nhiều ngoài sức tưởng tượng của con người. Cho nên, khi Bảo Châu – Thanh Trí nhờ Thầy chỉnh lại Tứ Diệu Đế thì Thầy viết bài Đại Cương Về Đạo Đế để mọi người nhận xét và thấy rõ chương trình giáo dục đào tạo bậc A-la-hán của Phật giáo rất rõ ràng cụ thể, chứ không như kinh sách Đại Thừa của các Tổ biên soạn một cách mù mờ với lộ trình tu hành mơ hồ, ảo tưởng đầy hoang đường và mê tín.
Bài Đạo Đế này khi đến tay quý phật tử cũng như các bậc tôn túc Hoà Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức, Tăng, Ni cùng với các cư sĩ bốn phương sẽ làm đảo lộn sự hiểu biết xưa nay của các vị, nhưng đây là một sự thật, là một chân lý. Không lẽ một chân lý của Phật giáo mà hiểu một cách lầm lạc như các nhà Đại Thừa vậy sao?
Bài giảng ấy tuy ngắn nhưng nó là một cú “sốc” mạnh làm đảo lộn và đau đầu cho các nhà học giả và cảnh cáo cho các vị ấy phải tu tập cho đến nơi đến chốn, chứ đừng trên chữ nghĩa kinh sách mà thuyết giảng không có một chút kinh nghiệm bản thân tu hành nào. Thành ra, các vị ấy trở thành người vọng ngữ, tội lỗi rất lớn, chẳng ích lợi gì cho ai mà còn tai hại cho Phật giáo và cho các thế hệ tuổi trẻ sau này.
Cho nên, khi đọc bài Đạo Đế, không riêng Thu Phương lấy làm lạ mà còn có nhiều người lại hỏi chúng tôi: Vậy, kinh sách Nguyên Thủy Phật dạy: “Tứ Bất Hoại Tịnh”, Tứ Bất Hoại Tịnh không phải là pháp môn niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới sao?
Kính thưa quý phật tử! Đức Phật dạy:
1- Niệm Phật, là sống như Phật, chứ không phải niệm danh hiệu Phật. (Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật).
2- Niệm Pháp, là sống đúng như pháp, tu tập đúng như pháp, chứ không phải tụng kinh.
3- Niệm Tăng, là sống hòa hợp như chúng Tăng, không chống trái nhau, chứ không phải trai tăng cúng dàng, lạy lễ các vị Tăng để cầu phước báu.
4- Niệm Giới, là sống đúng Phạm hạnh, không hề vi phạm giới luật, và không phạm một lỗi nhỏ nhặt nào, chứ không phải hằng tháng vào ngày 30 và ngày rằm cùng nhau tụng giới.
Nghe dạy niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới thì các nhà học giả kiến giải theo chữ nghĩa mà giải thích ra, niệm là đọc lầm thầm trong ý như câu: “Nam Mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni hay Nam Mô Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.” Hay niệm Nam Mô A Di Đà Phật. Niệm như vậy là niệm theo kiểu Đại Thừa không có nghĩa gì cả, không có sự giải thoát gì cả.
Ở đây Đức Phật dạy niệm tức là sự tư duy Phật, Pháp, Tăng và Giới để chúng ta thấu triệt Phật, Pháp, Tăng và Giới hàm nghĩa giải thoát như thế nào, để chúng ta noi theo đó mà thực hiện sống và tu tập đúng như Phật, như Pháp, như chúng Thánh Tăng và như Giới luật đã dạy.
Bài pháp Tứ Bất Hoại Tịnh này được tu học và rèn luyện trên lớp Chánh Kiến. Do tu học trên lớp Chánh Kiến, nên phải dùng nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn mà tu tập.
Có hiểu biết và tu tập như vậy thì mới có giải thoát thật sự, còn niệm danh hiệu Phật, tụng kinh, cúng dàng trai tăng, đảnh lễ chư Tăng và tụng Giới, dù có niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng và niệm Giới như vậy cho đến muôn kiếp ngàn đời thì cũng chẳng có giải thoát được chút nào. Người ta đã lầm, niệm như vậy là để nhất tâm bất loạn, tức là niệm không có vọng niệm xen vào, chỉ duy nhất có câu niệm Phật mà thôi thì sẽ được vãng sanh Tịnh Độ, đó là hiểu theo kiến giải lầm lạc của Tịnh Độ Tông (Thất nhựt nhất tâm bất loạn chuyên trì danh hiệu A Di Đà Phật dữ chư Thánh chúng hiện tại kỳ tiền...).
Còn hiểu theo Thiền Tông, thì nhất tâm bất loạn tức là chẳng niệm thiện niệm ác, chẳng niệm thiện niệm ác thì bản lai diện mục hiện tiền. Bản lai diện mục hiện tiền là Thiền định, là Phật tánh, nhưng tất cả những sự tu tập như vậy đều sai hết quý vị ạ! Chỗ nhất tâm bất loạn của quý vị, sẽ rơi vào thế giới tưởng của tưởng uẩn, nơi đây là mê hồn trận của tà giáo ngoại đạo. Quý vị tu hành cần nên cảnh giác nơi hang hùm nguy hiểm này. Nếu tu tập đến đây, quý vị coi chừng rối lọan thần kinh mà nguy hiểm tánh mạng, biến quý vị trở thành người điên khùng, mất trí v.v...
Đến đây, quý vị đã hiểu sơ sơ về bài học “Tứ bất Hoại Tịnh” của lớp Chánh Kiến. Sau này có dịp các bạn sẽ gặp lại chúng tôi trên những giáo trình tu học của tám lớp học này còn thú vị hơn nhiều. Thân ái chào các bạn, chúc các bạn dồi dào sức khoẻ.
86. BUỒN CHÁN KHI XẢ TÂM KHÔNG ĐƯỢC
Hỏi: Kính bạch Thầy, con đã học, đã biết, nhất là khép mình trong giới luật sao con vẫn phạm, lương tâm con cắn rứt khổ sở vô cùng. Ngày nào giữ đúng con thấy tâm con được yên ổn, thanh thản, an vui. Sự tu hành cũng có nhiều khó khăn, tâm còn yếu con không thể vượt qua được, đôi lúc con cũng chán nản. Thưa Thầy, những lúc này con phải tu như thế nào? Trạch pháp ra sao để tiến bước trên đường tu tập?
Đáp: Còn phạm tức là tỉnh thức chưa đủ, chánh niệm còn yếu, nên cố gắng tu tập Chánh Niệm Tỉnh Giác Định và Định Vô Lậu, siêng năng cần mẫn tập nhiều hơn, thì sẽ khắc phục được không còn phạm (còn phạm tức là còn tu, hết phạm tức là hết tu). Đường lối tu tập của đạo Phật rất cụ thể, tu tới đâu biết tới đó, có kết quả hay không có kết quả. Bởi vì pháp tu xả tâm, xả ít kết quả ít, xả nhiều kết quả nhiều.
Con nên quan sát lại tâm mình, con sẽ thấy có những kết quả rất lớn, đời sống của con bây giờ so với lúc chưa tu thì có khác xa nhiều, tâm con cũng vậy, nhưng chưa rốt ráo. Gặp lúc tâm chán nản, con nên quán sát lại kiếp sống của con người “Con người sanh ra vốn để mà khổ.” Khổ thật, rồi con hướng tâm ám thị “Ta phải thoát ra cảnh khổ này, dù cho xương tan thịt nát, máu trong thân này có khô cạn ta cũng quyết chiến thắng tận cùng để giành sự giải thoát cho mình.”
Đọc đến câu hỏi này, Thầy cảm thông nỗi lòng đau khổ của con: “Đạo cảm ứng giao nan tư nghì.” Xưa, đọc đến câu kinh này Thầy rơi nước mắt. Đạo quá khó khăn không thể nghĩ lường, nên chư Phật đã cảm thông nỗi khắc khoải tu hành của những người đệ tử của mình. Bây giờ Thầy cũng vậy, khi nỗi lòng con trút lên trang giấy để cầu Thầy cứu con thoát ra kiếp trầm luân đau khổ. “Tâm còn yếu ớt, con không thể vượt qua được,” lời nói này khiến Thầy cảm thông, con như người đang chới với giữa dòng sông sắp chết đuối tới nơi. Tiếng kêu cứu của con thét lên: “Thưa Thầy những lúc này, con phải tu như thế nào? Trạch pháp ra sao để tiến bước trên đường tu tập?” Nghe tiếng kêu cứu này Thầy quá bồi hồi, cảm ứng như Thầy đang chới với giữa dòng sông như con vậy.
Thầy là một con người, không phải là một cây đá. Tu hành không có nghĩa là trở thành cây đá, tu hành là dẹp bỏ những tâm ích kỷ, nhỏ mọn để không làm khổ mình khổ người, không thương ghét trong sự đối đãi, chứ không thể nào làm mất tâm từ bi của một tu sĩ Phật giáo. Do đó, sự cảm thông của Thầy không phải đây là lần đầu tiên, mà là của bao nhiêu lần, khi mỗi người đệ tử của Thầy bỏ cuộc ra đi, Thầy biết họ đang chìm dưới dòng sông khổ đau. Lòng Thầy tê tái. Bởi vì, luật nhân quả công bằng và công lý nên quá khắt khe không ai cứu cho ai được cả, chỉ có mỗi người phải tự cứu lấy mình. Xưa, Đức Phật cũng đã từng cảm thông, Ngài xót thương nói lên: “Các con hãy tự thắp đuốc lên mà đi, Ta chỉ là người hướng đạo.”
Cách đây ba, bốn năm Thầy đã trả lời con câu hỏi này ngắn gọn để con có một chiếc phao mà vượt qua, lòng Thầy cũng giao cảm, se thắt và thương xót, đến giờ này con còn bám theo Thầy, nên khi nhuận lại tập sách này, một lần nữa Thầy đã xót xa, thương cảm và nhớ đến những người đệ tử của mình quá dại dột, nhẹ dạ, mềm lòng chạy theo những tà pháp cám dỗ bằng những dục lạc, ăn uống, ngủ nghỉ phi thời, chùa to Phật lớn, đời sống vật chất đầy đủ, tu hành sung sướng như một nhà giàu, sống thì được nuông chìu nâng niu. Còn ở đây thì quá khắt khe trong giới luật ăn, ngủ, độc cư mà còn bị nhiều thử thách nghịch duyên khiến cho tâm các con tan nát. Nếu không tu tập rèn luyện như vậy thì làm sao thấy tâm mình giải thoát. Hoa sen nở trong lò lửa, chứ hoa sen nở nơi bùn lầy nước hôi thúi thì ra gì. Người tu sĩ Phật giáo Nguyên Thủy như hoa sen nở trong lò lửa: “Thắng trăm trận không bằng thắng tâm mình, thắng tâm mình mới là chiến công oanh liệt.”
Thắng tâm mình tức là ly dục ly ác pháp, ly dục ly ác pháp không đơn giản, nó là một cuộc tranh đấu cam go giữa ánh sáng và bóng tối, giữa thiện và ác, giữa tội lỗi và không tội lỗi, giữa đau khổ và không đau khổ, giữa sống và chết, giữa thiên đàng và địa ngục.
Trong cuộc đời này, ai là người đã vượt qua dòng sông nhân quả, dòng sông đau khổ. Tiếng kêu cứu từ tự thâm tâm của con muốn vượt qua dòng sông đau khổ để đến bờ giải thoát, nhưng sóng gió bão bùng quá mạnh, sức con đã kiệt, hơi thở con đã tàn, con không thể vượt qua nổi, như các bạn con họ đã chìm tận đáy sông rồi còn mong gì Thầy cứu được. Hiện giờ, con còn đang lặn hụp chới với, sắp sửa chết đuối dưới dòng sông này nữa. Thầy cũng sẽ mất đi một người học trò, Thầy biết làm sao hơn để cứu con bây giờ, nếu không phải bằng sức lực của chính con thì còn ai hơn nữa. Thầy chỉ còn có chiếc phao cuối cùng, đó là pháp môn “Như Lý Tác Ý”: “Dòng đời là khổ đau, tâm ta hãy như cục đất, phải buông xuống! Buông xuống hết!”
Suốt ngày đêm trong 24 tiếng đồng hồ con thường nhắc tâm như cục đất thì may ra con sẽ đến bờ bên kia. Con hãy nỗ lực và dùng hơi thở cuối cùng để chiến đấu với nội tâm mình.
“Buông xuống đi! Hãy buông xuống đi!
Chớ giữ làm chi có ích gì
Thở ra chẳng lại còn chi nữa
Vạn sự vô thường buông xuống đi!”
Trước kia, hằng tuần Thầy thường gặp các con là niềm an ủi trong khi bước chân của các con còn tập tễnh. Bây giờ, các con cứng cáp vững vàng hơn, Thầy không thể đưa tay dìu dắt cho các con từng bước nữa mà phải buông tay ra để các con tự bước vì sức Thầy đã già yếu, cứ một ngày qua là sức khỏe tàn tạ thêm theo năm tháng không thể dìu dắt như trước nữa, vì cơ thể là một phần vật chất vô thường. Thầy đã dùng nó tu tập khổ hạnh một đời để tìm ra ánh sáng của đạo Phật đã bị dìm mất từ xưa. Khi tìm ra được thì sức lực đã yếu lắm rồi, nhờ nội lực tu tập Thầy đã phục hồi và duy trì cho đến ngày nay Thầy gióng lên tiếng chuông cảnh tỉnh cho mọi người.
“Cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, sống không gia đình, không nhà cửa.” Trời! Lời nói thì đơn giản, sao mà chẳng ai sống được? Bởi vì, người ta còn muốn sống, người ta chưa dám chết, nếu không dám chết một lần thì làm sao sống lại. Tại vì, con chưa dám chết, nên con phải sống, sống trong đau khổ, đau khổ muôn đời.
Con thử nghĩ hiện giờ con đang sống mà như người đã chết thì ai chửi mắng con, con có giận không? Lửa cháy, nước ngập con có sợ hãi không? Nếu tâm con như cục đất tức là con đã chết, cái chết đó là cái sống muôn đời con ạ! Sanh tử luân hồi không còn nữa. Hãy thử chết đi một lần con ạ! Thì con sẽ thấy được cả vũ trụ này không gì mà con không thông suốt.
Thầy lúc nào cũng bên các con, mỗi sự đau khổ của các con, Thầy đều cảm thông và chia sẻ những nỗi nghẹn ngào khi nước mắt của các con tuôn trào, các con có biết chăng? Lúc bây giờ, Thầy đều cảm thông những nỗi thống khổ này, lòng Thầy se thắt, nước mắt Thầy cũng tuôn trào như các con. Hãy ráng vượt qua các con ạ! Đường đi không còn xa nữa, chỉ có phút giây tận lực cuối cùng này mà thôi. Phút giây tử thần: “Sống mà như chết.”
87. NHÂN QUẢ
Hỏi: Kính thưa Thầy! Con có một số điều trăn trở, mong Thầy tháo gỡ giải tỏa cho con. Đạo Phật dựa trên cơ sở nhân quả và luân hồi. Mặc dù con đã đọc các cuốn sách của Thầy viết, nhưng niềm tin trong con nó chưa được lớn, vì vậy sự buông xả còn kém cỏi, sự tu tập còn lười biếng. Con từ nhỏ tới nay vẫn cứ cho rằng: “Con người chỉ sống có một lần, sau khi chết tất cả đều tan hoại,” đó là vì con đã tiếp thu những tư tưởng duy vật biện chứng. Con đã đọc: “Kinh Nhân Quả Ba Đời” nhưng con vẫn thấy nó mơ hồ trừu tượng nên con không tin.
Đáp: Kinh sách Nhân Quả Ba Đời là kinh sách phát triển của Đại Thừa, kinh sách này luận về nhân quả thiếu tính khoa học nên lý luận mơ hồ, không thực tế, có vẻ hoang đường, làm mất tính chất đạo đức nhân bản - nhân quả của luật nhân quả. Người có sự hiểu biết về khoa học và chuộng sự thật thì không thể nào tin nhân quả theo kiểu lý luận mơ hồ, trừu tượng, đầy sự hoang đường mê tín lạc hậu này được.
Đọc kinh sách Đại Thừa phần nhiều là những lý luận mơ hồ trừu tượng, mê tín đẫy đầy, không cuốn kinh nào mà không có. Cho nên, kinh sách phát triển Đại Thừa làm mất lòng tin của mọi người với Phật giáo. Con cũng bị ảnh hưởng đó, chính vì con đã học về triết học duy vật biện chứng nên con không thể tin những điều mơ hồ trừu tượng được. Phải không con?
Muốn biết rõ nhân quả như thật thì chúng ta phải tự hỏi: “Khi người chết cái gì còn lại?
Đức Phật đã xác định điều này rất rõ ràng: “Khi người chết toàn bộ thân ngũ uẩn đều tan rã không còn một vật gì tồn tại.” Vậy, không còn một vật gì tồn tại, sao đạo Phật còn chủ trương thuyết tái sanh luân hồi và như vậy có mâu thuẫn nhau không?
Thưa các bạn! Đạo Phật không mâu thuẫn. Khi con người còn sống hằng ngày luôn luôn hoạt động theo tâm tham, sân, si của mình, do mỗi hành động thân, miệng, ý phóng xuất ra những từ trường thiện hay ác (từ trường là một danh từ vật lý tạm dùng để mọi người dễ hiểu, chứ nghĩa của danh từ “từ trường” chưa đúng hẳn) khắp nơi trong bầu khí quyển. Theo luật nhân quả thì từ trường ấy được gọi là nghiệp. Cho nên, con người chết là mất hết chỉ còn nghiệp (từ trường) thiện ác. Nghiệp thiện ác không phải là linh hồn, thần thức hay Phật tánh.
Hầu hết mọi người có tôn giáo hay không tôn giáo, luôn cả các nhà Đại Thừa hiện đang có mặt trên hành tinh này đều không hiểu lý duyên hợp duyên sinh, do đó tưởng khi người chết còn có linh hồn, thần thức, Phật tánh, tiểu ngã, bản thể v.v... là một vật thường hằng mang theo nghiệp đi tái sanh luân hồi, điều hiểu biết này là ảo tưởng, mê tín, không đúng sự thật, không có tính khoa học, là sai. Sự hiểu biết này Đức Phật gọi “Chấp thường.” Còn có một số người dựa vào duy vật biện chứng, cho con người mất là mất cả, chỉ có một đời này mà thôi. Sự hiểu biết như vậy Đức Phật gọi là “Chấp đoạn.”
Những triết thuyết chấp thường, chấp đoạn là những triết thuyết còn mơ hồ chưa hiểu biết rõ về môi trường sống trên hành tinh này. Môi trường sống trên hành tinh này có nhiều chất liệu, có chất liệu có hình sắc, có chất liệu không hình sắc mà Đức Phật gọi chung là “các duyên.” Cho nên, giáo lý nhà Phật gọi môi trường sống trên hành tinh này là “thế giới duyên hợp.” Có duyện hợp mới sinh ra muôn loài, muôn vật, có duyên hợp mới tạo thành thế giới, không duyên hợp thì không có thế giới. Do thuyết nhân duyên mà đạo Phật đã xác định được con người từ đâu sinh ra và chết đi về đâu rất khoa học mà không có một khoa học hay một triết học nào bắt bẻ được, vì đó là một sự thật, một sự thật do sự tu chứng đã thấy rõ như thấy những chỉ trong lòng bàn tay.
Đạo Phật chấp nhận thuyết tái sanh luân hồi, vì khi con người chết thì mất hết nhưng những nghiệp (từ trường) này không mất, do nghiệp này không mất nên tương ưng với tâm tham, sân, si của người khác hợp đủ duyên tạo thành thai nhi.
Cho nên đạo Phật gọi là “nghiệp tái sanh luân hồi” chứ không gọi “nghiệp đi tái sanh luân hồi.”
Kinh sách Đại Thừa gọi nghiệp đi tái sanh luân hồi là sai. Vì nghiệp là từ trường nên bất cứ nơi đâu trong bầu khí quyển đều có nó, do đó từ trường không đến không đi, chỉ có hợp đúng thời, đúng duyên là tái sinh luân hồi tức khắc.
88. TÂM SẮC DỤC
Hỏi: Pháp “Như Lý Tác Ý” con áp dụng vào cuộc sống thì có kết quả, tuy nhiên vẫn chưa mạnh. Con còn nhiễm sắc dục thế gian, nhất là đối với phụ nữ. Con dù quán bất tịnh nhưng lúc được lúc không. Xin Thầy cho con một lời khuyên.
Đáp: Muốn đối trị tâm sắc dục, con nên đến nghĩa địa, nơi mọi người đang cải táng hài cốt để nhìn xem thi thể người chết, nhất là mùi hôi thối bốc lên, còn nếu không có dịp xem sự cải táng bốc mộ thì con nên đến bệnh viện xin được xem xác người phụ nữ đã chết đang ướp trong phòng lạnh. Chỉ một lần thấy thi thể người chết là về quán thân bất tịnh thì tâm sắc dục của con sẽ bị triệt tiêu.
Thăm và chúc con tu tập xả tâm tốt, sống đúng đạo đức không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh.
Kính thư. Thầy của con.
Hỏi: Kính bạch Thầy, sự suy tư trong việc làm để làm việc không thất bại, đó có phải là trí tuệ hay không? Trí tuệ đó có bằng tri kiến giải thoát trong đạo Phật không? Xin Thầy chỉ dạy cho chúng con được rõ.
Đáp: Sự suy tư trong hành động để làm việc không gặp thất bại, đó là tri kiến thế gian, nó thường mang theo những hành động thiện và ác nên khi biến ra hành động việc làm thường mang theo quả khổ vui của tri kiến đó. Nó không phải là tri kiến giải thoát của đạo Phật, nó là tri kiến dính mắc khổ đau.
Còn tri kiến dùng để quán xét xả tâm diệt ngã, ly dục ly ác pháp, đó là tri kiến dùng để tu tập Định Vô Lậu trong từng tâm niệm, từng hành động việc làm để xả tâm tham ưu, phiền não. Do sự quán xét tư duy này nên tâm được giải thoát an vui, thanh thản và vô sự. Đó là tri kiến giải thoát.
Tu tập trong tâm niệm và việc làm tức là tu tập Thân Hành Niệm, đó là một pháp môn đệ nhất của đạo Phật về việc chánh niệm tỉnh thức, nhưng đây là giai đoạn đầu của pháp Thân Hành Niệm.
Tu tập Định Vô Lậu giúp chúng ta sống trong chánh niệm diệt trừ tà niệm.
Tu tập Định Chánh Niệm Tỉnh Giác là giúp chúng ta tỉnh thức phá trừ si mê hôn ám và thường sống trong thiện pháp. Để xác định một lần nữa về trí tuệ thế gian và trí tuệ giải thoát. Trí tuệ là sự hiểu biết và tư duy đều giống nhau cả. Nhưng sự tư duy suy nghĩ một điều gì mà do lòng ham muốn và nghiệp tham, sân, si thúc đẩy thì đó gọi là trí tuệ thế gian; còn sự tư duy, suy nghĩ đó mà đi ngược lại với lòng ham muốn và nghiệp tham, sân, si thì đó là trí tuệ giải thoát, còn gọi là tri kiến giải thoát.
Do sự phân tích và xác định này thì tri kiến giải thoát không phải ngoài trí tuệ thế gian mà có, không phải do tu tập thiền định mà sanh ra theo kiểu Thiền Đông Độ đã nghĩ tưởng. Ngồi yên lặng không niệm thiện niệm ác, tức là không có vọng tưởng thì trí tuệ phát sanh. Trí tuệ đó không phải là trí tuệ giải thoát mà là tưởng tuệ.
Có một câu chuyện xảy ra trong thế kỷ này, người ta ca ngợi về Thiền Đông Độ một cách huyền thoại:
“Họ nói rằng trong thời chiến tranh Việt Nam có một vị Đại sứ Mỹ C.B.L. khi được Tổng thống Mỹ đưa sang Việt Nam để giải quyết vấn đề Phật giáo năm 1962-1963, thì ông phải đi sang Nhật Bổn học thiền một khoá rồi mới đến Việt Nam giải quyết. Người ta bảo rằng mỗi khi có gặp một vấn đề khó khăn không giải quyết được thì ông tọa thiền khoảng 30 phút là trí tuệ ông phát ra và hôm sau ông giải quyết sự việc một cách tốt đẹp, đó cũng là một trò lừa bịp.”
Khi nghe trong Kinh điển Đức Phật dạy: “Giới sanh định, định sanh tuệ.” Do định sanh tuệ nên người ta lại tưởng ra và hiểu một cách sai lệnh về định, cho rằng: ngồi thiền giữ tâm không vọng tưởng là định và khi ngồi im lặng được không vọng niệm xen vào thì trí tuệ phát sanh, trí tuệ này do định sanh rất thông minh. Người ta chưa biết định là gì nên đã hiểu lầm chữ định sanh tuệ trong nhà Phật.
Chữ định trong nhà Phật là chỉ cho tâm ly dục ly ác pháp, nếu tâm chưa ly dục ly ác pháp thì tri kiến đó là tri kiến thế gian, còn tâm đã ly dục ly ác thì tri kiến ly dục ly ác pháp đó là tri kiến giải thoát. Tri kiến giải thoát tức là định, tức là tâm ly dục ly ác pháp. Tâm ly dục ly ác pháp là tâm thanh tịnh, tâm thanh tịnh tức là tâm bất động, tâm bất động tức là định, định tức là tri kiến giải thoát. Như vậy, Đức Phật gọi định sanh tuệ, chứ không phải ngồi như con cóc không niệm thiện niệm ác rồi mới phát sanh trí tuệ. Đó là một sự hiểu sai lệch, hiểu theo tưởng tri của các nhà học giả xưa và nay.
Hằng ngày, con tu tập diệt ngã xả tâm, ngăn ác diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp là con đã tu tập tri kiến giải thoát. Nhờ tu tập trí tuệ tri kiến giải thoát này tâm con nhuần nhuyễn, bén nhạy, phản ứng tự nhiên, khi gặp các ác pháp khiến tâm con thanh thản và an lạc thì đó gọi là tri kiến giải thoát. Cho nên, một sự tư duy suy nghĩ nào mà khiến cho tâm ly dục ly ác pháp là trí tuệ tri kiến giải thoát của con chứ không phải ngồi thiền mà phóng ra trí tuệ đó được.
Muốn có trí tuệ tri kiến giải thoát thì ngày nào con cũng tu tập quán xét, suy tư để đẩy lùi các chướng ngại pháp trong thân tâm đó là con tu tập rèn luyện trí tuệ tri kiến giải thoát, nó lớn mạnh dần theo sự tu tập của con là con đã khắc phục được tâm tham ưu khổ não của mình, tức là con khắc phục được sanh tử luân hồi.
Những việc tu tập này Đức Phật gọi là thiền định: “Này các thầy tỳ-kheo, đối với các pháp ác bất thiện chưa sanh, khởi lên ý muốn không cho sanh khởi, tinh cần, tinh tấn, quyết tâm, cố gắng,… Đối với các pháp ác, bất thiện đã sanh, khởi lên ý muốn đoạn tận, tinh cần, tinh tấn, quyết tâm, cố gắng,… Đối với các pháp thiện chưa sanh, khởi lên ý muốn làm cho sanh khởi, tinh cần, tinh tấn, quyết tâm, cố gắng,… Đối với pháp thiện đã sanh, khởi lên ý muốn làm cho an trú, không cho vong thất, làm cho tăng trưởng, làm cho quảng đại, tu tập, làm cho viên mãn, tinh cần, tinh tấn, quyết tâm, cố gắng,…”
Trên đây là một bài Kinh trong 37 phẩm trợ đạo mà Đức Phật đã dạy chúng ta tu thiền định thuộc Tăng Chi Bộ Kinh Tập 1, trang 82, bài 14-17, tựa là Thiền Định.
Tóm lại, từ định sanh ra trí tuệ tri kiến giải thoát thì phải ở trong thân hành niệm mà tu tập. Nhờ có tu tập pháp Thân Hành Niệm thì mới đủ năng lực đẩy lùi các ác pháp và nội lực tham dục, sân dục và si dục. Những dục tham, sân, si này rất mạnh, nếu một người tu hành mà không hành pháp Thân Hành Niệm thì chẳng bao giờ có nội lực để đương đầu với nội lực ác pháp tham, sân, si, chúng có một sức mạnh kinh khủng là vì chúng ta đã tập tham, sân, si nhiều đời nhiều kiếp chứ không phải có một đời này.
Thân Hành Niệm là một tên pháp môn chỉ gồm chung nhiều pháp môn tu tập, rèn luyện về trí tuệ tri kiến giải thoát về nội lực bảy Giác Chi, về lệnh Tứ Như Ý Túc.
Do sự suy tư tu tập này chúng ta suy ra mới thấy rõ đường lối tu tập của đạo Phật là chuyển từ tri kiến thế gian để trở thành tri kiến giải thoát. Từ tri kiến giải thoát chuyển thành tâm ly dục ly ác pháp, từ tâm ly dục ly ác pháp chuyển thành tuệ Tam Minh chứ không phải từ sự yên lặng nào mà sanh ra được.
Đạo Phật là đạo trí tuệ, là đạo chuyển hóa tâm phàm phu trở thành tâm Thánh. Vậy các con có muốn mình có trí tuệ tri kiến giải thoát hay không?
Muốn được như vậy không phải dễ đâu! Phải bằng nước mắt, xương và máu của chúng ta, có nghĩa là chúng ta phải chết đi một lần và sống lại. Nếu không có sự quyết tử ấy thì cuộc đời tu hành của chúng ta hoài công vô ích mà thôi. Bởi, tâm Thánh không thể dành cho những kẻ còn ham sống sợ chết, đàng nào rồi các con cũng phải chết, nhưng chết trong đau khổ và mãi mãi khổ đau. Ngược lại, người sống mà như đã chết, thì sẽ sống mãi, sống mãi muôn đời và không còn khổ đau nữa.
90. NĂNG KHIẾU
Hỏi: Kính thưa Thầy, qua gương hạnh đáng kính của cô Út Diệu Quang, theo con nhận xét sự tu tập rèn luyện thân tâm không phải tầm thường. Một người tu đạt kết quả như vậy, họ có sẵn một cái tài hay một năng khiếu, một trí thông minh... nên con đường tu mau kết quả, có phải vậy không thưa Thầy?
Đáp: Sự tu tập nào có được nhanh chóng đều phải nhờ nhiều đời huân tu chớ không phải có sẵn tài trí và năng khiếu. Tài trí và năng khiếu là do sự huân tập nhiều đời mà có. Nếu đời này con không trau dồi, tu tập rèn luyện tài trí và năng khiếu thì đời sau con cũng chẳng có.
Tu tập và xả tâm càng gặp khó khăn, đừng nên chán nản, mà phải quyết tâm khắc phục cho được, xả bỏ cho được, quyết thực hiện cho bằng được thì người đó sẽ trong một đời này thành tựu viên mãn, chỉ có “quyết tâm” là làm nên việc lớn, Đời cũng như Đạo. Trí thông minh và năng khiếu không phải người có, người không, mà tất cả mọi người ai cũng có, nhưng chỉ vì chúng ta không huân tập nên không có mà thôi.
Ví dụ: trong một lớp học có 60 học sinh, nhưng học sinh giỏi thì có năm ba đứa, chúng học rất nhanh và mau thuộc bài, môn học nào chúng cũng xuất sắc. Thật sự số học sinh này rất ít, nghĩa là học sinh giỏi tất cả các bộ môn. Còn số học sinh giỏi từng môn thì nhiều, kẻ giỏi toán, người giỏi văn, người giỏi sinh ngữ v.v... Đó là vì chúng ta đã có học tập trong đời trước nên đời này chúng ta học lại môn đó, tức là ôn lại nên học rất nhanh, làm bài rất giỏi. Còn những người đời trước không học, đời nay mới học nên học lâu thuộc bài, nhiều khi học mãi mà không thuộc.
Lịch sử Việt Nam có nhắc lại ông Lê Quý Đôn, khi ông bố sai mua một cuốn lịch xem ngày, ông đem tiền ra mua giấy và đến cửa hàng bán lịch ông xin cho mượn xem. Xem xong ông trả lại cho hàng sách, về nhà ông chép lại cho bố một cuốn lịch mà không sai một chữ nào.
Bên Trung Hoa đời Tam Quốc, bên Tây Thục sai một người đi sứ qua Bắc Ngụy, tức là Tào Tháo. Tào Tháo viết một cuốn sách lấy tên là Tào Mạnh Đức Kinh đem khoe với vị sứ giả. Vị sứ giả bảo bên nước tôi trẻ con đều thuộc làu kinh sách này. Tào Tháo không tin mới bảo Ông hãy đọc cho Tào Tháo nghe một đoạn, Ông bảo Tào Tháo xin Ngài đưa cho tôi xem có đúng không? Rồi tôi sẽ đọc cho Ngài nghe. Tào Tháo đưa cho Ông đọc, Ông đọc xong trả lại cho Tào Tháo, Ông cả cười nói: “Tôi nói đâu có sai, đúng là trẻ con của nước tôi từng đã đọc sách này.” Ông bắt đầu đọc cho Tào Tháo nghe không sai xót một chữ nào. Tào Tháo tán thán và không bắt tội Ông được.
Trí thông minh như vậy quá tuyệt vời, đọc qua là thuộc làu, thế mà trí thông minh đó dùng vào việc gì, chỉ đi ra làm quan mà không giải quyết sự khổ đau của dân tộc. Trong thời làm quan, các vị này cũng chẳng làm được những gì lợi ích cho dân cho nước nhiều, mà chính sự thông minh đó cũng chẳng giải quyết được gì cho đời sống của các Ông cả, các Ông ấy cũng chỉ khổ đau vì danh, vì lợi như bao nhiêu người khác.
Làm được như Thầy (tức là làm chủ tham, sân, si) không để tâm mình phiền não, khổ đau, giận hờn, thương ghét, ấy là tài năng và trí tuệ. Thông minh cũng như năng khiếu đó mới chính là tài năng, trí tuệ, thông minh của đạo Phật. Còn ngược lại tài năng, trí tuệ, thông minh và năng khiếu mà tự làm khổ mình, khổ người. Đó là tài năng trí tuệ của phàm phu, của người thường trong thế gian.
Bởi vậy, người có tài năng, trí tuệ, thông minh của đạo Phật là sống thanh thản, an lạc không làm khổ mình, khổ người (chỉ có những bậc Thánh A-la-hán mà thôi). Người có được trí tuệ như vậy không phải từ trên trời rơi xuống mà do công huân tu, tu tập của chúng ta nhiều ngày và nhiều đời, cũng như bây giờ con thấy cô Út Diệu Quang có được tri kiến như vậy cũng chính là đời trước cũng phải huân tu rất nhiều. Huân tu mà còn phải có ước nguyện, khi mình cố gắng xả tâm được thì mình làm nghịch hạnh để vừa xả tâm mình, vừa hướng dẫn mọi người đồng được giải thoát khỏi kiếp đời trầm luân khổ đau.
Như các con đã biết cô Diệu Quang chẳng học Kinh sách Phật, chẳng chịu ảnh hưởng của một tôn giáo nào, Cô chỉ có công giúp Thầy tu trong thất bằng cách làm kinh tế, mua gạo và thực phẩm để mẹ Thầy nấu cơm cúng dường Thầy ăn và tu hành. Mục đích của Thầy tu là tìm sự giải thoát, khi nào giải thoát được thì mới dạy người tu, còn đang tu thì nhất định không dạy ai hết, cho nên cô Diệu Quang chỉ biết trợ giúp cho Thầy tu chứ không có tu hành gì cả.
Đến khi Thầy tu xong về trình sự tu hành của mình cho Hòa Thượng Thanh Từ thì cũng năm đó phật tử tìm về kiếm Thầy hỏi pháp, do Hòa Thượng Thanh Từ báo cho phật tử biết chính là Thầy đã tu chứng quả “A-la-hán.” Vị cư sĩ tìm về đây đầu tiên là Ông Chánh Giải ở Châu Đốc. Khi gặp Thầy ông xin Thầy cho phép đảnh lễ vì Hòa Thượng đã cho Ông biết Thầy đã chứng quả A-la-hán.
Từ đó, cô Út Diệu Quang trở thành một người phục vụ cho tu sĩ cũng như phật tử thì còn đâu có thì giờ mà tu tập. Lúc nào rảnh rỗi hoặc nửa đêm Cô mới có thì giờ ngồi tập dừng cái ý, thời gian ấy không lâu chỉ độ 30 phút là cao.
Hoàn cảnh tu sĩ và phật tử là một trở ngại rất lớn cho sự sống yên tĩnh tu hành của cô. Cô bị mọi người khen thì ít mà chê thì nhiều, nhất là tâm phàm phu của thiên hạ. Nhất là dựa theo tâm lý phàm phu của thế tục mà suy diễn về cô Diệu Quang thì những sự suy nghĩ đó sẽ đem lại ác pháp cho người, chứ cô Diệu Quang như thế nào thì cô tự biết, đó là nhân quả của Cô, chứ Thầy không ý kiến gì hết. Thầy chỉ thấy đó là duyên phước chúng sanh chưa đủ phước, và là luật nhân quả đời trước. Từ những sự việc đó xảy ra, tự Cô phải đương đầu với nội tâm của mình, tâm như biển sóng dồn dập, Cô như chiếc thuyền nan trên mặt biển. Cô vừa chiến đấu với nội tâm để xả những u hoài khổ đau của mình vừa phản công những đối tượng bên ngoài (phật tử và tu sĩ).
Phiền não tức Bồ Đề, nhờ các đối tượng ấy Cô đã tìm ra phương pháp xả tâm để cứu mình thoát khổ. Đối với những người đã làm Cô khổ, nhưng có điều là Cô không oán hận những người đó, Cô xem đó như bình thường không có gì cả, và khi những người đó hữu sự, có tai nạn thì Cô sẵn sàng khuyên lơn và giúp đỡ. Cô nói nặng nhẹ người khác bởi vì Cô đang còn trên đường tu tập xả tâm, nhưng lòng yêu thương đối với con người không xa lìa, lúc nào cũng thương yêu mọi người, sẵn sàng giúp đỡ, nhưng sẵn sàng nói nặng, vì hạt giống tham, sân, si vẫn còn, để người ấy xả tâm thật sự hay không. Nếu xả tâm thật sự, thì người ấy sẽ chiến thắng được mình. Vả lại, Cô cũng đang còn trên đường tu tập xả tâm, vẫn còn tham, sân, si, mạn, nghi nên các con hãy lấy Cô làm đối tượng nghịch cảnh để buông xả tâm mình, đừng oán giận Cô.
Khi Cô cố gắng để xả được tâm mình không còn khổ đau, thù hận, xem mọi việc như không, nghĩa là mọi việc không làm Cô bận tâm. Cũng từ đó, tri kiến của Cô phát triển như các con hiện giờ đã thấy. Cô đối đáp giải quyết theo bản năng tự nhiên của đời trước đã huân tu, chứ không phải trong đời nay và trong kinh sách.
Các con đừng hiểu rằng đời trước là một đời kế đây, đời trước ở đây là một đời mà nhiều đời và cũng có thể đồng thời với Đức Phật. Cô là người đã học và tu trong những thời đó. Kiếp này Cô được làm người, nó đã sống lại trong quá khứ xa xưa kia. Vì thế, các con nên nhớ những gì mà các con tu đúng pháp, dù muôn đời nó vẫn không mất, nó sẽ làm sống lại nơi tâm hồn của các con mà các con sẽ gọi nó là tài năng, năng khiếu hay là trí thông minh. Nhưng nếu các con tu sai, nó vẫn sống lại và đưa các con vào biển khổ bằng ảo tưởng như đồng cốt, những người này họ đâu có tu hành trong đời này, nhưng đời trước họ đã tu theo tà đạo, đời này năng khiếu đó nó sống lại, cho nên họ trở thành là những loại đồng cốt, ông lên, bà xuống, bóng chàng v.v...
Những người ở đời này tu Thiền Đông Độ, Thiền xuất hồn, Thiền Yoga và tất cả các loại Thiền tưởng, kiếp sau họ trở thành những thầy cúng, phù thủy, đồng, cốt, thầy bói, thầy bùa, thầy ngải v.v... Nói chung kiếp này tu sai chánh pháp, kiếp sau làm những điều mê tín, tiếp tục lừa đảo người khác, đó là năng khiếu tà giáo ngoại đạo.
Khi chúng ta huân tu thì nó không bao giờ mất, nó sẽ sống lại trong khi chúng ta sanh lên làm người. Còn chúng ta tu đúng theo chánh pháp của Phật thì luôn luôn lúc nào cũng xả tâm ly dục ly ác pháp. Tuy rằng cuộc sống có nhiều sóng gió ba đào, nhưng chúng ta không bị lạc vào hoang đảo, cũng vì nhờ đức hạnh và giới luật, nó là ngọn hải đăng đưa tàu vào bến an toàn.
Cuộc đời tu hành của Thầy cũng vậy, khi mất cả hy vọng trên đường tu tập, chới với giữa biển pháp của Đại Thừa, bước đường cùng chỉ còn chết mà thôi. Trong khi mất hết cả niềm hy vọng thì năng khiếu trỗi dậy để cứu mình, nên trong tiềm thức của Thầy nhớ đến lời của Hòa Thượng Minh Châu. Trong khi sắp chết đuối, một chiếc phao đã hiện ra và đã cứu Thầy.
Thầy đã tìm được lối thoát mà xưa kia Thầy đã từng tu học giáo pháp này, nên đọc tới đâu Thầy nhận ra pháp hành tới đó và thực hành có kết quả ngay liền, nghĩa là Thầy tu lại theo lời dạy của Đức Phật đã dạy trong Kinh Nguyên Thủy pháp “Như Lý Tác Ý” mà hơn nửa đời người theo đạo Phật tu hành chẳng có một vị Thầy nào dạy tu tập điểm này. Với pháp môn này, Thầy đã nhận ra bí quyết thành công của pháp môn là “Độc Cư.” Pháp Như Lý Tác Ý và Độc Cư là năng khiếu của Thầy trỗi dậy.
Xưa, Đức Phật cũng vậy, khi con đường tu tập tận cùng, Ngài như sắp chết thì năng khiếu Ngài trỗi dậy. Ngài nhớ lại đạo lộ Tứ Thánh Định, Ngài liền bỏ sạch các pháp môn của ngoại đạo, Ngài không tu khổ hạnh nữa, tiếp tục sống đúng đời sống Phạm hạnh, khi cơ thể Ngài bình phục, 49 ngày dưới cội Bồ Đề do đạo lộ Tứ Thánh Định, Ngài đã viên mãn con đường tu giải thoát, thỏa mãn được ước vọng của Ngài làm chủ sanh, già, bịnh, chết.
Bởi vậy, muốn có năng khiếu và trí thông minh thì phải tu tập pháp “Hướng Tâm” và “Độc Cư” con ạ! Quyết định phải tu cho bằng được phải không con? Dù cho xương có tan, thịt có nát nhất định chúng ta phải thành công thì đó là con đã huân tập một tài năng, một tri kiến, một năng khiếu.
Hiện giờ cô Diệu Quang có trắc nghiệm bằng một phương pháp nào mà có tận cùng sự khổ đau thì nhất định tâm con cũng như cục đất phải không con? Có như vậy, mới thấy tâm được giải thoát thanh thản, an lạc và vô sự, đó là kết quả của tâm bất động.
91. HƯỚNG TÂM CÁC HÀNH NGƯNG NGHỈ
Hỏi: Kính bạch Thầy, khi hơi thở con gần như mất hẳn thì con thấy rõ cái bụng hoạt động (ra vô) càng mạnh, lúc đó tác ý “các hành ngưng nghỉ” con không biết đúng hay sai?
Đáp: Khi hơi thở gần như mất hoặc mất hẳn, sức tỉnh thức sẽ tập trung vào các hành trong thân, con phải hướng tâm nhắc: “Các hành phải ngưng hoạt động! Ngưng hoàn toàn!” Cách thức hướng tâm như vậy là đúng pháp và đúng lúc, không sai, nhưng có một điều con nên lưu ý: khi một người tu hành mà tâm chưa ly dục ly ác pháp hoàn toàn, hoặc chỉ ly một ít nào đó, hoặc chưa ly chút nào hết, lúc bấy giờ tâm dục và các ác pháp đang ẩn núp trong thân tâm hay nói một cách khác là tâm tham, sân, si đang nằm ngủ hay nói rõ hơn là tâm tham, sân, si đang bị ức chế nên lúc bấy giờ ý thức ngưng hoạt động thay thế tưởng thức hoạt động.
Do tưởng thức hoạt động con mới có cảm giác hơi thở gần như ngừng hẳn, đôi khi mất hẳn, mà chỉ có cơ bụng hoạt động rất mạnh (phình xẹp) giống như Thiền “Minh Sát Tuệ” do Mahasi dạy. Ngài cũng do tu tập ức chế nên lọt vào tưởng thức, thấy cơ bụng phình xẹp rõ ràng. Từ đó, Ngài rơi vào tưởng pháp nên Ngài thường dạy đồ chúng Minh Sát để khắc phục tham ưu, nhưng khắc phục tham ưu bằng tưởng thì làm sao ly dục ly ác pháp được.
Nếu không ly dục ly ác pháp bằng ý thức để khắc phục tham ưu mà bằng tưởng thức thì giống như một loài vật ngu tha một miếng thịt đi ngang qua một chiếc cầu, thấy miếng thịt dưới dòng sông lớn hơn nên vội bỏ miếng thịt thật nhảy xuống đớp ngay cái bóng của miếng thịt thì ôi thôi! Đã mất miếng mồi mà còn thiệt thân.
Thầy Thiện Thuận do tu sai nên lạc vào định tưởng, dùng pháp hướng tâm để tịnh chỉ hơi thở nên cơ thể rối loạn khiến Thầy rối loạn thần kinh, mất tự chủ mà người đời gọi là “Tẩu hỏa nhập ma.” Nhờ Thầy kịp lúc ở gần mới xả được.
Cháu Ngọc do tu sai ức chế lòng ham muốn, dồn nén đến tận cùng để đạt được cứu cánh, lúc bấy giờ có người gợi đúng lòng ham muốn của cháu khiến thần kinh hưng phấn quá mạnh mất thăng bằng nên cháu nói lung tung với những điều bị quá nén, tức bực trong tâm, cũng giống như người đang sân họ nói tất cả những sự bực tức. Khi đổ ra hết những sự bực tức thì họ cảm thấy như mình không còn sân, đó là sự tuôn trào của tâm sân, tức là trong lúc sân thì thần kinh hưng phấn nên người sân giống như người điên, nói ào ào dữ dằn như cọp gầm, trâu rống.
Khi muốn tịnh chỉ các hành trong thân, nhất là hơi thở thì phải thấu rõ tâm mình, phải ly dục ly ác pháp tức là tâm như cục đất hoặc nói khác hơn là tâm bất động trước các pháp ác và các cảm thọ, tâm bất động tức là không còn tham, sân, si, mạn, nghi nữa; tâm không phóng dật là tâm thường quay vô định trên thân. Nếu được vậy tức là tâm nhập Bất động Định, chỉ khi nào tâm nhập Bất động Định thì con mới dùng pháp hướng tâm tịnh chỉ các hành trong thân thì mới có hiệu quả, còn không khéo bị tưởng thì rất nguy hiểm cho sinh mạng con.
Minh Tông ức chế tâm không vọng tưởng, dùng pháp hướng tịnh chỉ hơi thở làm đứt mao phế quản khạc ra máu, đó là một kinh nghiệm xấu để bốn chúng lấy đó mà cố tránh, đứng giẫm lại lối sai này con ạ!
Tu hành phải cẩn thận, những gì Thầy dạy phải làm đúng, đừng làm sai theo sự hiểu biết của mình, đừng làm sai, làm theo kiến giải tưởng giải của mình mà tự giết chết đời mình con ạ! Cho nên tu theo đạo Phật, điều quan trọng nhất là xả tâm, ly tham đoạn diệt lòng ưu não để đạt được tâm bất động chứ không phải chỗ tịnh chỉ hơi thở.
Hiện giờ lòng ham muốn tu hành của con người để đạt được sự giải thoát thì đã bị lệch lạc quá nhiều, do các Tổ tưởng giải ra pháp môn tu tập ức chế tâm. Người ta cứ nghĩ tưởng rằng có thần thông thì sẽ không còn giận hờn, phiền não, đau khổ nữa và có thể chấm dứt tái sanh luân hồi. Sự nghĩ tưởng như vậy là sai.
Người ta cứ nghĩ rằng khi tịnh chỉ hơi thở làm chủ sự sống chết là không còn tham, sân, si, phiền não, đau khổ nữa và chấm dứt tái sanh luân hồi. Sự nghĩ tưởng như vậy cũng là sai, không đúng. Người ta cứ nghĩ tưởng rằng khi Kiến Tánh là không còn tham, sân, si, phiền não nữa là thành Phật, là chấm dứt tái sanh luân hồi.
Sự thực là không phải vậy, tất cả những sự nghĩ tưởng trên đây đều là sai cả. Vì những người có thần thông vẫn còn tham, sân, si như thường và còn tham, sân, si nhiều hơn. Đó là những vị giáo chủ có thần thông mà chúng ta đã từng nghe báo chí trên thế giới loan tin. Người ta cũng cho rằng những nhà Yoga tịnh chỉ hơi thở, chôn trong đất, dìm trong nước mà không chết, các ông này có thể không còn tham, sân, si nữa, sự thật là không phải vậy.
Báo chí thế giới loan tin có các đạo sĩ Yoga ở Ấn Độ đã biểu diễn bên Liên Xô khiến cho mọi người đều kính phục. Tưởng việc làm như vậy của họ là giải thoát, nhưng kỳ thực đó là những điều tu luyện cầu danh, mà còn cầu danh thì tham, sân, si còn đủ. Tham, sân, si còn đủ thì làm sao gọi là giải thoát được. Vì sự biểu diễn của họ, họ còn tâm háo danh.
Hiện giờ đường lối Thiền Đông Độ đã hướng dẫn con người Kiến Tánh rất đông đảo, từ người trí thức làm việc văn phòng cho đến những người buôn bán và những lao công đều có thể Kiến Tánh dễ dàng, nhưng chứng minh chưa có ai hết tham, sân, si, phiền não cả và cũng không làm chủ bịnh đau và sự chết.
Vì thế con người trên hành tinh này, chúng ta đang sống trong nỗi khắc khoải của sự đau khổ của kiếp làm người, nhìn chung không có một tôn giáo và giáo phái nào đáp ứng được sự khắc khoải của nhu cầu này.
Thần thông để mà làm gì? Để lừa bịp thiên hạ ư?
Yoga luyện tập quá gian khổ để làm gì? Để ngừa bịnh, trị bịnh ư? Để biểu diễn đình chỉ hơi thở cho mọi người kính phục chơi thì có nghĩa lý gì? Còn Kiến Tánh để mà Kiến Tánh thì có nghĩa gì? Khi tham, sân, si vẫn còn nguyên.
Chúng ta hãy nghe Đức Phật dạy: “Này Bà La Môn, có ba loại thần thông. Thế nào là ba? 1- Thần thông biến hóa. 2- Thần thông ký thuyết. 3- Thần thông giáo hóa.
Và này Bà La Môn, thế nào là thần thông biến hóa?
Ở đây, này Bà La Môn, có người chứng được các loại thần thông, một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân hiện ra một thân, hiện hình, biến hình, đi ngang qua vách, qua tường, qua núi như đi ngang qua hư không, độn thổ, trồi lên ngang qua đất liền như ở trong nước, đi trên nước không nứt nẻ ra như trên đất liền, ngồi kiết già đi trên hư không như con chim, với bàn tay chạm và rờ mặt trăng và mặt trời, những vật có đại oai lực, đại oai thần như vậy, có thể tự thân bay đến cõi Phạm Thiên.
Và này Bà La Môn, thế nào là thần thông ký thuyết?
Ở đây, này Bà La Môn, có người nói lên nhờ tưởng “Như vậy là ý của Ông, như thế này là ý của Ông, như thế này là tâm của Ông.” Nếu vị ấy nói lên có nhiều, cũng chỉ là như vậy, không có gì khác.
Ở đây, này Bà La Môn, có người nói lên không nhờ tưởng, nhưng nghe tiếng của loài Người hay của phi nhân, hay của chư Thiên, liền nói lên: “Như vậy là ý của Ông, như thế này là ý của Ông, như thế này là tâm của Ông.” Nếu vị ấy nói lên nhiều, cũng chỉ là như vậy, không có gì khác.
Ở đây, này Bà La Môn, có người nói lên không nhờ tưởng, cũng không nhờ nghe tiếng loài Người hay loài phi nhân, hay chư Thiên mà nói lên, nhưng sau khi nghe được tiếng trình bày rõ ràng và có suy tư; sau khi suy tầm và suy tư liền nói lên: “Như vậy là ý của Ông, như thế này là ý của Ông, như thế này là tâm của Ông.” Nếu vị ấy nói lên nhiều, cũng chỉ là như vậy, không có gì khác.
Ở đây, này Bà La Môn có người không nói lên nhờ tưởng, không nói lên nhờ nghe tiếng loài Người hay phi nhân, hay chư Thiên, không nói lên sau khi nghe được tiếng trình bày rõ ràng và có suy tư, sau khi suy tầm và suy tư. Nhưng thành tựu định không tầm không tứ, với tâm (của mình) rõ biết tâm của người khác tùy theo hành ý của vị Tôn giả này hướng đến chỗ nào, thời tâm của vị này lập tức suy tầm đến chỗ ấy. Nếu vị ấy nói lên có nhiều, cũng chỉ là như vậy, không có gì khác. Này Bà La Môn, đây gọi là thần thông ký thuyết.
Và này Bà La Môn, thế nào là thần thông giáo hóa?
Ở đây, này Bà La Môn, có người giáo giới như sau: “Hãy suy nghĩ như thế này, chớ suy nghĩ như vậy! Hãy tác ý như vậy, chớ tác ý như vậy! Hãy từ bỏ cái này! Hãy đạt đến cái này và an trú!” Này Bà La Môn, đây gọi là thần thông giáo hóa.”
Trên đây Đức Phật đã trình bày ba loại thần thông và Đức Phật chấp nhận loại thần thông nào? Qua bài Kinh trên đây, chúng ta nhận xét thấy ba loại thần thông này ở những pháp môn nào của Đức Phật đã thực hiện ra được.
1- Thần thông thứ nhất là thần thông biến hóa, nó nằm ở pháp môn nào? Thần thông này nó nằm ở từ pháp Tứ Thiền đến Tam Minh.
2- Thần thông thứ hai là thần thông ký thuyết, nó bắt đầu từ pháp môn Nhị Thiền đến Tam Thiền, biết tư niệm của người khác. Thường thần thông này trong nhà Thiền người ta gọi là trực giác.
3- Thần thông thứ ba là loại thần thông giáo hóa, tức là đức hạnh làm Thánh, làm Người.
Người dạy thần thông loại nào thì phải thể hiện loại thần thông đó.
Ví dụ: Người dạy về thần thông biến hóa thì phải thể hiện sự biến hóa để dạy cho người ta tu tập biến hóa. Người dạy thần thông về trực giác thì phải thể hiện biết chuyện quá khứ vị lai và tư niệm của họ. Người dạy thần thông giáo hóa thì phải thể hiện đức hạnh làm Người, làm Thánh.
Bây giờ, chúng ta nghe tiếp lời của Đức Phật, Ngài đã chấp nhận loại thần thông nào?
“Này Bà La Môn, trong ba loại thần thông này, Ông có thể chấp nhận loại thần thông nào là hy hữu hơn, thù diệu hơn?
Ở đây, thưa Tôn giả Gotama, loại thần thông này: Ở đây, có người chứng được nhiều loại thần thông, một thân hiện ra nhiều thân… Có thể tự thân bay đến cõi Phạm thiên. Loại thần thông này, thưa Tôn già Gotama, ai làm loại thần thông ấy, người ấy tự kinh nghiệm lấy. Ai làm thần thông ấy, tự mình có được thần thông ấy. Loại thần thông này, đối với con, được xem tánh chất như là huyễn hóa.
Còn loại thần thông này, thưa Tôn giả Gotama: Ở đây có người nhờ tưởng nói lên… sau khi nghe tiếng chư Thiên… sau khi nghe tiếng trình bày rõ ràng và có suy tư. Với tâm của mình, rõ biết tâm của người khác. Loại thần thông này, thưa Tôn giả Gotama, ai làm thần thông ấy người ấy tự kinh nghiệm lấy. Ai làm thần thông ấy, tự mình có được thần thông ấy. Loại thần thông này, đối với con, được xem tánh chất như là huyễn hóa.
Còn loại thần thông này, thưa Tôn giả Gotama: Ở đây, có người giáo giới như sau: “Hãy suy nghĩ như thế này… hãy đạt đến cái này và an trú.” Loại thần thông này, thưa Tôn giả Gotama, con có thể chấp nhận là hy hữu hơn, và thù diệu hơn trong ba loại thần thông.” (Tăng Chi Kinh Tập 1 trang 304).
Xét qua những lời Đức Phật đã dạy trên đây, chúng ta biết con đường tu theo đạo Phật là tu những gì có ích cho mình, cho người, còn những gì không ích lợi thì đó chỉ là những trò huyễn hóa mà thôi. Thế mà hầu hết mọi người đến với tôn giáo không riêng gì Phật giáo, họ đều nhắm vào mục đích thần thông, họ quý trọng mục đích thần thông như những gì siêu việt, người thực hiện được thần thông họ đều xem như Thánh, Thần, Tiên, Phật.
Trong lịch sử tôn giáo không có một tôn giáo nào mà không ca ngợi và tôn sùng thần thông, ngoại trừ có Phật giáo không bài bác thần thông, nhưng xem thần thông như một trò ảo thuật huyễn hóa. Đạo Phật không chấp nhận nó, vì nó không ích lợi gì cho mình, cho con người, chỉ là một trò ảo thuật giải trí của thiên hạ, nói như vậy không có nghĩa là đạo Phật không thực hiện được thần thông. Chúng ta hãy nghe Đức Phật dạy:
“Thật vậy, này Bà La Môn, lời nói của Ông trước như là chống ta, sau xích lại gần ta. Và Ta sẽ trả lời cho Ông. Này Bà La Môn, Ta chứng được nhiều loại thần thông…” (Tăng Chi Kinh Tập 1, trang 308)
Hướng tới tịnh chỉ hơi thở cũng là một loại thần thông, nó thuôc về loại thần thông biến hóa, thần thông biến hóa nó nằm trọn trong hệ thống Tam Minh. Hệ thống Tam Minh gồm có Tứ Thiền và Tam Minh; và Tứ Thiền là tịnh chỉ hơi thở, cho nên con tu tập cho các hành trong thân ngưng nghỉ thì đó là một sự tập luyện về thần thông. Ở đây, sự tập luyện về thần thông cũng không cần thiết. Đối với đạo Phật, sự tu tập cần thiết là phải ly dục ly ác pháp, ly dục ly ác pháp là một đạo đức làm Người, làm Thánh, là giới luật của Đức Phật, là giáo pháp của Ngài, là Phạm hạnh của người tu. Muốn được như vậy thì hằng ngày con nên tu tập pháp hướng tâm, “Tâm như cục đất.” Tâm như cục đất thật sự thì tịnh chỉ các hành trong thân của con không còn khó khăn nữa. Cho nên Đức Phật dạy: “Tâm nhu nhuyến, dễ sử dụng.”
Chỉ khi nào tâm con như cục đất thì lúc bấy giờ con muốn sử dụng nó như thế nào, nó sẽ làm theo ý muốn của con. Tâm chưa như cục đất mà lo tu tập tịnh chỉ các hành trong thân thì cũng giống như Minh Tông, Thiện Thuận và một ông bác sĩ ở Quy Nhơn đều là đem đến tai hại nguy hiểm khó lường.
Muốn tịnh chỉ các hành trong thân thì con nên xem tham, sân, si của con đã quét sạch chưa? Nếu chưa thì con nên hướng tâm như cục đất, còn nếu tham, sân, si đã vắng bóng thì con hướng tâm tịnh chỉ các hành và sẽ có kết quả ngay liền, con không còn thấy khó khăn một chút nào cả. Vì khi tâm tham, sân, si vắng bóng thì bảy năng lực Giác Chi phải xuất hiện, nó xuất hiện để giúp con làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi. Sau khi đọc những đoạn Kinh trên đây mà Đức Phật đã dạy, nếu ai còn ham mê thần thông, tịnh chỉ các hành, tịnh chỉ hơi thở khi mà tâm chưa thanh tịnh thì thật là điên rồ và ngu si như con vật ngu bỏ mồi bắt bóng mà còn phải thiệt thân.
Điều lo lắng nhất của con người tu hành là làm sao ly dục ly ác pháp cho được. Điều đó Đức Phật đã xác định cho chúng ta một pháp môn Hướng Tâm - Như Lý Tác Ý để chúng ta thành tựu, con nên nhớ kỹ mà ghi nhớ trong lòng mãi mãi: “Tâm như cục đất.” Tâm như cục đất thì sự tu hành của con đã hoàn tất, không còn phải tu tập gì nữa cả, lúc nào muốn sống chết là quyền ở con chứ không còn ở luật nhân quả nữa.
Đến đây Thầy chúc con tu tập sớm thành công, trước tiên tâm con được an ổn, khi đứng trước các ác pháp như: sanh, già, bệnh, chết, con không còn bận tâm và lo lắng nó nữa, trước khi chết con biết chỗ con về. Còn đối về mặt ân nghĩa thì con đã đền đáp ơn Phật, ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dục và không phụ ơn Thầy và đàn na thí chủ. Như vậy, con đã xứng đáng là một người phật tử. Phải ráng lên con ạ!
92. CỨU ĐỘ CHA MẸ KHI ĐÃ KHUẤT BÓNG
Hỏi: Kính thưa Thầy! Người tu hành đắc đạo, khi cha mẹ đã qua phần lâu rồi có độ được hay không?
Đáp: Khi tu xong đắc Tam Minh, dùng Thiên Nhãn Minh quan sát khắp cả thế gian xem xét coi nghiệp lực cha mẹ mình đã sanh về đâu, biết được vị trí cha mẹ sanh ra và đang ở đó, nghiệp lực đó còn duyên hay đã hết duyên với mình. Nếu đã hết duyên thì mình tạo duyên mới tức là gieo duyên để gặp lại cha mẹ. Nếu còn có duyên cũ thì sớm muộn gì nghiệp lực nhân quả sẽ đưa đẩy cha mẹ gặp lại mình dễ dàng nhưng lại sợ mình tu chưa chứng nên không làm sao nhận ra người được.
