Giọt Nắng Chơn Như đang cập nhật bộ "Dựng Lại Chánh Pháp" và sẽ cố gắng hoàn thành trong thời gian sớm nhất để phục vụ quý độc giả
DỰNG LẠI PHÁP NHƯ LAI
Phần I
CHÁNH TÍN – MÊ TÍN
LỜI GIỚI THIỆU PHÁP NHƯ LAI
Sao gọi là “Pháp Như Lai?”
Xin thưa: Hai chữ “Như Lai” là một trong mười hai danh hiệu tôn kính của Đức Phật Thích Ca. Hai chữ “Như Lai” đã được thầy Thích Thông Lạc giải thích rõ ràng trong bộ sách này (xin đọc phần Hiểu Biết Thêm Chung).
Ở đây, xin nói thêm vài lời:
“Pháp Như Lai” là pháp chân thật, không có mơ hồ trừu tượng, không có lừa đảo gạt người để kiếm danh cầu lợi.
“Pháp Như Lai” không tự nâng mình như pháp của ngoại đạo mà chúng ta đã từng nghe: nào là pháp Tối Thượng Thừa, Phật Thừa, Vô Thượng v.v...
“Pháp Như Lai” cũng không tự nhận rằng mình làm lợi ích cho nhiều người như ngoại đạo ngộ nhận mình là “Đại Thừa” đang hành “Bồ Tát Đạo” để cứu nhân độ thế. Pháp Như Lai là pháp dạy: Mỗi người phải cố gắng tự cứu lấy mình, "Tự mình thắp đuốc lên mà đi," đó chính là lời Phật dạy ngày xưa.
“Pháp Như Lai” hồn nhiên khiêm hạ, gần gũi mọi người như cây lúa, nhành cam, để những ai đang sống giữa đời có thể thỏa tình gặt hái, để mỗi người lòng đầy ắp yêu thương.
“Pháp Như Lai” chân thực rõ ràng bởi đạo đức biết thương mình, thương người, không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai. Chứ không như những tà pháp khác dạy người huyễn vọng cao xa như: Bát Nhã, Tánh Không, Chân Không Diệu Hữu… vô hồn
Sao lại phải “Dựng Lại Pháp Như Lai?”
Bởi vì: “Pháp Như Lai” hay “Phật Giáo Nguyên Thủy” của Đức Phật Thích Ca hoằng dương khi Ngài còn sinh thời, sau khi Ngài nhập diệt đã bị biết bao nhiêu thế hệ ngoại đạo vô tình hay hữu ý xuyên tạc, bóp méo và mưu toan tiêu diệt.
Giáo pháp phát triển Bắc Tông “Đại Thừa”: Thiền Tông, Tịnh Độ Tông, Mật Tông, Duy Thức Tông… và Nam Tông “Tiểu Thừa”: Nguyên Thủy, Khất Sĩ… đang tràn lan khắp hành tinh này. Họ đều tự nhận pháp của mình là Chánh Phật pháp, nhưng giáo pháp ấy đã dẫn bao thế hệ phật tử đi theo con đường âm u mê tín mà cứ tưởng là đường sáng thật sự.
Nói vậy, lấy gì làm căn cứ? Bởi theo giáo pháp ấy, suốt mấy ngàn năm không có người tu chứng đạo.
Sao biết không có người tu chứng đạo? Như quý vị đã rõ, giáo pháp Đại Thừa, Thiền Đông Độ và Nam Tông thì dạy tụng niệm, cầu an, cầu siêu, niệm chú, cầu Bồ Tát gia hộ để đạt ảo mộng vãng sanh Tây phương Cực Lạc, Thiên Đàng, Niết Bàn, Phật tánh v.v… Những bậc tu chứng đạo thì không bao giờ viết kinh sách mơ hồ trừu tượng để truyền dạy cho thế hệ tương lai như thế.
Ngày nay, thầy Thích Thông Lạc là người tu đã chứng đạo, Ngài mới hoằng dương “Dựng Lại Pháp Như Lai” cho chúng ta và các thế hệ mai sau.
Thưa quý vị độc giả!
Tiêu đề “DỰNG LẠI PHÁP NHƯ LAI” là thể hiện nguyện vọng tha thiết của những người Phật tử, sau mấy ngàn năm Pháp Phật mất dấu, đến nay ai cũng mong muốn nguồn suối cam lồ lại được trở về chân thật như thuở ban sơ.
Thưa quý vị! Với lòng từ bi xót thương chúng sanh vô hạn, Đức Trưởng Lão đã dồn hết tâm huyết vào việc dạy dỗ và biên soạn kinh sách ban tặng cho nhân loại trên hành tinh của chúng ta. Chỉ trong thời gian không dài, Thầy đã cho ra đời một khối lượng lớn kinh sách vô cùng quý giá mà từ trước đến nay không thể tìm được ở nơi nào.
Tuy nhiên, (theo thiển ý của chúng tôi) không phải tất cả những kinh sách đó người nào cũng có thể đọc và thông hiểu rồi chấp nhận ngay được. Người đã được học hỏi, hiểu biết ít nhiều thì say sưa với nghĩa lý cao minh, pháp hành minh bạch. Người sơ cơ bắt gặp nhiều mới lạ nhưng chẳng hiểu được bao nhiêu nên đành gấp lại để cho bụi bám phủ dày.
Từ thực trạng đó, chúng tôi nảy sinh ý nghĩ mong muốn làm sao kinh sách của Thầy sẽ đến được với tất cả mọi tầng lớp độc giả. Vì thế, chúng tôi đã tiến hành chọn lựa trong kinh sách của Thầy, phân loại theo từng chủ đề riêng để những ai có thể đọc hiểu được phần nào thì tùy ý chọn lựa, dần dần thấu hiểu sẽ chọn đọc những tập chuyên sâu về đạo pháp mà không phải ngỡ ngàng.
Khởi nguồn của bộ sách được sưu tập từ những tập: Đường Về Xứ Phật, Những Lời Gốc Phật Dạy, Những Chặng Đường Tu Học Của Người Cư Sĩ, v.v… Bộ sách DỰNG LẠI PHÁP NHƯ LAI bao gồm các phần sau:
I- Chánh Tín – Mê Tín
II- Nẻo Về Đạo Đức
III- Chánh Đạo – Tà Đạo
IV- Học Giới – Định – Tuệ
Và: Hiểu Biết Thêm Chung
Độc giả có thể tìm đọc ban đầu những tập Chánh Tín – Mê Tín. Chánh Tín – Mê Tín sẽ đập tan thế giới siêu hình tưởng, nó đã ăn sâu bám rễ vào đời sống của nhân loại từ bao nhiêu thế kỷ nay. Từ đó, các tập tục mê tín lạc hậu, những thói quen lễ lạy, cầu xin thần, thánh, quỷ, ma, Bồ Tát gia ơn cứu hộ sẽ được loại bỏ trong tâm tưởng của mỗi người.
Hiểu được thế giới siêu hình không có, con người sẽ trở nên tự tin và sống có đạo đức hơn. Bởi, thế giới siêu hình là hiện tướng của sự phi đạo đức, phi nhân quả. Thế giới siêu hình là một gánh nặng trĩu đè lên hai vai mỗi kiếp sống con người, trải dài suốt quá trình tồn tại và phát triển của lịch sử nhân loại.
Tiếp theo, chúng ta sẽ tìm hiều đến Nẻo Về Đạo Đức, Chánh Đạo – Tà Đạo và khi đã tường tận Chánh, Tà, chúng ta mới có được niềm tin vững chắc đế tiến bước trên con đường Giới – Định – Tuệ.
Kính thưa quý độc giả! Ban đầu với tham ý của chúng tôi chỉ muốn chọn lựa sắp xếp lại để in tặng những người trong gia quyến và các bạn bè thân thuộc. Nhưng may mắn thay, hữu phước lớn lại được Đức Trưởng Lão chấp thuận và cho phép giới thiệu bộ sách đến đại chúng. Chúng tôi rất vui mừng vượt ra ngoài sự mong đợi của mình.
Ước nguyện bộ sách sớm được đến với quý vị độc giả gần xa. Mỗi người như một ngọn đuốc sáng giữ mãi và truyền thừa Chánh Pháp đến các thế hệ mai sau. Chúng ta cùng đồng tâm hiệp lực, quyết tâm giữ gìn và bảo vệ Chánh Pháp, quyết không để cho ngoại đạo dìm mất Chánh Pháp một lần nữa.
Hạnh phúc thay chúng ta đang được sống làm người.
Hạnh phúc thay chúng ta có Chánh Pháp làm hành trang đi suốt cuộc đời.
Hạnh phúc thay chúng ta có Thầy, Bậc Minh Sư nâng dẫn bước ta đi.
Thành tâm kính chúc quý vị thân tâm an lạc.
Phương Minh kính ghi
34. CON NGƯỜI TỪ ĐÂU SANH?
Hỏi: Kính thưa Thầy! Con người từ nhân quả sanh ra là sao? Nghĩa như thế nào? Sống trong nhân quả? Chết trở về nhân quả? Nghĩa nó như thế nào? Xin Thầy giảng cho chúng con được hiểu.
Đáp: Con người từ nhân quả sanh ra có nghĩa là con người được sanh ra từ những hành động nhân quả thiện ác của môi trường sống. Đức Phật dạy: “Vô Minh” sanh “Hành”, “Hành” sanh “Nghiệp”. Vậy “Nghiệp” có được là nhờ “Hành”, “Hành” có được là nhờ “Vô Minh.” Do vô minh mới có những hành động lúc ác, lúc thiện; do hành động lúc ác, lúc thiện mới có làm khổ mình, khổ người, do hành động ác và thiện này mà sanh ra nghiệp, do nghiệp mới có danh sắc.
Trên đây là nói theo kinh sách, nói theo lời dạy của Đức Phật, còn nói theo thực tế qua cái nhìn hiểu biết của ý thức thì con người từ môi trường sống sanh ra. Trong môi trường sống gồm có đất, nước, gió, lửa, các chất khí và các từ trường, do sự vận hành của các chất khí và các từ trường mà tạo ra sự biến dịch thay đổi không ngừng của các vật thể, vì thế mà tạo các duyên tan hợp, nhờ các duyên tan hợp này mà vạn vật sanh ra.
Con người từ nhân quả sanh ra, chết trở về nhân quả, chứ không từ đâu sanh và cũng không về đâu. Đó là câu trả lời: “Con người từ đâu sanh ra và chết đi về đâu?” Câu trả lời này rất cụ thể và dễ hiểu. Vì con người từ cát bụi và không khí (môi trường sống) sanh ra thì chết cũng trở về cát bụi và không khí (môi trường sống).
Nếu không có môi trường sống thì con người không thể sanh ra được, như mặt trăng, mặt trời và các hành tinh khác không có sự sống thì không có vạn vật sanh ra. Sự sanh ra được vạn vật trong vũ trụ là nhờ sự vận hành của các duyên lúc hợp lúc tan; lúc hợp lúc tan tức là có sự thay đổi. Sự thay đổi ấy Đức Phật gọi các duyên là vô thường hay các pháp vô thường đều có nghĩa này.
Do các pháp vô thường và biết chắc chắn như vậy nên Đức Phật xác định:
“Mười hai nhân duyên khi tan rã thì không còn duyên nào cả, cũng như thân ngũ uẩn, khi một người chết thì không còn uẩn nào cả.” Do đó Đức Phật lại còn xác định thêm: “Nếu các duyên dù còn một chút xíu như đất trong móng tay Ta thì Đạo Ta không ra đời, vì không giải khổ cho ai được hết.”
Do tánh chất vô thường thay đổi của các pháp nên con người tu hành mới giải thoát được.
Ví dụ: Một người chửi mắng chúng ta nhưng chúng ta không chửi mắng lại họ, không buồn tức giận họ và còn khởi tâm thương họ thì ngay đó nó đã thay đổi các duyên của các ác pháp đó trở thành các duyên cho các thiện pháp.
Do tánh chất các pháp vô thường thay đổi như vậy nên chúng ta thấy được sự giải thoát một cách cụ thể và rõ ràng. Nếu các pháp không vô thường, cố định, hay nói cách khác là các pháp có tánh chất thường hằng thì không thể làm thay đổi được ác pháp thành thiện pháp được.
Ví dụ: Một người chửi mắng chúng ta thì chúng ta phải tức giận và chửi mắng lại họ. Nếu tánh chất các pháp thường hằng thì ác pháp này không thể thay đổi được, nếu thay đổi không được thì con người dù có tu hành cũng không thể giải thoát được.
Nếu các pháp không thể thay đổi được thì các pháp phải có bản thể thường hằng, nếu các pháp có bản thể thường hằng thì con người phải có đời sống sau khi chết, nếu có đời sống sau khi chết thì con người phải có linh hồn, có linh hồn thì thế giới siêu hình mới có.
Nếu thế giới siêu hình có thì phải có một ông vua của thế giới này, và ông vua của thế giới này thì phải là một đấng toàn năng, một đấng tạo hóa, một đấng toàn thiện v.v... Mà là đấng tạo hóa, toàn năng, toàn thiện khi tạo tác ra con người và vạn vật thì con người và vạn vật phải là hiền lành không bao giờ giết hại và ăn thịt lẫn nhau.
Con người và vạn vật do đấng toàn thiện sanh ra thì phải thương yêu nhau, đùm bọc lẫn nhau chứ có đâu giết hại lẫn nhau mà chẳng hề xót thương chút nào. Do thế chúng ta không tin thuyết này vì nó không thực tế, mơ hồ, trừu tượng.
Cho nên những tôn giáo xây dựng thế giới siêu hình đã lỗi thời, không thể còn lừa đảo được ai nữa khi trình độ hiểu biết của con người được nâng lên theo sự tiến bộ của khoa học. Cho nên thuyết “Nhân Duyên” của Phật giáo là phù hợp, là thực tế, cụ thể như khoa học.
Vì thế không có một triết thuyết nào bài bác nó được, nó là một sự thật hiển nhiên của vạn vật trên hành tinh này đều do duyên hợp. Mà đã do duyên hợp thì chỉ có môi trường sống mới có sanh ra vạn vật, từ loài rong rêu, cỏ cây cho đến các loài động vật nhỏ nhất như vi trùng, vi khuẩn, v.v...
Con người cũng là một loài động vật như bao nhiêu loài động vật khác nên cũng từ môi trường sống sanh ra. Vì thế chúng ta khẳng định: “Con người từ nhân quả sanh ra, chết trở về nhân quả.”
35. BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM DO TƯỞNG SAO CÓ SỰ LINH THIÊNG?
Hỏi: Kính thưa Thầy! Bồ Tát Quán Thế Âm do tưởng mà có nhưng cũng có sự linh thiêng và cứu độ? Xin Thầy giảng cho chúng con được hiểu.
Đáp: Chính vì người ta thấy những bóng ma phảng phất, những sự linh thiêng của những nhân vật tưởng tượng nên thế giới siêu hình mới có. Không ai giải thích được những hiện tượng kỳ lạ đó do đâu mà có, khoa học cũng đành bó tay. Chỉ có những người nhập được chánh định, vượt qua cảnh giới hữu sắc và vô sắc tức là vượt qua các loại định tưởng thì mới thấy được thế giới siêu hình rõ ràng và sự linh thiêng đó do đâu mà có. Thân chúng ta gồm năm ấm: sắc, thọ, tưởng, hành, thức:
- Sắc là thế giới hữu hình.
- Tưởng là thế giới vô hình.
Người ta hiểu tưởng là do sự tưởng tượng. Tưởng ở đây không phải là tưởng tượng mà tưởng ấm cũng như sắc ấm vậy chứ không phải sự tưởng tượng. Sắc ấm có cảnh giới của sắc ấm như: nhà cửa, cây cỏ, vạn vật, cầm thú, vạn hữu, v.v… thì cảnh giới tưởng ấm cũng vậy, nó chỉ khác là vô sắc. Vì nó là hình ảnh bóng dáng theo khuôn mẫu của thế giới sắc ấm (hữu hình), nó cũng giống như cây cổ thụ kia có hình và bóng của nó. Cây là thế giới hữu hình, còn bóng của nó là thế giới siêu hình, cho nên cây không có thì bóng cũng không có. Vì thế thân người mất thì linh hồn người cũng không còn.
Cảnh giới hữu hình và siêu hình của một người nó theo nhau như hình với bóng. Phước đến thì nó hiện ra giải nạn do một niềm tin ở vị Thần, Thánh nào đó, ngược lại người đó không tin Thần, Thánh thì nó khiến người đó lỡ tàu, lỡ xe để thoát nạn. Đồng thời mọi người cùng thấy ở một góc độ nào đó thì đó là do cộng nghiệp và do lòng tin, nhưng nó còn tùy ở tưởng ấm hoạt động giao cảm mạnh hay yếu.
Người tu tập thiền định, trạng thái tưởng xuất hiện kì lạ, nếu không có thiện hữu tri thức thì không thể nào ngồi yên nổi để tu. Trường hợp đó người tu nào cũng đều cho đó là thế giới oan hồn đến phá. Thấy một tảng đá, hoặc một người ngồi giữa đường, người lái xe lạc tay lái gây tai nạn, đó là nghiệp ác đến, tưởng ấm xuất hiện ra. Một người té xuống sông có cảm giác như có người lôi họ xuống nước, đó là nghiệp ác lôi họ xuống, nhờ tạo thiện nên có người cứu thoát họ.
Luật nhân quả nghiệp báo sử dụng sắc ấm và tưởng ấm rất là vi diệu mà loài người không thể lường được.
Hàng ngày, một người không tu tập và không trau dồi thân tâm bằng thiện pháp, nhân quả nghiệp báo sai sắc ấm của họ làm những điều tội ác mà họ không hề hay biết, đến khi tội khổ thì họ lại than trời trách đất, đi cầu khẩn Thần, Thánh gia hộ.
Còn nhân quả nghiệp báo sai tưởng ấm của họ gây tai họa hoặc cứu họ thoát chết thì họ cho oan hồn, quỷ ma tác họa, ngược lại được phước báo thì cho là Thần Thánh, chư Phật, chư Bồ Tát gia hộ bình an.
Mọi người sống trong thế giới đối đãi mà không thấy đối đãi. Sống trong thế giới nhân quả mà không thấy nhân quả. Con người từ nhân quả sanh ra, chết đi về nhân quả lại không thấy, cho rằng có những linh hồn người chết, có những Thần, Thánh, quỷ, ma. Cho nên Đức Phật dạy: “Con người là thừa tự nhân quả.” Đã thừa tự nhân quả thì làm sao có ma được? Có thế giới linh hồn người chết được?
Tất cả các tôn giáo khác đều không vén màn vô minh này nên tôn giáo nào cũng xây dựng thế giới siêu hình có thật. Và vì thế cuộc đời này đã làm mất đi sự công bằng và công lý của loài người. Người ta theo các tôn giáo thì được cứu rỗi, được gia hộ; còn ai không theo tôn giáo thì chẳng được ai cứu rỗi và gia hộ cả. Như vậy có bất công không?
Chỉ có Phật giáo dám xác định thế giới siêu hình khách quan không có mà có thế giới siêu hình chủ quan do từ tưởng ấm lưu xuất. Khi một người còn sống thì có, nhưng khi đã chết thì không có. Vì thế, Đức Phật cả quyết xác định thế giới siêu hình là do tưởng tri sản xuất sanh ra chứ không có thế giới thật. “Tưởng tri chứ không phải Liễu tri.”
36. CÓ CÕI TRỜI KHÔNG?
Hỏi: Kính thưa Thầy! Trời có phải là một trong sáu nẻo luân hồi, nếu làm thiện tương xứng sẽ sanh ở đó. Trong kinh có nói mười tám tầng trời hoặc ba mươi ba cõi trời. Xin Thầy chỉ cho con rõ?
Đáp: Sáu nẻo luân hồi chỉ là một sự diễn biến nhân quả nghiệp báo do con người và chúng sanh vì vô minh tạo ra mà phải gánh chịu. Mười tám tầng trời chỉ cho 18 trạng thái thiện, ba mươi ba cõi trời chỉ cho ba mươi ba pháp thiện.
Ví dụ: Thầy nhập Sơ Thiền tức là Thầy đã ở cõi Sơ Thiền Thiên, nhập Không Vô Biên Xứ Tưởng tức là Thầy đã ở cõi Không Vô Biên Xứ Thiên, nhập nhẫn nhục tức là Thầy đã ở cõi Đâu Suất Thiên... Như vậy có phải đợi chết rồi mới sanh về đó đâu? Chỉ cần thực hiện diệt một ác pháp, tăng trưởng một thiện pháp là sanh vào cõi trời đó ngay liền, nhưng con phải hiểu thiện pháp có rất nhiều, nên có ba mươi ba cõi thiện pháp mà trong kinh gọi là ba mươi ba cõi trời, ba mươi ba cõi trời tức là ba mươi ba trạng thái thiện pháp.
Đó là một trạng thái giải thoát của tâm, khi tâm đã đạt mức độ thiện ở đó thì tương xứng với cảnh giới thiện ở đó. Có hiểu được như vậy mới hiểu được đạo Phật. Dù cho có các cõi Trời thật sự đi nữa mà tâm chẳng thiện thì cũng chẳng có ích lợi gì cho chúng ta, phải không hỡi con?
Dù cho không có các cõi Trời đi nữa mà tâm chúng ta sống trong thiện pháp thì tâm chúng ta cũng được an vui, hạnh phúc như thường. Và như vậy không phải sống trong cõi Trời sao? Chứ đâu phải chết mới được sanh về đó. Chết được sanh về cõi trời đó là một ảo tưởng, một giấc mộng mơ hồ của những người thiếu óc thực tế khoa học, vô minh không sáng suốt bị các tôn giáo lừa đảo.
Sống đang ở trong cõi Trời thì chết về đâu các con có biết không? Hỏi tức là trả lời. Do thế ngay từ trong cảnh sống ở thế gian mà người nào biết ngăn ác, diệt ác pháp thì người ấy đang sống trong Thiên Đàng chứ không phải Thiên Đàng ở cõi giới nào cả.
Thế giới siêu hình Thiên Đàng là do các tôn giáo dựng lên chỉ là một cảnh giới do tưởng ấm sanh ra để an ủi tinh thần của những người yếu đuối đang gặp khổ đau tai nạn, để nuôi hi vọng làm thiện được sanh về đó...
Người tu sĩ đạo Phật vì thấu rõ nhân quả nghiệp báo nên tự lực cứu mình bằng cách sống trong thiện pháp: “Các con hãy tự thắp đuốc lên mà đi.” Đây là lời kêu gọi thiết tha do lòng đại từ bi của Đức Phật đối với chúng ta.
Nói đến thế giới thì chúng ta phải nói đến sự duyên hợp, có nhiều duyên hợp lại mới thành thế giới, vì thế một nghiệp lực đơn độc không thể là thế giới được. Vì thế giới hữu hình không có thì thế giới siêu hình và linh hồn cũng không có.
Ví dụ: Chúng ta lấy một cây cột mà bảo rằng là cái nhà thì không thể được, vì cái nhà phải có nhiều duyên hợp lại như: cột, kèo, cửa sổ, cửa cái, vách, đòn tay, ngói gạch hợp lại thì mới gọi là cái nhà được.
Tóm lại, thế giới siêu hình không có mà chỉ có những trạng thái từ trường thiện, ác pháp của nhân quả đang phóng xuất theo thân hành, khẩu hành và ý hành của sự vận hành nhân quả.
37. THẾ GIỚI SIÊU HÌNH
Hỏi: Kính thưa Thầy! Dựa theo lời Thầy dạy con hiểu thế giới siêu hình như cái tivi, đầu vidéo, những cuốn băng hình do con người tạo ra để thu giữ những hình ảnh của thế giới con người hoặc là thế giới thần tiên cũng do con người diễn xuất. Nếu đập vỡ phương tiện thì chẳng còn gì. Con sợ con sa vào tưởng tượng nên con mạnh dạn trình Thầy để Thầy chỉ dạy?
Đáp: Đúng, con đã hiểu được ý của Thầy nói về thế giới siêu hình. Còn có sắc thân này thì còn có cảnh giới siêu hình, nếu sắc thân này mất thì cảnh giới siêu hình cũng mất. Bởi vì con người đang sống trong thế giới đối đãi, thế giới duyên hợp nên cái này có cái kia có, cái này mất cái kia mất. Con ví dụ rất khéo, thế giới siêu hình như cái tivi, đầu máy vidéo và cuốn băng quá cụ thể và rõ ràng khiến cho mọi người đều có thể nhận ra được.
Bởi sắc uẩn nó là cái tivi, tưởng uẩn là đầu máy vidéo còn cuộn băng là năng lực của tưởng thức. Nên chiêm bao, mộng mị, hình bóng ma, quỷ, linh hồn, thần, tiên, lên đồng, nhập xác cô, cậu đều do sắc uẩn tức là thế giới hữu hình của chúng ta đang sống và đóng những vai trò trên sân khấu của tưởng uẩn tạo ra những hình ảnh sống động khiến cho mọi người đều lầm tưởng là có thế giới siêu hình như thật. Nếu không đập vỡ sắc uẩn, tưởng uẩn và tưởng thức (tivi, đầu máy vidéo và cuốn băng) thì ngàn đời người ta đều cho có thế giới siêu hình như thật.
Ví dụ của con ở phần trên rất chính xác khiến cho mọi người dễ nhận ra thế giới siêu hình do từ đâu mà có. Nếu không có sắc uẩn, tưởng uẩn và tưởng thức thì thế giới siêu hình cũng không có. Khi một người chết thì tưởng uẩn và tưởng thức cũng tan hoại theo năm uẩn của nó thì thử hỏi linh hồn của con người làm sao còn được?
Vậy mà sự vô minh, mê muội của con người không thấy như thật nên cho người chết còn có linh hồn bất tử luôn luôn đi tái sanh luân hồi thì thật là sống trong mơ mộng. Do không chân thật nhận ra bằng ý thức, mà chỉ nhận qua trạng thái tưởng uẩn và tưởng thức của chính bản thân mình lưu xuất. Vì thế mà thế giới siêu hình không một ai dám xác nhận thế giới siêu hình không có. Thậm chí, cho đến các nhà khoa học dù ở phương Đông cũng như ở phương Tây, không có một nhà khoa học nào dám khẳng định không có thế giới siêu hình vì không thể đem khoa học chứng minh chính xác được những hiện tượng xảy ra của tưởng uẩn và tưởng thức.
Những nhà ngoại cảm đã mang đến những hiện tượng siêu hình khiến cho các nhà khoa học không thể giải thích được nên đành phải im lặng, nhưng cũng không dám bảo rằng có, cũng không dám bảo rằng không. Nếu bảo không có thì không giải thích được những hiện tượng siêu hình thì ai tin cho, còn bảo rằng có thì không chứng minh được những hiện tượng như sương, như khói, không gian và thời gian không bị chia cắt và trải dài là cái gì?
Khi các nhà khoa học không chứng minh những hiện tượng của tưởng uẩn được là vì trí tuệ của các nhà khoa học còn trong sự hạn chế của trí tuệ hữu hạn. Còn những nhà tu hành đạt được trí tuệ vô hạn nên họ đã thấy biết rất rõ ràng các pháp trong vũ trụ. Khi họ nói ra một điều gì, nếu chúng ta chịu khó tư duy, suy nghĩ thì chúng ta sẽ hiểu một cách cụ thể, không có mơ hồ và trừu tượng.
Bởi vì trong hiện tại chúng ta nói, làm, suy nghĩ một việc gì thì những việc ấy còn lưu lại mãi trong không gian mà không bao giờ mất. Vì thế tưởng uẩn của các nhà ngoại cảm bắt gặp những âm thinh sắc tướng đó. Nhưng vì là tưởng uẩn muốn trình bày sự bắt gặp đó, nó phải dùng hai trường hợp:
1- Phải thể hiện qua giấc mộng (chiêm bao).
2- Phải thể hiện qua sự nhập xác (lên đồng, nhập cốt)
Không thể mượn ý thức diễn đạt vì bấy giờ ý thức không còn hoạt động, vì thế tưởng thức chỉ còn có cách thể hiện diễn đạt bằng hai cách nói trên. Do tưởng uẩn diễn đạt như vậy nên chúng ta mới lầm tưởng có linh hồn người về nhập xác người sống.
Và còn nhiều hiện tượng khác nữa như: sắc tưởng (hình bóng như sương như khói v.v...), thinh tưởng (tiếng than khóc, tiếng kêu, tiếng hú giữa ban đêm v.v...), xúc tưởng (cảm giác ớn lạnh, gió lay bức màn, xúc tưởng loài bướm bay hoặc đậu nơi người vừa chết, v.v...).
Tất cả những hiện tượng này xảy ra, nếu không có một người tu chứng vượt qua tưởng uẩn thì không ai dám bảo rằng: không có thế giới siêu hình, có nghĩa là không có đời sống sau khi chết. Từ khi chúng tôi được sanh làm người thì cái thế giới siêu hình luôn luôn được ngự trị trong chúng tôi, trên hết là cõi Niết Bàn tức là cõi Phật, kế đó là cõi Trời tức là cõi của chư Thiên ở, cõi Thần, Thánh, cõi quỷ, cõi ma, v.v...
Tất cả những cõi trên đây đều là những cảnh giới của thế giới siêu hình hay nói cho dễ hiểu hơn là cõi của những linh hồn người chết. Đến khi tu tập nhập được các định, vượt qua được tưởng uẩn chúng tôi mới nhận thấy thế giới linh hồn của người chết không có, nhưng chúng tôi không nói ra, nói ra sợ người ta không tin. Đến khi đọc lại toàn bộ kinh sách từ Đại Thừa đến Nguyên Thủy thì chúng tôi thấy bài kinh Pháp Môn Căn Bản trong kinh Trung Bộ, Đức Phật đã xác định thế giới siêu hình không có. Bài kinh này là một cơ sở vững chắc để triệt tiêu thế giới siêu hình. Nhờ có triệt tiêu thế giới siêu hình thì mới có thể xây dựng nền đạo đức nhân bản - nhân quả cho loài người trên hành tinh này. Nếu thế giới siêu hình có thì luật nhân quả không có, luật nhân quả không có thì không thể có sự công bằng và công lý và loài người chỉ là loài ác thú.
Muốn cho cuộc sống của con người có công bằng và công lý thì đạo đức nhân bản - nhân quả phải được triển khai, biên soạn và viết ra thành bộ sách đạo đức làm người để giúp cho con người biết cách thực hiện sự công bằng và công lý trên hành tinh này.
Muốn cho cuộc sống của con người có công bằng và công lý thì trước tiên chúng ta phải triệt tiêu thế giới siêu hình như chúng tôi đã nói ở trên. Vì còn có thế giới siêu hình thì chúng ta không thể áp dụng đạo đức nhân bản - nhân quả vào cuộc sống của loài người được.
Nếu không áp dụng đạo đức nhân bản - nhân quả vào cuộc sống của loài người thì loài người không còn có sự công bằng và công lý nữa và vì vậy cuộc sống của loài người sẽ khổ đau không cùng tận. Thế gian này là địa ngục trần gian. Cho nên mỗi người phải có tầm nhìn xa hiểu rộng để dẹp bỏ những ảo tưởng của thế giới siêu hình mới mong có ngày trái đất này là Cực lạc, Thiên Đàng v.v...
38. HỒN VỀ NHẬP CÔ ĐỒNG
Hỏi: Kính thưa Thầy, con đi gọi hồn, cô đồng nói đúng được tên tuổi người trong gia đình con, thưa Thầy như vậy là thế nào?
Đáp: Cô đồng dùng tưởng thức của mình giao cảm với tưởng thức của con nên nói đúng tên họ tuổi người trong gia đình con chứ không phải có linh hồn người chết trong gia đình con về nhập cô đồng.
Người chết, đó là danh từ chỉ cho các duyên nhân quả đã tan hoại hết, tức là thân ngũ uẩn đã tan rã không còn sót một duyên nào thì còn đâu có linh hồn người chết.
Trong thân người đâu có linh hồn, linh hồn là một danh từ chỉ cho một hình ảnh ảo tưởng do năng lực tưởng tạo ra. Trong thân người chỉ có năm duyên như: sắc, thọ, tưởng, hành, thức, mà trong kinh Phật gọi là thân ngũ uẩn. Khi người chết các duyên tan rã, đâu còn một duyên nào thì làm sao gọi là người chết còn có linh hồn như trên chúng tôi đã nói.
Cái mà người chết còn lại là hành động thiện ác, hành động thiện ác, tức là nhân quả. Khi người chết là nhân quả trở về với nhân quả. Vì thế Đức Phật dạy: “Chết trở về nhân quả.” Như vậy là đã trả lời câu hỏi thứ hai của các con. Hành động nhân quả không thể gọi là linh hồn được.
Thế sao có linh hồn nhập đồng, nhập cốt? Không có linh hồn nhập đồng, nhập cốt, mà chỉ có tưởng thức của đồng, cốt giao cảm rồi tự xưng mình là ông này, bà kia chết oan, chết ức, chết tức, chết tối, v.v... nhập vào.
Người không có trí tuệ vô hạn, không hiểu biết được nên vội tin theo lời của đồng, cốt rồi cho là có linh hồn người chết về nhập báo cho gia đình biết mọi sự xảy ra đúng như thật.
Nhờ báo lại những sự việc xảy ra cách năm năm hay mười năm đều đúng như thật mà các nhà khoa học không sao chứng minh được nên cũng phải đành tin theo và cho rằng có thế giới siêu hình, có sự sống sau khi chết.
Như chúng tôi cũng thường nói: Chỉ duy nhất trên thế gian này có một người không chấp nhận thế giới siêu hình, đó là Đức Phật. Ngài cho rằng: “Có thế giới siêu hình thì con người không bao giờ tu hành giải thoát khổ đau được và Phật giáo cũng không có mặt ở trên đời này.”
Bởi vì, thế giới của chúng ta đang sống là do các duyên hợp, cho nên các pháp không có bản thể thường hằng. Các pháp chỉ là vô thường thay đổi liên tục, tan hợp không dừng nghỉ. Cho nên các con đừng tin có linh hồn, tin có linh hồn là mê tín. Linh hồn chỉ là một sản phẩm của tưởng thức tạo ra. Đối với trí tuệ hữu hạn của loài người không thể hiểu được năng lực của tưởng, nếu lý giải như khoa học thì không thể lý giải được, nhưng có thể lý giải ở góc độ khác mà khoa học thì chưa đến nên chưa chứng minh được.
39. XIN QUẺ
Hỏi: Kính bạch Thầy, mấy năm con bị ốm đau. Đầu năm con đến chùa xin quẻ thẻ. Quẻ thẻ cho biết suốt cả năm, nó nói đúng 60%. Thưa Thầy trong đó có câu ghi như sau: “Đất ở nhà ngươi có người Thần, Ta về mau đi mới được yên.”
Con xin thêm vài quẻ thẻ đầu năm đều nói lên như vậy. Con làm cơm canh cúng cũng không thấy khỏi. Sau đó con phải đến nhờ cô đồng gọi hồn xem con ốm vì sao?
Kính bạch Thầy, sau đó hồn lên nói con bị ốm bệnh về âm vì có ông Thần đất ngay nhà con ở, ông ấy làm cho con ốm. Sau đó cô đồng bảo con về làm lễ tại nhà và rước vong xuống thờ điện nhà cô đồng, rồi cô rước vong đi chùa Hương. Cho họ ăn lộc chùa Hương, vì ông Thần này là người Tàu chết cách đây 387 năm thành ông Thần Hoàng.
Kính bạch Thầy, sau con về làm đúng như vậy thì thấy bệnh có đỡ và các năm sau đó con cũng xin quẻ thẻ mà không thấy quẻ thẻ nói gì về ông Thần đó nữa. Con kính bạch Thầy, xin Thầy giải thích cho con biết.
Đáp: Tất cả những quẻ thẻ đều ghi những sự việc xảy ra chung chung trong đời người không xác định cụ thể, giống như lời sấm, chỉ có thể đúng 50 đến 60 %.
Khi người đến chùa hay đến điện thờ của ông đồng, bà cốt xin thẻ đều là những người có tâm trạng bất an, ý thức không còn chủ động, thường sống trong tưởng. Khi đó, người lắc hoặc rút thẻ do tưởng giao cảm khiến cho quẻ thẻ rút ra hoặc lắc được giống như tâm trạng của mình đang bị ảnh hưởng truyền thống mê tín ông Thần này, bà Chúa kia, linh hồn nọ, v.v...
Căn bệnh của con thuộc về loại bệnh tinh thần (tinh thần bệnh thì thân bệnh), vì thế con tự cúng lễ thì không hết bệnh mà nhờ có cô đồng rước vong vị thần đó về chùa Hương để hưởng lộc chùa. Cô đồng đã giải tỏa được tâm bệnh của con cho nên bệnh con hết.
Tóm lại, vì ảnh hưởng mê tín thế giới siêu hình có ông Thần này, bà Chúa nọ, oan hồn kia, v.v... đã mang đến cho con người biết bao nhiêu là sự khổ đau về thế giới này “Thế giới tưởng” thế giới không có thật, chỉ vì tưởng của mình và tưởng của người khác giao cảm mà biết đúng những sự việc xảy ra của mình, do đó nên dễ bị kẻ khác lừa đảo, khiến cho mình khổ lại càng khổ hơn. Mình dại khờ tự mình làm khổ cho mình mà không biết, chứ quỷ thần làm sao làm khổ mình được.
Người ta đâu biết rằng sự khổ đau hay hạnh phúc đều do hành động nhân quả thiện ác của chính bản thân mình tạo ra. Cho nên Đức Phật dạy: “Ngăn ác diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp” là để chúng ta dừng những hành động nhân quả ác. Dừng những hành động nhân quả ác có nghĩa là dừng những điều đau khổ cho chính mình và mọi người chứ không có thần, Thánh, quỷ, ma bắt con người đau bệnh và làm ra tai nạn khổ ách.
Về sau con xin quẻ thẻ không có nói đến vị thần đó nữa là vì bệnh tinh thần tưởng của con đã khỏi hẳn nên tưởng của con không còn giao cảm với những quẻ thẻ nói đến thần, chứ không phải vị thần ấy đã đi khỏi nhà con.
Hiện giờ, những người mê tín là những người sống trong tưởng ấm, sống trong ảo giác, sống trong trừu tượng, mơ hồ, hư hư, thực thực. Những hạng người này dễ bị kẻ khác lừa đảo trong thế giới siêu hình.
Trong một cuộc cách mạng mê tín, nếu không giải thích được những hiện tượng siêu hình khiến cho con người mê tín lại càng mê tín hơn. Muốn quét sạch những truyền thống mê tín, dị đoan, lạc hậu thì phải có cơ sở giải thích những hiện tượng siêu hình kỳ lạ thì mới có thể phá và quét sạch chúng. Còn nếu chưa có cơ sở vững chắc thì không nên động đến chúng. Động đến chúng mà không giải thích được thì sự mê tín càng phát triển mạnh.
40. SỰ LỪA ĐẢO CỦA ĐỒNG CỐT
Hỏi: Kính thưa Thầy, ở chùa làng con thôn Cư Đình, xã Việt Hưng. Vào ngày 03 tháng 3 âm lịch hay đội bát nhang và hầu đồng. Hôm ấy con có đi dự, đến lúc có một bà đang đội bát nhang tự nhiên hai tay cứ vả vào mặt mình, các đệ tử của bà cứ khẩn vái kêu van mãi mới thôi. Hỏi ra mới biết là bà ấy trước đây có đội bát nhang, sau bỏ mấy năm không đội nữa, đến nay đội lại nên bị Ngài phạt?
Đáp: Đó là trò bịp, lừa gạt người khác của các thầy phù thủy, thầy bùa, đồng, cốt v.v… Nếu chúng ta đi vào bề trái thế giới của những hạng người này thì chúng ta sẽ thấy được những sự lừa đảo gian xảo, có nhiều thủ thuật và những thủ đoạn tinh vi để tạo ra sự mê tín.
Nhờ có những người vô minh không rõ mánh khóe gian xảo nên những đồng cốt giả hiệu dễ bề lừa đảo, cướp giựt tiền của những người đang gặp tai nạn hay bệnh tật v.v... nhất là người kiến thức còn cạn cợt. Có dịp Thầy sẽ kể cho các con nghe những tội ác gian xảo của bọn người lợi dụng sự giao cảm của tưởng thức làm tiền bất chánh mà pháp luật không bắt tội họ được. Vả vào mặt mình để tạo uy thế cho ông Thần hay Cô, Cậu rất hiển linh, khiến cho mọi người phải tin và cúng bái tiền bạc. Con cũng là một người bị lừa đảo trong số người đến dự ngày hôm đó.
Đối với đạo Phật thì các con không nên tin một cách mù quáng về thế giới siêu hình mà hãy tin những gì có lợi ích cho mình cho người; hãy tin những gì ý thức con phán xét thấy như thật, biết như thật thì mới tin.
Đối với đạo Phật thì các con nên tránh xa những hạng người bói khoa, đồng cốt, thầy phù thủy, thầy bùa, thầy ngải, thầy cúng bái, tụng niệm v.v... Những hạng người này là những hạng người không tốt, họ có nhiều mánh khóe, gian xảo, lừa đảo, họ là những hạng người ác.
Đức Phật thường dạy: “Làm bạn với thiện, xa lánh với ác”. Những lời dạy này con nên ghi nhớ: “Chọn bạn mà chơi, những người hay nói xấu kẻ khác là người ác, không nên thân cận với họ.”
41. TƯỞNG LỰC
Hỏi: Kính thưa Thầy, con có một cô em gái cũng bị Ngài phạt, Ngài trói ghì cánh khuỷu tay nhưng không có dây. Và trói đầu chặt lắm không gỡ ra được. Chính miệng cô em con nói ra như vậy. Chúng con là người vô minh không hiểu. Vậy chúng con tha thiết kính xin Thầy giảng giải cho chúng con hiểu rõ?
Đáp: Cô em gái của con là người chịu ảnh hưởng mê tín nặng, nghe đâu thì dễ tin theo đó, có nghĩa là cô em của con rất tin có linh hồn người chết, do lòng tin ấy mà tưởng uẩn của cô rất bén nhạy, thường hoạt động thay cho ý thức.
Vì thế ý thức thường nhường lại cho tưởng thức làm việc cho nên tâm tính cô em thường sống trong niềm tin hơn là sống với lý trí phân biệt phán xét. Do đó cô bị tưởng lực của chính cô tạo ra trạng thái như bị trói chặt hai khuỷu tay của cô.
Sự bị trói hai khuỷu tay của cô em là một trạng thái tưởng của cô em và chính cô không những cảm giác và còn thấy mình đang bị trói rất chặt. Mọi người bên ngoài không hiểu tưởng là có (Thần Tàu) bắt phạt cô em của con vì đã có sự lầm lỗi với Ngài.
Với trường hợp này xảy ra khiến cho mọi người ai nấy đều tin có thần, Thánh, ma, quỷ và linh hồn người chết thật sự. Nói chung là nhờ có những trạng thái của tưởng uẩn hoạt động một cách mầu nhiệm mà trí hữu hạn của con người không thấu rõ được. Do đó thế giới siêu hình mới thành hình.
Thế giới siêu hình không thể lấy ý thức mà hiểu nó được, không thể phân tích bằng phương pháp khoa học như khám phá phân tích vạn vật bằng phương pháp vật lý hoá học của thế giới hữu hình được. Cho nên khoa học và trí hữu hạn của con người phải đành bó tay trước những hiện tượng kì lạ của tưởng uẩn (tưởng thức).
Cái kì lạ của thế giới siêu hình chứ sự thật thì không có kì lạ gì hết. Vì ý thức của con người bị hạn cuộc bởi thời gian và không gian. Còn tưởng thức thì không bị hạn cuộc bởi không gian và thời gian nên nó mầu nhiệm với ý thức mà không mầu nhiệm với tưởng thức, với tâm thức. Sự linh thiêng của thế giới siêu hình đối với hạng người tin nó, còn những người không tin thì không có thiêng.
Người sống trong trí tuệ ý thức thì không bao giờ tin có thế giới siêu hình, là những người không mê tín.
Người thường sống trong trí tuệ tưởng thức là người tin có thế giới siêu hình, là những người mê tín.
Một người đang sống thì luôn luôn có hai thế giới hữu hình và vô hình, khi chết thì hai thế giới này cũng không còn. Người chết là tất cả đều hết. Hành động nhân quả hằng ngày đều trả về nhân quả. Và tất cả những hành động nhân quả ấy tiếp tục lại luân hồi tái sanh làm chúng sanh khác, thứ hai, thứ ba và thứ vô lượng kiếp.