Khi gặp nhau, nghiệp lực nhân quả có sức thu hút tạo thành một thiện cảm. Nhờ đó, người tu chứng dùng lời lẽ hay dùng kinh sách để giúp cho người thân của mình hiểu thông đạo đức nhân bản nhân quả làm người, và tạo duyên hoặc khuyến khích độ cha mẹ tu hành thọ Bát Quan Trai, và hằng ngày sống trong hành động ngăn ác diệt ác pháp để người thân của mình không tạo nhân ác, luôn tạo nhân thiện. Đó chính là mình độ những người thân thương của mình có một đời sống với thân tâm thanh thản, an lạc và vô sự. Nếu họ có duyên trong một đời nầy thì mình sách tấn họ trở thành những bậc xuất gia để tiến tới tu tập thiền định và Tam Minh chấm dứt sanh tử luân hồi, không còn tái sanh lại cõi thế gian này nữa.
Với việc làm này của một người tu chứng Tam Minh thì không còn khó khăn, chúng ta nhớ lại khi mẹ Đức Phật sanh Ngài ra chỉ trong vòng bảy ngày mẹ Ngài chết. Lúc bây giờ Đức Phật được người dì nuôi nấng cho đến trưởng thành đi tu và chứng đạo. Sau khi chứng đạo Ngài quan sát thấy nghiệp lực của mẹ sanh lên cõi Trời và mùa hạ năm đó Đức Phật đến cõi Trời để dạy mẹ mình tu hành. Còn vua cha, Đức Phật cũng hướng dẫn cha mình tu tập và sau khi chết được sanh lên cõi Trời. Như vậy, mẹ của Đức Phật chết gần bốn chục năm, Ngài tìm được không mấy khó khăn và độ mẹ mình tu hành, trong kinh sách còn ghi lại rõ ràng.
Nếu chúng ta nỗ lực tu hành, khi chứng được Tam Minh thì không lý nào một người tu sĩ đệ tử của Đức Phật lại làm ngơ trước lòng hiếu hạnh của mình sao? Đạo đức của đạo Phật dạy rất đầy đủ sự hiếu hạnh làm người. Làm người phải nhớ công ơn sanh thành dưỡng dục của mẹ cha, cha mẹ phải chịu biết bao nhiêu sự khổ cực để nuôi con lớn khôn, công ấy như trời biển, không sao kể hết được.
Những người không tu theo đạo Phật họ còn có hiếu thay, huống là những người tu theo đạo Phật thì lòng hiếu hạnh của họ phải còn gấp trăm ngàn lần. Những người tu theo đạo Phật là những người biết thương mình thương người, vì đạo Phật tu hành rất khó khăn, nếu ai không thương mình thương người thì không bao giờ tu được. Bởi vì tu theo đạo Phật không tựa nương vào oai lực của ai cả, chỉ bằng sức lực của mình, nhất là đời sống của người tu sĩ đạo Phật phải buông xả vật chất thế gian cho thật sạch thì mới có thể ly dục ly ác pháp được. Mà có ly dục ly ác pháp thì mới gọi là thương mình thương người và chính vì vậy mà họ phải thương cha mẹ họ nhiều nhất. Cho nên khi tu xong, họ liền quan sát tìm cha mẹ được sanh về nơi đâu rồi tìm mọi cách để độ cha mẹ, ngõ hầu đền đáp công ơn sanh thành dưỡng dục cao dày như trời, như biển.
Hỏi: Kính bạch Thầy, các bậc tu đạt đạo đã nhập diệt có thể thị hiện hoặc dùng tha lực để độ chúng sanh không?
Đáp: Các bậc tu chứng đã nhập diệt chỉ có thị hiện độ chúng sanh, không dùng tha lực, vì tha lực trái với đạo Phật, trái với luật nhân quả. Đạo Phật xây dựng giáo pháp của mình trên một nền tảng đạo đức nhân bản nhân quả, cho nên không thể nào dùng tha lực độ người được.
Đạo Phật là một tôn giáo có một nền đạo đức công bằng và công lý không có một tôn giáo nào có một nền đạo đức hơn được. Vì thế cầu siêu, cầu an, tụng kinh, cúng bái, tế lễ, niệm Phật, vẽ bùa, đọc thần chú, v.v... là của ngoại đạo, với việc làm này đạo Phật xem là việc làm phi đạo đức, tà nghiệp.
Đạo Phật là một tôn giáo dạy người phải tự lực cứu mình bằng những hành động đạo đức nhân quả, có nghĩa là mình muốn được an vui hạnh phúc thì không nên làm những điều ác, những điều làm khổ mình khổ người và khổ muôn loài chúng sanh. Nếu làm những điều ác khổ mình khổ người, dù có cầu Thánh, Thần, chư Phật, chư Bồ Tát gia hộ thì cũng không bao giờ có một vị nào dám cứu độ cho một việc làm phi đạo đức như vậy. Cho nên đạo Phật không có dùng tha lực cứu độ mà chỉ có thị hiện để dạy người sống có đạo đức, và nhờ sống có đạo đức không làm khổ mình khổ người thì đó là đem lại sự an vui hạnh phúc cho chính bản thân mình và cho mọi người, chứ không thể cầu ai cứu khổ cho mình được cả.
Tóm lại, đạo Phật không có dạy cầu tha lực, cầu tha lực là không đúng của đạo Phật mà đó là chịu ảnh hưởng của tà giáo ngoại đạo, chịu ảnh hưởng mê tín lạc hậu của dân gian. Bậc A-la-hán hoặc Phật thị hiện để độ chúng sanh là thể hiện những đức hạnh đạo đức không làm khổ mình khổ người, sống đúng một đời sống phạm hạnh ly dục ly ác pháp, không phạm phải một giới luật nhỏ nhặt nào, thường sống thiểu dục tri túc, chứ không có thể hiện thần thông hoặc trị bịnh trừ tà yểm quỷ như các vị giáo chủ của ngoại đạo thường dùng những danh từ “cứu nhân độ thế” những danh từ cứu nhân độ thế là để lừa đảo thiên hạ.
Cho nên đạo Phật chân chánh và đạo Phật không chân chánh chúng ta rất dễ nhận ra, nhận ra là ở chỗ tha lực và tự lực; nhận ra là ở chỗ mê tín và không mê tín; nhận ra là ở chỗ đạo đức không làm khổ mình khổ người và không đạo đức thường làm khổ mình khổ người; nhận ra là ở chỗ giới luật nghiêm trì và không nghiêm trì giới luật, phạm giới, phá giới; nhận ra là ở chỗ cúng tế và không cúng tế; nhận ra là ở chỗ thiểu dục tri túc và không thiểu dục tri túc; nhận ra là ở chỗ phòng hộ sáu căn và không phòng hộ sáu căn.
Vì công bằng công lý của đạo đức nhân quả nên các bậc tu chứng chỉ độ người bằng sự thị hiện gương đức hạnh để dạy đạo cho người ấy, họ phải tự mình thắp đuốc lên mà đi chứ không dùng tha lực giúp họ được, dù bất cứ trường hợp nào, cho đến sự báo hiếu đối với cha mẹ cũng không dùng tha lực mà chỉ dùng duyên nhân quả để giúp cho cha mẹ hiểu rõ thiện và ác, và không nên làm các điều ác, luôn sống trong thiện pháp thì cha mẹ được an vui hạnh phúc, đó là độ cha mẹ giải thoát.
94. NHẬP TỨ THIỀN CÓ PHẢI LÀ A-LA-HÁN KHÔNG?
Hỏi: Kính thưa Thầy, Thầy và quý thầy tu nhập Định Tứ Thiền có phải như một A-la-hán trong thời Đức Phật không? Phật và A-la-hán khác nhau như thế nào?
Đáp: Người nhập xong Tứ Thiền, chứng Tam Minh là bậc A-la-hán như trong thời Đức Phật còn tại thế. Phật và A-la-hán không khác nhau chỗ tu hành và giải thoát. A-la-hán chỉ khác Phật là chỗ Đức Phật là Giáo chủ, người sáng lập ra Phật giáo. Bởi vì Đức Phật cũng tu từ Giới, Định, Tuệ mà được giải thoát, các bậc A-la-hán cũng tu từ pháp môn này mà thành tựu, cho nên sự viên mãn giải thoát phải giống như nhau. Khi tu hành giải thoát rồi thì người nào cũng như người nấy.
Chúng ta trở lại thời quá khứ của Đức Phật, trong khi Ngài từ bỏ các pháp môn của ngoại đạo để tu Tứ Thánh Định và Tam Minh, nhờ giáo pháp này mà Đức Phật đã chứng đạo giải thoát, các đệ tử của Người cũng nhờ giáo pháp này mà chứng quả A-la-hán.
Tứ Thánh Định và Tam Minh tức là Giới, Định, Tuệ. Vì trong bốn thiền có giới và định, Sơ Thiền thuộc về Giới ly dục ly ác pháp do ly dục sanh hỷ lạc, Nhị Thiền diệt tầm tứ do định sanh hỷ lạc, Tam Thiền ly hỷ tưởng và Tứ Thiền tịnh chỉ hơi thở. Bốn loại thiền này thuộc về Định, còn Tam Minh thuộc về Tuệ.
Xin quý vị đọc lai bài kinh Saccaka sẽ thấy Đức Phật tu tập Sơ Thiền cho đến Tam Minh và thành tựu viên mãn đạo giải thoát: “Rồi này Aggivessana, Ta suy nghĩ: “Nay thật không dễ gì chứng đạt lạc thọ ấy, với thân thể ốm yếu kinh khủng như thế này, Ta hãy ăn thô thực, ăn cơm chua.” Rồi này Aggivessana, Ta ăn thô thực, ăn cơm chua trở lại. Này Aggivessana, lúc bây giờ năm tỳ-kheo hầu hạ Ta suy nghĩ: “Khi nào Sa Môn Gotama chứng pháp, vị ấy sẽ nói cho chúng ta biết.” Này Agivessana khi thấy Ta ăn thô thực, ăn cơm chua, các vị ấy chán ghét Ta, bỏ Ta và nói: “Sa Môn Gotama nay sống đầy đủ vật chất, từ bỏ tinh tấn, trở lui đời sống sung túc.”
“Này Agivessana, khi Ta ăn thô thực và được sức lực trở lại, Ta ly dục ly pháp bất thiện, chứng và trú Thiền Thứ Nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh có tầm có tứ. Này Agivessana như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta. Diệt tầm và tứ chứng và trú Thiền Thứ Hai, một trạng thái hỷ do định sanh không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Này Agivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta. Ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền Thứ Ba. Này Agivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta. Xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền Thứ Tư, không khổ không lạc xả niệm thanh tịnh. Này Agivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.”
Đến đây Đức Phật đã nhập xong bốn Thiền, tức là Đức Phật đã thực hiện được Giới và Định. Sau khi Đức Phật thực hiện xong Giới và Định thì Ngài tiếp tục thực hiện Tam Minh: “Với tâm định tỉnh, thuần tịnh trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến dễ sử dụng, vững chắc, bình tĩnh như vậy, Ta dẫn tâm hướng tâm đến Túc Mạng Minh, Ta nhớ đến các đời sống quá khứ. Ta dẫn tâm hướng tâm đến trí tuệ về sanh tử của chúng sanh, Ta với thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân thấy sự sống chết của chúng sanh. Ta dẫn tâm đến Lậu tận trí, Ta biết như thật: “Đây là khổ,” biết như thật: “Đây là nguyên nhân của khổ...”
Sau khi tu chứng xong, tâm Đức Phật sẽ an trú trong định nào? Chúng ta hãy nghe Đức Phật trả lời: “Này Agivessana, sau khi chấm dứt buổi thuyết giảng như vậy, Ta an trú nội tâm, làm cho tịnh chỉ, làm cho nhất tâm, làm cho định tỉnh trên định tướng thứ nhất ấy, và như vậy Ta sống an trú, trường cửu, vĩnh viễn.”
Sau khi chứng đạo giải thoát, Phật và các bậc A-la-hán đều giải thoát an trú giống như nhau cả, không có sự giải thoát trong Phật giáo có cao, có thấp. Không có sự tu hành giải thoát lừng chừng mà phải giải thoát tận gốc (Vô Lậu) và sự giải thoát lừng chừng là chưa giải thoát.
Ví dụ: Một người giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh mà không nhập định thì giới luật đó chỉ là ức chế tâm chứ chưa phải giải thoát, cũng như một người nhập Tứ Thánh Định mà không thực hiện Tam Minh thì cũng chưa được gọi là giải thoát, đó là ức chế tâm.
Bởi đạo Phật có một lớp vô lậu giải thoát mà thôi, không thể có hai ba lớp vô lậu, vì thế ai tu vô lậu là giải thoát, ai tu không vô lậu là không giải thoát. Người tu vô lậu là bậc A-la-hán nên Phật cũng là A-la-hán mà thôi, vì thế Phật và A-la-hán không khác nhau.
95. VỀ KẾT QUẢ BẢN THÂN
Hỏi: Kính thưa Thầy! Nương theo sự chỉ dạy của Thầy, con đã y cứ vào đó mà thọ trì tu tập, càng ngày con càng nhận được sự thanh thản, an lạc rõ ràng hơn. Hiện nay trước một loạt các khó khăn và bất an xảy ra thường ngày con đã vững vàng, bình tĩnh hơn và đã vượt qua được. Nếu so với trước đây thì khó khăn lắm con mới làm chủ được. Tất cả những gì con làm là đều do ánh sáng trí tuệ của Phật, của Thầy chỉ dạy, con hiểu ra rằng chỉ có sống đúng đạo đức nhân bản bằng những giới luật hằng ngày thì ta mới có bản lĩnh và nghị lực để vượt qua được mọi sóng gió của cuộc đời. Tuy kết quả chưa được to lớn nhưng cũng là một sự khích lệ, động viên để con vững bước trên con đường mình đã chọn.
Kính thưa Thầy! Trong khi tu tập thực hành có nhiều lúc con phải kìm nén những giọt nước mắt trước sự tấn công của ác pháp, vì hiện tại con chưa đủ đạo lực để vượt qua. Nhưng qua những lần như vậy con lại cứng cáp hơn, mạnh mẽ hơn. Con luôn tự nhủ nếu mình chùn bước trước mọi ác pháp thì mình sẽ mãi mãi trôi lăn trong khổ đau vô tận. Những lần như vậy con lại nghĩ đến Thầy, đến cô Út với tất cả tấm lòng kính trọng vô biên trước mọi khó khăn, cực nhọc mà Thầy và cô đã trải qua. Do vậy, trong lúc học đạo làm người có những việc con chưa làm được, còn phạm phải những lỗi lầm không đáng có. Ví dụ, như vẫn còn hay cãi lại mẹ hay lời nói không được đẹp tai, dịu dàng lắm v.v... Mỗi lần như vậy con thật sự xấu hổ với bản thân. Hôm nay con viết những dòng này kính bạch lên Thầy những việc con chưa làm được mà tự nơi tâm con không thể nói hết được. Kính xin Thầy từ bi hoan hỷ tha thứ và chỉ dạy. (Câu hỏi của Liễu Thiện)
Đáp: Mặc dù con rất cố gắng khắc phục tâm mình, nhưng gặp những pháp cực ác thì không sao làm chủ được. Đó là nghiệp lực sân hận con đã huân tập nhiều đời, nhiều kiếp, nó đã thành khối. Vì thế muốn tu tập quét cho thật sạch khối nghiệp lực này thì phải kiên trì, bền chí tu tập với một ý chí sắt đá, hằng ngày phải thường nhắc câu pháp hướng: “Tâm như đất, tham, sân, si phải chấm dứt,” mỗi lần vấp ngã thì con hãy đứng lên tiếp tục tu tập nữa; mỗi lần vấp ngã là mỗi lần rút ra nhiều kinh nghiệm xả tâm; mỗi lần vấp ngã là mỗi lần giúp con tỉnh giác nhận được ác pháp ngay liền nơi con và thiện pháp nơi người; mỗi lần vấp ngã là mỗi lần pháp hướng tâm hiện ra như một người bạn lành tốt bụng nhắc con, khiến cho tâm con được an ổn ngay liền; mỗi lần vấp ngã là mỗi lần trí tuệ tri kiến giải thoát của con phát triển, nếu con biết cách triển khai. Nhờ đó mà tâm hồn con thanh thản, an lạc và vô sự.
Một người tu theo đạo Phật mà sợ gặp ác pháp, thường tránh né, tìm chỗ an ổn để tu tập thì khó mà xả tâm, thường bị ức chế tâm.
Mục đích của đạo Phật là tâm bất động trước các ác pháp. Muốn tâm bất động trước các ác pháp thì con nên nhớ hằng ngày phải trau dồi những pháp sau đây:
1- Pháp hướng tâm “Dẫn tâm vào đạo chứ đừng dẫn đạo vào tâm,” nghĩa là tu tập nhiều chứ đừng học nhiều, học nhiều không tu thì chẳng ích lợi gì, giống như cái tủ đựng kinh sách.
2- Triển khai trí tuệ tri kiến nhân quả “Đừng thấy mọi sự việc đúng, sai, phải, trái, mà hãy thấy nó thiện và ác.”
3- Đừng thấy lỗi người mà hãy thấy lỗi mình.
4- Hãy khởi tâm yêu thương những người đang sống trong ác pháp.
5- Hãy khởi tâm tha thứ những người đang sống trong ác pháp.
6- Chúng ta lớn hơn, cao thượng hơn mọi người là nhờ ở chỗ biết nhẫn nhục, tùy thuận và bằng lòng.
7- Chúng ta có được một tâm hồn thanh thản, an lạc và vô sự, đó là nhờ biết buông xả các ác pháp.
8- Chúng ta làm chủ được sanh, già, bịnh, chết và chấm dứt tái sanh luân hồi là nhờ biết ly dục ly bất thiện pháp, biết diệt ngã, xả tâm, biết buông xả các ác pháp, biết giữ tâm bất động trước ác pháp và các cảm thọ và luôn luôn lúc nào cũng biết giữ tâm thanh thản, an lạc và vô sự.
Một cuộc đời tu tập theo đạo Phật mà biết buông xả, tâm bất động trước các ác pháp thì không có một vật gì quý báu nhất trong đời này mà đem trao đổi được. Vì biết tâm thanh thản, an lạc và vô sự là một vật vô giá, không có vật quý báu nào trên thế gian này hơn được. Vì thế chúng ta hãy cố gắng tu tập, tu tập cho bằng được, vì nó rất lợi ích cho chúng ta và cho mọi người trên hành tinh này.
96. TRAI HAY LÀ CHAY?
Hỏi: Kính thưa Thầy! Trong một bài giảng về chánh tín và mê tín đăng trên nguyệt san Giác Ngộ. Hòa Thượng Thích Thanh Từ có giảng: “... Trong Miền Nam các nhà sư Nguyên Thủy chỉ có ăn trai chứ không ăn chay. Vì trong khi hành hạnh khất thực, ai cho gì ăn nấy kể cả thức ăn mặn.” Có phải vậy không thưa Thầy? (Câu hỏi của Liễu Thiện)
Đáp: Trai là một danh từ chữ Hán. Chay là một danh từ chữ Việt. Nghĩa của “trai” và “chay” thì đồng nghĩa, có nghĩa là không ăn thịt chúng sanh. Vì thế mới có “nguyệt trai,” “nhật trai.” Nguyệt trai là một tháng ăn chay (không ăn thịt chúng sanh), như: tháng giêng, tháng bảy và tháng mười.
Nhật trai là ngày ăn chay (không ăn thịt chúng sanh) như:
1- Nhị trai: Gồm có ngày rằm và ngày 30 âm lịch.
2- Lục trai: Gồm có ngày 8, 14, 15, 23, 29, 30 âm lịch.
3- Thập trai: Gồm có các ngày như: 1, 8, 14, 15, 18, 23, 24, 28, 29, 30 âm lịch.
Theo chữ nghĩa thì Bắc Tông Đại Thừa hiểu chữ trai là “ăn chay.” Nam Tông Tiểu Thừa hiểu chữ trai là “giới cấm,” cho nên mới có Thọ Bát Quan Trai, ngọ trai. Nhưng nói đến giới cấm thì không nói đến chay và mặn, mà chỉ nói đến thiện và ác. Vì vậy trong giới luật của Phật mới có “Giới thứ nhất dạy chẳng sát sanh,” nghĩa là cấm không cho giết hại chúng, không bảo, không xúi bảo người khác giết hại. Ở đây có nghĩa giới luật cấm các vị tỳ-kheo không được ăn thịt động vật, vì ăn thịt động vật tức là bảo người khác giết hại chúng sanh.
Cho nên chữ trai bên Nam Tông Tiểu Thừa cũng có nghĩa là ăn chay, nhưng các sư biến chữ trai thành nghĩa khác như HT Thích Thanh Từ giảng như vậy là để tùy thuận với các sư Nam Tông nuốt trôi những miếng thịt động vật.
97. ỨC CHẾ TÂM
Hỏi: Kính thưa Thầy! Theo sự hiểu biết của con thì ức chế vọng tưởng là do những niệm khởi lên mà ta không tỉnh thức quán xét xem là thiện hay ác pháp để xả bỏ. Vội vàng đoạn diệt không cần truy xét nó thuộc về lậu hoặc nào. Vả lại, ức chế tâm còn do sự ham muốn dục lạc, khi dục lạc ham muốn khởi lên ta cũng không quán xét lợi hay hại để xả bỏ mà chỉ có nhẫn chịu, vì thế, nếu có dịp nó sẽ bung ra. Có phải vậy không thưa Thầy?
Đáp: Đúng vậy, sự ức chế tâm có hai cách:
1- Chịu đựng mọi sự giận hờn, căm tức, phiền não, sợ hãi, lo rầu, v.v... mà không bao giờ nói ra cho một ai biết. Sự chịu đựng này gọi là kham nhẫn. Ví dụ: Trong gia đình có người chồng độc tài luôn luôn bắt vợ con phải tuân theo lệnh của mình, sai bảo đâu làm đó, không được làm trái. Những người bị bắt buộc như vậy gọi là chịu đựng, những người chịu đựng là những người ức chế tâm. Sức chịu đựng sẽ đến một mức độ nào đó thì không còn chịu đựng được nổi. Khi không còn chịu đựng nổi thì thần kinh hưng phấn, thần kinh hưng phấn thì người ấy bị rối loạn thần kinh, bị điên khùng, bị tẩu hỏa nhập ma, v.v...
Suốt thời gian chịu đựng thì người ấy là người khổ đau tận cùng của cuộc đời mình.
2- Người dùng một đối tượng, một pháp môn để ức chế tâm để không khởi niệm vọng tưởng, đó là loại ức chế có pháp môn, có phương cách. Loại ức chế tâm này có đường lối, có phương pháp để dẫn tâm vào thế giới tưởng như: Thiền xuất hồn, Thiền Yoga, Thiền Đại Thừa, Thiền Đông Độ, Thiền Lục Diệu Pháp Môn, Mật Tông, Tịnh Độ Tông, v.v...
Cho nên các pháp môn này đều xây dựng cho mình một thế giới siêu hình mơ hồ, trừu tượng, ảo giác, khiến cho con người phải mê mệt với nó, nhưng không ích lợi thiết thực cho đời sống. Chỉ riêng có thiền của Phật giáo Nguyên Thủy thì xả tâm “ly tham đoạn ác pháp.” Do đó người tu hành sẽ không bị ức chế tâm và đạt được kết quả giải thoát làm chủ sanh, già, bịnh, chết, chấm dứt tái sanh luân hồi.
98. DUYÊN NHÂN QUẢ
Hỏi: Kính thưa Thầy, vợ chồng lấy nhau, người ta bảo rằng đều có số định cả, có nghĩa là người này phải lấy người mà có số định với mình, không được lấy người nào khác. Có phải vậy không thưa Thầy?
Đáp: Không phải số định mà cũng không phải số mệnh mà là duyên nhân quả nợ vay trong thuận cảnh, cũng như trong nghịch cảnh.
Ví dụ: Kiếp trước chúng ta đối xử với những người làm công cho mình quá khắc nghiệt, đánh đập, chửi mắng, trả tiền công ít, v.v... Kiếp này họ làm vợ hoặc chồng hoặc con cái trong nhà, họ phá tán của cải tài sản và còn chửi mắng đánh đập, khiến cho gia đình đau khổ bất an. Cho nên kiếp trước gieo nhân nào thì kiếp này phải trả quả nấy.
Tình nghĩa vợ chồng con cái đều do nhân quả, chứ không phải do số mệnh duyên nợ tiền định. Vì không có tiền định. Tiền định là cái vật gì? Ông gì? Ông Ngọc Hoàng Thượng Đế ư?
Vì không hiểu môi trường sống nên người ta đặt ra những câu hỏi để có hỏi mà không có trả lời: “Con người từ đâu sanh ra? Chết đi về đâu?”
Do không hiểu, người ta dùng tưởng tri, tạo ra một Đấng Vạn Năng, một ông Ngọc Hoàng, một ông Trời, một ông Tạo Hóa sanh ra vạn vật trên hành tinh này.
Lại có thuyết cho rằng từ trong Đại Ngã vạn vật sanh ra và mỗi vật được sanh ra là Tiểu Ngã. Những thuyết này mơ hồ và trừu tượng không thể trả lời hai câu hỏi trên. Và vì vậy, hai câu hỏi trên vẫn còn đóng kín cửa.
Duyên tiền định giữa đôi vợ chồng cũng là sự tương tri của con người đặt ra chứ không có số định, số mệnh.
Theo đạo Phật con người từ nhân quả sanh ra, chết trở về nhân quả, chứ không từ đâu đến và chết cũng không đi về đâu.
Còn duyên vợ chồng, con cái đều là do vay nợ của nhân quả theo định luật của nhân quả “Vay thì phải trả.”
Vậy, chồng vợ có số mệnh là không đúng, mà có nợ nhân quả ác hay thiện với nhau là đúng.
Nhìn cuộc sống của họ chúng ta có thể biết chắc chồng nợ vợ hay vợ nợ chồng một cách cụ thể và rõ ràng. Vì thế, trong cuộc đời này vợ chồng thường làm khổ cho nhau nhiều hơn là đem lại hạnh phúc an vui cho nhau. Họ sống với nhau phần đông là chịu đựng.
99. NHÂN QUẢ BẬC TU CHỨNG
Hỏi: Kính thưa Thầy, bậc tu hành đã chứng đạo làm chủ sanh tử, chấm dứt luân hồi còn có bị tai nạn và bệnh tật xảy ra hay không? Xin Thầy chỉ dạy cho chúng con rõ.
Đáp: Như các con đã biết con người từ nhân quả sanh ra, sống trong nhân quả, chết trở về nhân quả.
Bậc tu hành sanh ra cũng như mọi người, từ nhân quả sanh ra và cũng đang sống như mọi người, ăn uống, ngủ nghỉ, nói nín, sinh hoạt, hoạt động đều đang sống trong nhân quả và chết cũng như mọi người già cả, yếu đuối, bệnh tật và tử vong, nhưng không trở về nhân quả.
Có lẽ các bạn đã hiểu rằng: Một người tu chứng, làm chủ sanh tử luân hồi không bao giờ có tai nạn, bệnh tật, già, chết đến với họ. Hiểu như vậy, tức là hiểu sai, hiểu không đúng.
Bậc tu hành đắc đạo, trước khi chưa tu hành, chưa đắc đạo thì các bậc ấy vẫn sanh ra như mọi người khác, vẫn mang thân nhân quả. Như các bạn đã biết thân nhân quả là thân vô thường có vui, có buồn, có tai nạn, có bệnh tật, có sân hận, có si mê, có ganh tỵ, có tỵ hiềm, có nghi ngờ, có tật đố, có san tham và có già chết cũng như mọi người khác. Nhưng bậc tu hành dù đã chứng đạo vẫn phải còn mang thân xác nhân quả đó thì mọi sự kiện vô thường của thân nhân quả không thể tha thứ cho bất cứ một ai còn mang thân xác đó, dù đó là Đức Phật vẫn bị thân nhân quả vô thường chi phối theo luật nhân quả. Vì thế mới bảo rằng luật nhân quả rất công bằng và công lý không nể mặt một ai.
Nên khi sắp sửa nhập Niết Bàn, Đức Phật cũng bị đau, Ngài bảo ông A Nan: “Ta đau lưng quá, hãy trải chỗ cho ta nằm.” Nói như vậy, các bạn sẽ hỏi đã nói tu hành chứng đạo, làm chủ sanh, già, bệnh, chết, cớ sao lại bảo còn có phiền não, già, bệnh, chết và có tại nạn?
Thưa các bạn, ở đây chúng tôi nói bậc tu hành chứng đạo làm chủ sanh, già, bệnh, chết, nghĩa là thân nhân quả vô thường là thân sanh, già, bệnh, chết thì người tu hành chỉ làm chủ sanh, già, bệnh, chết, chứ không phải làm chủ cái thân giả tạo vô thường duyên hợp. Cái thân giả tạo vô thường duyên hợp, nó là một vật không có thật, nên sự sanh, già, bệnh, chết của nó là phải đến với nó nhưng nó không tác động vào người tu chứng được. Vì thế sanh, già, bệnh, chết không còn làm tâm họ dao động. Đó là giai đoạn làm chủ thứ nhất của người tu chứng. Chỗ làm chủ thứ hai: nghĩa là khi có sanh, già, bệnh, chết đến thì người tu chứng sẽ làm chủ cái đó, bằng cách dùng đạo lực đẩy lui để lúc nào thân tâm cũng thanh thản và an lạc, không có khổ não.
Ví dụ: Làm chủ sanh khi cuộc sống chúng ta có xảy tai nạn, tranh tụng, ham muốn, thèm khát, sợ hãi, lo toan v.v... Người tu chứng sẽ dùng trí tuệ nhân quả quán xét thì ngay đó tâm sẽ được an ổn không còn buồn lo, sợ hãi, sân hận v.v... Còn khởi tâm ham muốn cái này, cái khác thì ta dùng trí tuệ Tứ Niệm Xứ quán xét các pháp vô thường, khổ, không, vô ngã thì tâm ham muốn (tham dục) dừng liền. Đó là cách làm chủ sanh thứ hai.
Làm chủ già, thân hành, khẩu hành, ý hành, tịnh chỉ, tức là tịnh chỉ tầm tứ. Một người tu chứng tới tuổi già tám mươi vẫn quắc thước, đi đứng vững vàng, không run rẩy, không lụm cụm, trí tuệ sáng suốt không lẫn lộn v.v... đó là làm chủ già.
Làm chủ bệnh khi thân có bệnh đau nhức khổ sở chúng ta muốn làm chủ bệnh thọ này thì phải ly hỷ trú xả nhập Tam Thiền, từ nơi trạng thái Tam Thiền theo pháp như lý tác ý xả thọ khổ. Kinh dạy ly hỷ trú xả, tức là sau khi trú được xả, trú được xả tức là nhập Tam Thiền. Khi đã nhập Tam Thiền xong liền xả lạc xả khổ, xả lạc xả khổ, tức là xả thọ, xả thọ tức là xả sự đau khổ của thân. Ở đây các bạn nên nhớ, phần nhiều bệnh đau của con người đều do tưởng sanh ra bệnh, vì thế khi nhập Tam Thiền đã ly tưởng, do ly tưởng mà tâm không dao động trước các cảm thọ, nên xả cảm thọ rất dễ. Đó là làm chủ bệnh bằng thiền định. Còn làm chủ bệnh bằng pháp môn Định Niệm Hơi Thở: khi thân có bệnh liền nhiếp tâm an trú vào hơi thở rồi dùng pháp như lý tác ý: “Thọ là vô thường, bệnh gì (nói tên ra) ra khỏi thân ta. An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra” khi tác ý xong liền hít thở năm hơi thở rồi lại tác ý lại câu trên. Cứ tu tập như vậy cho đến khi hết bệnh. Đó là phướng pháp làm chủ bệnh. Còn một phương pháp làm chủ bệnh nữa, đó là Tứ Thần Túc, chỉ cần hướng tâm về thân không bệnh là bệnh hết ngay. Làm chủ chết khi thân suy yếu sắp chết ta tịnh chỉ hơi thở nhập Tứ Thiền hướng tâm xả bỏ thân tứ đại nhân quả một cách dễ dàng, không có mệt nhọc, không có đau khổ, không có ngộp thở, chết một cách yên nhàn và thanh thản.
Làm chủ sanh, già, bệnh, chết có hai phần:
1- Phần thứ nhất: Làm chủ tâm bất động trước cảnh sanh, già, bệnh, chết.
2- Phần thứ hai: Làm chủ những trạng thái sanh, già, bệnh, chết của thân xảy đến, tức là trực tiếp tịnh chỉ các trạng thái đau khổ của sanh, già, bệnh, chết chứ không phải ngăn chặn không cho sanh, già, bệnh, chết hoặc ngăn chặn tai nạn đến với thân này. Vì thân này là thân nhân quả nên phải vay trả những điều thiện ác trước kia mà ta đã tạo ra thì không thể ngăn chặn được.
Ngăn chặn tức là dừng nhân quả. Đạo Phật dạy làm chủ nhân quả, vượt qua nhân quả, chuyển nhân quả, chứ không dạy ngăn chặn và dừng nhân quả. Vì từ nhân quả con người sanh ra thì chỉ có làm chủ tâm không tạo nhân quả ác nữa thì nhân quả sẽ chấm dứt, như Phật đã dạy trong pháp Tứ Chánh Cần: “ngăn ác diệt ác, sanh khởi thiện, tăng trưởng thiện.” Đó là pháp tu tập làm chủ nhân quả, chuyển nhân quả hay là pháp môn tu tập nhập định để làm chủ sanh tử, luân hồi.
Tóm lại, muốn làm chủ nhân quả, chấm dứt luân hồi là phải tu tập điều khiển khẩu hành, thân hành và ý hành luôn luôn thực hiện nhân thiện để tạo quả lành, hoàn toàn phải ngăn và diệt trừ nhân ác. Đó là giai đoạn tu tập thứ nhất mà người đệ tử của Phật cần phải tinh cần siêng năng tu tập, không được biếng trễ (Sơ Thiền). Muốn làm chủ điều khiển nghiệp quả của thân (lão, bệnh, tử) thì phải tu tập nhập Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền. Đó là giai đoạn thứ hai mà người đệ tử của Phật cần phải tinh cần tinh tấn siêng năng tu tập không được biếng trễ.
Muốn điều khiển làm chủ sự tái sanh luân hồi thì phải tu tập Tứ Niệm Xứ để có Tứ Thần Túc. Đó là giai đoạn thứ ba, người đệ tử của Phật cần phải tinh cần tinh tấn, siêng năng tu tập không được biếng trễ. Quý phật tử đừng hiểu lầm làm chủ nhân quả là dừng nhân quả. Hay nói cách khác, làm chủ nhân quả có nghĩa là làm cho thân tâm thanh thản, an lạc trước thọ lạc, thọ khổ, thọ bất lạc bất khổ chứ không như “Bất muội nhân quả” của các nhà Đại Thừa và Thiền Đông Độ.
Tóm lại, làm chủ nhân quả tức là làm chủ thân tâm của mình trước các pháp ác, bất thiện pháp, khiến cho thân tâm bất động và tự tại.
100. LOÀI THỰC VẬT CÓ CẢM NHẬN SỰ ĐAU KHỔ KHÔNG?
Hỏi: Kính thưa Thầy! Con là người mới bước vào tìm hiểu và tu theo Phật giáo, con có một thắc mắc nhỏ, xin mạo muội được đưa ra và kính mong Thầy giải đáp giùm! Với đôi mắt bình thường (nhục nhãn) của con, con chỉ thấy các con vật (động vật) kêu đau khổ, vì vậy con rất thương hại chúng; con muốn hỏi Thầy: Những loài thực vật như cây đậu phọng, cây mè, cây đậu nành, các loài rau và cây ăn quả. Khi chúng ta nhổ chúng để ăn thì chúng có biết đau đớn không ạ!
Thắc mắc của con là như thế đấy. Chúng con nhìn vạn vật với đôi mắt bình thường thì không thấy các loại cây đau đớn khi bị nhổ lên làm thực phẩm. Nhưng với trí Tuệ Tam Minh và thiên nhãn của Thầy thì Thầy có cảm nhận được nỗi đau của thực vật không? (Cây lương thực, cây ăn quả, rau …)
Thắc mắc trên của con có vẻ rất đơn giản và buồn cười, nhưng con thực sự kính mong Thầy giải thích giùm để con thông suốt! Con kính chúc Thầy sức khỏe an lạc! Kính thư!
Đáp: Câu hỏi của con là một câu hỏi mà nhiều người muốn thưa hỏi, nhưng e ngại không dám hỏi và không biết ai để hỏi. Con hãy lắng nghe, Thầy sẽ giảng nói cho con hiểu: Nếu Thầy dùng Tam Minh giảng nói cho con nghe loài thực vật có cảm giác đau đớn thì con không đủ lòng tin nơi Thầy. Tại sao vậy? Vì các con không có Tam Minh. Cho nên, Thầy dùng ý thức giải thích để các con dễ hiểu.
Hành tinh chúng ta đang nương tựa sống là hành tinh sống mà ai cũng biết. Vì thế mọi vật trên hành tinh này đều có sự sống như nhau. Từ loài thực vật rong rêu, cỏ cây đến loài động vật nhỏ nhất như: vi khuẩn, côn trùng; lớn nhất như loài chim đại bàng, kình ngư ... đều có sự sống.
Mọi vật đều có sự sống thì phải có sự cảm nhận. Loài động vật thì ai cũng biết chúng có sự cảm nhận rõ ràng như nhau. Còn loài thực vật chúng có cảm nhận không?
Câu hỏi của con trên đây là muốn biết loài thực vật có cảm nhận đau đớn hay không? Có con ạ! Tại sao chúng ta biết như vậy? Có nhiều trường hợp chúng ta quan sát sẽ thấy những loài thực vật có cảm nhận như: tất cả cây thảo mộc, nhất là cây trinh nữ (mắc cỡ). Để chứng minh điều này, khi chúng ta đụng vào cây trinh nữ thì cây liền co cành lá xuống. Còn tất cả các loài cây thảo mộc khác khi bị che khuất áng sáng thì chúng đều nghiêng mình theo hướng có ánh sáng, hoặc chúng ta đổ một đống phân, một thời gian sau chúng ta đều thấy những rễ cây hướng về đống phân.
Như vậy, tất cả loài thảo mộc đều có sự cảm nhận, có sự cảm nhận là có sự đau đớn, nhưng chúng ta không phát hiện ra được âm thanh của những loài thảo mộc kêu khóc, thở than như loài động vật. Nhưng chúng có những hiện tượng héo úa, tàn tạ nơi cành lá, chứng tỏ chúng cũng sầu khổ trước cảnh chia ly cùng mọi vật vào cõi vĩnh hằng. Con có nhìn thấy không con?
Khi nhận ra được những điều này, đứng trước sự sống và sự đau khổ của mọi loài và lòng thương yêu sự sống của muôn vật thì chúng ta phải làm sao hỡi con? Chúng ta biết sống, biết đau khổ, biết thương yêu sự sống, biết khóc thương sự đau khổ của mình, của người, của muôn loài vật sống khác nhau. Sao chúng ta lại nỡ nhẫn tâm nuôi sống thân mình bằng những sự đau khổ của muôn loài vật khác? Sao chúng ta lại nỡ nhẫn tâm nhai nuốt được những sự sống của muôn loài vật khác? Lòng yêu thương có cho phép chúng ta sống như vậy trên sự sống và sự đau khổ của muôn loài không hỡi con?
Phải chấm dứt sự tái sinh luân hồi con ạ! Phải thoát ra khỏi kiếp làm người, làm chúng sanh con ạ! Muốn được vậy thì chỉ có một con đường duy nhất, đó là con đường Bát Chánh Đạo của Phật giáo. Con đường ấy sẽ giúp chúng ta thoát kiếp làm người, làm chúng sanh và sống trọn vẹn trong lòng yêu thương của một con người thật là người muôn thuở. Phải không con?
Xét cho tận cùng sự sống trên hành tinh này là một sự khổ đau. Loài này ăn thịt loài kia để sống, loài kia ăn thịt loài này để sống thì thật là đau lòng. Phải không con?
Chính chúng ta là những người ăn thực phẩm thực vật để sống, khi biết cây cỏ thảo mộc có cảm nhận sự đau khổ thì chúng ta chỉ còn quyết tu tập cho ra khỏi nhà sinh tử, chấm dứt luân hồi, chứ không còn tha thiết sống trong sự phải nhai nuốt nhau để sống. Sống trong sự đau khổ của nhau.
Xét cho tận cùng, mọi sự sống trên thế gian này là một sự đau khổ tận cùng của sự đau khổ, chúng ta hãy vượt ra những sự đau khổ này các con ạ! Như Đức Phật đã dạy: “Đứng lại thì chìm xuống, tiến tới thì trôi dạt, chỉ có vượt qua.” Nhưng vượt qua bằng cách nào? Bằng chân lý thứ ba “Diệt Đế” tức là Tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ, là tâm thanh thản, an lạc và vô sự.
Phải cố gắng lên các con ạ! Đời có gì vui đâu, toàn là sự khổ đau. Chúng ta đang sống thì có bao nhiêu loài thực vật, động vật đau khổ và chết. Phải không hỡi con? “Nước mắt chúng sanh nhiều hơn nước biển,” lời dạy này không sai con ạ! Chúng ta làm sao đây hỡi con? Hãy bắt chước Phật. Người đã vượt qua, Thầy đã vượt qua, Bây giờ các con hãy vượt qua. Cố gắng lên các con ạ! Có Thầy, có Phật giúp đỡ chắc chắn các con cũng sẽ vượt qua đến bờ bên kia. Chúc các con thành công.
101. ĂN CHAY LÀM CÂY CỎ BIẾT ĐAU
Hỏi: Kính bạch Hoà Thượng! Con còn hai điều không biết rõ, xin Hoà Thượng chỉ dạy:
1- Có người bảo rằng: “Ăn chay để tránh sự sát sanh đau khổ, vậy cây cỏ đang sống mình bẻ ngang ăn, nó cũng biết đau đớn vậy? Con không biết phải trả lời sao cho đúng với đạo đức nhân quả.
2- Có một số người nói: “Trứng gà công nghiệp dùng cho ăn chay được, tại vì nó không có kết hợp trống mái?” Kính bạch Hoà Thượng! Những điều trên đây con chưa thấu hiểu. Ngưỡng mong Hoà Thượng dành chút thời gian quý báu để chỉ dạy cho con được rõ. Con xin kính chúc cho Hoà Thượng và cô Út được nhiều sức khoẻ và ánh sáng chánh Phật pháp luôn lan tràn khắp hành tinh này.
Đáp: Nếu con trả lời ngắn gọn thì nên hỏi lại: “Các bạn có bệnh thần kinh không? Chỉ có những người bệnh thần kinh mới có cảm tưởng cây cỏ biết đau khổ. Khi biết chúng đau khổ, sao bạn lại nhẫn tâm ăn chúng?”
1- Nói cỏ cây biết đau khổ là nói đúng, nhưng các bạn nhận ra sự đau khổ của nó bằng gì? Các bạn không chứng minh được cây cỏ đau khổ, chỉ nói trong tưởng thành các bạn nói sai. Khi muốn nói cây cỏ đau khổ thì phải nói có một sự chứng minh cụ thể các bạn ạ!
Khi ta bẻ ngọn, cắt cành, nhổ gốc, sao loài thực vật không kêu la, rên xiết, không giãy giụa phản ứng như loài động vật vậy? Ý của các bạn trên đây là bạn sống trong tưởng tri, “tưởng cây cỏ biết đau khổ.” Chứ các bạn không chứng nghiệm được sự khổ đau của nó. Các bạn sống trong tưởng như những nhà thơ, nhà văn. Vì nhân quả khổ đau của chính mình mà ta không nỡ nhẫn tâm sống trên tiếng kêu la rên xiết, giãy giụa khổ đau của loài động vật.
Thực vật tuy có đời sống, có sự đau khổ như loài động vật, nhưng không kêu la, không giãy giụa, không máu đổ v.v...Vì thế ta mới sống trong thực phẩm thực vật để không còn mắt thấy sự giãy giụa, máu đổ, thịt rơi; để không còn tai nghe tiếng kêu la, rên xiết của loài động vật trước khi tắt thở.
Các bạn có những lý luận này là chính các bạn đã tự dối lòng mình, tự mâu thuẫn với sự sống của mình. Vì chính các bạn đang sống trong các loại thực phẩm động vật và thực vật mà các bạn có như thật biết chúng đau khổ đâu. Các bạn đâu có lòng thương yêu chúng, các bạn đang nhai nuốt chúng, đang nỡ nhẫn tâm chà đạp lên sự sống của chúng, các bạn chỉ nói lời ấy là để bác bỏ đạo đức hiếu sinh của người khác.
“Mình sống không đạo đức hiếu sinh thì cũng muốn người khác sống không đạo đức như mình.” Ý các bạn hỏi câu này là chỉ cho những người ăn thực phẩm thực vật cũng giống như những người ăn thực phẩm động vật. Vì cả hai đều có sự đau khổ như nhau; ý các bạn hỏi câu này không phải các bạn thương yêu sự sống của muôn loài. Bởi vì các bạn đang sống bằng xương máu của động vật và thực vật.
Chúng tôi biết rất rõ tâm các bạn đều sợ đau khổ, sợ chết, đều ước mong có sự bình an, yên lành. Thế mà hằng ngày các bạn lại sống trong sự đau khổ của loài động vật, thực vật khác. Các bạn sống vui cười hạnh phúc trong sự khổ đau của động vật và thực vật. Các bạn có biết không?
Các bạn có biết sự đau khổ không? Các bạn chỉ nói được bằng miệng: “Cỏ cây cũng biết đau khổ,” chứ các bạn có biết chúng đau khổ như thế nào đâu?
Ví dụ: Nếu có ai đánh đập, đâm chém và làm thịt các bạn thì các bạn nghĩ sao? Chừng đó các bạn mới nếm được mùi vị đau khổ như thật; chừng đó các bạn mới có buồn khổ, căm tức và thù hận kẻ làm đau khổ mình... Nếu các bạn hỏi được câu này thì các bạn đừng ăn thực phẩm động vật và thực phẩm thực vật thì sự sống của các bạn sẽ ra sao, các bạn có biết không? Có lẽ các bạn là cỏ cây nên đã cảm thông với cỏ cây mà nêu ra những ý kiến này. Nếu các bạn thật sự là cỏ cây, đất đá thì chúng tôi không có ý kiến gì với các bạn cả, vì các bạn nói đúng. Còn chúng tôi nói cỏ cây có sự đau khổ là có sự chứng minh cho các bạn thấy cụ thể.
Còn các bạn là cỏ cây, đất đá... thật thì làm sao các bạn có ý kiến, có cảm giác của loài động vật. Những loài động vật có ý kiến là loài người các bạn ạ! Mà loài người thì sống phải có đạo đức, có tình cảm, có lương tri, lương năng, có sự yêu thương nhau. Các bạn là con người, sao gợi lên những ý tưởng không đúng sự thật “cây cỏ biết đau khổ,” cây cỏ biết đau khổ có bao giờ nói với các bạn chưa? Các bạn có thấy chúng đau khổ chưa? Chúng biểu hiện sự đau khổ ấy như thế nào?
Các bạn giàu tưởng tượng để bắt bí người khác không sống trong ảo tưởng như các bạn; để lôi kéo người khác vào sự khổ đau bằng chính những hành động ác của họ (nhân ác); để lôi kéo những người khác vào sự phá hoại sự sống trên hành tinh này, chứ nào bạn có thương yêu sự sống của muôn loài. Bằng chứng bạn nói cỏ cây đều biết có sự đau khổ, nhưng bạn vẫn sống trên sự đau khổ không những của loài động vật mà còn loài thực vật nữa.
Trên hành tinh này là hành tinh có môi trường sống, vì thế mọi vật luôn luôn phải biết bảo vệ sự sống của nhau, cỏ cây nuôi loài động vật, động vật phải biết bảo dưỡng cỏ cây thì môi trường sống càng ngày càng tốt đẹp hơn, do đó cỏ cây xanh tươi mát mẻ, loài động vật thương yêu nhau như anh em trong một nhà. Ngược lại, hiện giờ loài động vật đang tự hoại diệt sự sống của nhau trên hành tinh này.
Thực vật để lại hoa trái và lá nuôi loài động vật, loài động vật thì biết chăm sóc bón phân, tưới nước cho loài thực vật thì bông, trái, lá là món ăn của loài động vật và loài động vật ăn hoài không hết. Ngược lại con người và loài vật lớp ăn lớp diệt khiến cho cây cỏ cằn cỗi khô chết, thậm chí người ta còn đốt rừng phá hoại sự sống của ngàn cây nội cỏ và còn ăn thịt lẫn nhau. Ngàn cây nội cỏ là sự sống của loài động vật, thế mà người ta còn huỷ diệt, huống là loài động vật thì làm sao mà không ăn thịt lẫn nhau. Con lớn ăn thịt con bé, con mạnh ăn hiếp con yếu. Đó là một hình ảnh bất công phi đạo đức trên môi trường sống này, trên hành tinh này, là một nỗi buồn đau của những người biết thương yêu sự sống của muôn loài.
Với những người này con nên trả lời đúng nhân quả: Khi bạn biết nó đau đớn thì bạn đừng có ăn nó, còn chúng tôi chỉ biết loài động vật có sự đau đớn nên chúng tôi không ăn. Bạn biết cây cỏ đau đớn mà bạn ăn nó, tức là bạn quá ác tâm, quá tàn nhẫn, mà người quá ác tâm, quá tàn nhẫn như vậy thì có khác chi là loài ác quỷ. Còn chúng tôi biết cỏ cây có sự đau đớn, nên chúng tôi quyết chí tu hành để chỉ còn có một kiếp này nữa mà thôi. Vì có sự sống này là có sự khổ đau và chúng tôi không muốn thấy sự khổ đau nữa dù bất cứ loài động vật hay loài thực vật.
2- Trứng gà công nghiệp, người ăn chay có thể dùng được, vì không có sự đau khổ trong ấy. Nhưng ăn chay kiểu đó chỉ mới thực hiện được lòng thương yêu (lòng từ bi) chứ chưa thực hiện được sự thanh tịnh của thân, tâm.
Trong trứng gà, vịt có chất bất tịnh mùi tanh của nó. Một người muốn nhập được thiền định làm chủ sự sống chết mà thân tâm không thanh tịnh thì làm sao nhập định được? Vốn trong thực phẩm động vật có nhiều chất độc và nhiều chất bất tịnh, vì thế người muốn tu tập để thân tâm thanh tịnh và giải thoát hoàn toàn thì phải ăn uống rau quả là tốt nhất.
Trứng gà, vịt là một chất bất tịnh nên khi ăn nó, chúng ta cần phải có sự tư duy kỹ. Nếu sống để ăn thì nên ăn. Còn ăn để sống, để tu, để ly dục ly ác pháp, để thân tâm thanh tịnh, để thân tâm nhập được thiền định thì không nên ăn. Do sự tu tập giúp cho thân tâm thanh tịnh thì chúng ta còn phải tránh ăn năm loại rau kích dục và có mùi tanh hôi như: Hành, hẹ, tỏi, nén và rau dấp cá, huống hồ là ăn trứng gà, vịt.
Thăm và chúc con vui mạnh, tu tập xả tâm tốt.
Hỏi: Kính thưa Thầy! Muốn biết một người tu sĩ có phải là một bậc Thánh để cho cư sĩ thân cận học hỏi giáo pháp thì phải căn cứ vào những tiêu chuẩn như thế nào để đánh giá? Để khỏi uổng phí thời gian tu tập của mình, nếu vị tu sĩ này xuất gia không phải vì lý tưởng giác ngộ giải thoát.
Đáp: Đánh giá một người tu sĩ Phật giáo là phải đánh giá ở chỗ Thánh hạnh của vị tu sĩ ấy, nghĩa là vị tu sĩ không vi phạm giới luật. Muốn đánh giá đúng một tu sĩ đạo Phật thì hãy đem một trăm hai mươi giới (120 giới) đức Thánh Tăng mà kê ra thì thấy rất rõ ràng. Phàm Tăng và Thánh Tăng không giống nhau. Cũng như chúng ta nhìn vào một đoàn dê và bò, bò thì ra bò mà dê thì ra dê, không thể lầm lẫn được.
Ngày xưa, thời Đức Phật còn tại thế, vua Ba Tư Nặc hỏi:
- Bạch Thế Tôn! Chúng con thấy một đoàn khất sĩ đi qua, muốn biết người chứng quả A-la-hán, thì chúng con phải làm sao?
Đức Phật trả lời:
- Muốn biết ai là người chứng quả A-la-hán thì nên ở gần người ấy nhận xét oai nghi tế hạnh giới luật.
Đức Phật ngày xưa đã dạy như vậy, thì bây giờ chúng ta cứ theo đó mà nhận xét giới luật đức hạnh của tu sĩ thì biết ngay vị tu sĩ nào là ngoại đạo Bà La Môn và vị tu sĩ nào là Thánh Tăng đệ tử của Phật giáo. Xin quý phật tử nên nhớ:
“Giới luật còn là Phật giáo còn, Giới luật mất là Phật giáo mất.”
Người tu sĩ Phật giáo sống đúng giới là Phật giáo còn, người tu sĩ Phật giáo phạm giới, phá giới, bẻ vụn giới là Phật giáo mất. Thánh Tăng từ giới mà sinh ra. Giới luật sinh các bậc A-la-hán, chứ không phải những tu sĩ có thần thông hoặc ngồi thiền 5, 7 ngày, hoặc kiến tánh thành Phật hoặc trực vãng Tây phương cõi Cực Lạc hay Thiên Đàng.
103. BẢN NGÃ
Hỏi: Kính thưa Thầy! Có một số người khi mới phát tâm tu, hoặc làm công quả ở chùa làm chức hướng dẫn cư sĩ và làm từ thiện xã hội mấy năm đầu thì thấy khuôn mặt rất dễ thương, nhưng khoảng thời gian sau thì nhìn khuôn mặt thấy quậy beo, đụng việc người khác làm trái ý mình thì nổi sân đùng đùng. Có phải những người này làm phước mà còn cầu phước, không có phương pháp tu tập để kiểm soát bản ngã của mình? Khi thấy mình có công đôi chút thì tỏ vẻ hơn người, nên khi ai làm trái ý họ thì họ bực tức. Con hiểu như vậy có đúng không?
Đáp: Phần đông người ta tu phước hữu lậu, nên làm có chút ít công đức thì bản ngã to ra, con hiểu như vậy rất đúng. Người có phước hữu lậu thì bản ngã theo phước đó mà to lớn ra, không những riêng cư sĩ mà cả tu sĩ nữa. Cho nên các vị tôn túc Hòa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức Tăng, Ni hiện giờ hầu hết đều không tu tập đúng pháp ly dục ly ác pháp của Phật giáo Nguyên Thủy. Cứ theo lộ trình Bồ Tát đạo của Đại Thừa tu phước hữu lậu thì bản ngã sẽ to lớn vĩ đại. To lớn theo tiền bạc, chùa to, Phật lớn, danh cao, chức trọng v.v... Vì thế các vị này dễ sân, dễ phiền não, đời sống của họ trong dục lạc của thế gian, ăn ngủ phi thời. Họ chẳng bao giờ nếm được mùi vị giải thoát chân thật của Phật giáo.
104. BỊ NGOẠI ĐẠO KHIÊU KHÍCH
Hỏi: Kính bạch Thầy! Con là Chơn Đức xin Thầy hoan hỷ chỉ dẫn cho con hiểu những điều dưới đây: Khi bị ngoại đạo khiêu khích bằng lời nói nhạo báng, nói xấu xa hoặc bằng vũ lực thì chúng con phải giải quyết xử trí như thế nào?
Đáp: Chúng ta nên noi theo gương hạnh của Đức Phật ngày xưa, khi đứng trước ác pháp thì phải “Im lặng như Thánh.” Trước những lời khiêu khích, cũng như những lời nhạo báng nói xấu, cho đến họ dùng vũ lực để đánh chúng ta thì chúng ta cứ nhẫn nhịn và chạy tránh là hay nhất.
Đức Phật thường răn nhắc chúng ta:
“Nó mắng tôi, đánh tôi
Nó hại tôi, cướp tôi
Không ôm ấp niệm ấy
Hận thù sẽ tự nguôi.”
Lời dạy này trong kinh Pháp Cú, chúng ta nên áp dụng vào đời sống hằng ngày thì lời khen cũng như lời chê, lời khiêu khích, lời nhạo báng, nói xấu xa cho đến dùng vũ lực để đánh, chúng ta điều hóa giải được.
Một hôm có một vị Bà La Môn đến chửi mắng Phật, Phật vẫn im lặng, người ấy chửi mắng đã, rồi bỏ ra về. Thấy thế ông A Nan hỏi Phật. Sao Đức Thế Tôn không có lời nào?
Đức Phật bảo: - Như người mang bánh đến cho ta, nhưng ta không nhận thì người ấy làm sao? Họ đem bỏ hay mang về?
Ông A Nan nói: - Bạch Thế Tôn, họ mang về.
Phật đáp: - Cũng vậy, họ chửi ta mà ta không chửi lại và không hờn giận họ thì cũng giống như một người mang bánh cho ta mà ta không nhận thì họ phải mang về nhà.
Cách thức im lặng như Thánh là chúng ta không nhận những lời mắng chửi nhạo báng trên, còn chúng ta mở lời nói trái, phân phải là chúng ta đã nhận những lời mắng chửi nhạo báng đó. Cũng giống như người ta mang bánh cho mình vậy, không nhận thì họ mang về. Lối nhẫn nhục trên đây thật là tuyệt vời, nhưng nếu chúng ta không rèn luyện tu tập đầy đủ sức định tỉnh thì cũng khó im lặng như Thánh.
Xưa, ông Phú Lâu Na xin Phật đi vào một xứ xa để độ họ tu tập thiện pháp, nhưng người dân ở đó rất là hung dữ.
Phật hỏi ông: - Khi người ta chửi ông.
Ông đáp: - Người ta còn thương con.
Ví dụ: Khi người ta chửi con, nói con là ngoại đạo thì con nên thương họ, vì họ nói như vậy chính họ là ngoại đạo. Chỉ có ngoại đạo mới tâm hung dữ chửi mắng người như vậy.
Phật hỏi: - Khi người ta đánh ông.
Ông Phú Lâu Na đáp: - Người ta còn thương con.
Phật hỏi: - Khi người ta giết ông.
Ông đáp: - Người ta thương con.
Pháp sai chứ người đâu có sai, pháp có pháp ngoại đạo, chứ người đâu có người ngoại đạo, chỉ vì người theo pháp sai mà không biết, cho nên chửi mắng người khác là ngoại đạo làm sai. Vì biết đâu vui kia mất nọ, vui nọ mất kia, người bỏ pháp tà tu lại đúng chánh pháp thì sao gọi họ là ngoại đạo được. Cho nên khi người ta mắng chửi mình thì mình chỉ nên im lặng như Thánh và nên thương họ vì họ là người đáng thương.
105. THANH MINH
Hỏi: Kính thưa Thầy, có những điều vu khống sai sự thật, có cần phải thanh minh làm sáng tỏ không?
Đáp: Có lúc cần thanh minh nhưng cũng có lúc không cần thanh minh. Nếu chung quanh chúng ta toàn là những người ác thì chúng ta không nên thanh minh vì có thanh minh thì cũng không bao giờ có người chịu nghe, càng thanh minh thì càng thêm thù oán, “thanh minh oán hận càng sanh.” Lúc bấy giờ chúng ta cần phải im lặng như Thánh.
Tại đất nước Phù Tang, có một nhà sư đến xin ở trong một ngôi chùa làng để tu hành. Sau năm tháng ở đây, có một cô gái mang thai đến khai rằng: ông là tác giả đứa bé trong bụng cô. Nhà sư không buồn, không giận và cũng không minh oan mà chỉ trả lời bằng câu:
- Thế à!
Đến khi sanh con ra, cô gái này bế cháu bé giao cho ông. Ông nhận lãnh cháu bé cũng không buồn, không giận và cũng không minh oan và ông cũng dùng câu trả lời ngắn gọn:
- Thế à!
Trước sự im lặng nhẫn nại như Thánh, cuối cùng cô này đến xin đứa con trở lại, vì xấu hổ, ăn năn, sám hối lỗi lầm của mình. Khi cô gái kia biết lỗi ăn năn sám hối, nhà sư vẫn vui vẻ trao trả lại đứa con cho cô và cũng chỉ trả lời ngắn gọn:
- Thế à!
Chúng ta cũng đều học Phật, nên ai không biết lời dạy này: “Oan ức không cần mình oan, minh oan oán hận dễ sanh.”
Trên đây là những gương hạnh im lặng như Thánh mà Đức Phật đã từng dạy cho đệ tử của Người. Vậy chúng ta cũng nên noi gương những bậc Thánh Tăng này mà im lặng như Thánh thì tốt nhất.
Hỏi: Kính thưa Thầy, khi tu hành theo Phật giáo có cần phải tham khảo những sách khoa học kỹ thuật, nghe tin tức thời sự, thời tiết qua hình thức phát thanh và truyền hình của Nhà nước không?
Đáp: Người tu hành để cầu sự giải thoát thì đâu còn có thì giờ rảnh để nghiên cứu sách khoa học kỹ thuật, nghe tin tức thời sự, thời tiết qua hình thức báo chí, phát thanh và truyền hình của nhà nước.
Sanh tử là việc lớn, còn nghiên cứu sách khoa học kỹ thuật, nghe tin tức thời sự chỉ là một việc nhỏ. Sự tìm hiểu đó cũng chỉ để hiểu biết trong vòng thế tục, cũng để hiểu biết trong hạn hẹp của đầu óc con người chứ không thể nào vượt không gian và thời gian để hiểu biết thấu suốt sự vận hành của vũ trụ.
Sự hiểu của khoa học kỹ thuật tin tức thời tiết chẳng có gì ích lợi cho sự tu tập của một người muốn ra khỏi vòng tục lụy luân hồi sanh tử. Sự tu tập theo Phật giáo là một sự khám phá tìm hiểu để biết thâm sâu vào tâm linh của con người. Sự tìm hiểu biết ấy thì khoa học kỹ thuật chẳng có thể giúp họ hiểu biết được những gì thêm mà còn chướng ngại cho sự tu tập.
Người tu sĩ Phật giáo mà còn tìm hiểu theo dõi tin tức trong nước cũng như thế giới thì họ làm sao tu đến nơi đến chốn được. Đó là một phương tiện giúp cho tâm phóng dật dễ dàng. Tu theo Phật giáo chúng ta không còn có thì giờ rảnh để nghiên cứu sách đời, theo dõi tin tức điện đài ti vi v.v... suốt 24 giờ trên 24 giờ lúc nào cũng đang tu tập để quét cho sạch cái tâm nhiễm ô của mình. Theo dõi tin tức, nghiên cứu sách khoa học để hiểu biết nói ra, khiến cho mọi người phục mình chơi, chứ tu hành có ra gì, chỉ phí công mang tiếng là tu theo Phật giáo
107. TRỒNG RAU SẠCH
Hỏi: Kính thưa Thầy, trong điều kiện tu tập ở nơi không có điều kiện đi khất thực, có được phép trồng rau sạch để tránh khỏi bị ô nhiễm có được không?
Đáp: Câu hỏi được đặt ra là mất Chánh Nghiệp của đạo Phật. Người tu sĩ Phật giáo chỉ còn duy nhất có một Chánh Nghiệp. Đó là nghề đi ăn xin. Vì có ăn xin mới tu tập diệt ngã, xả tâm, ly dục ly ác pháp được, còn làm tất cả các nghề khác để sống là đi ngược lại với đạo Phật. Đi ngược lại với Phật giáo thì sự tu hành để cầu giải thoát chẳng bao giờ có giải thoát và còn làm mất thì giờ vô ích, uổng phí một đời tu hành chẳng ra gì.
Trồng lúa, rau cải để ăn như các nông dân thì nên làm nông dân, chứ đi tu có tu đến đâu? Có giải thoát được chỗ nào? Người tu sĩ đạo Phật phải là người du Tăng khất sĩ. Xưa Đức Phật nay ở chỗ này, mai ở chỗ khác, không có ở một chỗ nhất định. Ở đây thất mùa đói khát thì Đức Phật đi đến xứ khác, nơi đó được mùa, dễ xin ăn, chứ đâu như tu sĩ hiện giờ ở chết một chỗ.
Cái sai của trụ thế Tăng là vì cuộc sống tạo ra bao thứ nghề sống.
Hiện giờ khắp nơi trên đất nước chúng ta, có chùa thì làm ruộng rẫy, nuôi lợn, gà, vịt, dê, bò để sinh sống như nông dân; có chùa chuyên cúng bái, tế lễ làm những chuyện mê tín để kiếm sống; có chùa lại buôn bán nhang đèn, kinh sách, tương chao v.v... để sinh sống; có chùa chuyên đi thuyết giảng để sinh sống; có chùa làm những nghề thủ công đan, thêu, may mặc hoặc làm tương chao đem bán để sinh sống v.v...
Tất cả những việc làm này trong các chùa đều không đúng Chánh Nghiệp của Phật giáo, mọi nghề nghiệp làm để sinh sống Đức Phật đã cấm không cho, chỉ còn duy nhất là ôm bát đi xin ăn từng nhà. Nếu chỗ này không có điều kiện đi xin ăn được thì hãy đến chỗ khác, chỗ nào tiện lợi cho việc tu hành dù cực khổ đói khát ta cũng chấp nhận ở đó tu tập.
Tu sĩ mà làm mọi nghề để sống thì không đúng là tu sĩ Phật giáo. Cho đến cái nghề đi xin, mà xin tiền thì cũng không đúng, chỉ có được quyền đi xin thực phẩm vào lúc buổi trưa từ 10 giờ đến 12 giờ.
108. TU SĨ GẶT LÚA GIÚP DÂN
Hỏi: Kính thưa Thầy, trường hợp của Thầy Chân Trí lao động gặt lúa giúp dân có đúng không?
Đáp: Thầy Chân Trí gặt lúa giúp dân chỉ vì Thầy là người sống rảnh rỗi, không có pháp hành tu tập nên ra làm công quả giúp cho dân. Làm như vậy cũng tốt nhưng cuộc đời tu của thầy rất uổng phí. Một người chấp nhận tu hành theo đạo Phật là phải tu rốt ráo làm chủ cho được sanh tử mới thôi, còn có thì giờ rảnh rỗi đâu mà gặt lúa giúp dân. Tu như thầy Chân Trí mang tiếng đi tu, chứ thực chất tu chẳng đến đâu cả.
Người tu sĩ Phật giáo tu đến nỗi quên ăn, quên ngủ, tu đến nỗi tóc tai, râu ria móng tay, móng chân quên cắt tỉa. Tu chỉ biết tu, không còn biết tất cả những gì bên ngoài xảy ra thì sự tu hành mới có kết quả, nếu không tu được như vậy thì nên ra đời, sống đời cư sĩ thì làm mọi nghề đều được cả, chỉ trừ sáu nghề Phật đã cấm, còn riêng tu sĩ thì không nên làm nghề nghiệp nào khác, chỉ có nghề duy nhất đi xin ăn và tu tập ngày đêm không rảnh rỗi.
Gặt lúa giúp dân là tốt, nhưng với người tu sĩ làm như vậy là sai. Người tu sĩ làm như vậy là phi Phạm hạnh, là phạm giới luật, là không xứng đáng làm đệ tử của Phật. Một đời đi tu là tìm cầu sự giải thoát, cớ sao lại đi gặt lúa làm nông dân thì còn nghĩa lý gì giải thoát. Làm như vậy không xứng đáng là tu sĩ Phật giáo.
109. CỨU TRỢ
Hỏi: Kính thưa Thầy, khi gặp thiên tai bão lụt có nên tham gia cứu trợ không?
Đáp: Người tu sĩ là một người chấp nhận nghèo để xin ăn hằng ngày thì lấy đâu mà cứu độ thiên tai bão lụt cho đồng bào. Khi tham gia vào công tác từ thiện này thì phải có tiền của, không có tiền của mà tham gia thì kêu gọi phật tử, nhưng phật tử là những người công dân trong một nước nên được Nhà nước kêu gọi đóng góp để cứu trợ, thế mà ta lại kêu gọi họ đóng góp cứu trợ một lần nữa thì thật là đáng thương cho họ, họ phải đóng góp nhiều đoàn thể, như vậy chẳng khác nào chúng ta đã rút mồ hôi nước mắt của họ để làm từ thiện.
Nếu chúng ta là người tu sĩ Phật giáo mà không khởi chút lòng thương họ, chỉ biết chuộng danh từ làm từ thiện thì chắc là chúng ta sẽ làm khổ người khác. Việc làm từ thiện này là của người cư sĩ, họ là những người làm ra của, còn chúng ta là tu sĩ còn có vật chất gì cho ai.
Vả lại những người đang bị cảnh thiên tai không phải là ngẫu nhiên mà do nhân quả của họ. Do làm ác mà phải gặt lấy những hậu quả này. Đứng trước cảnh ấy chúng ta không nỡ nhẫn tâm nhìn họ trong cảnh màn trời chiếu đất. Vì thế chúng ta kêu gọi người một ít giúp họ vượt khó.
Ở đây, tùy theo mức độ và tinh thần cứu trợ của phật tử “Lá lành đùm lá rách” thì cứu trợ rất tốt, không có vi phạm gì cả.
110. ĐƯỢC PHÉP BÁN SẢN PHẨM THỪA KHÔNG?
Hỏi: Kính thưa Thầy, những trường hợp nào được mua bán vật phẩm cụ thể như có sản phẩm thừa có được phép bán không?
Đáp: Một người tu sĩ làm sao có sản phẩm thừa hay sản xuất ra sản phẩm mà bán? Theo lời dạy của Đức Phật: Chỉ trong một bữa ăn còn thừa ra ngoài thì nên bố thí, không được để dành thực phẩm ăn uống cách đêm, vì để dành thực phẩm ăn uống cách đêm sẽ bị phạm giới tức là phạm tội Ni Tát Kỳ Ba Dật Đề.
Người tu sĩ theo Phật giáo không được phép làm bất cứ một nghề nghiệp nào khác, ngoài nghề đi khất thực ra. Nghề đi khất thực về ăn ngày đó còn không được để lại thực phẩm qua đêm, vì để lại thực phẩm qua đêm thì không xứng đáng là đệ tử của Phật. Ăn ngày đó chỉ biết ngày đó, không được phép để dành ngày khác, dẫu cho hạt muối còn không giữ lại được huống là những vật gì.
Câu hỏi của con là để hỏi cho những người mượn Phật giáo làm cuộc sống, lấy Phật giáo kinh doanh cho cuộc sống, giống như các thầy Đại Thừa, chứ người đệ tử của Phật là những người đã giải thoát khỏi tiền bạc, danh lợi và những vật chất thì có sản phẩm nào mà buôn bán. Đời sống chỉ còn ba y một bát, không có thừa một vật gì thì lấy đâu mà buôn bán.
Một người đã chấp nhận theo Phật giáo tu hành thì không được quyền cất giữ tiền bạc. Tiền bạc mà không được quyền cất giữ thì có vật gì thừa đâu mà bán? Ăn xin còn không có đủ ăn có đâu thừa mà bán.
Chấp nhận sự giải thoát trong đạo Phật là chấp nhận một cuộc sống thiểu dục tri túc tận cùng. Cho nên làm tu sĩ Đại Thừa thì dễ, chứ làm tu sĩ của Phật thì rất khó, rất nghèo, nhưng không khổ con ạ! Tâm hồn luôn được thanh thản, an lạc và vô sự không bị mọi vật chất tiền bạc, danh lợi ràng buộc. Người nào có sống như vậy mới tìm thấy sự giải thoát chân thật của đạo Phật.
Còn làm ra vật phẩm để buôn bán, để có tiền chi tiêu, để sống như một người sống thường tình cũng như bao nhiêu người khác trong thế gian này thì chúng ta khó mà tìm thấy sự giải thoát của Phật giáo.
111. TRỒNG RAU LÚA SẠCH TRÁNH THUỐC SÂU RẦY
Hỏi: Kính thưa Thầy, trồng rau lúa để tránh khỏi bị ô nhiễm thuốc sâu rầy có được không?
Đáp: Đã sợ chết thì đừng nên đi tu, vì đi tu là chấp nhận sự xin ăn, mà đã đi xin ăn thì người ta cho cái gì về ăn cái nấy để sống mà tu chứ không cho phép phải lựa chọn rau lúa không bị ô nhiễm bởi thuốc sâu rầy.
Ăn để sống, sống để tu hành chứ không phải lo những điều không thể lo được. Vì cả một đất nước nông dân sản xuất rau, cải, lúa, đậu v.v... đều phải phòng ngừa sau rầy bằng cách phun thuốc và chăm bón phân hóa học thì còn tránh đâu cho khỏi. Đất đai của chúng ta đã bạc màu, nếu không dùng phân hóa học thì rau, đậu, lúa, khoai làm sao lên được.
Mọi người sống như thế nào thì ta nên sống như thế ấy. Mục đích tu hành là để thoát ra khỏi kiếp làm người mang đầy dẫy những sự khổ đau. Mục đích tu hành là để chấm dứt luân hồi sanh tử, để không còn tái sanh lại trong thế giới này nữa. Vì vậy mà chúng ta phải tu hành là để cho tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ, chứ không phải sợ hãi lo lắng như con hiện giờ là không đúng chánh pháp của Phật.
112. LỄ NGHI ĐỐI VỚI NGOẠI ĐẠO
Hỏi: Kính thưa Thầy, theo như lời dạy của Thầy, đạo Phật ngày nay đã bị tà sư ngoại đạo làm biến dạng: cụ thể là kinh sách Đại Thừa và Thiền Đông Độ… Vậy chúng con khi gặp gỡ và tiếp xúc thì phần lễ nghi phải như thế nào cho đúng oai nghi tế hạnh đối với các tu sĩ ngoại đạo này?
Đáp: Khi các con gặp các nhà sư Đại Thừa hay các thiền sư Đông Độ thì các con nên chắp tay lên trước ngực, cúi đầu chào họ chứ không được niệm: “Mô Phật” như họ. Về lễ độ lịch sự của người tu sĩ Phật giáo chân chánh luôn luôn phải có thái độ kính trọng người khác dù người đó là một hạng người nào trong xã hội, chúng ta cũng đều phải cung kính, tôn trọng như nhau không phân biệt giàu sang, quyền thế. Tu sĩ hay không tu sĩ, người ân cũng như người oán thù đều phải giữ lễ độ, lúc gặp nhau phải chào hỏi chân tình chứ không phải chào hỏi lấy lệ.
Người thế tục khi chào hỏi theo kiểu phương Tây đều đưa tay bắt và nói: chào anh, chào chị, chào cô, chào chú, chào bác, chào thầy, chào em, chào các cháu v.v...
Người Đông phương theo tục lệ lễ nghĩa Nho giáo thì khoanh tay trước ngực cúi đầu và nói: con kính chào bác ạ! Con kính chào thầy ạ! Con kính chào mẹ! Con kính chào bố! ... Còn người lớn chào người nhỏ thì không có khoanh tay mà chỉ cúi đầu và nói, bố chào con! Mẹ chào con! Ông chào cháu! Anh chào em! ...
Về Phật giáo thì có vẻ bình đẳng hơn nhiều khi chào hỏi. Người lớn tuổi cũng như người nhỏ tuổi chỉ chắp tay để trước ngực chào. Theo Đại Thừa, khi chào như vậy thì nói: “A Di Đà Phật” hay “Mô Phật.”
Đối với chúng ta là người Việt Nam nên dung thông tinh thần lễ độ của Phật giáo cho phù hợp với dân tộc tính, bằng cách chắp tay lên trước ngực có lễ độ hiện tượng cung kính của Phật giáo tượng trưng hai bàn tay chắp lại là bông sen búp, tức là tỏ lòng trong sạch cung kính, tôn trọng chào người đối diện. Khi chắp tay lên xong chúng ta cúi đầu chào và nói: Con kính chào bác! Con kính chào bố! Con kính chào mẹ! Em kính chào chị! Em kính chào anh! v.v... đó là người nhỏ chào người lớn. Ngược lại người lớn chào người nhỏ thì cũng chắp tay lên ngực cúi đầu chào và nói: Bác chào cháu! Bố chào con! Mẹ chào con! v.v... nếu là bạn bè thì nói; chào bạn! v.v... Đó là phần chào hỏi của người cư sĩ.
Còn phần chào hỏi của người tu sĩ thì như thế nào? Một người đã xuất gia trở thành một tu sĩ khi về thăm nhà, cách lễ độ xưng hô chào hỏi những người thân trong gia đình phải rõ ràng để tránh khỏi người ta chê cười.
Khi xuất gia trở về thăm người thân trong gia đình phải chào hỏi như thế nào cho đúng cách?
Người xuất gia về thăm cha mẹ, khi gặp cha hay mẹ liền chắp tay lên trước ngực cúi đầu chào nói: Minh Quang xin chào bố! Hạnh Tâm xin chào mẹ! Tức là xưng pháp danh. Minh Quang hay Hạnh Tâm là pháp danh hay là pháp hiệu.
Người tu sĩ khi gặp nhau cách xưng hô nên dùng pháp danh hay pháp hiệu, chứ không được dùng tiếng xưng hô con, trò, cháu, thầy, sư, bác, chú, anh, chị, cô, dì, v.v... Vì đó là những tiếng xưng hô của những người chưa xuất gia, còn người xuất gia thì chỉ duy nhất dùng pháp danh và pháp hiệu để xưng hô như trên. Lấy pháp danh xưng hô nghe ngọt ngào và thân thiện đúng tư cách của một tu sĩ Phật giáo.
Bây giờ chúng ta đi sâu vào cách lễ nghi chào hỏi cho đúng cách. Đối với những người thân trong gia đình, khi gặp nhau chào hỏi bằng cách nào cho đúng?
1. Nếu xưng “con” thì giống như người thế tục.
2. Nếu xưng “thầy, sư” thì có vẻ như người trên.
3. Nếu xưng “bác, chú” thì có vẻ như thế tục.
4. Nếu xưng “trò” thì có vẻ là học trò Nho giáo, không đúng cách của người xuất gia Phật giáo.
Đối với người lớn tuổi trong gia đình như cha mẹ, cô, bác, dì, cậu, anh, chị thì nên xưng pháp danh. Ví dụ: Khi về thăm nhà gặp cha hay mẹ thì nên chắp tay trước ngực cúi đầu chào và nói: Minh Quang xin chào bố. Hạnh Tâm xin chào mẹ. Minh Quang xin chào bác, cô, dì, v.v...
Đối với các em, các cháu còn nhỏ tuổi, còn trẻ thì nên xưng thầy, sư. Thầy chào các cháu hay sư chào các cháu.
Đối với phật tử thì xưng thầy, sư.
Đối với những người xa lạ không phải là phật tử, người lớn tuổi cũng như người nhỏ tuổi đều xưng là: bần Tăng. Ví dụ: Khi gặp một người phật tử, dù tuổi già hay tuổi nhỏ, ta cũng đều chắp tay trước ngực, người lớn tuổi thì cúi đầu chào và nói: “Chào phật tử!” Người nhỏ tuổi thì chỉ chắp tay mà không cúi đầu và nói “Chào phật tử!” Khi gặp một người không phải là phật tử ta cũng chắp tay trước ngực, nếu là người lớn tuổi thì cúi đầu chào và nói: chào bác, chào chú, chào cô. Người nhỏ tuổi thì chắp tay nhưng không cúi đầu và nói: chào anh, chào chị ...
Đối với người khác tôn giáo thì ta cũng chắp tay chào, người lớn tuổi thì cúi đầu chào, còn người nhỏ tuổi thì không cúi đầu nhưng vẫn phải chắp tay trước ngực và nói: “Chào đạo hữu.”
113. Chào hỏi bạn bè cùng chung nhau một thầy
Hỏi: Kính thưa Thầy, các tu sĩ đã học ở Chơn Như từ trước đến nay thì có phân cấp quan hệ huynh đệ trước sau không? Khi gặp gỡ xưng hô như thế nào cho đúng?
Đáp: Các huynh đệ tu học ở Chơn Như chỉ có hai giai cấp:
1- Về cư sĩ: Tu chứng được gọi là Trưởng Lão. Ví dụ Trưởng Lão Thiện Quang (dù tuổi còn trẻ cũng vẫn gọi là Trưởng Lão). Tu chưa chứng gọi là cư sĩ Thiện Quang
2- Về tu sĩ: Tu chứng được gọi là Trưởng Lão. Ví dụ: Trưởng Lão Tịnh Quang (dù vị tu sĩ còn trẻ nhưng vẫn gọi là Trưởng Lão). Tu chưa chứng gọi là thầy. Ví dụ: Thầy Tịnh Quang.
Ở tu viện Chơn Như không có phân giai cấp, người đến trước, đến sau, mà căn cứ ở chỗ giữ gìn giới luật nghiêm túc và tu chứng.
Về phần người tu chứng thì người nào lớn tuổi hơn, thì theo tuổi tác mà phân làm anh em trong một nhà, chứ không phải tu chứng trước là anh mà tu chứng sau là em.
Về phần người tu chưa chứng thì người nào tuổi lớn hơn là anh chứ không phải người đến trước là anh, người đến sau là em.
Ở tu viện Chơn Như lấy tuổi tác và công đức tu hành mà phân làm anh em. Nhất là người tu chứng thì mới có đủ khả năng chỉ dạy cho người tu chưa chứng. Dù họ tuổi nhỏ nhưng về kinh nghiệm thì họ là bậc đàn anh, bậc hướng dẫn tu tập: cho nên họ được gọi Trưởng Lão.
Đối với người tu chứng nên gọi một cách tôn kính và thân mật “Thưa Thánh giả Trưởng Lão Tịnh Quang.”
Đối với người tu chưa chứng nhưng giữ gìn giới luật nghiêm túc thì nên gọi một cách tôn kính và thân mật bằng “Thưa Hiền giả Tịnh Quang.”
Đối với người tu chưa chứng mà giới luật không nghiêm chỉnh thì gọi “thầy Tịnh Quang.”
Còn về phần tự xưng thì người tu chứng hay chưa chứng đều không được xưng hay gọi “tôi, trò, ta, tao, mày, nó, hắn, y” mà nên tự xưng pháp danh “Tịnh Quang xin hỏi điều này” hay “Tịnh Quang xin chào.”
Muốn nói một điều gì thì không được xưng “tôi” mà nên nói “chúng tôi.” Còn muốn nói cá nhân mình thì xưng pháp danh. Ví dụ: “Nguyên Thanh” xin thưa hỏi. “Nguyên Thanh” có những câu hỏi xin Thầy chỉ dạy cho “Nguyên Thanh” rõ.
114. Khi vào chùa nên lễ vị Phật nào?
Hỏi: Kính thưa Thầy, trong trường hợp đi khất thực hoặc lý do nào đó mà phải vào chùa thưa hỏi thì nghi lễ như thế nào? Nếu phải lễ Phật thì lễ những bàn nào?
Đáp: Trường hợp có dịp đi tham quan ghé thăm một chùa nào. Khi vào chùa thì xin gặp thầy trụ trì, khi gặp thầy trụ trì thì chấp tay chào. Nếu người lớn tuổi thì gọi: Kính chào Thượng Tọa! Nếu người nhỏ tuổi thì gọi: Kính chào Đại Đức. Khi chào hỏi xong thì xin vị trụ trì cho lễ Phật thì nên đến trước tượng Phật Thích Ca lễ lạy hoặc xá một xá rồi lui ra nhà khách nói chuyện, chứ không được lạy lễ các bàn thờ Phật khác.
Con nên nhớ: chỉ có lễ Đức Phật Thích Ca mà thôi, còn tất cả các tượng Phật khác đều là tượng của các vị thần Bà La Môn. Chúng ta là tu sĩ Phật giáo không nên lễ lạy những vị thần đó. Con hãy nghe Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xác định: “Trên trời dưới trời, ta là người duy nhất.”
Trên cuộc đời này chỉ có con người là duy nhất, tự cứu mình ra khỏi mọi sự đau khổ này, chứ không có ai cứu chúng ta bằng chúng ta. Còn các vị thần ấy không cứu chúng ta được và cũng không giúp gì cho chúng ta được. Chúng ta phải tự lực nên không cầu tha lực, không cầu tha lực thì không lạy lễ những vị thần đó.
Chúng ta lạy lễ Đức Phật Thích Ca là vì chúng ta nhớ công ơn của Người đã để lại cho chúng ta một nền đạo đức nhân bản - nhân quả tuyệt vời và một giáo pháp tu tập làm chủ sanh, già, bệnh, chết mà không có một tôn giáo nào có được. Công ơn ấy rất lớn, nên đến chùa lạy Đức Phật Thích Ca mà thôi, một Đức Phật duy nhất trên đời này
115. Xưng hô với phật tử
Hỏi: Kính bạch Thầy, đối với các cư sĩ phật tử quan hệ xưng hô như thế nào cho đúng?
Đáp: Đối với những người cư sĩ phật tử khi đến gặp chúng ta, nếu biết pháp danh thì gọi họ bằng pháp danh, còn nếu không biết pháp danh thì ta nên gọi họ bằng phật tử.
Biết pháp danh của họ là Minh Đạo thì gọi họ Minh Đạo. Ví dụ: “Minh Đạo” đến thầy có điều gì không? Còn không biết pháp danh thì gọi họ là phật tử. Ví dụ: “Phật tử” đến thầy có việc gì không? Đối với phật tử thì nên xưng với họ là thầy, dù chúng ta mới xuất gia cũng nên xưng với họ là thầy. Ví dụ: Phật tử giúp thầy một tay. Ví dụ: Thầy làm lễ quy y cho các cháu.
116. Nhận sự cúng dường phải ước nguyện như thế nào?
Hỏi: Kính thưa Thầy, gặp trường hợp các phật tử cúng dường nên nhận thứ gì và không nên nhận thứ gì? Đáp lễ ra sao?
Đáp: Khi phật tử cúng dường tiền bạc thì không nên nhận, chỉ có nhận những thực phẩm, nếu người phật tử kỳ kèo cho mình nhận tiền thì nhận tiền nhưng phải nói lý do nhận tiền làm việc gì để sau này tránh khỏi sự tai tiếng không tốt.
Khi nhận của cúng dường thì đáp lễ là phải chắp tay lên trước ngực và ước nguyện cho phật tử được tu hành như mình và được giải thoát như mình. Nếu không tự soạn ra lời ước nguyện thì nên theo lời ước nguyện mà Thầy đã biên soạn trong tập nghi thức tụng niệm tại tu viện Chơn Như.
Tốt nhất, tự tâm mình nghĩ ra như thế nào rồi ước nguyện thư thế nấy, đừng vay mượn lời người khác mà thành ra thiếu chân thật, giống như con chim học nói.
117. Xưng hô với bậc cao niên
Hỏi: Kính thưa Thầy, đối với những bậc cao niên dân dã thì tiếp đón xưng hô như thế nào cho đúng?
Đáp: Đối với các bậc cao niên thì nên gọi bằng “cụ” nếu họ không phải là phật tử, còn nếu họ là phật tử thì gọi là “cư sĩ.” Xưng hô mình là Thầy.
Ví dụ: Thưa cụ, cụ đến thăm Thầy có việc gì?
Ví dụ: Hôm nay có duyên sự gì mà cư sĩ đến thăm chùa sớm quá vậy.
Đó là những cách xưng hô Thầy chỉ tóm lược để các bạn xưng hô cho đúng cách. Nếu xưng hô không đúng cách người hiểu biết sẽ cười các bạn đấy, cho các bạn là những người kém văn hóa, đi tu mà không biết cách xưng giao tiếp với nhau thì rất là xấu hổ. Phải không các bạn?
Vấn đề xưng hô rất là quan trọng, xin các bạn nên lưu ý học tập về những oai nghi tế hạnh này. Tuy nó không có gì lớn lao, nhưng con người lịch sự mà không biết cách xưng hô thì không còn lịch sự. Phải không các bạn?
118. Cách xưng hô với những người thân trong gia đình
Hỏi: Kính thưa thầy, quan hệ của người tu sĩ trong gia đình họ hàng về cách xưng hô như thế nào đúng?
Đáp: Quan hệ trong gia đình họ hàng, cách xưng hô theo bình thường như thế nào thì xưng hô như thế nấy, không nên thay đổi, phải đúng theo phong tục nơi mình đang cư trú. Đối với tất cả cô, bác, chú, dì, cậu, mợ, anh, chị, em, đều gọi đúng giai thứ của họ, nhưng riêng mình phải xưng hô với mọi người thì nên xưng là thầy.
Ví dụ: Thầy muốn nói với cháu Tâm điều này hoặc Thầy kể lại câu chuyện nhẫn nhục của đức Thế Tôn cho mẹ nghe hoặc mẹ hãy mua bố thí cho Thầy một ít giấy để viết.
Trên đây là những ví dụ, xin quý bạn hãy đón đọc tập sách Văn Hóa Truyền Thống tập II về oai nghi tế hạnh của người cư sĩ và tu sĩ Phật giáo chỉ dạy rõ ràng mọi oai nghi tế hạnh của một con người sống có đạo đức nhân bản.
119. Không nên đến
Hỏi: Kính thưa Thầy, trong những trường hợp hội làng tế thần ở đình làng nếu được mời thì có nên ra không?
Đáp: Không nên đến, vì nơi đó không phải chỗ cho người tu sĩ Phật giáo đến, thường cúng thần kỳ an là họ giết chúng sanh để tế thần. Nên tìm cách từ chối tránh xa quỷ thần, nơi có tục lệ hủ lậu mê tín, lạc hậu, không đúng chỗ cho người tu sĩ Phật giáo đến dự. Người tu sĩ Phật giáo không tin một cách mù quáng, tin những gì bằng mắt thấy, tai nghe, ý thức phân biệt hiểu biết rõ ràng, không có ảo tưởng xen vào, nhất là thế giới siêu hình thần, thánh, quỷ, ma thì lại còn không tin. Không tham dự vào những nơi tế lễ giết hại chúng sanh một cách ác độc dã man
Cho nên người tu sĩ Phật giáo không mê tín, không tin quỷ thần, biết rất rõ ràng không có thế giới siêu hình, vì thế giới siêu hình thật sự không có, cho nên không dự lễ cúng thần, vì dự lễ cúng thần là đồng lõa chấp nhận mê tín, đồng lõa chấp nhận giết hại chúng sanh. Đó là một điều phi đạo đức, phi nhân bản. Người tu sĩ Phật giáo cần nên tránh và còn phải tránh xa những nơi sát hại sanh linh như vậy. Đó là những nơi mà con người chân chánh không nên đến.
120. Không vái bàn thờ thánh
Hỏi: Kính thưa Thầy, trường hợp bất đắc dĩ phải ra thì phải xử trí như thế nào? Có vào vái bàn thờ Thánh không?
Đáp: Là một tu sĩ Phật giáo phải có trí tuệ là phải tìm mọi cách từ chối, nếu bất đắc dĩ từ chối không được thì đến cho có mặt. Mọi người đến vái thần linh, còn con thì nên tìm cách thối thoát. Bằng thối thoát không được thì không được thắp hương vái thần mà chỉ có mặt đứng nghiêm chỉnh thẳng người, mắt nhìn xuống chân một cách nghiêm trang. Khi mọi người cúi và xá thần xong lui ra thì mình cũng lui ra.
Thần là là một sự tưởng tượng của con người, chứ đâu có thật, nó là một ảo tưởng. Vậy mà lạy lễ xì sụp không trí tuệ thật đáng thương.
Nếu một vị thần là một danh tướng đem lại sự bình an cho dân cho nước thì mọi người nhớ ơn, đến ngày Tết, ngày kỵ thì đến nơi thờ phượng Người để tưởng nhớ công lao vì dân vì nước, thắp nén hương tâm đứng trước bàn thờ chắp tay tưởng niệm công ơn của Người và nghe đọc lại những trang sử oai hùng của vị anh hùng đất nước, để con cháu đời đời mãi mãi không quên.
121. Tụng niệm ma chay
Hỏi: Kính thưa Thầy, theo như phong tục ngoài đời, người chết họ thường hay mời nhà sư đi theo đám ma để độ, vậy trường hợp này đối với chúng con phải xử lý ra sao?
Đáp: Nếu các con ở thất một mình tu tập thì không nên làm những việc mê tín này, việc làm này gây mất uy tín cho một người chân tu, nhất là hình thức này tạo ra những sự mê tín khiến cho Phật giáo thành một tôn giáo mê tín. Và từ đó Phật giáo suy đồi. Phải hiểu tự cứu mình chưa xong còn mong cứu ai nữa? Hình thức tụng niệm ma chay là hình thức của đạo Bà La Môn, chứ đạo Phật không chấp nhận. Đạo Phật cho đó là Tưởng tri chứ không phải Liễu tri. Đó cũng là một cách thức lừa đảo người khác.
Hiện giờ con lãnh làm trụ trì một ngôi chùa ở miền Bắc thì việc làm này con không thể tránh khỏi. Con thực hiện cho dân làng vui lòng nhưng con phải có cách thức giáo dục họ. Chỉ cho họ biết việc làm như vậy là nhảm nhí không có ích lợi thiết thực, còn gây cho Phật giáo mất uy tín, biến Phật giáo thành tôn giáo mê tín. Con có biết không?
122. Cách xưng hô với nhà chức trách
Hỏi: Kính thưa Thầy, khi gặp các nhà chức trách (chánh quyền) thì cách xưng hô tiếp xúc thế nào cho phù hợp?
Đáp: Đối với chánh quyền họ xem quý thầy như một người công dân bình thường. Vì thế khi tiếp xúc với nhà chức trách, chúng ta nên chào hỏi họ bằng cách như người đời, nghĩa là chào hỏi họ bằng cách bắt tay và ngồi ngang nhau nói chuyện. Gọi anh, gọi chị và xưng hô là tôi, là bác, là chú là anh v.v...
123. Giới luật Phật không nên bỏ
Hỏi: Kính thưa Thầy, về giới luật hiện nay có điều gì bổ xung hoặc có điều gì cũ cần bỏ đi không?
Đáp: Hiện giờ giới luật Phật chưa có những bậc tu chứng quả A-la-hán biên soạn lại thì không được bỏ và cũng không được thêm bớt. Lúc này nên xem giới luật Phật là Phạm hạnh của người tu sĩ đầy đủ không cần thêm mà cũng không bớt. Bởi mỗi giới đều mang theo một đức hạnh thực tế và cụ thể giúp cho đời sống tu sĩ có đầy đủ oai nghi tế hạnh xứng đáng là một vị Thánh Tăng.
124. Có nên hủy kinh sách Đại Thừa và Thiền Tông không?
Hỏi: Kính thưa Thầy, các kinh sách Đại Thừa và Thiền Tông có nên hủy hoàn toàn không?
Đáp: Kinh sách Đại Thừa và Thiền Tông là kinh sách của ngoại đạo bắt đầu của Bà La Môn bên Ấn Độ và khi truyền sang qua Trung Hoa thì chịu ảnh hưởng của Lão giáo nên sản sanh ra một loại thiền định theo kiểu Trung Hoa nên gọi là Thiền Đông Độ.
Chúng ta không cần hủy hoàn toàn kinh sách đó mà để lại làm di tích lịch sử để biết rõ các Tổ sư tu hành theo Phật chưa đắc quả A-la-hán mà vội đi truyền đạo đã bị đồng hóa với các tôn giáo khác, hoặc để biết mưu đồ của các tôn giáo khác diệt Phật giáo. Những loại kinh sách này gieo vào tư tưởng của mọi người gây mê tín lạc hậu, làm hao tốn tiền của mọi người rất nhiều.
Nếu trong gia đình có kinh này thì nên đem đốt sạch để sau này gây ảnh hưởng mê tín mù quáng tai hại cho con cháu, cho người đời sau sống phi đạo đức, sống tiêu cực, yếm thế, bi quan, mất sức tự lực, mất chánh tri kiến, chỉ còn biết cầu tha lực
125. Tổ chức các buổi lễ lớn
Hỏi: Kính thưa Thầy, nghi lễ cúng Phật ở Chơn Như trong các buổi đại lễ như ngày Phật đản hoặc ngày Tết… phải tổ chức như thế nào khi có đông phật tử?
Đáp: Theo đạo Phật chỉ có tu tập ngăn ác diệt ác pháp trong tâm của mình chứ không có cúng bái tế lễ, nhưng vì Đại Thừa và Thiền Tông đã biến Phật giáo thành một tôn giáo tụng niệm nay đã thành thói quen, nên hiện giờ muốn bỏ nó cũng rất là khó. Vậy khi có phật tử đông đảo thì con nên làm lễ thắp ba cây hương trước bàn thờ Phật rồi theo nghi thức tụng niệm của Chơn Như mà Thầy đã biên soạn có đầy đủ ý nghĩa của Phật giáo, chứ hiện giờ con bỏ nghi thức tụng niệm thì rất khó.
Tụng niệm là hình thức tôn giáo gây mê tín cho mọi người rất dễ dàng. Đạo Phật là một đạo đức nhân bản – nhân quả nên đạo Phật không phải là tôn giáo. Cho nên vấn đề tụng niệm được Đức Phật dẹp bỏ. Các bạn hãy đọc lại bài kinh Sonadanda để biết Đức Phật bài bác, vứt bỏ sự tụng niệm của Bà La Môn như một vật không có giá trị ích lợi gì.
126. Nhân quả
Hỏi: Kính thưa Thầy, con người từ đâu sanh ra? Chết đi về đâu?
Đáp: Con người từ nhân quả sanh ra, sống trong nhân quả, chết trở về nhân quả. Trả lời như vậy, quý vị rất khó hiểu và cũng không hiểu được như thế nào là đúng?
Các tôn giáo khác thường có câu hỏi: “Con người từ đâu sanh ra, chết đi về đâu?” Có tôn giáo cho con người sanh từ đấng Tạo Hóa; lại có tôn giáo cho con người sanh ra từ khí Âm và khí Dương; lại có tôn giáo cho con người sanh ra từ Đại Ngã; lại có tôn giáo cho con người từ Bản Thể Vạn Hữu sanh ra; lại có tôn giáo cho con người sanh ra từ miệng Phạm Thiên, do đức Chúa Trời sinh ra v.v...
Tất cả những giả thuyết trên đúng hay sai chúng ta không có ý kiến, nhưng đứng trong tôn giáo Phật giáo thì Đức Phật đã xác định: “Con người từ nhân quả sanh ra, sống trong nhân quả, và chết trở về nhân quả.” Đó là lời xác quyết rất hùng hồn, chỉ vì Ngài đứng trên lập trường “duyên hợp” của các pháp. Trong thế gian này không có một vật thể nào độc lập riêng lẽ tự nó. Cho nên tất cả vạn vật sanh ra đều do các duyên hợp mà thành.
Các pháp sanh ra đều phải do có hành động, có hành động mới sanh ra được, nói một cách khác các duyên hợp lại, phải trực tiếp qua các hành động, nhưng mỗi hành động đều không có sự hiểu biết, sự hiểu biết có được là nhờ vào tri thức, nhưng tri thức hiểu biết chỉ biết trong giới hạn “hữu hạn”, ngoài vô hạn thì tri thức không hiểu rõ, vì thế sự hiểu biết của tri thức còn trong vô minh. Hành động thiện và ác nó đều không biết, cho nên từ đó tri thức tạo tác những hành động thân, miệng, ý khiến cho mình khổ và người khác khổ. Nhưng hễ có hành động, tức là có nhân quả.
Phật dạy: “Vô minh sanh hành, hành sanh nghiệp.” Vì vậy, con người từ hành động vô minh sanh ra, nói cách khác cho đúng câu trả lời trên: “Con người từ nhân quả sanh ra.”
127. Nhân quả là gì?
Hỏi: Kính thưa Thầy, nhân quả là cái gì? Xin Thầy hoan hỷ chỉ dạy cho chúng con được biết.
Đáp: Nhân quả là từ chữ Hán, nhân: có nghĩa là hạt; quả: có nghĩa là trái, gồm chung hai chữ nhân quả lại nghĩa đen của nó là hạt và trái. Hạt giống nào sẽ cho trái nấy, không thể cho trái khác được.
Ví dụ: Hạt cam khi gieo lên thành cây sẽ cho trái cam; hạt chanh sẽ cho trái chanh, không thể nào hạt cam mà cho trái chanh được, cũng như hạt chanh không thể nào cho trái cam được, v.v... Còn nghĩa bóng là hành động thiện hay ác, nếu hành động thiện thì được phước báo an vui, còn hành động ác thì phải thọ lấy sự đau khổ, tức là hành động nào sẽ gặt lấy hậu quả của hành động nấy.
Ví dụ: Như hành động trộm cắp thì phải gặt lấy hậu quả của hành động trộm cắp là bị bắt ở tù, hoặc bị người mất của bắt được đánh đập, có khi họ giết chết. Hậu quả của sự tham lam trộm cắp, không những ở trong kiếp hiện tại nghèo nàn, đói khổ mà còn kéo dài trong các kiếp vị lai nữa. Cho nên nhân quả tham lam đem lại cho đời người một sự nghèo đói bất hạnh vô cùng, là con người chúng ta phải tránh gieo nhân quả trộm cắp, cướp giựt của người khác, do không tham lam trộm cướp của người khác thì đời sống của chúng ta sẽ được no cơm ấm áo, nếu càng gieo nhân quả tham lam trộm cắp thì đời sống của chúng ta sẽ đói khổ vô cùng và trong muôn kiếp.
Kẻ làm ác giết hại chúng sanh, ăn thịt chúng sanh thì hậu quả sẽ bị tai ương, bệnh tật, khổ đau, hoạn nạn, hoặc bị sự giết hại của kẻ khác, bằng cách này hoặc bằng cách khác v.v...
Hành động thiện thì hưởng được phước báo như: Cơm ăn áo mặc đầy đủ, cuộc sống gặp nhiều may mắn, trong nhà hòa thuận vui tươi, con cái hiếu hạnh biết vâng lời dạy bảo của cha mẹ, còn hành động ác thì thọ khổ như: bệnh tật, tai nạn, trong nhà thường rầy rà, bất hòa chẳng an, con cái cãi lời cha mẹ, đi chơi bỏ học hành, trộm cắp tiền của cha mẹ, thường làm gia đình khổ, người khác khổ.
Luật nhân quả rất công bằng và công lý không ai lo lót, hối lộ tiền bạc mà hết khổ được, dù có quyền thế tiền bạc đến đâu luật nhân quả vẫn công bằng không tư vị. Vì thế, người gieo nhân ác không thể cầu khẩn chư Phật, chư Bồ Tát và Ngọc Hoàng Thượng Đế cùng các bậc Thánh Vạn Năng cũng không cứu giúp cho mình được. Nên vấn đề cầu an, cầu siêu, cầu xin ban phước lành chẳng bao giờ có được, chỉ là một trò lừa bịp lường gạt người khác, chẳng có ích lợi gì mà còn hao tài tốn của vô lối chẳng ích lợi gì cho ai cả.
128. Nhân quả do đâu mà có?
Hỏi: Kính thưa Thầy, nhân quả do đâu mà xuất phát?
Đáp: Nhân quả do ba chỗ xuất phát trong bản thân của mỗi con người, đó là thân, miệng, ý. Ba nơi này là ba nơi nhân quả thường hoạt động khiến cho con người chịu khổ đau cũng như hưởng hạnh phúc, an vui. Hành động nơi thân, hành động miệng và hành động ý đều xuất phát nhân quả thiện hay ác. Nếu xuất phát nhân quả thiện thì người ấy được an vui, thanh thản và hạnh phúc. Cuộc sống cơm ăn áo mặc, tiền của dư giả không thiếu hụt, ít tai nạn, ít bệnh tật, thường được mọi người yêu mến và kính trọng, cuộc sống đầy dẫy hạnh phúc an vui, dù bất kỳ ở nơi đâu cũng vậy. Ngược lại, ba nơi ấy xuất phát nhân quả ác thì người ấy phải chịu nhiều tai ương hoạn nạn, bệnh tật khổ đau kéo đến bủa vây không người này đến người khác, trong nhà thường xảy rầy rà bất hòa, lúc nào cũng cơm chẳng lành canh chẳng ngọt, khiến cho tâm hồn mọi người đều đau khổ, bất an.
Thân, miệng, ý là ba nơi hoạt động của nhân quả tạo ác, tạo thiện làm mình khổ, người khác khổ và tất cả chúng sanh khổ cũng chính do ba chỗ này.
Vậy ai là người chủ động hoạt động tại nơi ba chỗ này?
Ba chỗ này không có người chủ động hoạt động, chỉ có “Vô minh và Minh” hoạt động mà thôi, nếu vô minh hoạt động nơi ba chỗ này tạo nhân quả ác, chuyển thành nghiệp lực thì con người và tất cả chúng sanh phải chịu khổ đau tận cùng và tiếp tục tái sanh luân hồi mãi mãi trong vòng nghiệp lực ấy, nghiệp lực ấy do từ hành động thân, miệng, ý đã tạo ra nhân quả hạnh phúc hay khổ đau cho chính mình. Thấu hiểu được lý duyên hợp của các pháp do vô minh mà định luật nhân quả sâu sắc này mới có luân hồi, nên Đức Phật đã dạy chúng ta thấu suốt “Mười Hai Nhân Duyên” do “Vô minh” hợp lại thành một thế giới khổ đau mà con người và chúng sanh phải chịu lấy cái đau khổ này mãi mãi từ đời này sang đời khác vô cùng, vô tận.
Muốn thoát khổ của kiếp làm người và thân chúng sanh, Đức Phật đã dạy cho chúng ta “Minh” để thấu suốt lý nhân quả và đập tan “Mười Hai Nhân Duyên”, phá sạch thế giới đau khổ, giải phóng con người thoát khổ, chấm dứt luân hồi, làm chủ sanh tử. Vì thế, người học Phật mà không có trí tuệ “Minh”, không phá vỡ Mười Hai Nhân Duyên thì chỉ là một học giả nghiên cứu giáo pháp của Phật để nói láo ăn tiền. Muốn phá vỡ Mười Hai Nhân Duyên, người tu sĩ đạo Phật phải rèn luyện cái thấy của mình đối với các pháp bằng “đôi mắt nhân quả” và sống đúng đời sống “Phạm hạnh” như Phật thì Mười Hai Nhân Duyên sẽ tan rã, thế giới khổ không còn, người tu sĩ giải thoát hoàn toàn.
129. Thư Hỏi Đạo Của Minh Hoàng
Kính gửi các vị đạo hữu ở tu viện.
Trước tiên tôi vô cùng cảm ơn các vị đạo hữu đã làm trang web này phổ biến chánh pháp của Đức Phật. Không biết qua trang web này tôi có thể hỏi Thầy một số điều nghi vấn không ạ! Nếu có thể rất mong các đạo hữu gửi câu hỏi của tôi đến cho Thầy, vô cùng cảm ơn các bạn.
Thưa Thầy! Gần đây đại dịch cúm gà đang trở thành một mối đe dọa khủng khiếp cho toàn nhân loại, dự tính nó sẽ giết chết hằng triệu người. Vậy đây có phải là do nhân ác của loài người vẫn ăn thịt động vật không ạ, ngày nay nó quay lại tiêu diệt loài người chăng? Với đôi mắt nhân quả của Thầy, xin Thầy chỉ rõ làm thế nào có thể ngăn chặn đại dịch này, cứu giúp hằng triệu người trên thế giới. Con tin rằng nếu loài người nhận thức được về quy luật nhân quả ấy một cách khoa học, họ sẽ giảm rất nhiều các hành động ác của mình, trong đó có việc giết hại động vật. Vậy Thầy có thể, bằng trí Tam Minh của mình, giúp đỡ các nhà khoa học để họ chứng minh phần nào quy luật nhân quả không ạ! Hoặc là hiển thị thần thông giáo hóa, chỉ rõ cho loài người những tai hại, những hành động ác của mình. Vì thật ra chỉ có ít người tin vào luật nhân quả, đơn giản vì chưa có sự chứng minh xác đáng nào, họ không tìm thấy mối liên hệ giữa việc sát sinh và bị giết hại. Hơn nữa những người biết đến bộ sách Đường Về Xứ Phật là rất ít, nhưng nếu định luật nhân quả được đăng trên một tạp chi khoa học thì sẽ rất nhiều người biết đến, phải chăng là sẽ có ích hơn không ạ!
Rất mong Thầy, bằng trí tuệ và pháp luật của một vị A-la-hán, giúp mọi người hiểu rõ hơn ạ!
Kính mong các đạo hữu gửi câu hỏi này đến cho Thầy giùm tôi, vô cùng cảm ơn các bạn.
Kính gửi: Minh Hoàng
Thầy đã nhận được thư con, nhưng mãi đến hôm nay con và mọi người mới nhận được thư trả lời của Thầy. Thầy xin lỗi các con đã để cho các con chờ đợi, thật là một điều ngoài ý muốn của Thầy. Vì gần đây Thầy rất bận nhiều việc..., nhất là việc mở lớp đào tạo những người tu để làm chủ: sanh, già, bệnh, chết, nên phải hướng dẫn hành giả triển khai tri kiến giải thoát bằng Định Vô Lậu và còn phải kiểm tra cách thức tu tập nhiếp tâm và an trú tâm trong thân hành nội, ngoại tức là tu tập Chánh Niệm Tỉnh Giác Định. Cho nên khi nhận được thư thưa hỏi và lời thiết tha kêu gọi Thầy cứu giúp mọi người của con, mà Thầy không trả lời được thật là phụ lòng, không những phụ lòng con mà còn phụ lòng nhiều người nữa. Nhưng quá bận việc Thầy không biết làm sao hơn, mong con cảm thông.
Kính thưa các bạn! Hiện tượng đại dịch cúm gia cầm là một hiện tượng trong nhiều hiện tượng của nhân quả đang xảy ra trên hành tinh này mà loài người là nói riêng, còn tất cả chúng sanh là nói chung. Vạn vật trên hành tinh này đã và đang trả những quả ác mà chính họ đã gieo nhân không thiện, cho nên họ đã được trừng trị theo quy luật công lý, công bằng của đạo luật này.
Kính thưa các bạn! Nhân quả là một đạo luật duyên hợp thành hoại của vạn vật trong vũ trụ. Vì thế vạn vật có mặt trên hành tinh này là do các duyên hợp lại mà thành và khi vắng mặt cũng đều do các duyên tan rã mà hoại. Do duyên thành hoại nên nó rất rõ ràng, cụ thể chân thật, vì thế gọi nó là khoa học. Luật nhân quả không có một người nào đứng ra xử phạt, chỉ theo hành động thiện ác nhiều ít của mọi người mà lãnh quả khổ vui nhiều ít. Và cũng vì thế nó rất công bằng và công lý. Cho nên nhân quả không có gì là mơ hồ, trừu tượng khó hiểu cả, nhưng vì con người không có đôi mắt chánh kiến về nhân quả nên không giải thích tường tận thâm sâu, bao la trùng điệp duyên sanh, duyên khởi, duyên diệt để giúp cho các bạn dễ hiểu đạo luật này mà thôi.
Tại sao luật nhân quả công bằng và khoa học? Nhân quả công bằng là vì gieo nhân nào thì phải gặt lấy quả nấy, không thể gieo nhân này mà gặt lấy quả khác được. Phải không các bạn? Nó xác minh và chứng thực mọi sự việc xảy ra chung quanh vạn vật trong vũ trụ một cách cụ thể, rõ ràng nên rất khoa học.
i. Nhân quả thảo mộc
Muốn hiểu biết nhân quả như thật thì trước tiên chúng ta phải hiểu biết nhân quả thảo mộc. Vậy muốn hiểu biết nhân quả thảo mộc thì các bạn hãy hiểu nghĩa chữ nhân quả.
Vậy nhân quả nghĩa là gì? Theo chữ Hán nhân có nghĩa là hạt; quả có nghĩa là trái, ghép chung hai từ này lại thành “nhân quả” có nghĩa là “hạt và trái”
Ví dụ: Hạt ớt khi được gieo trồng lớn lên thành cây ớt, từ cây ớt ra bông kết trái cho quả ớt, nhưng quả ớt cay; hạt chanh khi được gieo trồng lên thành cây chanh, từ cây chanh ra bông kết trái cho quả chanh, nhưng quả chanh chua; hạt xoài, khi được gieo trồng, nẩy mầm lớn lên thành cây xoài. Từ cây xoài ra bông kết trái cho quả xoài, nhưng quả xoài ngọt.
Trên đây là nhân quả của loài thảo mộc theo duyên hợp trùng trùng tạo thành nhân quả, nhân nào thì quả nấy rất là thiết thực cụ thể, cho nên chỉ có những người không chịu hiểu mới cho rằng không có nhân quả.
Từ hạt cây đu đủ cho quả đu đủ, nhưng quả đu đủ ngọt. Cũng từ một hạt cây đu đủ cho nhiều quả đu đủ, nhưng một quả đu đủ có nhiều hạt, như vậy các bạn thấy nhân quả chưa? Một nhân không phải chỉ cho có một quả mà phải cho nhiều quả, nhưng một quả không thể có một nhân mà phải có nhiều nhân. Có đúng như vậy không các bạn?
Trên đây là nói về đặc tính nhân quả cay, đắng, ngọt, bùi của loài thảo mộc và còn xác định duyên sinh khởi trùng trùng của của nhân quả. Cho nên một nhân có nhiều quả, một quả có nhiều nhân. Lấy nhân quả thảo mộc để chứng minh cho nhân quả của con người. Lấy nhân quả thảo mộc làm một bằng chứng cụ thể để các bạn không còn có một lý do gì mà bảo rằng không có nhân quả.
Kính thưa các bạn! Con người cũng chỉ là một loài sinh vật sống trên hành tinh này như bao nhiêu loài khác, nên đều chịu chung số phận của quy luật nhân quả. Và trên hành tinh này cũng không có một loài vật nào thoát ra khỏi quy luật này.
Trên hành tinh này mọi vật gồm có từ cây cỏ thảo mộc cho đến những loài động vật đều có một sự sống bình đẳng như nhau. Có một sự sống bình đẳng như nhau thì phải theo quy luật nhân quả điều hành. Nhưng loài động vật trong đó có loài người vì vô minh không hiểu biết chạy theo lòng ham muốn tạo nhiều điều ác độc nên tự làm mất đi sự sống bình đẳng, vì thế mới có kẻ sang người hèn; mới có kẻ giàu người nghèo v.v... Và do đó mới có duyên sinh hợp của nhân quả vạn trạng thiên hình, và cũng vì vậy mà duyên tan hoại cũng thiên hình vạn trạng. Vì thế vạn vật sinh diệt liên tục trùng trùng điệp điệp theo nhân ác, còn ngược lại theo nhân thiện vô lậu thì sinh diệt chấm dứt. Như Đức Phật đã dạy: “Sinh diệt diệt rồi tịch diệt là vui.”
ii. Nhân quả con người
Nhân quả của con người không khác gì nhân quả của loài thảo mộc, cũng cụ thể, rõ ràng, xác thực. Nó trừu tượng, nhưng không mơ hồ, ảo tưởng, không thiếu chứng thực, không thiếu khoa học.
“Nhân” của con người là hành động thân, khẩu, ý. Hành động thân, khẩu, ý là nguyên nhân để sinh ra mọi điều thiện, ác.
“Quả” của con người là kết quả, là thọ chịu, là nhận lấy những cảm nhận vui buồn, khổ đau, phiền não, bệnh tật, tai nạn, tật nguyền v.v...
Như trên đã nói: Nhân quả của con người không khác gì nhân quả của loài thảo mộc. Vì con người là một sinh vật sống như các loài sinh vật khác trên hành tinh này nên đều bị chi phối theo luật nhân quả như nhau.
Một nhân có nhiều quả, một quả có nhiều nhân. Cho nên một hành động ác thì phải chịu nhiều quả khổ, những quả khổ ấy diễn biến theo các thời gian quá khứ, hiện tại và vị lai.
Ví dụ: Các bạn mắng chửi một người nào đó thì trong quá khứ các bạn đã tức giận hay thù oán người đó. Vì có tức giận hay thù oán các bạn mới chửi mắng người khác được. Tức giận là quả quá khứ, nhưng đang chửi người là nhân hiện tại. Khi người bị các bạn chửi mắng lấy cây đánh các bạn; các bạn bị đánh đó là quả vị lai. Vì vậy nhân quả luôn có mặt trong ba thời: quá khứ, vị lai và hiện tại, nó tiếp diễn trùng trùng duyên khởi, trùng trùng duyên sanh và trùng trùng duyên diệt. Đó là một nhân có nhiều quả và một quả có nhiều nhân. Vì thế lý nhân quả duyên khởi, duyên sanh, duyên diệt rất cụ thể, rõ ràng mà không ai dám phủ nhận rằng không có nhân quả. Chỉ trừ những người sống ảo tưởng thần thánh hoá một đấng siêu hình tối cao có vạn năng sinh ra vạn vật thì mới không chấp nhận nhân quả. Bởi vì chấp nhận nhân quả thì làm sao có đấng tối cao ấy được. Phải không các bạn?
Nhân quả còn là một đạo luật rất công bằng, công lý trong môi trường sống trên hành tinh này như trên đã nói. Trên thế gian này không có một toà án nào xử phạt công bằng, công lý hơn được. Vì đạo luật nhân quả xử phạt theo thiện ác của mọi người, mọi loài sống trên hành tinh này.
Một hành động ác là một nhân, nhưng một nhân không thể có một quả. Các bạn nên xem xét lại nhân quả thảo mộc thì sẽ rõ. Một hạt đu đủ lên thành cây, khi cây cho trái không thể cho một trái mà cho nhiều trái. Phải không các bạn?
Một người ăn cắp khi bị bắt người ta không đánh một bạt tai mà đánh nhiều bạt tai và còn bị nhiều đấm, đá khác nữa. Đó là một nhân mà có nhiều quả.
Một quả mà có nhiều nhân như trái đu đủ. Các bạn có lưu ý quả đu đủ chưa? Trong quả đu đủ có nhiều hạt đấy các bạn ạ!
Xét nhân quả thảo mộc và con người thì không khác nhau. Vì nhân quả là một định luật chung cho vạn vật trên hành tinh này nên một nhân ăn cắp mà phải nhận lãnh nhiều quả bị đánh đập không sao kể hết và mỗi hành động bị đánh đập liền phóng xuất ra những từ trường ác ấy. Do những từ trường ác này tương ưng những ai có tâm trộm cắp như vậy thì hợp duyên làm con của những người này. Mỗi hành động bị đánh đập là một nhân, một nhân sẽ thành một con người gian tham trộm cắp. Xét theo luật nhân quả thì một người làm ác khi chết không phải sinh ra một người ác mà sinh ra nhiều người ác.
Một hành động giết hại và ăn thịt chúng sanh tức là một nhân ác. Một nhân ác thì phải trả nhiều quả khổ. Vì thế, quả giết hại và ăn thịt chúng sanh thì phải nhận lấy quả khổ đau bệnh tật, nhiều thứ bệnh tật, chứ không phải một thứ bệnh tật và còn tai nạn nữa, không phải một tai nạn mà nhiều tai nạn không thể tính hết được. Trong những quả khổ đau ấy lại có những nhân từ trường nghiệp ác để tiếp tục tái sinh ra những loài vật đã bị giết hại và ăn thịt. Cho nên một người ăn thịt gà là nhân, nhưng nhân ăn thịt gà này không phải sinh làm một con gà mà sinh ra nhiều con gà; cũng như ăn cá tôm thì phải sinh làm cá tôm nhưng không phải một con cá tôm mà nhiều con cá tôm. Giết hại và ăn thịt chúng sanh bao nhiêu thì phải sinh ra bấy nhiêu và còn nhiều hơn nữa. Vì thế trại nuôi gia súc và ao hồ nuôi cá tôm phát triển càng nhiều để đáp ứng nhu cầu ăn uống dục lạc của con người thì nghiệp ác của họ càng cao. Nghiệp ác của họ càng cao thì sự sinh khởi diệt nghiệp quả ác báo này lại càng cao hơn. Nhưng nghiệp quả ác báo này không thể dừng lại đây, vì nhân quả ác ngút trời của loài động vật, nhất là loài người. Vì thế, từ trường ác thải ra ngút trời làm nhân quả thời tiết vũ trụ chuyển động thành thiên tai, hỏa hoạn, lũ lụt, sóng thần, động đất, bão tố, chiến tranh, khủng bố, các loại bệnh nhất là dịch cúm gia cầm, chim muông, heo, dê, bò, ngựa v.v... Cho nên dịch cúm gia cầm chỉ là một hiện tượng nhân quả duyên tan hoại của nhiều hiện tượng nhân quả duyên tan hoại đang xảy ra trên hành tinh này.
Nếu con người không biết chấm dứt những hành động cực ác giết hại và ăn thịt chúng sanh không có một chút lòng yêu thương thì thế gian này còn nhiều khổ đau nữa...
Với tấm lòng yêu thương sự sống của con người, trước cảnh đại dịch cúm gia cầm, Minh Hoàng có ý muốn nhờ trí tuệ Tam minh của Thầy để soi sáng giúp các nhà khoa học chứng minh nhân quả bằng khoa học để mọi người không còn làm điều ác nữa; để mọi người thoát khỏi cảnh chết thương đau; để mọi người sống được bình an, hạnh phúc.
Với lòng yêu thương sự sống của con người, trước cái chết dịch cúm gia cầm, Minh Hoàng không biết làm sao hơn, đành phải kêu gọi Thầy thị hiện thần thông giáo hóa, chỉ rõ cho loài người những tai hại của những hành động ác của mình. Minh Hoàng một con người với lòng hiếu sinh ấy thật đáng cho mọi người kính mến và yêu thương.
Thầy cảm thông được lòng yêu thương mọi người của Minh Hoàng. Thầy không dùng trí tuệ Tam Minh và thần thông giáo hoá, vì đó là ngoài vấn đề chủ trương đạo đức của Phật giáo, nên Thầy dùng tri kiến của một người đã vượt qua nhân quả. Thầy viết thư này gửi đến mọi người để những ai có đủ duyên được đọc, nhờ đó mới có đủ lòng tin nhân quả thì mới sống đúng đạo đức không làm khổ mình, không làm khổ người và không làm khổ tất cả chúng sanh.
Trước thảm cảnh cái chết la liệt của con người đã xảy ra trên hành tinh này theo quy luật của nhân quả thiện ác. Thầy tha thiết kêu gọi mọi người hãy hướng về Đức Phật, một ân nhân của loài người, Ngài đã để lại cho loài người một chương trình giáo dục đào tạo đạo đức nhân bản – nhân quả, để giúp cho con người vượt lên nhân quả sống toàn thiện.
Đức Phật ra đời, sau khi tu hành chứng đạt chân lý, Ngài thấy quy luật nhân quả đang điều hành vũ trụ một cách trật tự, công bằng. Đó là một sự thật nhưng con người quá vô minh không thấy, không hiểu biết, nên lầm lạc đi trong vòng quy luật khổ đau này. Muốn con người thoát khổ, ra khỏi quy luật này, nên lời nói pháp đầu tiên của Đức Phật, đã xác định chân lý Tứ Diệu Đế. Chân lý Tứ Diệu Đế là một sự thật chỉ thẳng kiếp làm người là khổ, là nguyên nhân sinh khổ, là trạng thái hết khổ, là chương trình giáo dục đào tạo đạo đức nhân bản - nhân quả sống không làm khổ mình, không làm khổ người và không làm khổ tất cả chúng sanh. Đó là một bài pháp giúp cho mọi người hiểu biết về nhân quả. Có hiểu biết về nhân quả thì mới biết hành động nào thiện, hành động nào ác. Biết hành động nào thiện, hành động nào ác thì mới chuyển hóa được nhân quả. Chuyển hóa được nhân quả là vượt ra khỏi quy luật nhân quả tức là làm chủ nhân quả nghiệp báo. Tất cả những hành động này là một sự thật không có gì mơ hồ, ảo tưởng.
Kính thưa các bạn! Con người vì vô minh không thấy, không biết nguyên nhân sinh ra muôn vàn sự khổ đau chính là lòng ham muốn của các bạn. Do lòng ham muốn mà con người mới có những hành động thiện ác. Có những hành động thiện ác thì phải nhận lấy những quả khổ vui của những hành động đó. Đấy là vô minh không hiểu, không biết mà các bạn đi theo quy luật của nhân quả. Các bạn có biết không?