Người nào tin có thế giới siêu hình là người sống trong tưởng thức, phán xét bằng tưởng tuệ, là người không trí tuệ, thường sống trong ảo ảnh, mơ hồ, trừu tượng, thiếu thực tế, thiếu khoa học. Còn người không tin có thế giới siêu hình là người sống trong ý thức. Người có trí tuệ, người có óc khoa học, thích sống thực tế.
Người sống trong tưởng tuệ thường bị người khác lừa đảo, thường sống trong cảnh khổ đau hơn người sống trong trí tuệ. Bệnh tật, tai nạn xảy ra thì những người sống trong tưởng thức khổ đau nhiều hơn người sống trong ý thức.
Người sống trong tưởng thức thường tốn hao tiền của một cách ngu si, “tiền mất tật mang.” Còn người sống trong ý thức khó ai lừa đảo họ được. Chính những nhà ngoại cảm, đồng cốt, các tôn giáo và các hệ phái tư tưởng mang màu sắc siêu hình khác nhau đều bị sự lừa đảo của tưởng thức mà họ không hề hay biết.
42. THẦN GIAO CÁCH CẢM
Hỏi: Kính thưa Thầy, con có một ông chú họ có thể nói được tầm vóc và tính tình của một người tương lai sẽ làm dâu của con. Mặc dù chưa bao giờ gặp mặt. Đã ba năm rồi khi con dâu con về nhà thì con suy ngẫm đúng hệt như ông đã nói. Vậy con kính bạch Thầy, Thầy dạy cho con hiểu thêm?
Đáp: Đây cũng do tưởng ấm của ông chú này đã giao cảm được với cô con dâu của con mà chưa bao giờ biết mặt. Tất cả những sự việc có vẻ siêu hình và mầu nhiệm mà hiện nay con người không thể giải đáp được, chỉ vì nó vượt ra khỏi tầm hiểu biết của ý thức loài người.
Chỉ có những người tâm không còn tham, sân, si thì mới thấy được năng lực mầu nhiệm của tưởng ấm loài người thật là kỳ lạ và mầu nhiệm. Nhưng khi một người đã chết thì thế giới của tưởng ấm kia cũng không còn. Trong môi trương sống trên hành tinh này nó đầy đủ các duyên vận chuyển hợp tan không bao giờ ngưng nghỉ. Do sự vận chuyển hợp tan này mà vạn vật phải vô thường.
Sự vô thường này chia làm hai mặt: 1- Sự vô thường về hữu hình; 2- Sự vô thường về vô hình.
Sự vô thường về hữu hình thì ai cũng rõ, đó là sự sanh diệt của vạn hữu. Còn sự vô thường về vô hình thì ít ai biết đến. Và người ta còn lầm chấp cho rằng thế giới vô hình thì trường tồn vĩnh viễn. Khi con người chết ở thế giới hữu hình thì họ trở về thế giới vô hình vĩnh cửu. Ở thế giới hữu hình còn chưa hiểu hết thì làm sao hiểu đươc thế giới vô hình. Vì thế người ta hiểu thế giới vô hình chỉ là một sự “tưởng hiểu.” Tưởng hiểu nên thế giới siêu hình không thật sự có.
43. TƯỞNG ẤM
Hỏi: Kính thưa Thầy, tưởng ấm là gì? Tưởng ấm ở đâu?
Đáp: Tưởng ấm là một duyên trong thân ngũ ấm. Thân ngũ ấm gồm có:
1, Sắc ấm; 2, Thọ ấm; 3, Tưởng ấm; 4, Hành ấm; 5, Thức ấm. Năm ấm này hợp lại thành thân người.
Vì thế thân người chia ra làm hai phần:
1- Về phần hữu hình thì duy nhất chỉ có Sắc ấm.
2- Về siêu hình gồm có bốn ấm kia: Thọ ấm, Hành ấm, Tưởng ấm và Thức ấm.
Nhưng dù thế giới hữu hình hay siêu hình đều hoạt động do phần sắc ấm, phần sắc ấm rất quan trọng, nhất là bộ óc của con người. Thế giới hữu hình và thế giới siêu hình cũng do nó chỉ huy. Vì thế khi sắc thân hoại diệt thì bộ óc cũng hoại diệt theo. Bộ óc hoại diệt thì thế giới siêu hình cũng hoại diệt theo.
Cho nên Đức Phật dạy: “Khi một người chết thì toàn thân ngũ ấm đều hoại diệt không còn một ấm nào cả.” Như vậy tưởng ấm chỉ là một duyên của thân ngũ ấm và nó ở trong thân ngũ ấm. Đó là thế giới siêu hình của quý vị, mong quý vị hãy bỏ đi, đừng có vô minh tự làm khổ mình mà không biết. Thế giới siêu hình chẳng có ích lợi gì mà còn tai hại cho đời sống của quý vị. Hãy bỏ xuống! Hãy bỏ xuống! Đó là một ảo ảnh, một hình bóng của thế giới hữu hình của con người.
44. THẤY MA
Hỏi: Kính thưa Thầy! Con đã được đọc quyển Vôga, của Bungari. Bà Vôga này là một người mù, bà nói gần đúng như Thầy. Nhưng có khác Thầy là bà Vôga nói rằng: bà ấy nhìn thấy ma, và ai đến xem về người âm bà Vôga có thể nói về người chết đó hiện nay đang mặc quần áo gì và đang đứng trước mặt bà ấy. Vậy con kính thưa Thầy giải thích cho con được rõ thêm?
Đáp: Bà Vôga là một nhà ngoại cảm, trường hợp tưởng thức của bà Vôga giao cảm với những từ trường của những người chết hay nói cách khác là tưởng thức của bà bắt gặp từ trường tưởng thức của người chết còn lưu lại trong không gian những hình ảnh, âm thanh và hành động. Khi bắt gặp như vậy thì bà Vôga thấy người chết nói chuyện với Bà và kể lại tất cả những sự việc đã xảy ra.
Vì thế, Bà thấy ma và còn nói chuyện với ma, đó là năng lực tưởng thức của Bà tạo ra con ma để kể lại cho Bà nghe, và Bà nói lại cho người khác nghe, chứ con “ma tưởng” của Bà không thể nói cho người khác nghe được mà mượn thân miệng Bà nói lại.
Trường hợp này cũng giống như lên đồng, nhập cốt, nhưng lên đồng, nhập cốt thì thân lúc lắc hoặc ợ, ngáp, v.v... còn bà Vôga thì rất tự nhiên vì Bà bị mù mắt nên Bà thường sống với tưởng thức của mình nhiều hơn ý thức. Ở đây chúng ta nên hiểu, tưởng của Bà giao cảm với người chết rồi mượn thân miệng Bà nói lại cho người khác biết.
Ví dụ: Thân miệng của Bà làm thông ngôn cho tưởng ấm của Bà để nói lại cho chúng ta biết những gì đã xảy ra của một người đã chết từ lâu hay mới chết, chứ không phải có con ma thật nào nhập vào Bà. Do đó, Đức Phật đã xác định: “Thế giới siêu hình là thế giới của “tưởng tri” chứ không phải là “liễu tri.”
Vậy các con hãy tin theo lời Phật dạy: Thế giới siêu hình không bao giờ có, chỉ là tưởng tri của con người tạo dựng ra. Các con nên cảnh giác đừng để mắc lừa người khác.
45. NĂNG LỰC CỦA TƯỞNG
Hỏi: Kính thưa Thầy, người ta vì bốc mả người chết mà đổ nước vào trong quan tài khấn vài câu, xương nổi lên mặt nước hết là vì sao? Xương bốc bỏ vào tiểu đầy không hết, đậy nắp không được, nhưng nếu khấn vài câu tự nhiên xẹp xuống và đậy nắp kín. Con kính mong Thầy giải thích cho con được rõ?
Đáp: Từ nhỏ còn bé cho đến hôm nay tuổi Thầy đã gần đất xa trời mà chưa có một lần đi bốc mả, vì miền Nam không có tục lệ như miền Bắc. Do đó Thầy không có dịp trực tiếp quan sát những sự việc xảy ra khi bốc mộ, nhưng theo sự suy tư của Thầy có hai trường hợp xảy ra:
1, Về khoa học, xương người chết, nước và không khí có tác dụng khoa học, khiến xương nổi lên và xẹp xuống.
2, Về phần tâm linh thuộc về tưởng ấm. Khi tâm thành khấn thì năng lực tưởng của người khấn phát tác, khiến cho xương nổi lên và xẹp xuống đậy kín nắp tiểu.
Ở đây, chúng ta đừng hiểu theo kiểu mê tín có linh hồn người chết khiến cho xương nổi lên, xương nổi lên cần gì phải đổ nước vào quan tài? Nếu khấn mà linh thiêng thì khấn cho tất cả xương đều bay vào tiểu, cần gì người ta phải lượm xương chất vào tiểu.
Tất cả những sự việc trên đây mà con hỏi cũng đã khiến cho người ta phải tin rằng thế giới siêu hình có thật. Vì không ai hiểu và giải thích được của một năng lực tưởng của người còn sống siêu thời gian và không gian. Vì thế chỉ có những người tu hành đúng chánh pháp của Phật vượt không gian và thời gian thì mới thấu rõ được năng lực của tưởng của người còn sống thật là vi diệu. Từ xưa đến nay loài người và các tôn giáo đều không hiểu rõ năng lực của tưởng nên lầm lạc cho đó là thế giới siêu hình. Vì thế mà thế giới siêu hình được duy trì và tồn tại sống mãi đến ngày hôm nay. Mặc dù dân trí của loài người nhờ khoa học nâng lên tầm hiểu biết khá sâu rộng, tuy chưa hoàn chỉnh nhưng cũng tiến bộ rất xa.
Sự tiến bộ này đã bắt đầu làm rung chuyển thế giới siêu hình. Cho nên Đại Thừa và thiền Đông Độ sẽ không còn lừa phỉnh được ai. Rồi đây thế giới siêu hình hoàn toàn bị triệt tiêu trên hành tinh này do các nhà khoa học và đạo đức học. Và loài người không còn bị lừa đảo bởi thế giới siêu hình này nữa.
46. CÂU CHUYỆN LIÊU TRAI
Hỏi: Kính thưa Thầy, người ta bảo trần sao âm vậy. Vì người ta từng đi “tem” qua chỗ tha ma người ta thấy họ cũng họp chợ lao xao tiếng nói như người. Vậy như thế nào? Xin Thầy dạy cho chúng con được rõ.
Đáp: Đây là câu chuyện Liêu Trai mà người ta đã chịu ảnh hưởng tư tưởng của Bồ Tùng Linh. Những chuyện ma của Bồ Tùng Linh là một tư tưởng phi không gian và thời gian có nghĩa là không có sự chết mà chỉ có một sự hiện hữu trong cuộc đời này bằng hai mặt: sắc và vô sắc.
Với đôi mắt của Bồ Tùng Linh, thế giới hữu hình và thế giới siêu hình chỉ là một chứ không hai. Do thế một tiểu thư con gái nhà quan đã chết hơn trăm năm mà vẫn thành chồng vợ với một cậu thư sinh mới mười tám tuổi. Vì thế, sự họp chợ ngoài nghĩa địa tha ma là một sự tưởng tượng phi không gian và thời gian của nhà văn Bồ Tùng Linh.
Chúng ta phải đứng trong góc độ của ý thức xây dựng cho mình một nền đạo đức chân thật để mang hạnh phúc an vui cho mình cho người, đừng nên sống trong sự tưởng tượng của Bồ Tùng Linh, nó không lợi ích thiết thực mà chỉ là một giấc mơ ảo huyền, đôi khi còn ám ảnh tâm hồn của chúng ta trong thế giới ma.
Nếu chúng ta không hiểu ý nghĩa của Bồ Tùng Linh thì cái thế giới tưởng siêu không gian và thời gian này sẽ mang cho chúng một sự mê tín rất lớn và còn đem tai hại cho đời sống của chúng ta nhiều khổ đau hơn là hạnh phúc. Là một con người chúng ta phải sống chân thật cho mình, đừng sống trong ảo tưởng mà phải sống trong nền đạo đức nhân bản - nhân quả, không làm khổ mình khổ người để khắc phục những nỗi khó khăn của kiếp làm người. Những nỗi khó khăn đó đang chờ đợi chúng ta ở phía trước.
47. TƯỞNG TRI VÀ THẬT TRI
Hỏi: Kính thưa Thầy! Tưởng tri và thật tri nghĩa như thế nào?
Đáp: Tưởng tri và thật tri khác nhau không giống nhau. Tưởng tri là sự hiểu biết qua tưởng thức, thật tri là sự hiểu biết qua ý thức.
Ví dụ: Một người chưa từng bao giờ thấy ma, nghe người ta nói ma, họ diễn tả con ma hình thù bằng cách này, bằng cách khác. Do sự tưởng diễn tả những hình ảnh của ma, từ đó năng lực tưởng thức của chúng ta mô phỏng theo hình dáng đó xuất hiện, khiến chúng ta nhìn thấy con ma như thật. Cái thấy con ma thật sự như vậy gọi là tưởng tri. Cho nên cái thế giới siêu hình cũng do từ năng lực của tưởng tạo ra chứ không phải có linh hồn người chết nhập vào người còn sống, mà chính người còn sống mới có năng lực tưởng tri của mình tạo ra. Chính năng lực tưởng tri của người đó đã nói chuyện với người đó.
Vì thế các nhà ngoại cảm vẫn thấy có linh hồn người chết mượn xác thân mình nói chuyện với người còn sống. Những sự hiểu biết qua tưởng thức như vậy gọi là tưởng tri. Còn thật tri là sự hiểu biết qua ý thức, chắc quý vị ai cũng đều rõ. Khi chúng ta phân biệt mọi vật trước mắt mà hiểu được mọi vật đó một cách rõ ràng và cụ thể thì đó là thật tri. Thật tri chính là ý thức của chúng ta đang sử dụng hằng ngày trong cuộc sống. Đó là sự hiểu biết phân biệt phải, trái, tốt, xấu, trắng, đen, dơ, sạch, thiện, ác v.v...
48. SAU KHI NHẬP DIỆT, CHƯ PHẬT
CÒN TRỞ LẠI THẾ GIAN NỮA KHÔNG?
Hỏi: Kính thưa Thầy! Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni và các vị Phật xưa kia, sau khi nhập diệt từ bỏ xác thân có trở lại thế gian nữa không?
Đáp: Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni sau khi nhập diệt từ bỏ sắc thân không còn trở lại thế gian nữa. Trong kinh Nguyên Thủy thuộc tạng kinh A Hàm, Đức Phật Thích Ca đã xác định điều này rất rõ ràng. “Ta chỉ còn một kiếp này nữa thôi.” Tại sao Phật không tái sanh lại cõi thế gian này nữa?
Chư Phật không tái sanh lại cõi thế gian này nữa vì cõi thế gian đầy dẫy các ác pháp, con người trên thế gian này có việc gì thì ăn thua đủ, không biết nhẫn nhịn, hung dữ, chửi mắng, mạt sát lẫn nhau, gian xảo, lừa đảo, điêu ngoa, xảo quyệt, giả dối, nhiều chuyện, gian ác, hiểm độc, v.v...
Phật không dám tái sanh lại cõi thế gian này nữa là vì khí hậu thời tiết khắc nghiệt, lúc nắng, lúc mưa, gió bão bất thường, lại thêm bão lụt, động đất, thủy tai, hỏa hoạn, giặc giã, trộm cướp, giết người chẳng chút lòng xót thương, v.v...
Phật không dám tái sanh lại cõi thế gian này nữa là vì mang thân tứ đại này giống như ở tù chung thân, đi đâu cũng không được tự tại, tự do rất là khổ sở.
Phật không dám tái sanh lại cõi thế gian này nữa là vì tâm Phật hết tham, sân, si. Tâm Phật hết tham, sân, si thì không còn tương ưng với chúng sanh thì không thể nào tái sinh lại được, dù Phật muốn sinh làm người lại nhưng không làm sao được nữa.
Phật không dám tái sanh lại cõi thế gian này nữa là vì mang thân tứ đại này như ở trong ổ bệnh, nóng nực quá chịu không nổi, lạnh quá chịu cũng không xong, mỗi mỗi đều có thể xảy ra gây thương tích làm đau nhức không xiết kể. Thân tứ đại lại vô thường nên thường xảy ra bệnh tật, khi bệnh tật thì khổ đau vô cùng, vô tận.
Vì thân tứ đại vô thường, nên không tránh khỏi sự già nua, mà hễ già nua thì tay chân run rẩy, đi đứng không vững vàng thì thật là khổ sở vô cùng.
Vì thân tứ đại vô thường nên sự hoại diệt chắc chắn phải đến, đến trong sự đau khổ tử biệt sanh ly. Cho nên khi một Đức Phật nhập diệt không tránh khỏi cả một trời đau thương phải không hỡi các con? Khi còn là một học Tăng, Thầy đọc kinh Niết Bàn, trước giờ phút Đức Phật nhập diệt cả Trời Người đều khóc thương thảm thiết khiến Thầy cũng xúc động khóc theo. Đây không phải là sự đau khổ tận cùng của sự chia ly hay sao?
Cho nên Đức Phật ra đi bỏ báo thân này thì không bao giờ trở lại làm thân người nữa, không phải chư Phật sợ khổ đau làm thân chúng sanh mà chính duyên chúng sanh đã hết. Nếu còn duyên với chúng sanh thì Đức Phật không bao giờ nhập Niết Bàn, Ngài sẽ phục hồi sự sống rất dễ dàng, muốn sống bao lâu cũng được. Trong kinh Niết Bàn đã nói điều này rất rõ ràng.
Hết duyên với chúng sanh có nghĩa là duyên nhân quả đã hết. Mục đích của một người tu theo đạo Phật là phải trả sạch nhân quả, có nghĩa là không còn nợ nhân quả; không còn nợ nhân quả tức là một người sống toàn thiện, vì sống toàn thiện là thoát khổ, cho nên không còn nghiệp lực nhân quả đi tái sanh; không còn nghiệp lực nhân quả đi tái sanh thì lấy cái gì để đi tái sanh, cái đi tái sanh đã bị diệt rồi và nợ nhân quả cũng hết rồi thì còn duyên nghiệp gì để Phật đi tái sanh nữa.
Mục đích phải đạt của một vị tu sĩ là tu thành Phật, thành Phật để chấm dứt duyên nghiệp tái sanh luân hồi. Khi chấm dứt rồi thì còn lấy cái gì đi tái sanh. Mầm tái sanh đã bị diệt ngay từ lúc hướng tâm đến Lậu Tận Minh.
Mầm tái sanh làm người đã dứt thì nợ nhân quả đã hết, nợ nhân quả đã hết thì duyên chúng sanh đã hết, duyên chúng sanh đã hết thì dù có muốn tái sanh cũng không làm ích lợi cho con người. Vì hết duyên, có thuyết giảng, có dạy đạo chúng sanh cũng chẳng nghe.
Ví dụ: Hiện giờ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni có tái sanh trở lại dạy người tu hành thì người ta vẫn phỉ báng rằng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy pháp điên, dạy lỗi thời, dạy không đúng giáo pháp Đại Thừa và Thiền Đông Độ, dạy cho những người sơ cơ còn có chứng, có đắc, còn pháp môn hiện giờ vô chứng, vô đắc, tự tại, vô ngại đói ăn, khát uống, không chấp giới luật. Do những điều trên đây mà chư Phật nhập diệt rồi thì không bao giờ trở lại cảnh giới thế gian này nữa.
49. ÁNH SÁNG TRÍ TUỆ
Hỏi: Kính thưa Thầy! Vị Minh Sư tỏa sáng đều khắp cho chúng sanh. Chúng sanh nào có tâm ly dục trở nên trong sáng sẽ được hưởng ánh sáng nhiều và ngược lại?
Đáp: Vị Minh Sư luôn tỏa ánh sáng trí tuệ đều khắp cho chúng sanh. Chúng sanh nào có đủ duyên với Phật pháp nên khi gặp được ánh sáng trí tuệ đó liền đặt trọn lòng tin kiên cố ở vị Minh Sư, nhiệt tâm thực hiện lời dạy của Người, sống đúng, tu tập đúng, nhờ đó tâm ly dục ly ác pháp. Ngày ngày tâm trở nên trong sáng hơn và thụ hưởng áng sáng trí tuệ đó nhiều hơn. Ánh sáng trí tuệ Phật luôn luôn tỏa khắp trong không gian như không khí mà quý vị đang hít thở, nếu quý vị khởi một niệm thiện pháp thì ánh sáng đó trở thành trí tuệ của quý vị, tức là quý vị đang hành động một đạo đức nhân bản không làm khổ mình khổ người.
Vì thế kẻ nào sống trong thiện pháp, biết ngăn ngừa ác pháp là đang sống trong trí tuệ của Phật, trí tuệ của vị Minh Sư, ngược lại sống không biết ngăn ác, diệt ác pháp, sống phạm giới, phá giới là sống xa lìa trí tuệ Phật, không hưởng được ánh sáng của vị Minh Sư tức là sống xa lìa sự giải thoát của đạo Phật.
Phật lúc nào cũng sống bên chúng sanh, còn chúng sanh thì lúc nào cũng sống xa Phật.
Tại sao vậy?
Vì chúng sanh thường sống trong ác pháp, còn Phật thì sống trong thiện pháp. Nếu chúng sanh biết sống trong thiện pháp thì đó là trở về với Phật, còn chúng sanh sống trong ác pháp là xa lìa Phật, dù muốn gần Phật cũng không được, dù hết lòng cầu khẩn cũng không được. Cho nên đạo Phật rất đơn giản nhưng người không biết tu tập sai pháp như: ngồi thiền, tụng kinh, niệm Phật, niệm chú, bắt ấn, đọc thần chú, bái sám, lạy hồng danh chư Phật, cầu an, cầu siêu, v.v... đều là những việc làm đi ngược lại với Phật giáo, gây tạo ra nhiều màu sắc mê tín, dị đoan, ảo giác, trừu tượng... phần nhiều sống trong ảo mộng.
Xét lại tất cả các tôn giáo hiện có mặt trên hành tinh này đều có sự giống nhau, không rơi vào hình thức mê tín này thì lại rớt vào hình thức mê tín khác. Đó là vì chịu ảnh hưởng chung trong một bối cảnh siêu hình của tưởng tri. Vì thế, khi Đức Phật nhập diệt, các tu sĩ ngoại đạo cố gắng lồng thế giới siêu hình vào đạo Phật để biến Phật giáo giống như các tôn giáo khác để dễ bề chúng phát triển thế giới siêu hình.
Nếu đạo Phật giẫm lại lối mòn của các tôn giáo khác thì đạo Phật không còn ý nghĩa tự lực của đạo giải thoát nữa. Nhìn chung toàn bộ kinh sách Đại Thừa đều là một kho giáo lý góp nhặt những tưởng tri của các nhà triết học tôn giáo và thế tục. Lý luận nghe rất siêu nhưng áp dụng vào đời sống con người thì ích lợi không bao nhiêu mà tai hại thì rất nhiều.
50. THẾ GIỚI SIÊU HÌNH KHÔNG CÓ, CHỈ CÓ THẾ GIỚI TƯỞNG
Hỏi: Kính thưa Thầy, Thầy xác định là không có cõi siêu hình nhưng có nhiều kinh nói đến các cõi Trời, và người ta làm được gì đều bảo là nhờ chư Thiên hoặc Tam Bảo gia hộ. Vậy có cõi mà họ không có sắc thân chăng?
Thưa Thầy! Nếu có thì họ có phải ở vào cõi siêu hình không Thầy? Trong băng Thầy có nói mấy ông ở cõi Trời, nhìn xuống thế gian thấy khoa học hiện đại tạo đời sống tiện nghi hơn nhiều nên họ cũng khoái xuống trần gian. Xin Thầy giải thích cho con hiểu rõ thêm?
Đáp: Kinh Thập Nhị Nhân Duyên và kinh Pháp Môn Căn Bản đã xác định không có các cõi siêu hình (linh hồn), ba mươi ba cõi Trời toàn là các cõi tưởng tri chứ không phải là cõi liễu tri, cho nên những kinh khác nói đến cõi Trời hoặc cõi Địa ngục đều chỉ là nói đến cõi Tưởng ấm, cho nên nhiều người không hiểu tưởng là Đức Phật nói có cõi siêu hình thật sự.
Đức Phật không bao giờ tự mâu thuẫn với mình, bài kinh Pháp Môn Căn Bản đã xác định rõ ràng, tất cả cõi Trời mà Đức Phật nói ra đều là cõi tưởng, cõi không có thật. Khi một người còn sống là có cõi hữu hình (hữu sắc) và có cõi siêu hình (vô sắc). Khi một người mất đi thì cõi hữu hình mất và cõi vô hình cũng mất luôn.
Trong kinh điển Phật dạy: Thiện là cõi chư Thiên, ác là cõi Địa ngục, dục là cõi nhân gian. Quý phật tử hãy đọc tập 3 Đường Về Xứ Phật, Thầy đã giải đáp về thế giới siêu hình rất rõ ràng.
Chư Thiên và Tam Bảo không có gia hộ vì gia hộ là trái với luật nhân quả (phi đạo đức), nhưng người ta thường sống theo thói quen nên hễ làm một điều gì thành công thì bảo là chư thiên hay là Tam Bảo gia hộ. Sự thật thì không có ai gia hộ mình cả mà chỉ có công sức của mình và những hành động làm những điều thiện sống đúng trong đạo đức nhân quả, do nhân làm thiện nên quả phải thành công tốt đẹp, nếu nhân làm ác thì quả sớm muộn gì cũng phải gặp thất bại.
Chư thiên cũng chẳng có, cõi siêu hình cũng không có. Thầy nói mấy ông ở cõi Trời nhìn xuống thế gian… là nói mấy ông đi tu mà không dám bỏ dục lạc thế gian. Như Thầy đã dạy ở trên: cõi Trời là cõi thiện, quý thầy đang ở trong chùa tức là ở cõi thiện, cõi thiện tức là cõi Trời.
Cõi Trời cơm ăn áo mặc rất đầy đủ, không làm vẫn có ăn có mặc, thế mà quý thầy còn chạy theo dục lạc thế gian ăn uống phi thời, áo quần sang cả, chùa cao Phật lớn, xe cộ đủ loại, ti vi, tủ lạnh, máy điều hòa không khí v.v… thế gian có vật gì thì trong chùa có vật nấy, như vậy các vị có phải ở trên cõi Trời mà nhìn xuống thế gian sanh tâm ham thích không?
Có dịp Thầy sẽ giải thích thế giới siêu hình (linh hồn người chết) có hay không để các con không còn nghi ngờ. Bởi vì các hiện tượng siêu hình thường xảy ra chung quanh các con nên làm sao người ta rõ được là không có thế giới siêu hình.
Trong việc tìm hài cốt liệt sĩ, linh hồn người chết về nhập đồng cốt để chỉ cho thân nhân tìm xương cốt, khiến cho người ta phải chấp nhận có linh hồn, mà đã có linh hồn thì phải có thế giới siêu hình, vấn đề này làm các nhà khoa học cũng điên đầu, nhưng đối với những vị tu sĩ Phật giáo đã nhập Tứ Thánh Định vượt qua thế giới tưởng ấm thì họ mới xác định thế giới siêu hình đúng đắn giống như Đức Phật đã dạy:
“Thế giới siêu hình chỉ là một thế giới của tưởng tri* chứ không phải liễu tri.”
Cho nên Đức Phật dạy về thế giới cõi Trời là những người cũng sống trong cõi thế gian như chúng ta nhưng họ sống Thập Thiện, không sống trong Thập Ác.
Đạo Phật tính theo hành động đạo đức nhân quả thiện ác mà phân loại Phật, Trời, Người, A Tu La và tất cả các loài chúng sanh theo tiêu chuẩn như sau:
1- Thế giới của chư Phật thì vô lậu.
2- Thế giới của chư Thiên thì Thập Thiện.
3- Thế giới của loài Người là dục giới và ngũ giới.
4- Thế giới của A Tu La là sân và ác pháp.
5- Thế giới của loài chúng sanh là ác pháp nhiều, thiện pháp ít.
6- Thế giới của Địa ngục là toàn ác pháp.
Trên đây là sáu cõi mà Đức Phật đã chỉ cho chúng ta rất cụ thể như:
1- Người sống vô lậu là Phật.
2- Người sống Thập Thiện là Trời.
3- Người sống giữ gìn ngũ giới là Người.
4- Người sống thường hay giận dữ là A Tu La.
5- Người sống ác nhiều thiện ít là chúng sanh mang lốt người và tất cả loài chúng sanh.
6- Người sống toàn ác là người ở cảnh giới Địa ngục.
Sáu cõi trên đây không có cảnh giới nào là siêu hình cả. Nếu quả thật có cảnh giới siêu hình thì không phải để chúng ta hiểu, vì tri thức hữu hạn của chúng ta không cho phép chúng ta hiểu nó, thế giới đó nếu có thật sự thì chúng ta phải có trí vô hạn.
Sanh ra làm người chúng ta không thể nào có trí vô hạn được, trí của chúng ta hiện giờ đối với không gian thì bị ngăn sông cách núi nên không thấy, không nghe, còn đối với thời gian thì bị chia cắt quá khứ, hiện tại và vị lai, cho nên con người phải phát minh ra những loại máy để sử dụng thâu ngắn không gian và ghi nhớ để hạn chế bớt thời gian chia cắt.
Nếu đạo Phật có cõi Trời thì đạo Phật cũng bắt chước các tôn giáo khác mà thôi, đó là đúc từ khuôn mê muội và quá sợ hãi của loài người thời cổ trước sự hùng vĩ của môi trường sống thiên nhiên.
*(Tưởng tri là sự hiểu biết bằng tưởng thức, không rõ ràng, cụ thể, thiết thực. Nói cách khác cho dễ hiểu có nghĩa là ý thức không thấy, hiểu, biết được nên phải dùng tưởng thức để tưởng tượng. Liễu tri là sự hiểu biết bằng ý thức rất cụ thể, rõ ràng, thiết thực, không mơ hồ, trừu tượng, ảo giác).
51. BỒ TÁT QUAN THẾ ÂM
Hỏi: Kính thưa Thầy, có nhiều kinh nói: “Thế thế thường hành Bồ Tát Đạo” là chỉ cho những vị Bồ Tát phát tâm nhập thế tu hành. Vậy chư vị Bồ Tát, vì nguyện tu hành thành Phật mà xuống cõi ta bà này để độ chúng sanh không? Nhưng sao Thầy bảo Bồ Tát Quan Thế Âm do tưởng tượng chứ không có thật. Vậy xin Thầy hoan hỉ chỉ dạy cho con hiểu ý này?
Đáp: “Thế thế thường hành Bồ Tát Đạo” câu nói này của kinh điển phát triển (Đại Thừa). Bồ Tát là vị tu hành chưa xong mà thể hiện độ chúng sanh chẳng khác một người mù mà dẫn dắt một đám người mù, cũng như người chưa biết bơi mà cứu người chết đuối thì làm sao mà cứu được, chỉ có chết chung nhau cả đám mà thôi.
Có người bảo rằng cứ theo kinh sách có sẵn của Đức Phật mà giảng ra có sai đâu. Kinh sách là pháp môn chết nên nó không chỉ cho chúng ta kinh nghiệm được, vì thế mà các giảng sư học giả dạy đạo cho người tu là giết người, bằng chứng thầy Tổ của chúng ta đã chết một cách đau khổ bởi tu theo học giả.
Bồ Tát Quán Thế Âm là một sản phẩm của kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn thể hiện phá luật nhân quả, phi đạo đức và phi giáo lý của đạo Phật.
Bồ Tát chỉ là một tưởng tượng của người tu chưa chứng đẻ ra để an ủi mình, để che đậy việc phá giới luật, để kinh doanh Phật pháp, để làm giàu trên xương máu của tín đồ, để đưa tín đồ đến chỗ mê tín, lạc hậu, luôn luôn chỉ biết cầu cạnh dựa nương vào tha lực làm mất hết nghị lực tự lực cứu mình thoát cảnh trầm luân.
Câu nói: “Thế thế thường hành Bồ Tát Đạo” có nghĩa là đời đời nguyện làm Bồ Tát độ chúng sanh như Bồ Tát Quán Thế Âm độ hết nạn khổ của chúng sanh mới thành Phật, Bồ Tát Địa Tạng độ hết tội nhân dưới địa ngục thì mới thành Phật. Chúng ta mới nghe lời nguyện ước này thật là vĩ đại, nhưng càng suy ngẫm chúng ta mới thấy là lời nói lừa đảo những tín đồ mê tín.
Nạn khổ của chúng sanh do đâu mà có? Có phải do hành động ác của chúng sanh đã tạo ra không? Tội nhân dưới địa ngục có phải do làm ác của chúng sanh không?
Muốn thoát nạn khổ và muốn không làm tội nhân nữa thì chỉ có duy nhất là tự chúng sanh đó đừng làm việc ác nữa, còn độ theo kiểu hai vị Bồ Tát này khiến cho chúng sanh làm ác thêm và thế gian này càng thêm rối loạn vì nạn trộm cướp và những kẻ hung dữ náo loạn gây rối trật tự an ninh.
Bồ Tát trong kinh Nguyên Thủy chỉ là một người mới tu hành chưa chứng đạo cho nên chẳng dám dạy ai tu hành cả. Đức Phật răn nhắc điều này: “Tu chưa chứng đạo mà dạy người là giết người.”
Bồ Tát trong kinh Đại Thừa là Bồ Tát tham danh, tu chưa tới đâu, chỉ học trong mấy bộ kinh rồi tưởng giải ra làm lệch ý Phật, đẻ ra kinh sách phát triển dạy người tu hành mê tín, trừu tượng, ảo giác, khiến người tu hành theo Phật giáo mà thành tu pháp môn ngoại đạo.
Cho nên quý phật tử cần phải đề cao cảnh giác những hạng Bồ Tát danh lợi này. Việc làm của hai vị Bồ Tát Quan Thế Âm và Bồ Tát Địa Tạng giống như con dã tràng xe cát, giống như người lấp biển. Bồ Tát Quan Thế Âm và Bồ Tát Địa Tạng là hai vị thần của Bà La Môn, nó là một sản phẩm tưởng tượng hí luận của ngoại đạo tạo sự mê tín phi đạo đức trong dân gian mà hầu hết mọi người đều mê lầm.
52. TRIẾT HỌC CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
Hỏi: Học môn triết học Chủ Nghĩa Duy Vật Biện Chứng và Chủ Nghĩa Duy Vật Lịch Sử, thầy cô đều dạy phải có một lập trường tư tưởng vững vàng, phải đứng trên lập trường tư tưởng của giai cấp công nhân… nên làm con rất dao động tư tưởng. Xin Thầy giảng cho con được an.
Đáp: Về môn triết học thì loài người từ xưa cho đến nay đã để lại cho chúng ta rất nhiều triết học, nhưng không có một triết học nào đứng vững, nó chỉ đáp ứng theo xu thế của thời đại mà thôi.
Triết học không phải là chân lý của loài người cho nên nó thường không theo kịp từng thời đại, thường bị lỗi thời nên không được con người áp dụng vào cuộc sống triệt để. Chúng ta ai cũng biết con người có hai phần:
1- Phần vật chất. Phần vật chất gồm có một duyên (sắc uẩn là thân tứ đại)
2- Phần tinh thần. Phần tinh thần gồm có bốn duyên (thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn)
Như vậy triết học Chủ Nghĩa Duy Vật Biện Chứng chỉ luận về phần vật chất còn phần tinh thần hoàn toàn không hiểu. Và như vậy triết học Chủ Nghĩa Duy Vật Biện Chứng không đủ những điều kiện giải quyết nhân sinh quan và vũ trụ quan để cho chúng ta có một lập trường tư tưởng vững vàng. Có đúng như vậy không các con?
53. LUẬT NHÂN QUẢ
Hỏi: Luật nhân quả rất công bằng, ai làm thì người đó chịu. Vậy sao trên đời này chẳng thấy có cái gì là công bằng cả. Ví dụ: như người siêng năng học tập không chơi bời mà khi kết quả thi thì cứ thấp hơn những người chơi nhiều học ít. Tại sao vậy?
Đáp: Luật nhân quả rất công bằng, ai làm thì người đó chịu, nhưng chúng ta phải có đủ trí tuệ quán xét chứ không nhìn một cách thông thường mà thấy được sự công bằng ấy.
Ví dụ như người siêng năng học tập không chơi bời mà khi kết quả thi thì cứ thấp hơn những người chơi nhiều học ít. Nếu nhìn thông thường thì chúng ta thấy luật nhân quả không công bằng, còn chúng ta nhìn suốt lý nhân quả thì mới thấy luật nhân quả không bỏ sót một hành động thiện ác nào mà ta đã tạo nhân trong hiện tại cũng như trong quá khứ. Cho nên luật nhân quả gồm có nhiều góc độ nhìn:
- Thứ nhất: nhân hiện tại quả hiện tại.
- Thứ hai: nhân quá khứ quả hiện tại.
- Thứ ba: nhân hiện tại quả tuơng lai.
- Thứ tư: nhân người này quả người khác chịu do chùm nhân quả.
Ví dụ trên về người sinh viên thì phải nhìn nhân quá khứ, quả hiện tại thì mới thấy luật nhân quả công bằng, còn nhìn nhân hiện tại, quả hiện tại thì luật nhân quả không công bằng, đó là nhìn sai.
Thường mọi người chỉ nhìn thấy nhân hiện tại, quả hiện tại chứ không chịu thấy những nhân quả ở các góc độ khác nhau, vì vậy đôi khi thấy nhân quả không công bằng.
Ví dụ: Như một người ăn cắp mà không bị bắt quả tang tại trận, không bị đánh đập, không bị tù tội thì cho đó là nhân quả không công bằng. Như vậy là cái nhìn nhân quả không đúng chứ không phải nhân quả không công bằng.
Luật nhân quả có sự chuyển biến thay đổi theo từng sát na, từng giây, từng phút không để một kẽ nhỏ của thời gian thiếu công bằng. Nếu một hành động thiện vừa làm là có sự thay đổi nghiệp quả ngay liền chuyển biến sự đau khổ của người làm thiện. Thiện ở đây có ba nơi xuất phát: 1- Thân hành thiện; 2- Khẩu hành thiện; 3- Ý hành thiện.
Chỉ một ý hành thiện vừa khởi là chúng ta cũng cảm thấy quả khổ tiêu tan ngay liền.
Ví dụ 1: Một người đang tức giận bị người khác mắng chửi, họ chỉ cần khởi niệm: “Đời trước ta đã gieo nhân này nên ngày nay ta phải trả hoặc người này là người đáng thương họ đang tạo nhân quả ác.” Khi nghĩ như vậy ngay liền là họ hết khổ. Phải biết đang tức giận là đang trả quả ác (khổ), đang chửi mắng là đang tạo nhân ác.
Ví dụ 2: Khi ta vừa khởi niệm người ấy xấu ác là nhân thì ngay đó liền có quả ta phiền não và đau khổ. Cho nên phải quán xét trong nhiều góc độ khác nhau thì ta mới thay luật nhân quả công bằng và công bằng tuyệt đối, do công bằng tuyệt đối nên không sai một hào li, vì không sai một hào li nên người nào không đủ trí tuệ quán xét tế nhị thì không thấu rõ, vì vậy cho rằng luật nhân quả không công bằng.
Như người siêng năng học tập không chơi bời mà khi kết quả thi thì cứ thấp hơn những người chơi nhiều học ít. Là vì người học sinh ấy học hành không có phương pháp nên học nhiều mà không nhớ (nhân), do đó kết quả thi thì cứ điểm thấp (quả hiện tại). Còn người học ít nhưng lại học có phương pháp nên nhớ không quên (nhân hiện tại), do đó kết quả thi thì điểm cao (quả hiện tại).
Vì công bằng cho nên luật nhân quả không phải chỉ có ở góc độ nhân quả hiện tại mà còn ở nhiều góc độ khác nữa, khi nào các con học đạo đức nhân bản – nhân quả thì các con sẽ hiểu rõ hơn nhiều về sự công bằng của luật nhân quả. Các con cứ thử nghĩ xem: luật nhân quả chi phối điều hành khắp vũ trụ này, nếu chỉ một sát na không công bằng thì vũ trụ này sẽ đổ nhào và không còn trật tự, tất cả vạn vật đều bị rối loạn và bị tiêu diệt.
Với đôi mắt và trí óc phàm phu người ta không thể nào nhìn thấu suốt quy luật hoạt động của nhân quả, vì thế người này thấy góc độ này, người kia thấy góc độ khác chứ chẳng bao giờ thấy toàn diện.
54. NGẪU NHIÊN
Hỏi: Trên đời này có những điều may mắn ngoài quy luật nhân quả không thưa Thầy?
Đáp: Trên đời này không có sự ngẫu nhiên, mọi sự kiện, mọi sự vật xảy ra đều phải theo quy luật nhân quả điều khiển họat động. Cho nên sự may mắn cũng như sự rủi ro đều do sự định đoạt của luật nhân quả cả. Bởi vì luật nhân quả không ai tạo ra nó mà chính mình tạo ra, nên nó xử phạt lại mình rất công bằng. Con người mê mờ không đủ trí tuệ nhìn xuyên suốt đường đi của nhân quả nên cho rằng sự may mắn và sự rủi ro ngoài quy luật nhân quả. Nếu các con cho rằng: mọi sự xảy ra điều là sự ngẫu nhiên thì các con cứ làm ác đi! Hay làm thiện đi! Thì các con sẽ thấy rõ… Nhân quả thiện ác sẽ đến thăm các con, nó không tha một người nào đâu, các con ạ!
55. SỐ MỆNH
Hỏi: Có số phận không thưa Thầy?
Đáp: Có luật nhân quả chớ không có số phận. Do tinh thần tiêu cực, mất hết ý chí tự lực nên có một số người đặt ra thuyết định mệnh để an ủi lại mình khi đứng trước những nhân quả quá khắc nghiệt, quá khó khăn. Do bi quan họ nghĩ tưởng rằng: con người không thể nào vượt qua số phận. Phần đông ngày nay người ta chịu ảnh hưởng thuyết định mạng nhân quả của văn hóa Trung Hoa.
Khi đứng trước những việc khó khăn, những sự thử thách gian nan, khổ sở, họ đều co đầu, rút cổ và bảo rằng: Đó là định mệnh do Trời đã quyết định, chúng ta là con người không thể làm nên và cũng không thể nào vượt qua được. Do sự tư duy như vậy nên nghị lực mất hết, tinh thần yếu kém, mất sức tự chủ v.v…
Nếu có số phận của con người thì trên đời này không có luật nhân quả. Không có luật nhân quả thì xã hội loài người không bao giờ có sự công bằng. Nếu không có luật nhân quả thì không bao giờ có câu tục ngữ: “Không ai giàu ba họ và cũng không ai khó ba đời.”
Vì đời sống con người đều nằm trong luật vô thường chung của các pháp, đó là quy luật của nhân quả, của bánh xe tiến hóa luân hồi. Do đó không thể nào nói có số phận được. Phải không các con?
Nếu không có luật nhân quả thì bốn chân lý của đạo Phật không ra đời, vì mọi sự đau khổ của con người là số mệnh, là số phận cố định. Vì mọi sự đau khổ của con người là số phận, là số mệnh cố định không thay đổi được, vì thế không thể nào chuyển khổ thành vui được. Do đó chân lý của đạo Phật không còn là chân lý của loài người nữa.
Mục đích đạo Phật ra đời là dạy con người chuyển khổ thành vui, lấy nhân thiện chuyển quả ác đem lại sự an vui hạnh phúc cho mọi người, cho nên chân lý của Phật giáo sẽ đập tan tành thuyết định mệnh, vì thế con người không còn gọi là số phận mà là chuyển nghiệp xấu thành nghiệp tốt.
Ví dụ: Một người chửi mắng mình, mình không chửi mắng lại, vui vẻ không giận hờn, đó là chuyển nhân ác thành quả vui. Như vậy đâu phải là số phận mà là nhân quả, phải không các con?
... Hài cốt em tôi thì tôi đã tìm thấy, nhưng những con đường bí ẩn dẫn đến kết quả ấy thì vẫn là bí ẩn. Khám phá ra những điều bí ẩn ấy không phải là điều dễ dàng. Tôi chỉ qua thể nghiệm của riêng mình mà đề xuất một số vấn đề, một số câu hỏi để các chuyên gia về lĩnh vực này xem xét.
1- Tôi có căn cứ để tin rằng đã gặp linh hồn em tôi, anh tôi và chị tôi, cả linh hồn cụ Giám là người chôn cất và linh hồn cụ An là người chứng kiến. Cháu Hằng đã nhận dạng được linh hồn, thậm chí nhận diện được linh hồn qua tấm ảnh, đã nghe được tiếng nói của linh hồn. Như vậy linh hồn phải tồn tại dưới một dạng vật chất nào đó, có hình thù, có khả năng phát ra tiếng nói. Đã là một dạng vật chất thì vật lý học, hóa học, y học, sinh học, với những phương tiện quang học và điện tử tinh vi, hẳn sẽ có ngày tìm ra. Các nhà khoa học Việt Nam có thể đóng góp gì theo hướng đó?
2- Tôi nhận thấy linh hồn người chết vẫn thể hiện những tình cảm vui buồn, quan tâm, ước muốn (thậm chí giận dữ như cụ Giám, tranh cãi như cụ An) vẫn nhớ và kể lại những việc đã qua, kể cả những việc xảy ra sau khi thể xác mình đã chết, vẫn theo dõi và đánh giá được những việc mà người sống đang làm. Như vậy linh hồn không phải là một vật thể vô tri vô giác mà là một vật thể sống, có tình cảm và tư duy. Điều này đặt ra một câu hỏi: Có một thế giới linh hồn ngoài thế giới của con người đang sống không? Thế giới linh hồn hoạt động như thế nào? Có khả năng tác động gì vào thế giới của con người đang sống không?
Để đáp ứng những sự mong muốn của linh hồn người thân, người sống dâng đồ cúng tế tiền bạc, đồ dùng hằng ngày (dưới dạng vàng mã) là đúng hay nhảm nhí? Linh hồn có tiêu vong đi không? Hay là tồn tại mãi mãi? Tìm lời giải cho những vấn đề này, nếu chỉ dựa vào suy luận thì sẽ dẫn đến tranh cãi bất tận. Vấn đề là chứng minh.
3- Hầu hết mọi người đều không có khả năng nhìn thấy linh hồn, nhìn thấy hài cốt vùi lấp dưới lớp đất dày mấy mét. Chỉ một số ít người như cháu Hằng có khả năng đó. Khả năng đặc biệt ấy là do cấu tạo đặt biệt sinh lý nào vậy? Y học nên quan tâm tìm ra lời giải.
4- Nếu khả năng nhìn thấy linh hồn và nghe thấy tiếng nói của linh hồn có thể quy về cấu tạo sinh lý đặc biệt của một số người thì khả năng nhận biết được những thông tin bí ẩn của anh Nhã, anh Liên và một số người khác càng khó khám phá hơn. Nhưng một khả năng đã giúp cho nhân dân tìm được hàng ngàn hài cốt liệt sĩ, chẳng lẽ không đáng bỏ công tìm hiểu, khám phá?
5- Để làm những công việc trên, liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam đã lập ra một trung tâm nghiên cứu có tên là “Trung Tâm Nghiên Cứu Tiềm Năng Con Người.” Song quyền hạn và phương tiện thì rất hạn hẹp. Nên chăng thành lập một viện nghiên cứu có sự hỗ trợ về kinh phí của Nhà nước, có sự quyên góp tự nguyện của những người quan tâm?
Công việc của viện này, nếu thành công, xác nhận được sự tồn tại của linh hồn thì không những có ý nghĩa nhân văn mà còn có ý nghĩa về nhiều mặt khác, kể cả về hình sự (Nếu người bị giết khi nói ra thì kẻ giết người tránh sao khỏi tội?), không những có ý nghĩa quốc gia mà còn ý nghĩa quốc tế.
Trong khi chờ đợi nghiên cứu thành công thì cần có những chánh sách chế độ để những người có khả năng đặc biệt có thể phát huy tài năng nhiều hơn vào việc tìm kiếm hài cốt liệt sĩ là nguyện vọng tha thiết của hàng chục vạn gia đình. Tránh những lời bổ báng, vội vã, tránh vơ đũa cả nắm, nhập cục vào số người buôn thần, bán thánh, lợi dụng mê tín, dị đoan. Càng nên tránh những thái độ thô bạo cấm đoán, bắt bớ, giam cầm. Mới chỉ cách đây năm mươi năm thôi, nhiều nhà khoa học Liên Xô, vì nghiên cứu đã bị tống giam vào nhà thương điên. Trên con đường khúc khuỷu của khoa học đã xảy ra biết bao nhiêu sự kiện đau lòng như thế, chẳng nên lấy đó làm răn ư!?
Thay lời kết luận
Tôi viết bài này với mục đích chính là trong tôi có một sự nghi ngờ rất lớn mà tôi không thể trả lời được. Khi viết gần xong, tình cờ tôi có dịp làm quen với giáo sư Đào Vọng Đức và thiếu tướng - Phó tiến sĩ Nguyễn Chu Phác là những người phụ trách chủ chốt của Trung Tâm Nghiên Cứu Tiềm Năng Con Người. Biết được mục tiêu nghiên cứu của các anh, tôi sẵn sàng gửi câu chuyện gia đình của tôi cho các anh để Trung tâm sử dụng như một tư liệu tham khảo.
Với ý nghĩa đó, tôi đã viết thêm một đoạn “Khám phá sự bí ẩn?” Hy vọng những lời bàn chầu rìa của một người ngoài lĩnh vực này (tôi chỉ là một nhà kinh tế) có chút gì bổ ích cho công cuộc nghiên cứu của các anh chăng?
Hà Nội, tháng 12 năm 1999.
Giáo sư Trần Phương
Sau khi đọc bài viết của giáo sư Trần Phương “Tìm hài cốt liệt sĩ, một hành trình đầy bí ẩn.” Trong bài viết này đoạn cuối chúng tôi thấy giáo sư có đưa ra nhiều câu hỏi để gợi ý giúp cho Trung Tâm Nghiên Cứu Tiềm Năng Của Con Người qua tựa đề “Khám phá sự bí ẩn.”
Theo nhận xét của chúng tôi, những hiện tượng đã xảy ra trong chuyến đi tìm hài cốt của cô em gái của giáo sư Trần Phương, dù cho mười cái Trung Tâm Nghiên Cứu và tập trung tất cả các nhà khoa học trên thế giới cũng không giải thích được, trừ ra sự tiến bộ của khoa học đã tạo ra được một bộ óc điện tử như bộ óc của con người thì mới xác định được thế giới siêu hình có hay không. Và những hiện tượng con người có khả năng thấy và nói chuyện với ma cũng như làm thông dịch lại cho chúng ta biết.
Đọc qua những câu hỏi của giáo sư, chúng tôi thấy đây là những câu hỏi của mọi người chứ không riêng gì của giáo sư. Những câu hỏi của giáo sư đại diện cho giới trí thức đang bị những hiện tượng kỳ lạ dày vò tâm tư mà không thể giải đáp được.
Với một số ngôn ngữ hiện có thì khó mà giải thích cho quý bạn hiểu biết một cách rành rẽ về những hiện tượng này, nhưng chúng tôi sẽ cố gắng. Tin hay không tin là quyền ở các bạn. Phải chi chúng tôi có được nhiều người như chúng tôi thì chắc chắn các bạn sẽ dễ tin hơn.
Trước khi nghe chúng tôi trình bày những hiện tượng này, chúng tôi xin có những lời khuyên các bạn: “Trong cuộc sống của con người điều quan trọng và cần nhất là đạo đức, cái gì phi đạo đức là chúng ta không chấp nhận, bởi vì có thế giới siêu hình tác động vào cuộc sống của loài người thì có sự phi đạo đức.”
Ví dụ: Con cháu làm điều tội lỗi phạm pháp luật, bị tù tội, tai nạn, bệnh tật khổ đau v.v... Những linh hồn ông bà cha mẹ vì thương con cháu nên phù hộ chúng cho thoát nạn, tai ương, họa khổ v.v... hoặc những linh hồn này thù oán ai, khiến cho họ đau bệnh hoặc gặp tai nạn này tai nạn khác. Và như vậy là một việc làm phi đạo đức.
Còn nếu thế giới linh hồn người chết mà không tác dụng lợi ích cho cuộc sống của con người thì thế giới linh hồn có để làm gì? Hay để làm hao tốn tiền bạc của loài người, trong khi những linh hồn này không làm ra vật chất mà đòi hỏi vật chất thế gian: Trà nước, thuốc Cáp Tăng, giấy tiền vàng mã (cháu Hằng thông dịch lại), quần áo, nhà cửa, kho đụn, xe cộ, tivi, tủ lạnh, v.v... Đó có phải thế giới linh hồn là một thế giới phi đạo đức không?
Thưa các bạn! Chúng tôi đã nhờ sức Tứ Thánh Định của Phật giáo mà biết được những hiện tượng phi không gian và thời gian này xảy ra do năng lực nào và năng lực ấy từ đâu xuất phát làm nên những hiện tượng kì lạ này? Sau khi đọc xong bài “Tìm hài cốt liệt sĩ”. Cái cảm tưởng đầu tiên của chúng tôi là xúc cảm thương đau cho những người anh, người chị, người em trai và người em gái của chúng tôi khắp nơi trên đất nước Việt Nam quê hương này đã vì Tổ quốc chịu biết bao nhiêu cực hình cay đắng rồi hi sinh mạng sống của mình cho dân, cho Nước, cho Đảng. Để ngày nay chúng ta, những người còn sống thọ hưởng sự độc lập, tự do, bình đẳng và hãnh diện với mọi người khắp năm châu.
Một đất nước bị nô lệ ngoại xâm thì dân nước đó phải chịu khổ biết dường nào vì nhân quyền không có. Nếu đứng lên chống giặc ngoại xâm thì xương máu phải tô thắm đỏ mảnh đất này.
Chúng tôi cũng có người em trai đã hi sinh trong trận Đồng Khởi Tua Hai Tây Ninh, xác em tôi được chôn vùi nơi bìa rừng. Chiến tranh chấm dứt thì nơi đó đã trở thành nơi dân cư trù phú, vì thế chúng tôi không thể tìm hài cốt em tôi được. Và chúng tôi thiết nghĩ, xương thịt của em tôi dù chôn vùi bất cứ nơi đâu trên mảnh đất quê hương này thì nó cũng xứng đáng là một công dân Việt Nam yêu nước, yêu quê hương, yêu Tổ quốc và thương yêu dân tộc của nó.
Giáo sư Trần Phương thương khóc cho cô em gái của mình phải chịu đựng những cực hình khổ đau nhất đời của những con người không phải người, hung ác hơn loài ác thú. Hôm nay giáo sư đã tìm được hài cốt cô em gái của mình, cô Khang.
Còn chúng tôi thì sao? Các anh, các chị và các em gái của chúng tôi đã hi sinh thân mình cho Tổ quốc, cho dân tộc, cho quê hương xứ sở này. Hôm nay có người tìm được hài cốt đem về nghĩa trang liệt sĩ, nhưng có người chưa tìm được còn nằm rải rác khắp nơi trên mảnh đất quê hương này. Thân cát bụi trả về cho cát bụi, còn linh hồn thì sao, có hay là không có?
Chúng tôi không trích ra từng đoạn để trả lời giáo sư về thế giới linh hồn mà cho in cả bài này vào tập Đường Về Xứ Phật. Vì bài này nói lên được ý nghĩa kiên cường, bất khuất của một dân tộc anh hùng, dân tộc Việt Nam. Sau khi tìm hài cốt cô em gái của mình, giáo sư Trần Phương không còn đứng yên trên vị trí khoa học nữa mà đã bị đảo lộn tư tưởng bởi những nhà ngoại cảm làm sống lại cái thế giới siêu hình. Rồi đây ai cũng nghĩ: sau khi chết còn có sự sống. Sau khi chết còn có sự sống thì tệ nạn mê tín dị đoan lại sẽ gia tăng lên nhiều hơn nữa, thì đạo đức lại xuống dốc.
Giáo sư nêu lên những câu hỏi để mong cầu những ai có thể giải đáp cho mình, cho mọi người những điều mắt thấy tai nghe mà riêng tri thức của giáo sư cũng như mọi người khác không thể hiểu và giải thích được. Những câu hỏi ấy giáo sư đã lấy tên: “Khám phá sự bí ẩn” có nghĩa là ai trả lời được những câu hỏi của giáo sư là khám phá ra sự bí ẩn của thế giới siêu hình.
Đọc bài này chúng tôi cảm thấy vô tình giáo sư đã làm sống lại cái thế giới siêu hình mà từ lâu các nhà khoa học không chấp nhận, thường tìm mọi cách để chứng minh cho mọi người biết thế giới siêu hình không có, nhưng khả năng của khoa học còn phải tiến xa hơn nữa và tiến xa rất nhiều nữa thì mới có mong khám phá ra những sự bí ẩn này. Còn hiện giờ thì sao? Thì cứ mặc tình cho mọi người mê tín dị đoan. Do kẽ hở này mà một số tôn giáo, một số người lợi dụng khoa học không giải thích được thế giới siêu hình mà bịa ra nhiều điều mê tín dị đoan để làm tiền thiên hạ mà không pháp luật nào bắt tội họ được.
Đứng trước những sự lừa đảo lường gạt người bất chánh của Đại Thừa giáo, của các thầy phù thủy, của đồng, bóng, cốt, tự xưng là Phật, Thánh, Tiên, bà Chúa Tiên, Chúa Xứ, quỷ, ma, cô, cậu v.v... Bài viết này của giáo sư Trần Phương là một cái cớ để cho những người vô loại này thừa “nước đục thả câu” mà phát triển giáo pháp mê tín, thì đạo đức nhân bản - nhân quả làm người sẽ mất dần và loài người không còn là người nữa mà là ác thú, ác quỷ. Hiểu được điều này chúng tôi không thể làm ngơ.
Vì ích lợi cho mọi người và vì nền đạo đức của con người trên hành tinh này, vì thế chúng tôi xin mạo muội trả lời những câu hỏi của giáo sư không phải để khám phá những điều bí ẩn của giáo sư mà chỉ nêu lên một sự thật “Thế giới linh hồn không có” để đem lại sự lợi ích cho mọi người, không còn bị người khác lợi dụng sự chưa hiểu của mình mà làm những điều lừa gạt bất chánh.
(Còn tiếp: Trả lời giáo sư. Tìm hiểu các nhà ngoại cảm: anh Nhã, chị Bích Hằng).
56 (tiếp theo). KHÁM PHÁ SỰ BÍ ẨN CÁC NHÀ NGOẠI CẢM
LINH HỒN LÀ DO TƯỞNG TRI CỦA NGƯỜI CÒN SỐNG
Chúng tôi xin trả lời câu hỏi của giáo sư,
Câu hỏi 1, Giáo sư đã xác định: “Tôi căn cứ để tin rằng đã gặp linh hồn em tôi, anh tôi và chị tôi, cả linh hồn cụ Giám là người chôn cất và linh hồn cụ An là người chứng kiến. Cháu Hằng đã nhận dạng được linh hồn, thậm chí còn nhận diện được linh hồn qua tấm ảnh, đã được nghe tiếng nói của linh hồn. Như vậy linh hồn phải tồn tại dưới một dạng vật chất nào đó, có hình thù, có khả năng phát ra tiếng nói. Đã là một dạng vật chất thì vật lý học, hóa học, y học, sinh học, với những phương tiện quang học và điện tử tinh vi, hẳn sẽ có ngày tìm ra. Các nhà khoa học Việt Nam có thể đóng góp gì theo hướng đó?”
Cách đây 2548 năm có một người đã xác định rằng: “Không có thế giới siêu hình” có nghĩa là không có đời sống sau khi chết. Ngài đã chia thân người làm năm phần:
- Phần thứ nhất là Sắc uẩn.
- Phần thứ hai là Thọ uẩn.
- Phần thứ ba là Tưởng uẩn.
- Phần thứ tư là Hành uẩn.
- Phần thứ năm là Thức uẩn.
Một người chết năm uẩn này đều tan rã không còn một chút xíu nào cả. Người xác định điều này là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Vậy thì cái gì còn lại gọi là linh hồn của con người? Theo cái nhìn của Phật giáo thì một con người là do năm duyên hợp lại mà thành ra.
Và xa hơn nữa là vạn vật trên thế gian này đều hiện hữu, sự hiện hữu có mặt của một vật đều do nhiều duyên hợp lại. Cho nên một thế giới mà có được thì phải có nhiều duyên kết hợp mới lập thành. Một thế giới không thể nào chỉ có một vật thể đơn điệu được.
Ví dụ 1: Một cái cây kia, nếu không có đất, nước, gió, không khí và nhiệt độ, nóng lạnh, ẩm thấp, nắng mưa, v.v... thì cây kia không thể sống được.
Ví dụ 2: Một con người sanh ra ở đời, nếu không có cỏ cây, thực phẩm để nuôi sống thì con người cũng không sanh ra được, nếu có sanh ra được thì cũng không sống được. Cỏ cây, con người và vạn vật không có sự hiện hữu trên hành tinh này thì làm sao gọi là thế giới.
Vì thế, nếu quả chăng con người có sự sống sau khi chết thì thế giới của người chết phải có một môi trường sống riêng cho linh hồn chứ đâu cần gì chúng ta phải cúng những thực phẩm mà những thực phẩm ấy chỉ nuôi sống cho những duyên hợp hiện hữu của nó, chứ đâu phải những thực phẩm của chúng ta là để cho linh hồn thọ dụng. Vì thế, cúng lễ những thực phẩm hoặc đốt hương, vàng mã của thế giới hữu hình cho thế giới vô hình thì quý vị suy nghĩ có đúng không? Hay làm một việc nhảm nhí?
Nếu quả chăng có thế giới siêu hình thì những linh hồn đó phải có một hình dáng cố định, vì thế giới siêu hình là thế giới thường hằng không thay đổi thì không thể nào linh hồn lấy hình dáng của con người làm hình dáng của mình. Khi mà hình dáng của con người vô thường không cố định, chỉ trong một đời người mà đã thay đổi nhiều lần: trẻ có hình dáng khác, thanh niên có hình dáng khác và già có hình dáng khác, huống là đời này mang hình dáng này, đời sau mang hình dáng khác.
Xét như vậy chúng ta thấy linh hồn có đúng không? Cho nên thế giới hữu hình của chúng ta do các duyên hợp thành, vì do các duyên mà thành nên có sự vô thường thay đổi liên tục. Vì vậy một con người mới sanh ra cho đến bảy, tám chục năm sau thì không giống nhau. Chúng ta hãy quan sát một con người từ hình dáng của một đứa bé mới sanh so sánh với hình dáng của một ông cụ già bảy, tám mươi tuổi thì hai hình dáng này không giống nhau, như vậy chứng tỏ sự vô thường là thật sự.
Như các bạn thường nghĩ và cho linh hồn là một vật thể không thay đổi. Vì thế linh hồn là bất tử nên thường đi tái sanh luân hồi từ thân này đến thân khác. Thân thì có trẻ, có già, có chết. Còn linh hồn thì không già, không trẻ và không chết. Như vậy cháu Bích Hằng phải xem bức ảnh của cô Khang rồi mới nhận ra linh hồn của cô Khang thì như vậy không đúng.
Vì sao vậy? Là vì linh hồn của cô Khang bây giờ không còn là hình dáng của cô Khang nữa, mà là hình dáng bất di bất dịch của linh hồn. Khi linh hồn ấy còn mang thân xác của cô Khang thì hình dáng ấy là hình dáng xác thân của cô Khang, chứ đâu phải là hình dáng linh hồn của cô Khang phải không thưa quý vị?
Khi cô Khang chết thì hình dáng của cô Khang cũng không còn, thì như vậy linh hồn của cô Khang phải trở về với hình dáng nguyên thủy của nó, thì làm sao linh hồn có hình dáng giống cô Khang được. Vì linh hồn là một vật không thay đổi như chúng tôi đã nói ở trên.
Xét ở góc độ này thì cháu Bích Hằng gọi hồn cô Khang về là một năng lực trong thân ngũ uẩn của cháu Bích Hằng tạo ra linh hồn của cô Khang chứ không phải có linh hồn cô Khang thật, vì thế cháu phải nhìn hình ảnh cô Khang rồi mới tạo ra hình ảnh cô Khang được. Do đó chúng ta suy ra, nếu có thế giới linh hồn của người chết thì những linh hồn ấy không có hình dáng giống như chúng ta. Tại sao vậy?
Tại vì một linh hồn phải trải qua nhiều lần tái sanh luân hồi, do đó mỗi lần tái sanh là mỗi lần có hình dáng khác nhau của thân xác, có nhiều hình dáng khác nhau như vậy thì làm sao linh hồn cô Khang giống cô Khang được?
Tất cả những sự việc này lần lượt chúng tôi sẽ cố gắng vén bức màn bí ẩn để quý vị không còn thấy nó là bí ẩn nữa.
Khám phá sự bí ẩn của anh Nhã
Trạng thái ngoại cảm của anh Nhã rất rõ nét vì anh làm việc ngoài ý thức của anh, có nghĩa là trong đầu anh nghe nói tên (Nhương, Nhường, Nhượng) hoặc tự điều khiển anh viết hoặc vẽ bản đồ chứ riêng anh không có chủ ý viết hoặc vẽ. Tự trong đầu anh có sự điều khiển trong vô thức. (“Tôi thấy trong đầu tôi hiện ra như thế nào thì tôi vẽ như thế ấy, tôi cũng chẳng hiểu nữa”). Đây là lời của anh Nhã nói khi giáo sư Trần Phương hỏi. Và anh còn nghe được những âm thanh trong tai (“Tôi thấy trong tai tôi như có âm thanh ấy”).
Qua sự trình bày của anh Nhã chúng tôi xin giải thích để quý vị rõ. Do đâu điều khiển mà anh Nhã đã vẽ được bản đồ của một vùng chưa bao giờ đi đến và vị trí địa thế ngôi mộ cũng được xem là đúng ở cự li rộng.
Trong bộ óc của con người có nhiều nhóm tế bào não, mỗi nhóm tế bào não đều làm việc theo phận sự của nó.
Ví dụ: Một người đang thức và đang làm một việc gì đó hay đang tư duy suy nghĩ về một vấn đề gì thì nhóm tế bào não thuộc về ý thức hoạt động, làm việc, trường hợp đó cũng giống như chúng tôi đang tư duy, suy nghĩ để viết sách và viết như thế nào để quý bạn dễ hiểu và hiểu một cách cụ thể hơn. Chúng ta có thể gọi nhóm tế bào não bộ này là nhóm tế bào não bộ ý thức.
Còn trường hợp chúng ta đang ngủ mà bị chiêm bao thì nhóm tế bào não nào làm việc đây? Chúng tôi xin giải thích, khi chúng ta đang ngủ thì toàn bộ nhóm tế bào thuộc về ý thức chắc chắn phải ngưng hoạt động, như lúc ngủ mắt không thấy vật, tai không nghe âm thanh, ý không phân biệt, v.v... như vậy rõ ràng là nhóm tế bào ý thức chúng ta ngưng hoạt động. Vậy cái gì hoạt động trong giấc chiêm bao?
Xin thưa, khi nhóm tế bào não thuộc về ý thức không hoạt động thì nhóm tế bào não thuộc về tưởng thức hoạt động, do nhóm tế bào tưởng thức này hoạt động nên người ta mới có chiêm bao.
Còn trường hợp của anh Nhã thì hai nhóm tế bào não trong óc anh nó kết hợp (câu hữu) làm việc với nhau, và sự kết hợp làm việc này mới xảy ra với anh chứ trước kia anh không có trạng thái này.
Ở đây chúng ta cần phải hiểu thêm về nhóm tế bào não thuộc về ý thức, khi nó hoạt động thì không vượt qua được không gian và thời gian, vì thế ở khoảng cách xa như ngăn sông, cách núi, hoặc dưới lòng đất, dưới đáy biển đại dương, v.v... thì nó không thể thấy biết được.
Về thời gian nó bị chia cắt có quá khứ, vị lai và hiện tại, quá khứ nó không nhớ biết, vị lai thì mờ mịt không rõ. Ngược lại, nhóm tế bào não bộ thuộc về tưởng thức khi nó hoạt động thì nó vượt qua hàng rào không gian và thời gian nên thời gian và không gian không còn chia cắt và trải dài. Vì thế nó bắt gặp hay nói cách khác là giao cảm với những gì đã xảy ra ở quá khứ và vị lai.
Ở trường hợp này nhóm tế bào não tưởng thức của anh Nhã thì quá rõ ràng, không có trạng thái đồng cốt như cháu Bích Hằng nhưng nó hoạt động chưa chính xác 100%. Vì tưởng thức của anh tự nó hoạt động chứ không phải do anh triển khai, điều khiển nên mức độ hoạt động của nó chưa hoàn chỉnh và chính xác.
Khi tưởng thức hoạt động thì anh Nhã cảm thấy như mình không chủ động, tự trong đầu nó điều khiển như thế nào thì anh làm theo như thế ấy, nhưng ý thức của anh vẫn biết rõ ràng, thậm chí những âm thanh nói trong tai, anh vẫn nghe và biết rõ.
Xét trường hợp trong đầu anh Nhã thì trong đầu anh làm việc hai phận sự:
1- Làm việc bị hạn cuộc trong không gian và thời gian có nghĩa là không vượt ra khỏi thời gian chia cắt và không gian trải dài hay bị ngăn cách.
2- Làm việc không bị hạn cuộc trong không gian và thời gian có nghĩa là vượt qua không gian và thời gian. Sự làm việc này gọi là làm việc trong vô thức.
Người tu theo đạo Phật khi nhập được Tứ Thánh Định thì người ta hiểu biết rất rõ ràng. Trường hợp anh Nhã, ý thức của anh kết hợp với tưởng thức của anh hoạt động hai mặt: 1- Hữu thức; 2- Vô thức
Trường hợp của anh Nhã trong một bộ óc của anh làm việc hai phận sự hữu hình và vô hình, hay nói cách khác cho dễ hiểu hơn là bộ óc anh có phần làm việc bị hạn cuộc bởi không gian và thời gian, và có phần làm việc không bị hạn cuộc không gian và thời gian nhưng chưa chính xác 100%.
Cho nên sự bí ẩn của anh Nhã không có gì bí ẩn, anh sử dụng được những tế bào não ý thức và những tế bào não tưởng thức khiến chúng hoạt động khi ý muốn anh khởi ra.
Tóm lại, sự bí ẩn của anh Nhã thì không có gì là bí ẩn cả chỉ có bộ óc của anh làm việc được hai phần: “phần ý thức và phần tưởng thức.”
Khám phá sự bí ẩn về cháu Bích Hằng
Trường hợp cháu Bích Hằng thì không giống trường hợp anh Nhã, hiện tượng của cháu Hằng xảy ra giống như có một linh hồn người chết nhập vào như thật. Khi trực tiếp chứng kiến năng lực của tưởng uẩn con người, nhất là trường hợp của cháu Bích Hằng khiến cho giáo sư Trần Phương không còn đứng vững trên lập trường khoa học nữa, ông đặt ra nhiều câu hỏi:
“Như vậy linh hồn phải tồn tại dưới một dạng vật chất nào đó, có hình thù, có khả năng phát ra tiếng nói. Đã là một dạng vật chất thì vật lý học, hóa học, y học, sinh học v.v... Với những phương tiện quang học và điện tử tinh vi, hẳn có ngày tìm ra. Các nhà khoa học Việt Nam có thể đóng góp gì theo hướng đó?”
Còn lâu lắm các nhà khoa học Việt Nam mới có thể chứng minh và giải thích những hiện tượng đó bằng hóa học, sinh học, y học, lý học, v.v... Còn bây giờ thì sao? Hay để cho nhân dân Việt Nam sống trong mê tín, phải chịu tốn hao với một số tiền bạc vô nghĩa (đốt tiền vàng mã, cúng sao giải hạn, cầu an, cầu siêu, v.v...).
Khi đọc bài của giáo sư Trần Phương chúng tôi thấy, nếu bài này được phổ biến sâu rộng trong khắp nước mà các nhà khoa học Việt Nam không có tiếng nói thì chắc chắn nạn mê tín dị đoan sẽ lan rộng khắp nơi. Và sẽ có một số người lợi dụng trường hợp này mà gây tạo ra nhiều loại mê tín khác nữa để lừa đảo người.
Chúng tôi đọc bài tâm nguyện của một cư sĩ M.N.C.S ở Long Hải nói rằng: “Những nhà ngoại cảm này thường khoe khoang, Nhà nước đang tìm kiếm những người tài như họ để trưng dụng về việc quốc phòng.” Lời nói này chúng tôi e rằng những hạng người này “thừa nước đục thả câu”, lợi dụng trạng thái tưởng thức không có không gian và thời gian giao cảm mọi sự việc xảy ra tạo dựng thế giới siêu hình để lừa đảo mọi người chứ từ xưa đến giờ chưa có lịch sử nước nào ghi công lao của những người làm đồng, cốt và những nhà ngoại cảm, nhờ lên đồng, nhập cốt và ngoại cảm mà ngăn giặc, đuổi giặc, giữ nước, dựng nước, bắt những kẻ trộm cướp giết người, hiếp dâm, giữ gìn trật tự, an ninh cho quê hương, xứ sở.
Vì biết rằng các nhà khoa học không thể chứng minh được những hiện tượng hoạt động của tưởng thức nên trong các tôn giáo người ta cố ý tu tập để triển khai tưởng thức hoạt động ngõ hầu lấy đó tạo dựng thế giới siêu hình và thần thông để lừa đảo mọi người.
Vì không nhận ra những hiện tượng đó nên mọi người tin tưởng gia nhập vào tôn giáo, nuôi hi vọng khi chết đi sẽ được sanh về nơi đó (Cực Lạc, Thiên Đàng, Niết Bàn), hay có những thần thông pháp thuật.
Do phong thổ, thời tiết, thức ăn nước uống tại địa phương, hoặc do tai nạn xảy ra gây ảnh hưởng não bộ hoặc sự phát triển hoạt động của não bộ không đồng đều khiến cho tưởng thức hoạt động nhiều hơn ý thức (trường hợp cháu Bích Hằng), hoặc ý thức và tưởng thức cùng hoạt động (trường hợp như anh Nhã). Vì thế biến họ từ một con người bình thường trở thành đồng cốt và các nhà ngoại cảm, một con người có khả năng đặc biệt.
Chúng ta không hiểu được năng lực của tưởng thức khi nó hoạt động không giống như ý thức chút nào cả:
1- Nó hoạt động rất đặc biệt tại một điểm nên không có không gian và thời gian, khoa học không thể chứng minh được.
2- Nó giao cảm được mọi âm thanh sắc tướng vì các từ trường của nó, các nhà khoa học có thể chứng minh được.
3- Nó biến hiện ra muôn hình sắc tướng của những người đã chết không sai một nét nào cả. Đó là năng lực duyên hợp của tưởng thức. Các nhà khoa học không thể chứng minh được vì nó không phải là vật lý học, hóa học, y học, sinh học, v.v...
4- Nó tạo ra một người thứ hai đang tiếp chuyện với ý thức của nó. Đó là năng lực hợp duyên của tưởng thức, khoa học không thể chứng minh được.
5- Vì không có không gian nên nó nhìn suốt trong lòng đất thấy mọi vật và bất cứ địa phương nào ở nơi đâu, cách xa bao nhiêu nó cũng biết được. Khoa học có thể chứng minh được vì đó là từ trường của tưởng thức.
6- Vì không có thời gian nên bất cứ chuyện gì đã xảy ra hoặc sắp xảy ra bao lâu nó cũng biết được, và biết một cách rất cụ thể. Đó là từ trường của tưởng thức giao cảm và bắt gặp những hành động, hình ảnh và âm thanh của mọi sự việc đã xảy ra còn lưu lại trong môi trường sống, khoa học có thể chứng minh được. Cũng như những sự việc sắp xảy ra trong môi trường sống nhân quả của mỗi con người nó đều bắt gặp và giao cảm được cả, khoa học không có thể chứng minh được.
Hiện giờ giáo sư Trần Phương hi vọng vào các nhà khoa học Việt Nam, quang học và điện tử tinh vi để giải đáp: “Linh hồn có hay không?”, nhưng giáo sư phải còn chờ đợi lâu lắm, có lẽ giáo sư sẽ chết mất mà những câu hỏi này chưa được giải đáp.
Là một nhà tu tập thiền định theo Phật giáo, tự bản thân chúng tôi đã trực tiếp truy tìm thế giới siêu hình để thấy, nghe, hiểu biết thì chúng tôi biết nó từ đâu xuất hiện những hiện tượng đó. Vì thế chúng tôi xác định quả quyết: “Thế giới siêu hình không có, chỉ là năng lực tưởng thức của mỗi con người còn đang sống tạo ra chứ người chết rồi thì không còn lưu lại một vật gì cả.”
Xưa thái tử Sĩ Đạt Ta khi tu thành Phật, Ngài cũng xác định: “Thế giới siêu hình là thế giới của tưởng tri.”
Câu hỏi 2, Giáo sư nêu lên tình cảm vui, buồn, quan tâm, ước muốn, giận dữ, tranh cãi của linh hồn để rồi nêu lên câu hỏi: “Có một thế giới linh hồn ngoài thế giới con người đang sống không? Thế giới linh hồn hoạt động như thế nào? Có khả năng tác động gì vào thế giới của con người đang sống? Để đáp ứng mong muốn của linh hồn người thân, người sống dâng đồ cúng lễ, tiền bạc đồ dùng hằng ngày (dưới dạng vàng mã) là đúng hay nhảm nhí? Linh hồn có tiêu vong đi không hay là tồn tại mãi mãi?”
Để trả lời những ý câu hỏi này
1- Ngoài hai trạng thái hình và bóng của cuộc sống con người hiện hữu trên hành tinh này thì không còn có thế giới linh hồn nào khác nữa. Thế giới linh hồn mà người ta cảm nhận được là do năng lực của tưởng thức trong mỗi người giao cảm mà tạo ra. Năng lực ấy được phát triển là do tu tập các loại thiền định tưởng hoặc bị tai nạn hay bị một cú “sốc” gì trong cuộc đời khiến cho phần nhóm tế bào não tưởng thức hoạt động, đó là trường hợp của các nhà ngoại cảm.
2- Vì không có thế giới linh hồn nên nó không có sự sinh hoạt riêng, không có sự sống riêng. Do tưởng thức của con người còn đang sống nên sự sinh hoạt của nó cũng mang đầy tính chất của con người: tình cảm vui, buồn, quan tâm, ước muốn, giận dữ, tranh cãi v.v... Nếu quả chăng có thế giới linh hồn của con người thì phải có sự sinh hoạt khác hơn con người, từ thực phẩm ăn uống đến tình cảm, truyền thông, diễn đạt v.v...
3- Nếu có khả năng tác động vào con người thì có hai góc độ:
a- Gia hộ con người, giúp cho con người tiêu tai, thoát nạn, bệnh tật tiêu trừ.
b- Hủy diệt loài người để cho thế giới linh hồn tăng trưởng.
Trong hai điều kiện trên đây đều phi đạo đức và phi nhân quả cả. Vì thế nên thế giới linh hồn không được loài người chấp nhận. Nếu con người chấp nhận nó là tự con người làm khổ mình, khổ người.
Thế giới linh hồn của con người do năng lực tưởng thức của người còn sống tạo ra thì có hai trường hợp:
i- Không tin nó là thế giới linh hồn của người chết mà biết sử dụng năng lực tưởng thức đó áp dụng vào cuộc sống hiện hữu của con người thì rất có lợi ích như: tìm hài cốt liệt sĩ, báo động trước những tai nạn sẽ xảy ra v.v...
ii- Nếu tin nó là thế giới linh hồn của con người thì đó là một tai họa rất lớn gây cho chúng ta bệnh tật và tai nạn “tiền mất tật mang”. Nếu tin nó thì đời sống của chúng ta hoàn toàn bị lệ thuộc, mất tự chủ, sống thiếu đạo đức.
Vì thế giới linh hồn không có, người thân chúng ta chết, nghiệp lực đã tiếp tục tái sanh luân hồi còn đâu mà cúng lễ, tiền bạc, đồ dùng hằng ngày (dưới dạng vàng mã) hay tụng kinh cầu siêu v.v... thì đó là nhảm nhí.
Vì thế giới linh hồn không có thì làm gì có linh hồn tiêu vong hay tồn tại mãi mãi.
Ở đây chúng tôi không suy luận để tranh cãi mà là sự chứng nghiệm của bản thân chúng tôi. Nhập vào trạng thái tưởng thức thì chúng tôi bắt gặp thế giới linh hồn của con người qua năng lực tưởng thức của chúng tạo ra chứ không phải thế giới linh hồn của con người có sẵn.
Vì thế chúng tôi biết rất rõ ràng. Hầu hết mọi người đều có khả năng nhìn thấy linh hồn, nghe thấy tiếng nói của linh hồn, nhìn thấy hài cốt lắp vùi dưới lớp đất dày mấy mét v.v... không riêng gì cháu Bích Hằng, chỉ vì mọi người chưa được triển khai tưởng thức đúng mức nên không thấy, không nghe được như cháu Bích Hằng mà thôi. Khả năng đặc biệt ấy do một nhóm tế bào não của tưởng thức. Nếu các nhà y học và khoa học tập trung nghiên cứu bộ não của con người thì sẽ khám phá ra rất dễ dàng.
Do không rõ biết thế giới siêu hình không có, nên giáo sư Trần Phương cho rằng: Những thông tin bí ẩn của anh Nhã, anh Liên, cháu Bích Hằng là những khả năng đặc biệt càng khó khám phá.
Sự thật không phải vậy. Bởi vì thế giới siêu hình không có tức là không có linh hồn người chết, không có linh hồn thì làm sao có chất liệu quang học, y học, vật lý học mà khám phá. Nếu rời khỏi bộ óc con người mà khám phá thì chẳng bao giờ khám phá ra được thế giới linh hồn.
Cho nên các nhà y học và khoa học hãy khám phá nơi bộ óc của một nhà ngoại cảm đang hoạt động thì có thể sẽ khám phá ra từ những từ trường của những tế bào não tưởng thức phóng ra giao cảm với những từ trường còn lưu giữ trong không gian những hình ảnh, âm thanh, sắc tướng, những hành động và tình cảm của mỗi con người trước khi chết. Đó là y học và khoa học có thể khám phá ra được.
Nhưng có những điều mà khoa học và y học không thể khám phá ra được, đó là năng lực của tưởng thức, năng lực đó có thể biến tạo ra hàng vạn vạn triệu triệu linh hồn con người chết và mỗi linh hồn người chết, từ hành động cử chỉ, lời ăn, tiếng nói đến đặc tướng, cung cách không sai khác như người đó lúc còn sống. Nhất là những linh hồn do tưởng thức của nhà ngoại cảm biến hiện ra, lại nói chuyện với nhà ngoại cảm, nhà ngoại cảm hiện giờ như người trung gian nói lại cho chúng ta nghe những sự việc xảy ra mà chỉ có những người thân trong gia đình mới biết. Chúng tôi xin nêu lên một ví dụ để quý vị dễ hiểu hơn.
Trong giấc mộng chúng ta gặp lại ông, bà, cha, mẹ đã chết cách 10 năm hoặc 20 năm, cùng lúc trong đó chúng ta cũng gặp lại những người còn sống như anh, chị, em, cô, bác cùng bà con hàng xóm. Chúng ta đừng hiểu nông cạn là những linh hồn người còn sống cùng với những linh hồn người chết về gặp chúng ta trong giấc mộng. Nếu quả chăng những người còn sống xuất hồn gặp chúng ta thì những người ấy phải nằm mộng như chúng ta. Nhưng sự thật những người ấy không có nằm mộng.
Như vậy những người gặp chúng ta trong giấc mộng là gì? Đó là do năng lực tưởng thức của chúng ta biến hiện ra, nó có thể biến hiện một số lượng người và xe cộ đông đúc như chợ Bến Thành, nó có thể biến hiện ra một thủ đô lớn như thủ đô Hà Nội, v.v...
Xét qua giấc mộng thì năng lực tưởng thức của giấc mộng chỉ bằng một phần trăm của tưởng thức cháu Hằng khi tìm hài cốt liệt sĩ, và khả năng tưởng thức còn gấp trăm triệu lần khả năng tưởng thức của cháu Hằng hiện giờ khi nó làm những việc còn siêu việt hơn. Cho nên những nhà Khí công, nhà Nhân điện đều dùng khả năng của tưởng thức.
Giáo sư Trần Phương với hy vọng: “Trung tâm Nghiên Cứu Tiềm Năng Con Người xác nhận được sự tồn tại của linh hồn thì không những có ý nghĩa nhân văn mà còn có ý nghĩa về nhiều mặt khác, kể cả về hình sự (nếu người bị giết mà nói ra thì kẻ giết người tránh sao khỏi tội?), không những có ý nghĩa quốc gia, mà còn có ý nghĩa quốc tế.”
Sự hy vọng của giáo sư Trần Phương không thể thành đạt được là vì linh hồn không có, chỉ có năng lực tưởng thức tạo ra. Vì thế: Thiền xuất hồn là một phương tiện tu tập khai triển năng lực của tưởng thức, Khí công là một môn võ học tập luyện để triển khai năng lực tưởng thức, Mật Tông cũng là một pháp môn triển khai sự mầu nhiệm của năng lực tưởng thức, Nhân điện cũng là một phương pháp triển khai năng lực tưởng thức để trị bệnh, Tịnh Độ Tông triển khai năng lực tưởng thức tạo ra thế giới siêu hình Cực Lạc Tây phương, Thiền Tông là một pháp môn tu tập triển khai năng lực tưởng giải ảo giác, Chân không, Phật tánh v.v...
Cho nên từ trong các tôn giáo cho đến những người có kiến thức khoa học còn nông cạn và chưa thấu suốt nền đạo đức nhân bản - nhân quả nên tin rằng có thế giới linh hồn người chết, đó là một điều mê tín, lạc hậu mà trong thời đại này không thể chấp nhận được.
Vì sự thật hiển nhiên là không có thế giới linh hồn người chết mà chỉ có sự biến hiện do năng lực tưởng thức của con người còn sống tạo ra. Vì thế Trung tâm Nghiên Cứu Tiềm Năng Con Người có ra đời cũng chỉ loanh quanh nghiên cứu trong đống sách cũ của những người xưa, toàn là sách tưởng do những nhà tưởng học để lại. Nếu có nghiên cứu xa hơn thì cũng dựa vào những nhà Nhân điện tưởng, Khí công tưởng, Xuất hồn tưởng, Võ công tưởng, Thiền tưởng, Định tưởng, Thần chú tưởng, Ngoại cảm tưởng v.v... thì cũng không thể nào giải quyết được những gì mà giáo sư mong đợi.
Còn nếu đem những nhà ngoại cảm này áp dụng vào hình sự thì chúng tôi e rằng không chính xác, vì các nhà ngoại cảm không phải tự mình điều khiển cái năng lực đó mà chính cái năng lực tự động của tưởng thức đó điều khiển họ, nên có khi chính xác và có khi không chính xác, có nghĩa là tưởng thức của họ lúc làm việc, lúc không làm việc. Cũng giống như trường hợp anh Nhã, lúc nó làm việc thì chính xác, lúc nó không làm việc thì anh mò mẫm như người mù dò đường.
Cho nên đem những hình bóng biến hiện linh hồn người chết của tưởng thức vào việc lấy hài cốt liệt sĩ thì tốt nhất, còn về việc hình sự và quốc phòng thì cũng chẳng khác nào đem sự mê tín vào những vấn đề quan trọng của đất nước thì chúng tôi e rằng không có lợi mà có hại nhiều hơn. Bởi vì các nhà ngoại cảm không điều khiển được tưởng thức của mình mà bị tưởng thức của mình điều khiển lại mình.
Tóm lại bài này viết vì lợi ích cho mọi người trên hành tinh này, chúng tôi nói lên sự thật, sự thật 100%. Chúng tôi nói lên không cần quý vị tin, mà chỉ cần đem lại sự lợi ích cho quý vị, để quý vị trở thành những người không mù mờ, không dại dột bị kẻ khác lợi dụng tưởng thức của mình lừa đảo. Tưởng thức như con dao hai lưỡi, nếu quý vị biết dùng nó thì nó lợi ích cho quý vị, còn quý vị không biết dùng nó thì nó trở lại làm khổ và làm hại quý vị.
Sự thật là sự thật, không thể nói khác được, chúng tôi nêu lên một sự thật, thời gian và sự tiến bộ của loài người sẽ xác chứng những điều này, những điều chúng tôi đã nói ngày hôm nay: “Thế giới linh hồn là do tưởng tri.”