Biết rõ như vậy nên Đức Phật dạy chúng ta: “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành” hoặc “Ngăn ác diệt ác pháp, sinh thiện tăng trưởng thiện pháp.” Nhưng muốn không làm điều ác, luôn luôn làm điều thiện hoặc luôn luôn ngăn ác diệt ác pháp, sinh thiện tăng trưởng thiện pháp thì phải tham dự tu học tám lớp “Đạo Đế” tức là “Bát Chánh Đạo” theo đúng chương trình giáo dục đào tạo ba cấp “Giới, Định, Tuệ” của Phật giáo. Khi tốt nghiệp xong ba cấp tu học ấy, các bạn sẽ trở thành một con người có đạo đức đầy đủ sống không làm khổ mình, không làm khổ người và không làm khổ tất cả chúng sanh. Và như vậy thế gian này trở thành Thiên đàng, Cực lạc, thì dịch cúm gia cầm và thiên tai, lũ lụt, sóng thần, động đất, hỏa hoạn, thủy tai làm sao còn nữa. Phải không các bạn?
Trong thư con hỏi: “Với đôi mắt nhân quả của Thầy, xin Thầy chỉ rõ làm thế nào có thể ngăn chặn đại dịch này, cứu giúp hằng triệu người trên thế giới. Con tin rằng nếu loài người nhận thức về quy luật nhân quả ấy một cách khoa học, họ sẽ giảm rất nhiều các hành động ác của mình.”
Muốn cứu giúp mọi người thoát khỏi làn sóng đại dịch cúm gia cầm và những thiên tai, lũ lụt, động đất, sóng thần, bão tố v.v... thì chỉ có mọi người phải thông hiểu nhân quả. Chính thông hiểu nhân quả, nên mọi người phải tự cứu mình bằng cách ngưng bàn tay ác độc giết hại chúng sanh, ngưng sự sống ác độc nhẫn tâm đối với sự sống của các loài vật khác và ngưng ăn thịt chúng sanh tức là phải sống theo sự hướng dẫn của đạo đức Nhân bản – Nhân quả.
Thứ nhất là họ phải sống “Chánh tri kiến.” Vậy sống Chánh tri kiến như thế nào? Sống Chánh tri kiến là phải thấy đúng mọi hoàn cảnh, mọi sự việc, mọi đối tượng thường xảy ra đều thấy đúng là nhân quả thiện ác.
Thứ hai là phải sống “Chánh tư duy.” Vậy sống Chánh tư duy như thế nào? Sống Chánh tư duy tức là sống suy tư mọi hoàn cảnh, mọi sự việc, mọi đối tượng đều phải tư duy, suy nghĩ nó là nhân quả thiện ác.
Thứ ba là họ phải sống “Chánh ngữ.” Vậy sống Chánh ngữ như thế nào? Sống Chánh ngữ tức là sống dùng lời nói thiện không được nói lời nói ác, nói lời nói không làm khổ mình, không làm khổ người và không làm khổ cả hai.
Thứ tư là họ phải sống “Chánh nghiệp”. Vậy sống Chánh nghiệp như thế nào? Sống Chánh nghiệp tức là sống không làm sáu nghề nghiệp ác, thường dùng những hành động không làm khổ mình, không làm khổ người và không làm khổ cả hai.
Thứ năm là họ phải sống “Chánh mạng.” Vậy sống Chánh mạng như thế nào? Sống Chánh mạng tức là sống không làm khổ mình, không làm khổ người và không làm khổ cả hai. Sống không nuôi dưỡng thân mạng bằng máu thịt chúng sanh, bằng sự đau khổ của loài vật khác, của người khác.
Thứ sáu là họ phải sống “Chánh tinh tấn.” Vậy sống Chánh tinh tấn như thế nào? Sống Chánh tinh tấn tức là sống siêng năng tinh cần hằng ngày từng phút từng giây không làm khổ mình, không làm khổ người và không làm khổ cả hai tức là ngăn ác diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp.
Thứ bảy là họ phải sống “Chánh niệm.” Vậy sống Chánh niệm như thế nào? Sống Chánh niệm tức là sống giữ gìn tâm thanh thản, an lạc và vô sự. Tất cả những chướng ngại pháp tác động vào thân tâm họ đều được đẩy lui bằng pháp Như lý tác ý trên Tứ Niệm Xứ
Thứ tám là họ phải sống “Chánh định.” Vậy sống Chánh định như thế nào? Sống Chánh định tức là sống bất động tâm trước các pháp ác và các cảm thọ.
Kính thưa các bạn! Với đôi mắt của người chứng đạt chân lý thì nhìn thấy nhân quả là thật, nó giống như xem chỉ trong lòng bàn tay của mình vậy. Còn các bạn với đôi mắt bị hạn chế không gian và thời gian nên không thể thấy rõ như vậy. Vì thế Thầy phải dùng nhân quả thảo mộc để chỉ cho các bạn nhận thấy cụ thể rõ ràng nhân quả là một sự thật chứ không phải tưởng tượng. Tin hay không tin đó là quyền của các bạn, nhưng Thầy biết rằng các bạn đang bị luật nhân quả điều khiển, nói cách khác các bạn là những người nô lệ của nhân quả. Nếu các bạn không chịu cởi bỏ ách nô lệ thì muôn đời ngàn kiếp phải làm thân nô lệ cho nhân quả mãi mãi. Cuối cùng Thầy có lời thăm con được mạnh khỏe an khương.
Kính thư. Thầy của con.
130. Con Người Do Ba Hành Động Thân, Miệng, Ý Sanh Ra
Hỏi: Kính thưa Thầy, tại sao con người sanh ra là do ba nơi hành động thân, miệng, ý này?
Đáp: Con người sanh ra do ba hành động thân, miệng, ý. Nếu trong ba hành động thân, miệng, ý này do “Vô Minh” điều khiển, tác động thì thế giới đau khổ của một con người sẽ bắt đầu mở ra. Nếu ba hành động thân, miệng, ý này do “Minh” điều khiển thì thế giới khổ đau của một con người sẽ bắt đầu chấm dứt.
Ba nơi này thường tạo ra nghiệp lực của con người theo hành động nhân quả. Như đức Phật đã dạy cho chúng ta biết, khi con người chết hoàn toàn không còn một vật gì thường hằng bất di, bất dịch, chỉ còn nghiệp lực thiện hay ác tiếp tục tái sanh mà thôi.
Ba nơi này sanh ra nghiệp lực, từ nghiệp lực này mãi mãi tiếp tục sanh tử luân hồi, cho nên gọi ba hành động này con người từ đó sanh ra là vậy.
131. Vô Minh Và Minh
Hỏi: Kính thưa Thầy? Vô minh là gì? Nó điều khiển nơi ba hành động thân, miệng, ý này mà thế giới đau khổ của một con người mở ra như thế nào? Và minh là gì? Nó điều khiển ba nơi thân, miệng, ý thì thế giới khổ đau của một con người chấm dứt, xin Thầy vì chúng con mà chỉ dạy cho rõ ràng để chúng con tu tập?
Đáp: Vô minh là sự hiểu biết theo tâm ham muốn của mình (ái dục), vô minh là sự hiểu biết đối với các pháp không đúng như thật; hiểu biết một cách lệch lạc thiếu khoa học; hiểu biết theo chủ quan thiếu thực tế và cụ thể; hiểu biết trong các pháp đối đãi, hiểu biết trong hạn hẹp và hiểu biết bằng tưởng tượng v.v... Nói chung cái hiểu biết bằng trí hữu hạn của con người là “vô minh.” Vì thế biết bao nhiêu bài pháp của Đức Phật đã vạch ra cho mọi người thấu hiểu rất rõ ràng, từ thế giới hữu hình đến thế giới siêu hình, toàn là thế giới duyên hợp không có một vật thể gì là thực thể thường hằng, bất biến. Phật dạy rất rõ, thế mà con người cứ hiểu biết mọi vật là thật có, thậm chí đến cái thế giới siêu hình cũng cho là có thật.
Vì cho nó là thật nên luôn luôn bị dính mắc chấp đắm, do sự dính mắc chấp đắm các pháp mà con người tạo biết bao nhiêu điều đau khổ cho nhau, biến cuộc sống con người trên hành tinh này thành địa ngục. Con người chỉ còn là những ác quỷ giết hại lẫn nhau, chà đạp lên nhau, gian xảo, mánh mung, lừa đảo, lừa gạt, lường lận, hại nhau mà chẳng có chút lòng thương xót, chỉ vì vật chất cho nó là thật có.
Trí tuệ vô minh rất tai hại, tức là sự hiểu biết không thấu suốt các pháp thế gian. Có người bảo rằng: “Phải học thông suốt Tam Tạng kinh điển của Phật là hết vô minh, sẽ được giải thoát hoàn toàn.” Nói như vậy, các ông có bằng tiến sĩ Phật học là giải thoát hoàn toàn hết sao? Bằng chứng các ông có bằng tiến sĩ Phật học còn dính mắc hơn ai, sống phạm giới, phá giới. Trong kinh Đức Phật đã chẳng dạy: “Giới luật ở đâu thì trí tuệ ở đó, trí tuệ ở đâu thì giới luật ở đó, giới luật làm cho trí tuệ thanh tịnh và trí tuệ làm cho giới luật thanh tịnh.”
Vậy mà, người ta cho rằng có bằng tiến sĩ Phật học là có trí tuệ. Trí tuệ “Minh” ở chỗ giới luật thanh tịnh, còn ngược lại trí tuệ tiến sĩ Phật học mà sống không đúng giới luật, phạm giới luật thì đó là trí tuệ “Vô minh.” Do trí tuệ vô minh học hỏi, những nhà học giả này chấp ngã bằng trời hơn ai hết và dính mắc các pháp khó buông bỏ. Bỏ biết bao nhiêu công lao năm tháng học hành, cuối cùng cũng chỉ học nói như một con chim để lừa đảo người, buôn Phật, bán pháp, làm cuộc sống trong danh lợi, ô nhục mà vô minh vẫn hoàn là vô minh.
Ví dụ: Cho thân này là ngã, hoặc cho tâm là ngã hoặc cho thân này là của ta hoặc cho tâm này là của ta hoặc cho các dục là hạnh phúc ưa mến, yêu thích nó; hoặc cho vũ trụ này có thế giới siêu hình, có linh hồn người chết hoặc cho có chư Bồ Tát, Thần, Thánh, ma quỷ v.v... phò hộ và phá phách. Cho thế gian này là thường còn, cho có đức Phật Di Đà và thế giới Cực Lạc Tây phương, cho có Phật Tánh, Đại Ngã, Tiểu Ngã, Bản Thể Vạn Hữu, Bản Lai Diện Mục, cho có Bồ Tát Quán Thế Âm từ bi cứu độ chúng sanh thoát khỏi khổ nạn, cho có mười vua Diêm Vương, Ngưu Đầu, Mã Diện, quỷ Vô Thường, quỷ La Sát, quỷ Sứ v.v... Những sự hiểu lầm lạc tưởng tri đó gọi là vô minh.
Thường con người vì hiểu lầm lạc, hiểu không đúng, nên hành động theo sự hiểu biết không đúng đó mà tạo ra biết bao nhiêu thứ đau khổ và lầm than cho đời mình, người khác và tất cả chúng sanh.
Vì vô minh (hiểu không đúng) tưởng sắc dục là khả ái, khả lạc là hạnh phúc nên ham mê say đắm, đắm đuối chạy theo quyết tìm cho được và hành động dục lạc đó cho thoả mãn. Do sự hiểu biết lầm lạc đó đi đến hành động thỏa mãn dục vọng nhưng nào ngờ chẳng thỏa mãn dục vọng đó được mà còn bị đắm nhiễm trở thành một nghiệp lực rất mạnh.
Chính những hành động vô minh tạo ra nghiệp lực thúc đẩy đi đến tái sanh luân hồi. Do nghiệp thiện, ác mới có tái sanh luân hồi, có tái sanh luân hồi mới có thức, do có thức mà mọi người vì vô minh lầm tưởng cho là thần thức, linh hồn. Gần đây vào thế kỷ thứ V, Thiền Tông phát triển cho thức này là Phật Tánh, nhưng họ khéo lý luận đánh lạc hướng những người còn vô minh, chứ không thể nào lừa đảo được những đệ tử của Đức Phật.
Từ vô minh hiểu không đúng như thật, đã đưa con người từ lầm lạc này đến lầm lạc khác tạo ra thế giới đầy lòng tham muốn cái này, cái nọ để rồi gặt lấy hậu quả khổ đau vô vàn. Cho nên Đức Phật dạy: vô minh sanh hành, hành sanh nghiệp cho đến ưu bi sầu khổ, bịnh, chết đó là một thế giới duyên hợp tạo thành khổ đau, mà con người mấy ai đã biết. Kẻ nào biết được, dứt hết nguồn mê, bỏ xuống tất cả thì ngay liền đó là giải thoát. Phàm, Thánh chỉ có khác nhau là ở chỗ này mà thôi. “Phàm thì ôm đồm chẳng bỏ vật nào cả, Thánh thì buông xuống tất cả không lấy một vật gì.” Trí tuệ “Vô Minh” thì ôm đồm, chẳng bỏ vật nào cả, vì thế người có trí tuệ Vô Minh thì phải chịu khổ đau vô vàn, ngược lại trí tuệ “Minh” thì buông xuống tất cả, không lấy một vật nào hết, vì thế người có trí tuệ Minh thì tâm hồn thanh thản, an lạc và giải thoát.
Cho nên “Minh” là sự hiểu biết đúng như thật, không mang theo tâm ái dục, hiểu biết không lệch lạc, không chủ quan, đúng như pháp, có khoa học thực tế, cụ thể, rõ ràng, minh chứng và xác thực v.v... Nhờ sự hiểu biết như vậy mà đã đập tan Mười Hai Nhân Duyên này khiến cho cuộc sống của loài người trên thế gian này được an vui, hạnh phúc.
Người có Minh thấy các pháp đúng như thật nên hành động thân, miệng, ý tạo nhân quả thiện, không làm theo tâm ham muốn ác pháp của mình nên cởi bỏ hoàn toàn sự khổ đau và chấm dứt tái sanh luân hồi.
Người ngộ được Mười Hai Nhân Duyên này là người phải có trí tuệ Minh, cởi bỏ mười hai mắt xích sắt này được giải thoát hoàn toàn, không còn khổ đau phiền toái. Nhờ trí tuệ Minh vén sạch ngũ triền cái, bứt bỏ thất kiết sử. Người đó gọi là bậc Duyên Giác hay còn gọi là Độc Giác Phật.
Tóm lại, trí tuệ Vô Minh sẽ đem đến cho loài người khổ đau, tạo nên một thế giới đầy dẫy bất toại nguyện, còn trí tuệ Minh thì đem lại cho loài người một sự hạnh phúc, an vui, vĩnh viễn.
132. Trí Học Giả
Hỏi: Kính thưa Thầy, có người hiểu biết rất rõ, đâu là Vô Minh, đâu là Minh và họ còn là những người đã từng học hỏi và thông suốt giáo lý của Phật, thế sao họ không vén sạch ngũ triền cái, bứt bỏ thất kiết sử, tâm họ luôn luôn vẫn còn tham danh đắm lợi, xin Thầy dạy cho chúng con rõ?
Đáp: Họ từ Vô minh lầm chấp, hiểu Vô Minh giống như người dốt không có học thức, nên chạy theo học hỏi để thông suốt lời Phật dạy, khi đã thông suốt lời Phật dạy họ đã trở thành chiếc tủ đựng kinh sách, từ đó bản ngã của họ trở thành to lớn hơn, nên sự vô minh của họ còn vô minh hơn. Có người cho rằng, trình độ học thức trên đại học là những người có trí tuệ, đối với đạo Phật trình độ học thức này chỉ là một cái bao đựng gạo, chỉ toàn nhai lại bã mía của người khác, chứ không phải như trí tuệ của Phật đã dạy: “Chỗ nào có trí tuệ chỗ ấy có giới hạnh. Người có giới hạnh nhất định có trí tuệ, người có trí tuệ nhất định có giới hạnh.” Đoạn kinh này đã được xác chứng một cách cụ thể trí tuệ của đạo Phật tương quan giữa sự hiểu biết và đức hạnh rất đặc thù của đạo Phật mà người đời không thể suy nghiệm ra được. Đó chính là trí tuệ giải thoát hay gọi là tri kiến giải thoát mà Đức Phật thường tán thán trí tuệ này.
Cho nên sự học thức của thế gian không phải là trí tuệ, mà là kiến thức vay mượn. Vì thế, có người đỗ bằng tiến sĩ Phật học, tam tạng kinh điển thông suốt, nhưng đối với đạo Phật đó không phải là trí tuệ mà là kiến thức hữu lậu, càng học hiểu nhiều lậu hoặc càng sanh nhiều hơn.
Trí tuệ của đạo Phật được phát triển là ở chỗ biết “xả tâm ly dục ly ác pháp” chứ không phải chỗ học hỏi nhiều. Vì có xả tâm ly dục ly ác pháp thì giới luật mới thanh tịnh, giới luật có thanh tịnh thì đời sống mới có đạo đức, mà đời sống có đạo đức thì ngay đó là trí tuệ, chứ có học hỏi gì đâu? Họ đâu biết rằng: Tại sao lại có Vô Minh? Có Vô Minh là vì có “lòng ham muốn”, do ham muốn mà Vô Minh có, nên Đức Phật dạy “ly dục ly ác pháp” thì Vô Minh sạch, Vô Minh sạch thì gọi là Minh.
Đức Phật đâu có dạy bảo chúng ta học tập cho thông suốt tam tạng kinh điển hoặc có cấp bằng này, cấp bằng nọ mà gọi là Minh bao giờ? Xưa, ông Bàn Đặc tối tăm dốt nát học không thuộc bốn câu kệ, thế mà đức Phật dạy ông tu hành chứng quả A-la-hán, tam tạng kinh điển đều thông suốt, thuyết giảng chẳng thua ai. Đó mới thấy trí tuệ của đạo Phật rất là đặc thù, người nào muốn có được trí tuệ như Phật thì hãy sống ly dục ly ác pháp. Phật bảo lìa dục lìa ác pháp thì có Minh, người đời hiểu lầm lạc, tưởng là học hỏi cho nhiều có cấp bằng này cấp bằng kia, do đó từ lớp Vô Minh này chồng lên lớp Vô Minh khác như trên chúng tôi đã nói. Phần đông đó là các giảng sư của Phật giáo chúng ta hiện giờ.
Bởi, muốn phá Vô Minh không phải lấy sự học hỏi hiểu biết mà phá được, chỉ có đoạn dứt “duyên sanh” tức là lìa dục, sanh còn là dục còn, sanh diệt là dục diệt, dục diệt thì Vô Minh diệt, Vô Minh diệt, tức là Minh sanh. Nên trong kinh Mười Hai Nhân Duyên Phật dạy: “Sanh diệt thì Thủ diệt, Thủ diệt thì Hữu diệt, Hữu diệt thì Ái diệt, Ái diệt thì Thọ diệt, Thọ diệt thì Xúc diệt, Xúc diệt thì Lục Nhập diệt, Lục Nhập diệt thì Danh Sắc diệt, Danh Sắc diệt thì Nghiệp diệt, Nghiệp diệt thì Hành diệt, Hành diệt thì Vô Minh diệt, Vô Minh diệt thì Minh sanh.”
Do đó đức Phật ngày xưa dạy người tu cắt ái ly gia, xuất gia, cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, sống không gia đình, không nhà cửa là vậy. Vì vậy, người nào muốn tu theo đạo Phật để được giải thoát thì phải dứt lìa “duyên sanh.” Dứt duyên sanh, tức là ly gia, cắt ái để trở thành một vị tỳ-kheo chân chánh. Người xưa dứt đời tìm đạo để cầu giải thoát, người nay dứt đời tìm đời qua hình ảnh một lớp áo cà sa của nhà tu để nuôi vợ, nuôi con, nuôi cha, nuôi mẹ, xây mồ mả ông, bà, dòng họ. (Hình ảnh một tu sĩ, vị tỳ-kheo để dễ bề tìm danh tìm lợi, lừa đảo tín đồ rất dễ dàng). Cho nên, theo đạo Phật cái học không phải là Minh, chỉ có sống đúng giới luật hằng ngày tu tập đúng các loại định:
1. Định Sáng Suốt
2. Định Vô Lậu
3. Định Chánh Niệm Tỉnh Giác
4. Định Niệm Hơi Thở
Nhờ tu các loại định này thực hiện trên Tứ Chánh Cần, ngăn ngừa và đoạn dứt các ác pháp, khiến cho tâm ly dục ly ác pháp, do đó giới luật không vi phạm, không bị bẻ vụn, trở thành thân tâm nghiêm trì giới luật. Giới luật đã nghiêm túc thì thân tâm thanh tịnh, thân tâm thanh tịnh, tức là thiền định, nên Phật dạy ly dục ly ác pháp nhập Sơ Thiền, thân tâm có định thì trí tuệ triển khai, trí tuệ triển khai gọi là Minh.
Người tu theo Phật giáo ngày nay nghĩ tưởng phá Vô Minh bằng Minh, nên ngay từ lúc ban đầu theo Minh đi vào để phá Vô Minh bằng sự học thức hiểu thông tam tạng kinh điển của Phật, đó là một sự hiểu sai lầm rất lớn. Thay vì phá Vô Minh lại chồng lên một lớp kiến chấp học thuật, vì thế bản ngã càng to lớn, chẳng chịu ly dục ly ác pháp, nên tâm không thanh tịnh, do tâm không thanh tịnh, nên không có định, không có định thì Minh chẳng bao giờ có, Minh chẳng có thì lấy gì phá Vô Minh, phá Vô Minh chẳng được nên chồng thêm một lớp Vô Minh nữa. Những người tu sĩ và cư sĩ này giống như một con chim học nói tiếng người, chẳng có ích lợi gì cho họ cả.
Theo sự học thức của họ, từ đó họ tu tập thiền định ức chế tâm nên sanh ra nhiều kiến giải, sản xuất ra nhiều pháp môn thiền định, nhưng toàn là thiền ức chế tâm hoặc sanh ra những pháp môn cầu tha lực chuyên cúng bái, tụng niệm, cầu khẩn, tế lễ, v.v... đưa Phật giáo đến chỗ mê tín, dị đoan, trừu tượng.
Từ chỗ hiểu lầm lạc dùng trí tuệ phàm phu hữu hạn học hỏi cho là Minh để phá Vô Minh. Phá Vô Minh chẳng được lại đưa Phật giáo dần dần đi đến tồi tệ hơn mà ngày nay Phật giáo đã biến thành Thần giáo, Hữu Ngã giáo, Huyền Bí giáo v.v...
133. Hỷ Lạc Có Xả Bỏ Hay Không?
Hỏi: Kính thưa Thầy! Thân, thọ, tâm, pháp đều có khổ, lạc, bất khổ bất lạc thọ, ở thế gian đều phải xả bỏ, ngược lại hỷ lạc, khinh an khi tu tập thiền định sanh ra thì có cần phải giữ gìn và tăng trưởng hay phải xả bỏ như thế nào? Nếu không được giữ gìn và tăng trưởng thì những hỷ lạc này sẽ thối thất, mất mát, hoặc hao mòn không thưa Thầy?
Đáp: Dục lạc thế gian là nguy hiểm, là tai họa, là khổ đau v.v... nên tu theo Phật giáo cần phải xả ly, xa lìa những thứ dục lạc đó. Do tu hành thiền định có lạc, có hỷ, hỷ lạc này tùy theo ở mỗi loại định xuất hiện, như hỷ lạc của Sơ Thiền do “ly dục” sanh ra. Hỷ lạc này không giống như hỷ lạc của dục lạc. Hỷ lạc của Nhị Thiền do định sanh, hỷ lạc này cao hơn hỷ lạc do ly dục sanh ở Sơ Thiền, nhưng phải hiểu nó là do định ly dục sanh ra, nó không giống hỷ lạc do thiền định ức chế tâm như thiền Đại Thừa và Thiền Đông Độ, hỷ lạc của hai loại thiền này do dục tưởng sanh.
Khi tâm không còn ly dục thì hỷ lạc của Sơ Thiền liền mất, không còn ly dục, tức là tâm phóng dật chạy theo các đối tượng của nó: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Tâm còn ly dục ly ác pháp, tức là tâm còn an trú trong Sơ Thiền, tâm chạy theo dục lạc, tức là tâm xuất Sơ Thiền. Khi tâm còn tịnh chỉ tầm tứ, tức là tâm an trú Nhị Thiền, tâm an trú Nhị Thiền có hỷ lạc do định sanh. Khi tâm hết hỷ lạc, tức là tâm không tịnh chỉ tầm tứ.
Do những điều ở trên ta muốn giữ gìn hỷ lạc không cho mất, nếu Sơ Thiền thì phải giữ gìn tâm không phóng dật, còn Nhị Thiền thì phải giữ gìn cho tâm tịnh chỉ tầm tứ. Hỷ lạc của Sơ Thiền và Nhị Thiền không có tăng trưởng thêm mà chỉ có một mức độ của nó mà thôi, dù có kéo dài trạng thái hai loại thiền này ra hai, ba ngày, thì sự hỷ lạc cũng chỉ như vậy, không tăng, cũng không giảm.
Tam Thiền thì xả sạch hỷ, Tứ Thiền thì xả lạc, xả khổ và xả luôn cả đối tượng của nó tức là tâm thanh tịnh, nên không có hỷ và lạc của tưởng và thọ nữa, mà là một trạng thái vắng lặng bất động.
Ở đây quý vị phải hiểu, hỷ lạc của những bậc Thánh Hiền do từ thiền định xả tâm ly dục ly ác pháp mà sanh ra. Vì thế, hỷ lạc này không phải thứ cảm giác an lạc vui mừng của tâm dục lạc thế gian. Quý vị nên lưu ý, bắt đầu vào Sơ Thiền do ly dục sanh hỷ lạc, nên hỷ lạc này không phải dục mà có, vì thế nó rất thanh tịnh, trong sạch không uế nhiễm. Đến định sanh hỷ lạc ở Nhị Thiền, hỷ lạc của định Nhị Thiền là loại hỷ lạc định ly dục, chứ không phải là các thứ hỷ lạc của các loại định tưởng của thiền Đại Thừa và Thiền Đông Độ.
Hỷ lạc của thiền Đại Thừa, thiền Đông Độ là do dục tưởng sanh ra nên có khi hiện lại có khi mất, vì thế mà con hỏi cần phải giữ gìn và tăng trưởng. Như vậy con tu hành đã lạc vào tà thiền tà định, cho nên xin Thầy chỉ dạy cách thức giữ gìn và tăng trưởng hỷ lạc. Thứ hỷ lạc này là bệnh thiền, sẽ đưa hành giả vào cảnh mộng:
“Phản Bổn hoàn nguyên, Phủ trùm vạn hữu, Thõng tay vào chợ, Tự tại vô ngại, đói ăn, khát uống, mệt ngủ.”
Đó là một thứ bệnh thiền cần phải tránh xa. Hỷ lạc của loại thiền định này, gặp nó như là gặp loài quỷ La Sát. Khi tu thiền gặp nó thì quý thầy cần phải xả ngay hoặc dùng pháp hướng tâm đuổi đi, đừng để tâm theo nó, nó chẳng có lợi ích gì cho sự tu tập của quý thầy mà còn có nhiều tai hại về sau.
134. Trưởng Dưỡng Hỷ Lạc
Hỏi: Kính thưa Thầy! Khi tu tập các định đã nhập được, sanh ra có trạng thái khinh an, hỷ lạc, lạc thọ, vui mừng v.v... thì trưởng dưỡng chúng như thế nào?
Đáp: Muốn trưởng dưỡng trạng thái khinh an, hỷ lạc, lạc thọ thì phải tập luyện khéo léo giữ tâm yên lặng trong trạng thái định đó, thỉnh thoảng thoáng hướng tâm bằng sự ước muốn hơn là tác ý thô tháo.
Tại sao các con lại muốn trưởng dưỡng các trạng thái khinh an, hỷ lạc, lạc thọ đó? Trong khi đức Phật dạy bảo phải ly hỷ, xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh. Đối với đạo Phật chỉ cần tìm sự “làm chủ sanh, già, bệnh, chết”, chứ đâu có đi tìm hỷ lạc, thọ lạc, khinh an như các con vậy. Giữ gìn và trưởng dưỡng nó để làm gì? Bỏ dục lạc thế gian để đi tìm dục lạc trong thiền định sao? Nó có lợi ích gì cho đời người? Trạng thái hỷ lạc, khinh an nó có giải thoát cái gì cho con người đâu? Tại sao các con không đi tìm một “đạo lực” nào để làm chủ sự sống chết, luân hồi, chấm dứt sự khổ đau của đời người thì đó có phải là lợi ích thiết thực không? Đi tìm chi cái hỷ lạc của thiền định không ra gì, ngồi như con cóc để thọ hưởng cái hỷ lạc đó, không lẽ tu hành rồi thành con cóc sao?
Tu hành có hỷ lạc cũng tốt, không hỷ lạc cũng tốt. Cớ sao có thì mừng, không có thì buồn, cho rằng tu không kết quả, chứ đâu biết rằng kết quả của sự tu là tâm ly dục ly ác pháp, chứ không phải chỗ hỷ lạc, khinh an, lạc thọ. Ở đây, quý thầy cần phải biết phân biệt, khi tu hành tâm có hỷ lạc thì loại hỷ lạc đó do ly dục sanh hay do ức chế tâm mà sanh ra. Quý vị phải tự suy xét, cuộc đời tu hành của mình có sống đúng giới luật chưa? Nếu sống không đúng giới luật thì hỷ lạc của quý vị sanh ra là do dục lạc tưởng, là do loại thiền định ức chế tâm.
Tu sĩ thời nay có ai là người sống đúng giới luật đâu? Chỉ chuyên lo tu thiền, định, niệm Phật ức chế tâm sanh ra hỷ lạc, đó là thứ hỷ lạc của dục tưởng, do ức chế tâm chứ đâu phải hỷ lạc của ly dục. Thiền định ức chế tâm sẽ đưa quý vị đi vào chỗ chết, chứ không phải đi vào chỗ giải thoát.
Người tu hành cần phải biết tu cái gì có ích lợi cho mình cho người thì mới nên tu, tu mà không biết, chỉ nhắm vào ích kỷ cá nhân của mình. Tu hành mà ích kỷ như vậy thì có ích lợi gì cho mình cho người đâu, thì tu làm chi cho phí uổng cuộc đời.
Người tu hành, vì muốn thoát ra bốn sự khổ đau của kiếp làm người, chứ không phải đi tìm khinh an, hỷ lạc của dục tưởng mà trưởng dưỡng nó, nó có hay không là điều không quan trọng đối với người tu sĩ đạo Phật.
Người tu sĩ đạo Phật, khi tu hành phải nhắm vào mục đích như thế nào? Phải biết làm sao? Bằng cách nào? Đạt đến một đạo lực như thế nào? Để làm chủ sự sống chết luân hồi, thì mới mãn nguyện.
Không lẽ tu hành bỏ dục lạc thế gian, bỏ hết cả cuộc đời mình mà lại đi tìm dục lạc thiền định hay đi tìm thần thông để làm gì? Thần thông thì để lừa đảo, lường gạt thiên hạ; hỷ lạc của thiền định thì để cám dỗ những người còn ích kỷ cá nhân ham mê dục lạc chỉ riêng cho mình.
135. Chỉ Cần Có Tâm Tàm Quý Là Tu Chứng Đạo
Hỏi: Kínk thưa Thầy, thiền sinh đang tu mà phạm nhiều lỗi lầm, phá hạnh độc cư, ăn ngủ phi thời v.v... Nếu biết hối cải với tâm tàm quý. Biết xấu hổ về lỗi lầm của mình, biết sửa đổi tâm tánh thì trên đường tu tập có gì trở ngại và có thể đạt được cứu cánh hay không?
Đáp: Người tu hành có lỗi, biết xấu hổ và sợ hãi (tàm quý) lỗi lầm đó thì cố gắng sửa đổi tâm tánh và từ bỏ các ác pháp, hằng ngày luôn giữ gìn không cho tái phạm những lỗi lầm cũ thì người này sẽ tu hành không có trở ngại gì và kết quả sẽ chứng đắc như những người khác.
Danh từ xấu hổ nghe thì rất dễ, nhưng mấy ai biết xấu hổ khi đã làm những điều sai quấy. Thường người ta làm sai quấy lỗi lầm, nhưng ít có người dám nhận sự sai quấy, lỗi lầm của mình, cứ mãi cố gắng che đậy và tự bào chữa cho mình là không sai quấy lỗi lầm. Luôn luôn lúc nào cũng dối quanh, dối quất đổ lỗi cho kẻ khác. Vì không đủ can đảm nhận lỗi những sự sai quấy của mình, cho nên hai chữ xấu hổ chỉ để nói cho vui chơi, chứ không áp dụng vào đời sống của ai được cả, nếu kẻ nào biết áp dụng xấu hổ vào sự lỗi lầm, sai quấy của mình, không sớm thì muộn người ấy sẽ trở thành những bậc Thánh Hiền.
Chỉ có hai chữ “xấu hổ” mà trên đời này ai là người đã thực hiện được xấu hổ để sửa sai những lỗi lầm của mình, cũng như hai chữ “độc cư”, mấy ai đã làm được. Nếu trên đời này ai là người biết xấu hổ mà đừng che dấu, biết sửa sai những lỗi lầm của mình thì người đó là người đạo đức trọn vẹn, là người tốt nhất trong xã hội, là người ly dục ly ác pháp, là người dễ thành tựu Sơ Thiền của Phật. Cho nên Đức Phật đã dạy: “Ta có một pháp đưa con người đến cứu kính giải thoát, đó là pháp Tàm Quý.” Trong Phật pháp, khi một người tu hành có làm những điều lỗi lầm mà biết xấu hổ sửa sai là tương lai người ấy sẽ chứng đạo, sẽ trở thành những bậc Thánh nhân.
Bậc Thánh nhân là những người biết xấu hổ, biết sửa sai; biết xấu hổ, biết sửa sai tức là biết độc cư; độc cư tức là sống trầm lặng. Sống trầm lặng, tức là cuộc sống Thánh thiện; cuộc sống Thánh thiện là cuộc sống của những bậc Thánh nhân, cho nên người phàm phu tầm thường không thể nào sống độc cư nổi. Sống không nổi hạnh độc cư thì đừng hòng đi tìm con đường giải thoát của đạo Phật mà có được. Con đường ấy không thể để dành cho những kẻ còn tâm ham vui, ưa thích dục lạc thế gian; con đường ấy không thể để dành cho những kẻ tâm còn ràng rịt bởi những sợi dây tình cảm luyến ái; con đường ấy không thể để dành cho những kẻ thiếu đạo đức, thiếu đức hạnh.
136. Mọi Người Đều Là Tu Sĩ Đi Ăn Xin Thì Thế Gian Này Sẽ Ra Sao?
Hỏi: Kính thưa Thầy, giả sử cả đất nước này đều là những người xuất gia tu hành theo đạo Phật ba y một bát đi xin ăn, thì ai là người trồng cây và sản xuất ra lương thực và thực phẩm. Vậy phải xin ăn ở đâu? Xin Thầy chỉ dạy cho chúng con được rõ.
Đáp: Câu hỏi của con chỉ là một giả thuyết, chứ không bao giờ có hiện thực. Giả sử nếu có thật đi nữa, thì điều này không khó con ạ! Từ các cấp lãnh đạo trong nước cho đến toàn dân đều tu hành theo đạo Phật hết thì con nên nhớ: “Đạo Phật là đạo trí tuệ.” Khi trường hợp ấy xảy ra thì các nhà lãnh đạo trong nước sẽ chia tu sĩ thành hai dòng tu:
1- Dòng tiếp hiện; 2- Dòng chuyên tu
Dòng tiếp hiện tổ chức giữ gìn trật tự, an ninh bờ cõi và sản xuất lương thực, thực phẩm, giúp đỡ cho dòng chuyên tu có thực phẩm sống hằng ngày, ngày một bữa để thực hiện chiều sâu của Phật pháp. Nếu những tu sĩ dòng chuyên tu, tu hành đã xong, thì rời khỏi dòng chuyên tu, để thay thế cho những tu sĩ dòng tiếp hiện, giữ chức vụ, vai trò thực hiện để tiếp tục giữ gìn an ninh đất nước và sản xuất, lương thực, thực phẩm, v.v...
Vậy, lúc bấy giờ tu sĩ chuyên tu có chỗ, nơi đi khất thực và có tổ chức hẳn hòi, chứ có gì đâu mà sợ không có thực phẩm để sống tu hành. Đó là một điều kiện được đặt ra giả thuyết cho mọi người trên hành tinh này đều là tu sĩ Phật giáo hết thì việc tổ chức hai dòng tu như vậy là hợp lý.
Dù con người có tu hay không tu, khi mà có người theo tôn giáo tu hành, thì sự tổ chức của tôn giáo phải có chia làm hai dòng tu, thì tôn giáo đó mới bảo đảm cho những người theo tu hành, còn nếu không có tổ chức như vậy thì tôn giáo ấy phát triển không vững vàng, có lúc thịnh, có lúc suy như tôn giáo Phật giáo hiện giờ. Sự tổ chức của Phật giáo hiện giờ thiếu chặt chẽ, phát triển theo anh hùng cá nhân, không phải phát triển theo tập thể. Một tôn giáo tổ chức phát triển theo tập thể có chiều sâu và có chiều rộng thì thế đứng vững vàng, còn phát triển theo anh hùng cá nhân, khi cá nhân ấy mất đi, hoặc làm một điều gì mất uy tín thì tôn giáo ấy sẽ bị suy vong và sụp đổ.
Cho nên, đứng về mặt tôn giáo, muốn tôn giáo đó hưng thịnh mãi mãi thì phải xây dựng nền kinh tế của tôn giáo đó vững vàng và mỗi tín đồ phải được trang bị học tập và trau dồi đức hạnh. Một nền đạo đức nhân bản – nhân quả sống không làm khổ mình khổ người, có được như vậy thì tôn giáo ấy mới sống mãi trường tồn với loài người.
Trên thế gian này nếu có một tôn giáo biết tổ chức được như vậy, thì loài người trên hành tinh này sẽ sống trong cảnh Thiên Đàng, Cực Lạc, Niết Bàn thực tế, chứ không phải còn là một giấc mơ mà con người hằng mơ ước từ bao thế kỷ nay.
Đối với con người trên thế gian này nếu tất cả đều biết tu hành theo Phật giáo sống thiện, sống không làm khổ mình khổ người và khổ tất cả chúng sanh thì phước báu vô lậu vô lượng nên cây cỏ thảo mộc tự ra hoa trái đầy đủ sung mãn nên có lo gì đến sự đi khất thực. Phải không con?
137. Lục Căn Hư Hoại
Hỏi: Kính thưa Thầy, những người bị hư hoại lục căn, nhưng trí tuệ không bị hư hoại có ảnh hưởng gì trong việc tu tập theo đạo Phật không?
Đáp: Xưa, thời Đức Phật còn tại thế, người đau bệnh cùi, cụt tay, cụt chân, Đức Phật vẫn nhận họ làm đệ tử tu hành xuất gia và những vị này đã tu hành chứng quả A-la-hán. Thời nay các Tổ biên soạn giới luật, người cụt tay, cụt chân, chột mắt, nói chung là lục căn bị hư hoại thì không được thọ đại giới như những người khác, chỉ có cho thọ giới Sa Di mà thôi.
Đạo Phật là đạo trí tuệ, nếu ai có trí tuệ biết giữ gìn giới luật đức hạnh sống đúng đời sống Phạm hạnh như Phật, biết sửa những sự sai quấy lỗi lầm, biết xấu hổ khi phạm phải giới luật, biết ngăn ngừa các việc làm ác, biết ly dục ly ác pháp, biết xả tâm diệt ngã, thì dù cụt tay, cụt chân, chột mắt, đui mù, mẻ sứt, khuyết tật thì cũng vẫn tu chứng đạo không ảnh hưởng gì trong sự tu tập theo đạo Phật cả.
Đời sau, người ta cho những kẻ thiếu căn là những người phước mỏng không được thọ Đại Giới của Phật giáo, tức là không được có mặt trong hàng giáo phầm như: Đại Đức, Thượng Tọa, Hòa Thượng v.v...
Trong thời Đức Phật, người ta tu hành chỉ cần chứng đạo xong thì người ấy được gọi là Trưởng Lão, còn người tu chưa chứng dù có tuổi đạo bao nhiêu cũng không được gọi là Trưởng Lão. Đạo Phật không có giai cấp trong hàng giáo phẩm, chỉ có một giai cấp tu chứng Ba Minh mà thôi. Từ con người phàm phu, bình thường đến tu chứng gọi là Trưởng Lão.
Đạo Phật ra đời nhằm phá giai cấp của loài người trên hành tinh này, để đem lại sự bình đẳng cho mọi người như nhau không phân biệt nam, nữ. Thế mà bây giờ đạo Phật lại có giai cấp trong hàng giáo phẩm để lãnh đạo Giáo Hội, chứ không phải tu hành chứng đắc mà chỉ có học thức và tu lâu năm thì lên chức Thượng Tọa, Hòa Thượng, nhưng lại có bà Thượng Tọa và bà Hòa Thượng, thật là đau lòng cho Phật giáo ngày nay. Có nhà thơ đã châm biếm tu sĩ Phật giáo “Tu lâu cũng thành sư cụ”. Không thành đạo quả mà lại thành sư cụ thì thật là xấu hổ vô cùng.
Đức Phật đã nhìn thấy thân người do bốn đại hợp thành, nó dòn bở không bền chắc và bất tịnh, uế trược, hôi thối, chỉ tạm bợ sống 100 tuổi là cao. Đức Phật ví thân này như chiếc bè mượn nó để sang sông, dù thân người có chột mắt, cụt tay, cụt chân v.v... vẫn mượn làm bè sang sông cũng tốt vậy, chỉ sợ người ấy không có trí tuệ thì không tu được, còn có trí tuệ là còn tu được.
138. Ý Thức
Hỏi: Kính mong Thầy từ bi chỉ dạy cho con được rõ, nhà khoa học cho rằng thân con người nhờ bộ não điều khiển hoạt động. Một em bé lấy đồ chơi ra chơi rồi xếp trở lại, khoa học cho đó là bộ não điều khiển chứ em bé không biết gì?
Đáp: Não bộ của con người là ý căn, ý căn hoạt động sinh ý thức. Khoa học bảo rằng, bộ não điều khiển chứ em bé không biết là sai. Bộ não (ý căn) hoạt động sinh ra ý thức, tức là em bé biết việc làm của em bé.
Ý thức, tức là sự hiểu biết của con người. Nhưng ý thức chỉ là cái biết của thân chứ không phải cái biết của tưởng, của tâm. Cái biết của tưởng là khi chúng ta nằm ngủ chiêm bao. Cái biết của tâm là khi chúng ta nhập định Tứ Thiền và thực hiện Ba Minh. Ba cái “biết” này đều do bộ não hoạt động, khi thân hoạt động bình thường như mọi người thì một số tế bào não bộ làm việc, còn các tế bào não bộ khác đều ngưng nghỉ. Khi chúng ta ngủ các tế bào não ý thức ngưng nghỉ, nhường lại cho các tế bào não tưởng hoạt động tạo thành giấc mộng. Trong giấc mộng chúng ta cũng nghe, thấy, biết, đó gọi là “tưởng thức.”
Khi chúng ta nhập định Tứ Thiền thì số tế bào não bộ tâm thức làm việc, thì lúc bây giờ các tế bào não ý thức và tưởng thức đều ngưng nghỉ, do đó chúng ta nhập định tịnh chỉ hơi thở mà không chết và thực hiện Ba Minh.
Ý căn, tức là não bộ, não bộ rất quan trọng cho cuộc sống con người, vì nó là bộ máy chỉ huy và điều khiển toàn thân tâm theo dục vọng. Ngược lại người biết tu hành, biết sử dụng nó không theo dục vọng lại càng được lợi ích và quan trọng hơn nhiều, tức là làm chủ được sự sống chết và chấm dứt sự tái sanh luân hồi; giải phóng được sự khổ đau, chấm dứt mọi phiền toái và lợi ích nhất là có một cuộc sống đạo đức không làm khổ mình, khổ người.
Tóm lại, người tu sĩ theo đạo Phật mà biết sử dụng bộ óc của mình, chủ động điều khiển hành động thân, miệng, ý, lúc nào cũng thể hiện trong thiện pháp thì tâm sẽ được thanh tịnh hoàn toàn ly dục ly ác pháp. Nhờ đó mà nhập các loại định để đi đến chỗ làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi. Ngược lại, không biết sử dụng bộ óc, để bộ óc tự động điều khiển theo tâm dục thì muôn vàn ác pháp và khổ đau đưa đến cho mình và cho mọi người.
139. Tu Sai Hay Đúng?
Hỏi: Kính thưa Thầy! Cứ theo lời Thầy dạy con tu như vậy, thời gian sau Thầy bảo rằng con tu sai, thì con cũng hơi buồn.
Đáp: Đúng lời Thầy dạy thì các con chỉ tu đúng được phân nửa, còn một phân nửa thì tu chưa đúng.
Thầy bảo các con ăn ngủ và độc cư cho nghiêm chỉnh thì các con lại không sống đúng. Ăn ngủ thì còn tạm được, độc cư thì không trọn, cứ phóng tâm hết chuyện này đến chuyện khác. Từ khi về tu viện đến giờ các con không sống độc cư, tự để tâm phóng dật hội họp nhau nói chuyện mà bảo rằng tu đúng thì đúng chỗ nào? Người mà không phòng hộ sáu căn, không chấp nhận sống độc cư thì dù có tu ngàn kiếp cũng chẳng đi đến đâu được, chỉ hoài công vô ích mà thôi.
Dạy xả tâm ly dục ly ác pháp, thì các con lại ngồi thiền nhiều để ức chế tâm. Như vậy có tu theo đúng lời Thầy dạy không? Thiện hữu tri thức nhắc nhở cho mình tu tập, thì lại hờn giận, oán trách, nói xấu. khiến cho Thầy không muốn dạy ai cả.
Vậy có thể buồn Thầy hay buồn chính bản thân con, không hành đúng theo lời dạy của Thầy? Đáng trách nơi con hay là Thầy? Các con tu tập không thấy trách nhiệm bổn và phận của mình, khi về đây tu tập chính là mục đích phải đạt được là tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ; là làm chủ sinh, già, bệnh, chết và chấm dứt tái sinh luân hồi.
140. Ý Thức Phân Biệt Và Tỉnh Giác
Hỏi: Kính thưa Thầy! Ý căn tức là não bộ cộng với thức điều khiển mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý sanh ra phân biệt mới có dục, do dục mới có tham, sân, si, phiền não.
Tỉnh giác là đang sống với thức hay là trí. Tỉnh giác trong mọi hành động, việc làm, có phải đó là ý thức hay tri thức. Con chưa rõ cái nào là thức, cái nào là trí, kính mong Thầy chỉ dạy cho con hiểu?
Đáp: “Ý căn” tức là não bộ. Não bộ hoạt động tức là “ý thức.” Ý thức là một trong sáu thức: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức. Thân tứ đại hoạt động nhờ sáu thức này nên gọi là “sắc thức.”
“Sáu căn” tiếp xúc “sáu trần” sanh ra “sáu thức”, sáu thức dính mắc sáu trần sanh ra dục, từ dục sanh ra các ác pháp (tham, sân, si), do nguyên nhân này tạo (tập họp) ra muôn thứ khổ.
Tỉnh giác, tức là ý thức không bị tưởng xen vào, chứ không phải tỉnh giác sống với thức mà tỉnh giác là tỉnh táo trong các niệm, biết rõ ràng các niệm không bị ảnh hưởng những sự hiểu biết sai lầm ảo tưởng hư tưởng của người khác; không bị những hiểu biết do ngũ dục lạc sai bảo, cám dỗ và lôi cuốn vào ác pháp.
Tỉnh giác trong mọi hành động và việc làm là ý thức đang sống trong hiện tại với các đối tượng và việc làm.
Tỉnh giác là ý thức không bị mê mờ trước các pháp và bị lung lạc trước các cảm thọ do dục. Tỉnh giác là trí thức tỉnh táo sáng suốt. Trí thức tỉnh táo sáng suốt chính là chánh niệm.
Chánh niệm tức là sự hiểu biết rõ niệm thiện niệm ác đó, biết rõ niệm thiện niệm ác đó là do trí thức.
Tỉnh có nghĩa là sáng suốt bình thản, không u mê; giác có nghĩa là đang quan sát, nó chỉ biết trong hành động đang làm và đang quán xét để phân loại hành động thiện hay ác. Cho nên trí thức là sự hiểu biết đã thấu suốt niệm thiện ác, nên thường ở trong chánh niệm.
Tóm lại, trí không phải là thức, thức không phải là trí. Thức là sự hiểu biết, nhưng chưa có sự phân biệt, còn trí là sự hiểu biết có phân biệt thiện ác rõ ràng. Trí tức là chánh niệm, còn thức chỉ là tỉnh thức, tỉnh táo chứ chưa có trí tuệ Ba Minh. Nếu trí hiểu về Tứ thiền sinh là trí tuệ thuộc về Ba Minh, còn trí hiểu về giới luật là tri thức trí tuệ tri kiến giải thoát.
Trí tuệ tri kiến giải thoát tức là tri kiến tỉnh thức thuộc về tri thức mà Đức Phật đã xác định trí tuệ tri kiến như sau: “Trí tuệ ở đâu thì giới luật ở đó, giới luật ở đâu là tri kiến ở đó; trí tuệ làm thanh tịnh giới luật, giới luật làm thanh tịnh trí tuệ. Ở đâu có trí tuệ thì ở đó có giới luật.” Như vậy trí tuệ của giới luật là tri kiến giải thoát. Phải không các con?
Ở đây nếu các con hiểu rõ tri thức là Trí tuệ tri kiến giải thoát do từ giới luật sinh ra thì không còn hiểu lầm trí tuệ Ba Minh do định sinh ra như Đức Phật đã dạy: Định sinh Tuệ.
141. Định Niệm Hơi Thở Câu Hữu Pháp Hướng Tâm
Hỏi: Kính thưa Thầy, con ngồi kiết già 30 phút tu Định Niệm Hơi Thở câu hữu pháp hướng tâm: Ly tham, sân, si, vô ngã, vô thường, bất tịnh. Tu như vậy thời gian bao lâu hết tham, sân, si? Thân bị bệnh đau kinh niên hướng tâm xả thọ có hết đau không?
Đáp: Tu Định Niệm Hơi Thở câu hữu với pháp hướng xả tâm ly dục ly ác pháp mà hỏi Thầy thời gian lâu mau thì các con nên tự hỏi mình tu hành con có quyết tâm xả, ly dục và ly ác pháp hay không. Còn thời gian tu tập lâu mau là do người tu tập có giữ gìn giới luật nghiêm túc hay không, chứ hỏi Thầy thì làm sao xác định đúng được. Các con mãi phạm giới ăn uống phi thời và phá giới hạnh độc cư thì làm sao xác định được thời gian.
Muốn tâm ly dục ly ác pháp nhanh chậm là còn tùy ở mức độ giữ gìn giới luật có nghiêm chỉnh hay không? Nếu có quyết tâm xả ly, từ bỏ dục và ác pháp thì giới luật là thước đo cho tu tập nhanh hay chậm và thời gian ngắn hay dài. Ngược lại, không có quyết tâm xả ly chỉ hướng tâm cũng giống như người niệm Phật tụng kinh cho hết thời công phu thì tu chẳng bao giờ xả ly được. Tu như vậy mất thì giờ vô ích, chẳng có kết quả gì, tâm nào tật nấy, không bao giờ thay đổi.
Khi có ý muốn tu tập xả tâm ly dục ly ác pháp thì phải có quyết tâm xả bỏ. Ví dụ: Khi tâm khởi muốn ăn, thấy bụng đói mà chưa tới giờ ăn thì nhất định không ăn; đó là ly dục, đó là giữ giới, còn ăn là không ly dục, không giữ giới. Tâm khởi muốn nghe băng hoặc lấy kinh sách ra đọc thì nhất định không nghe băng, không đọc kinh; đó là ly dục, đó là giữ giới, còn nghe băng và đọc kinh là không ly dục, không giữ giới v.v... Khi bị người khác chửi mắng mạ nhục mình, mà mình tức giận là không ly ác pháp, là không giữ giới; còn không tức giận mà biết thương người chửi mắng mình là ly dục ly ác pháp, là giữ giới.
Dùng pháp hướng tâm là để pháp hướng tâm nhắc nhở tâm mình ly thì mình phải ly, nếu mình không ly mà nhắc nhở thì cũng như nước đổ trên lá sen, tu như vậy uổng công mà thôi. Pháp hướng tâm chỉ giúp ta thấm nhuần lý giải thoát để không chấp nhận dục và ác pháp. Đã không chấp nhận thì quyết định xa lìa. Do quyết định xa lìa thì tu rất nhanh, còn tu lừng khừng, không quả quyết xa lìa thì tu chẳng có kết quả gì.
Thân bệnh đau, muốn hướng tâm xả thọ cho hết đau thì người ấy thấu suốt lý nhân quả, không sợ chết, không sợ đau bệnh thì pháp hướng tâm hỗ trợ, tâm người ấy không dao động và cảm thọ sẽ chấm dứt không còn đau khổ. Còn người ấy sợ chết, sợ đau, hở ra một chút là cảm thấy đau khổ vô cùng thì pháp hướng tâm không có hiệu quả, thọ không đẩy lui được, đầu óc suy nghĩ lăng xăng, tâm khởi đi bác sĩ này, đi bác sĩ khác, uống thuốc này, uống thuốc khác thì người ấy bệnh đau còn mãi mãi khó mà hết được.
Dùng pháp hướng mà tâm dao động như vậy thì pháp hướng không kết quả. Người dùng pháp hướng là người phải có ý chí, phải có nghị lực mạnh mẽ. Khi hướng tâm thì giống như lấy đinh đóng cột, nhất định là tâm không dao động, quyết chiến quyết thắng, có như vậy mới đẩy lui được bệnh khổ. Có như vậy mới thấy pháp Như lý tác ý của Đức Phật rất mầu nhiệm mà trên đời này không có một pháp môn nào hơn được, một phương thuốc nào hơn được. Pháp Như lý tác ý của Đức Phật là một thần dược, nếu ai biết cách sử dụng.
142. Ngồi Thiền Nhập Định
Hỏi: Kính thưa Thầy! Con được theo Thầy tu học nhiều năm, chỉ thấy Thầy làm việc nhiều để chúng rảnh rang tu học, Thầy thì chẳng thấy ngồi thiền nhập định ngày nào hết. Vậy sao mà Thầy nhập định tháng này qua tháng khác được?
Đáp: Từ khi làm phật sự giúp đỡ người tu, Thầy không có thời gian ngồi thiền nhập định một vài tháng, chỉ ngồi nhập định 1, 2 giờ khuya để dưỡng sức lo cho chúng.
Tháng 8 năm 1991, Thầy vào thất với chúng tu tập, lúc bấy giờ Thầy mới có dịp nhập định được bảy ngày và đến 15 ngày để làm gương cho chúng và cũng không còn có thì giờ nhập định lâu hơn, vì phải ở ngoài để lo sự tu tập của chúng. Lỡ chúng tu sai, điên khùng Thầy chịu trách nhiệm nên không dám lơi lỏng. Nhưng đó là nhập định chơi cho quý thầy biết mà thôi, chứ nhập định không phải tập ngồi nhiều mà chỉ tập pháp hướng cho có hiệu quả để truyền lệnh nhập định, chứ không phải ngồi lim dim như con cóc từ giờ này đến giờ khác.
Người tu thiền định, muốn nhập định mà không tập luyện pháp hướng tâm, chỉ tập ngồi thiền cho nhiều thì sẽ nhập định con cóc chứ không có nhập định nào được cả. Vì thiền định của Phật từ giới sinh ra định chứ không phải từ định sinh ra định. Người muốn nhập các định thì tu tập pháp Như lý tác ý (hướng tâm) mới điều khiển nhập được các định. Bởi vì, các loại định đều có sự tịnh chỉ các hành trong thân khác nhau như sau:
1- Sơ Thiền, tịnh chỉ ngôn ngữ.
2- Nhị Thiền, tịnh chỉ tầm tứ.
3- Tam Thiền, tịnh chỉ tưởng (hỷ).
4- Tứ Thiền, tịnh chỉ hơi thở.
Người tu tập pháp hướng tâm chỉ cần ra lệnh tịnh chỉ trạng thái nào hoặc hành tướng nào ở định đó, thì trạng thái, hay hành tuớng ở định đó liền tịnh chỉ (ngưng), nhập vào định đó. Đừng hiểu lầm là phải tập ngồi thiền cho nhiều, ngồi nhiều từ từ sẽ nhập định này rồi đến định khác, đó là người không hiểu thiền định. Thiền định không thể tu tập nhập theo kiểu đó được, tu tập theo kiểu đó chỉ rơi vào các loại tà định (tưởng định). Tu như vậy chẳng ích lợi gì, không bao giờ làm chủ sanh, già, bệnh, chết được, mà ngược lại chỉ nuôi thiền miệng, thiền lưỡi, chỉ nhập thiền tuởng.
Điều quan trọng của sự tu tập thiền định là phải tu tập “xả tâm diệt ngã, ly dục ly ác pháp”, nhờ đó tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh mới tịnh chỉ được các hành thì mới nhập các định, nhất là nhập Tứ Thiền hơi thở phải tịnh chỉ. Do đó, an trú trong định 1, 2 ngày rất dễ dàng mà không thấy đau nhức, mỏi mệt gì cả. Khi tập luyện pháp hướng có đạo lực thì hành giả muốn nhập định lúc nào cũng dễ dàng và nhập bao lâu cũng được tùy theo loại định. Vì thế, Đức Phật mới gọi đó là: “Định Như Ý Túc.”
Cho nên khi tâm ly dục ly ác pháp xong thì mới tu tập thiền định, còn tâm chưa ly dục, ly ác pháp mà tu thiền định thì đó là thiền cóc, thiền ngồi, thiền tưởng. Muốn tu tập nhập định cho đúng thiền của Phật giáo như trên đã nói thì phải tu tập giới luật và giữ gìn giới hạnh cho nghiêm chỉnh không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào thì mới nhập định được. Rất mong quý vị hiểu cho.
143. Thời Khóa Tu
Hỏi: Kính thưa Thầy! Hiện nay, chỉ có buổi khuya con ngồi tu Định Niệm Hơi Thở 30 phút gom sáu thức và hơi thở vào tụ điểm, không thấy nặng đầu và mệt nữa. Nếu bỏ qua lâu ngày không tu gom tâm sẽ mất tụ điểm. Xin Thầy chỉ dạy cho con rõ.
Mỗi ngày buổi sáng và chiều ngồi 30 phút tu Định Niệm Hơi Thở câu hữu pháp hướng tâm để xả tham, sân, si, mạn, nghi. Pháp Tứ Chánh Cần con nhớ luôn luôn ngăn ác diệt pháp ác trong tâm và kiểm soát tâm mình rất kỹ để xả và diệt ác pháp liền, con tu như vậy có được không? Hiện giờ con muốn tu xả tâm cho rốt ráo như lời Thầy dạy, nhưng thời khóa phải tu như thế nào?
Đáp: Theo lời khuyên của Thầy, tuổi con cũng già yếu, nay đau mai ốm không chừng, từ trước con đã tu pháp ức chế tâm nên tâm không có xả tham, sân, si, vì thế tới nay vẫn chưa viên mãn giải thoát.
Trải qua một thời gian dài tu tập pháp môn ức chế tâm là một bài học kinh nghiệm sống, pháp nào tu có giải thoát, pháp nào tu không giải thoát, con đã biết tất cả mùi vị cay đắng ngọt bùi của các pháp môn của kinh sách phát triển và kinh sách các Tổ sư thiền. Bây giờ là lúc con trở về với pháp môn của Phật. Ngày đêm con chia làm bốn thời, mỗi thời tu tùy theo sức khỏe, thời gian còn lại của con thì phải tu tập cho hợp với đặc tướng. Thời công phu nào, con cũng câu hữu với pháp hướng xả tâm ly tham, đoạn diệt ác pháp.
Luôn luôn phải giữ tâm sống một mình, không lý luận thuyết pháp cho ai hết mà phải lo cứu mình trước đã, sống luôn luôn để tâm hồn thanh thản, an lạc, trầm lặng độc cư. Tới giờ đi xin cơm để ăn, hết giờ ngồi chơi và tu tập xả tâm. Cứ tu như vậy, thời gian ngắn con sẽ thấy kết quả tâm sẽ không phóng dật, tâm không phóng dật là tâm giải thoát hoàn toàn thanh tịnh, tức là tâm ly dục ly ác pháp. Đến giờ phút lâm chung, con sẽ nhẹ nhàng và tự tại không còn đau khổ nữa.
Nếu pháp hướng có đạo lực, con chủ động điều khiển theo ý muốn của mình đi tái sanh, chứ không bị nghiệp lực dẫn đi. Nói như vậy, chứ tâm không phóng dật là không còn tái sanh, tâm không phóng dật là Niết Bàn, chứ không còn Niết Bàn nào khác nữa. Điều quan trọng nhất là con nên xả tâm, còn tụ điểm gom tâm không có mất đâu mà con sợ. Chỉ cần con cố gắng tu tập, để có đạo lực của pháp hướng tâm, thì mọi sự làm chủ đời sống của con hoàn toàn chủ động. Tụ điểm không quan trọng đâu, có hay không có cũng không sao. Tụ điểm gom tâm chỉ là giai đoạn mới tu mà thôi, còn hiện giờ chỉ có xả tâm cho thật sạch là quan trọng. Vì chính xả sạch sẽ chứng đạt chân lý.
144. Đề Tài Thiền Quán
Hỏi: Kính thưa Thầy! Nay con tu Định Niệm Hơi Thở không được, xin Thầy cho con một đề tài thiền quán để tâm chuyên nhất cảnh mới mong thanh tịnh.