57. THẾ GIỚI SIÊU HÌNH KHÔNG CÓ (Linh Hồn Không Có). Vào ngày 17 tháng 6 năm 2000 chúng tôi có nhận được một tài liệu nói về thế giới siêu hình do cô Minh Châu đưa về. Muốn làm sáng tỏ vấn đề này chỉ có những người tu hành chứng tâm Vô Lậu, nhập Tứ Thánh Định và có đầy đủ Tam Minh của Phật giáo thì mới đủ khả năng giải thích và khẳng định “Linh Hồn Không Có.” Hầu hết từ xưa đến nay mọi người ai cũng tin rằng: người tuy chết nhưng linh hồn vẫn còn tồn tại mãi mãi. Sự truyền thừa hiểu biết này từ khi có loài người. Cho đến khi các tôn giáo ra đời cũng dựa vào thuyết linh hồn mà xây dựng thế giới siêu hình, vì vậy mới có các cõi Trời. Trong thời Đức Phật ra đời, các tôn giáo đã xây dựng thành ba mươi ba cõi Trời, mọi người cứ theo truyền thuyết ấy mà tin tưởng là có thật. Đến khi Phật giáo ra đời, Ngài tự tu tự chứng do kinh nghiệm bản thân của mình nên không bị ảnh hưởng giáo pháp của ngoại đạo. Khi tu chứng xong Ngài dùng trí tuệ tam minh quan sát vũ trụ không thấy có một thế giới siêu hình nào cả nên Ngài tuyên bố: “Ba mươi ba cõi Trời là cõi tưởng tri chớ không phải liễu tri.” Lời tuyên bố của Ngài làm chấn động cả thế giới. Tuy rằng mọi người tin có linh hồn nhưng không dám phủ nhận lời Ngài dạy là sai. Bài viết của giáo sư Trần Phương (nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ) ghi lại sự tìm kiếm hài cốt cô em gái của mình (một liệt sĩ). Người muốn nói lên những điều mắt thấy, tai nghe mà mình đã chứng kiến trên bước đường tìm hài cốt của đứa em thân thương nhưng không sao giải thích được qua những việc làm của các nhà ngoại cảm, nhất là hiện tượng ngoại cảm của cô Bích Hằng hơn hẳn các nhà ngoại cảm khác trong nước. Khi chúng ta chưa xác định được có linh hồn hay không thì chúng ta cần phải nêu lên câu hỏi: “Phải chăng con người có sự sống sau khi chết?” Một câu hỏi được đặt ra, nếu ai hiểu như thế nào thì xin trả lời cho chúng tôi biết để chúng ta cùng nhau xây dựng một nền Văn Hóa Việt Nam tốt đẹp hơn không còn bị ảnh hưởng của nền văn hóa mê tín lạc hậu của Trung Quốc. Nếu có sự sống sau khi chết thì thế giới siêu hình là có thật. Nhưng có thật thì phải chứng minh cụ thể rõ ràng chớ không phải theo kiểu ông bà ngày xưa cho ông lên bà xuống như lên đồng nhập xác của ông đồng, bà bóng hay của những ông thầy phù thủy đọc thần chú lâm râm rồi bảo hồn cô này về, cậu kia nhập hoặc những nhà ngoại cảm nói chuyện lảm nhảm với linh hồn người đã chết rồi chỉ chỗ lấy hài cốt của họ. Những việc làm này đã khiến cho con người vốn mê tín lại càng mê tín hơn. Nếu vội vàng xác định cho những điều ngoại cảm này là có linh hồn người chết thì không đủ tính cách khoa học minh chứng cụ thể rõ ràng để thuyết phục mọi người. Cho nên hiện giờ mọi người dù tin có linh hồn nhưng vẫn còn bán tin bán nghi với câu hỏi: “Linh hồn có hay không?” Hiện tượng của những nhà ngoại cảm hiện giờ rất nhiều người. Vậy cái gì hoạt động trong người của họ đã biến họ trở thành những nhà ngoại cảm. Chúng ta cũng như họ tại sao chúng ta không ngoại cảm như họ được. Phải chờ một tai nạn nào xảy ra như: Chó dại cắn, xe đụng, bệnh tật thập tử nhất sinh hay bị điện giật. Nhờ đó làm cho cơ thể có phần thay đổi không còn ở trạng thái bình thường. Do cơ thể có sự thay đổi nên mới trở thành nhà ngoại cảm. Gần đây một số người đã trở thành những nhà ngoại cảm rất đông, chúng ta hãy đọc những câu chuyện Thế Giới Tâm Linh của Trần Ngọc Lân sưu tầm và biên soạn thì rõ. Những hiện tượng ngoại cảm phải chứng minh cho được rõ ràng chớ không thể tin linh hồn một cách bừa bãi, nếu chứng minh không được mà vội cho rằng có linh hồn thì đó cũng là sự mê tín mù quáng mà từ xưa đến nay ai cũng hiểu như vậy. Trong thời đại văn minh khoa học mà còn tin một cách bừa bãi thiếu chính chắn, không cụ thể rõ ràng, chứng tỏ những người như vậy là chưa trang bị kiến thức khoa học nên còn giẫm theo lối mòn của ông bà ta ngày xưa. Muốn chứng minh làm rõ điều này, vậy chúng ta hãy cùng đọc bài tóm lược: "Tìm Hài Cốt Liệt Sĩ, Một Hành Trình Đầy Bí Ẩn” của giáo sư Trần Phương. (Bài viết này chúng tôi đã đề cập đến ở quyển 1 Chánh Tín – Mê Tín, ở đây xin nói cho rõ thêm). Giáo sư Trần Phương có một người em gái tên là Vũ Thị Kính, khi vào đội du kích đánh giặc Pháp thì mọi người đều gọi tên khác để tránh giặc truy bắt gia đình nên các đồng đội gọi cô là Trần Thị Khang. Cô Khang tham gia cách mạng năm 16 tuổi làm giao liên đầy gan dạ, một cán bộ phụ vận có uy tín. Đến năm 1950 cô là Huyện Ủy viên của Đảng bộ Phù Cừ (ĐCSVN), Bí thư Phụ nữ Cứu quốc Huyện, cô tổ chức chỉ huy đội nữ du kích Hoàng Ngân trong Huyện. Tháng 6 năm đó địch bắt được cô từ hầm bí mật, đưa về bót La Tiến (bót đóng ngay trên bến đò La Tiến) là một bót khét tiếng tàn ác, một đồn binh lớn án ngữ phía Nam tỉnh Hưng Yên, phía Bắc tỉnh Thái Bình và phía Tây tỉnh Hải Dương. Chúng biết cô là ai, vì vậy đã dùng mọi cực hình tra tấn, hòng buộc cô khai báo và đầu hàng. Trước khí tiết cách mạng vì dân, vì nước cô không lay chuyển nên chúng đã giết chết cô và vất xác cô xuống sông Luộc. Sau ngày cô hy sinh, đội nữ du kích Hoàng Ngân của Huyện đã phát động: "Tuần lễ giết giặc trả thù cho chị Khang." Chánh phủ đã truy tặng cô Huân chương kháng chiến hạng nhì. Huyện Ủy và đội du kích Hoàng Ngân đã tổ chức đi tìm xác cô nhưng không thấy, khiến cho gia đình cô xót xa không cùng suốt mấy chục năm. Mặc dù vẫn biết rằng người chết thì mọi nỗi đau cũng chấm dứt. Nhưng mẹ cô hồi còn sống thỉnh thoảng lại hỏi giáo sư Trần Phương: "Có tìm thấy xác em con không?”. Giáo sư Trần Phương đành tìm lời an ủi: "Bao giờ chiến tranh hết con sẽ tổ chức việc tìm kiếm, chắc là được mẹ ạ!” Nói thế nhưng lòng giáo sư Trần Phương muốn khóc vì biết mình bất lực trước nỗi đau của mẹ. Cả một dòng sông Luộc mênh mông như thế trôi ra biển cả, biết tìm kiếm nơi đâu? Mười năm lại đây, nghe tin nhiều người tìm được hài cốt người thân bằng gọi hồn, bằng ngoại cảm, bằng thấu thị. Tóm lại là bằng những phương pháp được xem là thần bí, chưa ai lý giải được. Giáo sư vốn được đào tạo theo tinh thần khoa học thực nghiệm, cái gì chứng minh được mới tin là có, cái gì chưa chứng minh được thì dứt khoát không tin. Trong đời giáo sư chưa bao giờ tin có linh hồn, thần, thánh, ma, quỷ. Ngay những ngày giỗ bố mẹ, giáo sư cũng không làm cơm cúng, không thắp hương, chỉ sửa một lọ hoa tươi để tự mình tưởng nhớ. Vậy mà khi nghe những tin trên, trong lòng giáo sư hé lên một niềm hy vọng mong manh: Biết đâu đấy? Câu hỏi biết đâu đấy chứng tỏ giáo sư Trần Phương vì tình cảm mà lập trường lý trí bị yếu đi. Chính vì tình cảm tâm lý này mà nhiều người đã bị các nhà ngoại cảm làm lung lay ý chí. Khi lý trí bị lung lay thì có nhiều lý luận che đậy sự yếu đuối của mình như giáo sư Trần Phương đã thốt ra lời nói đánh mất lý trí: “Phương pháp thần bí mà tìm được hài cốt cô Khang thì có gì phải câu nệ? Miễn là có cái gì đó để nhận biết hài cốt ấy đúng là của em mình thì tin ngay.” Và điều này mới chính là điều khó nhất. Sau hơn năm chục năm trôi dạt, hài cốt có còn gì không để nhận ra em của giáo sư? Nếu còn thì may ra là còn được hàm răng không nhuộm đen. Nhưng thời đó thiếu gì con gái không nhuộm răng đen? Đã có lần bạn bè mách bảo giáo sư một bộ hài cốt vô thừa nhận mà đặc biệt là hàm răng không nhuộm đen. Lúc đó chính giáo sư đã phân vân: nhận một hài cốt mà trong lòng nghi hoặc, mỗi khi tưởng niệm thì có ý nghĩa gì? Còn khám nghiệm DNA? Đó là chuyện xa vời. Trong tình cảnh bất lực của chính mình và của khoa học thực nghiệm thì bất cứ phương pháp nào giải tỏa được nỗi ray rứt trong lòng giáo sư và gia đình giáo sư đều phải được xem trọng. Nghĩ thế giáo sư bèn tìm cách tiếp cận các nhà ngoại cảm có tiếng tăm. Một số thông tin báo rằng hài cốt vẫn còn nhưng chưa có ai chỉ rõ được nơi chôn cất. Những nhà ngoại cảm đầu tiên đã dẫn dắt giáo sư Trần Phương đi tìm hài cốt người em gái của mình bằng cách mò mẫm theo sự giao cảm của tưởng thức hoat động còn yếu ớt. Giáo sư đã theo đuổi hai nhà ngoại cảm nổi tiếng đã vẽ trúng hàng trăm ngôi mộ liệt sĩ, nhưng đến lượt mình thì không có duyên. Giáo sư bàn với anh Tân Cương chỉ còn cách là tìm đến những người có khả năng gọi hồn. Theo tin của anh thì cô Phan Thị Bích Hằng đã mất năng lực đó vài năm nay rồi, anh đang giúp tôi liên hệ với một bà ở Cẩm Giàng và một bà ở Hải Phòng. Chị Tuyết Nga cũng khuyên giáo sư tìm kiếm theo hướng đó. Chị cho giáo sư một địa chỉ điện thoại mà điều tra ra thì đó chính là địa chỉ của cô Bích Hằng. Trong quá trình tìm mộ, giáo sư thường hay kể lại với bạn bè khi rảnh rỗi. Tình cờ một hôm anh Trần Công Bảy biết giáo sư có ý định gọi hồn liền nhận giúp giáo sư liên hệ với cô Bích Hằng. Cô nhận giúp giáo sư vào chiều ngày 09/8/1999. Những hành động giao cảm của cháu Bích Hằng giống như những người làm bà cốt. Đó là những hiện tượng của Tưởng hoạt động. Tưởng hoạt động dưới nhiều dạng: 1. Ngủ chiêm bao; 2. Mí mắt giựt; 3. Tim hồi hộp; 4. Lên đồng; 5. Nhập xác; 6. Sắc tưởng; 7. Thinh tưởng; 8. Hương tưởng; 9. Vị tưởng; 10. Giao cảm tưởng Tưởng của cháu Bích Hằng hoạt động dưới hai dạng nhập xác và giao cảm. Nhưng những người không biết cho đó là tâm linh, cho đó là linh hồn người chết nhập. Tóm lại câu chuyện giáo sư Trần Phương tìm hài cốt em gái mình đã khiến cho mọi người đang phân vân giữa khoa học và tâm linh, vì khoa học không xác định được linh hồn có hay không. Câu chuyệu Bich Hằng tìm hài cốt liệt sĩ đã làm cho mọi người cũng như các nhà khoa học phải cúi đầu chấp nhận có linh hồn. Tại sao người ta không sáng suốt dùng lý trí của mình để xác minh những điều còn nghi vấn mà cứ vội nghe đâu là tin đó và tin một cách mù quáng. Một giáo sư như ông Trần Phương mà không hiểu trong thân con người có hai sự hoạt động sao? Sao ông không tự đặt câu hỏi: Tại sao con người ngủ lại chiêm bao. Chiêm bao là cái gì trong thân người mà khi ngủ mới có chiêm bao. Chiêm bao thì khi ngủ có, khi ngủ không có chớ không phải lúc nào ngủ cũng có hết. Ban ngày con người hoạt động làm việc này việc khác, ban đêm đi ngủ lại bị chiêm bao. Vậy chiêm bao có phải là linh hồn của chúng ta đang hoạt động không? Khi đặt ra câu hỏi như vậy thì chúng ta thấy rất rõ trong thân chúng ta có hai cái “Biết.” 1. Cái biết làm việc có thật sinh sống trong ban ngày do sáu thức: Mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý thức. Cái biết làm việc có thật, đó là làm đâu còn giữ lại công việc cụ thể rõ ràng như cuộc sống hằng ngày chúng ta hiện giờ. 2. Cái biết làm việc không có thật chiêm bao trong giấc ngủ. Cái biết trong giấc chiêm bao khi giựt mình thức dậy thì chỉ còn là trí nhớ lờ mờ mọi việc xảy ra. Qua sự tư duy này chúng ta tự đặt câu hỏi: Có phải chăng linh hồn hoạt động trong giấc chiêm bao chăng? Không đâu quý vị ạ! Quý vị đã lầm. Trong thân chúng ta gồm có ba cái biết: Ba cái biết này đang sử dụng các cảm thọ và các hành động của thân tâm. Như vậy trong thân chúng ta có năm phần hợp chung nhau để làm việc thì gọi là cơ thể. Nếu năm phần chỉ cần dừng một phần không làm việc thì cơ thể bất động. Bởi cơ thể con người như một bộ máy đang hoạt động, nếu có một bánh xe nào ngưng thì toàn bộ máy đều bị ngưng. Tuy nhiên chúng ta ngủ nhưng toàn cơ thể chúng ta đang hoạt động trong sự im lặng bất động. Chúng tôi xin nhắc lại năm bộ phận duyên hợp trên thân gồm có: 1- Sắc uẩn (toàn khối của thân) Trong thân của một người thì có đủ năm uẩn này. Nhưng theo Phật giáo một người chết thì năm uẩn này không còn một uẩn nào cả, vì thế từ xưa đến nay người ta cứ lầm tưởng người chết còn có linh hồn sống mãi. Vậy linh hồn ở chất liệu nào đây? Câu hỏi này khó có ai trả lời được, mà đã không trả lời được thì đừng tin linh hồn có, mà hãy tin theo lời Phật dạy: “Con Người Không Có Linh Hồn, Khi Chết Thì Tứ Đại Trả Về Cho Tứ Đại.” CHÚNG TA SẼ LÀM GÌ KHI BIẾT LINH HỒN KHÔNG CÓ? Khi biết linh hồn không có thì những tục lệ thờ cúng từ xưa đến nay sẽ phải làm như thế nào để đúng với phong tục thờ cúng tổ tiên ông bà, cha mẹ v.v… mà không trở thành mê tín, dị đoan, lạc hậu. Đạo thờ cúng tổ tiên ông bà là một đạo đức của dân tộc Việt Nam. Một đạo đức ân nghĩa sâu dày luôn tỏ lòng biết ơn “Ăn quả nhớ người trồng cây, uống nước nhớ nguồn.” Thế mà từ lâu chỉ vì ông bà chúng ta từ xa xưa đã lầm lạc tưởng là có sự sống sau khi chết. Cho nên mới có sự cúng tế cầu an, cầu siêu, mới có làm tuần, làm tự, mới có mở cửa mả, đốt tiền vàng mã, kho đụn, quần áo bằng giấy cho người chết. Và vì thế ngày tư ngày tết mới có đưa ông táo, rước ông bà v.v… Cho nên đạo thờ cúng tổ tiên ông bà để tỏ lòng biết ơn đã biến trở thành đạo thờ cúng mê tín, dị đoan. Khi thờ cúng mê tín dị đoan như vậy, trong tinh thần của mọi người đều dựng lên một thế giới có linh hồn người chết. Vì thế, đến ngày giỗ, ngày Tết, ngày lễ thì làm mâm cao cỗ đầy để cúng tế những linh hồn người chết mà họ tin tưởng rằng những linh hồn người chết này sẽ về thọ hưởng những thực phẩm của chúng ta dâng cúng. Đó là một việc làm mà người xưa thiếu cân nhắc suy tư. Chỉ biết tin theo “xưa bày nay làm” không cần phải đắn đo suy nghĩ thiệt hơn, đúng hay sai. Nên người ta mù quáng đã trở thành những người mê tín lạc hậu rồi truyền thừa những điều mê tín này cho con cháu nhiều thế hệ mai sau. Đến ngày nay là một thời đại văn minh khoa học thế mà tục lệ mê tín này vẫn không bỏ được. Thật là vô minh, điên đảo tưởng, điên đảo tình cảm v.v… Đâu phải những gì của người xưa làm là đều đúng hết cả. Không có linh hồn mà nghĩ có linh hồn nên mới bày ra cúng kiếng. Nếu linh hồn thật sự ăn uống thì những linh hồn ông bà cha mẹ của chúng ta đã chết đói từ lâu, vì mỗi năm con cháu chỉ cúng bái tế lễ có một hoặc hai lần trong năm thì còn những ngày khác linh hồn lấy cái gì mà ăn. Quý phật tử cứ suy ngẫm có đúng không? Mà nếu linh hồn có ăn thật thì liệu chúng ta có làm nuôi những linh hồn này nổi không. Khi họ ăn không ngồi rồi mà còn rủ rê các linh hồn khác nữa. Bởi có những phong tục tập quán lạc hậu và mê tín mà mọi người không chịu bỏ nên đành phải tốn hao một số tiền rất lớn về việc ma chay, tuần tự, cầu siêu, cầu an, đốt giấy tiền vàng mã một cách nhảm nhí vô ích. Như quý vị đều biết con người cũng là một loài động vật như bao nhiêu loài động vật khác, nhưng con người là một loài động vật cao cấp nên sự hiểu biết phát triển của con người lần lần tách ra khỏi loài động vật. Nhờ tách ra khỏi loài động vật nên con người không còn sống đời sống hoang dã như các loài động vật khác. Sự tiến hóa từ cơ thể đến tinh thần của con người hôm nay chúng ta thấy rõ rệt. Con người có nhiều tiến bộ về mọi mặt. Chúng ta cứ thử đem so sánh người xưa với người nay từ cách thức ăn uống cho đến cách thức ăn mặc và cuối cùng là ngôn ngữ. Loài người đã sử dụng một cách tiến bộ mà không có một loài thú vật nào trên hành tinh này sánh kịp. Từ chỗ mê mờ chúng ta hiểu sai lầm con người có linh hồn, bây giờ chúng ta lại hiểu biết linh hồn không có. Cho nên cách thức lễ bái cúng kiếng là để tượng trưng lòng biết ơn sâu xa của chúng ta đối với những người đã khuất chứ không phải cúng thực phẩm cho những linh hồn về ăn uống. Sự cúng bái là để tỏ lòng biết ơn, là để kỷ niệm nhớ lại ngày mất mát to lớn trong kiếp làm người của chúng ta. Cho nên chúng ta chọn lấy ngày mất mát đó làm một ngày kỷ niệm để con cháu đoàn tụ và cũng để nhắc nhở cho con cháu nhớ đến công ơn tổ tiên ông bà cha mẹ đã dày công để lại cho con cháu một sự sống có ý nghĩa. Đứng trước những phong tục tập quán mê tín, dị đoan, lạc hậu chúng ta phải mạnh mẽ gạt bỏ, đừng sợ những dư luận theo lối mòn của người xưa lên án như thế này, như thế khác. Đó là những người quá thủ cựu nhằm để bảo vệ những phong tục văn hóa hủ lậu, mê tín, lạc hậu. Mục đích của chúng ta là gạt bỏ những phong tục mù quáng, mê tín, lạc hậu là vì những văn hóa mê tín, lạc hậu đó thường làm hao tiền, tốn công, tốn của mọi người mà chẳng có ích lợi gì thiết thực. Chúng ta gạt bỏ những phong tục văn hóa mê tín, lạc hậu nhằm để xây lại một nền văn hóa có ý nghĩa đạo đức làm người. Vì làm người luôn luôn phải giữ gìn ơn nghĩa trọn vẹn của nền đạo đức dân tộc Việt Nam “ăn quả nhớ người trồng cây, uống nước nhớ nguồn” mà không bị ảnh hưởng mê tín, lạc hậu v.v…
|
|||
Hỏi: Kính thưa Thầy, theo người đời nói: “Người ta khi chết đi thì hồn siêu phách lạc, hồn ở cây cả bóng cao, cầu ao bóng mát và linh hồn người chết đi khắp đó đây,” có phải vậy không thưa Thầy?
Đáp: Trong giáo lý của đạo Phật dạy: con người do năm duyên hợp lại thành nên gọi là thân ngũ uẩn, khi người chết năm uẩn này tan biến mất, thân tứ đại này trở về với cát bụi hư vô không còn sót một vật gì thường hằng (linh hồn hay Phật tánh).
Đức Phật đã xác định trong kinh như vậy thì làm sao có linh hồn siêu phách lạc ở cây cả, bóng cao, cầu ao, bóng mát, đi đây đi đó khắp nơi. Đó là một sự mê tín trong dân gian với trí hữu hạn của con người không thể làm sao biết thế giới siêu hình được nên phải tưởng ra như vậy.
Còn các nhà tôn giáo tu hành chẳng tới đâu rồi cũng dựa vào sự mê tín lạc hậu của dân gian ấy để xây dựng tôn giáo của mình có một thế giới Thần Tiên (chư Thần, Thánh, Tiên, Phật v.v…). Đó là một thế giới siêu hình đầy hạnh phúc mà cũng là một ước mơ của loài người, nhưng đó cũng chỉ là một thế giới ảo tưởng để mà thỏa mãn ước mơ.
Đã có thế giới Thần, Tiên tràn đầy hạnh phúc và an lạc thì phải có thế giới địa ngục, mà đã có thế giới địa ngục thì phải có thế giới ma quỷ, có linh hồn người chết, có các đảng và cô hồn vất vưởng cây cao, bóng cả, cầu ao, bóng mát. Phần nhiều người ta nghĩ rằng những linh hồn chết oan không đi đầu thai được nên phải ở cây cao, bóng mát như vậy.
Trong bài kinh “Pháp Môn Căn Bản” Đức Phật đã chỉ dạy cho chúng ta biết (Bài kinh Pháp Môn Căn Bản này được trích ra từ tập 1 kinh Trung Bộ thuộc tạng kinh Việt Nam, trang 9) do trí hiểu biết của chúng ta có hạn lượng nên đối với các pháp không thể hiểu rõ, luôn luôn bị lầm chấp, vì dùng tưởng xác định các pháp nên hiểu từ cái sai này đến cái sai khác.
Cái thế giới hữu hình mà mọi người đang sống đã không hiểu rõ nó nên lầm chấp các pháp là thật có rồi sanh ra dính mắc, do dính mắc không bỏ được nên tạo biết bao nhiêu sự đau khổ cho mình cho người trải suốt nhiều đời kiếp. Thế giới siêu hình là thế giới hình bóng của thế giới hữu hình. Thế giới hữu hình mà chúng ta đang hiểu biết bằng tưởng tri thì thế giới siêu hình cũng hiểu biết như vậy. Do đó ta biết thế giới hữu hình và thế giới siêu hình là thế giới tưởng (thế giới không thật có).
Sự lầm chấp của con người dùng tưởng để hiểu thân ngũ uẩn của mình nên ai ai cũng cho nó là có thật, cho trong thân ngũ uẩn này có linh hồn bất biến từ vô thủy, cho nó là bản ngã của ta, còn thân ngũ uẩn này là của riêng ta (vật sở hữu của chính mình). Vì thế ai động đến thân tâm của ta thì ta sẽ ăn thua đủ không nhịn ai hết, nếu sức yếu thế cô thì ta ấm ức tức giận không bao giờ nguôi.
Cũng từ sự hiểu biết của tưởng tri mà ta tưởng ra người chết có linh hồn không chết. Linh hồn mất thân không còn chỗ ở nương tựa nên hồn siêu phách lạc đi khắp đó đây hoặc đọa xuống địa ngục, thọ nhiều cực hình, chịu nhiều tội khổ, chờ đến khi mãn hạn mới được tái sanh luân hồi làm thân chúng sanh hoặc làm thân người.
Cũng từ bài kinh đó (Pháp Môn Căn Bản), Đức Phật đã xác định: “Người ta tưởng tri Sanh vật là Sanh vật…(có thật). Người ta tưởng tri chư Thiên là chư Thiên...(có thật). Người ta tưởng tri Phạm Thiên là Phạm Thiên. Người ta tưởng tri Quang Âm Thiên là Quang Âm Thiên... Người ta tưởng tri Biến Tịnh Thiên là Biến Tịnh Thiên… Người ta tưởng tri Quảng Quả Thiên là Quảng Quả Thiên… Người ta tưởng tri Thắng Giả là Thắng Giả (Abhibhù)... Người ta tưởng tri Không Vô Biên Xứ Thiên là Không Vô Biên Xứ Thiên... Người ta tưởng tri Thức Vô Biên Xứ Thiên là Thức Vô Biên Xứ Thiên... Người ta tưởng tri Vô Sở Hữu Xứ Thiên là Vô Sở Hữu Xứ Thiên... Người ta tưởng tri Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Thiên là Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Thiên... Người ta tưởng tri Sở Tri Kiến là Sở Tri Kiến... Người ta tưởng tri Sở Văn là Sở Văn... Người ta tưởng tri Sở Tư Niệm là Sở Tư Niệm… Người ta tưởng tri Sở Tri là Sở Tri... Người ta tưởng tri Đồng nhất là Đồng nhất… Người ta tưởng tri Sai biệt là Sai biệt... Người ta tưởng tri Tất cả là Tất cả... Người ta tưởng tri Niết Bàn là Niết Bàn….” (Pháp Môn Căn Bản kinh Trung Bộ tập 1 thuộc tạng kinh Pali - Việt Nam, trang 9)
Qua đoạn kinh trên chúng ta đã thấy rõ con người đang sống trong thế giới tưởng mà cứ tưởng rằng có thật. Vì tưởng rằng có thật do đó người ta mới đau khổ, vì tưởng rằng Niết Bàn có thật nên người ta nghĩ đến tự ngã như là Niết Bàn (Phật tánh có bốn đức Niết Bàn: thường, lạc, ngã, tịnh) nên Phật dạy: “Người ấy tự nghĩ Niết Bàn là của ta – rồi sanh ra dục hỷ Niết Bàn” tức là ham thích cảnh giới Niết Bàn.
Phật dạy tiếp: “Vì sao vậy? Ta nói người ấy không liễu tri Niết Bàn.” (Pháp Môn Căn Bản kinh Trung Bộ tập 1 thuộc tạng kinh Pali - Việt Nam, trang 9). Nghĩa của đoạn kinh trên là chẳng hiểu gì về Niết Bàn cả.
Đọc bài kinh này chúng ta nhận xét Đức Phật đã xác định: “Con người từ chấp ngã, tâm, linh hồn, Phật tánh, bản thể vũ trụ, cho đến 33 cõi Trời và cảnh giới Niết Bàn đều do tưởng uẩn tạo ra. Từ đó con ngưòi dùng tưởng tri và ý thức để phân biệt hiểu các pháp chứ thật sự các pháp không có thật.”
Thế giới siêu hình là thế giới bóng dáng mà con người lầm chấp có thật. Thật sự nó không có, nó chỉ là một hình bóng của tưởng uẩn mà thôi.
Có người đến hỏi thầy Chơn Thành: “Con người từ đâu sinh ra và chết đi về đâu?”
Thầy Chơn Thành đáp: “Con người sanh ra từ dục, sống trong dục, chết trở về dục.” Nói cách khác cho dễ hiểu hơn và đúng như lời Phật đã giảng trong kinh: “Con người sinh ra do từ nhân quả, sống trong nhân quả và chết đi về nhân quả.”
Bởi con người không rõ luật nhân quả nên chịu mãi trôi lăn muôn đời muôn kiếp trong nhân quả mà không biết lối thoát ra khỏi nhân quả. Người hiểu biết nhân quả, luôn giữ gìn mỗi hành động thân, miệng, ý làm thiện với mình, với người, chẳng hề làm một điều ác nào cả, để mình không khổ và người khác không khổ. Theo luật nhân quả, người làm thiện như vậy khi chết sẽ sanh nơi thiện, hưởng được phước báo đầy đủ, sanh ra trong gia đình giàu có muốn chi có nấy, lại được học hành đến nơi đến chốn và được nuôi dạy trong môi trường đạo đức sống toàn thiện, tạo thêm phước báo cho đời sau nữa.
Ngược lại, kẻ không hiểu luật nhân quả thường không giữ gìn những hành động thân, miệng, ý thiện nên thường làm những điều ác, tạo khổ cho mình cho người, sống quãng đời hiện tại luôn luôn khổ đau, bất an, bất toại nguyện, v.v… Sau khi thân hoại mạng chung, chết sanh vào nơi bất thiện, hưởng quả báo nghèo cùng, khổ đau, bệnh tật, tai nạn, đói khát, thiếu cơm ăn, áo mặc, sống không nhà cửa, vất vưởng ngủ hè, ngủ chợ, không được học hành, sống trong môi trường thiếu đạo đức nên càng ngày càng làm điều ác hơn, tạo nhiều nhân quả xấu thì đời sống lại càng khổ đau hơn nhiều.
Sống trong môi trường ác nghiệt như vậy thì lại tạo những điều cực ác hơn nữa và như vậy, khi thân hoại mạng chung, chết phải đọa vào những cảnh khổ hơn làm người bần cùng và sanh vào những loài thú vật, côn trùng, v.v…
Người đó lại hỏi nữa: “Tại sao các thầy bói lại biết đồ vật trong nhà mình khi mình đến xem bói?”
Thầy Chơn Thành trả lời: “Đó là do tưởng thức, chỉ có người tu chứng mới biết rõ ràng tận nguồn gốc của nó mà thôi.”
Thế giới tưởng không thể dùng trí hữu hạn của con người mà hiểu được, chỉ có trí vô hạn của Phật mới thấu suốt và biết nó như thật. Ví như mới học toán lớp một mà đòi hiểu toán đại học sao hiểu được? Muốn có trí vô hạn lượng hiểu thấu suốt các pháp thì phải tu tập.
Nếu không tin lời Phật dạy: “Thế giới siêu hình là thế giới tưởng” có hay không có thì phải tu tập theo đúng con đường của đạo Phật thì tự mình chứng nghiệm không những thế giới siêu hình đó mà còn thông suốt cả không gian và thời gian tận cùng của vũ trụ. Qua giáo lý kinh sách Nguyên Thủy của đạo Phật, Đức Phật đã xác định nhiều bài kinh rằng: thế giới siêu hình chẳng có, đó chỉ là một thế giới tưởng của con người lưu xuất từ tưởng uẩn mà thôi, nó không bao giờ có thật sự. Đức Phật cũng còn xác định rằng: “Nếu thế giới siêu hình có thật thì đạo Phật không có mặt trên hành tinh này.” Tại sao vậy?
Đạo Phật ra đời vì mục đích giải khổ cho con người. Nếu thật sự có thế giới siêu hình tức là các pháp trên thế gian này không phải do duyên hợp tạo thành mà phải do một đấng Vạn năng sáng tạo. Vì thế mọi sự trừng phạt và khen thưởng đều do vị này.
Chúng ta hãy chịu khó đọc lại một đoạn kinh Tiểu Thừa trong tập kinh Tăng Nhất A-Hàm, tập 1 trang 455 thuộc tạng kinh Việt Nam. Các thầy tỳ-kheo thưa hỏi Phật:
“Bạch Thế Tôn! Có sắc nào thường còn không biến đổi, tồn tại mãi ở đời mà không di động chăng? Có thọ, tưởng, hành, thức nào hằng còn không biến đổi, tồn tại mãi ở đời mà không di động chăng?”
Phật dạy:
“Này các thầy tỳ-kheo! Không có sắc nào hằng còn tồn tại mãi ở đời mà không biến đổi, lại không có thọ, tưởng, hành, thức nào, hằng còn mãi ở đời mà không biến đổi”.
“Này các thầy tỳ-kheo! Nếu lại có thức này (Linh hồn, Phật tánh, Bản lai diện mục, Thần thức, v.v…) hằng còn mãi ở đời mà không biến đổi thì người tu Phạm hạnh (tu theo đạo Phật giới, định, tuệ) chẳng thể phân biệt được thiện ác và chẳng thể dứt hết gốc khổ.”
Lúc bấy giờ Đức Phật lấy một ít đất để trên đầu móng tay và bảo:
“Nếu chỉ còn một chút xíu đất trên móng tay ta không thay đổi, thường hằng thì người tu theo Phạm hạnh (theo Phật giáo) chẳng thể chấm dứt các khổ.” “Vì thế, này các thầy tỳ-kheo! Vì không còn chút xíu thức nào nên mới thực hiện được phạm hạnh, dứt được mé khổ.”
Bài kinh trên đã xác định rõ ràng nếu còn có một chút xíu thế giới siêu hình (linh hồn, thần thức) thì đạo Phật không có mặt trên hành tinh này vì không thể tu tập, làm chủ sanh, già, bệnh, chết được, mà đã tu tập không làm chủ được sanh, già, bệnh, chết thì mục đích của đạo Phật ra đời để làm gì? Hay ra đời để bắt chước lục sư ngoại đạo xây dựng thế giới siêu hình có Thần Thức, Linh Hồn, Tiểu Ngã, Đại Ngã, Chơn Như, Phật Tánh, Bản Thể Vạn Hữu, Bản Lai Diện Mục, v.v..
Thời đại Đức Phật ra đời là thời đại dân trí còn thấp kém, con người đang sống trong mê lầm lạc hậu, mê tín, nên tất cả các tôn giáo khác đều theo sự lạc hậu, mê tín đó đang ở trong bối cảnh xã hội như vậy. Các tôn giáo cũng không thể nào thoát ra khỏi thế giới siêu hình tưởng đó. Vì vậy các tôn giáo cũng là những con người đang nằm trong thế giới tưởng uẩn của họ, cho nên không còn có cách nào khác hơn được nữa, họ phải xây dựng thế giới siêu hình vĩ đại hơn của con người đang có để dễ lừa đảo hơn.
Thế nên pháp môn tu tập của các giáo phái cũng không thoát ra khỏi tưởng tuệ, thường sống trong tưởng tri. Cho nên họ đều xây dựng thế giới siêu hình có thần linh, có linh hồn thì phải có sự cứu rỗi. Có ban phước lành thì phải có gia hộ, có trừng phạt, có giáng họa. Có gia hộ, có trừng phạt, có giáng họa, thì phải có thưởng, có khen, v.v...
Vì thông suốt thời gian và không gian của vũ trụ nên đạo Phật biết rất rõ các cõi đều do tưởng tri của con người sản xuất ra nên mạnh tay đập phá thế giới hữu hình cũng như thế giới siêu hình. Bằng một sự biết rất rõ nó không có thật, thường làm đau khổ cho loài người cho nên qua những bài pháp chỉ thẳng rất thực tế và cụ thể mà hiện giờ thời đại khoa học của chúng ta cũng phải chấp nhận những bài pháp đó thật là logic và khoa học. Ngài chấp nhận cõi Trời là chấp nhận việc làm thiện của con người. Những hành động thiện sẽ mang đến cho họ một cuộc sống an vui, thanh thản và hạnh phúc, đó là cảnh giới “Thiên Đàng.”
Ngài chấp nhận ngay tại cuộc sống ở thế gian này là cõi “Trời” chứ không ở cõi nào khác cả. Ngài chấp nhận cõi địa ngục là chấp nhận những việc làm ác của con người. Những hành động ác đó sẽ mang đến cho họ một cuộc sống tai ương, họa khổ, bất an, đó là cảnh giới địa ngục tại thế gian này chứ không có cõi địa ngục nơi nào khác cả.
Cho nên “Thiên Đàng” hay “Địa Ngục” đều ở tại cảnh giới thế gian này, do chính bàn tay, khối óc, lời nói của con người tạo ra chứ không phải có cảnh giới Thiên Đàng, Địa Ngục có sẵn để trừng phạt và khen thưởng con người.
Theo giáo lý của Đức Phật dạy: “Chẳng có ai ban phước giáng họa cho con người mà chính con người tự ban phước giáng họa cho mình.” Ngài chấp nhận cảnh giới Niết Bàn là chấp nhận một trạng thái tâm hồn đoạn diệt lòng ham muốn và các ác pháp. Ngài không chấp nhận thế giới siêu hình huyễn hoặc do tưởng tri bịa đặt ra để lừa đảo, lường gạt người khác, tạo cảnh giới mê tín, khiến cho con người tiền mất tật mang mà chẳng ích lợi gì cho cuộc sống. Ngài thường cho thế giới đó là thế giới bóng dáng của mười hai nhân duyên, thế giới tưởng tri của con người vì vô minh chẳng rõ nên lầm chấp là có thật mà thôi.
Thời đại Đức Phật ra đời là thời đại tình trạng dân trí còn thấp kém, lạc hậu nên thường sống trong tưởng tuệ, không thể hiểu được thực thể của các pháp, luôn luôn bị các nhà tôn giáo “tưởng” dồn nhét vào đầu óc con người thêm những hình ảnh huyền bí, thần thông siêu việt, những linh hồn ngự trị ở cây cao bóng mát, những ma thiêng như đom đóm lập loè trong đêm tối, những vị thần linh khổng lồ vĩ đại như đấng Ngọc Hoàng Thượng Đế quyền uy sáng tạo vũ trụ, cai trị, xử phạt, ban phước, giáng họa cho cả loài người và chư Thiên.
Muốn cho thế giới tưởng đó hoạt động một cách hiệu nghiệm, các nhà tôn giáo dùng tưởng ấm của mình bằng cách “ức chế ý thức và ám thị tưởng ấm”, khiến cho ý thức phải ngưng nghỉ, tưởng thức hoạt động. Muốn cho ý thức ngưng hoạt động và tưởng thức hoạt động, các nhà tôn giáo phải tọa thiền, tụng kinh, trì chú, niệm Phật, luyện bùa, luyện chú, ám thị, kệ tụng kêu gọi âm binh, tạo cảnh hồn ma phách vía mờ mờ, ảo ảo, nói chuyện quá khứ, vị lai, trị bệnh, trừ tà, ếm quỷ, trừ ma linh hiển, khiến cho người ta quá sợ hãi và tin tưởng.
Cũng do thế giới siêu hình huyền ảo đó, bằng cách này hoặc bằng cách khác tưởng giải ra mọi hình thức trừu tượng ảo ảnh. Con người đang sống trong tai ương, hoạn họa, bệnh tật khổ đau của nhân quả và đứng trước cảnh thiên tai, thủy tai, hỏa tai, địa họa, sấm sét kinh thiên động địa, trước cảnh đó làm sao con người không sợ hãi, khiếp đảm và không tin tưởng thế giới siêu hình sao được.
Vì sợ hãi, con người phải xin gia nhập vào tôn giáo để nương tựa, nhờ sự gia hộ, cứu độ của đấng Ngọc Hoàng Thượng Đế, Chúa, chư Phật, chư Bồ Tát, v.v… Từ đó con người đặt trọn niềm tin sống trong thế giới siêu hình tưởng, một thế giới hình bóng mà không biết cứ ngỡ rằng đó là thế giới chơn thật, đến khi chết bỏ thân này cũng sẽ trở về thế giới vĩnh viễn đó. Vì vậy mọi việc làm thiện ở đời này đều hồi hướng cầu mong được chấp nhận về nơi ấy. Đó là một ảo tưởng của con người thời xa xưa và con người thời bây giờ cũng đang ở trong tâm nguyện như vậy.
Thế giới siêu hình này đã ăn sâu vào tận gốc con người, một truyền thống lâu đời khó mà gọt sạch được trong thời gian ngắn, mặc dù hiện giờ có người đã biết đó là một thế giới tưởng (thế giới không thật có), tuy biết vậy nhưng cũng không thể bỏ được. Vả lại trí hữu hạn của con người không tài nào họ hiểu sự vật đúng như thật được, nên dù sao họ cũng phải tin rằng có thế giới siêu hình.
Đạo Phật ra đời trong giai đoạn con người đang sống trong thế giới tưởng, chịu ảnh hưởng của các tôn giáo thần quyền rất sâu đậm nên khó thuyết phục con người đập phá thế giới siêu hình một sớm một chiều được. Vì vậy Đức Phật nói thẳng, nói mạnh, ai muốn hiểu sao tùy ý, sáng suốt thì nhờ, vô minh mù mờ thì chịu. Cho nên có những bài kinh Đức Phật nói rất mạnh mẽ để xác định rõ ràng: thế giới siêu hình không có, chỉ là tưởng tri.
Đọc kinh sách Nguyên Thủy ta nhận xét rõ đạo Phật ra đời quyết đem lại một sự hiểu biết thật sự cho con người một cuộc sống chơn thật, khiến cho con người không còn lầm lạc để thoát ra khỏi cảnh khổ đau, bất an, bất toại nguyện v.v…
Pháp môn của Ngài tu tập thiết thực, cụ thể, rất khoa học, không mơ hồ, trừu tượng, viển vông, thực tập để thoát khổ của kiếp làm người. Muốn thoát kiếp khổ làm người thì phải thực hiện một đời sống Phạm hạnh (Giới Luật) của một tu sĩ Phật giáo và tập tỉnh thức trong từng niệm của cuộc sống không làm khổ mình, khổ người, bằng ý thức cụ thể, rõ ràng, đối với các pháp luôn luôn lúc nào cũng cảnh giác không để tưởng thức xen vào. Vì có tưởng thức xen vào thì mất ý thức tỉnh giác đối với các pháp, lúc nào tà niệm cũng hiện tiền, có tà niệm thì có ác pháp sanh khởi, ác pháp sanh khởi thì con người phải chịu khổ đau. Khi con người có khổ đau, có tai nạn, có bệnh tật v.v… thì thế giới siêu hình tưởng phải đến với họ.
Khi Đức Phật còn tại thế, người ta đặt trọn niềm tin ở Phật, nhờ thế mà có một số người sống đúng Phạm hạnh như Phật nên mới tu chứng đạt chân lý thật sự, vì sống theo gương hạnh của Phật cho nên thoát ra khỏi kiếp khổ của con người, làm chủ sự sống chết, luân hồi.
Đến khi Đức Phật và các bậc Thánh Tăng nhập diệt, không còn ai làm gương hạnh nên Phạm hạnh không còn với những bậc phàm Tăng. Giới luật bị bẻ vụn không còn ai giữ gìn nghiêm túc, sống phóng dật theo dục lạc thế gian, ăn ngủ phi thời, không thiểu dục tri túc và không phòng hộ sáu căn.
Từ đó các ngài dựa vào pháp môn của ngoại đạo triển khai thành kinh sách Đại Thừa phát triển, thường lý luận để bảo vệ sự phạm giới, phá giới của mình, hòng che mắt tín đồ. Biến dần giáo pháp của đạo Phật thành một giáo pháp mê tín, Phật giáo biến thành thần giáo, Đức Phật biến thành ông thần chuyên làm việc gia hộ ban phước.
Pháp môn của Phật dùng để trau dồi thân tâm, sửa những lỗi lầm, xa lìa ác pháp, viễn ly tâm ham muốn và tu tập nhập các loại định làm chủ sanh, già, bệnh, chết. Thế mà bây giờ lại biến thành giáo pháp tụng niệm, cúng tế, trừ tà, ếm quỷ, trị bệnh, cầu an, cầu siêu, v.v… Dựng lên 33 cõi trời, và vô số cõi Phật, có một cõi Cực Lạc Tây phương rất lý tưởng của loài người, một bản thể siêu việt vĩ đại (Phật tánh) thường, lạc, ngã, tịnh (an lạc và bất biến mãi mãi trường tồn). Kể ra tất cả các tôn giáo trên thế gian này không có một tôn giáo hữu thần nào hơn được Phật giáo Đại Thừa.
Theo tưởng giải dựa vào giáo pháp của ngoại đạo, kinh sách phát triển Đại Thừa đã dìm mất giáo pháp chơn chánh của đạo Phật. Đến giờ này, ngay chính vào thời đại của chúng ta là thời đại khoa học hiện đại, thế mà những con người có học thức, có trình độ trên đại học vẫn còn tin có thế giới siêu hình và cũng còn mê tín như những người dân lạc hậu xưa kia thì làm sao những người dân lao động thiếu học không tin được.
Các nhà học giả Đại Thừa giáo rất khéo léo đem tất cả giáo lý của ngoại đạo pha trộn lại biến thành giáo lý Phật giáo Đại Thừa, trong đó có vay mượn giáo pháp Nguyên Thủy, nhờ đó dễ bề lừa đảo tín đồ Phật giáo trong mọi giai cấp con người.
Ở đây, giới bình dân ít học, kiến thức hiểu biết còn hạn hẹp, trước cảnh tai ương, hoạn họa, bệnh tật nan y; trước cảnh thiên tai, dịch họa; trước cảnh bão lụt, địa chấn, hỏa sơn, khiến cho con người khiếp đảm, sợ hãi. Trong sự khiếp đảm sợ hãi đó con người tưởng ra những vị thần linh có đầy đủ oai lực, có sự ban phước và cũng có sự giáng họa theo hành động thiện ác của mỗi người.
Lợi dụng tưởng tri mê tín này, các tôn giáo xây dựng thế giới siêu hình biến thành cõi Thiên Đàng và Địa Ngục, có chư Phật, Thánh, Tiên, Thần, Ngọc Hoàng Thượng Đế, Diêm la, Thủy phủ, tà ma, quỷ quái, v.v… Xây dựng thế giới siêu hình xong, các vị giáo chủ sản xuất những loại kinh cúng tế, tụng niệm, cầu an, cầu siêu, làm lành, bố thí, phóng sanh và còn kêu gọi cúng dường trai Tăng, xây chùa, cất tháp, lập miếu, dựng đình, v.v…
Giới trí thức có hiểu biết hơn thì không tin sự mê tín vu vơ đó lại tin vào sự mê tín trừu tượng như: Bản Thể Vạn Hữu, Tâm, Tánh, Phật Tánh v.v… Do đó họ chạy theo những pháp môn thiền định, tu tập để mong “Kiến tánh thành Phật.” Thật là buồn cười cho mọi người, khi thấy tánh thành Phật thì làm lợi ích gì cho mình, cho người, hay chỉ dùng ba tấc lưỡi lừa đảo người khác. Thấy tánh thành Phật có hết tâm tham, sân, si không? Có làm lợi ích gì cho kiếp sống của con người không?
Hiện giờ biết bao nhiêu người đã kiến tánh thành Phật mà đã hết tâm tham, sân, si chưa? Đã thành Phật chưa? Phật như thế nào? Hay chỉ là những danh từ “Đại giác” suông? “Chứng đạo” suông? “Giác ngộ” suông? Kiến tánh thành Phật sao còn tham tiền, tham bạc, ăn ngủ phi thời, giới hạnh, giới đức chẳng có, sống phạm giới, phá giới, bẻ vụn giới v.v…
Trong khi đạo Phật không chấp nhận thế giới siêu hình; không chấp nhận tụng kinh, cung bái, cầu nguyện, tế lễ thì cúng bái tụng kinh, cầu khẩn và tế lễ với ai, cho ai đây? Đạo Phật là đạo vô ngã. Vậy, ngồi thiền nhập định để kiến tánh thành Phật là Phật gì? Vô ngã sao lại còn có Phật?
Đạo Phật là một tôn giáo ra đời để giải quyết bốn điều khổ của kiếp người “sanh, già, bệnh, chết.” Giáo pháp của Ngài xây dựng trên một nền tảng “Đạo đức nhân bản – nhân quả, sống không làm khổ mình, khổ người.” Pháp môn của Ngài dạy tu tập tỉnh thức là để ngăn chặn lòng tham muốn và ngăn chặn các ác pháp, nhờ đó mới mang lại sự an vui, thanh thản và hạnh phúc cho mình, cho người. Một giáo pháp rất thực tế và cụ thể cho mọi người, nếu mọi người ai cũng ý thức và hiểu biết về pháp môn này, nỗ lực thực hiện sống đúng lời dạy của Đức Phật thì xã hội loài người sẽ trở thành Thiên Đàng, Cực Lạc, còn có cần gì đi tìm cõi Thiên Đàng, Cực Lạc mơ hồ trừu tượng kia mà chẳng bao giờ có.
Vừa rồi chúng tôi được đọc một cuốn sách tựa đề “Sự sống sau khi chết.” Đọc xong cuốn sách này, nếu người nào không có tu tập theo giáo lý Nguyên Thủy của đạo Phật và không có chứng nghiệm pháp hướng tâm thì chắc chắn phải tin rằng có thế giới siêu hình. Toàn bộ cuốn sách tác giả đã lượm lặt những mẩu chuyện “cận tử nghiệp.” Tác giả này chưa bao giờ tìm hiểu Phật giáo và nếu bây giờ có tìm hiểu và nghiên cứu Phật giáo thì ông ta cũng vẫn hiểu lầm lạc vì một đám mây mù giáo pháp của Đại Thừa đã che phủ và lấp kín lời dạy của Đức Phật.
Những mẩu chuyện cận tử nghiệp của bao nhiêu người lâm sàng trên giường bệnh trong bệnh viện, tác giả đều cho đó là một trạng thái của cuộc sống sau khi chết. Họ đâu biết rằng trong thân tứ đại này, khi con người còn sống có cả hai thế giới hữu hình và vô hình, nhưng khi thân tứ đại này chết thì cả hai thế giới ấy đều diệt sạch. Khi thân này còn sống, cái gì hoạt động trong thế giới hữu hình? Và cái gì hoạt động trong thế giới vô hình?
Khi còn sống, con người hoạt động trong thế giới hữu hình bằng “sắc thức.” Sắc thức gồm có sáu thức: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức; còn hoạt động trong thế giới vô hình thì chỉ bằng một “tưởng thức.” Bình thường hằng ngày chúng ta sống làm mọi việc thì ý thức điều khiển hoạt động do ý căn (bộ óc và thần kinh). Khi ý thức ngưng hoạt động giống như người đang ngủ thì tưởng thức hoạt động sinh ra giấc mộng (chiêm bao), cũng do ý căn (bộ óc và hệ thần kinh) điều khiển.
Cho nên một người bị bệnh tim, gan, phèo, phổi, v.v… một trong những bộ phận đó bị ngưng hoạt động, được xem như chết nhưng thật chưa chết hẳn, ý thức ngưng hoạt động, hơi thở dừng, tim không đập nhưng hệ thần kinh tưởng còn hoạt động tức là tưởng thức hoạt động (chiêm bao). Giấc chiêm bao đó gọi là “cận tử nghiệp.”
Hằng ngày trong cuộc sống họ ưa thích làm những điều ác, thiện, đi chùa, nhà thờ, cúng bái, tụng niệm, ngồi thiền, ước vọng được sanh lên Thiên Đàng gặp Chúa, được vãng sanh về Cực Lạc Tây phương gặp đức Phật Di Đà, được thấy hào quang ánh sáng của chư Thiên, chư Phật, chư Bồ Tát, v.v… Đó là những người được theo các tôn giáo và được những giáo pháp của các tôn giáo đã ghi những ấn tượng vào đầu óc của họ bằng những hình ảnh Chúa, Phật, ánh sáng, hào quang, hoa sen, thì cận tử nghiệp sẽ thể hiện giấc mộng y như hình ảnh đó.
Lợi dụng cận tử nghiệp, Tịnh Độ Tông sử dụng hộ niệm để giúp người sắp chết thực hiện giấc mộng trực vãng Tây phương. Tịnh Độ Tông nghĩ rằng: nghiệp cuối cùng (cận tử nghiệp) có thể thể hiện được những ước ao và ý nguyện lúc còn sống. Đó là về phần của những người có tôn giáo.
Còn những người không tôn giáo thì cận tử nghiệp thực hiện giấc mộng theo tâm ham muốn danh, lợi, thương, yêu, mến, tiếc, giận hờn, tức tối, thù hận, căm ghét, la hét, sợ hãi, v.v… Đó là những điều làm ác, ngược lại làm thiện thì cũng thấy cảnh vui tươi, hoan hỷ, sung sướng v.v… Vì huân tập thành thói quen (nghiệp lực), lúc sắp chết tưởng thức hoạt động từa tựa như giấc chiêm bao. Giấc chiêm bao chỉ có sáu thức ngưng hoạt động, còn toàn bộ cơ thể đều hoạt động bình thường.
Người sắp chết cũng ở trong trường hợp này, sáu thức ngưng hoạt động nhưng lại khác là do một tạng phủ nào bị hư hoại không hoạt động được chứ không giống như người ngủ chiêm bao. Đó là trường hợp người sắp chết tưởng thức hoạt động nên thấy mình xuất hồn ra khỏi thân và thấy thân đang nằm trên giường bệnh, các y bác sĩ đang làm hô hấp cứu chữa.
Nhưng cũng có người lúc lâm sàng trên giường bệnh chết, bấy giờ duyên năm uẩn chưa phân ly nên tưởng thức hoạt động, bịnh nhân như nằm mộng thấy hào quang ánh sáng, chư Thiên Thần, chư Tiên, chư Phật, chư Bồ Tát, Ngọc Hoàng, Thượng đế, quỷ sứ, ngưu đầu, mã diện, vua Diêm La, v.v…
Nhờ hô hấp, cứu chữa của y bác sĩ, bệnh nhân tỉnh lại giống như một giấc mộng và kể lại cho những người thân nghe: “Chắc chắn có sự sống sau khi chết, có địa ngục hẳn hoi.” Qua những hình ảnh đó con người không ngờ đó là một hình bóng do tâm ước muốn mà tưởng thức thể hiện qua giấc mộng cận tử nghiệp.
Nếu thật sự năm duyên ngũ uẩn phân ly, tan rã thì chẳng còn gì là của ta nữa hết, linh hồn, thần thức, Phật tánh cũng tiêu tan hết, chỉ còn lưu lại nghiệp thiện, nghiệp ác mà thôi và tiếp tục theo nghiệp thiện, nghiệp ác đó tương ưng vô minh theo hành động nhân quả của kẻ khác tái sanh luân hồi (Vô Minh sanh Hành, Hành sanh Nghiệp, Nghiệp sanh Danh Sắc…). Từ vô minh chúng ta tạo nghiệp thiện nghiệp ác trong cuộc sống hằng ngày, đến khi chết rồi chỉ còn lại nghiệp thiện, nghiệp ác rồi cũng theo vô minh tiếp tục tái sanh luân hồi kiếp khác, cứ mãi như vậy trôi lăn trong dòng nước Nghiệp muôn kiếp muôn đời.
Do thế Đức Phật dạy: “Con người từ nhân quả sanh ra, sống trong nhân quả và chết trở về nhân quả.” Chúng ta biết rất rõ: chẳng có thế giới siêu hình, chẳng có đấng tạo hóa nào cả, chẳng ai sanh chúng ta ra cả và cũng chẳng có ai ban phước, giáng họa cho ta được, mà chính chúng ta biết dừng dòng nước nghiệp thì tất cả tai nạn, bệnh tật, đau khổ và sự tái sanh luân hồi đều chấm dứt.
Trí hữu hạn của con người không thấu suốt và không thấy rõ thế giới nhân quả nên lầm chấp có thế giới này, có thế giới kia rồi sanh ra dính mắc, cái này thường hằng, cái kia vô thường, từ đó tranh luận theo tưởng giải, kiến chấp, ngã chấp của mình, sản xuất ra biết bao nhiêu cái sai lầm, sai lạc, tự cho cái này đúng, cái kia sai, rồi chia phe nhóm ra bài bác, chỉ trích lẫn nhau, loanh quanh, lẩn quẩn suy tới, nghĩ lui cũng chỉ ở trong vòng tưởng thức mà thôi, không thể nào vượt ra khỏi sự hiểu biết hữu hạn của ý thức con người.
Đời sống của con người, sự hiểu biết lúc bình thường là ý thức, đến khi gặp thiên tai, hỏa họan, sấm sét, chớp giăng, lũ lụt, bão tố, tai ách, bệnh tật nan y v.v… Trước những cảnh quá khiếp đảm sợ hãi đó ý thức không thể nào hiểu nổi được nên tưởng thức bắt đầu hoạt động thì thế giới siêu hình hiện ra, có những vị Thần trong tâm tưởng của họ như: Thần Mưa, Thần Sấm, Thần Sét, Thần Núi, Thần Sông, Thần Cây, Thủy Thần, Hỏa Thần, Thổ Thần, v.v… Tất cả những vị Thần này có thể ban phước, giáng họa cho loài người.
Với lòng thành kính tin tưởng và lúc nào cũng tựa nương vào những đấng thần linh này nên có việc lớn, việc nhỏ gì cũng đều van vái, cầu khẩn, cúng bái các vị thần linh, lòng tin tưởng đó bắt đầu có hiệu nghiệm, thấy có sự linh nghiệm rõ ràng. Cho nên người ta nói rằng: gò mối mà cứ đến thắp hương cúng bái thì gò mối cũng linh hiển.
Cái linh hiển đó từ nơi đâu mà có? Chưa có ai hiểu được ngoại trừ những bậc chơn tu, thạc đức, tu hành đúng theo đường lối của đạo Phật đạt đến Tứ Thiền, Tam Minh mới biết rõ từ nơi tưởng ấm của con người nhờ sức “ám thị” tạo ra, hay nói một cách khác, sự linh hiển đó, do lòng tin tưởng của chúng ta tự động đã ám thị trong tâm chứ không phải có các thần linh trong thế giới siêu hình linh hiển thật sự.
Từ sự linh hiển đó khiến cho người ta tin rằng có thế giới siêu hình thật sự, có ma, có quỷ, có linh hồn người chết. Tin tưởng vào những hình bóng như vậy gọi là mê tín, tin mà quên mình dám hy sinh cho những thần linh đó gọi là cuồng tín. Đó là những giai đoạn đa thần, do từ lòng quá sợ hãi của con người sản xuất ra bằng tưởng thức để an ủi tinh thần lúc quá khiếp đảm sợ hãi.
Tôn giáo ra đời cũng dựa vào lòng mê tín đó, không bỏ bớt các vị thần kia nhưng lại xây dựng một thế giới siêu hình nhất thần do các đấng giáo chủ có đủ quyền năng điều khiển và sai khiến được các vị thần của dân gian đặt ra, họ có quyền năng tối cao hơn các vị thần khác nên con người tin theo và xin gia nhập vào tôn giáo đó để được các vị thần trên hết ban phước cho mình.
Các nhà làm tôn giáo chỉ cần thực hiện một vài thần thông tưởng nho nhỏ do sự tu tập thiền định tưởng, hoặc dùng tưởng lực bùa chú tạo ra những thần lực mà con người bình thường không thể làm được thì mọi người sẽ theo tôn giáo mình rất nhiều.
Ví như biến hóa, tàng hình, đi trên nước, đi trên lửa, đi trên hư không như chim bay, biết chuyện quá khứ vị lai của người khác, trị bệnh, trừ tà, ếm quỷ, v.v… Làm những việc như vậy sẽ có nhiều người theo tôn giáo mình rất đông.
Có một số tôn giáo lợi dụng sự trị bệnh và cứu trợ tiền bạc, thực phẩm, gạo, sữa, đường, thuốc thang, v.v… để lôi cuốn mọi người vào tôn giáo mình, đó là mánh khoé của các nhà làm tôn giáo. Cho nên Đại Thừa giáo có Tứ Nhiếp Pháp để nhiếp phục người khác vào tôn giáo mình.
Do dùng tưởng tập luyện nên tâm danh, lợi, sắc dục vẫn còn. Vì thế, khi có chút ít thần thông thì lập thành một giáo phái rồi hướng dẫn người theo giáo phái mình tu tập. Nếu vị giáo chủ không sa ngã danh, lợi và sắc đẹp, có giới luật, có kỷ cương hẳn hoi, có pháp hành và tu tập có kết quả thì giáo phái đó được duy trì lâu dài, còn ngược lại không có kỷ luật, vị giáo chủ đắm say danh lợi và sắc dục thì thần thông tưởng biến mất, vị giáo chủ kia đi ở tù vì tội lừa đảo.
Trong đương thời phát triển đạo giáo thì vị giáo chủ bày ra đủ thứ mê tín khiến con người hao tốn tiền bạc rất nhiều, nhưng cũng có điều dạy rất tốt, dạy người làm lành, biết thương yêu nhau, bố thí giúp nhau trong cảnh hoạn nạn, tương thân tương trợ đoàn kết với nhau. Nhưng rất độc tài và bảo thủ tôn giáo mình nên sách động tín đồ làm việc cực ác. Phần nhiều có chiến tranh trên hành tinh này đều do tôn giáo gây ra, máu xương con người chất như núi.
Bởi vậy tôn giáo ra đời có lợi mà cũng có hại, lợi là dạy người làm thiện, tu thiện, biết thương yêu nhau, đùm bọc lẫn nhau; hại là tôn giáo này tranh giành tín đồ với tôn giáo khác vì hệ tư tưởng khác nhau. Nhưng xét cho cùng, tất cả các tôn giáo khác trên thế gian này đều lấy tưởng thức tu tập, thậm chí như: Võ công, Khí công, Khinh công, Nội công, Yoga, Dưỡng sinh đều tập luyện bằng tưởng lực, chỉ trừ ra có Phật giáo không dùng tưởng.
Phật giáo lấy ý thức chủ động điều khiển, lấy đạo đức nhân quả làm nền tảng vào đời nên không làm khổ mình, khổ người, luôn sống với trí tuệ nhân quả, chuyển hóa được quả xấu thành quả tốt, luôn tạo nhân lành bằng hành động thân, miệng, ý, tránh tạo nhân ác khiến đời sống mình và mọi người đều được tràn đầy hạnh phúc, an vui, chan hòa với nhau.
Những giáo lý và pháp môn đạo đức cao quý này đã bị những giáo lý tưởng giải, kiến giải của các nhà học giả Đại Thừa triển khai ra và đã tìm mọi cách dìm mất giáo lý của đạo Phật nên hiện giờ con người trên hành tinh này đã đánh mất đi một nền đạo đức nhân bản – nhân quả tuyệt vời không làm khổ mình, khổ người.
Nếu các tôn giáo cho rằng: có đời sống sau khi chết và lấy những mẩu chuyện cận tử nghiệp của nhà sưu tầm Raymono A-Moody cho là thật thì chúng tôi xin nêu một ví dụ. Ví dụ có một bệnh nhân cần phải mổ, trước khi mổ phải gây mê cơ thể cho người này. Khi bị gây mê, người này không còn biết gì hết, giống như người ngủ say thì lúc bấy giờ linh hồn người này đâu bị gây mê sao họ lại mất tiêu không xuất linh hồn ra ngoài thân để xem lại thân họ đang bị mổ như các trường hợp trong sách này thuật lại.
Trường hợp thứ hai, trong các nhà Thiền bảo rằng: “Thể tánh con người hằng biết, hằng nghe, hằng thấy.” Vậy sao lúc gây mê chẳng còn nghe, thấy, biết gì cả?”
Phật dạy: “Cận tử nghiệp”, người sắp chết thường thể hiện cận tử nghiệp như giấc mộng thấy cảnh giới này, cảnh giới khác, có người thì mê man bất tỉnh chẳng biết gì cả, đó là tùy theo nghiệp (thói quen do lòng ham muốn) tiếp tục tái sanh, luân hồi theo nghiệp lực dục tương ưng với đối tượng nghiệp lực dục đó ngay liền sau khi thân này không còn phục hồi lại được nữa.
Do đó sự sống sau khi chết không có, chỉ có một cuộc sống hiện hữu đang tiếp diễn trong luật vô thường nhân quả từ thân này đến thân khác liên tục mãi, tiếp nối nhau mãi không bao giờ có kẽ hở như ngọn đuốc này tắt tiếp nối ngọn đuốc khác. Đó là một đạo luật nhân quả bất di bất dịch, muôn đời muôn kiếp của loài người không có ai thay đổi được, bởi vì: con người từ nhân quả sanh ra, sống trong nhân quả và chết trở về nhân quả.
LỜI GIỚI THIỆU SÁCH "DỰNG LẠI PHÁP NHƯ LAI"
Bộ sách “DỰNG LẠI PHÁP NHƯ LAI” do phật tử TP. Hồ Chí Minh đã ra công nghiên cứu, sưu tầm từ trong những bộ sách Đường Về Xứ Phật, Những Lời Gốc Phật Dạy và những bộ sách khác của Tu Viện Chơn Như biên soạn rồi sắp xếp theo thứ tự của các nhóm pháp từ thấp đến cao, từ Giới đến Định có ngăn nắp, khiến cho người đọc tiếp thu chánh pháp của Phật một cách dễ dàng hơn.
Sau khi đọc xong bộ sách, chúng tôi thấy rất lợi ích cho quý phật tử nên xin giới thiệu cùng quý độc giả và quý phật tử muốn tìm hiểu hay tu tập theo đúng chánh pháp của Đức Phật thì nên tìm đọc những tập sách này, nó sẽ giúp cho quý vị hiểu và tu tập đúng chánh pháp của Phật mà không sợ sai lạc vào giáo pháp của ngoại đạo.
Kính ghi
Trưởng Lão Thích Thông Lạc
Tháng 3 năm 2010
59. TỤC LỆ
Hỏi: Kính thưa Thầy, tại sao người chết phải buộc tay chân vào hai bả vai?
Đáp: Theo phong tục tập quán của dân tộc Việt Nam có rất nhiều truyền thống mê tín dị đoan kỳ lạ theo từng vùng địa phương. Đây cũng là một phong tục tập quán ở miền Bắc, riêng ở miền Nam khi nhà có người chết thì nhốt mèo lại hết.
Những ông bà xưa dạy: khi trong nhà có người chết, không cột tay chân vào bả vai thì sẽ bị quỷ “nhập tràng”, quỷ nhập tràng tức là những linh hồn người chết oan ức (chết bất đắc dĩ), chết tức tối, chết không kịp trối trăn gì cả, những linh hồn người này không đi đầu thai được, sống vất vưởng theo đình, theo miếu, theo cây cao, bóng mát, thấy người nào hạp với nó thì bắt bệnh đau; thấy người nào chết mà hơ hõng không chịu cột tay chân thì nhập vào khiến cho thây ma bật dậy chạy điên khùng, đụng vào người nào thì người đó cũng chết theo, khi đụng như vậy dù vào người hay cây cối thì thây ma cũng bật té chết trở lại. Do đó người ta sợ trường hợp này xảy ra nên mới cột tay chân vào bả vai để tránh trước tai họa cho gia đình và những người khác.
Trong miền Nam khi nhà có người chết, người ta không cột tay chân người chết lại mà lại nhốt mèo, vì trong những con mèo sẽ có con mèo gọi là “linh miêu”. Nếu con mèo này nhảy ngang qua thây người chết thì thây ma đứng dậy chạy và đụng ai thì người ấy chết, cho nên có người chết thì trong nhà đều nhốt mèo lại hết, bây giờ không còn tục lệ đó nữa.
Trong kinh sách Nguyên Thủy của Phật giáo không có dạy những điều này, thường dạy làm những điều thiện tránh xa những điều ác và đập phá những điều mê tín dị đoan, nhất là xóa bỏ thế giới tưởng siêu hình hoàn toàn không chấp nhận, cho nên những gì mê tín dị đoan do các phong tục truyền thống của dân gian có tánh cách mơ hồ, trừu tượng không thực tế thì Đức Phật nhẹ nhàng uốn nắn.
Chúng ta là đệ tử của Đức Phật, ta phải nương theo trí tuệ Phật, quán chiếu cái gì đúng, cái gì sai để lần lượt dẹp bỏ cho cuộc sống bớt rườm rà và phiền toái vì những tục lệ không lợi ích thiết thực. Nếu chúng ta chấp nhận khiến chúng ta càng vô minh hơn và càng lạc hậu hơn.
Nếu cuộc đời còn chấp nhận những điều mê tín, lạc hậu, còn mang đầy ắp những truyền thống của tổ tiên mơ hồ, trừu tượng có tánh cách vô lý mà không chịu dứt bỏ, mang cõng trên vai trên cổ mãi mà không chịu bỏ xuống thì chứng tỏ những hạng người đó quá u mê, vô minh và lạc hậu không tiến bộ, không theo kịp thời đại khoa học đang hiện đại hóa cuộc sống loài người.
60. ÁO LỤC THÙ, ÁO HẢI HỘI
Hỏi: Kính thưa Thầy, chúng con tâm còn hoảng loạn, trong lúc có người thân quyến ra đi thật là lưu luyến kẻ ở người đi, lòng sầu bi, ủ dột. Lúc còn sống phải chuẩn bị mua sắm áo chết để mặc, “áo lục thù, áo hải hội” để khi chết mặc đi xuống địa ngục, quỷ sứ nhìn thấy biết đó là đệ tử của nhà Phật mà không hành án nặng, giảm nhẹ tội. Thưa Thầy, con chưa hiểu, xin Thầy chỉ dạy?
Đáp: Đạo Phật cả quyết và xác định không có thế giới siêu hình thì làm sao có linh hồn mặc áo hải hội, áo lục thù đi xuống địa ngục.
Đạo Phật chỉ có một thế giới con người đang sống là thế giới tưởng tri, con người đang lầm chấp cho đó là thế giới có thật sự nên tạo biết bao nhiêu nhân quả bất thiện để rồi cũng phải chịu sống với bao nhiêu qua khổ đau, vui ít, khổ nhiều.
Còn kẻ nào tạo những điều cực ác thì phải thọ lấy cảnh sống toàn khổ, đó là địa ngục trần gian chứ không có địa ngục nào khác nữa.
Còn kẻ nào làm toàn thiện, không làm khổ mình, khổ người thì kẻ ấy có một cuộc sống an vui, hạnh phúc, đó là cảnh giới của chư Thiên.
Còn kẻ nào cũng sống toàn thiện như trên mà biết xa lìa tâm ham muốn (dục), không làm khổ mình, khổ người thì tâm hồn thường thanh thản, yên vui, an lạc và vô sự, đó là Niết Bàn tại thế gian.
Đối với đạo Phật, cảnh Thiên Đàng, Địa Ngục và Niết Bàn đều ở tại thế gian không phải đi tìm nơi đâu xa cả.
1- Làm ác chịu quả khổ, đó là địa ngục tại thế gian.
2- Làm thiện hưởng phước báo an vui, hạnh phúc, tai qua nạn khỏi, sống cuộc đời đầy đủ, không thiếu hụt, muốn chi có nấy, đó là cảnh Thiên Đàng tại thế gian.
3- Sống ly dục ly ác pháp, diệt ngã xả tâm, tâm hồn vô sự, thanh thản, trầm lặng, an lạc, đó là cảnh giới Niết Bàn tại thế gian.
Áo lục thù và áo hải hội là của các thầy cúng và các thầy phù thủy bày đặt chuyện ra để lừa đảo, lường gạt những người không hiểu giáo lý đạo Phật chơn chánh, họ dựa theo một số kinh sách mê tín của Đại Thừa mà bảo với tín đồ đó là lời Phật dạy: làm như vậy, cúng bái như vậy, sẽ có lợi ích và phước báo lớn.
Làm gì có quỷ sứ, ngưu đầu mã diện; làm gì có mười vua Diêm Vương ở cõi địa ngục hành hạ linh hồn tội nhân. Đó là sự giàu tưởng tượng của những văn viết tiểu thuyết thuộc loại hoang đường hư ảo như những tác giả kinh Địa Tạng, kinh Thập Vương, Tây Du Ký, Phong Thần, Hồi Dương Nhân Quả, Liêu Trai Chí Dị v.v…
Trong kinh sách Nguyên Thủy của đạo Phật có nói đến quỷ vô thường, quỷ la sát là nói đến sự vô thường của thân tứ đại và các pháp ác chứ không phải có con quỷ vô thường và con quỷ la sát thật sự, người đời không hiểu cho đó là có quỷ thật sự ở cõi địa ngục Diêm La. Trong kinh Thập Vương của Đại Thừa diễn tả mười cảnh địa ngục có mười vị vua Diêm La Vương, có quỷ sứ, có ngưu đầu, mã diện, có phán quan, v.v…
Đó là một thế giới tưởng của Đại Thừa vẽ ra để lừa đảo tín đồ, khiến cho tín đồ quá sợ hãi. Do sự sợ hãi đó mà quý thầy Đại Thừa bảo tín đồ làm sao thì làm vậy, không dám suy nghĩ đúng sai những điều đã được dạy bảo nên phải chịu hao tài tốn của rất nhiều về vấn đề cầu siêu, cúng vong, tiễn linh, trừ linh, trừ thần, v.v…
61. CHIẾC ÁO KHÔNG CHE ĐƯỢC MẮT THÁNH
Hỏi: Kính thưa Thầy, lúc sống không tu tập trau dồi thiện pháp, không sửa tâm tánh những thói hư tật xấu, sống không nhìn đời bằng đôi mắt nhân quả, luôn luôn tạo khổ cho mình và cho người khác. Đến khi chết, mặc áo lục thù, áo hải hội có tác dụng gì không?
Đáp: Kinh sách Đại Thừa thường soạn viết ra những điều phi đạo đức, sống làm điều ác, gian tham, tật đố, háo danh, tham của cải, tài sản, đủ mọi mánh khóe, thủ đoạn, giết người, cướp của, hại mạng chúng sanh, chẳng chút lòng lành, chẳng biết thương xót ai hết, chỉ biết có mình là trên hết.
Đến khi chết chỉ cần mặc áo lục thù hoặc áo hải hội đi xuống Diêm đình không ai bắt tội vì quỷ sứ, ngưu đầu, mã diện, ngục tốt đều biết đó là đệ tử của Đức Phật nên vị tình tha thứ. Đó là một hình thức trong muôn ngàn hình thức lừa đảo, lường gạt tín đồ của kinh sách Đại Thừa.
Với những người còn nhẹ dạ non lòng, trình độ hiểu biết còn thấp kém, chịu ảnh hưởng sâu nặng những phong tục hủ lậu tập quán lâu đời đã biến thành thói quen nên gặp hữu sự chuyện gì thì cứ theo lời dạy trong kinh sách đó mà làm, chẳng dám ném bỏ dù biết đó là sai không đúng nhưng không làm thì chịu không được, hoặc sợ mọi người lên án hay chê cười, bất hiếu, không thông kinh sách Thánh Hiền.
Đối với đạo đức nhân quả là một đạo luật rất công bằng và công lý. Giả thuyết nếu Đức Phật có làm những tội ác mà đã đi xuống địa ngục dù có mặc một trăm chiếc y hai mươi lăm điều thì luật nhân quả cũng sẽ không tha tội ông, vẫn hành tội đúng như những người khác làm tội ác mà không có chút nào thiên vị.
Cho nên các cư sĩ đừng nghe theo kinh sách Đại Thừa rồi chừng đó sẽ hối hận, ăn năn không kịp, đừng lấy vải thưa che mắt Thánh, đừng lấy chiếc áo đạo che mắt luật nhân quả được hay sao!
Hãy sống đúng luật nhân quả, đừng làm khổ mình khổ người thì dù có sống trong cảnh giới nào cũng được an vui, hạnh phúc, có chết đi về cõi nào cũng là cõi Cực Lạc, Thiên Đàng. Chẳng bao giờ biết sợ đọa địa ngục và chẳng bao giờ có Diêm Vương bắt nạt, có ngục tốt la hét mắng chửi, nạt nộ, hành hạ v.v…
Thời đại khoa học hiện đại, sự hiểu biết quá rõ ràng, đâu còn mê tín, lạc hậu như những ngày xưa, chết mà còn mặc những chiếc áo như vậy đâu có tác dụng gì cả, chỉ làm một trò cười lố bịch cho thiên hạ. Bị kinh sách mê tín lừa đảo mà không biết, thật là ngu si hết chỗ nói.
62. BIẾN ĐỔI LUẬT NHÂN QUẢ
Hỏi: Kính thưa Thầy, có người lúc mới sanh con ra cũng xem giờ tốt xấu, nếu giờ tốt thì vui vẻ, còn giờ xấu thì buồn phiền phải nhờ thầy ở Tháp Chàm làm lễ đổi giờ xấu ấy để cho đứa trẻ lớn lên được mạnh khoẻ và học hành giỏi giang làm nên người hữu ích trong xã hội. Thưa Thầy, họ không hiểu nhân quả nên đi làm những việc đổi giờ xấu thành giờ tốt. Đó là một điều mê tín lạc hậu phải không thưa Thầy?
Đáp: Đúng vậy, người đó không hiểu luật nhân quả và đang bị người khác lừa đảo bằng cách thay giờ xấu đổi giờ tốt, như thế có nghĩa là thay đổi luật nhân quả, thay đổi luật nhân quả tức là thay đổi mạng số của con người. Kẻ làm điều này phải là đấng tạo hóa, nhưng ở đây không có đấng tạo hóa, chỉ có luật nhân quả, mà luật nhân quả rất công bằng và công lý thì làm sao đổi giờ xấu thành giờ tốt được?
Vậy từ đây về sau các con là đệ tử của Phật không nên nghe và chạy theo những lời dạy về sự mê tín, lạc hậu như vậy, mà hãy thấy mọi sự việc trên đời đều do hành động thiện ác của mình mà có tốt xấu, do đó không có ai thay ngôi đổi vị được. Đừng để kẻ gian manh xảo trá dùng mọi thủ đoạn tà thuật lừa đảo, gạt gẫm mình cũng như người khác, khiến cho mình mê mờ ngu si, tiền mất tật mang mà chẳng có ích lợi gì. Chớ làm “cò mồi” cho những người làm ăn không lương thiện.
Tóm lại, nếu trên đời này có những vị thầy thay đổi được nghiệp nhân quả dù tốn bao nhiêu tiền thì ai ai cũng không tiếc. Ví dụ: Có một người sắp chết đến nơi, đến nhờ một vị thầy cao tay ấn đến tụng niệm hoặc đọc niệm thần chú hoặc làm bùa phép, người kia sống lại được không còn chết. Đó là sự lường gạt của một số thầy như: thầy xem ngày giờ tốt xấu, thầy bói, thầy địa lý, thầy bùa, thầy tụng, thầy ngải, đồng, cốt v.v...
Xin các bạn đừng nên tin những vị thầy lường gạt lừa đảo này, nếu thay đổi được nghiệp lực nhân quả thì các thầy này đã tự đổi nghiệp cho mình, chứ đâu để cho mình là một vị thầy vô minh ngu muội, lừa đảo, lường gạt người khác như thế này, trong khi mình cũng nghèo xơ nghèo xác, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, phải đi làm cái nghề không có giá trị gì trong xã hội. Có ai lại muốn cho mình nghèo, các vị thầy ấy cũng vậy. Phải không các bạn?
63. SÁT SANH CẦU HẠNH PHÚC
Hỏi: Kính thưa Thầy, nuôi con đến khi khôn lớn, dựng vợ gả chồng, làm lễ cưới thật to linh đình cũng phải giết thật nhiều chúng sanh, liệu làm ác như vậy hạnh phúc của đôi uyên ương có được phúc báo không thưa Thầy?
Đáp: Theo luật nhân quả, giết hại chúng sanh làm cỗ linh đình để đãi tiệc mọi người khiến cho mọi người ăn uống, vui cười thỏa thích, trong lúc bao nhiêu con vật phải chịu đau khổ và chết một cách thảm thương. Trước cảnh đau khổ và chết thảm khốc của loài vật như vậy, nếu một người có lòng thương yêu mọi người và mọi vật thì ta thử hỏi họ nhìn trước cảnh đó họ có hạnh phúc an vui không? Họ có nỡ ăn thịt chúng sanh và vui cười được không?
Một ông vua lấy đức trị dân, thương dân như con của mình thì ngai vàng rất vững chắc, chẳng có ai chống đối và họ còn dám chết, dám hy sinh vì nhà vua, nhà vua sống rất an lạc và hạnh phúc. Ngược lại, một ông vua lấy uy quyền trị dân, thường nghi ngờ, bắt dân ra giết hại hoặc tù tội giam cầm về tội trộm cướp nhưng không chịu tìm nguyên nhân trộm cướp đó, do từ đâu sanh ra. Nhất là do sự bất công của quan liêu bóc lột và hà khắc dân chúng.
Từ đó dân chúng thường nổi lên chống đối lại nhà vua, nay chỗ này, mai chỗ khác thì thử hỏi ngai vàng của nhà vua có vững chắc không? Và nhà vua ngồi trên ngai vàng có giống như ngồi trên đống lửa không?
Làm ác, làm đau khổ chúng sanh thì không có ai mà hưởng hạnh phúc an vui được, dù là vua chúa có đầy đủ uy quyền vẫn phải sống thọ khổ huống là những người dân tầm thường như chúng ta làm sao thoát khỏi được.
Từ xưa đến giờ, xét lại trong đời sống con người có cặp vợ chồng nào sống an vui, hạnh phúc trọn vẹn đâu? Họ đều có sự vui, sự buồn, nghịch ý, trái lòng, bất toại nguyện, họ cũng chẳng biết nguyên nhân nào mang đến sự vui buồn này, họ không có lối nào thoát ra vì cuộc sống là như vậy nên đành phải tùy thuận, nhẫn nhục để sống với nhau cho đến ngày đầu bạc răng long, nằm xuống lòng đất mà chưa có phút nào gọi là được thanh thản, an lạc nhất.
Chỉ vì mọi người chưa thông suốt lý nhân quả, chưa biết đạo đức nhân quả nên mọi hành động làm theo lòng ham muốn của mình tạo ra biết bao nhiêu điều làm ác, để rồi phải gánh chịu quả khổ do chính mình tạo ra, suốt đời này đến đời khác mãi mãi cứ loanh quanh trong vòng nhân quả luân hồi mà chẳng biết đường nào ra, mù mịt như người đi trong đêm tối; như người đi lạc trong rừng sâu. Chỉ vì không thấu rõ luật nhân quả nên thế giới của loài người là thế giới đau khổ, vui đó rồi buồn đó, cười đó rồi khóc đó v.v…
Cha mẹ làm đám cưới linh đình cho con, giết hại chúng sanh rất nhiều tưởng làm như vậy là tạo hạnh phúc, vinh hạnh cho mình và cho con cái, nhưng nào ngờ những việc làm này đã mang lại cho con cái những nỗi bất hạnh mà chúng phải chịu lấy sau này không thể nào tránh khỏi, vì luật nhân quả có vay phải có trả. Vì thế không có cặp vợ chồng nào gọi là hạnh phúc như trên đã nói.
Đám cưới giết hại chúng sanh mà gọi là hạnh phúc thì làm sao có được. Phải không các bạn?
64. MƯỜI HAI BÀ MỤ
Hỏi: Kính thưa Thầy, miền Bắc chúng con nặng về thủ tục ma chay, cưới xin và sanh con ra phải cúng các bà mụ, lấy bộ kinh Khoa Bà ra tụng. Một bà chúa mụ và mười hai bà mụ phụ để các bà dạy cháu bé ăn, ngủ, cười và làm các động tác, như thế có đúng không thưa Thầy?
Đáp: Không đúng! Một đứa bé khi sinh ra nó mang theo những thói quen của kiếp trước: ngủ, vui, buồn, cười, khóc, đưa tay, đưa chân, đều do nhân quả đã thành nghiệp lực trong đời sống quá khứ trước kia nên khi cháu bé ngủ mới có những hiện tượng như vậy, chứ không phải có bà mụ nào dạy cả, chỉ có nghiệp nhân quả đời trước mà thôi.
Lực theo nhân quả do duyên Vô Minh biến ra hành động tạo ra Nghiệp, từ Nghiệp mới có Danh Sắc (thân tứ đại và tưởng), có tứ đại mới có hành động nghiệp lực, do hành động nghiệp lực, cháu bé đang ngủ mới có cười, mếu, khóc, giận dữ, giẫy nẩy, đưa tay, đưa chân v.v…
Một bà mụ chúa và mười hai bà mụ phụ là sự mê tín trong dân gian, không thấy có kinh nào dạy, nếu có thì chỉ có kinh sách Đại Thừa mà thôi. Khi thấy cháu bé đang ngủ, cười, khóc, đưa tay, đưa chân v.v… cho là mười hai bà mụ dạy cháu bé chứ các con đâu biết rằng đó là nghiệp báo thể hiện sự đau khổ, buồn vui của kiếp người kế tiếp và kế tiếp mãi mãi.
65. CẦN XẢ BỎ MÊ TÍN
Hỏi: Kính thưa Thầy, đời thường của cư sĩ tại gia chúng con luôn phải va chạm nhiều vấn đề, nếu không cẩn thận thì phạm giới. Hiện giờ, chúng con cứ lo tu tập sống đúng đạo đức nhân quả, những việc ma chay và cưới xin, nói chung là tất cả phong tục, tập quán đều có thể ảnh hưởng đến việc tu tập của chúng con không ít, mà trong giáo án của Thầy không có dạy. Vậy cúi xin Thầy từ bi lân mẫn chỉ dạy cho chúng con?
Đáp: Là đệ tử của Phật, dù cư sĩ hay tu sĩ đều phải theo lời dạy của Đức Phật, lần lượt xả bỏ không những thế giới siêu hình mà còn xả luôn cả thế giới hữu hình. Bởi vậy, nếu đúng theo tinh thần của Phật giáo thì trong gia đình người cư sĩ đệ tử của Đức Phật, việc ma chay và cưới xin phải giản đơn và không sát sanh, không nên tổ chức linh đình, vì chung quanh chúng ta còn biết bao nhiêu người bất hạnh thiếu cơm ăn, áo mặc.
Tổ chức đám tiệc thực phẩm trai tịnh, thanh khiết, trang nghiêm, thanh tịnh, không được làm ồn náo, ầm ĩ, ca nhạc phải khéo chọn những bài hát có ý nghĩa sâu kín của người Á Đông, nói lên được sự hạnh phúc của đôi tân hôn với truyền thống Việt Nam, phải trang hoàng thanh nhã, lịch sự, không quá cầu kỳ.
Việc ma chay không nên trống kèn ầm ĩ, ca xướng, hát tụng, hò hét, đàn địch, phải giữ gìn im lặng, trang nghiêm, cúng bái, tế lễ phải có ngăn nắp hết sức, phải có tôn ti trật tự hẳn hòi, không nên rượu chè bê bối say sưa trong đám tang cũng như trong đám cưới.
Tổ chức đám cưới tuy có ca hát như trên đã nói nhưng không được ca hát quá trớn, biết rằng đám cưới là đám vui, vui trong đạo đức lành mạnh của người dân Á châu, cho nên phải chọn những bài ca chúc tụng, những bài ca có tình, có nghĩa, ca ngợi những lòng chung thủy, không được dùng những bài ca nhảm nhí, thương vay, khóc mướn, tình tứ bi thảm.
Điều cấm kị nhất trong đám cưới cũng như đám tang, không được chè chén, say sưa, tiếng qua, tiếng lại, tranh luận hơn thua, hoặc la hét chửi mắng hoặc đấm đá nhau v.v…
Phải giữ gìn im lặng trang nghiêm để bầu không khí thiêng liêng trong những giờ phút chung vui đám cưới, chia buồn đám tang. Nếu tất cả mọi việc đều giữ được sự trang nghiêm, thanh tịnh và không làm theo sự mê tín dị đoan của kinh sách Đại Thừa dạy và phong tục tập quán dân gian thì sự tu tập theo đạo Phật rất dễ dàng. Nếu việc ma chay và cưới xin đừng giết hại chúng sanh làm cỗ bàn thì sự tu tập rất là an tịnh, tinh thần thoái mái, thanh thản và an lạc.
Do sự tổ chức ma chay và cưới xin đúng cách theo đạo Phật thì mọi người trong gia đình đều được an vui, hạnh phúc. Vì tạo nhân làm điều thiện và đơn giản nên sau khi đám tiệc xong rồi, người trong nhà không có ai nợ nần và không có thấy máu chúng sanh đổ nên tâm hồn thảnh thơi. Vì tổ chức làm đám giản đơn nên mọi người không mệt nhọc, không bề bộn, cả nhà đều được khỏe khoắn, an vui.