Đáp: Muốn xin đề tài thiền quán để tâm chuyên nhất cảnh thì phải sống độc cư trọn vẹn mới thực hiện được đề tài thiền quán này. Phải giữ gìn tâm không được phóng dật, sống đúng giới hạnh, đời sống thiểu dục tri túc, ít muốn, biết đủ thì mới tu tập đề tài thiền quán này. Từng phút, từng giây, hàng ngày ngăn ác, diệt ác, thì kết quả sẽ nhập được bốn thiền và thực hiện được Ba Minh không có khó khăn không có mệt nhọc, không có phí sức.
Muốn được vậy con nên tu tâp xả tâm vô lượng có nghĩa là tất cả các niệm sinh khởi trong tâm cũng như các cảm thọ nơi thân thì con nên dùng tri kiến hiểu biết Chánh kiến và Định Niệm Hơi Thở xả sạch và đẩy lui các bệnh khổ. Đó là xả tâm rốt ráo. Khi xả tâm rốt ráo thì tâm sẽ được định tỉnh, nhu nhuyến dễ sử dụng, dễ sai khiến thì lúc bây giờ con sẽ thực hiện được Tứ Như Ý Túc và như vậy con làm chủ sự sống chết và chấm dứt luân hồi dễ như trở bàn tay.
145. Đừng Mất Hy Vọng
Hỏi: Kính thưa Thầy! Theo lời Thầy dạy, thân định trên tâm, tâm định trên thân tức là nhập Tứ Thiền. Như vậy cơ thể con bây giờ không làm được điều đó. Xem như đời sống của mình vô dụng. Bây giờ con về thất, phát nguyện giữ gìn sống đúng giới luật, thà chết trên giới luật, không hề vi phạm và bẻ vụn giới luật. Thỉnh thoảng con về thăm Thầy và chúng huynh đệ, nhờ Thầy ban bố cho những lời pháp bảo sách tấn để thời gian còn lại con cố gắng tu hành cho đến hơi thở cuối cùng.
Đáp: Giới luật nghiêm túc thà chết không vi phạm, đó là con đã thân định trên tâm, tâm định trên thân, tức là con đã nhập Tứ Thiền rồi. Sợ e giới luật không nghiêm chỉnh thì dù con có đủ sức ức chế tâm con cũng chẳng nhập được.
Con đừng bi quan mà phải cố gắng tu xả tâm, chỉ một thời gian tâm con như cục đất thì Tứ Thiền nhập như trở bàn tay. Sợ e con xả tâm không được mà thôi. Phải bền chí cố gắng xả tâm, đó là chánh pháp thiền định của Phật. Con nên nhớ kỹ mà tu cho đúng. Không trễ đâu, đừng mất hy vọng, hằng ngày cố nhớ xả tâm! Chỉ có bền chí là thành công, chấm dứt một đời người đau khổ không còn tái sanh luân hồi nữa.
Xả tâm rất dễ con ạ! Chỉ ngồi chơi không làm gì hết, có niệm thì dùng câu tác ý mà xả; có thọ thì dùng định niệm hơi thở mà đẩy lui các cảm thọ. Như vậy ngày nào cũng tu tập như vậy thì tâm con sẽ thanh thản, an lạc và vô sự tức là tâm con không phóng dật.
146. Pháp Hướng Tâm
Hỏi: Kính thưa Thầy! Pháp hướng tâm do tưởng thức hay do ý thức, hay do tâm thanh tịnh mà có lực mạnh như vậy?
Như con vừa tác ý, sáu thức gom vào hơi thở là có một cái lực vô hình gom vào rất mạnh. Con tác ý nhĩ thức nghe vào trong, nghe sự yên lặng của tâm là ngay đó có một sức hút mạnh làm cho thân con rối loạn, các cơ ép cho tim mệt, chuyển động não đầu. Như vậy là do tưởng lực hay do cái gì mà nguy hiểm như thế, xin Thầy chỉ dạy cho con rõ để con dùng pháp hướng cho đúng cách, nếu không rõ mà tu pháp hướng thì rất là nguy hiểm cho tánh mạng.
Đáp: Đến giờ này con mới rõ được lực của pháp hướng siêu việt như vậy, nhưng con nên lưu ý:
1- Dùng ý thức tu tập pháp hướng tâm để xả tâm ly dục ly ác pháp thì không nguy hiểm cho người mới tu. Và người mới tu chỉ được dùng pháp hướng tâm ly dục ly ác pháp mà thôi, chứ không được dùng tịnh chỉ, vì dùng tịnh chỉ sẽ rơi vào các trạng thái tưởng thì rất nguy hiểm.
2- Ức chế tâm như các con tu tập dừng vọng tưởng mà dùng pháp hướng thì đó là tưởng lực của pháp hướng, chứ không phải ý lực của pháp hướng. Tưởng lực này rất nguy hiểm cho người tu tập, nó sẽ làm rối loạn cơ thể, có khi bị bệnh rối loạn chức năng của cơ thể, có khi rối loạn chức năng thần kinh sanh ra điên khùng rất nguy hiểm, cần nên đề phòng cảnh giác. Người tu thiền định ức chế tâm như: Lục Diệu Pháp Môn, Sổ Tức Quan, Tùy tức, Chỉ tức, nhiếp tâm niệm Phật, Tri vọng, Tham công án, Tham thoại đầu v.v... không được dùng pháp hướng tâm
3- Tâm thanh tịnh, tức là tâm hết tham, sân, si thì mới được dùng pháp hướng tâm nhập định. Vì lúc này tâm rất định tỉnh, nhu nhuyến dễ sử dụng. Cho nên lúc này dùng pháp hướng để tu tập Bốn Định Hữu Sắc và Ba Minh, vì lúc này tâm có đủ Tứ Như Ý Túc thì sự tu tập không còn khó khăn, mệt nhọc.
Khi tâm chưa ly dục ly ác pháp mà sử dụng pháp hướng để gom tâm, để tịnh chỉ các hành trong thân là một sự việc rất nguy hiểm như trên Thầy đã nói.
Khi tâm chưa ly dục ly ác pháp thì chỉ được quyền sử dụng pháp hướng tâm ly dục ly ác pháp mà thôi. Chừng nào tâm ly dục ly ác pháp xong thì mới được sử dụng pháp hướng tâm tịnh chỉ các hành trong thân thì mới không nguy hiểm.
Người tu tà thiền, tà định dùng pháp hướng tâm là nguy hiểm tính mạng, tốt hơn hết là dùng pháp hướng xả dục và ác pháp. Dùng pháp hướng thư giãn thân tâm để trở về trạng thái bình thường, an lạc, vô sự và thanh thản thì tốt.
Chỉ khi nào tâm thanh tịnh hoàn toàn, không còn tham, sân, si, mạn, nghi nữa, thì dùng pháp hướng tâm tịnh chỉ tầm tứ, gom tâm, tịnh chỉ tưởng thức, tịnh chỉ hơi thở và tịnh chỉ âm thanh, tịnh chỉ thọ v.v...
Lưu ý: Khi tâm chưa hết tham, sân, si, mạn, nghi mà dùng pháp hướng tịnh chỉ là nguy hiểm cho tánh mạng, cần nên tránh. Pháp hướng tâm là một pháp rất mầu nhiệm, có một năng lực rất mạnh, như một sức hút của đá nam châm.
147. Đếm 1000 Hơi Thở
Hỏi: Kính thưa Thầy! Có một bạn đồng tu bảo con hôm nay chị đếm đến 1000 hơi thở mà không có vọng tưởng? Con bảo chị không nên đếm nhiều thế? Nếu sức tỉnh thức cao thì nên tu 5, 10, 15 phút, thì em nghĩ nó không mệt tâm. Con trả lời với chị bạn như vậy có được không thưa Thầy?
Đáp: Được, con khuyên như vậy rất tốt. Đếm nhiều hơi thở đến 1000 hơi thở mà không vọng tưởng, đó là tu pháp sổ tức quán, pháp môn này thuộc loại ức chế tâm.
Tu không xả tâm thì không có giải thoát được. Dù tu tập đến 4, 5 ngàn hơi thở không vọng tưởng nhưng không ích lợi gì cho cuộc sống thực tại. Ngồi tu thì không vọng tưởng nhưng xả ra thì tâm phóng dật tứ tung, chạy Đông, chạy Tây.
Con khuyên đúng, nếu sức tỉnh thức cao thì tu 5, 10, 15 phút và hướng tâm xả ly dục và ác pháp (tham, sân, si) thì đó sẽ có giải thoát ngay liền. Một ngàn hơi thở không thất niệm mà không hướng tâm xả ly đoạn diệt tham, sân, si, mạn, nghi thì rất phí uổng sự tu tập.
Con nên khuyên bạn con tu theo thiền của đạo Phật thì phải xả ly tâm tham, sân, si. Đừng ảnh hưởng thiền ức chế tâm của kinh sách phát triển và kinh sách thiền Đông Độ, tu hành suốt đời sẽ chẳng đi đến đâu. Đó là pháp môn tu hình tướng để lừa đảo người chứ chẳng có ai tu tới đâu cả. Tu tập pháp môn nào thì hãy nhìn kết quả của những người đã tu trước, nếu kết quả chẳng ra gì thì nên bỏ đi, đừng tu tập chẳng lợi ích gì.
148. Vọng Tưởng Xen Vào
Hỏi: Kính thưa Thầy! Con tu Định Niệm Hơi Thở, cố gắng tu tập trong 5 phút không có vọng tưởng xen vào (thỉnh thoảng có lúc vọng tưởng cũng còn xen vào), sau 5 phút con đứng dậy đi kinh hành 5 phút, rồi lại ngồi thở 5 phút và cứ tu như thế cho đến khi con xả nghỉ. Quá trình thời gian tu tập là 30 phút. Trong thời khóa con tu tập nếu có lác đác vọng tưởng xen vào thì con có nên giữ thời khóa này không? Con xin Thầy chỉ giáo?
Đáp: Tu Định Niệm Hơi Thở (hành động nội thân) và Định Chánh Niệm Tỉnh Giác (hành động ngoại thân) mỗi loại định 5 phút tu thay phiên đến 30 phút xả nghỉ, nếu tu kỹ thì không còn thất niệm. Khi tu như vậy quá sức, nếu cố gắng ráng tu thêm một lần để không bị vọng tưởng thì đó là ức chế tâm, thành tu sai, rơi vào thiền ngoại đạo.
Con nên lui lại tu chừng 4 hoặc 3 phút thay phiên hai loại định, lui lại chừng nào con thấy không thất niệm thì lấy tiêu chuẩn đó mà tu tập cho tỉnh thức. Khi lui lại như vậy thì thời gian tu con cũng bớt lại thay vì 30 phút con tu chừng 20 phút xả nghỉ hoặc 15 phút mà thôi. Thà tu ít, có chất lượng cao hướng tâm ly dục ly ác pháp nhiều là tốt nhất. Mục đích chính là tu tập làm sao có sức tỉnh thức để xả tâm chứ không tìm sự yên lặng không vọng tưởng.
Chỗ hết vọng tưởng chỉ là một trạng thái tỉnh thức mà thôi chẳng phải thiền định gì cả. Do sự xả tâm mà ta tìm thấy kết quả giải thoát nơi tâm ta, một tâm hồn thanh thản, an lạc, không biết hờn giận, cố chấp ai cả, tâm rộng mở như đất trời. Chỗ đó mới là thiền định của đạo Phật, chứ không phải chỗ hết vọng tưởng. Chỗ hết vọng là Không Vô Biên xứ tuởng. Con nên lưu ý đừng để lọt vào tưởng định đó, vì xưa kia Đức Phật đã ném bỏ như một chiếc giày rách mà không hề tiếc rẻ.
Chỗ hết vọng tưởng chỉ là một trạng thái tỉnh thức mới đầu mà thôi, chẳng phải thiền định con cần nên tránh, đừng để tu tập rơi vào đó.
149. Chọn Pháp Dễ Tu
Hỏi: Kính thưa Thầy! Con tu Chánh Niệm Tỉnh Giác 5 phút trong bữa ăn không thất niệm khó hơn tu 5 phút đi kinh hành Chánh Niệm Tỉnh Giác. Như vậy con có nên chọn cách nào tu dễ hơn hợp với đặc tướng của con?
Đáp: Không nên chọn pháp dễ để tu, mà nên tập tu tỉnh giác trong tất cả các hành động, khó thì tu ít, dễ thì tu nhiều hơn, điều quan trọng dù dễ hay khó đều tùy theo sức lực của mình (đặc tướng) mà tu tập, chứ không được chọn pháp dễ để tu trước. Vì Đức Phật đã dạy cho chúng ta con đường tu tập rất cụ thể, bắt đầu tu tập từ Giới, khi tu tập giới xong thì mới tu tập Định, khi nhập xong các Định, thì mới tu tập Tuệ.
Muốn tu tập giới luật thì có những pháp hành như: Tứ Chánh Cần, Tứ Niệm Xứ, Tứ Vô Lượng Tâm. Muốn tu định thì có Tứ Thánh Định. Muốn tu tập Tuệ thì có Tứ Như Ý Túc, Ba Minh. Như vậy chúng ta phải theo lộ trình này tu tập, chứ không chọn pháp dễ mà tu trước. Vì không có pháp nào dễ mà cũng không có pháp nào khó. Người muốn tu tập theo Phật giáo thì phải tu tập từ lớp thấp rồi mới lên lớp cao. Bởi đạo Phật gồm có tám lớp học (Bát chánh đạo) được chia ra làm ba cấp, như vậy không thể nào chọn pháp dễ tu trước pháp khó tu sau. Còn tu tập tỉnh thức con cho rằng: Tu trong bữa cơm khó hơn đi kinh hành, điều này không đúng con ạ! Tu tập tỉnh thức trong lúc đi kinh hành cũng giống như ăn cơm, nhưng vì ăn có nhiều động tác:
1- Xớt cơm, xớt thực phẩm vào bát.
2- Múc cơm và thực phẩm.
3- Đưa cơm và thực phẩm vào miệng.
4- Há miệng nhận cơm và thực phẩm.
5- Nhai cơm và thực phẩm.
6- Nuốt cơm và thực phẩm.
Như vậy ăn có sáu hành động nên con cho là khó hơn đi kinh hành. Có phải vậy không con?
Theo Thầy thì không khó, nhưng con bảo khó thì chính cái khó là rèn luyện nghị lực, chịu khó giúp ta tiến tu tập mà không lùi bước. Nhưng phải lưu ý tu thời gian vừa với sức tỉnh thức của mình mà thôi, chứ không được tu quá sức. Giống như dây đàn, căng thẳng quá thì đứt dây, chùng quá thì không thành tiếng, vừa là phát âm đúng. Tu hành cũng như vậy. Con nên nhớ kỹ lời dạy này tu tập cho đúng cách thì kết quả sẽ tốt đẹp.
150. Xả Tâm
Hỏi: Kính thưa Thầy! Con tu Định Vô Lậu 30 phút (con tu như Thầy đã hướng dẫn) thấy kết quả có nhiều tiến bộ, con tập xả tâm diệt ngã trong các hành động để đối trị. Tuy vậy con còn phải tiếp tục xả và diệt nhiều nữa để tu thân và tâm con trở nên thanh tịnh như lời Thầy đã dạy chúng con.
Đáp: Định Vô Lậu là chánh định trong đạo Phật, con chọn nó làm pháp môn tu hành cho con tức là con có duyên với nó. Người nào có duyên với pháp môn này tu tập xả tâm nhanh chóng, và kết quả giải thoát thực tế và cụ thể nhất, vì xả được là có giải thoát ngay liền. Định vô lậu được tu học trong hai lớp học đầu tiên trong Bát chánh đạo, đó là Chánh Kiến và Chánh Tư Duy. Con đã tìm thấy sự lợi ích của pháp môn này, tức là con đã có duyên với nó. Vậy con phải nỗ lực gắn bó tu tập xả tâm cho thật rốt ráo.
Khi xả sạch tâm rồi con mới thấy pháp môn này tuyệt vời. Cứu người thoát ra biển khổ; cứu người chấm dứt mầm tái sanh; cứu người vượt qua sanh, già, bệnh, chết; kiến tạo thế giới con người thành Thiên Đàng, Cực lạc; biến con người phàm phu thành Thánh nhân, thoát kiếp loài thú vật làm kiếp người.
Xả tâm là một loại thiền định độc đáo nhất của đạo Phật mà khắp trên thế gian này không có một tôn giáo nào có pháp môn này. “Định Vô Lậu” là một pháp môn dùng ý thức tu tập xả tâm nên rất dễ tu, dễ xả tâm hơn các pháp khác. Có duyên với nó con nên tu tập nhiều hơn.
151. Tùy Thuận
Hỏi: Thưa Thầy, trong năm giới cấm của người cư sĩ có giới cấm sát sanh là đầu tiên. Con nghĩ giới này có thể 100% thực hiện được. Còn không ăn thịt chúng sanh thì con thấy thực hiện chưa trọn vẹn, vì các cư sĩ có nhiều hoàn cảnh phải tùy thuận với mọi người trong gia đình như chồng hoặc vợ và con cái, v.v... nên họ còn phải ăn vào những thứ bất tịnh này. Con xin Thầy từ bi chỉ giáo cho chị em chúng con có pháp đối trị?
Đáp: Đạo Phật còn gọi là đạo từ bi (đạo thương tất cả chúng sanh). Vì thế, giới thứ nhất của người cư sĩ không sát sanh, không sát sanh có hai phần:
1- Trực tiếp sát sanh: Trực tiếp sát sanh là sự cầm dao, gậy, gộc hoặc tay, chân làm cho chúng sanh chết.
2- Gián tiếp sát sanh: Gián tiếp sát sanh là xui bảo người khác đoản mạng chúng sanh hoặc ăn thịt chúng sanh.
Giới sát sanh, các con là cư sĩ giữ được giai đoạn thứ nhất là không cầm dao giết chúng sinh (trực tiếp sát sanh). Giai đoạn thứ hai (gián tiếp sát sanh) các con còn tùy thuận mọi người trong gia đình nên sự giữ gìn rất khó khăn.
Không khó đâu các con ạ! Khi chúng ta có quyết tâm làm Phật, thương yêu chúng sanh với cõi lòng yêu thương chân thật, thương chúng sanh như con của chúng ta thì chắc chắn chúng ta đâu nỡ ăn thịt chúng phải không hỡi các con?
Ở đây, Thầy xin nhắc lại chỉ có quyết tâm cứu mình ra khỏi biển khổ của kiếp làm người thì việc ngưng trực tiếp hay gián tiếp sát sanh là cần thiết cho giai đoạn đầu tu tập ngăn ác diệt ác của đạo Phật, mà không làm được thì cũng ví như đứa bé muốn đọc sách vở, báo chí mà không học nguyên âm, phụ âm và ráp vần thì chẳng bao giờ đọc sách báo được.
Giới sát sanh là giai đoạn vỡ lòng cho người mới tu tập. Muốn tùy thuận về giới sát này như Thầy đã dạy ở trên, chỉ có lòng thương yêu chân thật của mình đối với chúng sanh thì không khó. Đến bữa ăn ta ngồi vào bàn ăn như mọi người nhưng ta rất khéo chọn thực phẩm để mà ăn, rau cải, nước tương là món ăn chính của ta, tự nhiên như mình vẫn ăn như mọi người, khéo léo đừng để mọi người chú ý. Nếu thấy mọi người chú ý ta vờ gắp thịt cá bỏ vào chén nhưng lại không ăn.
Xưa, Lục tổ Huệ Năng 15 năm sống với bọn người thợ săn, đến bữa ăn đều ăn chung với họ nhưng chỉ ăn rau và muối. Mười lăm năm Ngài không phạm giới sát sanh mà bọn người thợ săn cũng chẳng biết. Nếu chúng ta có quyết tâm thực hiện lòng từ bi để cứu mình ra khỏi biển khổ, thì trong hoàn cảnh nào ta cũng tùy thuận được mà không bị lôi cuốn vào pháp ác.
Trong kinh điển Phật dạy trước mọi cảnh, muốn tâm được giải thoát, thì phải “thiện xảo.” Thiện xảo đối với các pháp ác để tâm được thanh thản an lạc. Thiện xảo với các pháp thiện để tăng trưởng lòng thanh thản, an lạc. Thiện xảo ly tâm dục và các ác pháp; thiện xảo nhập định; thiện xảo tỉnh thức; thiện xảo an trú trong định; thiện xảo xuất định v.v...
Tất cả mọi pháp tu tập của Phật đều dạy phải thiện xảo, có thiện xảo mới có kết quả tốt, mới có giải thoát thân tâm của mình. Vấn đề không ăn thịt chúng sanh là một vấn đề thiện xảo đối với tất cả mọi người trong gia đình, nếu không khéo sẽ làm khổ mình khổ người.
Trong sự tu tập không có pháp môn nào dễ, mà chỉ có người khéo léo thiện xảo thì vượt qua tai ách khổ đau bằng sự chuyển đổi nhân quả ác thành nhân quả thiện, nên Phật dạy:
“Đứng lại thì chìm xuống,
Bước tới thì trôi dạt,
Chỉ duy có vượt qua.”
Vậy vượt qua chỉ là thiện xảo trên các pháp để chủ động ra ngoài mọi sự tác động của nhân quả đang làm khổ đau cho mình và cho tất cả chúng sanh.
152. Hội Họp
Hỏi: Kính thưa Thầy! Con thưa Thầy, có năm pháp cho người mới tu cần nên tránh, con thấy có pháp tránh hội họp? Nay con hiểu câu này là không hội họp khi không cần thiết, càng tránh bao nhiêu thì tốt bấy nhiêu? Nếu họp nhóm ít người, một tháng họp nhau để giúp nhau tu học, còn họp đông đúc thì phải hết sức tránh. Có bác cho là phải nên họp đông thì mỗi người bổ sung ý kiến hay hơn. Con xin Thầy từ bi chỉ giáo cho chúng con.
Đáp: Đường lối tu hành theo đạo Phật lấy độc cư làm cuộc sống, nên thường ca ngợi và thích sống trầm lặng, cô đơn một mình. Vì sống chung đông người tâm dễ sanh phóng dật. Muốn thành tựu giải thoát của đạo Phật thì người tu sĩ phải phòng hộ sáu căn, mà pháp phòng hộ sáu căn đệ nhất là pháp độc cư. Nếu không độc cư thì dù có tu bao lâu cũng chẳng đi đến đâu, có nghĩa là chẳng bao giờ làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi.
Sống độc cư như vậy để làm gì? Sống như vậy để tâm không phóng dật, tâm không phóng dật là tâm không dính mắc sáu trần, tâm không dính mắc sáu trần là phòng hộ sáu căn.
“Hội họp, nói nhiều, thuyết giảng lung tung, ý kiến này ý kiến khác, tức là tâm đang dính mắc pháp trần, phần đông đều bị kiến giải như vậy thì làm sao tu tập tâm thanh tịnh được/”
Tu theo đạo Phật, người nói nhiều là người tu chưa tới đâu, chỉ là tưởng giải hay nhai lại bã mía của người xưa, chứ chẳng có hay ho gì cả, giống như con chim học nói tiếng người.
Những người nói nhiều là những người tu chưa tới đâu. Muốn tu tới nơi tới chốn thì phải ngậm miệng lại nên Đức Phật dạy: “Muốn ly dục ly ác pháp thì phải tịnh chỉ ngôn ngữ.” Tâm chưa ly dục ly ác pháp mà nói pháp lung tung thì làm sao ly dục ly ác pháp được, cho nên Phật cấm hội họp. Hội họp chẳng có lợi mà còn xảy ra những điều hơn thua, tranh chấp, khiến tâm bất an, tu hành khó khăn.
Các nhóm hội họp là để tu tâm độc cư, chứ không phải để nói chuyện, góp ý này hay ý kia. Hội họp để sách tấn nhau độc cư tu tập, chứ không phải để thuyết giảng nói pháp lung tung; chứ đâu phải để khoe khoang sự tu hành của mình mà để nương nhau nỗ lực độc cư tu tập, tục ngữ xưa nói: “Ăn cơm có canh, tu hành có bạn.” Nhưng có bạn là phải im lặng như Thánh.
Có bạn, nghĩa là không phải để phá độc cư, làm ồn náo, làm náo loạn; có bạn không có nghĩa là tu theo Tịnh Độ Tông, Thiền Tông, sự sinh hoạt trong các chùa hiện nay theo kiểu gia đình phật tử. Sự sinh hoạt của gia đình phật tử là sự sinh hoạt bắt chước theo “hướng đạo” (sói già). Đó không phải là sinh hoạt tu tập theo đạo Phật mà là sinh hoạt theo kiểu học tập của hướng đạo sinh, lồng trong khung giáo lý của đạo Phật. Sự sinh hoạt thọ Bát Quan Trai cũng như tu tập thiền định, phần đông tu tập chỉ là hình thức, đặt ra câu hỏi để góp ý này, ý kia, tạo những sự dính mắc kiến giải.
Sự tu tập như vậy, chẳng bao giờ đi đến đâu cả, càng tu thì càng sai, càng tạo cho tâm mình động thêm, càng tu thì tạo cho mình thêm nhiều kiến giải, tâm sanh phóng dật.
Giải thoát của đạo Phật là tâm phải quay vào trong không phóng dật, tâm hồn độc cư, thích sống trầm lặng ấy là tâm quay vào. Tâm quay vào, tức là tâm ly dục ly ác pháp, tâm ly dục ly ác pháp, tức là tâm thiền định.
Vì thế, người có thiền định là người sống trầm lặng không ba hoa thuyết giảng lung tung, thường sống với nội tâm không để ý bên ngoài.
Vậy các con là những người mới tu tập, đừng bắt chước theo sự tu tập của kinh sách phát triển và kinh sách các Tổ sư thiền mà trong các chùa đang hướng dẫn, lối tu hành hình thức (thiền giáo đồng hành) vừa tu vừa giảng thuyết. Đó là lối tu tịnh chẳng tịnh mà động thì chẳng động. Lối tu này từ xưa đến giờ chưa có ai tu giải thoát được sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi.
Khi nhóm họp lại chỉ nên tuyên bố: “Các bạn đạo, hôm nay chúng ta tập họp lại đây để tựa nương vào nhau tu tập sống đời sống như Phật, y như giới luật, như chư Hiền Thánh Tăng:
1- Sống trầm lặng, độc cư, không được nói chuyện, phải im lặng như Thánh, phải nương theo pháp Thầy đã dạy mà tu tập.
2- Giờ giấc phải nghiêm chỉnh, giờ ăn, giờ nghỉ, giờ tu tập, giờ thư giãn đều phải giữ gìn đúng đắn, không được làm sai.
3- Sống ăn ngày một bữa, không ăn uống phi thời.
4- Tự chọn một nơi yên tịnh để vừa tọa thiền, vừa hành thiền, vừa thư giãn và nghỉ ngơi cho riêng mình.
5- Suốt ngày đêm tu tập đúng cách theo lời Thầy đã giảng dạy.
6- Suốt ngày đêm tu tập phải thu lượm kết quả trong các pháp hành.
7- Trong khi ăn uống phải giữ im lặng (không được nói chuyện).
8- Trong lúc hội họp phải giữ im lặng như Thánh, ai có phận sự thì tuyên bố, nói, ai không thì thôi.
9- Sống ngày đêm phải trụ tâm như Thánh, không có si mê ham ngủ nghỉ.
10- Phải siêng năng đi kinh hành, không được lười biếng ngồi nhiều, đi kinh hành để đối trị hôn trầm thuỳ miên.”
Trên đây là 10 điều tu tập Thọ Bát Quan Trai theo tinh thần cuộc sống của đạo Phật trong thời Đức Phật.
Xưa, 500 vị tỳ-kheo đệ tử của ông Xá Lợi Phất và ông Mục Kiền Liên làm ồn náo, Đức Phật đuổi ra khỏi tu viện. Sự ồn ào, sinh hoạt, thuyết giảng hoặc góp ý kiến này, ý kiến kia làm náo động là không đúng cách tu tập của đạo Phật. Vì chúng ta hiện giờ chưa ai tu xong nên có nhiều ý kiến, tức là có nhiều kiến giải, có nhiều kiến giải, tức là đã đi lạc đường tu.
Trong những buổi họp mặt các nhóm thì các nhóm cần phải giữ im lặng như Thánh là tốt nhất, để tâm luôn lúc nào cũng quay vào trong, không phóng theo các pháp bên ngoài.
Tu tập “im lặng” như Thánh thì rất khó, nhưng sống “ồn náo” như thế gian thì rất dễ. Bởi khó mà tu được mới là Thánh, còn nếu dễ như pháp thế gian thì ai lại làm không được. Cho nên Thánh phàm chỉ ở nơi mình, giữ gìn đúng pháp là Thánh không giữ gìn là phàm phu.
Nhóm họp như thế nào đúng theo đạo Phật? Nhóm họp im lặng như Thánh là đúng theo đạo Phật.
Nhóm họp như thế nào là sai, không đúng theo đạo Phật? Nhóm họp ồn náo thuyết giảng lung tung, ý kiến này, ý kiến khác là nhóm họp theo ngoại đạo, là sai.
Điều nhớ kỹ, chúng ta chưa tu tới đâu mà có ý kiến là sai, phải lo tu cho mình. Những bạn đạo tu sai ta viết thư hỏi Thầy như trường hợp Liễu Tâm vậy, nhưng Liễu Tâm có ý kiến trước rồi mới hỏi Thầy sau thì quá muộn. Người tổ nhóm chỉ được ghi nhận những sự tu sai, hoặc đúng để thưa hỏi lại Thầy, nhờ Thầy giúp ý bạn mình mà cũng chính mình được học thêm.
Đó là sự sinh hoạt của nhóm, khi các bạn trình sự tu tập, mình chỉ được ghi chép mà không có lời nào. Nếu các con tổ chức Thọ Bát Quan Trai đúng như lời Thầy dạy thì sự tu tập tiến bộ rất lớn, có kết quả rất nhiều, tâm hồn thanh thản, an lạc và vô sự. Thọ Bát Quan Trai không được tụng niệm hoặc lạy hồng danh sám hối, những việc làm này thuộc về Tịnh Độ Tông.
153. Dẫn Tâm Vào Đạo
Hỏi: Thưa Thầy, hiện nay việc Thầy bố thí cho chúng con (các cư sĩ mới) được nghe băng giáo án tu tập 60 cuốn Thầy soạn, đa số đều mong muốn được nghe để tổng quát nội dung của giáo án Thầy giảng như thế nào. Nhưng ngược lại thì có một số đạo hữu nói là lúc này chưa nên nghe hết bộ, mà chỉ nên nghe mấy băng nói về Tam quy Ngũ giới, Mười thiện, nghe nhiều không biết đường nào tu. Thưa Thầy, trước hai quan điểm trên nên làm như thế nào để thống nhất làm một, con mong Thầy từ bi chỉ giáo cho chúng con.
Đáp: Trên hai quan điểm này đều có cái hay và cái dở của nó, hay dở là do người sử dụng quan điểm đó:
1- Quan điểm thứ nhất: nghe hết 60 cuốn băng để nghiên cứu kỹ đường lối tu tập của mình có đúng giáo lý của Đức Phật hay không? Về đường lối tu tập, tu pháp nào trước, pháp nào sau rồi đặt trọn niềm tin vào pháp mà tu tập không hề thay đổi đó là cái ưu của nó. Còn nghe hết 60 cuốn băng rồi lấy cái đó làm sự hiểu biết của mình để đi ra thuyết giảng lung tung, lúc nào cũng nói thiền nói định, nói giới nói luật, mà chẳng có một phút nào tu tập cả, đó là cái sai, cái khuyết điểm.
2- Quan điểm thứ hai: nghe Tam quy Ngũ giới, Mười thiện là trang bị cho mình một sự tu tập chưa đủ, nên cuối cùng là tu mù. Tu mà không rõ đường đi, không biết pháp hành như người mù rờ voi. Tu như vậy có hại chứ không có lợi, nhiều khi sanh ra bệnh tật khổ đau, làm khổ mình khổ người.
Còn tu mù như ông Bàn Đặc thì phải được ở bên người Thiện Hữu tri thức thì mới có lợi ích rất lớn, không bị kiến giải, không nhai lại bã mía của người khác. Muốn tu tập được như vậy thì phải sống một bên với Thiện Hữu tri thức, Người dạy cách thực hành, không có dạy lý thuyết nên hành giả tu mau tiến bộ, kết quả rõ ràng và cụ thể. Đó là cách thức dẫn tâm vào đạo. Ý này quan điểm thứ hai là ưu điểm. Ưu điểm này là người phải có đủ niềm tin với người Thiện Hữu tri thức, nếu thiếu niềm tin thì không thể thực hiện được.
Ngày xưa, ông Châu Lợi Bàn Đặc chỉ tin vào Đức Phật nên Đức Phật dạy như thế nào thì ông tu tập như thế nấy. Tu tập không làm sai lời dạy của Đức Phật, và Đức Phật cũng không dạy ông nhiều pháp, mà chỉ có dạy ông một pháp duy nhất, đó là “quét tâm” tức là tu tập Tứ Niệm Xứ có nghĩa trên thân, thọ, tâm và các pháp thường quán xét đẩy lui các chướng ngại pháp. Nhờ pháp quét tâm này, cuối cùng ông chứng quả A-la-hán. Đó là quan điểm tu mù, học tới đâu tu tới đó, nhưng phải hiểu pháp này, phải gần bên Thiện Hữu tri thức. Không có Thiện Hữu tri thức ở gần bên thì không được tu như vậy.
Phần đông thời nay, trước khi tu, đều là học giả nghiên cứu tất cả kinh sach phát triển và kinh sách thiền (sách thiền của các nhà học giả xưa và nay đều dẫm lại lối mòn của nhau) xưa kiến giải như vậy, nay cũng theo lối đó mà viết ra chẳng có kinh nghiệm gì cả, các Tổ nói sao thì nói lại cũng như vậy. Được xem đó là loại bánh in thuộc về bánh vẽ.
Tu mù có Thiện Hữu tri thức dễ kết quả và nhanh chóng hơn, không bị kiến giải của mình của người khác lừa đảo. Ngược lại không có Thiện Hữu tri thức mà tu mù là một điều nguy hiểm. Nếu không có Thiện Hữu tri thức hướng dẫn, là một khuyết điểm lớn về đường tu tập theo Phật giáo.
Hai quan điểm này nên bổ sung cho nhau. Nếu ở xa Thiện Hữu tri thức thì nên nghiên cứu nghe, đọc các pháp môn tu hành cho kỹ rồi mới thực tập tu hành. Còn có Thiện Hữu tri thức thì không cần nghe gì cả. Ông ta dạy sao thì nên tu như vậy.
Nghe học hiểu biết để tu tập cho giải thoát ra khỏi kiếp đời đầy ô trược và khổ đau, chứ không phải nghe hoặc hiểu biết để làm thầy thiên hạ dạy đạo, mà trong khi đức hạnh, giới luật, những oai nghi tế hạnh và thiền định của mình chẳng ra gì.
Đừng bắt chước hạnh nguyện Bồ Tát vừa tu vừa dạy người tu đó là kiểu dẫn nhau đi xuống địa ngục, cả Bồ Tát lẫn chúng sanh.
Dù học hỏi nghiên cứu hiểu biết rộng rãi bao nhiêu cũng không bằng “dẫn tâm vào đạo.” Dù ngu tối chẳng học thức, không nghiên cứu để hiểu biết rộng rãi, nhưng chỉ siêng năng chuyên cần “dẫn tâm vào đạo” thì tâm vẫn làm chủ sanh, già, bệnh, chết, hoàn toàn giải thoát, trở thành một bậc A-la-hán chẳng thua kém ai.
154. Cúng Dường Trai Tăng
Hỏi: Kính thưa Thầy! Cúng dường trai Tăng ý nghĩa như thế nào? Có được phước báo lớn không thưa Thầy?
Đáp: Cúng dường trai Tăng, tức là cúng dường thực phẩm và những vật dụng cần thiết cho đời sống của những tu sĩ cắt ái ly gia. Có nghĩa là giúp đỡ cho người tu sĩ sống đời sống phạm hạnh để tu tập đến nơi đến chốn. Cúng dường trai Tăng như vậy rất tốt, có nhiều phước báo. Vì đã giúp cho những bậc đạo đức chân tu thể hiện gương hạnh giải thoát, thể hiện đức hạnh làm người, khiến cho mọi người có chỗ học và sống đức hạnh giải thoát. Còn bây giờ trai Tăng cúng dường thì không đúng lời Phật dạy:
1- Trai Tăng cúng dường cầu siêu cho người chết để được vãng sanh Cực Lạc.
2- Trai Tăng cúng dường để được phước báo, làm ăn khá giả, giàu có.
3- Trai Tăng cúng dường bỏ tiền vào phong bì để biến tu sĩ phạm giới.
4- Trai Tăng cúng dường để nghe thuyết pháp lừa đảo.
Trong khi Đức Phật dạy: “Muốn ước nguyện cầu một điều gì thì cần phải giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh thì ước nguyện ấy sẽ thành tựu.”
Ước nguyện cầu mong Phật dạy là phải tự lực hành thiện pháp (theo luật nhân quả), còn cúng dường cầu nguyện để nhờ công đức tu hành của chư Tăng (nhờ tha lực) thì đạo Phật không chấp nhận.
Cho nên, Đức Phật dạy cúng dường cho bậc chân tu thì có lợi ích lớn, là nhờ gương hạnh tu hành của Người, mà ta thực hiện được đời sống thiện, nên ước muốn ta đạt thành, không phải từ tha lực của bậc chân tu mà phải do tự lực làm thiện của chính chúng ta mà thành sở nguyện.
Đạo Phật rất khó, nếu chúng ta hiểu sai, biến đạo Phật thành ngoại đạo phi đạo đức, sống nhờ vào tha lực. Nếu ta hiểu đúng, luôn tự cứu mình, cứu người thì đó là đạo Phật chân chánh. Vì thế, trai Tăng cúng dường theo kinh sách phát triển thường cầu tha lực nên biến Phật giáo thành ngoại đạo, tà giáo.
Người phật tử chân chánh luôn phải dùng sức tự lực, nêu cao đức hạnh tự lực làm sáng tỏ Phật pháp. Nếu chúng ta đi ngược lại, luôn cầu tha lực là ta thuộc về tín đồ ngoại đạo Bà La Môn.
Người phật tử nên cảnh giác và nhớ lời dạy này để duy trì mạng mạch của Phật pháp, và cứu mình, cứu người thoát khỏi mọi thủ đoạn âm mưu lừa đảo của tà giáo mê tín lạc hậu.
Hỏi: Kính thưa Thầy, nếu con người không ăn thịt chúng sanh thì trên trái đất này gà, vịt, bò, chó, ngựa, cá tôm, và tất cả loài động vật khác, sẽ sinh sôi nẩy nở chật đất, nhất là gà, vịt, heo, dê, bò, ngựa thì nhà cửa đất đai ở đâu chứa cho hết?
Đáp: Theo định luật nhân quả, cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không. Khi người ta càng ăn thịt chúng sanh, thì chúng sanh lại càng sanh ra nhiều hơn nữa. Nếu người ta không ăn thịt chúng sanh thì chúng sanh lại không sanh ra.
Tại sao vậy? Vì chúng sanh có sanh ra tức là có diệt mất. Cho nên có sự tàn nhẫn sát hại và ăn thịt chúng sanh thì chúng sanh phải chịu mọi sự khổ đau sinh ra. Đó là nhân ác, là những hành động ác của mọi người. Chính những hành động ác đó tạo ra nghiệp quả khổ, và nghiệp quả khổ này chiêu cảm, tương ưng liền sanh ra tất cả loài chúng sanh để trả quả giết hại do mọi nguời tạo tác, bằng cách để cho chúng sanh khác, giết chúng ta ăn thịt trở lại.
Nếu chúng ta không giết hại và không ăn thịt chúng sanh, thì chúng sanh không sanh ra, đó là nhân quả thiện. Do nhân quả thiện nên không có chúng sanh sinh ra để ăn thịt lẫn nhau trở lại. Nếu con người không ăn thịt chúng sanh, thì trên quả đất sẽ không có chúng sanh hung dữ, độc hại, chỉ có chúng sanh hiền lành và số lượng sanh ra rất ít.
Tại sao vậy? Khi con người không giết hại và ăn thịt chúng sanh thì tâm của họ ít dục hơn; tâm dục ít hơn thì sự sanh sản ít hơn. Do đó, nếu con người không ăn thịt chúng sanh thì trái đất này không bao giờ có tràn ngập chúng sanh. Bằng chứng, con người hiện giờ vì ăn thịt chúng sanh, nên tâm ác nhiều và tâm dục thì dẫy đầy, nên con người cũng sanh nhiều để thọ lấy quả khổ cùng nhau.
Con người ít dục thì sự sanh sản cũng ít, sanh sản ít thì việc làm ác cũng ít, và chúng sanh sinh ra cũng ít. Với đôi mắt phàm phu của con người, chúng ta không nhìn thấu hết qua lốt nghiệp của mỗi chúng sanh.
Ví dụ, một người đang cắt cổ một con gà, tiếng con gà kêu là do người ấy nhẫn tâm vặn tréo hai cánh con gà, đạp dưới chân rồi tiếp tục cắt cổ, con gà giẫy giụa với toàn sức lực của nó, nhưng không làm sao thoát khỏi bàn tay hung ác của con người. Người giết con gà ấy, đâu có biết rằng, có thể mình đang cắt cổ mẹ mình. Khi còn sống bà thường giết gà cách này để làm thực phẩm ngon cho các con ăn, bây giờ trả quả thì chính các con của bà đã cắt cổ bà để làm thịt bà cho con chúng nó ăn, tức là cháu bà.
Luật nhân quả vay một mạng con gà chết, phải trả 10 mạng con gà ở kiếp hiện tại và còn tiếp tục mang kiếp con gà ở kiếp sau nữa và còn nhiều kiếp sau hơn nữa, tức là phải chịu cắt cổ nhổ lông và nhúng nước sôi 10 lần, 100 lần, 1000 lần. Ở trên đời này, chúng ta làm một điều ác thì phải trả quả 10 lần, 100 lần, 1000 lần, cho nên chúng sanh càng ăn thịt thì loài vật cũng sanh ra nhiều để trả quả. Phần nhiều những người ăn thịt chúng sanh là họ đang ăn thịt ông bà, cha mẹ, những người thân quyến thuộc của họ đang tái sanh làm kiếp súc sanh trả quả ăn thịt chúng sanh ngày xưa.
Đức Phật dạy: “Được làm thân người là đã vay một món nợ rất nặng. Một món nợ phải trả bằng mười, bằng trăm.”
Ví dụ, ta ăn một con cá mà phải tái sanh làm một trăm con cá, một trăm lần chết trên chảo dầu sôi nước bỏng, và bị cắt cổ nhổ lông vô số vô lượng lần, chừng nào trả hết quả của kiếp làm người, đã giết và ăn thịt chúng sanh thì mới được sinh làm người. Như vậy, thử hỏi trong một đời người, chúng ta đã giết và ăn thịt bao nhiêu chúng sanh? Số lượng cũng khó mà lường được, phải nói là quá nhiều, nhiều không thể đếm được. Như vậy, muốn làm người rất là khó, phải trả hết nợ máu xương này rồi mới được đi tái sanh làm người trở lại.
Hỏi: Kính thưa Thầy, người ta bảo, sát nhân thì nhân oán, sát vật thì hóa kiếp nó khỏi làm chúng sanh. Vậy có đúng không? Xin Thầy dạy cho chúng con biết.
Đáp: Sát nhân thì nhân oán, câu này chỉ đúng có một phần ba. Giết người có ba quả:
1- Thân nhân của người chết sẽ thù oán.
2- Giết người, bị tù tội có khi bị tử hình.
3- Đời sau sẽ bị người khác giết hại, hoặc ngay trong kiếp này cũng phải bị trả quả bị người khác giết.
“Sát vật là để hóa kiếp loài vật.” Câu nói này không đúng, đó chỉ là cách lý luận để che đậy tội ác của mình. Là con người cũng như các loài động vật khác, khi sanh ra đều do nghiệp lực nhân quả, đều có một sự sống như nhau, đều có cảm giác đau khổ, vui sướng như nhau, và không có loài vật nào mà không sợ chết. Thế sao lại bảo giết chúng chết để hóa kiếp cho chúng? Chúng hóa kiếp sẽ làm loài vật gì?
Theo như sự tưởng hiểu của quý vị, giết chúng sanh chết để chúng được hóa kiếp đi tái sanh luân hồi, để được sanh ra làm người, có phải vậy không? Vậy có người giết chúng ta, để chúng ta được hóa kiếp đi tái sanh làm chư Thiên, có phải sung sướng hơn không? Vậy tại sao “giết nhân, lại nhân oán” như vậy câu này có đúng không?
Khi chết, chúng ta cũng mong hóa kiếp để được làm chư Thiên. Muốn hóa kiếp sanh vào cõi thiện thì phải làm điều lành, cớ sao lại giết hại sanh mạng chúng sinh? Sát sanh hại mạng là kết thêm thù oán mà thôi.
Trên đây là những lý luận giết hại chúng sanh để ăn thịt, bằng cách dùng những danh từ lừa đảo chính họ và người khác, để thấy mình không có làm ác giết hại chúng sanh. Tại sao cướp mạng sống của chúng sanh lại gọi là hóa kiếp, mà cướp mạng sống con người thì thành thù oán? Đó là sự vô minh của loài người có trí khôn biện luận làm những điều ác đức. Con người sanh ra hơn các loài cầm thú khác là nhờ ở trí tuệ. Trí tuệ đó, nếu sử dụng trong ác pháp, thì nó trở thành một vũ khí giết tất cả chúng sanh và có thể hủy diệt cả loài người. Trí tuệ này dùng lý luận để che đậy tội ác, nếu không được học tập và rèn luyện đạo đức thì nó là một vũ khí độc hại và quả đất này sẽ bị nó hủy diệt.
Trong thế kỷ 21 này, nếu không xây dựng cho con người một nền đạo đức nhân bản kịp thời để chặn đứng trí tuệ hung ác của loài người thì hành tinh này sẽ bị hủy diệt, như các nhà tiên tri đã báo động “tận thế .” Những trận thủy tai, động đất, không phải con người làm ra sao?
Tóm lại, câu “sát nhân thì nhân oán, sát vật thì để hóa kiếp chúng sanh của nó” là lối lý luận để che đậy tội ác của con người, để tự do tàn sát chúng sanh mà chẳng sợ tội lỗi gì cả.
157. Tu Hành Tránh Pháp Ức Chế Tâm
Hỏi: Kính thưa Thầy! Trong đời sống của người cư sĩ con nhận thấy mình phải tập bớt ăn bớt ngủ. Về ăn, con nên giảm bữa ăn sáng trước hay bỏ bữa ăn tối trước, như thế nào tốt hơn? Khi đã quen hai bữa mà không yếu sức khỏe, thì có thể giảm xuống một bữa ngay tại đời sống cư sĩ không? Con đang chuẩn bị để tăng dần “hành trang” thuận lợi cho giai đoạn sống ở tu viện. Kính xin Thầy chỉ dạy.
Đáp: Muốn sống một đời sống phạm hạnh thì hãy sống đúng lời dạy của Đức Phật, nhưng muốn sống đúng lời dạy của Đức Phật thì phải hết sức tránh sự ức chế thân tâm. Giáo pháp của Đức Phật là giáo pháp xả tâm, nếu không khéo tu sai lệch sẽ bị ức chế tâm. Phần đông, tu sĩ hiện giờ tu sai lệch rơi vào pháp ức chế tâm mà không biết. Sự giảm thiểu bớt ăn, bớt ngủ, tức là phải thay thế bằng một việc làm khác!
Ví dụ: hàng ngày lúc 9 giờ ta đi ngủ, bây giờ ta chỉ cần thức thêm 5 phút, 10 phút. Trong khi thức thêm thì ta nên tập tỉnh thức và xả tâm, trong khi đi kinh hành, vừa đi vừa nhắc xả tâm “Quán ly tham tôi biết tôi đi kinh hành.” Mới đầu chỉ tập thức thêm 5 phút, rồi tăng dần lên 15 phút, cho tới 30 phút. Đó là cách thức tập bớt ngủ.
Ăn cũng vậy, mỗi sáng, mọi người đều có điểm tâm. Ta có thể bớt bữa sáng, ăn buổi trưa và chiều. Bữa ăn trưa hoặc chiều cả gia đình có thể ăn cùng một lúc. Muốn cho gia đình đầm ấm yên vui và hạnh phúc thì buổi ăn là buổi tập họp gia đình, cố gắng sắp xếp để mọi người đều hiện diện trong bữa cơm, ta không nên vì sự tu tập mà làm mất sự sum họp gia đình. Vậy, trong ba bữa ăn, con nên khéo léo để tạo hoàn cảnh sum họp gia đình yên vui và hạnh phúc. Chỉ một hành động nhỏ như vậy mà không cân nhắc kỹ khiến bữa ăn trong gia đình buồn tẻ. Đạo Phật là đạo trí tuệ, không làm khổ mình khổ người, tạo cảnh tu tập cho mình mà luôn luôn làm cho mọi người vui, tức là tu thiền định xả tâm.
158. Tâm Thanh Tịnh
Hỏi: Kính thưa Thầy, hôm trước Thầy dạy: trạng thái tâm “định tỉnh, thuần tịnh, nhu nhuyễn, dễ sử dụng, không phiền não, không cấu uế, vững chắc và bình thản là trạng thái của Tứ Thiền”. Trạng thái này con thấy một phần chỉ về Định niệm hơi thở và Định chánh niệm tỉnh giác (tâm định tỉnh) còn phần lớn là nặng về phần đức hạnh, tức là Định vô lậu, có phải vậy không thưa Thầy? Nếu như vậy là ngay từ bây giờ chúng con phải luyện rèn đức hạnh – vô lậu cho nhuần nhuyễn theo hơi thở chứ không phải tu hơi thở tới Tứ Thiền mới có trạng thái này? Phải không thưa Thầy?
Đáp: Đến bây giờ con mới hiểu được ý này là phải chịu mất bốn năm trời, nếu không hiểu được ý này, chắc chắn con còn phải mất thời gian nhiều hơn nữa, mà còn lạc vào thiền của ngoại đạo. Đã không giải thoát mà còn có thể đưa đến “khẩu đầu thiền” tức là thiền tưởng, như Diệu Thiện.
Người tu thiền tâm đạt được định tỉnh, thuần tịnh, nhu nhuyễn dễ sử dụng, không phiền não, không cấu uế, vững chắc và bình thản, thì người ấy luôn sống trầm lặng, ít nói và không nói cho ai biết mình tu tập như thế nào. Tâm người ấy thường quay vào trong nên không tham dự chuyện thiên hạ bên ngoài, nên thường sống một mình, nhưng lại hòa hợp với mọi người, ai làm sao cũng được, biết tùy thuận và bằng lòng. Đó là tâm không phóng dật.
Bốn Thánh Định đều do Định vô lậu mà nhập được, ngoài Định vô lậu không có định nào nhập được. Định niệm hơi thở và Định chánh niệm tỉnh giác chỉ là tu tập tỉnh thức để tâm thường ở trong chánh niệm để ngăn chặn và diệt tà niệm và ác pháp, tức là ly dục ly ác pháp. Câu hỏi một, đến nay con mới hiểu đúng, từ lâu hiểu sai tu tập sai thành mất thì giờ rất nhiều.
159. Đã Học Giới Luật Mà Còn Phạm
Hỏi: Kính thưa Thầy! Con nghe nói người học giới luật mà còn phạm là có tội? Còn người đã được về đây tu học với Thầy, gặp được minh sư và chánh pháp mà còn ra đi; có người tiếp tục tu pháp Giới, Định, Tuệ, có người kèm theo vô vi, có người kèm thêm Yoga. Vậy họ có tội gì không? Và nhân ấy dẫn họ đến quả báo gì trong hiện tại và tương lai? Con kính mong Thầy từ bi giảng giải cho chúng con được rõ.
Đáp: Người học giới luật mà phạm giới luật, hiện tại họ là trùng trong lông sư tử sẽ diệt Phật giáo chết. Tuy họ cố gắng che đậy, nhưng cuối cùng họ cũng để lộ tẩy làm cho người khác rõ và không còn tin tưởng. Phạm giới luật tùy theo tội chủng của giới luật, người này phải đọa vào cảnh khổ, nhiều kiếp phải làm thân chúng sanh.
Tu theo Giới, Định, Tuệ của Phật mà còn kèm theo các pháp môn của ngoại đạo thì:
1- Sự tu hành của họ sẽ chẳng tới đâu, họ đã làm mất chủng tử giải thoát, dù tu ngàn kiếp cũng thành ma thiền.
2- Tu Giới, Định, Tuệ của Phật mà còn kèm theo pháp môn của ngoại đạo là tu hành không chân chính, khiến Phật giáo mang tiếng xấu. Người tu như vậy là phỉ báng Phật pháp, làm cho người khác mất niềm tin, tội ấy sẽ đọa địa ngục (luôn sanh trong cảnh đói khổ). Muôn kiếp khó làm người thiện (mất chánh pháp).
3- Tu như vậy, trong hiện kiếp đều gặt lấy quả bất trí, người khác khinh chê.
4- Tu như vậy, tu mãi không kết quả khiến cho người khác thấy rõ khinh chê trong hiện tại, và kiếp sau sanh làm người u tối, mê muội.
5- Tu như vậy, con người ương ương gàn gàn, sống bất an và hoàn cảnh bất an trong hiện tại và muôn kiếp.
160. Ăn Của Đàn Na Tín Thí Mà Không Tu
Hỏi: Kính thưa Thầy, con nghe nói trong đời tu mà cứ thọ nhận ngày càng nhiều của thầy Tổ, của đàn na thí chủ, mà không tu được, kiếp sau làm thân trâu, ngựa trả nợ. Vì vậy, trong quá trình tu tập, hễ tâm bất an là nó hay luận theo như vậy rồi bỏ cuộc, về tự làm tự tu, rồi kết quả sự tu sẽ đi đến đâu? Làm sao thắng được tư tưởng này? Con kính xin Thầy từ bi chỉ dạy.
Đáp: Câu nói “ăn của đàn na thí chủ mà tu không giải thoát thì phải mắc nợ người. Sau này phải làm thân trâu, ngựa hoặc tôi tớ, lính gác, v.v... để trả nợ” nhằm mục đích khiến cho chúng ta sợ mà ráng tu hành, chứ không phải có thật như vậy.
Nếu chúng ta không gieo nhân cúng dường cho những bậc tu hành, thì ngày nay làm gì chúng ta có người cúng dường ăn để sống tu hành. Nhân thì phải có quả. Thấy quả biết được nhân. Quả của chúng ta đang được ăn ngồi không tu hành, thì biết nhân đời trước chúng ta đã có cúng dường cho người tu. Chúng ta tu có kết quả hay không kết quả là do chúng ta có duyên với chánh pháp hay không, chứ không phải ở chỗ thọ của đàn na thí chủ hay thầy Tổ. Hai nhân quả này khác nhau.
Đứng trên góc độ nhân quả mà nói, ngày nay ta ngồi không, thọ dụng của đàn na thí chủ và thầy Tổ để tu hành, thì trước kia ta đã từng cúng dường thầy Tổ và các bậc tu hành. Cũng trên góc độ nhân quả ta tu chứng hay không tu chứng, là do duyên tiền kiếp có gieo với chánh pháp hay tà pháp mà thôi.
Trong lịch sử tu hành của Phật và các vị tỳ-kheo thánh tăng không có ai tự làm, tự tu mà có kết quả giải thoát được, chỉ là một thứ đạo yểm ly cuộc sống. Tự làm, tự tu kết quả sẽ chẳng đi đến đâu. Muốn thắng tư tưởng này cần phải hiểu rõ nhân quả.
Đạo Phật là đạo xả tâm, vì xả tâm nên đời sống chỉ còn có ba y một bát, sống đời thiểu dục tri túc, đi xin cơm ăn từng ngày để tạo duyên dạy người tu học sau này. Cho nên Đức Phật dạy: “Hóa độ hữu duyên”, có nghĩa là tạo duyên mới để dạy người tu tập như các con đang tu tập vậy. Như bây giờ các con đang xin cơm đàn na thí chủ ăn để tu tập, đó là đang gieo duyên với đàn na thí chủ, chứ không phải nợ đàn na thí chủ.
Bây giờ con đã hiểu như thế nào là: “thọ nhận ngày càng nhiều của thầy Tổ, của đàn na thí chủ mà không tu được, kiếp sau làm thân trâu, ngựa trả nợ”, không phải vậy con ạ!
Nỗ lực tu tập hằng ngày để ly dục ly ác pháp là một việc làm đầy đủ những công đức vô lượng vô biên thì làm sao nợ đàn na thí chủ được. Công đức hằng ngày các con tu tập để xả tâm tham, sân, si là công đức không thể lấy vật gì so sánh được. Và như vậy làm sao mang nợ đàn na thí chủ. Phải không các con?
161. Thân Kiến Là Gì?
Hỏi: Kính thưa Thầy, thân kiến là gì? Có phải là những kiến chấp về thân, coi trọng cái thân không? Có phải nó làm cho mình giảm nghị lực để chiến thắng mọi khó khăn, mọi hoàn cảnh về thời tiết bệnh hoạn? Rồi nó luận tu pháp này (Vô Vi, Yoga) dễ hơn, khỏe hơn để mình xa dần pháp môn chân chánh của đạo Phật? Nếu con muốn phá được thân kiến phải tu tập những gì để có sức tự chủ? Con cúi xin Thầy giúp con thoát khỏi hoặc ngăn ngừa những sai lầm!
Đáp: Con hiểu về thân kiến rất đúng. Trên đời, người ta khổ vì chấp thân là của ta, gặp hoàn cảnh khó khăn, gặp việc khó khăn, gặp khí hậu thời tiết, bệnh tật khó khăn là ta đi tìm cách tránh né cho khỏe thân hơn, tức là chấp ngã.
Tu hành là phải xả tâm, diệt ngã, ly dục ly ác pháp quá khó khăn, khiến cho thân tâm phải mệt nhọc từng phút, từng giây, để chiến đấu làm chủ đời sống của mình. Vì tu hành quá vất vả, nhiều người nản chí và thối tâm chạy theo tu các pháp môn Tịnh Độ, Mật Tông, Thiền Tông, Vô Vi, Yoga v.v... Đó là do bệnh chấp ngã, xem ngã trọng, sợ ngã mệt nhọc, để tu các pháp khác an ổn, hỷ lạc hơn, ngồi thiền nhiều khỏe hơn.
Tất cả những lý luận này là lý luận chấp ngã, nuôi ngã, dưỡng ngã. Người chấp ngã, nuôi ngã là đi ngược lại đường lối tu tập của đạo Phật, thì dù có tu muôn kiếp cũng khó giải thoát được. Tu như vậy thì tu để làm gì, tốt hơn sống ngoài đời có đạo đức nhân bản - nhân quả còn khỏe hơn là chạy đi tìm dục lạc trong thiền định. Nếu nói để trị bệnh, thì làm sao thiền định trị bệnh được. Bệnh gốc do nhân quả, muốn trị thì phải trị bằng nhân quả, sao lại trị bệnh bằng thiền tưởng? Thiền tưởng chỉ làm cho chúng ta cảm thấy nhẹ nhàng, thoải mái và phục hồi những rối loạn chức năng của cơ thể, chứ không thể chữa hết nghiệp nhân quả bệnh khổ.
Muốn phá được thân kiến thì chỉ có các pháp thiền định của đạo Phật:
1- Định Niệm Hơi Thở.
2- Định Chánh Niệm Tỉnh Giác.
3- Định Vô Lậu.
4- Định Sáng Suốt.
Hàng ngày phải chuyên cần tu tập pháp hướng tâm, “tâm như cục đất lìa tham, sân, si hết” thì thân kiến mới dứt.
162. Đi Dép Da, Mặc Áo Lông Thú
Hỏi: Kính thưa Thầy, tu sĩ đi dép da hoặc mặc áo lông thú và áo da thú nữa. Có phật tử hỏi: “Sao thầy lại mặc áo da thú? Thầy không thương chúng sanh à!” Vị tu sĩ ấy trả lời: “Cái áo da này là cái áo da đã thuộc rồi, còn đâu linh hồn con thú nữa mà phải thương xót, áo này là áo “xịn” của tôi khoảng sáu “vé” đấy, đây là áo ngoại nhập”! Xin Thầy chỉ dạy.
Đáp: Giới luật Phật đã cấm không cho các vị tỳ-kheo mang giầy dép hoặc mặc áo quần bằng da thú vật. Vị sư này không học giới luật, nên phạm giới mà không biết, lại có ý còn khoe mình ăn mặc đồ đẹp tốt.
Một chùm trái cây có kiến mà Đức Phật còn không ăn, sợ làm động chúng sanh đau khổ, huống là mang dép da, mặc áo lông thú thì còn ý nghĩa gì là đạo từ bi nữa. Bởi vậy thời đại chúng ta, những ma vương, quỷ quái mang hình lốt Phật, ăn nói càn bướng, xem thường người phật tử (tín đồ) không biết giáo pháp và giới luật là gì, nên lý luận che đậy những hành động ác pháp. Mang dép da dưới chân là không thương xót loài chúng sanh đã bị kẻ ác đức lột da làm giầy dép. Nếu giả sử vị tu sĩ ấy bị kẻ khác lột da đem thuộc, làm giầy làm dép thì vị tu sĩ có đau khổ không? Nhìn thấy da chúng sanh làm giầy dép, áo mặc, người tu sĩ Phật giáo phải đau lòng xót dạ như chính mảnh da của mình đang bị làm giầy, dép, áo vậy.
Thực hiện lòng thương yêu của chúng ta đối với chúng sanh để làm gì? Thực hiện lòng thương yêu chúng sanh là để đối trị lòng tham, sân, si và các ác pháp, để cứu mình ra biển khổ của cuộc đời. Mục đích là như vậy, nên đời sống người tu sĩ phải thực hiện lòng từ bi, để không làm khổ mình, khổ chúng sanh, biến cảnh thế gian thành Niết Bàn. Có đâu như loài quỷ dữ, đi dép da, mặc áo da thú, ăn thịt chúng sanh như cọp, beo, ác thú. Thì thử hỏi còn gì là Phật pháp?