Ở đời, người ta chạy theo những lời khen chê ngoài miệng “Nhà đó tổ chức đám tiệc linh đình ầm ĩ không có gia đình nào hơn được” chỉ những lời khen rỗng tuếch đó mà tất cả mọi người trong gia đình đều mệt nhọc và khổ sở, lại còn mang nợ nần khác nữa. Đám tiệc xong có khi mọi người trong gia đình phải đau bệnh. Thật là vô minh, u tối chỉ vì có một lời khen hão mà con người từ xưa cho đến nay đều ngu si chạy theo danh hão đó, nên bảo sao đời người khổ là vậy.
Theo đạo Phật chỉ cầu sự giải thoát, còn tất cả phong tục tập quán dù có truyền thống lâu đời thì cũng nên tổ chức rất đơn giản, không chạy theo xu hướng của người khác, cứ làm y theo sự đơn giản mà Đức Phật đã chỉ dạy, còn tất cả những phong tục nào mê tín, lạc hậu thì mạnh mẽ, cương quyết không chấp nhận, đình chỉ, phá bỏ, nhất định không tổ chức những điều mê tín đó.
Mục đích đập phá như vậy là để giúp cho con cháu đời sau đỡ hao tài, tốn của một cách vô ích và phi lý. Người cư sĩ đệ tử của Phật phải sáng suốt nhận định, cái nào đúng có lợi ích cho mình cho người, và những việc làm nào không làm khổ mình, khổ người thì hãy duy trì và giữ gìn bảo vệ những phong tục đó để mang lại cho cá nhân, gia đình, xã hội và đất nước một sự an vui, thanh bình, trật tự, hạnh phúc và phồn vinh.
Ngược lại, những phong tục mê tín, lạc hậu nào làm hao tiền, tốn của, chẳng ích lợi gì mà còn gây tai hại tạo nhân ác làm đau khổ mọi người và chúng sanh thì ta phải phá bỏ và dẹp sạch để làm lợi ích cho con cháu về sau không bị ảnh hưởng cha truyền, con nối hoặc theo kiểu “Tổ tổ truyền nhau.”
66. LẠC HẬU, MÊ TÍN, TIỀN MẤT TẬT MANG
Hỏi: Kính thưa Thầy! Con có một việc xin trình lại Thầy, mong Thầy từ bi chỉ giáo cho con được rõ.
Thưa Thầy, một việc vừa xảy ra trong gia đình của người anh ruột người bạn đời của con. Tháng chín năm ngoái anh này có làm một gian nhà cho con trai anh, móng nhà có sẵn, chỉ cấy thêm và bổ túc xây lên hai tầng và một tum nhỏ ra sân thượng. Năm ngoái anh này 71 tuổi và con trai là 40 tuổi. Cháu này đến gặp con và có trình bày hai tuổi này, con theo sách nhà Phật dạy con bảo:
Theo cô thì ngày nào cũng tốt, năm nào cũng tốt, giờ nào cũng tốt, cô thấy như vậy, mà có sao thì do nhân quả thôi. Bố cháu già rồi lo gì Kim lâu? Thế là cháu nó nghe lời con bảo thì cũng cho qua Kim lâu và bắt tay vào làm, đến tháng 12 là vừa xong nhà. Cháu có bảo mời cô lại lễ Phật cho, vì nhà cháu có thờ Phật, chính do con chỉ dẫn thờ Phật.
Tất cả nhà từ nhỏ đến lớn và cháu trai này đều tin tưởng nơi con và thành tâm lễ bái, nhưng trong thành tâm cháu còn mê tín xen vào như: phù hộ, cầu khẩn, v.v… đã có nhiều lần con giải thích với cháu là không nên mê tín, nhưng kết quả cũng chưa giác ngộ là bao nhiêu.
Sự việc xảy ra trong khi con đi Sài Gòn (về Tu viện) lúc trở về Hà Nội thì bố của cháu đã đi nằm viện được 10 ngày. Bệnh tình càng ngày càng nặng, thấy thế, con góp ý là nên lo thuốc thang và thầy giỏi, nếu còn duyên thì khỏi mà chẳng may bố cháu hết duyên, chẳng làm thế nào được cả? Nhưng các cháu cuống cuồng đi xem bói, chia ra ba ngả:
1- Ngả đi hỏi cô đồng.
2- Ngả đi hỏi ông thầy ở Huế (gọi điện thoại vào.)
3- Ngả đi gọi ông thầy địa lý về xem đất cát xây nhà.
Thưa Thầy, trong vòng một tuần con thật sự mất bình tĩnh vì nghe các cháu kể là bố cháu tự nhiên sốt xong chân phù nề, bụng to lên, da vàng, đi làm xét nghiệm thì bác sĩ đều nói là chưa tìm ra bệnh gì cả. Sốt do đâu thì không rõ? Càng ngày bệnh càng tăng lên, cháu phải đi xem lễ may ra khỏi. Lúc này con khuyên các cháu nên bình tĩnh, việc gì nó đến phải bình tĩnh giải quyết.
Cuối cùng các cháu và các chị gái và em dâu của ông này đồng tình đi xem và làm lễ. Họ đều nói giống nhau là nếu ông sống qua ngày 30 đến sang ngày mùng một tháng tư này thì sẽ qua khỏi. Và ông thầy địa lý bảo động long mạch vì làm nhà và họ đều nói với lý do là ai làm nhà vào hai tuổi Kim lâu cơ chứ, cả bố và con.
Thưa Thầy, kết quả là tiền mất và ông anh con vẫn ra đi trong đau đớn trên giường bệnh kéo dài thêm một tuần nữa sau khi các vị làm ba cái lễ, bác sĩ họ tạm kết luận là bệnh gan. Lúc mất rồi lại đi xem ngày mất có phạm vào đâu không? Hai nơi họ nói giống nhau là ông này chết có 3 nhập mộ (có nghĩa là có ba người chết theo). Nhưng họ không quên bảo cháu của con phải mua bùa về yểm. Ở Hà Nội có chùa Liên Phái ở phố Bạch Mai chuyên bán bùa yểm, đến đây mua về yểm vào quan tài và mộ, vì năm nay vợ ông này hạn nặng lắm, con trai cả cũng thế. Đến khi chết được ba ngày lại mời ông sư về nhà tụng kinh cầu siêu cho vong, và cứ như thế bảy ngày một lần cúng, cho đến 7 tuần là 49 ngày thì mới xong.
Thưa Thầy, con chỉ còn biết im lặng và tùy thuận để các cháu làm. Việc làm của con từ đầu (xây nhà) cho tới cuối cùng im lặng như thế con có lỗi gì với đạo Phật hoặc với gia đình không thưa Thầy? Con mong Thầy từ bi thương xót chỉ bảo cho con để thân tâm con được an ổn, đây là bài học bổ ích cho con về sau này. Thưa Thầy, con phải làm như thế nào cho đúng pháp của Phật?
Đáp: Hoàn cảnh xảy đến của gia đình anh con, con không có lỗi gì cả với Phật giáo và gia đình mà khả năng con không đủ lôi kéo mọi người ra khỏi bàn tay ác độc của Đại Thừa giáo. Nó đã truyền thừa những điều mê tín, phi đạo đức đã ăn sâu vào cốt tủy của con người, trường hợp như gia đình ông anh của con và còn biết bao nhiêu gia đình khác nữa. Nó đã mang đến cho xã hội một ít tốt đẹp để làm bề mặt đạo đức giả, ngõ hầu để không ai thấu rõ sự lừa đảo của nó mang lại cho xã hội trùng trùng đau khổ như gia đình ông anh của con chẳng hạn.
Các nhà học giả kinh sách Đại Thừa lợi dụng gia cảnh người khác đang gặp nhân quả khó khăn để làm tiền bất chánh. Tuổi 71 và 40 cất nhà làm sao bị Kim lâu, những kẻ này xem sách nào gạt người như thế? Dương Trạch, Bát Trạch, Thông Thư, Ngọc Hạp, Trần Tử, v.v... Tất cả sách xem ngày giờ, tốt, xấu; dựng vợ, gả chồng, cất nhà, xây mồ mả v.v… Sách nào dạy điều này?
Theo kinh sách coi ngày giờ tốt xấu thì tuổi 40 cất nhà được “tứ tấn tài”, tuổi 71 cất nhà được “đại kiết lợi”, sao quý thầy này lại bảo là “Kim lâu” sách vở nào? Ở đâu? Khi nào cất nhà bị Kim lâu là nhà cất đủ bốn dài, còn hai dài, ba dài, năm dài thì không bị Kim lâu. Vả lại, cất nhà theo kiểu thời đại hiện giờ, vi la, biệt thự, phố v.v… thì không bị Kim lâu vì không đủ bốn dài.
Còn ông thầy nào dám bảo động long mạch khi mà nền móng đã có sẵn làm sao mà động long mạch được. Phải chi nền móng chưa có, động thổ làm nền móng thì động long mạch có lý. Toàn bộ các cháu đều bị bọn thầy Đại Thừa lừa đảo “tiền mất tật mang.” Nhân quả ác đã đến thì không có Thần, Thánh nào cứu mạng được, nhân quả ác chưa đến còn chút phước thừa thì uống nước lạnh cũng hết bịnh. Đông y có câu:
“Vận bĩ hoài sơn năng sát chúng
Thời lai bạch thủy cứu nhân gian.”
Cho nên, vận bĩ tức là nhân quả xấu ác, thời lai tức là nhân quả tốt thiện. Vị thầy thuốc và bịnh nhân đều có sự tương quan nhân quả thiện, ác nên bịnh hết hay chết đều do nhân quả.
Tất cả sự việc xảy ra trong gia đình anh con là vì tinh thần các cháu quá yếu và chưa được trang bị đạo đức nhân quả đầy đủ, lòng tin đối với luật nhân quả chưa sâu và còn bị ảnh hưởng truyền thống mê tín lâu đời chưa cởi bỏ.
Bởi vì Đại Thừa giáo đã truyền thừa giáo pháp của họ vào đất nước Việt Nam cuối thế kỉ thứ hai đầu thế kỉ thứ ba, tính ra có hơn hai ngàn năm. Vì thế dân tộc Việt Nam chịu ảnh hưởng mê tín sâu dày và đối với thế giới siêu hình tinh thần càng lúc càng yếu kém, chỉ còn biết tựa nương vào tha lực của Thần Thánh nhưng cuối cùng chưa có ai tránh khỏi nhân quả khổ đau. Cho nên chúng ta mạnh dạn chỉ mặt, vạch tên để cho mọi người hiểu biết rõ, không bị quý thầy Đại Thừa lừa đảo, lường gạt, nhờ đó đời sống mọi người bớt khổ đau.
Lại nghe lời các thầy Đại Thừa đem bùa yểm cha thì còn nghĩa lý gì đạo đức làm người. Rước thầy tụng kinh cầu siêu cho cha mà cha đã bị bùa yểm thì còn siêu cái gì? Bảy mươi mốt chết là cung Khảm, đó là cung tốt để lại cho con cháu làm giàu có, có đâu tam liên tử có nghĩa là ba người chết theo nữa (ba nhập mộ).
Ba người chết theo nữa là chết nhằm cung Càn, còn nếu 72 chết thì cung Cấn theo sách vở thì chết theo một người nữa. Đó là xem đúng sách vở của Đại Thừa. Còn các thầy này không theo sách vở, bịa đặt xảo ngôn hại người vừa vừa, có đâu lại khiến cho người ta bất nghĩa bất hiếu đem bùa yểm cha, lại còn bày trò cầu siêu hiếu hạnh.
Nếu quả có ba người chết theo nữa thì đâu phải cha mình chết tạo ra cái chết đó, mà do số phận nhân quả của những người này đã tạo ngắn số ở tiền kiếp. Tại sao các cháu không thấy chánh kiến mà lại thấy và theo tà kiến như vậy để làm một lỗi lầm rất lớn, một tội bất hiếu không tha thứ được.
Các thầy Đại Thừa dạy người bất nghĩa, bất nhân, bất hiếu, phi đạo đức. Bây giờ các cháu đem bùa yểm cha, sau này con của các cháu cũng đem bùa yểm các cháu, hành động của các cháu làm là hành động phi đạo đức, nhân quả này đời đời vay trả biết bao giờ dứt. Các cháu phải bình tĩnh và sáng suốt, đừng nghe theo những thầy tà giáo ngoại đạo Đại Thừa làm điều không tốt về sau phải gánh chịu luật nhân quả.
67. THẾ GIỚI SIÊU HÌNH
Hỏi: Kính thưa Thầy, theo đạo Phật, Thầy đã giảng là không có thế giới siêu hình, nhưng trong các kinh Nguyên Thủy, Đức Phật đã dạy có 33 cõi Trời và các cõi địa ngục, cõi ngạ quỷ, A Tu La, súc sanh, và cõi Người, như trong kinh có thuật lại:
“Một hôm Đức Thế Tôn cùng Tôn giả A Nan đi khất thực, trên đường về Tôn giả A Nan thấy Đức Phật mỉm cười nên lấy làm lạ muốn thưa hỏi Phật liền, nhưng giới luật Phật cấm, “Chẳng đặng nói chuyện trên đường đi.”
A Nan chờ sau khi thọ thực xong Ngài đến thưa hỏi Phật: “Kính bạch Thế Tôn, trong lúc đang đi khất thực về, có duyên cớ gì mà Như Lai mỉm cười?”
Đức Phật bảo: “Trên đường đi khất thực về ta thấy trên trời có một loài ngạ quỷ đang đói khổ, sau lưng bị một đàn ó theo cắn rỉa, thật là đau khổ.”
Kính bạch Thầy, có phải cảnh giới này là địa ngục không? Nếu quả có địa ngục thì phải có đời sống sau khi chết. Nếu có đời sống sau khi chết thì phải có thế giới siêu hình?
Và đây là câu chuyện thứ hai: “Vào lúc cuối đêm, đến chỗ Đức Phật ngự có một Thiên nữ Câu-Ca-Ni có dung sắc tuyệt diệu cúi đầu lễ dưới chân Phật, từ thân tỏa ánh sáng chiếu khắp tịnh xá Sơn Cốc. Thiên nữ đọc lên một bài kệ. Khi Đức Phật nghe xong bảo Thiên nữ:
– “Đúng thế! Đúng thế!”
“Thiên nữ Câu Ca Ni nghe Phật khen, hoan hỷ cúi đầu lễ dưới chân Phật rồi biến mất.”
Thưa Thầy, câu chuyện trên đây trong kinh Tạp A-Hàm tập IV trang 483 kinh số 1.271. Theo bài kinh này như vậy có cõi Trời, có cõi Trời tức là có thế giới siêu hình, có thế giới siêu hình tức là có sự sống sau khi chết. Xin Thầy dạy rõ cho chúng con hiểu?
Đáp: Đã từ lâu cũng chỉ vì thế giới siêu hình điên đảo này Thầy đã xác định nhiều lần không có thế giới siêu hình, mà chỉ có thế giới siêu hình tưởng. Thế mà đến giờ này các con vẫn chưa đủ niềm tin hay sao?
Sự thật thế giới siêu hình không có, nhưng biết nói làm sao cho các con tin. Một thế giới siêu hình đã ăn sâu vào lòng người từ khi con người có mặt trên hành tinh này với một tưởng thức của con người tạo ra. Đó là một điều không thể trách được các con ạ!
Các hiện tượng của thế giới siêu hình tưởng hằng ngày đang diễn biến chung quanh cuộc sống con người thì thử hỏi làm sao người ta tin rằng không có thế giới siêu hình.
Thêm vào các tôn giáo và cả Phật giáo Đại Thừa đều xác định có thế giới siêu hình thì dù tiếng nói của Thầy có thật sự đi nữa là không có cũng khó có ai tin theo được. Đức Phật đã dạy kinh Ngũ Uẩn, kinh Thập Nhị Nhân Duyên mà Thầy đã giảng, nhưng các con chưa đủ niềm tin. Bây giờ Thầy sẽ dẫn chứng một bài kinh khác cụ thể rõ ràng hơn. Chính lời Phật đã dạy: “Bài kinh Pháp Môn Căn Bản” trong kinh Trung Bộ tập I trang 9.
“Này các thầy tỳ- kheo. Ta sẽ giảng cho các ngươi: “Pháp môn căn bản tất cả pháp.”
“Này các thầy tỳ- kheo! Ở đây có kẻ phàm phu ít nghe, không được thấy các bậc Thánh, không thuần thục pháp của các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh, không được thấy các bậc chân nhân, không thuần thục pháp các bậc chân nhân, không tu tập pháp các bậc chân nhân, tưởng tri đại địa là đại địa. Vì tưởng tri đại địa là đại địa, người ấy nghĩ đến đại địa (là có thật), nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với đại địa thì tự ngã có thật. Cho nên người ấy nghĩ “Đại địa là của ta” sanh ra ưa thích chấp đắm đại địa.
Vì sao vậy? Ta nói người ấy không liễu tri đại địa.
Người ấy tưởng tri thủy đại là thủy đại. Vì tưởng tri thủy đại là thủy đại, người ấy nghĩ đến thủy đại (là có thật), nghĩ đến tự ngã đối chiếu với thủy đại thì tự ngã là có thật, cho nên người ấy nghĩ “Thủy đại là của ta” sanh ra ưa thích chấp đắm thủy đại.
Vì sao vậy? Ta nói người ấy không liễu tri thủy đại.
Người ấy tưởng tri hỏa đại là hỏa đại: Vì tưởng tri hỏa đại là hỏa đại, người ấy nghĩ đến hỏa đại (là có thật), nghĩ đến tự ngã đối chiếu với hỏa đại thì tự ngã là có thật, cho nên người ấy nghĩ “Hỏa đại là của ta” sanh ra ưa thích chấp đắm hỏa đại.
Vì sao vậy? Ta nói người ấy không liễu tri hỏa đại.
Người ấy tưởng tri phong đại là phong đại. Vì tưởng tri phong đại là phong đại. Người ấy nghĩ đến phong đại (là có thật), nghĩ đến tự ngã đối chiếu với phong đại là tự ngã có thật, cho nên người ấy nghĩ “Phong đại là của ta” sanh ra ưa thích, chấp đắm phong đại.
Vì sao vậy? Ta nói người ấy không liễu tri phong đại.
Người ấy tưởng tri sanh vật là sanh vật. Vì tưởng tri sanh vật là sanh vật, người ấy nghĩ đến sanh vật (là có thật), nghĩ đến tự ngã đối chiếu với sanh vật thì tự ngã có thật cho nên người ấy nghĩ “Sinh vật là của ta” sanh ra ưa thích chấp đắm sanh vật.
Vì sao vậy? Ta nói người ấy không liễu tri sinh vật.”
Đọc qua những lời dạy của Đức Phật trên đây chỉ cho thế giới hữu hình của chúng ta là thế giới tưởng. Tưởng đất đai, sông núi, cây cỏ, vạn vật là có thật. Vì tưởng nó có thật nên con người sanh ra chấp đắm, ham thích, rồi mới tranh chấp đấu tranh, giành giựt của cải, tài sản, đất đai, sông rạch, núi rừng, vàng bạc, châu báu v.v… Giết người, cướp của, dùng mọi thủ đoạn phương tiện lừa đảo, lường gạt người bằng mọi cách, thậm chí có kẻ lợi dụng ngay cả tôn giáo, buôn Phật, bán Pháp, buôn Thần, bán Thánh v.v…
Do chỗ không hiểu thế giới hữu hình là thế giới tưởng nên mới sanh tạo ra nhiều thứ dính mắc và tạo biết bao nhiêu sự đau khổ cho mình, cho người, từ kiếp này đến kiếp khác và mãi mãi chịu khổ đau vô cùng tận cũng chỉ vì “tưởng tri của loài người.”
Đức Phật đã thấy thế giới hữu hình của con người là thế giới tưởng, cách đây 2548 năm, Ngài đánh tiếng chuông cảnh tỉnh cho mọi người, thế giới hữu hình là thế giới tưởng, nhưng ai là người đã tin Ngài. Nếu không phải là người tu đúng giáo pháp của Ngài thì làm sao tin được thế giới này là thế giới tưởng.
Thế giới hữu hình là thế giới tưởng thì thế giới vô hình làm sao có thật, thế giới vô hình là bóng dáng của thế giới hữu hình, đã là bóng dáng thì làm gì có sự sống sau khi chết, đó chẳng qua chỉ là một ảo tưởng của loài người mà thôi.
Cho nên hiện giờ các tôn giáo trên thế gian này ngay cả Đại Thừa Phật giáo cũng thấy thế giới hữu hình này là thế giới tạm bợ không có thật, vì mọi vật đều vô thường, như lời Đức Phật đã dạy qua bài kinh “Pháp môn căn bản.”
Từ đất đá, cỏ cây và tất cả sinh vật đang sanh sôi nảy nở trên hành tinh này đều do tưởng tri của chúng sanh, tưởng là có thật, chứ thực ra thế giới hữu hình này là thế giới duyên hợp. Mọi vật có mặt (vạn hữu) trên hành tinh này đều do duyên hợp mà thành, mọi vật (vạn hữu) hoại diệt đều do duyên tan rã mà hoại diệt, không có một vật nào thường còn bất biến, tất cả vạn vật đều vô thường.
Chỉ vì người thế gian với trí hữu hạn không thấu rõ thế giới hữu hình này cho là thật có. Đối với người có trí vô hạn thì thế giới hữu hình là thế giới tưởng của loài người. Nhưng các tôn giáo kể cả Đại Thừa giáo cũng cho thế giới hữu hình là không thật, nhưng lại xây dựng một thế giới vô hình có thật, thì đó là đi ngược lại Phật giáo. Phật giáo cho thế giới vô hình là thế giới tưởng tri (không có). Cũng trong bài kinh Pháp Môn Căn Bản trong Trung Bộ kinh tập 1 trang 11 kinh dạy:
“Người ấy tưởng tri Phạm thiên là Phạm thiên ... người ấy tưởng tri Quang âm thiên là Quang âm thiên ... người ấy tưởng tri Biến tịnh thiên là Biến tịnh thiên ... người ấy tưởng tri Quảng quả thiên là Quảng quả thiên ... người ấy tưởng tri Abhibhù (Thắng giả) là Abhibhù ... người ấy tưởng tri Không vô biên xứ là Không vô biên xứ thiên ... người ấy tưởng tri Thức vô biên xứ là Thức vô biên xứ thiên ... người ấy tưởng tri Vô sở hữu xứ là Vô sở hữu xứ thiên ... người ấy tưởng tri Phi tưởng phi phi tưởng xứ là Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiên ... người ấy tưởng tri Sở kiến là Sở kiến ... người ấy tưởng tri Sở văn là Sở văn ... người ấy tưởng tri Sở tư niệm là Sở tư niệm ... người ấy tưởng tri Sở tri là Sở tri ... người ấy tưởng tri Đồng nhất là Đồng nhất ... người ấy tưởng tri Sai biệt là Sai biệt .... người ấy tưởng tri Tất cả là Tất cả ... người ấy tưởng tri Niết Bàn là Niết Bàn ... Vì tưởng tri Niết Bàn là Niết Bàn, người ấy nghĩ đến Niết Bàn (là có thật), nghĩ đến tự ngã đối chiếu Niết Bàn (thì tự ngã có thật nhập Niết Bàn) cho nên người ấy nghĩ “Niết Bàn là của ta” sanh ra ưa thích chấp đắm Niết Bàn (dục hỷ). Vì sao vậy? Ta nói người ấy không liễu tri (không hiểu, không biết) Niết Bàn.”
Phật giáo không chấp nhận thế giới hữu hình là có thật tri mà chỉ là tưởng tri, đến thế giới siêu hình các cõi trời địa ngục và Niết Bàn cũng là tưởng tri chứ không phải thật tri.
Vì thế giới siêu hình là bóng dáng của thế giới hữu hình như trên chúng tôi đã nói. Vì thế, con người hữu hình như thế nào thì thế giới siêu hình con người giống như thế nấy, tất cả núi, sông, đất, đá, cây, cỏ, thảo mộc, nhà cửa, đền đài, cung điện đều giống thế giới hữu hình. Chỉ khác hơn ở thế giới hữu hình là không có không gian và thời gian mà thôi.
Bởi vậy, những người ông lên, bà xuống, nhập đồng, nhập xác, nói chuyện quá khứ, vị lai, chỉ nơi siêu mồ, lạc mả cho người lấy cốt đều đúng không sai một mảy là nhờ tưởng uẩn không có không gian và thời gian, nhưng khi tưởng uẩn hoạt động thì biết đúng, nói không sai, còn khi tưởng uẩn không hoạt động thì không biết, thường nói sai.
Do chỗ nói chuyện quá khứ, vị lai không sai, khiến người ta tin rằng có linh hồn người chết, ông này, bà kia, cậu nọ nhập xác, lên đồng, nhập cốt v.v… Bởi tưởng uẩn làm việc như vậy người ta không rõ, rồi tin rằng có thế giới siêu hình thật sự.
Từ tưởng tri thế giới hữu hình là thật có người ta đã mang đến cho chính mình mọi sự khổ đau cho đến ngày nằm xuống lòng đất, xuôi tay vẫn còn đau khổ, thế mà có ai biết rõ điều này, mọi người đếu vô minh ngay đến những nhà khoa học cũng đành bó tay không giải thích được vì các hiện tượng kỳ lạ mà mọi người đều phải chấp nhận thế giới siêu hình, cho nên thật khó cho ai không tin thế giới siêu hình là không có.
Sự sợ hãi và sự đau khổ do các hiện tượng thời tiết của thế giới hữu hình mới khiến con người tạo ra thế giới siêu hình để có sự phò hộ che chở giúp cho tinh thần con người được an ổn, bớt sợ hãi.
Từ khi sản xuất ra thế giới siêu hình mọi người luôn tin tưởng có sự gia hộ, che chở, ban phước, giáng họa, nhưng sự thật không thể phò hộ, gia ơn, giáng họa, ban phước cho ai cả, chỉ con người tưởng ra để an ủi tinh thần như vậy mà thôi. Cho nên sự tưởng ra thế giới siêu hình lại còn tạo thêm một lớp khổ cho con người nữa, đã khổ vì thế giới hữu hình dính mắc trói buộc các pháp thế gian, rồi lại bị lường gạt bởi thế giới siêu hình nữa.
Do đó có một số tà sư ngoại đạo lợi dụng sự vô minh và lòng mê tín này tạo ra các vị thần linh để khiến con người tôn sùng, cung kính, sợ hãi và chịu biết bao nhiêu tốn hao tiền của và giết hại sanh linh làm tội ác thêm để cúng bái, tế lễ, cầu khẩn, van xin v.v…
Cách thức làm ăn của bọn tà sư ngoại đạo này có hiệu quả làm giàu trên xương máu của kẻ khác không phí sức lao động, chỉ cần tụng đọc ê a hoặc vẽ bùa, đọc chú, ợ ợ, ngáp ngáp nói bậy bạ là hốt tiền bạc của những người đang gặp nhân quả nghiệp báo xấu, nặng nề.
Trong lúc quá khổ đau, quá sợ hãi trước tai họa hiểm nghèo trước bệnh tật nan y, trước sự sống chết như chỉ mành treo chuông, trí óc không còn sáng suốt, lúc bấy giờ bọn thầy lừa đảo này nói sao phải nghe vậy, bọn họ làm tiền một cách dễ dàng (ngồi mát ăn bát vàng).
Lại có một số tà sư ngoại đạo khéo léo hơn dùng ba tấc lưỡi lý luận như Trương Nghi – Tô Tần thời Lục Quốc bên Trung Hoa, pháp môn này, pháp môn nọ, triết lý này, triết lý kia, chân lý này, chân lý nọ, lường gạt những kẻ vô minh chạy theo pháp này, chạy theo pháp kia tu tập để chứng đạt chân lý này, chân lý khác.
Từ xưa đến nay, ai là người đã đi tìm chân lý thoát khổ? Chân lý ấy đã bao nhiêu người đạt được? Hay chỉ là một lý luận suông?
Hỡi các vị tà sư! Tại sao các người không nói thật?
Danh lợi ở thế gian có nhiều việc làm nên danh, nên lợi mà rất “thiện”. Tại sao các người không làm việc kia mà lại làm việc này để lường gạt người khác chi vậy. Biết bao nhiêu thế hệ con người đã qua, họ đã chạy theo tu hành và rèn luyện thân tâm, nhưng họ được những gì ở các chân lý ảo tưởng ấy?
Trong khi đó họ đã đổ biết bao nhiêu mồ hôi, công lực, tiền của và công sức. Giải thoát đâu không thấy chỉ thấy khổ và khổ, cho đến lúc chết lại càng khổ hơn, (các Hòa Thượng khi viên tịch quá khổ sở) họ chỉ mua được cái “danh” và cái “lợi” giả. Bởi vậy, các thế giới siêu hình, tai ương bệnh tật đều là tưởng, Thần, Thánh, Tiên, Phật cũng đều là tưởng, pháp môn tu hành cũng đều là tưởng, vì thế cái khổ của con người cũng hoàn lại cái khổ.
Do đó Phật giáo ra đời quyết đập tan tành cái thế giới hữu hình duyên hợp và xé nát cái thế giới siêu hình tưởng. Giống như một vị Thần để đem lại sự công bằng và công lý cho loài người, giúp họ sống an vui, thanh thản và hạnh phúc. Tạo sự sống an vui trên hành tinh này là một cảnh giới Thiên Đàng.
Bài pháp Thân Ngũ Uẩn, Thập Nhị Nhân Duyên, Pháp Môn Căn Bản trong tạng kinh Nikaya và kinh A Hàm không đủ để chứng minh đập phá thế giới siêu hình và hữu hình này sao? Nếu đập phá được cả hai thế giới này để mang lại cho con người một đời sống thoải mái, thanh thản, an lạc và hạnh phúc. Bằng ngược lại thì con người phải chịu khổ vô cùng tận và vô lượng kiếp.
Giới thiệu cùng quý vị bài kinh sau:
Vị quan sát thủ gật đầu và xin hứa. Nhà vua căn dặn xong, chẳng bao lâu vị quan này chết. Chờ mãi, chờ mãi từ một tháng đến một năm, rồi đến ba năm mà chẳng có tin tức gì cả.
Nhà vua đến một vị Đạo sư hỏi:
- “Thưa ngài, ngài nói có địa ngục, trẫm có một vị quan sát thủ trước khi chết trẫm đã căn dặn đôi ba lần: “Khi xuống địa ngục, bằng mọi cách khanh hãy về báo cho trẫm biết, nhưng đến nay đã ba năm rồi chẳng có tin tức gì cả, như vậy theo trẫm nghĩ “chẳng có địa ngục.”
Vị Đạo sư trả lời:
- “Tâu bệ hạ, vị quan ấy là tội nhân làm sao có quyền đi lại được để về báo cho bệ hạ hay.”
Nhà vua gật đầu chấp nhận ra về, sau ba năm nhà vua trở lại thăm vị Đạo sư và hỏi:
- Thưa ngài, ngài nói có Thiên Đàng phải không?
Vị Đạo sư tâu:
- Vâng, thưa bệ hạ, có Thiên Đàng, ai làm thiện sẽ sanh lên Thiên Đàng, ai làm ác sẽ đọa xuống Địa Ngục.
Nhà vua phán:
- Ta có một vị quan đại thần suốt đời làm thiện, làm quan thì cần kiệm liêm chánh, chí công vô tư, làm người thì hằng ngày thường trường chay, không sát hại sanh linh, trước giờ phút lâm chung hấp hối, trẫm đến căn dặn nhiều lần: “Khanh là một người hiền lành, sống thì trường chay, chẳng hề giết hại chúng sanh, làm quan thì liêm chánh ngay thẳng, chắc chắn khi chết khanh được về Thiên Đàng. Vậy bằng mọi cách sau khi chết nhà ngươi về báo cho ta biết có cảnh Thiên Đàng chân thật hay không? Để trẫm yên lòng.” Như thế đến nay đã ba năm mà ta chẳng được tin tức gì, chắc chắn là chẳng có Thiên Đàng.”
Trong bài kinh này, Đức Phật còn xác định thêm: “Nếu có cảnh giới siêu hình thật thì phải có người đến và người về, đàng này đi thì có, về thì không.” Như vậy chứng tỏ không có thế giới siêu hình mà chỉ có một thế giới siêu hình tưởng mà thôi. Kinh Pháp Môn Căn Bản, Đức Phật đã dạy rất rõ ràng và cụ thể nhất.
Cho nên trong kinh Nguyên Thủy các vị Trời đến bạch Phật cũng như Ma Vương, ác quỷ và quỷ đói đều là cảnh giới tưởng của thế giới tưởng ấm của con người tạo ra. Tạo ra như vậy để mà chịu khổ thêm chẳng ích lợi gì cho đời sống mà còn làm hao tốn tiền của một cách vô lý. Các tôn giáo khác như Phật giáo Đại Thừa và Thiền Đông Độ đua nhau xây dựng thế giới siêu hình bằng nhiều hình thức và những xưng danh khác nhau để khéo lừa đảo con người chứ kỳ thật cũng chỉ là thế giới tưởng mà thôi.
Nên trong kinh Pháp Môn Căn Bản Đức Phật đã xác định rõ ràng:
“Người ấy tưởng tri Sở kiến là Sở kiến … Người ấy tưởng tri Sở văn là Sở văn … Người ấy tưởng tri Sở tư niệm là Sở tư niệm … Người ấy tưởng Sở tri là Sở tri … Người ấy tưởng tri Đồng nhất là Đồng nhất … Người ấy tưởng tri Sai biệt là Sai biệt ... Người ấy tưởng tri Tất cả là Tất cả ... Người ấy tưởng tri Niết Bàn là Niết Bàn …”
Đó toàn là sống trong tưởng mà mọi người mấy ai biết. Trên đời chỉ có một mình Đức Phật biết rất rõ. Bởi vậy, nhìn chung các tôn giáo trên thế gian này đang xây dựng một thế giới siêu hình để thỏa mãn lòng tham vọng của loài người.
Xưa, vua Tần Thủy Hoàng vì tham vọng sống lâu nên đã cho người đi tìm thuốc trường sanh bất tử theo lời dạy của các vị tu Tiên, nhưng nào có được gì đâu, chỉ hoài công vô ích. Phương pháp tập dưỡng sinh và đạo Yoga đều tập luyện kéo dài tuổi thọ để đạt được “Trường sanh bất tử” nhưng có vị nào không bệnh đau và trường sanh bất tử đâu. Cuối cùng rồi cũng bệnh đau mà chết. Những việc làm này con người trên thế gian ai đã làm được.
Đó là một tưởng vọng của loài người không thể thành sự thật. Như Đức Phật đã dạy, đó là sự tưởng tri của loài người. (Tưởng tri là tưởng tri, làm sao sự thật được). Tìm mọi cách để loài người sống mãi muôn đời nhưng không thành tựu nên con người quay lại tìm “sự sống sau khi chết.” Do đó mới sản xuất ra cảnh giới Thiên Đàng, Địa Ngục, Bồng Lai Tiên Cảnh, Cực Lạc Tây phương, cõi Niết Bàn, Bản Thể Vạn Hữu, Đại Ngã, Phật Tánh v.v…
Riêng Đức Phật, Ngài dạy: “Tưởng tri Niết Bàn là Niết Bàn.” Câu nói của Ngài có một giá trị rất lớn đối với các tôn giáo. Toàn bộ tất cả cảnh giới siêu hình của các tôn giáo đối với đạo Phật đều là cảnh giới tưởng, không thể lừa đảo lường gạt người đệ tử của Phật được, vì Đức Phật đã dạy cho các đệ tử của mình rất rõ ràng và cụ thể.
Các pháp môn của các tôn giáo này chỉ lừa đảo, lường gạt được những người vô minh vì cuộc sống còn mang dẫy đầy tham vọng nên mới tìm tu và nghe theo các giáo phái đó mà thôi. Sáu nẻo luân hồi chỉ là sáu trạng thái của tâm chứ không phải sáu cõi giới gồm có từ hữu hình đến siêu hình. Sáu cõi giới ấy là:
1- Cõi Trời; 2- Cõi Người; 3- Cõi A Tu La; 4- Cõi súc sanh; 5- Cõi Ngạ quỷ; 6- Địa ngục.
Chỉ trong một thời gian ngắn, nếu một người không biết phương pháp tu theo Phật giáo thì có thể luân hồi sáu nẻo ngay tại kiếp sống của họ.
Ví dụ: Một người đang sống trong mười điều thiện (thập thiện) thì trạng thái tâm hồn của họ cảm nhận được sự an lạc yên vui hạnh phúc cõi Trời, và cơ thể của họ không có một chút nào mỏi mệt, đau nhức khổ sở mà người khác không sống đúng mười điều lành thì không thể cảm nhận biết được.
Nhưng khi họ rời khỏi mười điều lành này mà chỉ còn giữ được năm điều lành (ngũ giới) thì lúc bây giờ họ luân hồi vào cõi người, sự bình an của họ không bình an và an vui bằng trạng thái của cõi Trời. Trong khi họ đang ở trong trạng thái tâm cõi người họ không giữ gìn được tâm để cơn sân bừng cháy trong lòng thì ngay đó họ đã luân hồi vào cõi A Tu La.
Nếu ở trạng thái cõi người họ không giữ gìn năm giới trọn vẹn thường thiếu lòng yêu thương sự sống của muôn loài, không buông xả các pháp ác cố chấp tị hiềm, ganh đua, hơn thiệt, dâm dục, thiếu thành thật nói những lời hung ác, nói những lời vu khống, chuyện có nói không, chuyện không nói có, tâm hồn họ luôn luôn buồn phiền, khổ đau, lo sợ, sống bất an, đó là họ đã luân hồi vào cõi súc sanh, một trạng thái khổ đau như vậy.
Từ ở trạng thái cõi người họ không giữ gìn tâm sống đúng năm giới, để tâm khởi muốn ăn, muốn uống và bụng cảm giác thấy đói khát rồi đi ăn uống phi thời, đó là họ đã luân hồi vào trạng thái cõi giới ngạ quỷ.
Từ ở trạng thái cõi người họ không giữ gìn tâm sống đúng năm giới, thường giết hại, ăn thịt chúng sanh và chạy theo khẩu vị ăn những món ăn hảo hạng ngon miệng nhưng trong đó có chất độc, sống không yêu thương sự sống, không giữ vệ sinh chung, thường lam ô nhiễm môi trường sống nên cơ thể dễ sinh ra nhiều bệnh tật nan y. Cơ thể bị bệnh đau nhức khổ sở, đó là luân hồi vào trạng thái địa ngục.
Cho nên sáu nẻo luân hồi không phải là sáu cõi giới hữu hình và vô hình mà là sáu trạng thái của tâm trong một con người như trên đã nói. Còn những câu chuyện trên Phật đã nói với ông A Nan là những câu chuyện của tưởng uẩn lưu xuất phóng ra những hình ảnh từ trường trong không gian.
Khi nào một người có tưởng uẩn mạnh tức là tưởng uẩn hoạt động thì sẽ bắt gặp những hình ảnh cảnh giới của những từ trường này. Hình ảnh này không phải là cõi giới mà là hình ảnh từ trường của những người còn sống cũng như của những người đã chết phóng xuất còn lưu giữ trong không gian.
Trong kinh Pháp Môn Căn Bản Phật đã dạy: Tất cả cõi Trời, cõi Người, A Tu La, Súc sanh, Ngạ quỷ, Địa ngục đều là tưởng tri chứ không phải liễu tri.
68. NHỮNG KINH SÁCH MÊ TÍN
Hỏi: Kính thưa Thầy, đạo Phật chủ trương phải tự cứu mình, tức là phải dùng sức tự lực của bản thân để ly dục ly ác pháp, không làm khổ mình khổ người và khổ muôn loài chúng sanh, giải thoát sanh tử khổ đau luân hồi của kiếp người.
Vậy thì tại sao lại có các loại kinh Thủy Sám, Lương Hoàng Sám, Pháp Hoa, A Di Đà, Địa Tạng, Vu Lan Bồn … dạy toàn tha lực, tức là lo tụng niệm van xin chư Phật, chư vị Bồ Tát, Thiên Long Bát Bộ, Hộ Pháp Già Lam, chư vị thiện thần gia hộ cho tai qua nạn khỏi, bịnh tật tiêu trừ hoặc tiếp dẫn hương linh về cõi Cực Lạc Tây phương của đức Phật A Di Đà. Như vậy có quá mâu thuẫn không thưa Thầy, xin Thầy vạch rõ chỗ đúng sai để chúng con được biết.
Đáp: Kinh sách Đại Thừa phát triển là kinh sách chịu ảnh hưởng của Bà La Môn giáo, nhất là chịu ảnh hưởng của kinh sách Vệ Đà thuộc về tư tưởng văn minh Ấn Độ, nhưng khi truyền sang qua các nước lân cận thì nó lại tiếp thu những sự mê tín và lạc hậu của dân tộc các nước khác nên kinh sách Đại Thừa là một loại kinh sách tập hợp nhiều tư tưởng và những phong tục tập quán của con người. Có thể gọi kinh sách này là kinh sách bị thế tục hóa, có nghĩa là khi nó truyền vào một thời kỳ nào của xã hội thì nó bị đồng hóa với xã hội đó.
Ví dụ: Kinh sách này truyền vào gặp thời phong kiến thì nó bị đồng hóa với thời phong kiến. Với tư bản thì nó bị đồng hóa với tư bản; với khoa học thì nó bị đồng hóa với khoa học.
Kinh sách Đại Thừa không có một đường lối riêng biệt, chỉ là một sự vay mượn, một chiếc áo chấp vá nhiều miếng vải cho nên nó chẳng có gì đặc biệt cả, chỉ nhai lại bã mía của kẻ khác, nhưng muốn nuốt cho trôi bã mía đó tức là nó khéo dùng những danh từ để làm cho người khác khó nhận ra, tưởng đó là một giáo lý mới mẻ, nhưng không ngờ những người hiểu biết đã thấy rõ nó đi giẫm lại lối mòn của người xưa.
Vì thế những danh từ Lương Hoàng Sám, Thủy Sám, Pháp Hoa, Viên Giác, Thủ Lăng Nghiêm, A Di Đà, Địa Tạng, Vu Lan Bồn, Bát Dương, Thập Vương, Lăng Già, Hoa Nghiêm … Tất cả những loại kinh sách này là tư tưởng của ngoại đạo chứ không phải của Phật giáo, mà đã không phải của Phật giáo thì làm sao chúng ta cho Phật giáo có mâu thuẫn với Phật giáo được.
Chúng ta chỉ cần biết kinh sách này không làm lợi ích cho con người, nó chỉ là một mánh khóe lừa đảo con người làm những điều phi đạo đức và rất tai hại cho con người.
69. MỤC LIÊN, THANH ĐỀ
Hỏi : Kính thưa Thầy, câu chuyện Mục Liên, Thanh Đề có phải là sự báo hiếu của đạo Phật hay không? Báo hiếu như vậy có đúng hay không? Xin Thầy chỉ dạy cho chúng con được rõ.
Đáp: Kinh Vu Lan Bồn là kinh sách phát triển của Đại Thừa, xây dựng đạo lý của mình trên hình thức cứu độ, kinh khéo léo dùng tập thể cứu độ để đánh lừa người khác, mạo nhận là Phật dạy để không ai truy tìm sự lừa đảo này được.
Như chúng ta đã biết, Đức Phật đã từng dạy chúng ta: “Các con tự thắp đuốc lên mà đi.” Giáo pháp của Ngài được xây dựng trên nền tảng “Đạo đức nhân quả” thì không có lý nào Đức Phật lại dạy một điều phi đạo đức, phi nhân quả như vậy sao? Chúng ta phải xem xét lại coi những loại kinh sách phát triển này chứ đừng vội tin.
Đạo đức nhân quả là một thứ đạo đức được xây dựng trên sự công bằng, công lý và bình đẳng với một trí tuệ vô hạn, thấu suốt được mỗi hành động của con người làm thiện hay làm ác. Vì xây dựng tôn giáo của mình trên một nền đạo đức công lý, công bằng và bình đẳng cho mọi người như vậy, nên trên đầu Ngài chẳng có ai là thầy của mình, chẳng có ai cứu độ cho mình được, chỉ có sức tự lực và trí tuệ của mình mới cứu mình thoát ra cảnh đau khổ của kiếp làm người đang bị luân lưu trong vòng nhân quả luân hồi. Ngài đã tự cứu mình bằng những giáo pháp mà Ngài tự tìm ra được.
Giáo pháp đó là một thứ giáo pháp rất thực tế và cụ thể mà mỗi pháp môn đều có cách thức tu tập trực tiếp đối trị lại từng tâm niệm ác và sự đau khổ của con người trong cuộc sống để vượt thoát ra khỏi.