Xưa, Đức Phật thấy đống xương người còn nhớ công ơn cha mẹ mình nhiều đời nhiều kiếp. Còn bây giờ chúng ta thấy da chúng sanh làm dép, làm áo mà không nghĩ đến sự đau khổ của chúng sanh, trước khi chết đã bị người lột da xẻ thịt thì thử hỏi cái đau khổ nào hơn là cái đau này? Vậy mà trả lời: “Còn đâu linh hồn con thú nữa mà phải thương xót” thì đúng là tà sư ngoại đạo, chẳng có lòng thương xót. Chính những tu sĩ này đã giết Phật giáo. Nếu tín đồ Phật giáo muốn duy trì và bảo vệ Phật giáo thì phải tránh xa những tà sư ngoại đạo này. Họ là ma vương, quỷ dữ trong nhà Phật, sẽ lừa đảo quý phật tử bằng cách buôn Phật bán pháp đấy.
163. Mừng Sinh Nhật Thầy Trụ Trì
Hỏi: Kính thưa Thầy, có Thầy trụ trì của một ngôi chùa nọ, vị ấy cao tuổi nhất, năm nào cũng làm sinh nhật thật to, 100 mâm cỗ hoặc 200 mâm cỗ. Làm như vậy có đúng không thưa Thầy? Có những chùa khác lại bày ra giỗ Tổ, lạy Tổ và còn bày ra cách lễ bái khác, nói là: Phật tử cứ tụng kinh niệm Phật mãi họ cũng chán nên phải thay đổi các nghi thức lễ để phật tử đỡ chán, thưa Thầy có đúng không?
Đáp: Đạo Phật chủ trương đi xin ăn (khất thực) để xả bỏ tất cả mọi thứ danh, lợi, sắc đẹp, ăn và ngủ và còn xả tất cả mọi thứ phong tục tập quán. Đọc suốt một tạng kinh Nikaya chưa từng có bài kinh nào nói về làm lễ sinh nhật Phật và kỵ giỗ mẹ Phật, ta cũng chưa từng nghe Phật dạy cúng bái, tế lễ bao giờ. Người khất sĩ đi xin ăn, ngày nào ăn trọn ngày nấy, không có để dành tích trữ một vật gì cả, thì lấy gì làm sinh nhật 100 mâm cỗ? Thời mạt pháp, những tu sĩ mạo danh đệ tử Phật để lừa đảo tín đồ, giống như hàng vua chúa phong kiến sinh nhật làm 100, 200 mâm cỗ thật là phí của đàn na thí chủ.
Tu hành theo Phật giáo mà làm như cuộc sống thế gian, ăn mãi thành chán phải thay đổi thức ăn; niệm Phật, tụng kinh mãi chán, phải thay đổi cách thức nghi lễ để đỡ chán. Thật là những lý luận phàm phu tục tử, Phật pháp mà như vậy thì còn thể thống gì. Đối với những tu sĩ trùng trong lông sư tử này, phật tử hãy đề cao cảnh giác, đừng tiếp tay với ma vương mà phá Phật pháp. Đừng nối giáo cho giặc vào cướp nước ta.
Phật pháp thịnh hay suy là do tín đồ, càng nuôi dưỡng (cúng dường) tà sư ngoại đạo thì Phật pháp sẽ bị chúng diệt mất. Không cúng dường cho chúng để chúng không sống được thì Phật pháp mới hưng thịnh, bậc chân tu mới xuất hiện. Tín đồ Phật giáo hãy cảnh giác và cảnh giác hơn nữa thì mới mong cứu lấy đạo Phật.
164. Học Trò Bạc Nghĩa
Hỏi: Kính thưa Thầy, có tu sĩ thọ cụ túc giới, phạm lỗi phá giới, thầy bổn sư cảnh cáo răn dạy, vị tu sĩ ấy bỏ chùa ra đi, nhận chùa khác, lấy của đàn na thí chủ mua sắm xe cộ bị phật tử ở địa phương đó đánh đuổi ra khỏi chùa, nhưng nói với người khác là phật tử rất thương mến ông ta. Thưa Thầy có phải đó là hành động lừa dối mọi người không?
Đáp: Thời nay, tu sĩ chẳng nghe lời dạy của Thầy bổn sư, khi bị cảnh cáo, bị đuổi vì phạm giới luật thanh quy trong tu viện. Ra đi đến chùa khác thường nói xấu thầy Tổ bằng cách này cách khác, đặt chuyện thêm bớt, đó là đệ tử thời nay trả ơn thầy bổn sư của mình bằng cách đó. Những hạng người này rất nhiều, họ chẳng có tình có nghĩa gì hết, sống ngoài đầu môi chót lưỡi, nói tốt mình, lừa đảo người khác để tìm miếng ăn bất chính.
Ngoài đời họ chẳng làm nên việc gì cả, chỉ tìm cách lừa đảo ăn bám vào người khác, họ là những ký sinh trùng, mượn chiếc áo Phật giáo để tìm miếng sống hàng ngày, mượn chiếc áo Phật giáo để mua danh mua lợi chứ chẳng có tu hành gì cả. Ngoài miệng thì nói kinh nói pháp mà trong tâm chứa danh, chứa lợi, bọn tu sĩ này trong thời nào cũng có, đuổi chúng từ chùa này đi chùa khác, sống chụm ba, chụm bảy lập phe, lập nhóm chẳng có chút gì gọi là người tu sĩ. Phật tử hãy đề cao cảnh giác những tu sĩ nói xấu thầy Tổ là tu sĩ giả, thiếu đạo đức, thiếu tình nghĩa. Những người này sống để mà phá đạo, diệt đạo. Do những người này mà Phật giáo suy đồi, do những người này mà Phật giáo bị người đời chê bai.
Những điều con hỏi trên đây là sự thật. Có rất nhiều tu sĩ như vậy đang lũng đoạn Phật giáo. Số tu sĩ này đông vô số kể, trình độ học thức khá cao, nhưng giới luật và đức hạnh chẳng có chút nào, tâm thế gian dục lạc đầy dẫy, họ đang làm giàu trên xương máu của tín đồ bằng những lý luận láo toét. Họ là những gánh nặng cho tín đồ. Thật là đau lòng khi thấy người đang phạm giới phá giới, đang diệt Phật giáo mà không một chút lòng hối hận.
165. Tu Sĩ Làm Con Nuôi, Em Nuôi
Hỏi: Kính thưa Thầy, có tu sĩ ở chùa nhà quê, sau khi đi học lớp dự thính tại chùa Quán Sứ, hết khóa học không chịu về quê, ở nhờ nhà một vị cư sĩ và nhận hai người này làm cha mẹ nuôi. Một người xuất gia bỏ cả gia đình, cha mẹ đi tu, thế mà nhận người khác làm cha mẹ nuôi, anh nuôi, như vậy có đúng không thưa Thầy?
Đáp: Thời đại khoa học ngày nay mới thấy rõ người ta lợi dụng chiếc áo tu sĩ để đi học hành, tạo công danh mà khỏi tốn tiền bạc của cha mẹ. Đó là những hạng người lừa đảo tín đồ, chứ không phải là những người tu hành thực sự. Đúng nghĩa của đạo Phật, đi tu là phải tìm đường giải thoát cứu mình ra khỏi biển khổ trầm luân của cuộc đời, chứ không phải tìm danh tìm lợi. Cho nên bỏ hết cuộc đời, sống không gia đình, không nhà cửa có đâu lại tìm người làm cha nuôi, mẹ nuôi, anh nuôi, chị muôi, kết tình kết nghĩa thì sợi dây ái kiết sử làm sao bứt được?
Một tu sĩ nhận cha nuôi, mẹ nuôi, anh chị em nuôi là một điều không đúng trong đạo Phật. Đó là hạng người tu hành dối trá, lừa đảo phật tử. Quý phật tử hãy lưu ý những người tu hành như vậy. Họ là người giả tu, là những người chạy theo danh lợi, bằng cách lường gạt phật tử, hãy tránh xa, họ là bọn ma vương đội lốt tu sĩ Phật giáo, phá giới luật khiến cho mọi người khinh chê Phật giáo. Phật giáo mất uy tín là vì những giới tu sĩ này.
Quý phật tử hãy tránh xa, tránh xa họ như tránh xa bệnh truyền nhiễm.
166. Nghe Pháp Không Được Trang Điểm
Hỏi: Kính bạch Thầy, xưa người cư sĩ đến nghe Đức Phật thuyết giảng pháp đều cởi bỏ đồ trang sức, có phải vậy không thưa Thầy?
Đáp: Đúng vậy, khi Đức Phật còn tại thế, mọi người đến nghe pháp, nhất là giới phụ nữ đều cởi bỏ đồ trang sức rồi mới được vào nghe Phật thuyết pháp. Bà Visakha khi đến nghe Phật thuyết pháp, bà quên cởi bỏ xâu chuỗi ngọc ở nhà, khi vừa đến Tịnh Xá bà mới nhớ ra và cởi bỏ ở hốc cây. Sau khi về bà quên lấy, khi ấy ông A Nan gặp và đem về trao cho Phật. Phật bảo hãy đem trả lại cho bà và bà cúng luôn xâu chuỗi ngọc cho Phật.
Thế mới biết hồi Phật còn tại thế, người cư sĩ đi nghe thuyết pháp cũng không được trang điểm.
Còn thời nay thì không được như vậy, tỳ-kheo Tăng và Ni còn sửa sang làm đẹp, ăn mặc bằng vải loại tối ưu, xấu không thèm mặc. So sánh trong thời Đức Phật thì Tăng Ni hiện giờ còn thua cư sĩ thời đó. Cho nên Mười Giới Sa Di Phật cấm không cho trang điểm, ăn mặc vải thô xấu, không nằm giường cao rộng lớn. Thế mà những giới luật cơ bản này Tăng Ni đều vi phạm hết. Ngày nay, tu sĩ trở thành phú Tăng, chứ không còn là bần Tăng xả bỏ thế tục.
Người cư sĩ trong thời Đức Phật đi nghe pháp không được trang điểm. Còn thời nay, người phụ nữ đi nghe pháp không những trang điểm mà còn ăn mặc hở hang, bày da hở thịt thật là đau lòng. Vậy mà đi nghe pháp giải thoát mà làm gì? Đi xem, nghe ca nhạc kịch thì còn thú vị hơn nhiều.
167. Chúc Thọ
Hỏi: Kính bạch Thầy, khi cha mẹ đến tuổi 80, 90 gọi là thượng thọ, ngày ấy con cháu đến chúc thọ và in kinh sách thiện biếu, làm như thế có được không thưa Thầy?
Đáp: Được! Khi cha mẹ hưởng thọ từ 80 đến 90 hoặc 100 tuổi con cháu làm lễ chúc thọ, ngày ấy ấn tống kinh sách đạo đức nhân bản - nhân quả giúp cho mọi người làm thiện, không làm khổ mình, khổ người, đó là điều tốt nhất, đúng với chánh pháp của Phật nhất.
Mọi người được đọc kinh sách của đạo Phật họ sẽ làm điều lành, điều lành ấy mang đến cho mọi người sự bình an, yên vui. Chính nhờ đạo đức nhân bản - nhân quả của đạo Phật được phổ biến, khiến cho mọi người an vui và hạnh phúc. Chúc thọ như vậy đã tạo phước lành cho cha mẹ già lớn tuổi được phước báo ít bệnh tật khổ đau, chết còn biết ngày giờ chết vì thiện nghiệp.
Ngày ấy, gia đình ấn tống kinh sách đạo đức làm người, khiến cho mọi gia đình được an vui và hạnh phúc. Ngoài xã hội có trật tự và an lạc. Việc làm này đem đến hạnh phúc chung cho mọi nhà và xã hội. Đó cũng là tạo một truyền thống tốt đẹp cho quê hương xứ sở: “Chúc thọ làm thiện nghiệp, tạo đạo đức cho mọi người.”
168. Tứ Chúng
Hỏi: Kính thưa Thầy, trong giới luật của Phật, nếu đệ tử của Phật giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh và khép mình trong giới luật triệt để thì được xếp vào bốn hàng tứ chúng (cư sĩ nam, cư sĩ nữ, tỳ-kheo Tăng và tỳ-kheo Ni) như vậy có bằng phẩm Bát Bộ Thiên Long không?
Đáp: Bốn chúng đệ tử của Phật là Tăng, Ni, cư sĩ nam và cư sĩ nữ đều phải giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh mới gọi là đệ tử Phật, còn Tăng, Ni và cư sĩ mà không giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh thì gọi là đệ tử của Bà La Môn giáo, tức là Phật giáo phát triển. Bốn chúng đệ tử Phật không thể gọi là Bát Bộ Thiên Long được. Bát Bộ Thiên Long gồm có:
1- Thiên Chúng gồm sáu cõi trời dục giới, bốn trời tứ thiền sắc giới, bốn trời vô sắc giới.
2- Long Chúng (rồng) gồm có tám vị Long Vương.
3- Dạ Xoa là những quỷ thần.
4- Càn Thát Bà là thần âm nhạc ở cõi trời Đế Thích.
5- A Tu La là thần quả báo (thích đánh nhau).
6- Ca Lâu La (Thần kim xí điểu)
7- Khẩn Na La là giống thần đầu người thường ca hát ở cõi trời Đế Thích.
8- Ma Hầu La Già là thần mãng xà (thần rắn).
Trong kinh Nguyên Thủy Đức Phật đã xác định Bát Bộ Thiên Long là tưởng tri, chớ không phải liễu tri. Vậy Bát Bộ chẳng phải là thế giới trời, người, quỷ, thần mà do tín ngưỡng Ấn Độ đã xây dựng từ xưa trước khi có đạo Phật.
169. Ăn Thịt Chúng Sanh Vì Sức Khỏe
Hỏi: Kính thưa Thầy, trong năm giới của người cư sĩ có: 1- Sát sanh; 2- Trộm cắp; 3- Tà dâm; 4- Vọng ngữ; 5- Uống rượu. Năm giới này con cố gắng giữ gìn đừng cho sai phạm nhưng giới không sát sanh thì con có giữ nhưng chưa trọn vẹn, vì còn ăn thịt chúng sanh (con chỉ giữ được 10 ngày trong một tháng). Vì sức khỏe con còn ăn thịt để sống, chứ không có cảm giác ngon lành gì cả. Nếu sức khỏe con tương đối tốt thì con cố gắng ăn chay trường luôn để giảm bớt sự sai phạm giới luật của Phật.
Đáp: Giới luật và giáo pháp của Phật chế ra là để mưu cầu sự an vui hạnh phúc cho con người, chứ không phải chế ra để gò bó khắc khổ, để bắt con người phải sống khổ hạnh, ăn uống thiếu chất làm cho tuổi thọ kém dần sanh ra nhiều bệnh tật và mau đi vào cõi chết.
Giới luật của Phật không phải là một giáo pháp khô khan, khi một người chấp hành đúng, sống đúng và giữ gìn nghiêm túc thì chết dần mòn trong sự hao hụt và thiếu dinh dưỡng, hiểu như vậy là hiểu sai. Đạo Phật vốn không phải đạo khổ hạnh ép xác mà là đạo giải thoát, nên ai tu gặp chướng ngại pháp hoặc cảm thấy khó chịu khổ đau là tu sai. Trí vô hạn của một bậc tu chứng như Phật thì không thể nào không thấu suốt được. Khi chế giới luật, Ngài đã cân nhắc rất kỹ lưỡng, không chấp nhận khổ hạnh và không chấp nhận lợi dưỡng. Cho nên giới luật của Ngài chế ra là đi vào trung đạo. Ngài biết rất rõ: ăn ngày một bữa không phải là khổ hạnh, là ăn uống thiếu chất bổ khiến cơ thể sanh ra bệnh tật. Khi cơ thể sinh ra bệnh tật, tức cơ thể khổ đau, cơ thể khổ đau thì mất sức, thiếu dinh dưỡng, đó là khổ hạnh.
Ngược lại, ăn ngày một bữa và không ăn thịt chúng sanh, tránh tội sát sanh, gây nợ máu (gây nghiệp máu) làm đau khổ và đoản mạng chúng sanh. Chính vì ăn thịt chúng sanh mà chúng ta tiếp tục mãi nhân quả đau khổ (thiếu dinh dưỡng, bệnh tật, tai nạn v.v...) Đó là luật nhân quả đang vay trả của những người thiếu tâm từ bi, còn nỡ tâm ăn thịt chúng sanh, không thấy sự đau khổ trước khi chết và tiếng kêu la gào thét trong đau khổ cùng sự ham muốn sống của loài chúng sanh.
Người tu theo đạo Phật phải thể hiện tâm từ bi rộng lớn với muôn loài và với bản thân mình. Mình không muốn khổ thì há lại làm khổ kẻ khác, loài vật khác sao. “Ăn để sống” không có nghĩa là ăn thịt chúng sanh. “Ăn thịt chúng sanh” nghĩa là ăn để đau khổ chết.
170. Biết Rõ Sự Tái Sanh Trong Tương Lai
Lời Phật dạy: “Bị vô minh ngăn che, bị tham ái trói buộc, các loài hữu tình thích thú chỗ này, chỗ kia, như vậy tái sanh trong tương lai sẽ xảy ra.” “Vô minh được xả ly, minh khởi, tham ái được đoạn diệt (ly dục ly ác pháp). Như vậy tái sanh trong tương lai sẽ không xảy ra.” (Tăng Nhất A Hàm tập 3).
Giảng nghĩa:
Muốn hiểu rõ đoạn kinh này thì chúng ta phải hiểu rõ những danh từ cần thiết như: Vô minh, Tham ái, Hữu tình, Tái sanh.
1- Vô minh nghĩa là gì? Các bạn đừng hiểu nghĩa là không biết, không hiểu, không thông minh, ngu dốt, v.v... Vô minh ở đây có nghĩa là hiểu biết rất rõ ràng, thông minh, có trí tuệ, không ngu dốt, v.v... nhưng nó thường đối mặt với minh, nên nó có một nghĩa khác hơn minh. Phần đông trong xã hội loài người, đều là những người vô minh. Các bạn có nhận xét điều này chưa?
Khi nói mọi người đều vô minh thì các bạn rất ngạc nhiên vì không thể ngờ được. Phải vậy không các bạn? Các bạn có biết không? Những người vô minh không riêng giới bình dân ít học, tay lấm chân bùn, cùng đinh khốn khổ, sống không đủ cơm ăn áo mặc, mà cho đến những giới trí thức có đầy đủ học thức, như những nhà bác học, những ông giáo sư, các bác sĩ, thạc sĩ, tiến sĩ và những nhà khoa học danh tiếng, v.v... tuy họ có trình độ học thức về đời cao như vậy, nhưng đối với Phật giáo họ vẫn là những người vô minh.
Các bạn có tin lời nói của chúng tôi không? Xin các bạn bình tĩnh đọc tiếp những dòng dưới đây thì các bạn sẽ rõ vô minh của giới có học thức là một sự thật, chứ không phải chúng tôi có ý chỉ trích hay nói không đúng mà từ lâu chưa có ai nghĩ đến.
Vô minh, Đức Phật xác định nghĩa ở đây là sự hiểu biết thông minh theo tâm ái dục, tưởng ái dục, nên sự hiểu biết ấy bị hạn cuộc trong không gian và thời gian. Đức Phật dạy: “Bị vô minh ngăn che” tức là bị sự hiểu biết ái dục, tưởng dục ngăn che làm cho mọi người không thấy, không hiểu rõ mọi sự việc như thật. Do không thấy, không hiểu biết mọi sự vật như thật nên sinh ra tham ái dính mắc, chấp chặt không dám buông bỏ. Vô minh là một sự hiểu biết trong góc độ ái dục, tưởng dục. Khi vượt ra ngoài ái dục, tưởng dục thì sự thấy và hiểu biết đó là “minh.” Khi nói đến vô minh thì phải nói đến minh.
Vậy minh nghĩa là gì? Như trên đã nói: “Vượt ra ngoài ái dục, thì sự thấy và hiểu biết là minh.” Minh là trí tuệ hiểu biết không bị ái dục, tưởng dục chi phối, nên thấy và hiểu biết mọi sự vật như thật, không bị dục ngăn che. Cho nên khi nào tâm hết dục thì ta mới có “minh.”
Tóm lại vô minh gọi là sự hiểu biết của dục tri, tưởng tri; còn minh gọi là sự hiểu biết của Liễu tri, Thắng tri, Trực tri, Chánh tri. Bát Chánh Đạo là con đường tu tập của Phật giáo dạy cho chúng ta có cái nhìn thấy đúng đắn, cái suy tư đúng đắn không mang theo dục tri, tưởng tri. Vì thế Bát Chánh Đạo dạy cho chúng ta “minh.”
Ngày xưa cho đến ngày nay Tổ tiên, ông bà, cha mẹ, thầy Tổ (các thầy Đại Thừa) và tất cả mọi người chung quanh ta đều dạy cho chúng ta sự hiểu biết thường tục, gọi là kiến thức; nhưng kiến thức ấy luôn luôn mang đầy ắp những ái dục tri, ái dục tưởng tri.
Từ khi đạo Phật ra đời dạy cho chúng ta cái hiểu biết khác, cái hiểu biết ly dục tri, ly dục tưởng tri và ly ác pháp. Do đó chúng ta mới nhận thấy mình thoát khổ, tâm không còn tham, sân, si phiền não, khổ đau như trước nữa. Cho nên kinh Pháp Cú dạy: “Vui thay Phật ra đời!” Phật ra đời luôn luôn đem lại hạnh phúc, an vui cho mọi người và mọi loài trên hành tinh sống này. Nhưng có mấy ai đã hiểu biết đúng như vậy, tất cả mọi người đang sống trong mộng mơ, ảo tưởng, mơ hồ của thế tục, của các tôn giáo, của các triết học, v.v...
Ở đâu có vô minh, thì ở đó không có minh; ở đâu có minh thì ở đó không có vô minh. Minh là bờ bên kia và vô minh là bờ bên này, bờ bên này là đau khổ và bờ bên kia là giải thoát. Như vậy, luận về minh và vô minh thì chúng ta đã nhận ra pháp tu hành của Phật giáo rất rõ ràng, chỉ có điều chúng ta muốn ở bờ bên này hay ở bờ bên kia mà thôi. Muốn khổ đau thì ở bờ bên này; ở bờ bên này thì đừng than trời trách đất. Muốn hết khổ đau thì ở bờ bên kia; bờ bên kia là giải thoát, tâm luôn luôn thanh thản, an lạc và vô sự.
2- Tham ái nghĩa là gì? Tham là lòng ham muốn; ái là lòng yêu thích. Đã là con người thì ai cũng có lòng ham muốn và ưa thích hoặc nhiều hoặc ít. Lòng ham muốn và ưa thích là một sợi dây vô hình thường trói buộc rất chặt chúng ta vào vạn vật. Khi chúng ta khởi tâm ưa thích hay ham muốn một vật gì thì chúng ta bị trói chặt vào vật ấy, khó cho chúng ta buông bỏ được nó.
Ví dụ khi chúng ta khởi ý ham thích ưa muốn có một ngôi nhà khang trang, đầy đủ tiện nghi, thì lúc bây giờ muốn bỏ ý niệm ấy rất khó. Nó thôi thúc chúng ta phải cố gắng làm lụng hoặc phải bán đến cả đất đai của cha mẹ cho để xây cất cho bằng được ngôi nhà. Đó là bị tham ái trói buộc. Cho nên Đức Phật đã xác định cho chúng ta thấy tham ái rất là nguy hiểm, nó như sợi dây trói buộc rất chặt “bị tham ái trói buộc.” Đó là lời cảnh báo để chúng ta thoát ra sợi dây vô hình này. Nếu mọi người không biết Phật pháp thì chắc chắn không người nào tự ý thức để thoát khỏi sợi dây tham ái này. Có đúng không các bạn?
Đời người thường bị khổ đau đều do sợi dây tham ái này. Bát Chánh Đạo giúp chúng ta cắt đứt những sợi dây tham ái đó.
Thưa các bạn! Chúng tôi đã nhờ pháp môn Bát Chánh Đạo mà đoạn lìa được sợi dây tham ái này một cách dễ dàng không mấy khó khăn và mệt nhọc, chỉ có bền chí ngày ngày siêng năng mài dũa tâm mình đúng pháp. “Có công mài sắt có ngày nên kim” các bạn ạ!
3- Hữu tình là gì? Hữu là có; tình là tình cảm, cảm mến. Các loài hữu tình là chỉ chung cho loài người và loài vật (loài có tình cảm).
4- Tái sanh là gì? Tái sanh có nghĩa là sanh trở lại làm người, làm loài vật. Đọc hết đoạn kinh này ta biết rõ: “Các loài hữu tình thích thú chỗ này, chỗ kia, như vậy tái sanh trong tương lai sẽ xảy ra.” Lời dạy này rất đúng. Mọi người đang sống trên hành tinh này luôn luôn ưa thích cái này cái kia, lúc nào cũng ưa thích. Do tâm ưa thích mà loài người cũng như loài vật đều phải chịu tiếp tục tái sanh luân hồi.
Chúng tôi xin các bạn vui lòng đọc lại trọn vẹn đoạn kinh trên đây để chúng ta rút ra được một bài pháp tu tập thực tế và cụ thể có pháp hành hẳn hoi “Bị vô minh ngăn che, bị tham ái trói buộc, các loài hữu tình thích thú chỗ này, chỗ kia, như vậy tái sanh trong tương lai sẽ xảy ra.”
Như vậy muốn chấm dứt tái sanh luân hồi thì phải diệt trừ vô minh. Do vô minh mà có tham ái; do tham ái mà thích cái này cái kia; do ưa thích cái này cái kia mà phải chịu tái sanh luân hồi, khổ đau muôn kiếp. Như vậy vô minh là vấn đề quan trọng hàng đầu trong sự tu tập thiền định của Phật giáo, là đề tài tối hậu cần phải tiêu diệt, cần phải từ bỏ, cần phải xa lìa, v.v... Với đề tài vô minh này người tu sĩ hay cư sĩ Phật giáo phải lưu ý bằng mọi cách để thiện xảo vén sạch màn vô minh.
Muốn vén sạch màn vô minh thì chúng ta phải có minh, tức là trí tuệ Ba Minh. Nhưng làm sao có Ba Minh được? Muốn có trí tuệ Ba Minh thì chúng ta phải tu tập bằng con đường Bát Chánh Đạo: Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định.
Chánh niệm tức là Tứ Niệm Xứ thuộc Định Vô Lậu. Vậy muốn tu tập Định Vô Lậu thì phải dùng pháp gì? Muốn tu tập Định Vô Lậu thì phải dùng Ý thức, pháp Tác ý và pháp Như lý tác ý. Xin các bạn lưu ý: con đường tu tập theo Phật giáo, ý thức là vũ khí hàng đầu trong việc đánh giặc sanh tử “Ý dẫn đầu, ý làm chủ, ý tạo tác.” Dùng ý thức tu tập đúng cách chúng ta mới ly dục ly ác pháp; nhờ ly dục ly ác pháp mà tâm mới nhập định; nhờ định mà ta có Ba Minh; nhờ Ba Minh mà vô minh mới diệt trừ tận gốc hay nói cách khác nhờ Ba Minh mà tham ái được diệt trừ tận gốc. Như vậy đến đây các bạn đều đã biết phương pháp và cách thức tu tập rất rõ ràng. Phải không hỡi các bạn?
Còn Chánh Định tức là bốn thiền: Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền, ngoài bốn thiền này không có thiền nào được gọi là Chánh Định. Vì thế nói về thiền định các bạn cần nên lưu ý để tránh khỏi những tà thiền của ngoại đạo. Cho nên kết luận đoạn kinh, Đức Phật dạy như dưới đây: “Vô minh được xả ly, minh khởi, tham ái được đoạn diệt (diệt dục diệt ác pháp). Như vậy tái sanh trong tương lai sẽ không xảy ra.” Nếu chúng ta xét cho kỹ đoạn kinh này thì chúng ta thấy Đức Phật đã trao cho chúng ta một bí quyết cốt tủy giải thoát của đạo. Chỉ cần siêng năng tu tập là đạt được kết quả ngay liền.
Như lời dạy trên trong cuộc đời tu hành theo Phật giáo, chúng ta thấy rất rõ, kẻ nào vô minh thường bị tham ái trói buộc thích thú vui chơi chỗ này, chỗ kia thì sự đau khổ và tái sanh luân hồi không thể tránh khỏi; còn kẻ nào ly dục ly ác pháp thì được giải thoát, an vui, tâm hồn lúc nào cũng thanh thản, an lạc và vô sự. Do tâm hồn được như vậy thì sẽ chấm dứt tái sanh luân hồi chắc chắn.
171. So Sánh Phật Và A-la-hán
Phật và A-la-hán giống nhau và khác nhau chỗ nào?
Phật là người đầu tiên đem giáo pháp làm chủ sinh, già, bệnh và chết ra dạy người tu tập, còn những bậc A-la-hán chỉ theo lời dạy của Đức Phật mà tu tập làm chủ sinh, già, bệnh, chết. Như vậy sự khác nhau giữa Phật và các bậc A-la-hán ở chỗ Phật là Thầy các bậc A-la-hán là học trò.
Đức Phật và các bậc A-la-hán tu hành giải thoát giống nhau không ai hơn kém ai. Đức Phật tu tập làm chủ Sinh, Già, Bệnh, Chét thì các bậc A-la-hán cũng tu tập làm chủ Sinh, Già, Bệnh, Chết như nhau. Đây chúng ta hãy lắng nghe Đức Phật dạy:
“Như Lai, này các thầy tỳ-kheo là bậc A-la-hán Chánh Đẳng Giác làm cho khởi lên con đường trước kia chưa ai làm khởi lên, đem con đường trước kia chưa được ai đem lại con đường, tuyên thuyết con đường trước kia chưa được ai tuyên thuyết con đường đó, bậc trí đạo, bậc ngộ đạo, bậc thuần thục về đạo. Còn nay, các vị đệ tử là những vị sống theo đạo tiếp tục thành tựu đạo. Này các thầy tỳ-kheo đây là sự sai biệt, sự đặc thù, sự sai khác giữa Như Lai và bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác và bậc tỳ-kheo A-la-hán được giải thoát nhờ trí tu.” (124 Tương Ưng tập III)
Kinh sách phát triển cho rằng có bảy vị Phật trong thời quá khứ trước Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là một điều không đúng sự thật. Vì Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã xác định chỉ có Ngài là người đầu tiên tuyên thuyết giáo pháp Tứ Diệu Đế. Nếu có giáo pháp này trước Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thì Ngài chỉ là học trò như các vị A-la-hán khác mà thôi, như vậy làm sao Ngài dám tuyên bố những lời trên đây.
Người đời sau gian xảo ghê gớm thật, dám dựng lên bảy vị Phật quá khứ để phủ lên một lớp giáo lý tưởng, mê tín, mù quáng, lạc hậu đó với mục đích để diệt sạch giáo pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Đúng vậy, nếu chúng tôi không dựng lại giáo pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thì kinh sách Đại Thừa và kinh sách Thiền Đông Độ đã che đậy phủ đầy không còn ai biết giáo pháp của Đức Phật.
May mắn thay là nhờ Phật giáo Nam Tông còn giữ lại giáo pháp Nguyên Thủy nhưng cũng bị các sư tu tập chưa chứng đạo nên kiến giải viết ra kinh sách làm sai lạc của Phật. Do kinh sách kiến giải sai lạc của các ngài làm cho mọi người tu tập không làm chủ Sinh, Già, Bệnh, Chết mà rơi vào các trạng thái tưởng.
Ngày xưa Đức Phật cấm không cho các đệ tử tu chưa chứng thì không được thuyết giảng một mình, mà muốn thuyết giảng thì phải có Đức Phật chỉ định. Như ông A Nan chẳng hạn, mặc dù ông có trí tuệ nhớ không bỏ sót một lời nào của Đức Phật, nhưng khi ra giảng cho chúng tỳ-kheo thì Đức Phật chỉ định chứ tự mình ra giảng thì không được.
Phật giáo nghiêm ngặt như vậy, thế mà bây giờ giảng sư đâu đâu cũng có, nhưng chẳng có ông nào làm chủ Sinh, Già, Bệnh, Chết được, đó là những người mang tội vọng ngữ, dạy người tu tập mà mình tu tập chẳng ra gì, ngay cả giới luật còn vi phạm những giới trọng Ba La Di. Thật là Phật giáo đến hồi suy thoái nên mới có Ma ba tuần phá hoại Phật pháp như vậy. Thật là đau lòng!
Đứng trước cảnh Phật giáo suy thoái chúng ta biết rằng chúng sinh phước báu quá mỏng, nên Phật giáo phải chịu long đong và mất dấu.
172. Ăn Uống Theo Phật Giáo
Đối với đạo Phật vấn đề ăn uống rất là quan trọng, cho nên ăn uống cần phải tiết độ đúng cách ăn uống của Phật giáo như lời Đức Phật dạy:
“Này Hiền giả, thế nào là tiết độ trong ăn uống? Ở đây này Hiền giả, tỳ-kheo Như lý giác sát, thọ dụng các món ăn. Không phải để vui đùa, không phải để đam mê, không phải để trang sức, không phải dể tự mình làm đẹp mình mà chỉ để thân nầy được duy trì và được bảo dưỡng, để thân nầy khỏi bị thương hại, để hỗ trợ Phạm hạnh. Nghĩ rằng: “Như vậy ta diệt trừ các cảm thọ cũ và không cho khởi lên các cảm thọ mới và ta sẽ không có lỗi lầm, sống được an ổn.” Như vậy, này Hiền giả là tiết độ trong ăn uống.” (180 Tương Ưng tập 4)
Đúng vậy, người tu sĩ Phật giáo ăn không cần ngon, ăn không phải vì ưa thích, ăn phải để mập khỏe, trẻ đẹp mà ăn chỉ để duy trì sự sống, ăn để không bệnh tật, ăn để cơ thể được mạnh khỏe để tu tập để sống đời Phạm hạnh. Ăn không vì các cảm thọ lạc mà vì sự ngăn ác pháp và diệt trừ ác pháp, ăn để sống trong tâm Bất Động, để thấy được tâm thanh thản, an lạc, vô sự.
Ăn để sống làm chủ thân tâm, cho nên ăn uống tiết độ của Phật giáo không có khó khăn, mệt nhọc. Chúng ta ăn uống mục đích giải thoát, vì vậy ăn để sống chớ không phải sống để ăn. Cho nên ai cho gì thì chúng ta ăn nấy chớ không phải vì ăn mà đi chọn lựa thức ăn này thức ăn khác.
Người muốn ăn cái này, cái khác hay chọn lựa thức ăn này, thức ăn kia là không đúng người đệ tử Phật. Nếu chúng ta chịu khó nhìn sự ăn uống của một người là biết người đó tu theo Phật giáo hay tu theo ngoại đạo. Người tu theo Phật giáo thì ăn ngày một bữa vào giữa ngày, không ăn uống phi thời lặt vặt, người ăn uống phi thời lặt vặt là không phải đệ tử của Phật giáo. Nhất là những người tuyệt thực lại càng không phải là đệ tử Phật, vì Phật không có dạy tuyệt thực. Tuyệt thực là những người đệ tử của ngoại đạo Bà La Môn.
Người tu theo Phật giáo mà còn lựa chọn món ăn này hay món ăn kia là không phải đệ tử của Phật. Người tu theo Phật giáo mà còn ăn thịt chúng sinh mặc dù ăn không nghe, không thấy, không giết, không nghi, không biết cũng không phải đệ tử của Đức Phật. Đạo phật là đạo Chánh Niệm Tỉnh Giác cớ sao lại ăn không thấy, không nghe, không giết, không nghi, không biết. Rõ ràng là ngoại đạo mà dán nhãn hiệu Phật giáo để lừa đảo phật tử.
Đạo Phật là đạo từ bi khi ăn miếng thịt chúng sinh vào miệng mà không biết sao?
Ăn vô phân biệt, ăn không còn biết ngon hay dở. Đó là cánh thức tu sai Phật giáo, Phật giáo dạy ăn biết ngon mà không dính mắc chấp trước, thấy nghe cũng vậy, phân biệt rõ ràng đẹp xấu, yên tĩnh hay ồn náo đều biết rất rõ nhưng không dính mắc chấp trước âm thinh, sắc tướng, không bị động tĩnh chi phối tâm. Trước mọi cảnh thuận hay nghịch tâm luôn luôn Bất Động. Đó mới là người tu theo Phật giáo.
Cứ hở ra một chút là tâm bị động, bị chướng ngại, tâm luôn luôn bất an, người tu theo Phật giáo như vậy là theo ngoại đạo. Phật giáo không có dạy tu tập như vậy. Xin quý vị lưu ý đừng để mình tu tập sai pháp mà không biết thì thật là tội nghiệp.
173. Sa Môn
Sa Môn là dịch âm tiếng Phạn Ấn Độ của người Trung Hoa. Sa Môn với tiếng Việt là chỉ một vị tu sĩ đã thọ đầy đủ giới luật của Phật giáo. Tu sĩ Phật giáo hiện giờ chỉ còn một số ít mới xứng đáng gọi là tu sĩ, còn phần đông thì phạm giới, phá giới, có vị còn có vợ con rất tự nhiên, xem thiên hạ chẳng ai biết gì về Phật giáo cả. Hầu hết các chùa Phật giáo cổ truyền các thầy đều có vợ con sống trong ngôi chùa như một gia đình.
Chúng ta hãy đọc lời xác định của Đức Phật, một vị tu sĩ Phật giáo phải như thế nào mới gọi là một vị tu sĩ Phật giáo: “Sa Môn là một người xa lìa ân ái, xuất gia tu hành, chế ngự các căn không nhiễm ái dục, có lòng thương xót tất cả mọi người, không làm thương tổn và giết hại chúng sinh, gặp khổ không phiền, gặp vui không mừng, nhẫn nại tâm như đất.” (Trường A Hàm tập I trang 56)
Đó là lời dạy rõ ràng như vậy mà tu sĩ thời nay xem thường những lời tâm huyết này của Đức Phật. Một vị tu sĩ Phật giáo theo như lời Đức Phật dạy có 9 điều cần ghi nhớ:
1- Xa lìa ân ái
2- Cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa
3- Chế ngự các căn
4- Không nhiễm ái dục
5- Có lòng thương xót tất cả mọi người
6- Không làm thương tổn và giết hại chúng sinh
7- Gặp khổ không phiền
8- Gặp vui không mừng
9- Nhẫn nại tâm như đất
Một tu sĩ Phật giáo phải sống đúng 9 điều Phạm hạnh mà Đức Phật đã nêu ra thì mới xứng đáng là một tu sĩ Phật giáo, còn sống không đúng thì không xứng đáng làm tu sĩ.
Cho nên căn cứ vào 9 điều trên đây mà chúng ta biết ngay người nào là tu sĩ Phật giáo và người nào không phải là tu sĩ Phật giáo. Không phải là tu sĩ Phật giáo thì họ chỉ là cư sĩ trọc đầu.
Xét 9 điều trên đây, tu sĩ Phật giáo hiện giờ chỉ là cư sĩ trọc đầu mà thôi. Nhìn thấy tu sĩ Phật giáo hiện giờ số lượng thì đông nhưng mà chất lượng tu hành chẳng có gì cả thật là đau lòng xót dạ cho Giáo Hội Phật Giáo hiện giờ.
174. Nguyên Do Nào Có Sanh Tử
Muốn làm chủ sinh, già, bệnh, chết thì phải bắt đầu tìm nguyên nhân nào sinh ra sinh già, bệnh, chết. Chúng ta hãy lắng nghe Đức Phật dạy:
“Chúng sanh thật đáng thương, thường ở trong tối tăm, chịu lấy thân phận nguy khốn, nào sanh, già, bệnh, chết đến dồn dập đủ các thứ khổ não. Họ chết đây sanh kia, chết kia sanh đây, cứ duyên theo khổ ấm thân nên lưu chuyển vô cùng. Ta lúc mới hiểu rõ ngũ ấm và diệt hết sanh, già, bệnh, chết? Thì Ta lại suy nghĩ: Sanh tử đâu đến? Duyên từ đâu mà có sanh? Do tự đặt ra câu hỏi như vậy, Ta liền dùng trí tuệ quan sát nguyên do và thấy rằng, do Sanh mà có Lão Tử, như vậy Sanh là duyên của Lão Tử. (Trường A Hàm tập I trang 60)
Lời dạy trên đây của Đức Phật là lý giải một nguyên nhân sinh ra Lão Tử làm chúng ta dễ hiểu mà hiểu một cách rất rõ ràng. Do cuộc sống hằng ngày mà mọi người theo tâm ngũ triền cái và thất kiết sử, rồi từ đó con người mới có Lão Tử. Muốn không Lão Tử thì chúng ta phải sống không theo Ngũ triền cái và Thất kiết sử.
Muốn sống không theo ngũ triền cái và thất kiết sử thì chúng ta phải dùng pháp Như lý tác ý, khi tâm mỗi lần có niệm khởi thì mau mau lập tức phải tác ý liền: “Tâm Bất Động, Thanh Thản, An Lạc Và Vô Sự.” Cứ siêng năng tu tập khi có niệm khởi liền tác ý thì tâm trở về trạng thái tâm Bất Động, Thanh Thản. Tu tập như vậy chừng nào tâm không còn niệm khởi. Tâm không còn niệm khởi là tâm đã diệt sạch Ngũ triền cái và Thất kiết sử.
Dù chúng ta muốn diệt trừ một ác pháp nào thì chúng ta cũng phải dùng pháp dẫn tâm thì mới diệt trừ được ác pháp đó. Cho nên pháp Như lý tác ý rất cần thiết cho người tu tập theo Phật giáo. Ngoài pháp Như lý tác ý ra thì Phật giáo không còn có pháp nào tu tập hay hơn. Pháp môn Như lý tác ý được xem là một thanh trường kiếm của người dũng sĩ xông trận chiến thắng quân giặc, nếu không có thanh trường kiếm thì người dũng sĩ không bao giờ thắng giặc oanh liệt. Cho nên pháp Như lý tác ý nó cũng quan trọng như vậy, xin quý vị nhớ cho.
175. Nguyên Do Nào Không Có Lão Tử
Như trên đã nói chỉ có pháp Như lý tác ý thì Ngũ triền cái và Thất kiết sử sẽ bị diệt trừ. Ngũ triền cái và Thất kiết sử bị diệt trừ thì Sanh diệt trừ, Sanh diệt trừ thì Lão Tử sẽ diệt trừ, như Đức Phật đã dạy:
“Đức Phật lại tự suy nghĩ. Do những cái gì không có mà lão tử không có? Do cái gì đoạn diệt thì lão tử đoạn diệt? Rồi Ngài lại dùng trí tuệ quan sát nguyên nhân: Do sanh không có nên lão tử không có, do sanh diệt nên lão tử diệt.” (Trường A Hàm tập I trang 60)
Đúng vậy, Sanh không có thì Lão Tử không có, Sanh diệt thì Lão Tử diệt. Cho nên khi biết tu tập đúng pháp chân chánh thì làm chủ sanh, già, bệnh, chết đâu còn khó khăn nữa.
Vì chúng ta biết nguyên nhân sinh ra Lão Tử thì ngay nguyên nhân đó mà diệt trừ. Sanh là nguyên nhân sinh ra Lão Tử, vì vậy chúng ta hằng giây, hằng phút, hằng giờ, hằng ngày dùng pháp Như lý tác ý diệt trừ từng tâm niệm của Sanh thì Sanh bị diệt, tức là Ngũ triền cái và Thất kiết sử bị diệt.
176. Pháp Chân Chánh
Pháp Chân Chánh của Phật là pháp gì? Pháp Chân Chánh là pháp diệt trừ tâm Năm triền cái và Bảy kiết sử. Một lần nữa chúng tôi xin nhắc lại Năm Triền Cái và Bảy Kiết Sử.
Năm Triền Cái gồm có:
1- Tham triền cái,
2- Sân triền cái,
3- Si triền cái,
4- Mạn triền cái,
5- Nghi triền cái.
Bảy Kiết Sử gồm có:
1- Ái kiết sử,
2- Sân kiết sử,
3- Kiến kiết sử,
4- Nghi kiết sử,
5- Mạn kiết sử,
6- Hữu tham kiết sử,
7- Vô minh kiết sử.
Người ở thế gian tâm họ thường sống với tâm Ngũ triền cái và Thất kiết sử, vì thế họ sống trái ngược lại Phật giáo. Cho nên pháp của Phật giáo thì nhắm vào Năm triền cái và Bảy kiết sử để tiêu diệt chúng. Bởi vậy pháp của Phật giáo hoàn toàn đi ngược lại pháp thế gian. Khi đi ngược lại như vậy thì khó cho người thế gian chấp nhận và tu tập được nên Đức Phật dạy:
“Chánh pháp Ta vừa chứng được thật là sâu xa vi diệu, nếu vì chúng sanh mà thuyết giảng, chắc chắn họ không hiểu nổi, còn sanh tâm hủy báng nữa là khác. Nếu vì chúng sanh dâm, nộ, si mà thuyết pháp, tất nhiên họ không thừa hành, quả thật là luống công vô ích. Pháp vi diệu nầy tương phản với pháp thế gian. Chúng sanh bị dục nhiễm, ngu si che lấp nên không tin hiểu nổi.” (Trường A Hàm tập I trang 69)
Đúng vậy, trải qua hơn 2500 năm mà chẳng thấy ai tu chứng như Phật. Thật là pháp đi ngược pháp thế gian nên khó ai tu được giải thoát hoàn toàn.
Đến thời đại chúng ta hiện giờ mới có một người làm chủ được sinh, già, bệnh, chết và người ấy ra công dựng lại giáo pháp ấy để người nào hữu duyên cùng tiếp vòng tay để làm sống lại nền đạo đức nhân bản - nhân quả của Phật giáo thì đó là đem lại hạnh phúc an vui cho loài người. Nhưng khó thay, trong cuộc đời tìm cho ra được một người có quyết tâm, có ý chí dũng mãnh gan dạ, xem sự sống chết nhẹ tựa lông hồng thì mới tu tập chứng đạo.
Giải thoát ai cũng muốn tu mà lại sợ khổ; giải thoát ai cũng muốn tu mà đời không muốn bỏ. Cho nên tìm một người tu tập vì mọi người, vì Phật pháp thì khó tìm quá. Trên hành tinh hiện nay con người có hằng tỷ tỷ con người mà tìm cho ra một con người thật là khó vô cùng. Nhiều khi Thầy muốn vào Niết Bàn cho xong, nhưng không nỡ tâm nên đành phải nán ở lại một đôi ngày mà thôi.
177. Có Bảy Pháp Làm Cho Chánh Pháp
Được Tăng Trưởng Và Không Bị Tổn Hoại
Có bảy đức hạnh mà mỗi người ai cũng sống được, vì bảy đức hạnh này giúp cho con người sống được bình an, yên vui mà không ác pháp nào làm khổ đau. Chúng ta hãy lắng nghe Đức Phật dạy bảy pháp:
“1. Thích giản dị, không thích sống rờm rà, cầu kỳ.
2. Ưa thích yên lặng, không thích nói nhiều.
3- Ít ngủ nghỉ, không ham ngủ.
4- Không kết bè, kết bạn, không nói điều vô ích.
5- Không tự khoe khoang trong khi mình thiếu đức.
6- Không kết bạn với những người xấu ác.
7- Thích ở một mình nơi rừng núi thanh vắng.” (Trường A Hàm tập I trang 92)
Đức Phật dạy bảy đức hạnh này rất tuyệt vời, nếu một người thực hiện bảy đức hạnh này thì ngay trong đời hiện tại đã tìm thấy sự giải thoát liền, không cần phải tu tập pháp nào khác nữa.
Nếu sống với đức hạnh thứ nhất “Thích giản dị, không thích sống rờm rà, cầu kỳ.” Đó là một lối sống đơn giản, không hao tốn tiền bạc, không rờm rà, ít muốn biết đủ. Đức hạnh rất phù hợp với người tu sĩ Phật giáo.
Nếu sống với đức hạnh thứ hai “Ưa thích yên lặng, không thích nói nhiều.” Đó là một lối sống trầm lặng, sống độc cư, sống một mình. Đức hạnh này rất phù hợp với con đường tu tập giải thoát của Phật giáo.
Nếu sống với đức hạnh thứ ba “Ít ngủ nghỉ, không ham ngủ.” Đó là lối sống của người thông minh, sáng suốt, minh mẫn, tỉnh giác. Những người có lối sống như vậy là lối sống của người tu sĩ Phật giáo.
Nếu sống với đức hạnh thứ tư “Không kết bè, kết bạn, không nói những điều vô ích.” Đó là lối sống độc cư phòng hộ sáu căn, lối sống của những bậc chân tu, của những người thoát tục, của những người xuất thế gian.
Nếu sống với đức hạnh thứ năm “Không tự khoe khoang, trong khi mình thiếu đức.” Đó là lối sống khiêm tốn của những bậc Hiền Thánh, người thế gian không thể làm được. Người thế gian hễ làm được những gì thì khoe khoang không hết lời.
Nếu sống với đức hạnh thứ sáu “Không kết bạn với những người xấu ác.” Người xưa thường nói: “Chọn bạn mà chơi.” Đúng vậy; gần mực thì đen, gần đèn thì sáng. Chơi với những người bạn xấu ác thì sẽ ảnh hưởng xấu và tai tiếng xấu. Đây là một đức hạnh rất cần thiết cho sự giao tiếp với mọi người trong cuộc sống chung đụng trong gia đình và xã hội.
Nếu sống với đức hạnh thứ bảy “Thích ở một mình nơi rừng núi thanh vắng.” Đây là đức hạnh của những bậc tu hành chân chánh sống nơi rừng núi thanh vắng. Bởi tu hành nơi rừng núi thanh vắng thì mới xả tâm ly dục ly ác pháp trọn vẹn.
Tóm lại người muốn tu hành giải thoát thì phải sống trọn vẹn bảy đức hạnh này. Muốn sống đúng bảy đức hạnh này thì phải tu tập hết sức chớ không phải là lời nói suông, vì nói thì rất dễ nhưng sống được với bảy đức hạnh này là một công trình tu tập. Người ta thường nói đức hạnh nhưng người ta không thể sống với đức hạnh này ngay liền được. Nói thì dễ nhưng làm rất khó. Bởi bảy đức hạnh này đã xác định được sự ly dục ác pháp của một tu sĩ giải thoát, vì thế quý vị nên lưu ý.
178. Oai Nghi Tế Hạnh
Một tu sĩ Phật giáo phải biết giữ gìn oai nghi tế hạnh, nếu không giữ gìn oai nghi tế hạnh thì không phải là đệ tử của Phật. Oai nghi té hạnh của Phật giáo rất là quan trọng. Vậy oai nghi tế hạnh như thế nào?
Chúng ta hãy lắng nghe Đức Phật dạy:
“Thế nào là các tỳ-kheo giữ gìn oai nghi tế hạnh đầy đủ? Ấy là các tỳ-kheo khi Đi thì biết mình Đi, khi Đứng thì biết minh Đứng, cho đến như Liếc Ngó hai bên hoặc Co, Duỗi, Cúi, Ngước, Đắp y, Mang bát và những việc Ăn uống, thuốc men đều phù hợp với oai nghi. Phải khéo từ bỏ năm ấm cái, cho đến đi, đứng, nằm, ngồi, thức, ngủ, nói năng hay im lặng đều phải nhiếp tâm không cho tán loạn. Ấy là oai nghi mà các thầy tỳ-kheo phải giữ gìn đầy đủ.” (Trường A Hàm tập I trang 111)
Oai nghi tế hạnh của Đức Phật dạy không ngoài pháp tỉnh thức trong các hành động thân, khẩu, ý. Người tu sĩ Phật giáo là tu tập tỉnh thức trên thân hành nên đạo Phật mới có bài pháp Thân Hành Niệm. Một bài pháp mà ai chuyên cần tu tập thì sẽ chứng đạo.
Trong kinh sách Phật giáo thường ca ngợi pháp môn Thân Hành Niệm, một pháp môn mà chúng tôi biên soạn thành một cuốn sách gối đầu nằm cho các tu sĩ lấy tên là: “Muốn Chứng Đạo Phải Tu Pháp Môn Nào?” Như vậy quý vị biết rằng pháp môn Thân Hành Niệm quan trọng đến bậc nào trong việc tu tập để được làm chủ sinh, già, bệnh, chết.
179. Định Không Tưởng
Người tu theo Phật giáo khi thân già yếu dễ bị đau nhức chỗ này hay chỗ khác, hoặc bệnh này bệnh khác. Ngay cả Đức Phật còn nói: “Ta nay già rồi tuổi đã tám mươi, ví như chiếc xe cũ, nhờ phương tiện sửa chữa, mà đi đến nơi, đến chốn. Nay thân Ta cũng vậy, nhờ sức phương tiện mà kéo dài mạng sống đến ngày nay.”
Nhờ sức phương tiện mà kéo dài mạng sống đến ngày nay. Vậy sức phương tiện là gì? Sức phương tiện là Định Không Tưởng. Nếu ai nhập được Định Không Tưởng thì thân được an ổn không đau nhức và tuổi thọ được kéo dài thêm như Đức Phật đã dạy: “Ta nhờ sự cố gắng mà đè nén được cơn đau. Hơn nữa Ta nhập Định Không Tưởng thì không còn nghĩ đến một điều gì, nên thân Ta an ổn không có đau nhức.” (Trường A Hàm tập I trang 120)
Định Không Tưởng là một loại thiền định của ngoại đạo, đó là Không Vô Biên Xứ Tưởng. Ngoại đạo có bốn loại định tưởng:
1- Không Vô Biên Xứ Tưởng
2- Thức Vô Biên Xứ Tưởng
3- Vô Sở Hữu Xứ Tưởng
4- Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Tưởng
Chỉ cần nhập được Không Vô Biên Xứ Tưởng là làm chủ được thân bệnh nhưng khi xả ra thì thân bệnh đau nhức trở lại bình thường. Ngược lại chúng ta nhập vào Chánh Niệm Tỉnh Giác Định trên Tứ Niệm Xứ thì thân có bệnh sẽ hết bệnh và thân không bệnh sẽ không bệnh.
Chánh Niệm Tỉnh Giác Định là một phương pháp gọt rửa tâm làm cho tâm quét sách ngũ triền cái và thất kiết sử. Do ngũ triền cái và thất kiết sử bị quét sạch nên tâm Bất Động không một ác pháp nào xen vào được. Nhờ thế tâm mới chứng đạo hoàn toàn, không còn trở lui trạng thái tâm thế gian nữa.
Định Không Tưởng chỉ là một pháp môn trốn tránh bệnh chớ không phải là một pháp môn đuổi bệnh như Bất Động Tâm Định, quý vị nên lưu ý.
180. Người Đệ Tử Chân Chánh
Chúng ta sinh ra cách Đức Phật 2553 năm (kể tới năm 2009 dương lịch) mà chúng ta tu hành làm chủ được sinh, già, bệnh, chết tức là chúng ta là đệ tử xuất sắc nhất của Đức Phật theo như lời Ngài đã dạy:
“Sau khi Ta diệt độ, người nào có thể hành đúng như thế, tức là đệ tử chân chánh của Ta, là người học đạo xuất sắc.” (Trường A Hàm tập I trang 121)
Đúng vậy, con đường tu tập của đạo Phật tưởng chừng như bị mất vì một lớp giáo lý của ngoại đạo đã phủ dầy lên che mất những lời dạy chân chánh của Đức Phật.
May thay trong thời đại chúng ta còn có người tu chứng, thật là hạnh phúc thay cho loài người còn đủ duyên với chánh pháp của Phật.
Vậy chúng ta sinh ra trong thời này gặp được chánh pháp của Phật là một phước báu vô lượng. Do đó chúng ta hãy nỗ lực tu tập đừng biếng trễ bỏ qua một dịp may ít có.
Gặp được chánh pháp là khó, thế mà đã gặp được thì nên buông bỏ hết các pháp thế gian để thực hiện con đường giải thoát, ngõ hầu cứu mình ra biển khổ và cũng là làm gương sáng cho mọi người soi, để cùng nhau tiến bước trên đường về xứ Phật, để xứng đáng là người đệ tử xuất sắc nhất của Phật.
181. Mọi Vật Đều Vô Thường
Bước chân vào đạo Phật chúng ta được học Các Pháp Đều Vô Thường. Khi thấu hiểu Các Pháp Đều Vô Thường, đó là chúng ta đã có một Pháp Trí. Pháp Trí này giúp chúng ta thấu hiểu trên thế gian không có một vật gì thường hằng, nhờ đó chúng ta không còn chấp ngã, không còn dính mắc, không còn tham đắm dù bất cứ một vật gì nên chúng ta giải thoát hoàn toàn.
Chúng ta hãy nghe Đức Phật dạy: “Các ông hãy dừng cơn bi lụy, chớ ôm lòng buồn tủi, vì từ trời, đất cho đến người và vật không một ai sanh ra mà không chết, nếu các ông muốn cho pháp hữu vi không biến dịch, thì không thể có được.” (Trường A Hàm tập I trang 132)
Đúng vậy, quý vị hãy nhớ lời dạy này của Đức Phật. Ngài dạy tất cả mọi người khổ là do không biết các pháp Vô Thường nên ưu bi sầu khổ buồn tủi. Nhưng từ khi Đức Phật dạy các pháp đều Vô Thường nhưng sao mọi người nghe đều hiểu biết như vậy mà mọi người vẫn khổ. Đó là hiểu biết là hiểu biết, nhưng xả bỏ các pháp thế gian thì họ rất tiếc. Tại sao vậy? Vì họ không gan dạ, chí kiên cường không có nên không mạnh mẽ dứt khoát. Vì thế biết các pháp Vô Thường nhưng vẫn còn thấy thường hằng, còn dính mắc chấp ngã.
Muốn ra khỏi sự đau khổ thì ai cũng muốn, nhưng lìa bỏ các pháp thế gian thì không ai lìa được. Đức Phật biết chúng sanh khó dạy, nghe hiểu biết rồi để đó chớ không bao giờ làm theo lời dạy. Từ ngày Đức Phật ra đời đến nay là 2553 năm (tính vào năm 2009 dương lịch), mọi người đến với đạo Phật ai cũng biết Các Pháp Vô Thường, nhưng lại không buông bỏ. Có một bài kệ dạy buông bỏ rất hay:
“Buông xuống đi, hãy buông xuống đi!
Chớ giữ làm chi, có ích gì.
Thở ra chẳng lại còn chi nữa,
Vạn sự vô thường buông xuống đi!”
Theo như lời Phật dạy, dù chúng ta có muốn các pháp hữu vi không Vô Thường thì cũng không thể được vì nó là các pháp Vô Thường nên nó phải Vô Tthường, không ai làm nó thay đổi được. Cho nên có những tôn giáo luyện thuốc trường sinh bất tử, mong muốn sống lâu, đấy là ảo tưởng của một số tôn giáo giàu tưởng tượng, sống trong tưởng. Tiên đạo của Trung Hoa có vị nào trường sinh bất tử chưa? Hay chỉ lừa đảo mọi người, người tu theo Tiên Đạo thành hồn và xác. Thân ngũ uẩn này là pháp Vô Thường, cái gì trong thân ngũ uẩn này là cái hồn, cái gì là cái xác. Khi chết đi thân ngũ uẩn tiêu hoại không còn một vật gì cả, vì nó là các pháp Vô Thường.
Do một số tôn giáo không thấu hiểu cho trong thân con người có linh hồn. Các nhà khoa học cũng đã tốn biết bao nhiêu công sức để khám phá linh hồn có hay không. Nhưng cuối cùng cũng chỉ hoài công vô ích mà thôi. Người nào thấy thật các pháp Vô Thường là người chứng đạo bằng Pháp Trí và Tùy Trí. Bởi chỗ tâm Bất Động Thanh Thản An Lạc Vô Sự là chỗ sống của người chứng đạo. Chứng đạo của Phật giáo thật là đơn giản, người chưa tu tập cũng vẫn biết được tâm Bất Động.
Các tôn giáo tin có linh hồn là các tôn giáo giàu tưởng tượng, sống trong Tưởng, trong Vô Minh không biết các pháp Vô Thường, đó là tự ôm vào lòng những sự khổ đau mà không biết.
182. Chẳng Nên Tin Vào Tà Giáo
Chúng tôi dựa vào kinh sách Nguyên Thủy do Hòa Thượng Minh Châu dịch ra Việt ngữ mà xem lại kinh sách phát triển và kinh sách Thiền Tông thì những loại kinh này không phải là Phật thuyết mà do kiến giải của các Tổ viết ra, biết rõ được như vậy nên chúng tôi nói thẳng để giúp cho mọi người đừng lầm lạc.
Đó là một loại kinh sách giả hiệu Phật giáo. Chúng ta hãy lắng nghe Đức Phật dạy:
“Những điều tôi đích thân nghe từ Phật nói như thế thì các ông chớ nên không tin, chớ nên hủy báng. Nếu họ nói như thế thì các ông phải y cứ vào các kinh Nguyên Thủy để suy nghiệm điểm hư thật, hãy y cứ theo luật, theo pháp gốc Nguyên Thủy mà nghiên cứu tường tận ngọn nguồn lời nói ấy, nếu nhận thấy không đúng với kinh, với luật, với pháp thì hãy nói với họ: Đức Phật không có dạy những điều gì mà ông đã lãnh thọ. Ông đã lãnh thọ sai lầm đấy! Tại vì sao? Vì tôi đã y cứ vào kinh, luật, pháp mà so nghiệm thì nhận thấy lời ông trình bày không phù hợp với chánh pháp. Vậy này Hiền sĩ không nên thọ trì, không nên giảng dạy cho người khác và hãy từ bỏ.” (Trường A Hàm tập I trang 139)
Lời dạy trên đây không đủ minh chứng cho kinh sách phát triển và kinh sách Thiền Tông là không phải của Phật giáo. Vậy quý vị hãy từ bỏ nó dù quý vị có tu tập ngàn đời cũng chẳng có lợi ích gì cả.
183. Tứ Quả Sa Môn
Lần đầu tiên Đức Phật thuyết giảng và dạy cho năm anh em Kiều Trần Như pháp Tứ Diệu Đế, bài pháp ấy đã làm cho giáo pháp của ngoại đạo rơi rụng như lá vàng mùa Thu, làm cho tất cả giáo pháp của ngoại đạo không còn ai tin tưởng nữa. Bởi Phật pháp là chân lý của loài người dạy đâu có đó.
Chân lý thứ nhất: “Đức Phật nói con người trên thế gian này không ai là không Khổ, vì thế Khổ là một chân lý không ai dám phủ nhận.”
Chân lý thứ hai: “Đức Phật nói con người trên thế gian này không ai là không Dục, vì thế Dục là một chân lý không ai dám phủ nhận.”
Chân lý thứ ba: “Đức Phật nói con người trên thế gian này không ai là không có Tâm Bất Động, Thanh Thản, vì thế Tâm Bất Động, Thanh Thàn là một chân lý mà không ai dám phủ nhận.”
Chân lý thứ tư: “Đức Phật nói con người trên thế gian này muốn thoát mọi khổ đau thì phải theo chương trình giáo dục đào tạo của tám lớp tu học thì mới chấm dứt khổ đau.”
Nếu theo chương trình tu học này thì có bốn cấp chứng đạo rõ ràng. Chúng ta hãy lắng nghe Đức Phật dạy: “Nếu trong giáo pháp nào không có pháp Bát Chánh Đạo thì không có quả Sa Môn thứ thất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư. Nầy Tu Bạt, vì trong giáo pháp có Bát Chánh Đạo nên có bốn quả Sa Môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư. Nầy Tu Bạt nay trong giáo pháp Ta có Bát Chánh Đạo, có Sa Môn quả thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư. Trái lại trong giáo pháp của ngoại đạo không có quả vị Sa Môn.” (Trường A Hàm tập I trang 197).
Đúng vậy, chỉ có giáo pháp Bát Chánh Đạo của đạo Phật mới có bốn quả Sa Môn, ngoài giáo pháp của Đức Phật không bao giờ có quả Sa Môn. Nhờ có Bát Chánh Đạo mà chúng ta so sánh với giáo pháp của của kinh sách phát triển và Thiền Tông Trung Hoa thì chúng ta biết ngay chính những giáo pháp này không phải của Phật giáo.
184. Chớ Nên Phóng Dật
Phòng hộ sáu căn là một pháp môn rất cần thiết trên đường tu tập, cho nên Đức Phật dạy: “Ta chính nhờ tâm không buông lung phóng dật mà thành chánh quả, vô lượng điều lành đều nhờ tâm không phóng dật mà có được. Tất cả vạn vật điều vô thường, đó là lời dạy cuối cùng của Đức Như Lai.” (Trường A Hàm tập I trang 200)
Phòng hộ sáu căn là giữ gìn mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý. Vậy giữ gìn mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý bằng cách nào?
Pháp Như Lý Tác Ý là pháp phòng hộ sáu căn tuyệt vời, mỗi lần mắt đang nhìn thấy một cái gì thì nên tác ý bảo nó nên quay vào nhìn Tâm Bất Động, tai, mũi, miệng, thân, ý cũng như vậy đều tác ý kêu nó quay vào trong thân. Cứ bền chí tu tập hằng ngày tác ý như vậy thì sáu căn sẽ không phóng dật chạy theo sáu trần. Sáu căn sẽ không phóng dật chạy theo sáu trần là chúng ta đã chứng đạo như Đức Phật đã dạy: “Ta Thành Chánh Giác Là Nhờ Tâm Không Phóng Dật.”
185. Không Có Phật Quá Khứ
Trong quá khứ trước Đức Phật Thích Ca Mâu Ni không có một vị Phật nào cả, nhưng trong kinh sách dù kinh Nguyên Thủy hay kinh sách Đại thừa vẫn nói đến bảy vị Phật ở quá khứ. Sự thật này ra sao?
Nếu không có lời dạy của Đức Phật thì chúng ta không bao giờ dám nói rằng không có bảy Đức Phật trong quá khứ:
“Này chư Hiền giả, đức Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, đầy đủ mười hiệu, ta không thấy ai trong quá khứ, vị lai và hiện tại có đầy đủ mười danh hiệu như Phật. Pháp Phật vi diệu, giảng giải rõ ràng được người trí hành theo. Ta không thấy ai trong quá khứ, vị lai và hiện tại có giáo pháp vi diệu như Phật. Pháp ấy do Phật tự giác ngộ thông đạt vô ngại để tự vui thú. Ta không thấy ai trong quá khứ, vị lai và hiện tại đối với pháp này mà tự giác ngộ, thông đạt vô ngại để tự vui thú như Phật.” (Trường A Hàm tập I trang 240)
Đúng vậy, theo lời dạy này, kinh sách phát triển và Thiền Tông chỉ là do những người sau thêm vào có bảy vị Phật quá khứ với mục đích làm giảm uy tín Đức Phật thích Ca Mâu Ni. Đó là ý đồ của ngoại đạo. Theo lời dạy của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thì trong quá khứ không có vị Phật nào cả. Cho nên bảy vị Phật chỉ là một huyền thoại của ngoại đạo mà thôi.
186. Hãy Tự Thắp Đuốc Lên Mà Đi
Con đường tu hành thành chánh quả thì không có một người nào tu hành thay cho mình được. Bởi con đường đó ai có tu thì có được, ai không tu thì không được. Đó là con đường tự nguyện tự giác. Không ai cứu khổ ai được. Biết rõ điều này nên Đức Phật đã dạy:
“Này các thầy tỳ-kheo, thế nào là tự mình thắp đuốc mà đi, hãy thắp lên chánh pháp, đừng thắp lên một pháp nào khác, và hãy nương tựa với chính mình, hãy nương tựa với chánh pháp, đừng nương tựa một pháp nào khác.
Ấy là tỳ-kheo quán thân trên thân, siêng năng không biếng nhác, nhớ mãi đừng quên, để trừ tâm tham ưu, sân giận và si mê. Cho đến quán ngoại thân và quán nội thân và quán nội ngoại thân. Siêng năng không biếng nhác, nhớ mãi không quên để trừ tâm tham ưu ở thế gian. Quán sát về thể, về ý và về pháp cũng như thế.” (Trường A Hàm tập I trương 806)
Lời dạy trên đây là dạy cách thức tu tập trên Tứ Niệm Xứ. Trên Tứ Niệm Xứ có một pháp tu tập hay nhất, đó là pháp Dẫn Tâm Vào Đạo.
Muốn quán thân trên thân hay là quán trên thân nội, ngoại thì nên tác ý Tâm Bất Động, Thanh Thản, An Lạc rồi im lặng ngồi hay đi, hoặc nằm, hay đứng, đều nhìn vào tâm sẽ thấy sự Bất Động của nó hiện ra rất rõ. Ngày ngày cứ tu tập như vậy thì sẽ cảm nhận chứng đạo từng giây, từng phút, từng giờ, từng ngày và cuối cùng từng tháng, từng năm rồi chứng đạo mãi mãi.
Vì sự tu hành chứng đạo không có khó khăn, không có mệt nhọc nên Đức Phật căn dặn rất kỹ càng không nên tu tập pháp nào khác mà hãy tu tập chánh pháp của Phật.
Phải tự mình thắp đuốc lên mà đi tức là tự mình hãy tác ý tâm Bất Động thì sẽ chứng đạo. Chứng đạo không có khó khăn không có mệt nhọc phải cố gắng lên quý vị.
187. Thưa Hỏi Chánh Pháp
Trong cuộc đời tu hành theo chánh pháp của Phật thì nên chọn lựa một bậc Thiện Hữu tri thức không phải là một việc dễ, vì chọn lựa bậc Thiện Hữu tri thức là bậc tu chứng đạo thì họ mới đủ khả năng hướng dẫn mình tu hành đúng chánh pháp của Phật.
Đây là một việc khó mà trong kinh sách Phật thường nhắc nhở. Chúng ta hãy nghe Đức Phật dạy: “Trong lãnh thổ của Ngươi, nếu có Sa Môn, Bà La Môn nào tu hành chân chánh, đầy đủ công đức siêng năng, không lười biếng, xa lìa tâm kiêu mạn, phải nhẫn nhục, nhân từ, một mình ở nơi thanh vắng tu tập, một mình đạt được Niết Bàn, họ không những diệt trừ tham, sân, si, hơn nữa họ ở chỗ ô nhiễm mà họ không bị ô nhiễm, ở chỗ ngu si mà họ không bị ngu si ám ảnh nào, ở chỗ đắm nhiễm mà không bị đắm nhiễm, ở chỗ đáng trụ không trụ, ở chỗ đáng ở mà không ở.
Thân hành động ngay thẳng, miệng nói lời chân thật, ý nghĩa chân chánh, thân làm việc thanh tịnh, có lòng nhân từ vô hạn, biết đủ trong sự ăn mặc và mang bát đi khất thực, để gây phúc lành cho chúng sanh. Có những hạng người như thế, Ngươi phải thỉnh thoảng tìm đến, tùy thời hỏi han về việc tu hành, thế nào là thiện, thế nào là ác, thế nào là phạm, thế nào là không phạm, người nào đáng gần, người nào không đáng gần, việc gì đáng làm và việc gì không đáng làm và pháp gì tu tập suốt ngày đêm được thanh thản, an lạc và vô sự.
Sau khi hỏi xong, Ngươi hãy lấy ý mình quan sát, thấy việc nên làm thì làm, thấy việc đáng bỏ thì nên bỏ. Trong nước có những trẻ mồ côi, người già cả thì hãy chuẩn cấp, hoặc người nghèo nào khốn khổ đến xin thì cẩn thận chớ trái ý họ.” (Trường A Hàm tập I trang 310)
Khi được thân cận với bậc Thiện Hữu tri thức thì chúng ta thưa hỏi cặn kẽ và thực hành đúng lời dạy của Người thì kết quả giải thoát đâu phải khó khăn. Bởi gặp được bậc Thiện Hữu tri thức là con đường tu tập chúng ta đã đi qua được một nửa. Thế mà có người gặp được Thiện Hữu tri thức mà chỉ xem thường lời dạy của Người thì thật uổng cho một kiếp người. Lời dạy của Thiện Hữu tri thức là những lời vàng lời bạc, những lời dạy này giúp cho chúng ta ra khỏi mọi sự khổ đau của cuộc đời này.
Khi được Thiện Hữu tri thức dạy bảo thì làm ngay liền không nên bỏ qua và biếng trễ, phải siêng năng tinh tấn không hề buông pháp, cứ luôn luôn ôm chặt pháp để giúp cho thân tâm bất động và không còn một ác pháp nào tác động vào tâm. Người Thiện Hữu tri thức sẽ dạy chúng ta tu tập pháp Dẫn Tâm Vào Đạo thì chúng ta lại càng siêng năng cần mẫn tu tập hơn nhiều. Nhờ siêng năng tu tập nên sự chứng đạo không còn xa, chỉ nỗ lực tu tập một thời gian ngắn là chúng ta làm chủ thân tâm.
188. Sống Độc Cư
Sống một mình tức là một bí quyết thành công trong sự tu tập làm chủ sinh, già, bệnh, chết. Nhờ sống độc cư mà tâm mới lộ diện phóng niệm, khi niệm phóng ra là chúng ta tác ý tâm bất động thì niệm liền dừng lại, niệm này dừng lại thì sẽ có niệm khác khởi lên và chúng ta cứ tiếp tục tác ý cho đến khi không còn niệm nào khởi ra thì con đường tu tập đã thành công. Cho nên người xưa tu hành thường tìm chỗ thanh tịnh vắng vẻ như ở núi rừng. Chúng ta hãy nghe Đức Phật dạy:
“Ngươi há không nghe các bậc tiền bối Phạm Chí đều ở nơi núi rừng thanh vắng, cũng như Ta ngày nay, ưa ở chỗ vắng, chớ không phải như pháp của các ông, chỉ thích ở chỗ ồn náo, nói chuyện vô ích mất nhiều ngày tháng." (Trường A Hàm tập I trang 381)
Đúng vậy, tu hành mà ở nơi ồn náo thì rất khó gọt rửa tâm mình, vì nơi đó rất nhiều pháp tác động vào sáu căn khiến sáu căn luôn luôn phóng dật theo sáu trần. Cho nên người tu hành cần phải tìm nơi vắng vẻ để gạn lọc tâm thì mới mong tâm mình thanh tịnh.
189. Lời Khuyên Răn
Con đường tu tập không phải khó khăn, nhưng khó khăn là vì nơi đâu mọi người cứ tạo ra cảnh ồn náo, nhất là tụm năm túm ba nói chuyện. Bởi hạnh độc cư rất cần thiết nhưng mọi người cứ xem thường vì thế mà tu mãi không thành tựu. Tu hành là bỏ hết một kiếp người mà lại tu chơi, tu lấy có hình thức thì phí cả một cuộc đời. Cho nên tu hành thì phải cố gắng tu tập như một người xông trận, một là tiêu diệt giặc sạch; hai là phải hy sinh vì Tổ quốc để đem lại sự bình an cho nhân dân.
Đứng trước giặc sinh tử nếu chúng ta không nỗ lực tu tập thì làm sao dẹp giặc sinh tử cho xong. Hôm nay sống biết ngày mai còn sống được hay không? Tất cả các pháp đều vô thường. Cho nên tu tập thì phải đem hết sức mình ra tu tập, nếu không tận dụng toàn tâm toàn lực thì khó mà thắng được giặc sinh tử. Chúng ta hãy nghe Đức Phật dạy:
“Này các tỳ-kheo! Phải ở chỗ thanh vắng hoặc dưới gốc cây hay nơi trống trải, siêng năng tọa thiền chớ tự buông lung. Nếu nay không nỗ lực cố gắng, về sau có ăn năn cũng đã muộn. Đây là lời dạy của Ta, các ngươi hãy siêng năng hộ trì.” (Trường A Hàm tập I trang 462)
Lời dạy này mang đầy đủ ý nghĩa khuyên dạy chúng ta với một lòng yêu thương của Đức Phật. Vì thế chúng ta không nên phụ công ơn của Người mà hãy cố gắng lên, tu tập cho đến nơi đến chốn mới không phụ công ơn của Người.
Lời nói đầu ĐVXP tập 7
(Những cuốn) Đường Về Xứ Phật, từ tập một đến tập sáu, các bạn đã được đọc phần “Hỏi Đạo”. Càng đọc các bạn càng thấy rõ, đường lối tu tập của đạo Phật không giống như đường lối tu tập của ngoại đạo. Nhất là đối với các pháp môn trong kinh sách phát triển. Vì những pháp môn trong kinh sách này không lấy giới luật làm nền tảng cho đời sống phạm hạnh của những tu sĩ và cư sĩ, nên kinh sách này đã làm mất chương trình giáo dục và đào tạo những bậc tu chứng quả A-la-hán.
Càng đọc, các bạn càng thấy rõ âm mưu thâm độc của Bà La Môn trong kinh sách phát triển quyết tâm diệt sạch Phật giáo trên hành tinh này. Kinh sách phát triển này rất khéo léo, thay thế danh từ Bà La Môn giáo bằng những danh từ rất kêu và rất nổi bật như: xe nhỏ, xe lớn, xe tối thượng, khiến cho tất cả tín đồ Phật giáo dễ lầm lạc, họ cứ ngỡ kinh sách đó là của Phật giáo chân chánh, là những lời Đức Phật dạy. Nhất là kinh sách phát triển, khi bắt đầu vào bài kinh nào cũng đều dùng những danh từ để xác định do Phật thuyết rất hay, khiến mọi người dễ lầm lạc. Đó là những câu:
“Như thị ngã văn, nhất thời Phật tại Xá Vệ Quốc, Cấp Cô Độc Viên, Dữ Kỳ Đà Thọ...” Câu này có nghĩa khi ông A Nan kết tập kinh Phật đọc trước 500 vị A-la-hán như sau: “Một thời Đức Phật ở tại nước Xá Vệ, trong tịnh xá Kỳ Hoàn của ông Cấp Cô Độc và trong khu vườn của thái tử Kỳ Đà.”
Khi nghe đọc câu này ai mà không tin rằng Phật thuyết. Và vì vậy những kinh sách phát triển đó, các bạn dễ lầm tưởng là kinh sách của Đức Phật thuyết. Cho nên, tín đồ Phật giáo hiện giờ lầm lạc, tưởng kinh sách phát triển là kinh sách Phật giáo chân chánh, nhưng không ngờ là kinh sách Phật giáo Bà La Môn. Đó là kinh sách mê tín, trừu tượng, ảo giác của Bà La Môn đã lừa đảo được tín đồ Phật giáo một cách dễ dàng. Hơn hai mươi lăm thế kỷ, tất cả tín đồ Phật giáo đều tin đó là kinh sách của Đức Phật thật sự.
Vì thế tín đồ đến chùa thường cúng bái, tụng niệm và tọa thiền, có người nghi ngờ, nhưng không biết hỏi ai, lại có một số người chịu khó nghiên cứu nên họ nhận xét Phật giáo hiện nay chỉ là một tôn giáo mê tín, lý luận nhiều, nhưng rỗng tuếch, huyền hoặc. Dường như Phật giáo dạy những đạo đức mê tín lạc hậu v.v… còn đạo đức thật sự (giới luật) thì bỏ qua, tu sĩ không còn ai tôn trọng gìn giữ và sống đúng giới hạnh.
Khi Đức Phật còn tại thế, ông A Nan quỳ xin Đức Phật cho giới nữ xuất gia. Để thành lập giáo đoàn Ni chúng, Ngài đã xác định và tuyên bố trước chúng tỳ-kheo: “Nếu cho người nữ xuất gia tu tập thì đạo Ta chỉ trụ thế có năm trăm năm, thay vì phải trụ thế một ngàn năm.”
Đạo Phật là một tôn giáo rất bình đẳng, đối xử từ loài vật đến loài người với một lòng thương yêu bình đẳng. Dưới đôi mắt nhân quả của Ngài, được xem vạn vật là anh em chung nhau trong một nhà. (Mọi vật đều từ trong nhân quả tức là từ môi trường sống sanh ra). Vì thế Ngài xác định: “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành.”
Lời dạy này của Đức Phật rất bình đẳng. Cớ sao lại tuyên bố: “Nếu cho giới nữ xuất gia thì đạo Ta chỉ còn truyền thừa năm trăm năm.” Không lẽ cho giới nữ xuất gia thì giới nữ làm hư hoại Phật giáo sao? Thật không đúng chút nào. Giới nữ cũng là một con người như người nam, họ cũng được quyền sống như người nam, cũng được quyền xuất gia tu hành như người nam; họ tu hành cũng chứng quả A-la-hán như người nam; họ cũng đầy đủ trí tuệ không thua gì người nam; họ cũng nhập được Tứ Thánh Định; họ cũng đầy đủ Tam Minh Lục Thông.
Cớ sao đức Phật lại chế ra “Bát Kỉnh Pháp” bắt họ phải quỳ đảnh lễ một nam tu sĩ mới xuất gia, thân tâm của vị này chưa có chút gì gọi là thanh tịnh, mà buộc một người tu sĩ nữ chứng quả A-la-hán thân tâm đã thanh tịnh hoàn toàn phải đảnh lễ. Người nữ này có thể là một bậc Thầy của vị tu sĩ nam. Trong các trường đại học chúng ta phải chấp nhận những nữ giáo sư có tài, dạy rất hay đâu kém gì nam giáo sư. Trong phòng thí nghiệm khoa học có rất nhiều nữ bác học đang nghiên cứu và phục vụ cho nhân loại đâu thua gì nam giới.
Đạo Phật có một nền đạo đức rất bình đẳng, “Đạo đức không làm khổ mình khổ người và không làm khổ cả hai.” Thế sao Đức Phật là người đã tu chứng đạt chân lý sao lại có lời nói khinh miệt giới nữ như vậy. Lại còn chế Bát Kỉnh Giới để hạ giá trị người nữ tận cùng. Lời nói này là lời nói của các nhà phong kiến, của các tôn giáo chịu ảnh hưởng phong kiến “Trọng nam khinh nữ” chứ không phải Đức Phật nói những lời này và chế Bát Kỉnh Giới.
Như vậy Bát Kỉnh Pháp ai chế ra đây…?
Đạo Phật ra đời là san bằng những giai cấp trong xã hội. Cho nên trong đạo Ngài có đủ mọi từng lớp giai cấp tu tập, không phân biệt sang hay hèn, nam hay nữ đều được xem bình đẳng như nhau.
Thế mà Bà La Môn dám đặt điều nói Phật dạy: “Nếu cho người nữ xuất gia, đạo Ta chỉ còn trụ thế năm trăm năm” và chế ra Bát Kỉnh Giới rồi cho là Đức Phật chế, để Phật giáo cũng trọng nam khinh nữ như các tôn giáo khác, thật là đau lòng.
Thầy Tổ của chúng ta lầm, cứ tin theo kinh sách phát triển mà biến Phật giáo thành một tôn giáo có giai cấp; một tôn giáo trọng nam khinh nữ; một tôn giáo không xứng đáng cho con người ngưỡng mộ.
Năm trăm năm đầu ấy, khi Đức Phật nhập diệt xong, các vị đại đệ tử của Người cũng lần lượt nhập diệt hết, chỉ còn lại một số rất ít tỳ-kheo ẩn bóng tu hành chơn chánh. Họ tránh danh, tránh lợi, tránh chia phe, chia nhóm, tránh chống trái, kích bác nhau; tránh những tỳ-kheo phạm giới, phá giới, bẻ vụn giới v.v… lúc nào cũng giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh và còn tu tập theo đúng giáo pháp của Phật dạy, sống đúng phạm hạnh, không hề vi phạm những lỗi nhỏ nhặt. Còn bao nhiêu vị tỳ-kheo khác chạy theo danh, lợi, chia manh, chia múm thành lập 20 bộ phái. Nếu họ không vì danh lợi, chia ra bộ phái để làm gì? Phải không các bạn?
Hai mươi bộ phái chia ra để dễ bề tự do phá giới luật của Phật tận cùng. Giới luật các vị tỳ-kheo không còn giữ gìn nghiêm túc như lúc Đức Phật còn tại thế. Hiện giờ, chúng tỳ-kheo không còn giữ gìn giới luật nghiêm túc nữa, nên được xem đạo Phật đã mất từ khi chia ra bộ phái.
Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài đã xác định: “Giới luật còn là đạo Phật còn, giới luật mất là đạo Phật mất.” Lời di chúc này giúp cho chúng ta nhìn thấy tu sĩ hiện giờ phạm giới, phá giới thì chúng ta biết ngay là Phật giáo đã mất, chỉ còn lại là đạo Bà La Môn, chuyên môn mang mõ chuông đi cúng tế cầu siêu, cầu an v.v…
Đặc biệt, thiền định của đạo Phật bắt buộc tu tập phải sống đúng giới luật và sống rất nghiêm túc thì mới mong thực hiện nhập được các loại chánh định. Các loại thiền định đó là Tứ Thánh Định. Có nhập được Tứ thánh định thì mới triển khai được trí tuệ của Phật. Trí tuệ của Phật là trí tuệ Tam Minh.
Khi phá giới, phạm giới mà tu thiền định, thì thiền đó là tà thiền, thiền tưởng. Khi nhập thiền tưởng thì triển khai tưởng tuệ, chứ không bao giờ triển khai trí tuệ Phật được. Cho nên những người nói thiền định mà phạm giới phá giới là những người nói láo gạt người về thiền định.
Những loại thiền định và tưởng tuệ này chẳng có ích lợi cho hành giả, mà còn có hại trên đường tu tập, có nghĩa là tu hành chẳng đi đến đâu cả, uổng công mất thì giờ vô ích.
Đối với chúng tôi rất sẵn sàng trả lời cho các bạn, khi các bạn có nghi ngờ những điều gì không đúng của Phật giáo. Muốn biết đúng hay sai những giáo pháp của đạo Phật, thì các bạn cứ mạnh dạn hỏi thẳng chúng tôi. Chúng tôi sẵn sàng trả lời thẳng thắn những gì không đúng của đạo Phật cho các bạn rõ. Những giáo pháp sai này là do ngoại đạo lồng vào kinh sách, rồi mạo danh là của Phật giáo.
Các bạn có thưa hỏi thì chúng tôi mới trả lời, bằng không thưa hỏi, thì chúng tôi tùy nhân duyên của Phật pháp, chứ không đá động đến pháp môn của ai cả, ai tu sao cũng được, tu được thì nhờ, tu không được thì chịu, chớ có ăn thua gì đến chúng tôi đâu. Cho nên đối với chúng tôi, chúng tôi không có ý kiến gì về các pháp môn Đại Thừa, Thiền Tông, Tịnh Độ Tông, Mật Tông và những kiến giải của các nhà học giả.
Chúng tôi chỉ tùy duyên của các bạn thưa hỏi. Hỏi, tức là các bạn muốn tìm hiểu. Tìm hiểu để biết rõ đâu là pháp môn của Phật, đâu là pháp của ngoại đạo. Do tâm thành của các bạn, chúng tôi sẵn sàng vạch rõ để các bạn suy ngẫm những điều chúng tôi nói, chứ đừng vội tin ở chúng tôi.
Là một tu sĩ Phật giáo sống thật, tu thật, không cầu danh lợi, không cầu cơm ăn áo mặc, không cầu chùa to, tháp lớn, chỉ tìm cầu sự giải thoát sanh, già, bệnh, chết nơi thân tâm của mình. Vì thế, chúng tôi nói thật, nói thẳng, nói mạnh.
Khi về họp ở Tỉnh Hội Phật Giáo Tây Ninh, ông Trưởng Ban Tỉnh Hội đề nghị chúng tôi biên soạn giáo án Tịnh Độ Tông, Mật Tông, Pháp Hoa Tông và Thiền Tông.
Trong buổi họp hôm đó, chúng tôi đề nghị ý kiến và vạch rõ bốn Tông phái này không phải của Phật giáo mà của Bà La Môn giáo:
1- Tịnh Độ Tông là pháp môn mê tín, lừa đảo giới tín đồ bình dân, biến tu sĩ thành những ông “thầy tụng”, thầy cúng tế làm những điều mê tín, phi đạo đức. Các vị thầy này phá giới luật Phật tận cùng, có một lối sống giống như người thế tục, có vợ con, làm tất cả các nghề nghiệp để sanh sống.
2- Mật Tông là pháp môn tà thuật, huyễn hoặc lường gạt tín đồ nhẹ dạ, ham mê thần thông, biến ông thầy thành thầy phù thủy, thầy bùa, thầy pháp, thầy bói, đồng cốt v.v…
3- Pháp Hoa Tông là pháp môn phi đạo đức, ngồi không mà muốn làm giàu, làm ác mà muốn trốn tránh tội lỗi, biến ông thầy thành một vị Bà La Môn chuyên tế lễ, cúng bái, cầu khẩn van xin v.v… biến đạo Phật thành thần giáo, làm tín đồ mất sức tự chủ, luôn luôn sống trong tha lực, tựa nương vào thần quyền, do thế mới sản xuất ra Quán Thế Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn.
4- Thiền Tông là pháp môn ngã chấp, lý luận có logic, dễ lừa đảo giới trí thức, biến Phật giáo vô ngã thành Phật giáo hữu ngã trừu tượng, mơ hồ, biến thiền sư thành giảng sư, luận sư ngôn ngữ vọng ngữ v.v…
Sau buổi họp đó các thầy trong Ban Trị Sự Tỉnh Hội báo cáo về Giáo Hội Trung Ương và thầy chúng tôi, tức là Hòa Thượng Thanh Từ. Chúng tôi biết rất rõ điều đó, nhưng chúng tôi không ngại, là vì chúng tôi xác định: “Những gì chúng tôi nói là sự thật, vì sự thật thì còn mọi người để suy ngẫm, chứ sự thật mà dối gạt được ai sao?”
Từ khi ra thất đến nay là 18 năm chúng tôi chẳng hề nói động ai hết, chỉ có so sánh thiền của kinh sách phát triển và Tứ thánh định của đạo Phật, cùng vạch trần những sự phá giới, phạm giới của Tăng Ni và cư sĩ phật tử để cho thầy chúng tôi biết. Thấy chúng tôi là Hòa Thượng Thanh Từ.
Bản chất chúng tôi hay nói thẳng, nói thật, nói đúng, nói không sợ mất lòng ai hết, chúng tôi không nói xấu, không bài bác ai, không chỉ trích pháp môn của người nào cả. Nhưng pháp môn nào mượn danh Phật giáo làm điều mờ ám, lường gạt tín đồ, thì chúng tôi sẵn sàng vạch mặt pháp môn đó khi có người hỏi đến chúng tôi, còn nếu không ai hỏi thì thôi.
Bốn Tông phái này đã truyền thừa ở đất nước Việt Nam một thời gian rất dài trên hai ngàn năm, nó đã trở thành một truyền thống mê tín lâu đời. Với thời gian dài đó, cũng đủ để xác chứng các giáo pháp này đã đem lại cho tín đồ Phật giáo lợi ích được những gì? Hay chỉ là đem lại sự lạc hậu mê tín ngu si lạc hậu cho một dân tộc. Chắc các bạn đã rõ hơn ai hết. Và chúng tôi xin lặp lại
1- Tịnh Độ Tông, đưa ông thầy đi đến chỗ làm thầy cúng, thợ tụng.
2- Mật Tông, đưa ông thầy đi đến chỗ làm thầy bùa, thầy ngải, thầy phù thủy, thầy pháp, thầy bói, đồng, bóng v.v…
3- Pháp Hoa Tông, làm mất sức tự chủ của tín đồ, ngày đêm chuyên tụng niệm cầu an, cầu siêu, đó là những việc làm những điều phi đạo đức nhân quả.
4- Thiền Tông, đưa ông thầy đi đến chỗ trở thành những nhà thuyết giảng tưởng (giảng sư), những nhà lý luận tưởng (luận sư), biến thiền sư thành người nói dối, chuyên môn tranh luận cao thấp, hơn thua.
Nếu các bạn đừng hỏi chúng tôi điều gì, thì chẳng bao giờ chúng tôi nói ra cả, mặc dù chúng tôi rất muốn chấn hưng Phật giáo, làm cho tốt lại Phật giáo. Có nghĩa là giúp cho tu sĩ sống đúng đời sống phạm hạnh, giới luật nghiêm túc, để cho tín đồ và những người không tôn giáo không còn nghi ngờ Phật giáo nữa. Nhưng chúng tôi có nhận xét như sau:
1- Thấy nhân duyên chưa đủ.
2- Chúng sanh chưa đủ phước thọ hưởng giáo pháp chân chánh của Đức Phật nên còn nhiều kiến chấp tà pháp ngoại đạo, chưa đủ trí thông minh buông xuống, cuộc sống còn đầy dẫy nhân quả thiện ác.
3- Chúng tôi chưa đủ duyên với chúng sanh, cần phải tạo duyên, nên phải mất rất nhiều thì giờ. Hiện giờ chúng tôi dạy một điều mà tu sĩ tu tập một ngả, (tu tập không đúng theo lời dạy của Phật, của chúng tôi, phần đông đều phạm giới và phá giới, sống không đúng đời sống phạm hạnh độc cư.
4- Chúng sanh hiện giờ mang đầy ắp những kiến chấp của kinh sách phát triển nên rất khó dạy, nhất là tu tập pháp môn ức chế tâm của kinh sách phát triển đã thành thói quen nên rất khó bỏ.
Vấn đạo là nhân duyên, để làm sáng tỏ lại Phật giáo, và cũng là tạo duyên với chúng sanh. Trong những giờ phút chúng tôi chưa tịch thì các bạn còn hỏi tới, hỏi lui để tìm hiểu, một mai chúng tôi đã mất đi rồi thì các bạn có muốn tìm hiểu Phật giáo, thì chẳng còn ai trả lời cho các bạn, dù họ có biết họ cũng chẳng dám nói thật, chỉ vì họ quá khiếp đảm trước một thế lực đông đảo của giáo pháp pháp triển Bà La Môn
Ngày xưa, chỉ có một mình Đức Phật, Ngài dám đương đầu với lục sư ngoại đạo, ngày nay chỉ có kinh sách phát triển theo Bà La Môn mà chúng ta quá sợ hãi, rõ ràng chúng ta không bằng Đức Phật, chúng ta nhát gan hơn Đức Phật nhiều. Tuy trả lời vấn đạo nhưng có chỗ chúng tôi chưa vạch rõ ra hết, mong các bạn cảm thông. Chỉ vì chúng tôi trả lời theo sự thưa hỏi của các bạn quá nhiều, không thể nói hết một lúc được, nên cũng tùy câu hỏi của các bạn, chúng tôi sẽ vạch rõ hơn để các bạn suy tư.
Đến tập thứ 10 thì chúng tôi xin tạm ngưng phần vấn đạo, để soạn thảo giáo trình đạo đức nhân quả, tức là đạo đức làm người của Phật giáo, để giúp cho tín đồ (cư sĩ và tu sĩ) tu tập rèn luyện sống đúng đạo đức làm người, không làm khổ mình, khổ người. Thể hiện một cuộc sống hạnh phúc, an lạc cho mình cho người trên hành tinh này.
Đến đây chúng tôi xin các bạn, cứ mạnh mẽ hỏi thẳng những điều mà các bạn đang thao thức về Phật giáo, chúng tôi sẵn sàng giúp các bạn, nếu sự trả lời của chúng tôi có điều gì không vui lòng, xin các bạn cảm thông cho. Bởi vì “lời thẳng mất lòng.”
Kính ghi
Trưởng Lão Thích Thông Lạc
Tu Viện Chơn Như
(Ngày 11- 2- 1999).
Cập nhật ngày : 10.02.2016 | (Đã đọc : | lần )||
Giới đàn đầu tiên tại Tu Viện Chơn Như
DẪN GIẢNG KINH BÁT THÀNH “Bạch Tôn giả Ananda, có pháp độc nhất gì do Thế Tôn, bậc Trí Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác tuyên bố, nếu có tỳ-kheo nào không phóng dật, nhiệt tâm tinh cần sống hành trì pháp ấy, thời tâm chưa giải thoát của vị ấy được giải thoát, hay các lậu hoặc chưa được đoạn trừ, đi đến đoạn trừ, hay pháp an ổn khỏi các ách phược, chưa được chứng đạt được chứng đạt?”. Đoạn kinh trên đây do gia chủ Dasama hỏi Tôn giả Ananda có một pháp gì độc nhất của đức Phật được tu tập để đi đến kết quả giải thoát hoàn toàn chấm dứt tái sinh luân hồi không? Như các bạn đã biết pháp của Phật có rất nhiều, có đến ba mươi bảy pháp môn tu tập từ thấp đến cao. Thế mà, gia chủ Dasama lại hỏi có một pháp độc nhất nào chỉ tu tập pháp này sẽ đi đến cứu cánh, thì biết trả lời làm sao các bạn nhỉ? Nhưng ông Ananda đã thay đức Phật trả lời câu hỏi này: “Không phải chỉ có một pháp độc nhất mà có đến cả tám pháp độc nhất, pháp nào cũng tu tập đi đến kết quả giải thoát rốt ráo”. Cho nên bài kinh này được lấy tên là Kinh Bát Thành trong Trung Bộ Kinh, tập II, trang 30. Nhưng kinh Bát Thành này đã bị người sau thêm vào Bốn Định Vô Sắc. Bốn Định Vô Sắc là bốn loại định tưởng. Bốn loại định tưởng thì không thể nào tu tập đi đến rốt ráo được, vì chính đức Phật đã nhập các loại định tưởng này còn phải bỏ mà trở về tu tập Bốn Định Hữu Sắc mới thấy được sự giải thoát làm chủ sanh tử, chấm dứt luân hồi. Bốn loại định vô sắc này được cộng chung lại với tám pháp đầu tiên là 12 pháp, như vậy bài kinh này đúng ra phải có tên là “Thập nhị Thành” chứ đâu gọi là “Bát Thành” được. Đó là cái sai thứ nhất trong bài kinh này, do các vị Tổ Sư kết tập kinh. Cái sai thứ hai là đoạn kết của bài kinh này: “Bạch Tôn giả Ananda, như người tìm một kho tàng cất dấu, trong lúc tìm được 11 kho tàng cất dấu. Cũng vậy bạch Tôn giả, như ngôi nhà người ta có đến 11 cửa, khi ngôi nhà bị cháy, thì chỉ do một cửa người ta cũng có thể thoát ra một cách an toàn. Cũng vậy, bạch Tôn giả, chỉ với một cửa bất tử trong 11 cửa bất tử này, con có thể đạt được sự an toàn cho con”. Tựa kinh đề là “Bát Thành” mà kết luận là “Thập nhất Thành”, còn trong bài kinh này thì nêu ra 12 pháp tu tập. Kinh viết như vậy có nhất quán không? Các bạn nghĩ sao về những việc làm của các bậc tôn túc ngày xưa? Họ có thấy khi kết tập kinh sách Phật là một trách nhiệm với đạo Phật và con người đời sau không? Trong một bài kinh nguyên thủy mà còn thêm bớt, làm sai lệch như thế này thì cả tạng kinh nguyên thủy hiện có hẳn phải còn sai biết bao nhiêu lần trong ấy. Như thế kinh sách Đại Thừa là kinh phát triển làm sao chúng ta tin được. Phải không hỡi các bạn? Cho nên đức Phật bảo: “Đừng có tin kinh tạng... ”. Vậy mà các bạn cứ gặp bài kinh nào nói Phật thuyết là các bạn tin ngay, tin một cách mù quáng, mê mờ, bị lừa đảo mà không biết. Thật đáng thương cho các bạn. Qua kinh nghiệm tu hành, chúng tôi xét thấy trong bài kinh này có nêu ra tám pháp môn độc nhất tu tập đi đến cứu cánh hoàn toàn là đúng lời dạy của đức Phật. Tám pháp này gồm có: 1. Thứ Nhất: Sơ Thiền Là Pháp Độc Nhất Trong Kinh Bát Thành “Sơ Thiền này là pháp hữu vi, do suy tư tác thành. Phàm sự vật gì là pháp hữu vi, do suy tư tác thành, thời sự vật ấy là vô thường chịu sự đoạn diệt.” Vị ấy vững trú ở đây đoạn trừ được các lậu hoặc. Và nếu các lậu hoặc chưa được đoạn trừ, do tham luyến pháp này, do hoan hỷ pháp này, vị ấy đoạn trừ được năm hạ phần kiết sử, được hóa sanh, nhập Niết-bàn tại cảnh giới ấy, khỏi phải trở lui đời này. Này Gia chủ, như vậy là pháp độc nhất, do Thế Tôn, bậc Trí Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác tuyên bố...” Đây là pháp độc nhất thứ nhất trong tám pháp, các bạn nên lưu ý đó là Sơ Thiền. Cho nên chỉ cần nhắm vào Thiền thứ nhất mà tu tập để tâm bạn hoàn toàn ly dục ly ác pháp. Các bạn không cần phải thay đổi pháp môn nào khác, vì nó là pháp độc nhất đi đến cứu cánh. Nhớ lại năm xưa chúng tôi cũng từ pháp môn này mà đi đến rốt ráo. Vì lúc bây giờ chúng tôi không được ai hướng dẫn, nên chỉ biết như lý tác ý ly dục ly ác pháp và cuối cùng chúng tôi viên mãn công đức tu hành với pháp độc nhất Sơ Thiền này. 2. Thứ Hai: Nhị Thiền Là Pháp Độc Nhất Trong Kinh Bát Thành “Thiền thứ hai này là pháp hữu vi, do suy tư tác thành. Phàm sự vật gì là pháp hữu vi, do suy tư tác thành, thời sự vật ấy là vô thường chịu sự đoạn diệt.” Vị ấy vững trú ở đây đoạn trừ được các lậu hoặc. Và nếu các lậu hoặc chưa được đoạn trừ, do tham luyến pháp này, do hoan hỷ pháp này, vị ấy đoạn trừ được năm hạ phần kiết sử, được hóa sanh, nhập Niết-bàn tại cảnh giới ấy, khỏi phải trở lui đời này. Này Gia chủ như vậy là pháp độc nhất, do Thế Tôn, bậc Trí Giả, Kiến Giả, Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác tuyên bố...”. Khi Sơ Thiền đã nhập được thì Nhị Thiền không còn có khó khăn nữa. Ở đây chúng ta phải hiểu pháp môn Nhị Thiền mà đức Phật gọi là pháp môn độc nhất. Độc nhất ở đây không có nghĩa là duy nhất có một pháp này tu từ đầu đến cuối mà thành tựu đạo giải thoát. Nếu giới luật chưa nghiêm chỉnh thì các bạn phải biết mình còn phải tu bao nhiêu pháp nữa thì giới luật mới được nghiêm chỉnh. Khi giới luật được nghiêm chỉnh, lúc bấy giờ các bạn mới ôm một pháp độc nhất này. Cho nên độc nhất ở đây là một trạng thái thân tâm thanh tịnh trong giới luật. Các bạn có hiểu chưa? Vì tâm có nghiêm chỉnh trong giới luật thì pháp Như lý Tác ý mới có hiệu quả. 3. Thứ Ba: Tam Thiền Là Pháp Độc Nhất Trong Kinh Bát Thành “Tam Thiền này là pháp hữu vi, do suy tư tác thành. Phàm sự vật gì là pháp hữu vi, do suy tư tác thành, thời sự vật ấy là vô thường chịu sự đoạn diệt.” Vị ấy vững trú ở đây đoạn trừ được các lậu hoặc. Và nếu các lậu hoặc chưa được đoạn trừ, do tham luyến pháp này, do hoan hỷ pháp này, vị ấy đoạn trừ được năm hạ phần kiết sử, được hóa sanh, nhập Niết-bàn tại cảnh giới ấy, khỏi phải trở lui đời này. Này Gia chủ như vậy là pháp độc nhất, do Thế Tôn, bậc Trí Giả, Kiến Giả, Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác tuyên bố...”. Ở đây các bạn nên lưu ý đoạn kinh này: “Vị ấy vững trú ở đây đoạn trừ được các lậu hoặc”. Vững trú có nghĩa là giữ gìn tâm ở trong trạng thái Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, v.v... Bất cứ các bạn ở một trong tám trạng thái này, tiếp tục đoạn trừ các lậu hoặc, nếu đoạn trừ xong thì các bạn liền chứng quả A-la-hán, chứ không phải còn tu tập pháp môn nào nữa. 4. Thứ Tư: Tứ Thiền Là Pháp Độc Nhất Trong Kinh Bát Thành “Tứ Thiền này là pháp hữu vi, do suy tư tác thành. Phàm sự vật gì là pháp hữu vi, do suy tư tác thành, thời sự vật ấy là vô thường chịu sự đoạn diệt.” Vị ấy vững trú ở đây đoạn trừ được các lậu hoặc. Và nếu các lậu hoặc chưa được đoạn trừ, do tham luyến pháp này, do hoan hỷ pháp này, vị ấy đoạn trừ được năm hạ phần kiết sử, được hóa sanh, nhập Niết-bàn tại cảnh giới ấy, khỏi phải trở lui đời này. Này Gia chủ như vậy là pháp độc nhất, do Thế Tôn, bậc Trí Giả, Kiến Giả, Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác tuyên bố...”. Ở đây các bạn nên lưu ý ở đoạn kinh này: “Và nếu các lậu hoặc chưa được đoạn trừ, do tham luyến pháp này, do hoan hỷ pháp này”. Do tham luyến và hoan hỷ trạng thái pháp này nên lậu hoặc chưa đoạn trừ được. Trong trạng thái Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền, v.v... đều có trạng thái hỷ lạc, khinh an khiến cho hành giả thích thú quên ăn, quên ngủ, quên tất cả. Do tâm còn ham thích nên lậu hoặc diệt không sạch mặc dù trạng thái khinh an hỷ lạc đó do ly dục và định sanh. Pháp ly dục và định là pháp hữu vi nên các pháp đó đều vô thường chịu sự đoạn diệt. Các bạn hãy đọc lại đoạn kinh này thì rõ: “Tứ Thiền này là pháp hữu vi, do suy tư tác thành. Phàm sự vật gì là pháp hữu vi, do suy tư tác thành, thời sự vật ấy là vô thường chịu sự đoạn diệt”. Cho nên các bạn còn ham thích trạng thái của pháp ấy nên lậu hoặc không thể đoạn trừ được. Chính thích thú trạng thái ấy là lậu hoặc. Khi gặp bất cứ một trạng thái nào dù đúng hay sai các bạn cũng nên xả bỏ thì lậu hoặc mới đoạn trừ tận gốc. Giới đàn đầu tiên
5. Thứ Năm: Từ Tâm Là Pháp Độc Nhất Trong Kinh Bát Thành “Từ tâm này là pháp hữu vi, do suy tư tác thành. Phàm sự vật gì là pháp hữu vi, do suy tư tác thành, thời sự vật ấy là vô thường chịu sự đoạn diệt.” Vị ấy vững trú ở đây đoạn trừ được các lậu hoặc. Và nếu các lậu hoặc chưa được đoạn trừ, do tham luyến pháp này, do hoan hỷ pháp này, vị ấy đoạn trừ được năm hạ phần kiết sử, được hóa sanh, nhập Niết-bàn tại cảnh giới ấy, khỏi phải trở lui đời này. Này Gia chủ như vậy là pháp độc nhất, do Thế Tôn, bậc Trí Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác tuyên bố...”. Nói đến Từ, Bi, Hỷ, Xả là người ta nghĩ ngay Tứ Vô Lượng Tâm, cho Tứ Vô Lượng Tâm là một pháp môn, nhưng không ngờ Tứ Vô Lượng Tâm là một cái tên chỉ chung cho bốn pháp môn độc nhất của đạo Phật, từ pháp môn đó tu tập đi đến cứu cánh mà không cần phải tu tập những thiền định nào cả. Khi pháp môn đó tu tập thành tựu tâm vô lậu là có đủ Bốn Thiền và Tam Minh. Cho nên em trai ông Cấp Cô Độc chỉ do tu một pháp độc nhất “Từ Tâm” mà chứng quả A-la-hán. Khi chúng ta dùng pháp Như lý Tác ý tu tập tâm từ, từ tâm được hiện bày thì có một trạng thái thanh tịnh, an lạc, thương yêu hòa mình trong sự sống của muôn loài hiện ra, do đó mà ngũ triền cái và thất kiết sử bị đoạn diệt. Ở đây các bạn nên lưu ý bốn pháp độc nhất này không phải như bốn thiền ở trên khi nhập phải dùng bảy năng lực Giác Chi. Pháp Tứ Vô Lượng Tâm chỉ có dùng pháp Như lý Tác ý đánh thức tình cảm yêu thương sâu kín tận trong tâm của con người. Nó gồm có: 1- Từ tâm; 2- Bi tâm; 3- Hỷ tâm; 4- Xả tâm. Tùy theo đặc tướng của các bạn mà chọn lấy một trong bốn pháp này tu tập. Các bạn đâu có ngờ rằng bốn pháp Tứ Vô Lượng Tâm này là bốn Pháp tuyệt vời trong Phật giáo, nó giúp các bạn trở thành những bậc Thánh một cách dễ dàng không có khó khăn các bạn ạ! 6. Thứ Sáu: Bi Tâm Là Pháp Độc Nhất Trong Kinh Bát Thành “Bi tâm này là pháp hữu vi, do suy tư tác thành. Phàm sự vật gì là pháp hữu vi, do suy tư tác thành, thời sự vật ấy là vô thường chịu sự đoạn diệt.” Vị ấy vững trú ở đây đoạn trừ được các lậu hoặc. Và nếu các lậu hoặc chưa được đoạn trừ, do tham luyến pháp này, do hoan hỷ pháp này, vị ấy đoạn trừ được năm hạ phần kiết sử, được hóa sanh, nhập Niết-bàn tại cảnh giới ấy, khỏi phải trở lui đời này. Này Gia chủ như vậy là pháp độc nhất, do Thế Tôn, bậc Trí Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác tuyên bố...”. Bi tâm là một pháp tu tập lòng thương xót trước cảnh thương tâm, bất hạnh của chúng sanh. Nếu một người tu tập rèn luyện được lòng thương xót tất cả chúng sanh, khi lòng thương xót ấy hiện tiền thì tất cả ác pháp như tham, sân, si, mạn, nghi đều vô tác dụng vào tâm mình. Do đó tâm vô lậu hoàn toàn và chứng quả A-la-hán ngay liền. Người chứng quả A-la-hán đều có đầy đủ thiền định và Tam Minh. Các bạn đừng hiểu lầm là khi tu tập Bi Tâm rồi còn phải tu tập bốn Thiền và Tam Minh nữa. Hiểu như vậy là sai các bạn ạ! Vì trạng thái Bi Tâm đã có đầy đủ thiền định và Tam Minh, mặc dù bạn chưa bao giờ có một phút tu tập Thiền định. 7. Thứ Bảy: Hỷ Tâm Là Pháp Độc Nhất Trong Kinh Bát Thành “Hỷ tâm này là pháp hữu vi, do suy tư tác thành. Phàm sự vật gì là pháp hữu vi, do suy tư tác thành, thời sự vật ấy là vô thường chịu sự đoạn diệt.” Vị ấy vững trú ở đây đoạn trừ được các lậu hoặc. Và nếu các lậu hoặc chưa được đoạn trừ, do tham luyến pháp này, do hoan hỷ pháp này, vị ấy đoạn trừ được năm hạ phần kiết sử, được hóa sanh, nhập Niết-bàn tại cảnh giới ấy, khỏi phải trở lui đời này. Này Gia chủ như vậy là pháp độc nhất, do Thế Tôn, bậc Trí Giả, Kiến Giả, Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác tuyên bố...” Nếu bạn chọn Hỷ tâm tu tập rèn luyện, khi Hỷ tâm thành tựu thì tâm tham, sân, si, mạn, nghi không còn nữa, do lòng hoan hỷ của bạn đã đoạn trừ các ác pháp. Nhờ đó tâm bạn vô lậu hoàn toàn, chứng quả A-la-hán. Khi chứng quả A-la-hán với tâm hỷ thì bạn không cần phải tu tập thiền định và Tam Minh gì cả, vì chính trong tâm hỷ của bạn đã đầy đủ Bốn Thiền và Tam Minh, bạn có thể thực hiện giờ nào cũng được, không có khó khăn không có mệt nhọc. 8. Thứ Tám: Xả Tâm Là Pháp Độc Nhất Trong Kinh Bát Thành “Xả tâm này là pháp hữu vi, do suy tư tác thành. Phàm sự vật gì là pháp hữu vi, do suy tư tác thành, thời sự vật ấy là vô thường chịu sự đoạn diệt.” Vị ấy vững trú ở đây đoạn trừ được các lậu hoặc. Và nếu các lậu hoặc chưa được đoạn trừ, do tham luyến pháp này, do hoan hỷ pháp này, vị ấy đoạn trừ được năm hạ phần kiết sử, được hóa sanh, nhập Niết-bàn tại cảnh giới ấy, khỏi phải trở lui đời này. Này Gia chủ như vậy là pháp độc nhất, do Thế Tôn, bậc Trí Giả, Kiến Giả, Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác tuyên bố...” Nếu bạn chọn lấy pháp Xả tâm mà tu tập và rèn luyện tâm mình, khi tâm xả thành tựu thì bảy năng lực Giác Chi xuất hiện, lúc bấy giờ các bạn muốn nhập thiền nào thì các bạn sẽ tác ý theo trạch Pháp Giác Chi thì nhập ngay thiền ấy và thực hiện Tam Minh không có khó khăn, không có mệt nhọc. Bởi vì xả vô lượng tâm ác thì tất cả lậu hoặc sẽ được đoạn trừ. Khi lậu hoặc đã trừ diệt xong thì các bạn chứng quả A-la-hán, không cần phải tu tập pháp môn nào khác nữa. Trên đây là tám pháp độc nhất mà các bạn tự lựa chọn cho mình một pháp phù hợp với đặc tướng để tiện việc tu tập cho đến nơi đến chốn. Thưa các bạn! Các bạn nên nhớ kỹ và hãy xét lại thân tâm của các bạn trong giai đoạn ôm một pháp độc nhất này tu tập. Nếu các bạn cảm thấy mình có đủ khả năng để ôm một pháp độc nhất thì nên tu tập, còn nếu thấy khả năng chưa đủ thì đừng nên. Nếu các bạn miễn cưỡng tu tập sẽ bị ức chế tâm, và tu như vậy dễ thành bệnh hơn là thành đạo. Một người mới vào tu theo Phật giáo thì không được phép tu tập một pháp độc nhất mà phải tu tập nhiều pháp, vì tu tập nhiều pháp nên không bị ức chế tâm. Tu ức chế tâm có hai điều nguy hiểm: Căng đầu, căng mặt, căng thần kinh thành bệnh. Rơi vào tưởng định, tưởng tuệ phát triển, kiến giải, tưởng giải lung tung. Con đường tu giải thoát bế tắc, biến người tu sĩ Phật giáo trở thành những vị thầy phù thủy, thầy cúng, thầy bùa, thầy thuốc trị bệnh, trừ tà yểm quỷ, v.v... Kinh Bát Thành chỉ dành riêng cho những bậc giới luật nghiêm túc, tâm không phóng dật, như trên đã nói, chứ không phải để cho những người phá giới, phạm giới, tâm còn phóng dật. Các bạn nhớ kỹ, như kinh đã dạy: “Nếu có tỳ-kheo nào tâm không phóng dật”. Xưa đức Phật sáu năm tu tập khổ hạnh trong rừng già, Ngài đã sống một đời sống Phạm hạnh chưa từng có một tu sĩ nào sống được như vậy. Vì thế thân tâm Ngài quá thanh tịnh, giới luật quá nghiêm túc. Do đó Ngài trở về với pháp Sơ Thiền độc nhất ly dục ly bất thiện pháp, Ngài thành tựu giải thoát nơi chính pháp môn này. Xin các bạn đọc lại bài Đại Kinh Saccaka thì rõ. Bây giờ xin các bạn vui lòng đọc lại đoạn kinh Bát Thành trên đây thì hiểu rõ ràng: “Nếu có tỳ-kheo nào không phóng dật, nhiệt tâm tinh cần sống hành trì pháp ấy, thời tâm chưa giải thoát của vị ấy được giải thoát, hay các lậu hoặc chưa được đoạn trừ, đi đến đoạn trừ, hay pháp an ổn khỏi các ách phược, chưa được chứng đạt được chứng đạt”. Đọc hết đoạn kinh này, chúng tôi xin nhắc lại, các bạn cần phải lưu ý câu duy nhất: “Nếu có tỳ-kheo nào tâm không phóng dật”. Bốn chữ “Tâm không phóng dật” các bạn nên biết đó là một giai đoạn tu tập sống chết với tâm tham, sân, si của bạn bằng nhiều pháp môn cho đến khi nào tâm thuần phục không phóng dật thì bạn mới dám ôm một pháp độc nhất. Các bạn có hiểu chưa? Chúng tôi đưa bài kinh Bát Thành này ra đây có ba điều rất quan trọng để các bạn cần phải lưu ý: Thứ nhất: Không nên tin trọn vẹn vào kinh sách, vì kinh sách được kết tập là do các Tổ, nhưng các Tổ thêm vào và pha trộn các pháp môn của ngoại đạo, làm cho kinh sách Phật mất hết giá trị giải thoát chân thật của nó. Thứ hai: Phải biết khả năng và đặc tướng của các bạn khi chọn tu tập một pháp môn độc nhất nào hay phải tu tập nhiều pháp môn. Nếu chưa nắm vững được điều này thì nên tập sống đúng đời sống Phạm hạnh, giới luật nghiêm trì, chứ đừng nên tu tập pháp môn nào khác cả, vì nếu có tu tập bất cứ một pháp nào cũng chỉ là ức chế tâm mà thôi. Ngày xưa các Tổ không có người tu chứng hướng dẫn nên các ngài tuy tu tập theo pháp môn của Phật, nhưng đã biến pháp môn của Phật thành pháp môn ức chế tâm của ngoại đạo. Đó là một lỗi lầm rất lớn của các Tổ, làm cho người đời sau mất đường lối tu tập theo đúng Chánh Phật pháp. Thứ ba: Pháp môn độc nhất của Phật ở đây đã khiến cho những nhà học giả điên đầu, không thể hiểu được, nhất là lời dạy này: “Vị ấy đoạn trừ năm hạ phần kiết sử, được hoá sanh, nhập Niết-bàn tại cảnh giới ấy, khỏi phải trở lui lại đời này nữa”. Nếu đoạn kinh này không được giải thích rõ ràng thì mọi người sẽ nghĩ rằng đạo Phật có thế giới siêu hình. Nếu dựa vào kiến giải của những nhà học giả cho rằng đạo Phật có thế giới siêu hình thì rất oan uổng cho Phật giáo, khiến cho Phật giáo tự mâu thuẫn lại với nó. Phật giáo cho rằng không có thế giới siêu hình là vì chủ trương tự lực vượt thoát khổ đau, không nhờ tha lực: “Tự thắp đuốc lên mà đi”. Bởi vì nếu có thế giới siêu hình thì phải có tha lực, mà có tha lực thì sẽ có sự bất công. Có sự bất công thì trong cuộc đời này đau khổ sẽ không bao giờ hết và như vậy bốn chân lý loài người của Phật giáo không còn là chân lý nữa. Và thế gian này sẽ không còn có công bằng và công lý, chỉ còn là một cuộc sống bất công. Tôn giáo chỉ là một mánh khoé lừa đảo bằng hình thức cầu khẩn, cúng tế, bái lạy, v.v... Các đấng thiêng liêng ảo tưởng của các tôn giáo gia hộ tai qua, nạn khỏi, bệnh tật tiêu trừ, chỉ là những trò bịp bợm, chứ thế gian này khổ cũng không bao giờ hết khổ. Và cũng vì vậy mà nền đạo đức nhân bản – nhân quả của con người không bao giờ có được. Muốn biết rõ Phật giáo không có thế giới siêu hình qua đoạn kinh Bát Thành này thì chúng tôi xin rút ra và giải thích một pháp trong tám pháp của kinh Bát Thành, chẳng hạn như bài pháp thứ nhất là pháp Sơ Thiền. Xin các bạn vui lòng đọc lại đoạn kinh này: “Ở đây này gia chủ, tỳ-kheo ly dục ly bất thiện pháp chứng và trú thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ. Vị ấy suy tư và được biết: “Sơ Thiền này là pháp hữu vi, do suy tư tác thành. Phàm sự vật gì là pháp hữu vi, do suy tư tác thành, thời sự vật ấy là vô thường chịu sự đoạn diệt. Vị ấy vững trú ở đây đoạn trừ được các lậu hoặc. Và nếu các lậu hoặc chưa được đoạn trừ, do tham luyến pháp này, do hoan hỷ pháp này, vị ấy đoạn trừ được năm hạ phần kiết sử, được hóa sanh, nhập Niết-bàn tại cảnh giới ấy, khỏi phải trở lui đời này. Này gia chủ như vậy là pháp độc nhất, do Thế Tôn, bậc Trí Giả, Kiến Giả, Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác tuyên bố...” Qua đoạn kinh này chúng ta cần lưu ý đoạn: “Sơ Thiền này là pháp hữu vi, do suy tư tác thành. Phàm sự vật gì là pháp hữu vi, do suy tư tác thành, thời sự vật ấy là vô thường chịu sự đoạn diệt.” Bốn Thánh Định là Thiền Hữu Sắc, Thiền Hữu Sắc là pháp hữu vi do ý thức tu tập làm nên “do suy tư tác thành”, và như vậy bốn Thiền là pháp vô thường, mà pháp vô thường là phải chịu sự hoại diệt “thời sự vật ấy là vô thường chịu sự đoạn diệt”. Đoạn kinh trên đã xác định cho các bạn thấy rất rõ trạng thái Sơ Thiền trong tâm các bạn không phải là trạng thái vĩnh hằng mà chỉ là một trạng thái thọ hưởng phước thiện trong một thời gian nhất định. Khi thọ hưởng phước thiện do diệt năm hạ phần kiết sử hết thời gian nhất định thì trạng thái ấy bị hoại diệt vì nó là pháp hữu vi vô thường. Thưa các bạn! Trạng thái ấy không phải là cảnh giới siêu hình như các bạn tưởng. Khi nào các bạn nhập Sơ Thiền là bạn cảm nhận trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh có tầm, có tứ, có hỷ, có lạc, có nhất tâm, do ý thức bạn biết rất rõ như vậy làm sao là cảnh giới siêu hình được. Ngoài ý thức, thân và tâm của bạn thì không có cái biết và cái cảm nhận trạng thái Sơ Thiền đó. Khi thân tâm bạn hoại diệt mất thì trạng thái hỷ lạc của Sơ Thiền cũng không còn. Trạng thái hỷ lạc của Sơ Thiền không còn thì làm sao bảo rằng có cảnh giới Sơ Thiền Thiên được. Không có cảnh giới Sơ Thiền Thiên thì làm sao bảo rằng có thế giới siêu hình được. Phải không hỡi các bạn? Các bạn cứ suy ngẫm lại rồi mới tin lời chúng tôi nói. Nếu các bạn nhập định và có Tam Minh thì khỏi cần chúng tôi phải giải thích, vì các bạn cũng thấy rõ như chúng tôi. Điều đặc biệt ở đoạn kinh này là nhập vào cho được trạng thái Sơ Thiền và an trú trong trạng thái đó, đừng lìa khỏi trạng thái đó, dù bất cứ có những pháp ác nào tác động vào thân tâm bạn, bạn cũng đừng rời bỏ trạng thái này, như đoạn kinh đã dạy: “Vị ấy vững trú ở đây đoạn trừ được các lậu hoặc”. Các bạn nên lưu ý bốn chữ: “vững trú ở đây”. Nếu các bạn có được cơ thể còn khỏe mạnh không bị chết một cách đột ngột và cứ luôn luôn an trú nơi trạng thái này thì các bạn sẽ đoạn trừ được tất cả các lậu hoặc và chứng quả vô lậu A-la-hán. Còn nếu các bạn có cơ thể suy yếu hay bệnh tật, chết thình lình, lậu hoặc chưa đoạn trừ thì các bạn nên vững trú nơi trạng thái Sơ Thiền này, vì trong trạng thái Sơ Thiền là các bạn đã đoạn trừ năm hạ phần kiết sử, như kinh đã dạy: “Và nếu các lậu hoặc chưa được đoạn trừ, do tham luyến pháp này (Sơ Thiền), do hoan hỷ pháp này (Sơ Thiền), vị ấy đoạn trừ được năm hạ phần kiết sử”. Khi đã đoạn trừ được năm hạ phần kiết sử tức là nhập Sơ Thiền, lúc bấy giờ cơ thể không may bị bệnh chết thì trạng thái Sơ Thiền này được tưởng thức tu tập tiếp để đoạn diệt lậu hoặc. Khi lậu hoặc được đoạn diệt sạch thì trạng thái Sơ Thiền này liền mất và thay thế vào trạng thái Niết-bàn. Khi ở trạng thái Niết-bàn thì không còn tương ưng với chúng sanh nữa, nên không còn tái sanh làm người, như trong kinh đã dạy: “Được hóa sanh, nhập Niết-bàn tại cảnh giới ấy, khỏi phải trở lui đời này”. Ở đoạn kinh này có nhiều người đã hiểu lầm hai chữ “hoá sanh” vì cho rằng có hóa sanh là phải có một thế giới siêu hình. Họ hiểu rằng: Hóa sanh là biến hóa sanh ra cũng giống như người thị hiện thần thông, một thân biến ra nhiều thân. Thật ra, chữ hóa sanh ở đây phải hiểu nghĩa là tưởng uẩn. Khi thân tứ đại này mất là sắc uẩn diệt; sắc uẩn diệt thì bốn uẩn kia cũng đều diệt theo, chỉ còn nghiệp tiếp tục luân hồi tái sanh. Nhờ tu tập nhập được Sơ Thiền nên năm hạ phần kiết sử đoạn diệt nên nghiệp thế gian đã bị muội lược, không còn tương ưng với nghiệp chúng sanh, do đó không thể tái sanh luân hồi. Con người vốn do năm uẩn duyên hợp tạo thành nên không có một linh hồn thường còn bất biến. Vì thế khi sắc uẩn diệt mà nghiệp không tương ưng với nghiệp chúng sanh thì không tái sanh được, tại vì hành giả đã đoạn dứt năm hạ phần kiết sử. Khi đoạn trừ năm hạ phần kiết sử thì từ trường thiện do sự đoạn trừ năm hạ phần kiết sử phóng xuất ra và bảo vệ sắc uẩn làm cho sắc uẩn không bị hư hoại, giống như một người đang ngủ nằm mộng. Khi một người tu hành thân tứ đại chết thì không nên đem thiêu đốt, chỉ nên đem chôn cất nơi khô ráo để giúp cho người ấy tiếp tục tu tập bằng tưởng uẩn. Tu tập bằng tưởng uẩn giống như trong chiêm bao thấy tu tập vậy, nhưng lúc bây giờ sắc uẩn phải không bị hư hoại; nếu sắc uẩn hư hoại do một nhân duyên gì thì người ấy không còn tu tập được và như vậy duyên người ấy đã thọ hết phước báo đoạn diệt năm hạ phần kiết sử. Mọi người đều dễ hiểu lầm chỗ hóa sanh trong bài kinh này. Trong kinh Nikaya có nhiều bài kinh nhắc đến chỗ hóa sanh này, nếu không phải là một người tu chứng thì không thể hiểu được. Cho nên sự hiểu biết của các nhà học giả đã biến Phật giáo thành một tôn giáo có thế giới siêu hình: có linh hồn, thần thức hay Phật tánh giống như tất cả các tôn giáo khác. Hiểu như vậy thì Phật giáo sẽ tự mâu thuẫn lại nó, lúc thì nói 33 cõi Trời là cõi tưởng, lúc thì nói hóa sanh vào cõi Trời Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền, v.v... Khi người ta không hiểu hai chữ “hóa sanh” thì nghĩ tưởng rằng phải có cõi siêu hình mới có hóa sanh. Thật ra hai chữ hóa sanh còn nằm trong bốn loại sanh của loài thực vật và động vật trên hành tinh này. Bốn loại sanh này gồm có: - Thấp sanh như loài rong rêu, cỏ cây, loài động vật sanh nơi ẩm thấp. Hoá sanh không phải là những Thần, Tiên biến hoá như trong truyện Tàu, như các phù thủy trong truyện cổ tích Tây phương. Hoá sanh là một sự hợp duyên của qui luật nhân quả tạo thành vạn vật trong vũ trụ; hóa sanh là một sự hợp các gen tạo thành người, vật như các nhà khoa học. Các nhà tu theo Phật giáo có đủ bảy năng lực Giác Chi dùng thực hiện sự hóa sanh nghĩa là phối hợp các gen tạo thành người, vật và vật dụng theo ý muốn của mình, giống như chúng ta hợp các duyên tạo thành nhà cửa, đồ vật dụng như: bàn, ghế, tủ, giường, chõng, v.v... Cho nên đừng hiểu hóa sanh là khi chết linh hồn biến hoá vào cảnh giới siêu hình. Chữ hóa sanh ở đây có nghĩa là tâm bám chặt ở trạng thái Sơ Thiền hoặc luôn luôn giữ tâm sống trong trạng thái ấy thì các lậu hoặc lần lượt cũng sẽ được đoạn trừ, như kinh dạy: “Vị ấy vững trú ở đây đoạn trừ được các lậu hoặc”. Và nếu chưa đoạn trừ được các lậu hoặc mà lỡ mất thân (chết) thì tiếp tục tu tập bằng tưởng thức như trên đã nói. Tu tập bằng tưởng thức được là nhờ nhập được Sơ Thiền; nhờ Sơ Thiền mà diệt được năm hạ phần kiết sử; nhờ diệt được năm hạ phần kiết sử nên phát sinh từ trường bảo vệ thân tứ đại không bị hư hoại, nhờ đó mà tưởng thức thay thế ý thức tu tập cho đến khi lậu hoặc diệt sạch, như kinh dạy: “Và nếu các lậu hoặc chưa được đoạn trừ, do tham luyến pháp này, do hoan hỷ pháp này, vị ấy đoạn trừ được năm hạ phần kiết sử, được hóa sanh, nhập Niết-bàn tại cảnh giới ấy, khỏi phải trở lui đời này”. Như vậy chỉ cần được nhập Sơ Thiền thì chúng ta cũng vào được Niết-bàn, tức là cũng đã đi đến nơi đến chốn. Bài kinh này dạy tám pháp độc nhất, chỉ cần tu một pháp là đã đi đến cứu cánh giải thoát hoàn toàn, không cần phải tu cả tám pháp. Nhưng ở đây chúng tôi xin các bạn lưu ý, các bạn nên nhớ tùy theo khả năng của mình có đủ sức kham nhẫn một pháp này hay không? Nếu không đủ sức thì các bạn tu tập cũng chỉ hoài công mà thôi. . . |
Trưởng Lão Thích Thông Lạc đã xác quyết rằng: "Tu tập chứng đạo không khó". Lời Ngài dạy cặn kẽ rõ ràng. Đường Ngài chỉ rộng rãi thênh thang. Vậy mà sao bao người con hướng theo Ngài vẫn mãi lạc đường mất lối!