Một giáo pháp không có hình ảnh, lý luận và sự mơ hồ, trừu tượng, không có sự cầu khẩn, van xin, cứu độ; không có sự cúng bái, tụng niệm và chú thuật v.v...
Một giáo pháp không có thế giới siêu hình, không có linh hồn người chết, không có đấng Ngọc Hoàng Thượng Đế, không có đấng Tạo Hóa, không có thần linh và cũng không có ma, quỷ v.v...
Một giáo pháp chỉ dạy cho chúng ta những gì cần dứt bỏ thì phải dứt bỏ, những gì cần tu tập thì phải tu tập, những gì cần trau dồi thì phải trau dồi và những gì cần thông hiểu thì phải thông hiểu.
Người nghiên cứu và có thực hành giáo pháp của Đức Phật thì không thể nào bị người khác lừa đảo bằng những pháp tà giáo ngoại đạo. Chỉ có những người chưa từng nghe đến giáo pháp của Đức Phật thì dễ bị kẻ khác mạo nhận pháp môn tà giáo là của Phật.
Vì giáo pháp của đạo Phật không có một giáo pháp nào của ngoại đạo tương đồng được. Giáo pháp của Ngài là giáo pháp “xả, ly”, với một pháp hướng tâm “Như lý tác ý” tuyệt vời, với mục đích khiến cho tâm con người bất động trước các pháp và các cảm thọ.
Giáo pháp của Ngài chỉ có tự lực cứu mình, còn giáo pháp của ngoại đạo thì nhờ đến tha lực cứu mình. Do thế ta nhận ra giáo pháp của Phật một cách rất dễ dàng không có khó khăn, vì một bên là tự lực và một bên là tha lực. Vì thế câu chuyện Mục Kiền Liên và Bà Thanh Đề, ta thấy rõ đó là giáo pháp của ngoại đạo đang lồng trong giáo pháp của đạo Phật, mượn danh Đức Phật để lừa gạt tín đồ Phật giáo theo đạo của mình mà không nghi ngờ. Đó là cái khéo léo của Đại Thừa giáo và Thiền Đông Độ.
Kinh sách Đại Thừa người ta đọc rất hấp dẫn do sự diễn đạt qua hình thức cấu kết giống như tiểu thuyết và giàu sức tưởng tượng theo kiểu thiền Đông Độ.
“Mục Liên đi theo Phật tu hành chứng quả giải thoát đắc lục thông. Mẹ là Thanh Đề, trước kia sùng kính Phật pháp, cúng dường trai Tăng tứ sự đầy đủ, sau khi Mục Liên bỏ nhà đi tu, bà tức giận làm bánh nhân thịt chó để thử thách chúng Tăng nên bị tội đọa địa ngục ngạ quỷ.
Mục Liên chứng đắc thần thông dùng thiên nhãn thấy mẹ mình đang đọa địa ngục ngạ quỷ, đói khát vô tận. Thương mẹ, Ngài dùng thần thông xuống địa ngục thăm và mang theo một bát cơm cho mẹ. Thanh Đề đang đói khát, thấy cơm bà đón nhận và bốc ăn liền, nhưng không thể ăn được, vì cơm đã cháy thành than.
Mục Liên thấy mẹ thọ lãnh quả khổ đói khát như vậy, muốn ăn mà ăn chẳng được, chẳng biết làm cách nào cứu mẹ được, nên Ngài trở về bạch với Đức Phật và mong nhờ Đức Phật chỉ giáo cứu mẹ mình. Đức Phật bày vẽ: “Trong mùa an cư kiết hạ, chúng Tăng đang tu học, thân, tâm thanh tịnh, ngày rằm tháng bảy là ngày giải hạ, nên cung thỉnh chư Tăng cúng dường trai phạn tứ sự, nhờ ơn công đức tu hành của các ngài hợp lại thành một sức mạnh to lớn, với công đức nầy có thể mới cứu mẹ Ngài thoát cảnh địa ngục.” Mục Liên vâng lệnh Phật làm y như lời dạy, mẹ Ngài thoát cảnh địa ngục.”
Qua sự tích này đã biến ngày rằm tháng bảy trở thành một phong tục trong dân gian, ngày báo hiếu, ngày xá tội vong nhân v.v... Câu chuyện Mục Liên Thanh Đề là một câu chuyện phi đạo đức trong Phật giáo Đại Thừa. Một câu chuyện được dựng lên trong thời đại phong kiến, lúc vua quan chuyên ăn lo hối lộ, mua quan bán chức, làm những điều bất công, không công bằng, công lý.
Đạo Phật Nguyên Thủy chủ trương tự độ, không cầu tha lực độ mình. Cầu tha lực độ mình là giáo pháp của ngoại đạo, là của Phật giáo phát triển Đại Thừa như trên chúng tôi đã nói. Đó là một thứ giáo pháp phi đạo đức, phi nhân quả, không công bằng và công lý.
Đọc chuyện Mục Liên, Thanh Đề chúng ta thấy đạo Phật tổ chức giống như chế độ phong kiến không khác chút nào. Ăn lo hối lộ với những danh từ rất cao thượng: “Độ chúng sanh.”
Cha mẹ làm tội ác bị nhà vua bắt giam cầm, tù tội, con thi cử làm quan, không cứu cha mẹ được vì tội quá nặng, nên phải nhờ những vị quan lớn khác bằng cách phải lo lót hối lộ, (Trai tăng cúng dường tứ sự). Nhờ có lo lót như vậy, bà Thanh Đề mới thoát cảnh tù tội A Tỳ Địa Ngục.
Đối với một tôn giáo lớn như Phật giáo Đại Thừa mà còn có hình thức ăn lo, hối lộ như vậy thì trên đời này còn có nghĩa lý gì là đạo đức công bằng và công lý; còn có nghĩa lý gì gọi là đạo đức nhân quả không làm khổ mình khổ người; còn có nghĩa lý gì khi mang danh là tôn giáo mà dạy tín đồ làm điều phi đạo đức như vậy.
Nếu trên thế gian này không có một đạo luật nhân quả thì loài người đừng nói đến hai chữ công bằng và công lý. Vì không bao giờ có công bằng và công lý khi mà không có luật nhân quả. Không có một đấng Vạn Năng hay một đấng Tạo Hóa hoặc một Đức Chúa Trời hoặc một Ngọc Hoàng Thượng Đế nào cầm cán cân công bằng và công lý cho loài người này được, chỉ có luật nhân quả mới giữ vai trò công bằng và công lý này mà thôi.
Vì nhân quả là do hành động của mọi người tự làm tội hay vô tội đều chính nơi họ, cho nên luật nhân quả chính là con người tạo ra để xử phạt hay ban thưởng chính lại họ, chứ không có một kẻ thứ hai nào khác thưởng phạt. Vì thế nó rất công bằng và công lý, không ai lo lót và hối lộ nó được. Kẻ nào làm ác thì phải thọ lấy quả khổ, kẻ nào làm thiện thì hưởng được phước báo.
Sau khi tu hành chứng đạo, Đức Phật dẫn tâm đến Lậu Tận Minh, Ngài đã thấy luật nhân quả rất rõ ràng, công bằng và công lý vô cùng, cũng vì luật nhân quả có công bằng công lý như vậy nên con người phải chịu trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi, thọ biết bao nhiêu sự đau khổ từ kiếp này đến kiếp khác, đều do chính hành động nhân quả của họ.
Ở trên đời người ta có tiền, có thế lực, thì người ta có thể mua thoát được tội lỗi, nhưng với luật nhân quả thì không thể mua thoát tội được. Trải qua một thời gian dài từ chế độ bộ lạc mãi nô đến chế độ phong kiến đã chứng minh điều này “Đa kim ngân phá luật lệ.” Và mãi sau này dù cho bất cứ một chế độ nào thì sự công bằng và công lý sẽ chẳng thực thi được trọn vẹn.
Dưới chế độ phong kiến, con cháu của vua quan có làm tội giết người, cướp của vẫn ung dung phe phẩy tự do mà không ai làm tội làm tình được, pháp luật đối với những hạng người này như bắt cóc bỏ dĩa.
Cho nên Đại Thừa giáo là một tôn giáo bị “thế tục phong kiến hóa” với sự lý luận vụng về để lộ chơn tướng thế tục:
“Khi chư Tăng chấp nhận thọ dụng trai Tăng và tứ sự cúng dường thì hợp lại công đức tu hành của mình thành một công đức vô lượng, công đức đó sáng chói như ngọn đuốc trí tuệ khiến cho tâm bà Thanh Đề giác ngộ nên bà mới thoát khỏi địa ngục.”
Đó là hình thức ăn lo tập thể của chế độ phong kiến mà Phật giáo Đại Thừa đã bị đồng hóa. Đó là cách lý giải không chân thật của các nhà Đại Thừa khéo che đậy lừa đảo những tín đồ mê tín, vô minh, chứ không thể nào che đậy với những người đệ tử của Phật đã được trang bị đạo đức nhân quả. Vì giáo pháp của Đức Phật dạy rõ ràng, cụ thể, người tu sĩ phải lấy đức hạnh (giới luật) làm đầu. Chỉ có đạo đức nhân quả thì mới có công bằng, công lý và từ bi đối với mọi người mọi loài chúng sanh. Và vì thế, không thể nào có sự gian xảo lừa đảo dối trá theo kiểu dạy của kinh sách Đại Thừa như trên.
Bài kinh Vu Lan Bồn chỉ gạt những người chưa hiểu giáo lý chân chánh và đạo đức nhân quả của đạo Phật. Bài kinh Vu Lan hôm nay đã trở thành một sự lừa đảo có sách vở và đã trở thành một truyền thống báo hiếu vô đạo đức trong lòng tín đồ Phật giáo Việt Nam hơn cả nghìn năm mà không ai phát giác ra được.
Mùa Vu Lan! Mùa báo hiếu! Những danh từ này đã lặp đi lặp lại trong lòng người phật tử hiếu hạnh Việt Nam, nhưng mấy ai đã biết sự hiếu hạnh này là phi hiếu hạnh, là sự bị lừa đảo. Hằng năm người phật tử đã tốn biết bao nhiêu tiền của trong mùa Vu Lan! Mùa Báo hiếu! Một việc làm chẳng ích lợi gì cho những người thân thương quá cố của mình, chỉ có làm lợi ích cho các nhà sư Đại Thừa mà thôi.
Nếu mọi người ai cũng đều thông hiểu đạo đức nhân quả của đạo Phật thì những kinh sách phi đạo đức của Đại Thừa không thể lường gạt họ được như: “Vu Lan Bồn kinh, Phẩm Phổ Môn trong bộ Diệu Pháp Liên Hoa kinh, Di Đà kinh, Bát Dương kinh, Thủ Lăng Nghiêm kinh, Duy Ma Cật kinh vv...”
Đó là những loại kinh sách phi đạo đức, phi chân thật, phi Phật pháp, nó không triển khai tri kiến giải thoát và tri kiến đạo đức nhân quả, nó khiến cho trí tuệ con người u mê, vô minh, đen tối, liệt tuệ, thường sống với sự hiểu biết mơ hồ, trừu tượng, mê tín của thế giới siêu hình tưởng. Nó dạy người làm những việc thiếu đạo đức và thiếu chân thật, thường cúng tế, cầu cạnh, van xin, gia hộ, hộ trì v.v… với lòng đại từ, đại bi của chư Phật và chúng Thánh Tăng, theo như trong kinh Vu Lan Bồn đã dạy ông Mục Kiền Liên cứu mẹ.
Giả thuyết, nếu làm được như vậy thì tất cả chúng Tăng và Đức Phật tập trung công đức tu hành giải thoát của mình lại thành một công đức vô lượng vô biên như một ngọn đuốc khổng lồ cháy sáng rực và hướng đến chúng sanh, khiến cho chúng sanh ngộ được đạo lý giải thoát để mọi người ly dục ly ác pháp thoát ra cảnh địa ngục tại tâm, thì đâu cần gì chúng sanh phải tu hành vất vả khổ nhọc, mà cũng vẫn được giải thoát như thường. Cũng giống như chư Tăng hợp công đức tu hành của mình lại thành một trí tuệ lớn, khiến cho tâm bà Thanh Đề ngộ được đạo lý giải thoát, liền thoát ra cảnh địa ngục A Tỳ. Nếu chư Phật và chư Thánh Tăng làm được những điều này thì thế gian lại có thêm một tôn giáo phi đạo đức, thì chúng tôi là những phật tử chân chánh sẽ không chấp nhận điều này.
Nếu chư Thánh Tăng trong thời Đức Phật đã cứu độ cho bà Thanh Đề thoát cảnh địa ngục như vậy thì với tâm đại từ đại bi của Phật và chư Thánh Tăng không lẽ không làm điều này để độ chúng sanh thoát khổ sao? Có lý đâu vì một cá nhân nhỏ mọn như bà Thanh Đề mà chư Tăng còn độ được thay huống là với tất cả chúng sanh trên hành tinh này đang đau khổ mà Phật và chư Thánh Tăng đều biết rõ, mà làm ngơ sao? Hay phải đợi cúng dường tứ sự? Có cúng dường tứ sự mới cứu độ thì còn gì là Phật, là Thánh Tăng nữa. Phải không các bạn?
Bởi vậy, kinh điển Đại Thừa diễn đạt giáo lý phi đạo đức một cách cụ thể rõ ràng, thế mà mọi người vì quá vô minh, u tối không thấy nên bị lừa đảo, bị lường gạt một cách đau đớn. Công đức tu hành của Phật vô lượng vô biên mà Ngài còn từ chối không cứu độ ai hết, Ngài chỉ là một hướng đạo viên mà thôi. Ngài đã rõ thấu đạo lý nhân quả tường tận mà không ai hiểu đạo lý nhân quả hơn Ngài.
Do hiểu đạo lý nhân quả tường tận, dù biết rằng mình có đủ thần lực, có vô lượng vô biên công đức, nhưng Ngài vẫn từ chối không cứu độ ai hết, vì cứu độ là một việc làm phi đạo đức, nên Ngài dạy: “Các con hãy tự thắp đuốc lên mà đi, Ta chỉ là một người chỉ đường mà thôi.”
Theo đạo lý nhân quả, ai làm ác thì phải chịu nhận lấy quả khổ, không ai cứu khổ cho kẻ làm ác được, chỉ có các nhà Đại Thừa mới có một đức Bồ Tát Quan Thế Âm dám làm điều phi đạo đức này (phẩm Phổ Môn kinh Pháp Hoa) rồi đến chư Thánh Tăng và Đức Phật trong kinh Vu Lan Bồn mới dám cả gan làm điều phi đạo đức, phi giáo lý của Phật để cứu bà Thanh Đề thoát cảnh địa ngục, bằng cách ăn lo tứ sự cúng dường.
Xưa, thời Đức Phật còn tại thế Ngài còn phải xin ăn để gieo duyên độ chúng sanh, nhờ có gieo duyên nhân quả thiện như vậy Ngài mới đủ duyên để thuyết giáo pháp của mình khiến cho chúng sanh ngộ được chân lý giải thoát rồi mới lần lần tu tập dứt bỏ và xả ly mới thoát cảnh địa ngục trần gian đầy đau khổ của kiếp làm người.
Các nhà Đại Thừa xây dựng sự cứu độ một cách vô lý, thiếu công bằng và công lý, thế mà mọi người vẫn tin theo, làm theo với sự thiếu suy nghĩ. Đem công đức tu hành giải thoát của mình hợp lại làm một ngọn đèn sáng, khiến cho người đang mê gặp ngọn đèn này trí tuệ bừng sáng, thoát cảnh địa ngục (nếu được như vậy thì đâu cần gì phải tu). Đó là một thứ vọng ngữ của các nhà Đại Thừa để lừa đảo những người tín đồ thiếu trí tuệ và cũng khiến cho những người có trí tuệ hiểu biết nghi ngờ Phật giáo và xem thường đạo Phật, cho rằng Phật giáo là một tôn giáo mê tín, một tôn giáo không có đạo đức.
Nếu thật sự, những loại kinh sách này là của Phật giáo thì Phật giáo không còn đất đứng trên hành tinh này nữa, một khi thời đại dân trí càng đi lên và khoa học càng tiến bộ thì người ta càng rõ sự gian xảo này. Trên hành tinh này duy chỉ cần phải có một đạo đức nhân quả và đạo đức ấy phải được phát triển đúng mức để quân bình vật chất và tinh thần của con người được cân bằng thì xã hội loài người mới có sự an vui, hạnh phúc.
Do thế các tôn giáo nào thiếu đạo đức, gây mê tín, tạo thế giới siêu hình trừu tượng, viển vông, dạy những điều phi đạo đức, thường lừa đảo tín đồ thì phải bị khoa học chỉ mặt vạch tên và sẽ bị nhân loại đào thải khỏi cuộc sống của họ.
Bởi vậy, câu chuyện Mục Liên, Thanh Đề là câu chuyên phi đạo đức, phi công lý, phi công bằng, phản lại đạo đức nhân quả của Phật giáo. Sự báo hiếu của đạo Phật như trong kinh sách Đại Thừa là không phải của đạo Phật, kinh sách này đã bị dân gian thế tục hóa Phật giáo theo thời đại phong kiến của nó.
Người tu sĩ đạo Phật muốn báo hiếu cha mẹ thì phải tu hành sống đúng giới hạnh, không hề vi phạm một lỗi nhỏ, sống thiểu dục tri túc, ăn ngủ độc cư đúng cách, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, tâm thường thanh thản, an lạc, ly dục, ly ác pháp và nhập sâu Bốn Thánh Định, thực hiện Tam Minh, làm chủ sự sống chết và luân hồi thì mới báo hiếu trọn vẹn.
Còn người tín đồ muốn báo hiếu thì phải giữ gìn năm giới nghiêm túc thường khuyên cha mẹ giữ gìn làm điều thiện, đừng làm điều ác. Đó là sự báo hiếu chơn thật của Phật giáo
Thực hiện được những điều này qua đời sống gương hạnh cao quý khiến cho cha mẹ nhiều đời nhiều kiếp vì có nhân duyên nhân quả nên quy tựu gặp lại nhau để nhận lấy gương hạnh đạo đức giải thoát và giáo pháp của Phật hướng dẫn cho những người thân thương của mình từ vô lượng kiếp để thoát ra khỏi cảnh đời đầy đau khổ. Đó là báo hiếu cha mẹ, chớ không phải làm lễ trai Tăng cúng dường tứ sự để nhờ công đức của chư Tăng cứu độ cha mẹ là báo hiếu.
Báo hiếu kiểu đó là báo hiếu không thực tế, thua xa các nhà Nho giáo Đạo Khổng “Quạt nồng, ấp lạnh” không làm cho cha mẹ buồn rầu, thường làm vui lòng cha mẹ.
Sống chửi cha, mắng mẹ, làm cho cha mẹ buồn khổ, đến khi chết rước chư Tăng cúng dường Tam Bảo để báo hiếu thì thật là buồn cười, bày đặt chuyện báo hiếu như vậy không đạo nghĩa và thực tế, đó là lối lường gạt người “tiền mất tật mang” chẳng làm ích lợi gì cho ai cả.
70. TỆ NẠN MÊ TÍN
Hỏi: Kính thưa Thầy, ở nước ta (VN) hiện nay tệ nạn mê tín dị đoan như cầu siêu, cầu an, xin xăm, bói quẻ, xem ngày giờ tốt xấu, cúng sao, giải hạn, lên đồng, nhập xác… đang là hiểm họa tệ nạn xã hội, là một gánh nặng của con người. Kính thưa Thầy, để đẩy lùi những tệ nạn này ra khỏi loài người và làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn, chúng con cần phải làm những gì?
Đáp: Muốn đẩy lùi tệ nạn mê tín dị đoan thì người cư sĩ đệ tử của Đức Phật phải sáng suốt nhận định và thông suốt những gì mà Đức Phật đã dạy, đừng quá vội tin vào những người khác. Hễ nghe nói Phật thuyết là bất cứ cái gì cũng vội vàng tin ngay liền, tin như vậy là tin mù quáng dễ bị kẻ khác lừa đảo. Đó là một bằng chứng thật sự hiện giờ các tệ nạn mê tín xảy ra chung quanh trong các ngôi chùa là do phật tử quá tin theo các thầy Tổ của mình. Thầy Tổ của mình đang chịu ảnh hưởng của tà giáo ngoại đạo đã biến trở thành những người đang dối trá, mượn sắc áo của Phật giáo để kinh doanh tôn giáo làm giàu trên mồ hôi nước mắt của tín đồ.
Bởi vậy, người tín đồ Phật giáo phải tin vào đạo đức nhân quả làm người, không làm khổ mình khổ người là một điều lợi ích rất lớn, hãy dep bỏ lòng tham vọng, ích kỷ nhỏ mọn của mình, những mơ ước thiếu thực tế. Hãy tự lực sống đúng đạo đức nhân quả là đã thấy hạnh phúc ngay liền, dẹp bỏ những sự cầu cạnh tha lực nương tựa vào thần quyền, đó là những hy vọng mơ tưởng hão huyền, đừng tin và làm theo những điều phi đạo đức nhân quả mà trong thế giới siêu hình tưởng thường bày vẽ ra thì tệ nạn mê tín trong xã hội sẽ được đẩy lùi ngay tức khắc. Giáo lý của đạo Phật có những tiêu chuẩn đã được xác định:
1- Đạo đức nhân bản.
2- Không có thế giới siêu hình.
3- Người chết năm uẩn tan hoại tất cả chỉ còn lại nghiệp lực thiện ác (nhân quả) tiếp tục tái sanh.
4- Pháp môn tu tập của đạo Phật duy nhất chỉ có Giới, Định, Tuệ.
5- Ngoài Giới, Định, Tuệ thì không phải giáo pháp của Đức Phật nữa.
6- Giới định tuệ là chỉ cho một tâm duy nhất của ba trạng thái kết hợp tạo thành một nguồn sống giải thoát chứ không phải ba pháp.
7- Giới là đạo đức nhân bản nhân quả.
8- Định là tĩnh giác.
9- Tuệ là sự hiểu biết.
Ba vấn đề này gom chung vào một tâm, nếu tâm có hiểu biết tĩnh giác trong đạo đức nhân bản nhân quả thì tâm liền có giải thoát. Đó là một vấn đề (giới, định, tuệ) duy nhất của đạo Phật giúp cho con người vượt qua khổ đau của kiếp làm người, ngoài vấn đề này thì không có giáo pháp nào của Đức Phật dạy cầu tha lực cả. Nếu có giáo pháp cầu tha lực là giáo pháp của ngoại đạo, đó là một sự xác định nghiêm túc của đạo Phật.
Đạo Phật cấm kị nhất là thần thông và thế giới siêu hình, thần thông đạo Phật cho là huyễn hóa, thế giới siêu hình đạo Phật cho là thế giới ảo tưởng. Thần thông và thế giới siêu hình là hai phương tiện dùng để lừa đảo gây sự mê tín dị đoan trong lòng người, khiến cho người ta đi vào tội lỗi. Bởi vậy những người hiểu biết cần phải triệt tiêu và quét sạch nó trên hành tinh này.
Người ta gán cho đạo Phật có nhiều pháp môn từ thấp đến cao để tùy theo căn cơ của mỗi chúng sanh mà tu tập, đó là lối biện luận lừa đảo của những người mạo danh Phật giáo. Ngoài Bát Chánh Đạo để thực hiện giới, định, tuệ thì không còn pháp môn nào được gọi là của đạo Phật nữa, đừng đem những tà pháp mê tín dị đoan mà gán cho đạo Phật, đó là một việc làm tội lỗi đối với con người trên hành tinh này.
Khi quý vị đã rõ thấu giáo pháp của Đức Phật là giới, định, tuệ thì bất cứ một ngôi chùa nào mà dạy khác pháp môn giới, định, tuệ thì quý vị không chấp nhận, không nghe theo, không cúng dường, không đến chùa đó nữa, không thọ nhận hoặc tu tập theo giáo pháp ngoại lai đó.
Từ khi Đức Phật tịch, giáo đoàn Phật giáo bị phân hóa chia thành nhiều bộ phái do những vị tu sĩ lãnh đạo tham danh đắm lợi đã nỡ tâm giết Phật giáo chết, từ đó các Ngài đưa vào những giáo pháp của ngoại đạo để lừa đảo tín đồ Phật giáo. Do đó mới có những kinh sách dạy cầu siêu, cầu an, xin xăm, bói quẻ, xem ngày giờ tốt xấu, cúng sao, giải hạn, lên đồng, nhập xác… làm đủ mọi điều mê tín dị đoan, nó được xem là một hiểm họa rất lớn, một tệ nạn xã hội. Các chùa đang hành những nghề nghiệp này là đã tạo một gánh nặng cho xã hội loài người.
Muốn đẩy lùi những tệ nạn này thì trong các chùa quý thầy trụ trì phải đình chỉ ngay liền những nghề nghiệp lừa đảo phi đạo đức thì tệ nạn mê tín dị đoan sẽ được chấm dứt. Đó là dứt trừ tận gốc phát sanh ra nó.
Muốn đẩy lùi tệ nạn này thì quý vị cư sĩ không nên tin và không làm theo những giáo pháp mê tín, phi đạo đức, bằng cách không đến những ngôi chùa có hành nghề như vậy và cũng không cúng dường cho các vị Tăng ở đây. Có như vậy mới có thể đẩy lùi và dẹp sạch những tà giáo phi nhân quả thì loài người mới thoát khỏi gánh nặng khổ đau.
71. LÀM LỄ QUY Y CHO NGƯỜI CHẾT
Hỏi: Kính thưa Thầy! Trong kinh Mười Hai Nhân Duyên, Đức Phật đã xác định rõ ràng không có thế giới siêu hình, tức là không có linh hồn, thần thức sau khi chết. Vậy mà tại sao chúng con thấy quý thầy, quý cô và quý cư sĩ Phật giáo lại dựa vào đâu mà cho rằng có thế giới siêu hình?
Bằng chứng quý thầy, quý cô và quý cư sĩ đứng ra bày vẽ tổ chức lo toan đám ma, cúng vong, tiễn linh, chẩn tế cô hồn giải oan bạt độ, thậm chí còn có rất nhiều quý thầy ngang nhiên ngồi trên pháp tòa để thuyết pháp giảng đạo làm lễ quy y Tam Bảo và thọ ngũ giới cho những vong linh.
Những việc làm của quý thầy, quý cô và quý cư sĩ đã đi ngược lại lời dạy chân thật của Đức Phật và làm lệch lạc đường đi chân chánh của đạo Phật, khiến cho mọi người có hiểu biết sẽ nghi ngờ Phật giáo. Xin Thầy chỉ dạy cho chúng con được rõ và khiến cho mọi người không còn nghi ngờ Phật giáo nữa.
Đáp: Người ta không rõ mục đích quy y Tam Bảo và thọ ngũ giới là gì cho nên mới dám làm những điều mê tín lừa đảo con cháu người đã chết. Quy y Tam Bảo và thọ ngũ giới cho người đã chết là để lấy lòng phật tử trong khi người phật tử đang đau khổ vì mất mát những người thân thương, họ không còn sáng suốt nhận định nên hễ quý thầy bày vẽ làm điều gì thì cứ làm ngay liền để mãn nguyện lòng thương yêu của mình đối với những người thân.
Mục đích quy y Tam Bảo và thọ ngũ giới là để sống và thực hiện một đời sống đạo đức làm người không làm khổ mình khổ người, sống trong thiện pháp, sống biết tha thứ và thương yêu mọi người, mọi loài, chứ không phải quy y Tam Bảo là để được làm đệ tử của Phật, để ở cõi Diêm Đình vua Diêm Vương nể mặt, quỷ sứ, ngục tốt Ngưu Đầu, Mã Diện không dám hành hạ. Hiểu như vậy là mê tín, là sai không đúng chánh tri kiến của đạo Phật.
Còn nếu bảo rằng quy y Tam Bảo là để gieo duyên với Phật pháp thì lại còn sai hơn nữa, khi cha mẹ còn sống không bằng lòng thọ Tam Quy Ngũ Giới, đến khi chết con cháu nhờ sư, thầy làm lễ Quy Y Tam Bảo thì vấn đề này không phải tự tâm nguyện của ông bà mà là một sự ép buộc của con cháu, như vậy thử hỏi làm sao có sự gieo duyên cho được khi mà tâm không thành, ý không muốn.
Các sư thầy ngang nhiên ngồi lên pháp tòa thuyết pháp giảng đạo hoặc làm lễ quy y Tam Bảo cho những vong linh này là một việc làm mê tín, vô minh không thông hiểu đạo Phật, làm một điều phi Phật giáo, vì Phật giáo là một tôn giáo tự lực cánh sinh chứ không nhờ vào tha lực nào cả mà phải tự mình khi còn sống có một sự thành tâm ước muốn để trở thành một con người có đạo đức làm người, không làm khổ mình khổ người, để trở thành một con người sống toàn thiện và để trở thành một con người sống với một tâm hồn thanh thản, an lạc, bất động trước các pháp. Và có sự ước muốn như vậy thì quy y Tam Bảo và thọ ngũ giới mới có giá trị và ý nghĩa đúng nghĩa chân chánh của đạo Phật.
Còn ngược lại là không có ý nghĩa tự lực. Trên con đường cầu đạo giải thoát thì không có một người nào đi thay thế cho ai được mà phải chính nơi người đó, vì thế quy y cho người đã chết là một việc làm sai, gây mê tín dị đoan, lạc hậu trong đạo Phật, đó là một việc làm tội lỗi.
Đạo Phật không chấp nhận sự thường hằng của linh hồn, thế mà sư, thầy lên pháp tòa thuyết pháp quy y Tam Bảo và truyền ngũ giới cho vong linh thì đó là một việc làm của ngoại đạo lừa đảo lòng hiếu hạnh và tình thương yêu của tín đồ Phật giáo đối với người quá cố. Việc làm này chẳng có ích lợi gì cho người chết mà còn khiến cho tín đồ hao tiền tốn bạc một cách si mê.
Khi cha mẹ hay những người thân thương qua đời, lòng thương yêu của chúng ta đối với những người này chỉ có một cách duy nhất là làm ích lợi cho người chết, cũng như giúp cho họ gieo duyên với Phật pháp thì chỉ có việc ấn tống kinh sách dạy về đạo đức làm người không làm khổ mình khổ người. Nhờ có kinh sách này mà người sống có lợi ích rất lớn thì người chết cũng có lợi ích rất lớn. Tại sao vậy?
Tại vì người chết nghiệp lực sẽ tiếp tục tái sanh luân hồi ngay liền sau khi chết và đã trở thành một người mới, có nghĩa là chết đây sanh kia cũng giống như cây đuốc, cây đuốc này vừa tắt thì cây đuốc kia cháy sáng ngay liền để giữ ánh sáng liên tục không bị gián đoạn. Luật nhân quả cũng vậy, thân này mất thì có thân khác ngay liền để giữ đạo luật nhân quả không bị gián đoạn.
Vì thế, kinh sách đạo đức làm người không làm khổ mình khổ người được ấn tống và được phổ biến khắp cùng thì mọi người ai cũng đều được đọc kinh sách này giúp cho họ có một đời sống đạo đức toàn thiện, một đời sống giải thoát an lạc. Sự ấn tống kinh sách đạo đức nhân quả mới là gieo duyên quy y Tam Bảo và thọ ngũ giới cho những người thân thương đã quá cố. Đó là sự báo hiếu rất lớn của chúng ta khi cha mẹ đã qua đời, những việc làm này đem đến lợi ích ngay liền là những người chung quanh chúng ta đang sống họ trở thành những người sống có đạo đức làm người, biết mang lại sự không đau khổ cho nhau, đó là chân hạnh phúc của loài người thiết thực và cụ thể hơn.
72. THẾ GIỚI SIÊU HÌNH
Hỏi: Kính thưa Thầy, trong Giáo Án … tập 3, Thầy nói: khi còn sống mọi hoạt động của con người đều “lưu lại” ở từ trường trong không gian, và chỉ người nào có tưởng thức mạnh mới giao cảm được với tần số của từ trường ấy mà “thấy và nghe được” những sự việc đã diễn ra của người chết. Như cô Khang bị rút móng tay…
Tóm lại, vậy là “có” linh hồn người chết, nhưng người thấy người không, chứ nói “không có” linh hồn thì mọi người không ai chịu tin hết Thầy ạ! Rồi họ đưa ra việc cầu hồn, thấy ma…
Thưa Thầy: Hay là Phật nói không có linh hồn vì nó có nhưng không thật; hay để con người không nhớ thương, không ỷ lại nương tựa tha lực?
Đáp: Không phải vậy, không phải vì lý do nhớ thương hay ỷ lại mà Đức Phật nói không có thế giới siêu hình mà thật sự hoàn toàn thế giới siêu hình không có. Trong vấn đề linh hồn người chết có hay không, điều này đã mang nặng một dấu ấn trong tâm của mọi người là có linh hồn người chết.
Muốn xác định cho rõ ràng điều này thì không có cách nào hay hơn bằng chính người ấy phải tự nhập Tứ Thánh Định, an trú trong ấy rồi dùng Trạch Pháp Giác Chi hướng tâm đến Thiên Nhãn Minh quan sát thế giới siêu hình thì chừng đó mới xác quyết chắc chắn rằng: người chết không còn có linh hồn tồn tại hay là không có sự sống sau khi chết.
Ở đây, Thầy đã giải thích rất nhiều về vấn đề thế giới siêu hình, nhưng ai là người hiểu vấn đề này. Người tri âm khó gặp, tri kỷ khôn tìm. Người nghe được tiếng đàn của Bá Nha chỉ có Tử Kỳ mà thôi. Nhưng Tử Kỳ chết, Bá Nha đập nát chiếc đàn. Vì trên đời này còn có ai nghe được tiếng đàn của mình. Thầy cũng vậy, chỉ có người nào tu chứng quả A-la-hán mới hiểu được tiếng nói của Thầy. Thầy sẽ không phụ lòng những câu hỏi của các con, Thầy cố gắng trả lời cho các con hiểu.
Các con nên hiểu thế giới mà loài người đang sống là một thế giới sắc tướng, có sự sống, có vạn vật hiện hữu, thế mà Đức Phật gọi nó là thế giới tưởng thì chúng ta có tin không?
Thế giới của chúng ta đang sống không phải do “tưởng uẩn làm ra” như thế giới siêu hình mà do các duyên hợp lập thành. Vì thế không có một vật gì thường hằng, luôn tan hoại theo thời gian năm tháng. Thế mà chúng ta điên đảo tâm, điên đảo tưởng, điên đảo tình, điên đảo kiến chấp thủ, cho mọi vật là có thật, là ta, là của ta v.v…
Thế giới hiện hữu là không có thật, vì thế mọi vật thường vô thường. Trên thế gian không có một vật gì là trường cửu, vậy mà mọi người cho nó là có thật thì không phải đó là điên đảo sao? Do cho nó có thật, nên mọi người cố làm ra cho nhiều, cố làm ra cho nhiều nên làm ra nhiều điều ác. Do làm nhiều điều ác nên phải thọ chịu những quả khổ đau.
Với đôi mắt của Phật nhìn mọi vật trên thế gian này như bong bóng nước, như hoa phù du sớm nở tối tàn, đó là một bằng chứng thật sự. Vì thế Đức Phật cho rằng thế giới mà chúng ta đang sống là thế giới của tưởng tri. Vậy mà có ai tin đâu. Chúng ta lại một lần điên đảo nữa, cái hình bóng của thế giới hiện tượng hữu hình tưởng tri này lại cho là thế giới siêu hình.
Ví dụ: Một cuộn băng video thu những hình ảnh núi, sông, nhà cửa, người và vạn vật đang sinh hoạt nhảy múa. Với những hình ảnh này chúng ta cho đó là thế giới siêu hình sao?
Những hình ảnh núi, sông, đất đá, cây cỏ, người và thú vật trong băng video hiện ra và hoạt động được là nhờ dòng điện, đầu máy và màn hình.
Còn thế giới siêu hình cũng vậy, nó được hiện ra và hoạt động là nhờ tưởng uẩn của chúng ta bắt gặp và lập thành, chứ nó không có thật. Các con cũng nên biết và phân biệt tưởng cho rõ ràng. Tưởng có hai phần cụ thể:
1- Ý thức tưởng là chúng ta dùng ý thức mà tưởng tượng ra một vật mà vật đó không có ở trước mắt.
2- Tưởng thức tưởng là do năng lực hoạt động của tưởng uẩn khiến cho những hình ảnh của thế giới sắc tướng hiện hữu của loài người đang sống đã được lưu lại trong không gian trở thành linh động, khiến cho mọi người chưa đủ trí tuệ sáng suốt, đang sống trong điên đảo tâm, điên đảo kiến, điên đảo tưởng, điên đảo tình mới cho những hình ảnh ấy là có thật, thế giới siêu hình thật. Vì thế mới có việc cầu cơ, cầu hồn, thấy ma, thấy quỷ v.v…
73. CẬN TỬ NGHIỆP
Hỏi: Kính thưa Thầy, con đọc cuốn “Sống Và Chết” của dịch giả Thích Quang Phú, giáo sư Phật học trường Quốc học Huế nói về cận tử nghiệp của người bệnh sắp chết qua đời:
Khi người bệnh tắt hơi thở cuối cùng là lúc các hành trong thân đang tan rã, đau đớn, nếu động vào thân như thay quần áo v.v... làm cho người đó đau đớn hơn nên sanh lòng sân hận, khiến cho nghiệp lực người đó chuyển từ từ sang ác, do đó sẽ bị đọa vào sáu nẻo luân hồi mặc dù người đó là tỳ- kheo vẫn bị đọa?
Đáp: Cuốn sách “Sống Và Chết” của dịch giả Thích Quang Phú dịch là cuốn tiểu luận cận tử nghiệp của kinh sách phát triển luận theo cận tử nghiệp của ngoại đạo (Bà La Môn) nên không đúng với ý nghĩa của đạo Phật. Kinh sách phát triển xây dựng cận tử nghiệp theo tưởng giải của tà giáo ngoại đạo, không đúng sự thật, chỉ có những người không biết thì tin, còn những người thông suốt kinh sách Nguyên Thủy thì không thể nào tin được.
Bài kinh Nhập Tức Xuất Tức trong kinh Trung Bộ tập 3 trang 249, Đức Phật đã dạy và xác định rất rõ ràng: “hơi thở vô, ra còn là thân, thọ, tâm và pháp của chúng sanh còn, hơi thở ra, vô dừng là thân, thọ, tâm, pháp của chúng sanh dừng.”
Người nhập Tứ Thiền hơi thở ngưng nghỉ mà thân, thọ, tâm, pháp không hoại diệt là nhờ sức thiền định. Người bình thường không nhập được Tứ Thiền, khi hơi thở ra vô ngưng nghỉ thì thân, thọ, tâm, pháp của người ấy cũng ngưng nghỉ. Như trong kinh Phật dạy: Hành đã diệt thì lấy gì thân còn hoạt động, tâm thức đã mất thì lấy gì còn biết đau, thọ đã diệt thì lấy gì mà đau, hơi thở ngưng tức là hành diệt, thọ diệt, tâm diệt thì thân lúc bấy giờ như cục đá gốc cây còn biết gì đau nhức, giận hờn.
Cho nên kinh sách “Sống Và Chết” chỉ là tưởng giải của các nhà học giả kinh sách phát triển. Giáo sư Quang Phú là một nhà học giả giảng theo kinh sách như vậy chứ Ngài cũng không biết đúng sai. Ngài giống như một con chim học nói, xưa các Tổ nói sao thì bây giờ Ngài giảng lại như vậy.
Khi hơi thở dừng thì các hành trong thân đều dừng, các hành trong thân đều dừng thì thọ và tâm thức cũng dừng, mà thọ và tâm thức dừng thì còn biết đau biết nhức chỗ nào nữa đâu. Như vậy là một kiếp người đã hết rồi, không còn nữa. Cho nên kinh “Sống Và Chết” là loại kinh mê tín, loại kinh lừa đảo người, lừa đảo tín đồ. Cận tử nghiệp chỉ là sự tưởng tượng của Tịnh Độ Tông để hộ niệm cho người sắp lâm chung, để giúp cho người sắp chết bình tĩnh giữ được niệm Phật Di Đà, niệm Phật A Di Đà là một thiện niệm tốt nhất của pháp môn này.
Gốc nghiệp là do hằng ngày chúng ta huân tập nhân ác hoặc thiện, tới giờ sắp chết muốn cho toàn thiện thì không thể được. Nếu hàng ngày huân điều thiện thì thói quen thiện sẽ thể hiện trước giờ lâm chung cận tử nghiệp thiện; nếu huân tập điều ác thì thói quen làm việc ác sẽ thể hiện trước giờ phút lâm chung cận tử nghiệp ác. Đó là một lẽ công bằng, công lý và rất hợp lý của đạo Thánh Hiền. Kinh sách phát triển dạy không hợp lý, phi đạo đức Thánh Hiền, có ngụ ý gian xảo lường gạt mọi người.
Suốt đời sống làm điều ác gây biết bao tang tóc đau khổ cho người và muôn vật, đến khi sắp chết thì mới thỉnh các sư thầy và cư sĩ đến hộ niệm để cho người tỉnh táo niệm Phật theo mà quên đi những hành động ác, do quên đi những hành động ác mới tạo ra cảnh giới cận tử nghiệp thiện, từ đó thoát cảnh đọa sáu nẻo luân hồi để về Cực Lạc Tây Phương. Kinh sách phát triển rất xảo trá dạy cho chúng ta tạo cảnh cận tử nghiệp một cách lừa đảo, gian xảo lường gạt người trần tục của chúng ta. Nếu có cõi Cực Lạc Tây phương thật sự thì chắc gì kinh sách phát triển lừa đảo được đức Phật Di Đà.
Nếu theo giáo lý của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni mà tu tập “Tứ Chánh Cần” ngăn ác, diệt ác, sanh khởi thiện, tăng trưởng thiện pháp thì suốt đời chẳng làm khổ mình, khổ người, khổ chúng sanh thì cận tử nghiệp phải là thiện, cần gì phải nhờ người khác hộ niệm. Còn làm ác, chuyên làm khổ mình, khổ người, khổ chúng sanh thì dù có rước hàng trăm vạn tỳ-kheo cho đến các vị Phật ở khắp mười phương đến để hộ niệm cho người sắp chết thì người ấy vẫn đọa địa ngục như thường. Vì luật nhân qua rất công bằng và công lý.
Những kinh sách phát triển dạy phi chân lý, phi đạo đức như vậy, thế mà người ta nghe danh từ “xe lớn” (Đại Thừa) thì ai cũng tưởng mình tu theo pháp xe lớn là “ngon” là “vĩ đại” là “cao thượng”, nào ngờ bị lừa đảo mà không biết.
Kinh sách phát triển là một loại kinh sách tưởng, kinh sách không đáng tin cậy, kinh sách nói mơ hồ trườn uốn như con lươn, nói hai mặt để khiến cho người ta không bắt bẻ được. “Kinh sách nói như vậy, chứ không phải nghĩa như vậy”. Tin hay không tin là quyền của quý vị, nhưng ít ra quý vị đừng để kẻ khác lừa đảo mình, quý vị hãy suy nghĩ đi. Đạo Phật dạy người không nên lừa đảo, phải chân thật tự lực cứu mình chẳng cần ai hộ niệm cho mình cả, chỉ có mình mới giải quyết sự đau khổ cho chính mình.
Nên những bài pháp trong kinh Nguyên Thủy dạy tự mình sửa sai và khắc phục những điều ác để đem lại sự an vui cho mình, cho người trong hiện tại thì có lo gì ai hộ niệm để tạo cận tử nghiệp tốt cho mình. Quý vị còn nhớ lời Phật dạy hay không? “Hãy thắp đuốc lên mà đi, Ta chỉ là người hướng đạo, chứ Ta không thể đi thay thế cho ai cả.” Vậy mà mọi người hộ niệm cho người khác thì có sai với lời dạy của Phật chăng?
Câu trả lời này xin nhường lại quý vị trả lời!
74. TIẾP DẪN VỀ CỰC LẠC
Hỏi: Kính thưa Thầy! Trước lúc hấp hối và sau khi tắt thở phải nhờ bạn đồng đạo (hay mời sư thầy) về tụng kinh niệm Phật để trợ duyên cho người bệnh đang hôn mê. Nhờ có tụng niệm âm thanh niệm Phật, tụng kinh khiến cho người bệnh tịnh tâm nhớ Phật, niệm Phật, nhờ đó sẽ dứt được nghiệp, được Phật đón về Tây phương Cực Lạc (dù người đó là đại ác)?