Tự hỏi vì sao? Chúng ta cùng nhau suy ngẫm. Các phật tử bên Thầy học đạo NHỮNG LỜI TÂM HUYẾT Lời tâm huyết là những lời chỉ thẳng vào chân lý của Phật giáo để giúp cho mọi người dễ hiểu, dễ tiếp thu những tinh ba cốt lõi của Phật giáo. Lời tâm huyết là những lời chỉ thẳng cách thức tu tập làm chủ tâm và thân như thế nào? Cho nên, những lời tâm huyết này các con phải lưu ý, suy nghĩ kỹ lưỡng trong các pháp hành rồi mới tu tập từng hành động thân khẩu ý. Có tu tập như vậy kết quả làm chủ thân tâm một cách dễ dàng. Vì vậy, khi nghe hướng dẫn cách tu tập thì các con phải chú ý lắng nghe để hiểu rõ cách thức thực hành từng hành động, mỗi hành động là mỗi hành động làm chủ tâm, khi làm chủ tâm từ một giờ đến 10 giờ thì kết quả làm chủ tâm đó mới đem áp dụng vào phương pháp làm chủ thân. Khi tu tập đúng cách như vậy thì sự tu tập không còn khó khăn, không còn mệt nhọc. Mỗi hành động tu tập là mỗi hành động đều làm chủ được thân, tâm. Làm chủ được thân, tâm là làm chủ sự được sự sống chết. Làm chủ sự sống chết là người tu đã chứng đạo. Cho nên, sự tu chứng đạo của Phật giáo đâu có khó khăn, đâu có mệt nhọc như trên đã nói, chỉ ngay từ phút đầu tiên phải biết cách tu tập làm chủ tâm cho được từng chút một, có nghĩa là các con phải biết dẫn tâm vào chỗ bất động, như chú mục đồng dắt trâu. Mục đồng đi đâu thì trâu đi đó, người trâu như một. Nếu quý vị thấy phương pháp làm mục đồng khó quá thì các con hãy học cách nương ngón tay để thấy mặt trăng. Nương ngón tay để thấy mặt trăng tức là nương hơi thở để thấy tâm bất động của mình. Hai cách này tu tập các con sẽ không bị ức chế tâm. Khi tu tập không bị ức chế tâm thì các con mới làm chủ được tâm. Do làm chủ được tâm nên tâm bất động, vì thế không còn một vọng niệm khởi nào xen vào. Còn vọng niệm là chưa làm chủ được tâm, nhưng hết vọng phải lưu ý có hai phần: Một, là do ức chế tâm nên không niệm khởi (vọng tưởng). Ức chế tâm do dùng một pháp môn niệm (niệm Phật, niệm chú…), một hành động (cơ bụng), một hơi thở (thở ra thở vô) v.v… Ức chế tâm hết vọng tưởng là tu sai pháp, lọt vào pháp môn Thiền Tưởng Đông Độ và Đại Thừa. Khi tu tập bị rơi vào các pháp môn này, người có quyết tâm tu tập cao thì một trăm người đều bị điên cả trăm người, thường gọi là Tẩu Hỏa Nhập Ma. Hai, là do làm chủ tâm nên không niệm khởi (vọng tưởng). Làm chủ tâm bằng pháp dẫn tâm Như Lý Tác Ý. Làm chủ tâm hết vọng tưởng là tu tập đúng pháp Thiền Xả Tâm của Phật giáo nguyên thủy. Vì thế khi tu tập cần phải lưu ý tránh những sự tu tập sai. Các con nên nhớ: Mục đích tu tập của đạo Phật là làm chủ thân tâm. Đạt mục đích này là chứng đạo. Chứng đạo là làm chủ thân tâm nên không còn tu tập một pháp môn nào nữa cả. Cuối cùng Thầy chúc cho các con tu tập đạt được mục đích này. Kính ghi
Theo bước chân Thầy TÂM HUYẾT THƯ GỬI CÁC CON (18/4/2009) Kính gửi: Các con! Các con hãy đọc kỹ lại bài này mà Thầy đã cho ghi vào bia đá trong Tu Viện Chơn Như với tựa đề: “Món Ăn Giải Thoát”. Món ăn giải thoát là một bài pháp thực hành rất cụ thể và căn bản nhất trong những lời đức Phật dạy từ xưa đến nay. Chúng ta hãy lắng nghe lời dạy thứ nhất của đức Phật: “Này các tỳ-kheo! Cái gì là thức ăn cho Minh Giải Thoát (Tam Minh)? Bảy Giác Chi, cần phải trả lời như vậy”. Đọc qua lời dạy này chúng ta thấy rõ con đường giải thoát của Phật giáo bắt đầu đức Phật chỉ thẳng cho chúng ta biết thành quả giải thoát cao nhất của Phật giáo là Tam Minh. Vậy muốn có Tam Minh thì phải tu tập như thế nào để có Bảy Năng Lực Giác Chi. Trong đoạn kinh này đức Phật xem Bảy Năng Lực Giác Chi là món ăn của Tam Minh. Cho nên muốn có Tam Minh thì phải tu tập có Bảy Năng Lực Giác Chi. Đó là những kết quả pháp hành tối thượng của đạo Phật để làm chủ sinh, già, bệnh, chết. Muốn đạt được Tam Minh và Bảy Năng Lực Giác Chi thì phải tu tập pháp môn nào? Chúng ta hãy lắng nghe lời dạy thứ hai của đức Phật: “Này các tỳ-kheo! Cái gì là thức ăn cho Bảy Năng Lực Giác Chi? Bốn Niệm Xứ, cần phải trả lời như vậy”. Như vậy muốn có Bảy Năng Lực Giác Chi thì phải tu tập pháp môn Tứ Niệm Xứ, chứ không phải tu tập Bảy Giác Chi. Tất cả các nhà học giả xưa và nay đều hiểu lầm chỗ này, họ hiểu Bảy Giác Chi là bảy pháp tu tập, không ngờ tu tập pháp môn Tứ Niệm Xứ thì Bảy Năng Lực lần lượt xuất hiện từng Giác Chi. Giác Chi này xuất hiện xong thì Giác Chi kia xuất hiện, cứ trên trạng thái Tứ Niệm Xứ tu tập kéo dài bảy ngày đêm thì BẢy Giác Chi xuất hiện đầy đủ. Khi Bảy Giác Chi xuất hiện đầy đủ thì liền có Tứ Thần Túc. Tứ Thần Túc gồm có: 1. Tinh Tấn Như Ý Túc Trong Tuệ Như Ý Túc có đầy đủ Tam Minh. Tam Minh gồm có: 1. Túc Mạng Minh Như vậy muốn có Bảy Giác Chi, Tứ Thần Túc, Tam Minh thì chỉ cần tu tập pháp môn Tứ Niệm Xứ. Vậy trước khi tu tập pháp môn Tứ Niệm Xứ chúng ta phải tu tập pháp môn gì? Chúng ta hãy lắng nghe lời dạy thứ ba của đức Phật: “Này các tỳ-kheo! Cái gì là thức ăn cho Bốn Niệm Xứ? Ba Thiện Hạnh, cần phải trả lời như vậy”. Vậy Ba Thiện Hạnh là gì? Ba Thiện Hạnh là pháp môn Tứ Chánh Cần. Muốn đạt được trạng thái Tứ Niệm Xứ thì phải tu tập pháp môn Tứ Chánh Cần tức là hằng ngày tu tập không lúc nào ngơi nghỉ. Đi, đứng, nằm, ngồi đều tu tập được cả luôn luôn dùng ý thức tri kiến ngăn và diệt các ác pháp bên ngoài lẫn bên trong của từng tâm niệm. Tất cả ác pháp này đều phải diệt sạch chỉ còn giữ gìn và bảo vệ một pháp duy nhất, đó là Tâm Bất Động, Thanh Thản, An Lạc Và Vô Sự. Trong sự tu tập ngăn ác diệt ác pháp thì Sáu Căn Phải Được Chế Ngự. Chúng ta hãy lắng nghe lời dạy thứ tư của đức Phật: “Này các tỳ-kheo! Cái gì là thức ăn cho Ba Thiện Hành? Các Căn Được Chế Ngự, cần phải trả lời như vậy”. Muốn chế ngự các căn thì phải sáng suốt nhận xét sáu trần xem coi tâm dính mắc vào trần nào, nếu tâm dính mắc vào trần nào thì phải ngăn và diệt trần đó không cho dính mắc, đó là cách thức chế ngự các căn. Như vậy chế ngự các căn là phải Chánh Niệm Tỉnh Giác. Chúng ta hãy lắng nghe lời dạy thứ năm của đức Phật: “Này các tỳ-kheo! Cái gì là thức ăn cho Các Căn Được Chế Ngự? Chánh Niệm Tỉnh Giác, cần phải trả lời như vậy”. Khi tâm lúc nào cũng ở trong Chánh Niệm Tỉnh Giác thì tâm rất sáng suốt. Tâm sáng suốt thì không một trần cảnh hay một ác pháp nào muốn xâm chiếm vào tâm đều bị ý thức ngăn và diệt sạch ra khỏi tâm khiến tâm luôn luôn Bất Động, Thanh Thản, An Lạc Và Vô Sự. Muốn ngăn và diệt được ác pháp như vậy thì ý thức luôn luôn phải Chánh Niệm Tỉnh Thức, nhờ có Chánh Niệm Tỉnh Thức mới biết dùng pháp Như Lý Tác Ý. Chúng ta hãy lắng nghe lời dạy thứ sáu của đức Phật: “Này các tỳ-kheo! Cái gì là thức ăn cho Chánh Niệm Tỉnh Giác? Như Lý Tác Ý, cần phải trả lời như vậy”. Đúng như vậy, những pháp hành này là những pháp bảo vệ và giữ gìn Tâm Bất Động, Thanh Thản, An Lạc, Vô Sự dễ dàng nhất mà không có một pháp nào hơn được. Đây là pháp môn rốt ráo nhất của Phật giáo để cứu người ra biển khổ. Cho nên các con hãy nhớ mà tu tập, xem pháp môn này như món ăn hằng ngày để nuôi sinh mạng của các con. Bởi vậy bài pháp Thức Ăn của Phật dạy là một bài pháp tuyệt vời. Cuộc đời đi tu mà gặp pháp môn này như người đói mà gặp cơm và thực phẩm thì làm sao còn đói được nữa; như người nghèo gặp vàng bạc của báu thì làm sao còn nghèo nữa. Trải qua sáu pháp tu học giúp chúng ta thấy Phật pháp rất thực tế và cụ thể trong các pháp hành. Tu đâu liền có kết quả ngay liền, bởi vì Phật pháp là pháp môn tu tập làm chủ thân tâm nên tu tập là có thấy kết quả làm chủ ngay liền. Muốn siêng năng tinh tấn tu tập mà không biếng trễ thì chúng ta hãy lắng nghe lời dạy thứ bảy của đức Phật: “Này các tỳ-kheo! Cái gì là thức ăn cho Như Lý Tác Ý? Lòng Tin, cần phải trả lời như vậy”. Lời dạy thứ bảy của đức Phật là Lòng Tin. Lòng tin do từ đâu mà có? Chúng ta đã nghe sáu pháp môn thực hành trên đây của Phật giáo, mỗi pháp môn đều chỉ thẳng sự tu tập làm chủ thân tâm một cách cụ thể rõ ràng, khiến cho người nào tu tập cũng đều có sự làm chủ thân tâm, mang đến sự giải thoát rõ ràng, nếu chúng ta không tu tập thì thôi mà đã tu tập thì ngay đó là có sự làm chủ giải thoát. Chỉ cần nghe chứ chưa tu tập mà chúng ta đã có lòng tin sâu sắc, lòng tin không thể còn ai lay chuyển được. Nhờ có những pháp tu hành làm chủ thân tâm thực tế như vậy nên làm sao người ta không tin. Những pháp ấy đức Phật gọi là Vi Diệu Pháp. Chúng ta hãy lắng nghe lời dạy thứ tám của đức Phật: “Này các tỳ-kheo! Cái gì là thức ăn cho Lòng Tin? Nghe Diệu Pháp (chân pháp của Phật), cần phải trả lời như vậy”. Vi Diệu Pháp không phải là pháp môn cao siêu vĩ đại có thần thông, phép lực cao cường, hô phong, hoán vũ, tàng hình, biến hóa v.v… Vi Diệu Pháp của Phật rất bình thường như ăn cơm uống nước dễ dàng như vậy, chứ không phải như đọc thần chu, luyện bùa như Mật Tông; chứ không như niệm Phật nhất tâm cầu vãng sinh Cực Lạc Tây Phương như Tịnh Độ Tông rất khó khăn; chứ không như ngồi thiền nhập định như Thiền Tông chân đau như buốt, gối mỏi, lưng thụng, đầu lúc lắc như lên đồng nhập cốt v.v… Vi Diệu Pháp của Phật chỉ là những đức hạnh sống hằng ngày không làm khổ mình khổ người và khổ tất cả các loài chúng sinh. Bởi vậy Vi Diệu Pháp của Phật chỉ là pháp Ngăn Ác Diệt Ác Pháp hằng ngày trong tâm niệm của mình. Hầu hết mọi người tu hành chưa chứng đạo khi nghe nói đến Vi Diệu Pháp thì liền nghĩ tưởng đó là pháp cao siêu vượt ngoài sự hiểu biết của con người. Người ta cho rằng Vi Diệu Pháp còn có một cái tên là Pháp Môn Bất Tư Nghì có nghĩa là pháp môn không thể nghĩ bàn. Thật là con người quá giàu lòng tưởng tượng. Ngày xưa đức Phật bảo: “Phật pháp không ngoài thế gian pháp”. Như vậy chúng ta không nên nghe những người tu chưa chứng mà hãy tìm những người đã tu chứng làm chủ sinh, già, bệnh, chết thì họ sẽ chỉ dạy những pháp mà họ đã tu chứng đạo như lời dạy thứ chin của đức Phật: Chúng ta hãy lắng nghe lời dạy thứ chín của đức Phật: “Này các tỳ-kheo! Cái gì là thức ăn cho Nghe Diệu Pháp? Thân Cận Với Bậc Chân Nhân (Bậc tu chứng đạo), cần phải trả lời như vậy”. Đúng vậy chỉ có những người tu chứng mới đủ khả năng dạy chúng ta tu chứng. Còn ngoài ra thì chúng ta đừng tin ai cả. Khi tu chưa chứng họ chẳng có kinh nghiệm tu hành nên dạy chúng ta tu hành không kết quả làm chủ thân tâm. CHỈ THẲNG PHÁP MÔN TU TẬP Những lời dạy trên đây của đức Phật, chúng ta nhận thấy có 9 Pháp tu tập gồm có: 1- Thân Cận Thiện Hữu Tri Thức: Người mới bắt đầu vào đạo phải tu pháp môn nào trước? Như đức Phật dạy: Mới bắt đầu tu tập là phải thân cận thiện hữu tri thức. Thân cận thiện hữu tri thức là thân cận bậc tu đã chứng đạo, có nghĩa là phải sống ở gần bên người chứng đạo để được thưa hỏi những điều mình chưa hiểu biết. Như vậy pháp thứ nhất. là pháp “Thân Cận Thiện Hữu Tri Thức”. Khi sống được thân cận với bậc tu chứng đạo thì phải thưa hỏi chân lý giải thoát. Vậy chân lý giải thoát là cái gì? 2- Nghe Vi Diệu Pháp: Như lời đức Phật đã dạy: Nghe Vi Diệu Pháp. Vậy Nghe Vi Diệu Pháp là nghe pháp gì? Nghe Vi Diệu Pháp của đức Phật là nghe dạy Bốn Chân Lý: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Khổ, tập, diệt, đạo nghĩa là gì? - Khổ là nói về đời sống con người không ai là không khổ. Cho nên khi hiểu được đời là Khổ thì ai cũng muốn đi tu cả. - Tập là nguyên nhân sinh ra mọi thứ đau khổ tức là Lòng Tham Muốn. Khi hiểu được lòng tham muốn là nguyên nhân sinh ra đau khổ thì ai cũng muốn tu tập để diệt trừ lòng ham muốn. - Diệt là một trạng thái Tâm Bất Động, Thanh Thản, An Lạc Và Vô Sự. Khi hiểu biết và nhận ra tâm bất động, thanh thản, an lạc và vô sự là chân lý giải thoát của Phật giáo thì ai cũng muốn gìn giữ và bảo vệ nó để sống cho được với trạng thái này. - Đạo là tám lớp học để thực hiện những phương pháp tu tập giữ gìn và bảo vệ Tâm Bất Động, Thanh Thản, An Lạc Và Vô Sự. Khi nhận ra tám lớp học và những pháp tu tập để bảo vệ và giữ gìn tâm bất động thanh thản, an lạc và vô sự thì ai cũng muốn tu tập để được giải thoát. 3- Lòng Tin: Khi nghe và nhận hiểu bốn chân lý này là sự thật của kiếp người thì còn ai mà không tin đạo Phật. Khi chúng ta có Lòng Tin thì pháp đầu tiên chúng ta tu tập là pháp Như Lý Tác Ý. 4- Như Lý Tác Ý: Pháp Như Lý Tác Ý như thế nào? Pháp Như Lý có nghĩa là như lý của sự giải thoát. Vậy Như Lý Của Sự Giải Thoát như thế nào? Như lý của sự giải thoát là Tâm Bất Động, Thanh Thản, An Lạc, Vô Sự. Đó là chân lý thứ ba của pháp môn “Tứ Diệu Đế” Khi chúng ta thường xuyên tu tập pháp Như Lý Tác Ý thì tâm chúng ta ở trong trạng thái Chánh Niệm Tĩnh Giác 5- Chánh Niệm Tĩnh Giác: Pháp Chánh Niệm Tĩnh Giác nghĩa là gì? - Chánh Niệm nghĩa là niệm đúng theo như lời đức Phật dạy, còn niệm không đúng lời Phật dạy là Tà Niệm. Vậy niệm đúng lời Phật dạy là niệm gì? Là Niệm Tâm Bất Động Thanh Thản, An Lạc, Vô Sự (Niệm chân lý thứ ba), đó là Chánh Niệm. Chánh Niệm tức là Tứ Niệm Xứ. Tứ Niệm Xứ là chỉ cho một trạng thái Tâm Bất Động, Thanh Thản, An Lạc và Vô Sự. - Tĩnh Giác nghĩa là gì? Tĩnh Giác có nghĩa là Im Lặng Và Sáng Suốt. Nghĩa chung của bốn từ Chánh Niệm Tĩnh Giác là “Luôn Luôn Im Lặng Sáng Suốt trên Tâm Bất Động, Thanh Thản, An Lạc, Vô Sự”. Khi tâm luôn luôn im lặng sáng suốt trên tâm bất động thanh thản, an lạc, vô sự thì các căn không tiếp xúc các trần. Các căn không tiếp xúc các trần nên gọi là chế ngự các căn. 6- Chế Ngự Các Căn: Pháp Chế Ngự Các Căn nghĩa là gì? Đó là Pháp Độc Cư, Độc Bộ, Độc Hành. Nhờ pháp độc cư, độc bộ, độc hành mới chế ngự các căn và làm cho các căn không còn phóng dật chạy theo các trần. Do đó Thân Hành, Khẩu Hành Và Ý Hành đều được thanh tịnh tức là thân hành, khẩu hành và ý hành không còn làm điều ác nên gọi là Ba Thiện Hạnh. 7- Ba Thiện Hạnh: Pháp Ba Thiện Hạnh nghĩa là gì? Pháp Ba Thiện Hạnh là pháp Tứ Chánh Cần, người sống với Ba Thiện Hạnh là người đang ngăn ác diệt ác pháp sinh thiện tăng trưởng thiện pháp. Ba Thiện Hạnh tức là ba hành động Thân, Khẩu, Ý thanh tịnh. Ba hành động Thân, Khẩu, Ý thanh tịnh là toàn thân thanh tịnh. Toàn Thân Thanh Tịnh tức là bốn chỗ thanh tịnh. Bốn chỗ là Thân, Thọ, Tâm, Pháp thanh tịnh. Thân, thọ, tâm, pháp là Tứ Niệm Xứ. Tứ Niệm Xứ thanh tịnh là thân tâm thanh tịnh. 8- Tứ Niệm Xứ: Luôn luôn Im Lặng Sáng Suốt Trên Tâm Bất Động, Thanh Thản, An Lạc, Vô Sự tức là tâm đang ở trên Tứ Niệm Xứ. Tâm ở trên trạng thái Tứ Niệm Xứ này lần lượt xuất hiện đủ Bảy Năng Lực Giác Chi. 9- Bảy Năng Lực Giác Chi: Khi tâm tinh tấn siêng năng Luôn Luôn Im Lặng Sáng Suốt Trên Tâm Bất Động, Thanh Thản, An Lạc, Vô Sự thì: 1. Tinh Tấn Giác Chi xuất hiện, khi Tinh Tấn Giác Chi xuất hiện thì: Khi Bảy Năng Lực Giác Chi xuất hiện đầy đủ thì thân tâm chúng ta có Tứ Thần Túc. Tứ Thần Túc gồm có: Tu tập đến đây là chúng ta đã Chứng Đạo, không còn tu tập một pháp nào nữa cả. Vì thân tâm chúng ta có đủ nội lực làm chủ sự sống chết, chấm dứt tái sinh, tự tại trong sinh tử, không còn bị nhân quả chi phối, điều hành nữa. TRẢ LỜI 10 CÂU HỎI SAU ĐÂY: Sau khi học xong các pháp trên đây các con nên xét lại sự tu tập của các con và trả lời 10 câu hỏi sau đây: 1. Trong 9 pháp tu tập trên đây các con đang tu tập pháp môn nào? Xem thêm: |
Lời dạy của TL Thích Thông Lạc (ghi từ video “Lời nhắc nhở cuối cùng”). TÌM “NGƯỜI KHÁC” ĐỂ THƯA HỎI ĐẠO, ĐỂ ĐƯỢC DẪN DẮT TỚI NƠI TỚI CHỐN.
(từ phút 25’:50’’) "…Bỏ đi thì không đành, ở lại thì vất vả vô cùng, nhưng rồi Thầy cũng phải ra đi… …vừa hết duyên nợ thì phải ra đi, không thể nào lấn lá gì thêm được… …mà gánh việc đời biết chừng nào cho hết, biết chừng nào cho nó xong… cho nên chỉ có ra đi trao lại cho người khác, may ra NGƯỜI KHÁC có duyên hơn, người ta sẽ dìu dắt các con tới nơi tới chốn. Hiện giờ Thầy cố gắng (Thầy) đào tạo một hai người để khi Thầy ra đi, những người đó thay thế Thầy mà dẫn dắt các con, cũng làm gương cho các con. Bởi vì những người đó trang lứa tuổi như các con chứ không phải là lớn tuổi như Thầy hoặc trẻ bé như trẻ con, mà bằng tuổi các con, khi họ đã làm chủ được sanh già bệnh chết xong thì Thầy ra đi. Thầy giao lại cái gánh nặng thiện pháp cho người thừa kế, sau đó mà ai có duyên thì dẫn dắt người ta tới nơi tới chốn, còn không duyên thì thôi, đừng ép…" (đến phút 28’:05).
Quý vị nghe lại nguyên lời Thầy theo đường dẫn sau:
Tự kiến giải tu, đó là một điều sai. Tu tập chưa tới đâu, vội đem ra hướng dẫn người khác tu hành, thì cũng giống như người mù dắt một bầy mù đi. Tất cả đều có thể sa hầm lọt hố và chết chùm nhau cả đám trong rừng sâu, trong biển cả, trong sa mạc v.v...
Tất cả những người tu theo đạo Phật hiện nay đều đang đi trên lộ trình này, đang lạc vào mê hồn trận của kiến giải, tưởng giải của các Tổ, của kinh sách các Tổ biên soạn viết ra. Ngôn ngữ danh từ không đủ để diễn tả chính xác, những trạng thái kinh nghiệm tu hành.
Một khi, muốn hành động tu tập thân tâm một điều gì thì cần phải thưa hỏi rất kỹ với một thiện hữu tri thức, một người tu hành đã chứng đạt chân lý. Đừng vội vàng nghe những lý thuyết suông của người tu hành chưa chứng đạt chân lý. Đó là sự kiến giải, tưởng giải của họ. Và các bạn cũng đừng tự nghĩ cho rằng mình đã hiểu, rồi cứ theo sự suy nghĩ hiểu biết đó mà tu tập, thì chẳng bao giờ tu tập có kết quả, chỉ dậm chân tại chỗ hoặc thành bệnh mà thôi.
Sự tu tập như vậy chẳng tu tập đến đâu, mà còn dẫn đến chỗ tu sai lạc, nhất là sai lệch vào chỗ thiền ức chế tâm rất là nguy hiểm, có thể bị điên khùng, tẩu hỏa nhập ma, thường tu hành không tiến bộ, tu mãi chẳng đi đến đâu, còn lại thêm bệnh tật khổ đau, chỉ uổng phí một đời tu, chẳng lợi gì cho mình cho người, còn hoài công vô ích.
Trong phần vấn đạo vừa có lợi cho mình, vừa có lợi cho người, khiến cho mình thông suốt đường lối và phương pháp, cách thức tu tập, không còn nghi ngờ đường lối và giáo pháp tu hành của Phật giáo là sai lạc nữa, khiến cho tâm mình tin chắc tu tập sẽ thành công, đến nơi đến chốn.
Bắt đầu tu tập từng bước một, không vội vàng, không nôn nóng. Mỗi bước tu tập là mỗi bước đi vững vàng, mỗi kết quả cụ thể. Tu tập như vậy, càng ngày càng thấy tiến bộ xả tâm rõ rệt, nhờ thế tu tập có kết quả như vậy, nên khiến mình thông suốt, đâu là Chánh pháp của Phật và đâu là tà pháp của ngoại đạo. Và cũng biết rất rõ tà giáo ngoại đạo đang xen lẫn trong giáo pháp của đạo Phật. Biết rõ như vậy, nên khiến cho mình vững vàng niềm tin ở chính pháp môn của mình đang tu tập. Đó chính là pháp môn của đạo Phật, chứ không còn sợ sai lạc vào tà pháp của ngoại đạo như trước kia nữa.
Từ lâu ai cũng đang sống trong sự vô minh, đen tối, mờ mịt, chẳng thấy rõ pháp môn nào của đạo Phật và pháp nào của ngoại đạo. Nhiều khi chúng ta nhận lầm pháp môn của ngoại đạo là pháp môn của Phật. Đó là điều chắc chắn mà không còn ai dám khẳng định giáo pháp ngoại đạo là giáo pháp chân chánh của Phật giáo.
Nhờ có vấn đạo ta mới thoát khỏi màn mây đen tối của các pháp tà sư ngoại đạo đang phủ mờ giáo pháp của Phật giáo từ bao thế kỷ nay.
Nhờ có vấn đạo ta mới hiểu rõ, thế giới siêu hình và hữu hình đều là thế giới tưởng (thế giới không có thật).
Nhờ có vấn đạo ta mới rõ thế giới hữu hình và siêu hình là thế giới tưởng của con người, nên mạnh tay đập phá cái thế giới siêu hình mê tín đó, đã gây biết bao nhiêu sự rắc rối, tạo biết bao nhiêu hao tốn tiền của và đau khổ của loài người, cũng vì cái thế giới đó, khiến cho con người đánh mất đạo đức nhân bản – nhân quả, sống không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai.
Từ thế giới siêu hình đó, con người đã mất đi sức tự lực, chỉ còn lại một tinh thần yếu đuối cầu tha lực, luôn luôn chỉ biết dựa nương và cầu cạnh vào những hình ảnh trừu tượng, mờ ảo của những vị thần linh, của những vị Bồ Tát tưởng tượng thuộc tưởng tri do sự hoạt động của tưởng uẩn.
Bởi vậy chúng ta cần phải cảnh giác đừng để những mánh khóe lừa đảo của các nhà học giả giàu tưởng tượng.
Nhờ vấn đạo ta mới thấu rõ các pháp thế gian là do duyên hợp, nên ta dễ dàng buông xả thế giới hữu hình vật chất.
Nhờ vấn đạo ta đã biết rõ thế giới chúng ta đang sống cũng chỉ là một thế giới tưởng của con người. Nhưng chúng ta đang bị trí tuệ u tối, vô minh che khuất từ biết bao nhiêu đời kiếp, khiến cho con người lầm chấp cho thế giới chúng ta đang sống là thật có. Do cho thế giới chúng ta đang sống là thật có nên dính mắc các pháp, chạy theo các pháp, tạo biết bao điều ác độc đau khổ cho mình, cho người và cho tất cả chúng sanh, cũng vì thế mà con người chịu trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi từ kiếp này sang kiếp khác mãi mãi không bao giờ dứt.
Nhờ có vấn đạo, ta mới biết cách tu tập xả ly, đoạn diệt thế giới hữu hình và thế giới siêu hình. Chính nhờ ly dục, ly ác pháp của ý thức và của tưởng thức mà thân tâm chúng ta mới được thanh thản, an lạc và vô sự.
Nhờ có vấn đạo ta mới thấu rõ thiền định nào đúng hoặc sai của đạo Phật, không bị giáo pháp Bà La Môn lừa đảo.
Nhờ có vấn đạo ta mới thấu rõ đạo Phật có bốn loại định:
1- Định Chánh Niệm Tỉnh Giác.
2- Định Vô Lậu.
3- Định Niệm Hơi Thở.
4- Định Sáng Suốt.
Khởi đầu tu bốn loại định này bằng pháp môn Tứ Chánh Cần. Dùng bốn loại định này ngăn ác diệt ác pháp, khởi thiện tăng trưởng thiện pháp, tức là diệt ngã xả tâm, ly dục ly ác pháp.
Nhờ có vấn đạo ta không rơi vào thiền ức chế tâm và tu tập đúng thiền xả ly tâm, nên thân tâm chúng ta thường thanh thản, an lạc và vô sự như đất trời bao la giải thoát.
Nhờ có vấn đạo ta mới thông suốt “Tam Vô Lậu Học”. Đó chính là pháp môn của đạo Phật. Nhờ biết chính pháp môn của Phật nên không bị tà sư ngoại đạo nào lừa đảo, lường gạt chúng ta được.
Cho nên vấn đạo là một điều cần thiết cho những người mới tu, cũng như người tu lâu năm. Người mới tu cũng cần phải thưa hỏi kỹ để tu tập đúng cách, đúng pháp, nhờ đó tu hành mới có căn bản. Còn người đã tu lâu năm thì gặp nhiều trạng thái kỳ lạ, nhất là tu thiền tưởng, những trạng thái ấy xuất hiện, có khi đúng, cũng có khi sai. Nếu không thưa hỏi kỹ thì rất có nhiều tai hại và còn nguy hiểm đến tánh mạng là khác nữa. Nên vấn đạo có nhiều điều lợi ích rất lớn cho người mới tu, cũng như người tu lâu năm.
Trong giai đoạn Phật giáo hiện nay, người ta bảo rằng Phật giáo có tám mươi bốn ngàn pháp môn. Nếu không vấn đạo rõ ràng, chúng ta sẽ bị lừa đảo bằng 84 ngàn pháp môn và bằng câu kinh này: “Pháp pháp đều vô ngại và dung thông”. Theo như vậy thì pháp nào cũng của đạo Phật, người có duyên với pháp môn nào đều tu cũng tốt, cũng được giải thoát, cũng được giác ngộ tùy theo căn cơ của mỗi người có thấp, có cao nên pháp môn tu hành nào cũng vậy. Đó là lối lý luận sai không đúng của Phật giáo. Đức Phật dạy: “Ngoài Bát Chánh Đạo thì không có pháp môn nào của đạo Phật cả”.
Cho nên hiện giờ, tất cả mọi người ai cũng tin lời nói này, nhưng không ngờ đã bị lừa đảo, bỏ hết sự nghiệp, gia đình, vợ dại, con thơ, cha già, mẹ yếu và cả cuộc đời mình, cuối cùng tu chẳng thấy gì là giải thoát, là làm chủ sanh tử luân hồi, đoạn diệt tâm tham, sân, si, mạn, nghi của mình .
Bởi vậy, kẻ nào cho rằng tất cả các pháp môn đều tu cũng tốt, cũng được, cũng thiện, cũng được giải thoát, cũng chấm dứt đau khổ và luân hồi, thì đó là kẻ nông nổi, u mê, không biết tai hại về sau như thế nào? Không trí tuệ, thiếu nhận xét, nhắm mắt tin càn, tin bừa, để rồi phải ân hận về sau.
Nếu các pháp tu đều tốt, đều thiện, đều tu tập có kết quả giải thoát như nhau thì đạo Phật ra đời để làm gì? Có phải bằng dư thừa không quý phật tử?
Chúng ta nên tìm hiểu, tại sao đức Phật tu các pháp môn của ngoại đạo, nhập đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ định, nghiệm xét lại thấy thân tâm mình không giải thoát, để rồi tự mình phải tìm ra một giáo pháp, một đường lối, một đạo lộ tu tập đi đến giải thoát cứu kính làm chủ sanh, già, bệnh, chết mà Lục Sư ngoại đạo và các tôn giáo khác thời bấy giờ không có pháp môn này.
Một giáo pháp chỉ có 49 ngày tu tập, nhiệt tâm, quyết chí xả ly, lià tâm ham muốn, từ bỏ ác pháp, Ngài đã thành tựu đạo giải thoát, chứng quả Bồ đề.
Sáu năm trời khổ hạnh, Ngài tu tập mọi loại pháp môn, ức chế tâm, nhất là pháp môn hơi thở Ngài nín thở ức chế tâm tối đa, tưởng chừng như Ngài sắp chết. Nín thở Ngài tìm thấy pháp môn này không giải thoát, nên Ngài chuyển qua pháp môn ức chế thân khổ hạnh tối đa, ngày ăn bảy hạt mè hoặc một ít cháo đậu. Vì tiết thực nên cơ thể kiệt quệ, Ngài đi hết nổi. Nhờ bát sữa dê, phục hồi cơ thể. Ngài tỉnh táo và tư duy, biết các pháp ức chế thân tâm không thể tu tập đi đến giải thoát được, Ngài từ bỏ và viễn ly các pháp đó.
Qua sự tu tập của đức Phật, chúng ta rút tỉa ra được những kinh nghiệm thực tế, cụ thể và kết luận: Các hệ phái khác cùng tất cả các pháp môn của các tôn giáo trên thế gian này đều không thể làm chủ sự sống chết và chấm dứt luân hồi của kiếp người.
Giáo pháp Ngài tìm ra được là một giáo pháp không giống bất cứ một giáo pháp nào của Lục Sư ngoại đạo và các tôn giáo khác trên hành tinh này.
Vì thế, đạo Phật ra đời không nhai lại bã mía của các tôn giáo khác. Pháp môn của Ngài đi từ sự tu tập sức tỉnh giác để giữ tâm trong chánh niệm, tức là xả tâm ly dục ly ác pháp, không có một chút ức chế tâm nào cả.
Lấy tâm nương hành động của thân nội và ngoại tập tỉnh thức chánh niệm để xả dục, xả ác pháp, tránh không đi vào trạng thái tĩnh lặng, ức chế tâm mà đi vào trạng thái đoạn diệt tâm tham, sân, si khiến cho tâm thanh thản, an lạc và vô sự để đi vào trạng thái thanh tịnh bất động tâm, tức là định của đạo Phật.
Từ đó suy ra, ta biết pháp môn của đạo Phật, không giống một pháp môn nào của ngoại đạo. Vì thế, kẻ nào cho rằng 84 ngàn pháp môn là của Phật giáo, kẻ đó quá si mê, u tối bị tà giáo ngoại đạo lừa đảo mà không biết.
Bởi vậy, vấn đạo là một điều quan trọng hết sức trong giai đoạn Phật giáo hiện nay, khi giáo pháp của đạo Phật đã bị pha trộn nhiều thứ pháp ngoại lai.
Vấn đạo khiến chúng ta hiểu rõ, phần đông giáo pháp ngoại đạo là phi đạo đức, dạy người cầu tha lực, thường mang đến tai họa khổ đau cho người hơn là mang đến hạnh phúc. Vì hướng dẫn con người đi vào cảnh giới siêu hình mang đầy tính chất mê tín, dị đoan, thần thánh hoá, lạc hậu v.v…
Cho nên, trong vấn đề tu tập theo đạo Phật, vấn đạo là điều cần thiết để thăm dò các pháp môn, pháp nào đúng, pháp nào sai, pháp nào tu tập có kết quả, cụ thể và thực tế.
Qua cuộc vấn đạo trong bộ sách “Đường Về Xứ Phật”, quý vị đã được đọc, đừng vội vàng tin những lời nói trong đây, mà hãy suy nghĩ kỹ, nếu sách chỉ vạch chỗ phi đạo đức xét thấy là thật sự phi đạo đức, chỗ lý luận sai mà thật sai, chỗ tu tập giải thoát mà có giải thoát thật sự, chỗ mê tín lạc hậu đúng là chỗ mê tín lạc hậu thật sự như vậy thì quý vị hãy tin, còn ngược lại thì quý vị đừng nên tin, vì chúng tôi cũng chỉ là một người như quý vị.
Qua một cuộc vấn đạo, chúng tôi trả lời chỉ muốn làm sáng tỏ lại đạo Phật mà thôi. Bởi vì, chúng tôi không muốn đạo Phật mất đi trên thế gian này, nhất là đạo đức nhân bản - nhân quả của đạo Phật. Một đạo đức sống “không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai”.
Nếu đạo Phật mất đi thì loài người trên hành tinh này chịu thiệt thòi một điều rất lớn, một tai họa không thể lường được, một bằng chứng hiển nhiên trên hành tinh này không lúc nào mà chiến tranh chấm dứt. Con người giết con người không gớm tay và không thương xót, đó chỉ vì đạo Phật có mặt nhưng đạo đức của đạo Phật đã mất từ lâu. Con người thiếu đạo đức làm người, một đạo đức nhân bản - nhân quả sống không làm khổ mình khổ người. Vì thế, trong khi khoa học lại tiến triển phát minh những vật chất phục vụ đời sống con người rất tiện nghi.
Vì vật chất tiện nghi này, tâm dục con người tăng trưởng, biến dần con người trở thành ác thú hung dữ. Từ đó con người tự sát mà không biết, tự làm khổ mà không hay, tự chuốc họa vào thân mà không ngờ, nếu không có một đạo đức quân bình với khoa học thì quả địa cầu này, một ngày nào đó sẽ bị hủy diệt bởi tâm tham đắm của con người.
Người muốn tu theo đạo Phật cho đúng Chánh pháp của đức Phật thì phải chịu khó nghiên cứu cho kỹ các pháp môn, vì kinh sách hiện giờ toàn là của các nhà học giả biên soạn, đụng đâu viết đó theo sở thích của mình, không có kinh nghiệm tu hành, viết mà chẳng thấy trách nhiệm của mình, chỉ biết nêu tên tuổi (cầu danh). Họ đâu hiểu rằng soạn viết ra kinh sách như vậy là để lại một tai hại cho bao nhiêu thế hệ con người sau này, như kinh sách phát triển hiện giờ.
Muốn soạn viết kinh sách có lợi ích cho người đời sau thì phải có thực hành tu tập đến nơi đến chốn, đời sống phải có một đạo hạnh hẳn hoi, phải nhập được các định, làm chủ được sự sống chết, phải có Tam Minh, đoạn dứt các lậu hoặc, chấm dứt luân hồi sinh tử thì soạn viết kinh sách mới có ích lợi thiết thực cho người đời sau, bằng ngược lại là giết người, không những giết một đời người, mà giết nhiều thế hệ con người. Xin quý phật tử lưu ý những loại kinh sách đang được phổ biến hiện hành.
Còn ngược lại, tu hành chưa đến đâu, đời sống đạo hạnh chưa ra gì, đức hạnh không có, giới luật vi phạm, thiền định chỉ có hình thức ngồi thiền, sống với những cấp bằng và những kiến giải suông, dựa vào sở tri, và nhai lại bã mía của người xưa viết soạn kinh sách, thì loại kinh sách đó là kinh sách giết người, giết cả bao thế hệ về tương lai.
Phần vấn đạo là phần rất quan trọng, nên chúng tôi muốn trả lời cho một câu hỏi nào đều phải đứng trên lập trường đạo đức của đạo Phật mà trả lời.
Những câu trả lời của chúng tôi đều góp ý xây dựng lại nền đạo đức của Phật giáo đã bị tà sư ngoại đạo biến đạo đức của Phật giáo thành một thứ đạo đức mê tín (nhân quả ba đời).
Thiền định của đạo Phật đã biến thành thiền định ức chế tâm, để nhập vào các định tưởng, triển khai tưởng tuệ, biến thành một loại thiền miệng (khẩu đầu thiền). Còn loại thiền làm chủ sự sanh, già, bệnh, chết như Tứ Niệm Xứ; làm chủ sống chết và chấm dứt luân hồi như Bốn Thánh Định thì được xem là thiền Tiểu Thừa, là thiền phàm phu, là thiền ngoại đạo. Thật là đau lòng phải không quý phật tử?
Cuối cùng, chúng tôi ngưỡng mong những bậc cao minh, giới đức, đạo hạnh, vì con người trên hành tinh này, vì đạo đức xã hội, vì lợi ích thiết thực chung cho con người và vì đạo Phật, hãy vui lòng chỉ dạy cho chúng tôi, những điều còn sai sót, và cùng chung với chúng tôi xây dựng lại một nền đạo đức cho con người, để không còn ai tự làm khổ mình, làm khổ người thường mang đến cho mọi cá nhân con người một nguồn sống thanh thản, an lạc, vô sự và yên vui; một gia đình hòa hợp, hạnh phúc; một xã hội có trật tự an ninh; một đất nước phồn vinh thịnh vượng; một thế giới hòa bình, an lạc. Và thắp sáng lại ngọn đèn Phật giáo đang bị những trận cuồng phong tà giáo thổi tới tấp sắp bị tàn rụi.
Kính thưa các bậc Tôn túc! Quý Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức Tăng, Ni cùng quý vị nam nữ phật tử bốn phương.
Phật giáo đã hoằng truyền một thời gian quá dài hơn 2500 năm đủ để chúng ta xác định giáo pháp phát triển là một giáo pháp phi đạo đức, phi chân lý; một giáo pháp đầy mê tín, dị đoan, ảo tưởng; một giáo pháp lừa đảo mọi người tu hành chẳng có kết quả giải thoát, chỉ tu danh, tu lợi, tu cấp bằng, tu chùa to, Phật lớn, tu trong dục lạc thế gian.
Vậy, kính xin quý vị Tôn túc, Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức, Tăng, Ni và nam nữ phật tử bốn phương, đại diện Giáo Hội Phật giáo xem xét quán triệt đình chỉ ngay những kinh sách phát triển là giáo pháp không phải Phật thuyết, để triển khai kinh sách Nguyên Thủy xây dựng chương trình giáo dục đào tạo tám lớp (Bát Chánh Đạo) để giảng dạy đạo đức nhân bản – nhân quả sống không làm khổ mình khổ người cho mọi người.
Kính ghi
Trưởng Lão Thích Thông Lạc
Ngày 5-11-1998
Quý vị đọc thêm bài: Kinh “Ba Mươi Bảy Pháp Trợ Đạo”
GNCN. Quá trình học tập chánh Phật pháp, quý đọc giả đã tiếp xúc rất nhiều với: 1. Các cặp 2 từ: TỈNH THỨC, TỈNH GIÁC (2 chữ Tỉnh này có dấu hỏi ‘?’, TĨNH GIÁC (chữ Tĩnh này mang dấu ngã ‘~’), CẢNH GIÁC, CHÁNH NIỆM, TÀ NIỆM v.v… 2. Các cụm 4 từ: TỈNH THỨC CHÁNH NIỆM, CHÁNH NIỆM TỈNH THỨC; TỈNH GIÁC CHÁNH NIỆM, CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC (các chữ Tỉnh đều mang dấu hỏi ‘?’) và TĨNH GIÁC CHÁNH NIỆM, CHÁNH NIỆM TĨNH GIÁC (các chữ Tĩnh mang dấu ngã ‘~’), Như vậy hiểu thế nào cho chuẩn xác? Đó là câu hỏi chúng tôi đặt ra. Trưởng lão Thích Thông Lạc đã giảng rất nhiều ở các bài pháp và thư trả lời phật tử về cặp 2 từ và cụm 4 từ này. Sau này các phật tử cũng thưa hỏi thầy Bảo Nguyên rất nhiều về Tỉnh Giác và Tỉnh Thức. Tỉnh Thức, Tỉnh Giác, Tĩnh Giác, Chánh Niệm, Tà Niệm là những cặp 2 từ (ngày xưa) được đức Phật sử dụng, và (ngày nay) thầy Thông Lạc, thầy Bảo Nguyên cũng sử dụng rất nhiều. Tuy nhiên còn có nhiều băn khoăn với các phật tử học pháp bởi “Hiểu Được Chánh Phật Pháp Là Một Điều Khó” như đức Phật đã dạy. GNCN xin giới thiệu lại 2 bức Tâm Thư của TL Thích Thông Lạc trả lời tu sinh về vấn đề này. Mời quý phật tử và đọc giả cùng đọc:
TRẢ LỜI THIỆN TÂM (Ngày 22-11-2007)
(NHỮNG BỨC TÂM THƯ TẬP I – File PDF) Kính gửi: Thiện Tâm. Thầy sẽ trả lời tất cả những câu hỏi của con: Câu hỏi: Xin Thầy chỉ dạy cho chúng con rõ tỉnh giác và cảnh giác có điểm giống và khác nhau như thế nào? Hay khác nhau hoàn toàn? Đáp: Danh từ TỈNH (dấu hỏi "?") GIÁC và CẢNH GIÁC có nhiều điểm khác nhau như sau: 1- TỈNH GIÁC là một pháp môn tu tập của Phật giáo nguyên thủy để giúp con người chủ động thực hiện đức hiếu sinh và các đức hạnh khác, còn CẢNH GIÁC không phải là một pháp môn tu tập, chỉ là một sự đề phòng. 2- TỈNH GIÁC là tâm bình tỉnh trước các ác pháp và các cảm thọ, luôn luôn sáng suốt quan sát từng các đối tượng (sáu trần) tiếp xúc sáu căn (mắt thấy, tai nghe…) để giúp cho người tu hành không dính mắc, nên nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng một cách dễ dàng để tâm được an lạc, thanh thản và vô sự. Còn CẢNH GIÁC là nỗi lo lắng, luôn luôn nghi ngờ người này người kia. 3- TỈNH GIÁC là tâm AN VUI, còn CẢNH GIÁC là tâm lo sợ NGHI NGỜ. 4- TỈNH GIÁC là tâm sáng suốt chủ động biết rõ từng hành động thân, miệng, ý củamình trước khi làm, nghĩ và nói những cái gì, còn CẢNH GIÁC chỉ là để phòng những đối tượng hại mình, chứ không lưu ý từng hành động thân, miệng, ý. 5- TỈNH GIÁC là thiện pháp không làm khổ mình khổ người, còn CẢNH GIÁC làm khổ mình nên lúc nào cũng dè dặt, lo ngại. 6- TỈNH GIÁC là pháp xuất thế gian, còn CẢNH GIÁC là pháp thế gian. 7- TỈNH GIÁC là thiện pháp, mà thiện pháp là chuyển ác pháp nên người tu tập tỉnh giác ít xảy ra tai nạn, còn người CẢNH GIÁC chỉ là một đức cẩn thận đề phòng bảo vệ cá nhân mình mà thôi, cho nên cảnh giác chỉ là nghi ngờ dò xét chứ không phải tỉnh giác. Cho nên tỉnh giác và cảnh giác hoàn toàn khác xa. Câu hỏi: Ví dụ: Trong các câu chuyện của bài học hôm nay “người dược sĩ bị sát hại bởi hai tên cướp hung hãn” bác Hóa do thiếu cảnh giác nên mới chở hai tên cướp, nhưng lúc ấy bác Hóa có tỉnh giác. Do vậy không thể nói bác Hóa thiếu tỉnh giác được! Đáp: Câu ví dụ trên đây hiểu sai nghĩa của hai từ TỈNH GIÁC và CẢNH GIÁC: “Bác Hóa do thiếu cảnh giác nên mới chở hai tên cướp, nhưng lúc ấy bác Hóa có tỉnh giác. Do vậy không thể nói bác Hóa thiếu tỉnh giác được!” Con nên nhớ trong CẢNH GIÁC có TỈNH THỨC chứ không có TỈNH GIÁC đó là con hiểu sai. Nếu có TỈNH GIÁC thì bác Hóa không bị chết. Vì bài học này là bài thông tin trên báo nên dùng CẢNH GIÁC. Nhưng trong cảnh giác không có tỉnh giác như trên đã nói, nó chỉ có TỈNH THỨC, nếu có TỈNH GIÁC thì không cần CẢNH GIÁC, vì vậy trong Tỉnh Giác Chánh Niệm thì không ai lừa gạt nó được, nó thường quan sát kỹ các đối tượng. Quan sát kỹ các đối tượng không phải là cảnh giác mà là bản chất của Tỉnh giác.
TÂM THƯ 7 GỬI KIM QUANG (Ngày 5-1-2008)
(NHỮNG BỨC TÂM THƯ TẬP I – File PDF) Kính gửi: Kim Quang, để trả lời những câu hỏi của con: 1- CHÁNH NIỆM TĨNH (dấu ngã ‘~’) GIÁC là lối hành văn của người Trung Hoa còn lối hành văn của người Việt Nam thì dùng đảo ngược lại TĨNH GIÁC CHÁNH NIỆM. 2- Theo pháp hành văn của người Việt Nam thì TĨNH GIÁC trước rồi sau mới CHÁNH NIỆM. Cho nên khi đọc CHÁNH NIỆM TĨNH GIÁC là biết người ta dùng theo Hán văn, còn khi đọc TĨNH GIÁC CHÁNH NIỆM thì người ta biết dùng theo Việt văn. Cụm từ này chỉ có một nghĩa chứ không có hai nghĩa. 3- Trong TĨNH GIÁC đã có nghĩa CẨN THẬN, cho nên dùng TĨNH GIÁC thì không dùng CẨN THẬN. 4- Dùng từ CẨN THẬN thì không đi đôi với CHÁNH NIỆM được, vì CẨN THẬN có TÀ có CHÁNH, nếu muốn dùng với từ CHÁNH NIỆM thì phải thêm từ “TRONG”. CẨN THẬN TRONG CHÁNH NIỆM 5- Từ CẨN THẬN nó mang theo hai tính chất chánh và tà như trên đã nói: CẨN THẬN TRONG CHÁNH NIỆM hoặc CẨN THẬN TRONG TÀ NIỆM. 6- TĨNH GIÁC có sự thanh tịnh và bình tĩnh nên thường dùng TĨNH GIÁC CHÁNH NIỆM chứ không dùng TĨNH GIÁC TÀ NIỆM. 7- TĨNH GIÁC là một giới đức trong pháp môn QUÁN VÔ LẬU của Phật giáo nên nó có phương pháp tu tập, vì thế nó có sức gạn lọc tâm tư thanh tịnh không còn các ác pháp và trong khi tu tập nó còn có một sức bình tĩnh kỳ lạ khi đứng trước các ác pháp nó rất định tĩnh nếu tu tập đúng đặc tướng. 8- Đức CẨN THẬN không có phương pháp tu tập, chỉ hằng ngày tập sống CẨN THẬN mà thành thói quen, nên nó không có phương pháp gạn lọc tâm tư trong sạch toàn thiện. Vì vậy, trong các pháp ác nó vẫn có sự cẩn thận, cẩn thận để tăng trưởng ác pháp 9- Trong bài “TÂM HỒN CAO THƯỢNG”: Đáp án thứ 2: Vì cô bé THIẾU ĐỨC CẨN THẬN Ý HÀNH, nhớ lại quên đem sách âm nhạc nên lo lắng, nhưng ở đây tác giả dùng chữ “hoảng hốt” không đúng, vì hoảng hốt là phải có đối tượng gây ra ấn tượng sợ hãi giao động tâm quá mạnh còn mới quên hay nhớ, đó là một trạng thái bình thường làm sao có sự hoảng hốt như vậy. Cho nên đáp án 2 cô bé THIẾU ĐỨC CẨN THẬN Ý HÀNH là đúng. Đáp án 3: Cô bé THIẾU ĐỨC TĨNH GIÁC CHÁNH NIỆM Ý HÀNH là đúng, vì lúc bấy giờ cô bé không còn bình tĩnh quá sợ hãi 10- TĨNH GIÁC và TỈNH THỨC khác nghĩa, khác hình dạng chỉ có đồng âm. Chữ TĨNH GIÁC dấu ngã (~), chữ TỈNH THỨC dấu hỏi (?). Chữ “GIÁC” có nghĩa là “GIÁC NGỘ” mà GIÁC NGỘ có nghĩa là phân biệt biết rõ các pháp nào ác và các pháp nào thiện. Nên chữ “GIÁC” có nghĩa là “QUÁN XÉT” hay “SUY XÉT” Chữ “THỨC” có nghĩa là tỉnh táo biết rất rõ nhưng không phân biệt pháp nào thiện hay pháp nào ác. Thiện ác hai pháp như nhau, nên chữ “THỨC” có nghĩa là “TẬP TRUNG” 11- Pháp TĨNH GIÁC CHÁNH NIỆM trong kinh Phật dạy dùng sức “BÌNH TĨNH” quan sát phân biệt các pháp nào thiện để tăng trưởng và ngăn chặn, diệt trừ các pháp nào ác để “XẢ TÂM”, đó là để giúp tâm bất động trước các pháp ác; là để giúp tâm thanh thản, an lạc và vô sự; đó là để bảo vệ CHÂN LÝ nơi bất sinh bất diệt của loài người. 12- Pháp TỈNH THỨC CHÁNH NIỆM trong kinh Phật dạy dùng sức “TỈNH TÁO” tập trung tâm vào một đối tượng duy nhất để thực hiện “NHIẾP TÂM” và “AN TRÚ TÂM” luyện nội lực “TỨ THẦN TÚC” 13- Vì thế chúng ta phải hiểu: TĨNH GIÁC CHÁNH NIỆM là pháp môn dùng để XẢ TÂM. Còn TỈNH THỨC CHÁNH NIỆM dùng để NHIẾP TÂM LUYỆN TẬP NỘI LỰC. 14- Trong TĨNH GIÁC không có TỈNH THỨC, vì có TỈNH THỨC thì TĨNH GIÁC mất cũng như trong TỈNH THỨC không có TĨNH GIÁC, vì có TĨNH GIÁC thì TỈNH THỨC mất. Cho nên hai pháp này không phải là một pháp mà hai pháp môn. Hai pháp môn này là hai giai đoạn tu tập của Phật giáo “GIỚI, ĐỊNH”. Vì thế, các con đừng hiểu lầm lạc. Hiểu lầm lạc là không biết đường tu tập. 15- Các con nên nhớ kỹ: Pháp môn TĨNH GIÁC CHÁNH NIỆM dùng để tu tập TỨ CHÁNH CẦN xả tâm phần thô; còn Pháp môn TỈNH THỨC CHÁNH NIỆM dùng để tu tập TỨ NIỆM XỨ luyện nội lực thiền định để xả tâm phần vi tế. 16- Người tu tập mà hôn trầm, thùy miên còn nhiều, nếu muốn phá hôn trầm thuỳ miên thì không nên ngồi nhiều mà nên đi kinh hành theo pháp môn TĨNH GIÁC CHÁNH NIỆM xả tâm, chứ không được tu tập theo pháp môn TỈNH THỨC CHÁNH NIỆM, vì tu tập TỈNH THỨC CHÁNH NIỆM dễ rơi vào trong trạng thái “KHÔNG” ngoan không. Hôn trầm, thùy miên và vô ký là một trạng mất tỉnh giác, một trạng thái si mê, một trạng thái lười biếng, vì thế phải bằng mọi cách nhiếp phục cho được, hoàn toàn trong giờ tu tập không bao giờ còn có bóng dáng của nó thì mới mong tiến tới tu tập tới các pháp môn khác, nếu hôn trầm thùy miên tu tập chưa xong thì đừng mong tu tập Tứ Niệm Xứ. Muốn tu tập pháp môn Tứ Niệm Xứ thì tâm phải không còn niệm vọng tưỏng và hôn trầm thùy miên nữa. Chúc các con tu tập xả tâm rốt ráo để thành công tốt đẹp. |
|||