Đáp: Kinh sách phát triển nhất là dạy về phần Tịnh Độ có nhiều điều hết sức là vô lý và phi đạo đức:
1- Lúc hấp hối (sắp chết) rước sư, thầy hay các đồng đạo về tụng, niệm để trợ duyên nhớ Phật, niệm Phật để sẽ được Phật rước hồn về cõi Cực Lạc Tây phương, thật là phi lý vô cùng. Khi còn sống mạnh khỏe đến chùa lạy Phật, tụng kinh niệm chú mà nghiệp vẫn chưa tiêu được, huống là lúc bệnh tật sức yếu và nhất là lúc hấp hối thì còn sức đâu mà chiến thắng lại nghiệp ác. Nếu có cố gắng tỉnh thức để niệm Phật cũng không nổi vì thân tứ đại sắp tan rã thì đau nhức tận cùng, còn sức chịu đựng sự đau khổ của thân và tâm. Lúc bây giờ còn sức đâu chịu nổi những cơn đau tận cùng của thân mệnh, tinh thần thì rối ren phần đau đớn, phần sợ chết, phần thương con cháu thì làm sao còn bình tĩnh đâu mà niệm Phật.
2- Nhân quả do mình tạo ra thành nghiệp thì phải chính mình tu tập sửa đổi tâm tánh đi vào thiện pháp thì nghiệp kia mới tiêu trừ. Chứ đâu có niệm Phật sám hối mà tiêu tội, tiêu nghiệp được. Nếu niệm Phật, sám hối, ngồi thiền mà tiêu tội tiêu nghiệp thì đó là lối lừa đảo, lường gạt người của kinh phát triển Bà La Môn giáo, của những ông thầy kiến giải học giả lừa đảo người để ngồi mát ăn bát vàng.
3- Người đại ác nhờ hộ niệm mà tiêu tội tiêu nghiệp được và được đức Phật Di Đà đón về Cực Lạc Tây phương thì ông Phật Di Đà chắc ông là người điên, sao dám rước người đại ác về nước mình để biến hoa sen làm tù ngục để nhốt họ trong đó rồi còn phải cho lính canh gác. Một đất nước thanh bình có trật tự an ninh thì bây giờ biến đất nước có nhà tù, có lính gác, làm cho cực khổ biết bao nhiêu người như vậy mà biết có cảm hóa giáo huấn được ai chăng, hay chỉ là một ảo tưởng do con người dựng lên để an ủi tinh thần người còn sống trong khi quá đau khổ trước cảnh chia ly người sống kẻ chết.
Đất nước nào không có trại giam, nhà tù là đất nước đó hạnh phúc nhất của toàn dân. Đất nước Phật Di Đà nghe nói hai chữ “Cực Lạc” có nghĩa là rất vui thế mà còn có kẻ bị nhốt trong hoa sen thì có vui gì, đó là hình thức một cái nhà tù ở cõi ấy. Bên cõi Tây phương Cực Lạc còn có nhà tù thì có gì là Cực Lạc nữa đâu? Phải không quý vị? Cuối cùng cảnh giới Cực Lạc đều do sự tưởng tượng của con người tạo ra nên giống như sự ước muốn chạy theo dục lạc thế gian.
Phỏng chừng đức Phật Di Đà có tâm đại từ đại bi cứu độ tất cả chúng sanh mà rước những linh hồn người ác đức về cõi nước mình thì đức Phật Di Đà trở thành một tòa án thượng thẩm, hàng ngày chỉ chuyên lo xử án thì có đâu mà lo niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Còn nếu rước về Cực Lạc nhốt trong hoa sen dù hàng triệu vạn năm mà không có pháp tu xả tâm, chỉ có niệm Phật thì cũng chẳng hết tham, sân, si, nếu thả ra thì tánh nào tật nấy vẫn còn thì đất nước Cực Lạc lại trở thành địa ngục chứ không còn được gọi là Cực Lạc nữa, nó chẳng khác nào như ở cõi thế gian của chúng ta vậy.
Vì những tay đại gian ác ở thế gian có địa vị, có tiền của nhiều, lúc sắp chết rước nhiều thầy tỳ-kheo và phật tử đến hộ niệm thì chắc chắn phải được rước về Tây phương. Và như vậy cõi Tây phương Cực Lạc là nơi dung chứa bọn nhà giàu ác đức, bọn tham quan vô loại và bọn đầu trộm đuôi cướp...
Từ cõi tưởng tri “Cực Lạc Tây phương” của con người, để sau khi chết có một đời sống đầy đủ hơn ở thế gian, nhưng lại xài tiền giả và mặc quần áo giấy, hưởng đồ ăn thực phẩm ở thế gian thì quý vị nghĩ như thế nào? Có phải là thế giới tưởng không?
Toàn bộ những loại tưởng mê tín này đều do kinh sách phát triển sản xuất ra để lừa đảo lường gạt người một cách đại gian ác, tín đồ Phật giáo hãy sáng suốt cảnh giác đừng để bị lưa đảo. Đây không phải là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy, vì kinh sách Nguyên Thủy đã chứng minh rõ ràng không có đời sống sau khi chết. Khi chết thì toàn thân ngũ uẩn đều tan rã, mất hết. Mười hai duyên không còn duyên nào cả, chỉ còn lại hành động thiện ác được gọi là nghiệp lực. Nghiệp lực ấy tiếp tục tái sanh luân hồi.
Với trí hữu hạn của chúng ta hiện giờ chỉ có thể biết được đó là một cuộc sống hiện tại trên hành tinh này, còn có sự sống ngoài hành tinh này thì chúng ta chưa khám phá ra được, nếu có khám phá ra được thì nó cũng chẳng phải là Cực Lạc hay Thiên Đàng. Còn trong kinh sách Phật dạy: Cực Lạc, Thiên Đàng, Địa Ngục, Niết Bàn cũng ở nơi đây, tại thế gian này không cần phải đi tìm nơi đâu cả. Chúng ta hãy nghe lời Phật dạy: “Đứng lại thì chìm xuống, bước tới thì trôi dạt, chỉ có vượt qua.”
Cho nên Đức Phật nhấn mạnh: “Không đứng lại, không bước tới, chỉ có vượt qua.” Chừng nào chúng ta tu hành có được trí tuệ vô hạn thì thế giới nào chúng ta cũng thấy biết cả, thì đó là thế giới chân thật không bị tưởng thức lừa gạt. Bây giờ chúng ta nghe theo kinh sách phát triển và tà giáo ngoại đạo thì đó là chúng ta đã bị lường gạt vào một thế giới tưởng tri như Phật đã dạy trong bài kinh Pháp Môn Căn Bản.
75. KINH KỲ CẦU VÀ ĐIỆP PHÁI
Hỏi: Kính thưa Thầy, người tín đồ Phật giáo nào hay đi chùa được cho một quyển kinh Kỳ Cầu nhỏ bằng bao thuốc lá để khi chết bỏ vào túi áo mang theo. Khi gặp quỷ sứ tra xét đưa cuốn kinh này ra, quỷ sứ biết đó là đệ tử của Phật không tra xét và không buộc tội. Người nào đến chùa được làm lễ quy y Tam Bảo thì được phát cho hai tờ điệp. Khi chết một tờ đem thiêu đốt cháy thành tro than đem bỏ xuống giếng hoặc mang ra sông bỏ, một tờ xếp nhỏ để vào lòng bàn tay người chết mang đi. Làm như vậy có đúng không thưa Thầy? Mong Thầy chỉ dạy cho chúng con được rõ.
Đáp: Điệp phái quy y Tam Bảo là do Phật giáo bị phân chia ra làm nhiều bộ phái, các Tổ muốn biết số người theo Phật giáo bao nhiêu nên lập ra điệp phái. Khi truyền giáo từ Trung Quốc rồi sang Việt Nam, các Tổ của kinh sách phát triển biến tờ điệp phái thành loại giấy thông hành cho người chết. Khi xuống địa ngục, nhờ những tờ điệp phái này mà vua Diêm Vương cùng quỷ sứ giảm nhẹ tội trạng và sớm được đầu thai. Nếu ai không có giấy này thì không được giảm tội và có thể ở tù chung thân không được đi đầu thai. Đây cũng là một sự lừa đảo, lường gạt của các nhà sư phát triển, lôi cuốn người khác theo tôn giáo mình.
Cũng như trong thời Pháp thuộc ở Việt Nam, người dân bản xứ nào được giấy tờ giặc Pháp cấp nhập quốc tịch Pháp thì hưởng mọi quyền lợi và không bị bắt bớ tù tội. Cũng giống như vậy, người nào được làm lễ Quy Y Tam Bảo là được “nhập quốc tịch Thích Ca” và như vậy quỷ sứ, vua Diêm Vương không hành phạt.
Thật là một điều bất công phi đạo lý. Sống trên dương gian chuyên làm điều ác, chỉ cần có giấy điệp phái của các kinh sách phát triển thay Phật cấp cho là khỏi bị tù tội! Còn những người khác không quy y Tam Bảo thì sao? Họ bị hành hạ và bỏ tù chung thân suốt đời không cho đi đầu thai thì thật là bất công, không còn công lý chút nào cả như trên chúng tôi đã nói. Các kinh sách phát triển đã biến Phật giáo thành một tôn giáo mê tín, chuyên lừa đảo, lường gạt người khác bằng những điều mê tín, lạc hậu, phi đạo đức. Trong khi Đức Phật xác định kẻ nào giết hại chúng sanh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ, uống rượu sẽ bị đọa địa ngục. Thế mà các kinh sách phát triển dạy ngược lại lời dạy của Đức Phật, làm một điều gian xảo, lừa dối, chỉ cần có giấy chứng điệp là thoát tội địa ngục!
Các kinh sách phát triển lại còn dạy rằng: Khi trẻ con mới sanh đem vào chùa quy y Phật sẽ không bị tà ma quỷ quái bắt làm cho đau bệnh, hoặc trẻ mới sanh đem đến chùa quy y Phật sẽ được mạnh giỏi và không bị đau ốm, nhờ chư Phật phù hộ cho mạnh giỏi. Trên đây là những điều mê tín mà quý thầy trong các chùa thường dạy tín đồ như vậy để thu hút tín đồ đến chùa cúng bái, để các thầy ngồi không mà thọ hưởng. Chẳng tu hành gì cả, chỉ cần dạy bảo những điều mê tín đó là ngồi mát ăn bát vàng.
Gần đây, khoảng mười năm nay có xuất hiện một loại kinh nhỏ bằng gói thuốc hút có tên là kinh Kỳ Cầu do một vị thầy Bà La Môn tưởng ra biên soạn. Trong kinh Kỳ Cầu đã dạy: “nếu có quỷ sứ hay vua Diêm Vương tra hỏi thì đưa kinh Kỳ Cầu ra liền không bị tra hỏi và được đi tái sanh không sa địa ngục.”
Kinh viết:
“Mạng chung số thác, quỷ sứ hỏi câu
Đã có Kỳ Cầu, Diêm Vương tra hỏi
Đứng lại mà nói, đã có Kỳ Cầu.”
(trang 2, 3).
Đó là một loại kinh mê tín phi đạo đức, một lối lừa đảo của những tà sư ngoại đạo. Nếu làm tội lỗi tức là làm ác thì chỉ có làm việc thiện mới chuyển hóa được thoát cảnh khổ hay là cảnh địa ngục, chứ không phải có kinh Kỳ Cầu là tiêu tai thoát nạn. Thật là những tà giáo Đại Thừa bày ra nhiều điều phi đạo đức!
Kinh Kỳ Cầu là một loại kinh tà giáo ngoại đạo mượn danh Phật pháp để lừa đảo tín đồ Phật giáo làm việc mê hoặc, đánh lạc hướng chân chánh của Phật giáo. Kinh Kỳ Cầu giống như giấy thông hành của giặc Pháp cấp cho những người dân bản xứ trong vùng chúng đã kiểm soát trong thời chiến tranh.
Trong kinh này còn dạy: “Nếu ai có kinh này thì chư Phật mới biết mà cứu độ.” “Chẳng có Kỳ Cầu, Phật mới biết đâu, lâm chung cứu độ.”
Đúng là một loại kinh tà giáo, chỉ cần cuốn kinh chứ không phải cần tấm lòng giải thoát. Trong khi ấy Đức Phật dạy: “Phải ly dục, ly ác pháp thì tâm thanh tịnh, tâm thanh tịnh, tức là Tịnh Độ hay là Cực Lạc.”
“Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, tự tịnh kỳ ý.” (Kinh Pháp Cú).
Tự tịnh kỳ ý tức là tâm ly dục ly ác pháp, tức là Tịnh Độ, hay Cực Lạc hiện tiền. Làm ác thì phải chịu tội thọ khổ, thọ tai ương chứ không có ai cứu mình được. Phải dứt trừ làm các điều ác, thường làm các điều thiện thì vạn tội tiêu trừ chứ đâu phải tụng kinh mà được vạn tội tiêu trừ. Kinh này còn nói láo: “Tụng kinh Kỳ Cầu, vạn tội tiêu trừ.”
Kinh này còn dạy: “Cần mang theo trong người đi đường đều có thần nhân ủng hộ, lúc sống cũng như khi chết (bỏ kinh vào ngực áo người chết).” “Kinh bỏ túi áo. Để mà hộ thân. Đi xa về gần. Thiên thần ủng hộ.” (trang 15). “Đến ngày lâm chung. Con cháu có lòng, Bỏ vào trong ngực, Thiên trừ tống thực, Phật độ về Tây.”
Đấy là những lời nói lừa đảo, dối gạt người, khiến cho những người không hiểu mới tin tưởng. Tóm lại, từ điệp phái biến thành bùa hộ mạng trị bệnh trẻ con đến kinh Kỳ Cầu thành “giấy thông hành” đi đường là một sự lừa đảo của giáo pháp phát triển mà các chùa đang hướng dẫn phật tử đi vào con đường mê tín lạc hậu. Đây là đường lối giáo dục tín đồ mê tín lạc hậu để dễ bề móc tiền một cách công khai mà pháp luật nhà nước không bắt tội cướp giựt tài sản công dân.
Làm điều ác, tâm còn đầy đủ tham, sân, si nếu được về Tây Phương thì Tây Phương không còn là Cực Lạc mà là địa ngục vì những người này sẽ về đó trộm cắp lung tung.
Kinh này viết ra chỉ gạt người vô minh, người còn lạc hậu mê tín chứ làm sao gạt những người tu sĩ chân chánh đệ tử của Phật được. Tại sao vậy?
Vì toàn bộ đệ tử của Phật được dạy về đạo đức nhân quả nên không có một giáo pháp mê tín nào lường gạt được. Chỉ có những người chưa học đạo đức nhân quả thì dễ bị kẻ khác lừa đảo. Là một tín đồ Phật giáo, chúng tôi rất đau lòng khi gặp những cuốn kinh này mạo danh Phật giáo dạy dân gian làm những điều dối trá phi đạo đức.
Cuối cùng, các con hãy cảnh giác, tờ điệp phái là một giấy chứng thật các con đã quy y theo Phật chứ không phải là bùa hộ mệnh và cũng không phải là giấy thông hành. Đó là cách thức lừa đảo của kinh sách phát triển.
Các con nên nhớ: tự quy y Phật, tự quy y Pháp, tự quy y Tăng tức là không cần phải giấy tờ chứng điệp gì hết. Nếu lòng của các con hướng về Phật, Pháp, Tăng để tìm đường thoát khổ cho cuộc đời của mình thì khi thực hành với tất cả tâm thành, các con sẽ thấy sự giải thoát thật sự. Đó là các con đã quy y Phật, Pháp, Tăng rồi.
Đời sau người ta muốn kiểm tra xem số tín đồ Phật giáo đã quy y được bao nhiêu người nên mới bày ra điệp phái để biết số lượng tín đồ.
76. CÚNG DƯỜNG BỐ THÍ ĐÚNG CHÁNH PHÁP
Hỏi: Kính thưa Thầy, nhân dân trong nước ở các vùng bị thiên tai, dịch họa, Đảng và Nhà nước kêu gọi nhân dân ủng hộ, cứu trợ thì rất là khó khăn ít người hưởng ứng, còn nói đến cúng dường trai Tăng thì họ giành nhau để cúng. Thưa Thầy như vậy có đúng không?
Đáp: Hầu hết tín đồ phật tử bị tà sư ngoại đạo lừa đảo, lường gạt bằng cách kêu gọi tín đồ nên cúng dường trai Tăng sẽ được nhiều phước báo để cha mẹ được siêu sanh Tịnh Độ. Trên đời mọi người ai cũng mong được phước báo, hạnh phúc an vui nên khi nghe quý thầy dạy:
“Cúng dường trai Tăng sẽ được phước báo lớn, cha mẹ chết được vãng sanh Cực Lạc thì ai mà không cúng dường, không trai tăng.”
Nhưng phật tử đã lầm lạc vì đụng ông thầy nào cũng đầu tròn áo vuông, đắp áo cà sa, tay lần chuỗi là cúng dường trai Tăng tứ sự. Thật sự phật tử đã cúng dường cho những ma vương vì những người này không phải là kẻ tu hành mà là những người kinh doanh tôn giáo buôn thần, bán Thánh.
Khi vua Ba Tư Nặc hỏi: “Kính bạch Thế Tôn, chúng con là hàng cư sĩ cúng dường bố thí như thế nào đúng chánh pháp để được phước báo lớn?”
Đức Phật đáp: “Cúng dường bố thí cho cá nhân hay tập thể phải thanh tịnh thì mới có lợi ích phước báo lớn.”
Cá nhân thanh tịnh tức là cá nhân phải có đạo đức, là một tu sĩ Phật giáo thì giới luật phải được nghiêm chỉnh, không vi phạm, không bẻ vụn giới luật. Tập thể thanh tịnh tức là phải sống hòa hợp, phải giới luật nghiêm chỉnh. Cúng dường trai Tăng như thế mới có phước báo lớn, còn cá nhân (tu sĩ) và tập thể (Tăng đoàn) không thanh tịnh, không đoàn kết, không đạo đức, sống phá giới và phạm giới thì cúng dường trai Tăng không được phước báo mà còn tạo thêm tội là vì tiếp tay cho ma vương phá hoại Phật giáo.
Cho nên quý phật tử cảnh giác, đừng nghe nói cúng dường trai Tăng là có phước báo, là được vãng sanh mà không lưu ý đến đạo đức của các vị thầy đó. Cúng dường trai Tăng không đúng đối tượng đã không được phước mà còn mang thêm tội lỗi. Chi bằng làm việc nghĩa, từ thiện giúp người bất hạnh khi gặp thủy tai, hỏa hoạn còn được phước báo hơn nhiều và còn thực hiện được tình người, tình yêu nhân loại, tình yêu Tổ quốc quê hương.
Làm những việc nghĩa, công tác từ thiện còn được phước báo gấp trăm ngàn lần đem cúng dường trai Tăng cho các thầy tà giáo ngoại đạo tu hành bằng hình thức, buôn Phật bán pháp, tạo danh, tạo lợi để sống một đơi “Đế vương”. Trong khi quý phật tử làm ra đồng bạc rất khó để nuôi những người ngồi trong mát ăn bát vàng.
Quý phật tử nên đề cao cảnh giác! Cúng dường là nên cúng dường cho những bậc chân tu giới đức, còn không thì quý vị dành ra một ít tiền và thực phẩm giúp những người bất hạnh trong xã hội thì còn được phước báo lớn. Đó là hành động thiện của nhân quả, nó sẽ chuyển quả khổ bất hạnh của quý vị và từ đó cuộc sống của quý vị sẽ được an vui hạnh phúc, làm ăn càng ngày càng hưng thịnh, cơm ăn, áo mặc không thiếu, không có gặp thủy tai hỏa hoạn hoặc tai nạn hiểm nghèo.
Ở đời người ta rất khôn khéo, mượn chiếc áo tu sĩ để được học hành tới nơi tới chốn, tạo danh tạo lợi dễ dàng hơn ở người đời nhiều. Khi đỗ bằng tiến sĩ, được tấn phong Thượng Tọa, Hòa Thượng trong hàng giáo phẩm thì quý phật tử tưởng họ là bậc chân tu ư! Họ chỉ cần viết, soạn năm, mười cuốn kinh sách bằng tưởng giải là nổi danh lớn và có thể lường gạt phật tử dễ dàng bằng mọi cách.
Cho nên cúng dường trai Tăng cho các vị ấy thì quý phật tử tranh nhau mà cúng, còn đi làm việc từ thiện do Nhà nước kêu gọi hết sức thì quý vị làm ngơ không đếm xỉa đến cảnh màn trời chiếu đất của bao nhiêu người bất hạnh.
Những việc làm này quý vị có thấy sai không, quý vị đừng lầm tưởng Hòa Thượng, Thượng Tọa là Phật. Phật dạy cúng dường cho người thanh tịnh chứ không phải cúng dường cho người có chức tước.
Một chú Sa Di mới 8 tuổi mà đã là bậc Trưởng Lão vì đã tu tập thanh tịnh. Còn một vị tỳ-kheo 80 tuổi mà giới luật không thanh tịnh, dù thông suốt Tam tạng kinh điển vẫn không được gọi là Trưởng Lão.
Còn thời chúng ta, tu sĩ giới luật tu hành chẳng ra gì, chỉ có cấp bằng tiến sĩ Phật học, là Thượng Tọa, Hòa Thượng, chùa to tháp lớn, phật tử cúng dường tiền bạc cả khối, giầu hơn triệu phú, tỉ phú. Phật tử thì ganh nhau cúng dường. Thật là thời đại khoa học nhưng đạo đức đang xuống dốc.
77. LÊN ĐỒNG NHẬP CỐT
Hỏi: Kính thưa Thầy, có một vị tỳ-kheo đã thọ giới cụ túc, vị này là đại diện Phật giáo, là bậc thầy của tín đồ. Thế mà ra làm lễ trình đồng (tức là lên đồng nhập cốt) và bà vợ của ông ta là quan thầy sai đồng. Thưa Thầy như vậy có đúng không?
Đáp: Một vị tỳ-kheo đã thọ cụ túc giới mà còn làm rất nhiều điều sai trái, thọ giới tỳ-kheo và đại diện cho Giáo hội Phật giáo mà có bà vợ tại gia là một điều sai rất lớn. Đạo Phật dạy: “Cắt ái ly gia” thế mà đi tu thọ cụ túc giới mà còn có vợ con là điều không thể chấp nhận được.
Ở miền Nam, tại tỉnh Thầy ở có nhiều vị làm đến chức vụ Chánh trị sự Tỉnh hội Phật giáo, Trưởng Ban Đại diện Phật giáo của huyện và trong hàng giáo phẩm tấn phong Thượng Tọa, Hòa Thượng mà có vợ con hẳn hòi, sống trong chùa như một gia đình thế tục. Tín đồ ở đó gọi: bà Thượng Tọa, bà Hòa Thượng v.v... Thật là đau lòng cho Phật giáo hiện tại. Những ma vương đội lốt tu sĩ Phật giáo làm điều sai trái, diệt sạch Phật giáo làm cho Phật giáo không còn uy tín, không còn lòng tin với ai hết.
Còn tu sĩ hiện giờ lên đồng nhập cốt là thường, họ làm tất cả mọi nghề, nhất là nghề trị bệnh (gọi là Tuệ Tĩnh Đường). Họ trị bệnh bằng Nhân điện, Khí công, Hương công, Dưỡng sinh, gạo lứt muối mè, tiết thực, tuyệt thực, uống nước tiểu, châm cứu, bùa chú, thuốc thang, bói quẻ, xem ngày giờ tốt xấu, xem thiên văn, địa lý. Tất cả những nghề nghiệp này đều không đúng tính cách của người tu sĩ Phật giáo.
Trong kinh Phật dạy không được hành các nghề ngoại trừ nghề đi khất thực mà thôi. Vậy mà tu sĩ bây giờ làm mọi nghề, nhất là những nghề mê tín lại càng không chấp nhận được.
Đây, các con hãy đọc một đoạn kinh Phạm Võng để rõ thấu một vị tỳ-kheo đệ tử Phật phải sống và làm như thế nào cho đúng, còn những vị tỳ-kheo làm không đúng tức là những ma vương, quỷ quái đội lốt đệ tử Phật để diệt Phật giáo và lường gạt tín đồ. Các con hãy đọc bài kinh này để thấu rõ mà cảnh giác bọn tà sư ngoại đạo đang đầy rẫy trong Phật giáo:
1- “Sa Môn Gotama, (tức là Đức Phật) dùng mỗi ngày một bữa, không ăn ban đêm, từ bỏ không ăn ban đêm, từ bỏ không ăn phi thời (ăn uống lặt vặt).”
2- “Sa Môn Gotama từ bỏ không đi xem múa hát nhạc, diễn kịch.”
3- “Sa Môn Gotama từ bỏ không trang sức bằng vòng hoa hương liệu, dầu thoa và các thời trang.”
4- “Sa Môn Gotama từ bỏ không dùng giường cao rộng lớn (tủ bàn ghế sang đẹp).”
5- “Sa Môn Gotama từ bỏ không nhận vàng bạc của báu (tiền bạc vàng, ngọc ngà những vật quý báu và vô giá).”
6- “Sa Môn Gotama từ bỏ không nhận hạt giống (không trồng trọt vườn tược ruộng rẫy).”
7- “Sa Môn Gotama từ bỏ không nhận thịt sống hoặc thịt chín (thực phẩm động vật).”
8- “Sa Môn Gotama từ bỏ không nhận đàn bà con gái (không nhận giới phụ nữ trong khu vực tu hành).”
9- “Sa Môn Gotama từ bỏ không nhận nô tì gái và trai (không nhận người công quả nam hoặc nữ).”
10- “Sa Môn Gotama từ bỏ không nhận cừu và dê (chăn nuôi dê cừu lấy sữa và da).”
11- “Sa Môn Gotama từ bỏ không nhận gia cầm và heo (không nuôi gia súc).”
12- “Sa Môn Gotama từ bỏ không nhận voi, bò, ngựa và ngựa cái (phương tiện giao thông đi lại ngày xưa).”
13- “Sa Môn Gotama từ bỏ không nhận ruộng vườn, đất đai (bất động sản).”
14- “Sa Môn Gotama từ bỏ không nhận phái người làm môi giới hoặc tự mình làm môi giới (giao dịch móc nối).”
15- “Sa Môn Gotama từ bỏ không nhận buôn bán (nghề thương mại).”
16- “Sa Môn Gotama từ bỏ các sự gian lận bằng cân, tiền bạc, đo lường.”
17- “Sa Môn Gotama từ bỏ hối lộ, gian lận, gian trá, lừa đảo.”
18- “Sa Môn Gotama từ bỏ không làm thương tổn, sát hại, câu thúc, bức đoạt, trộm cắp, cướp phá.”
19- ‘‘Sa Môn Gotama từ bỏ không cất chứa các vật món ăn, đồ uống, vải, xe cộ, đồ nằm, hương liệu, mỹ vị.”
20- “Sa Môn Gotama từ bỏ các loại du hý thế gian như múa hát, nhạc kịch, ngâm vịnh, nhịp tay, tụng chú. Đánh trống, diễn các tuồng thần tiên, múa võ, đấu voi, đua ngựa, đấu trâu, đấu bò đực, đấu dê, đấu cừu, đá gà, đá chim cút, đấu gậy, đấu quyền, đô vật, đánh giặc giã, dàn trận, thao dượt, diễu binh.”
21- ‘‘Sa Môn Gotama từ bỏ đánh bài, các loại giải trí như cờ tám hình vuông, cờ mười hình vuông, cờ trên không, trò chơi trên đất chỉ bước vào những ô có quyền bước, trò chơi găng thẻ rồi chụp nhưng không sụp đống thẻ, chơi súc sắc, chơi khăn, lấy tay làm viết, chơi banh, chơi thổi kèn bằng lá cây, chơi xem con, chơi đoán chữ viết trên không trên lưng, chơi đoán tư tưởng, chơi bắt chước điệu bộ làm hề.”
22- “Sa Môn Gotama từ bỏ không nói những câu chuyện vô ích tầm thường.”
23- “Sa Môn Gotama từ bỏ những cuộc biện luận tranh chấp.”
24- “Sa Môn Gotama từ bỏ không lừa đảo và siểm nịnh.”
25- “Sa Môn Gotama từ bỏ tránh xem những tà hạnh như xem tướng tay chân, chiêm tướng, hiện tướng, mộng tướng, thân tướng, dấu chuột cắn, tế lửa, dùng miệng phun hột cải vào lửa, tế vỏ lúa, tấm gạo, thục tô, dầm, tế máu, khoa xem tướng chi tiết, khoa xem địa lý, khoa xem mộng, khoa cầu tài ban phước, khoa cầu ma quỷ, khoa dùng bùa chú, khoa bắt rắn, bò cạp, thuốc độc, khoa đoán số mạng, khoa ngừa tên bắn, khoa biết tiếng thú cầm nói chuyện.”
26- “Sa Môn Gotama từ bỏ tránh xa các tà nghiệp nuôi sống tà mạng bằng những nghề xem ngày tốt xấu để rước dâu quy rể, lựa ngày giờ tốt xấu để hòa giải, để chia rẽ, đòi nợ, mượn tiền, tiêu tiền, dùng bùa chú để giúp người may mắn, dùng bùa chú khiến người bị rủi ro, dùng bùa chú phá thai, làm cúng liễm khiến quai hàm không cử động, dùng bùa chú khiến người bỏ tay xuống, lỗ tai điếc, hỏi gương, hỏi đồng cốt, hỏi thiên thần, địa thần...”
27- “Sa Môn Gotama từ bỏ tránh xa những nghề nghiệp trị bệnh tai, mắt, mũi, miệng, trị cho xổ, làm thầy thuốc mổ xẻ, chữa bệnh con nít, cho uống thuốc bằng các loại rễ cây.”
Với bài kinh Phạm Võng trên thì Đức Phật không chấp nhận làm những nghề nghiệp không chân chánh, không đúng chánh hạnh của đạo Phật huống là một vị tu sĩ thọ cụ túc giới mà còn lên đồng nhập cốt thì còn nghĩa lý gì là đệ tử của Phật nữa. Quý phật tử hãy đề cao cảnh giác! Đó là những đệ tử tà đạo Bà La Môn mượn danh đệ tử Phật để làm những điều sai phạm giới luật đức hạnh của những người tu sĩ đạo Phật.
78. TỤNG KINH GIỎI, THÔNG GIÁO LÝ
Hỏi: Kính thưa Thầy, có một vị thầy nói: “Tôi tuy chưa ăn chay trường nhưng tôi tụng kinh giỏi và thông thạo giáo lý, tâm tôi lúc nào cũng nghĩ đến Phật là tôi mãn nguyện.” Kính thưa Thầy, tụng kinh nhiều, thông giáo lý Đại Thừa mà sống và ăn uống, ngủ nghỉ phi thời, không giống như Phật, có thông giáo lý và tụng kinh nhiều thì cũng như chửi Phật, mắng Phật chứ đâu có nghĩa lý gì phải không thưa Thầy?
Đáp: Đúng vậy, thời mạt pháp bọn tà sư ngoại đạo chỉ biết tụng đọc và thông suốt Tam tạng kinh điển mà chẳng thực hành tu tập, chỉ khéo lý luận bằng mồm mép, thậm chí ăn uống, ngủ nghỉ còn không thanh tịnh “Tôi tuy chưa ăn chay trường nhưng tụng kinh giỏi, thông thạo kinh sách.” Tụng kinh giỏi, thông thạo kinh sách để làm gì, khi sống chẳng có từ tâm, ăn thịt chúng sanh mà chẳng biết thương yêu, chẳng biết sự đau khổ của chúng sanh?
Tụng kinh giỏi, thông thạo Tam tạng kinh điển để làm gì mà sống phạm giới phi đạo đức như vậy thì có nghĩa lý gì là một tu sĩ đệ tử Phật.
Tụng kinh giỏi, đó là thầy tụng hay là thợ tụng, chứ không phải là người tu theo đạo Phật, là đệ tử Phật chỉ biết ngăn ác diệt ác pháp, sống đời sống phạm hạnh; tìm sự bất động nơi tâm của mình; ngày đi xin ăn một bữa, không ăn uống phi thời như kẻ phàm phu tục tử. Trên đây là kẻ hành nghề tụng kinh để kiếm ăn sinh sống.
Quý phật tử hãy lắng nghe Đức Phật dạy:
“Này Bà La Môn, trong bốn đức tánh này có thể bỏ qua một đức tánh nào, chỉ có ba đức tánh thôi mà vẫn có thể gọi là Bà La Môn và có thể khi nói: “Tôi là Bà La Môn”, lời nói ấy là lời nói chân chánh không phải là lời nói dối.”
- Tôn giả Gotama, có thể được, trong bốn đức này, chúng tôi có thể bỏ phúng tụng, trì chú, thông hiểu ba tập Vệ đà... Thật vậy, phúng tụng, trì chú, thông hiểu ba tập Vệ đà làm được gì? Khi một Bà La Môn có đức hạnh, đức độ cao dày, đầy đủ giới hạnh cao dày, vị ấy là người học rộng sáng suốt, là người đệ nhất hay đệ nhị trong những người cầm muỗng. Những đức tính này, những vị Bà La Môn phải đầy đủ mới được gọi là Bà La Môn và để có thể khi nói: “Tôi là Bà La Môn”, lời nói ấy là chân chánh, không phải là lời nói dối.”
Đọc đoạn kinh trên đây quý vị nghĩ sao? Có cần tụng kinh giỏi, thông thạo kinh sách chăng?
Đức Phật đã không chấp nhận tụng kinh giỏi, thông thạo kinh sách phát triển của ngoại đạo. Đức Phật chỉ cần những đệ tử của Người phải giới luật đức hạnh nghiêm chỉnh, nên Người dạy:
“Trí tuệ được giới hạnh làm cho thanh tịnh, giới hạnh được trí tuệ làm cho thanh tịnh. Chỗ nào có giới hạnh, chỗ ấy có trí tuệ; chỗ nào có trí tuệ, chỗ ấy có giới hạnh; người có giới hạnh nhất định có trí tuệ; người có trí tuệ nhất có giới hạnh. Giới hạnh và trí tuệ được xem là tối thắng ở trên đời.”
Thông thạo giáo lý, đó là thầy thuyết giảng, thầy nói pháp, (pháp sư, giảng sư) chứ không phải là người tu sĩ đệ tử của Đức Phật. Họ là những người buôn Phật bán pháp để tìm miếng sống, cho nên không giới luật nào mà họ không vi phạm. Bởi vậy người phật tử phải đề cao cảnh giác, họ là trùng trong lông sư tử, họ là những người giết Phật giáo cũng như trùng trong lông sư tử sẽ giết sư tử chết. Phật giáo ngày nay mất là vì những tà sư ngoại đạo này.
79. NGỒI MÁT ĂN BÁT VÀNG
Hỏi: Kính thưa Thầy, những tu sĩ không giữ gìn giới luật và trai giới, cứ thọ lạm của đàn na thí chủ không chịu tu hành. Có phải là hành động cưỡi ngựa xem hoa không thưa thầy?
Đáp: Thời nay tu sĩ giữ gìn giới luật nghiêm túc và trai giới thanh tịnh thì quá hiếm, còn những người tu sĩ lạm dụng của tiền đàn na thí chủ, ăn không ngồi rồi thì chẳng thiếu gì. Chỉ biết lo cho thân mình sung sướng, ngồi mát ăn bát vàng thì những tu sĩ này tính không hết.
Đời sống khó khăn, làm nên cuộc sống rất vất vả cho nên có một số người lợi dụng Phật giáo chui rúc vào để tìm lối sống, vì vừa có danh, vừa có lợi. Những hạng tu sĩ này đâu phải đi tìm đường giải thoát mà đi tìm cơm ăn áo mặc và danh lợi. Lợi dụng giới luật Phật giáo không nghiêm chỉnh nên dễ dàng chui vào. Nếu giới luật Phật giáo nghiêm chỉnh thì những người này không thể chui vào được vì không thể kiếm ăn làm giàu và danh lợi được.
Người tu sĩ chân chánh của Phật giáo buông xả sạch, đời sống thiểu dục tri túc tối đa thì làm sao có chùa to, tháp lớn, y áo nhiều. Ăn ngày một bữa, chẳng ăn uống phi thời thì làm sao bọn đầu cơ tôn giáo núp áo cà sa được. Sống không gia đình, không nhà cửa, nay đây mai đó (du Tăng) đâu phải như bọn buôn Phật bán pháp (trụ thế Tăng) xây dựng chùa to, tháp lớn như cung vàng, điện ngọc làm hao tốn của đàn na thí chủ biết bao nhiêu mà kể.
Đạo Phật ra đời vốn để giúp người tu hành giải thoát khỏi kiếp sống làm thân chúng sanh rất là khổ đau, chứ đâu phải để bọn người vô lương tâm lấy đó làm cuộc sống. Vì thế, đạo Phật hiện giờ mất hết ý nghĩa giải thoát của nó, thật là đau lòng. Quý phật tử hãy đề cao cảnh giác những người buôn Phật bán pháp này, những điều quý phật tử thấy mà thưa hỏi về các tu sĩ này để thấu rõ. Họ là những người gian xảo mà không khôn ngoan nên để lộ cho phật tử thấy.
Còn có một số quý vị khác rất gian mà còn ngoan nên phật tử khó thấy, họ làm như là bậc chân tu thực sự, họ có những thần thông hoặc kiến giải lý luận khiến cho mọi người khó mà xét được đâu chánh, đâu tà. Cho nên Phật dạy: “Này các Kàlama! Đừng tin lời ta nói mà hãy thực hiện lời ta dạy, khi nào có sự thanh thản an vui thật sự thì hãy tin.”
Lời nhắn nhủ của Phật như vậy, ta hãy đề cao cảnh giác những tà sư ngoại đạo đang đội lốt tu sĩ Phật giáo lừa đảo tín đồ, họ chẳng phải là người tu giải thoát, dạy những điều không đúng của đạo Phật. Quý phật tử cần cảnh giác và tránh xa, đừng giúp cho những ma vương phá Phật pháp mà cùng thọ tội chung với chúng.
80. BỌN ĂN MÀY ĐỘI LỐT TU SĨ PHẬT GIÁO
Hỏi: Kính thưa Thầy, sáng ngày 21 tháng 10 năm Mậu Dần, có một sư cô cùng đi đường với con, cô ấy cứ chìa bình bát vào người con, cô ta không nói năng gì, trong bình bát có tiền và chiếc củ đậu, con nói:
“Con không có tiền, nếu muốn dùng bữa con xin mời về nhà để dùng bữa trưa”. Sư cô hỏi con pháp danh, con ngắm nhìn sư cô ấy, đầu đội mũ len nâu, tóc dấu bên trong mũ. Con nói để con sửa lại cái mũ cho cô ấy, cô ấy biết đã bại lộ nên nói khoác: “Phật Tổ cho cô để tóc hai tháng nay, hiện giờ là thời mạt kiếp, cô là Phật giáng trần đi hành khất để gieo duyên với chúng sanh. Con hỏi:
“Cô gieo duyên với chúng sanh sao cô lại nhận tiền?” Sư cô trả lời: “Phật giáng trần đi cứu độ thế phải xin tiền, chỉ có con đường này mới làm phước báo cho họ, chứ ngồi một chỗ tu làm sao độ được. Vì thế Phật Tổ cho phá giới”. Con hỏi: “Phá giới như thế nào?”
Cô đáp: “Vì thấy dân chúng bị nhiều tai nạn nên tôi phải đi xin tiền (khất cái) để tạo phước cho dân chúng. Năm 2000 người mới biết ta là ai.” Cô còn nói thêm: “Cô để tóc sau này Phật Tổ cho cô làm diễn viên” cô ngâm thơ rồi chuyển sang hát giọng quan họ Bắc Ninh. Thưa Thầy loại người này là loại người như thế nào?
Đáp: Những hạng người này con gặp là những hạng người gian manh, lừa đảo, nói quàng xiên bậy bạ, những hạng người này là những ăn mày tay chân không tật nguyền. Ở đâu, xứ nào cũng có những người giả dạng tu sĩ đi xin tiền, đô la. Chỉ vì Giáo hội Phật giáo kém tổ chức, cho nên những người này mạo danh lường gạt tín đồ Phật giáo. Các nước Miến Điện, Thái Lan, Campuchia, Tích Lan, v.v... thuộc về Nam Tông Phật giáo, họ có tổ chức hẳn hòi về sự khất thực. Nếu một vị Tăng đến một trụ xứ nào mà không khai báo với phật tử dù đi khất thực suốt ngày cũng chẳng có một hạt cơm chứ đừng nói chi là tiền.
Tu sĩ Nam Tông khi đến một địa điểm mới, vị trụ trì ở vùng đó đến khai báo với phật tử cúng dường thêm cho một vị Tăng mới đến. Do khai báo, trưa hôm sau vị Tăng đó đi khất thực mới có khẩu phần ăn, còn ôm bình bát đi xin bậy bạ thì không bao giờ có ai cho.
Phật tử nước người ta như vậy, còn phật tử Việt Nam chịu ảnh hưởng phát triển nên bố thí cúng dường không trí tuệ. Hễ thấy ai ăn xin hoặc thấy sư, thầy đi khất thực thì bố thí và cúng dường mà còn gọi là bố thí và cúng dường Ba la mật có nghĩa là cho và cúng dường mà không biết mình cho và cúng dường. Cúng dường với trí tuệ Bát Nhã như vậy nên một số người lừa đảo lợi dụng chiếc y áo của Phật giáo mà làm cho Phật giáo hư hoại và suy đồi. Vậy tội ấy về ai? Có phải về Giáo hội chăng? Giáo hội cần phải thấy bổn phận và trách nhiệm của mình đối với Phật giáo và tín đồ.
Ở các xứ Phật giáo Nam Tông, bọn ăn mày mạo danh tu sĩ Phật giáo không thể lường gạt ai được hết, còn ở Việt Nam những người mà con gặp không phải là ít. Họ lường gạt phật tử bằng mọi cách. Đó là lỗi của Giáo hội thiếu tổ chức. Lỗi của phật tử là không học giới luật và đạo đức của Phật giáo.
Hiện giờ Giáo hội Phật giáo cấm tu sĩ không cho khất thực để nhờ cảnh sát truy bắt những kẻ gian manh giả tu sĩ Phật giáo đi xin ăn. Nhưng bắt tội họ là tội gì? Tội đi xin ư? Luật pháp Nhà nước không có luật bắt tội người đi xin thì cảnh sát làm sao bắt họ được, cũng không có pháp luật bắt buộc họ không được quyền mặc áo tu sĩ Phật giáo được. Đó là quyền của họ nên cuối cùng vẫn có tu sĩ đi xin đô la, tiền bạc mà Giáo hội cũng chẳng làm gì được họ.
Chỉ vì Giáo hội theo kinh sách phát triển dạy phật tử cúng dường bố thí theo kiểu Ba la mật của ngoại đạo, nên từ đó vô tình phật tử đã nuôi dưỡng tà sư ngoại đạo làm cho Phật giáo suy đồi, khiến cho tu sĩ Phật giáo trở thành bọn người ăn xin khất cái. Muốn cho Phật giáo càng ngày càng thêm tốt đẹp thì lấy giới luật khép tu sĩ vào khuôn khổ, tổ chức cư sĩ cúng dường đúng cách, không được cúng dường bừa bãi theo kiểu Ba la mật của kinh sách phát triển.
Hiện giờ chỉ có Giáo hội mới có đủ tư cách tổ chức lại Phật giáo, lấy giới luật làm hàng rào ngăn chặn bọn đầu cơ buôn Phật, bán pháp. Lấy giới luật làm tiêu chuẩn đạo đức của người tu sĩ thì bọn tìm cơm ăn áo mặc, danh và lợi chẳng dám bén mảng bước vào cửa đạo Phật.
Dạy cho người phật tử thông suốt giới luật, nếu thầy nào vi phạm làm sai giới luật, cư sĩ được quyền chỉnh đốn và tố cáo cho Giáo hội biết. Cũng như kẻ gian manh mượn áo tỳ-kheo đi khất thực tiền bạc hoặc làm điều xảo trá nguy hại đến thanh danh Phật giáo thì người phật tử có quyền chỉnh đốn chỉ vạch cho họ biết, đừng giả danh tu sĩ Phật giáo làm điều lừa đảo và sẽ gọi Công an bắt họ. Có như vậy mới chỉnh đốn lại Phật giáo tốt đẹp. Việc làm này là trách nhiệm của Giáo hội và bổn phận của mỗi người cư sĩ phật tử, phải làm ngay từ bây giờ.
Phật giáo tốt hay xấu là do người cư sĩ phải thông suốt giáo lý, giới luật và đức hạnh của đạo Phật, chứ đừng cấm không cho người phật tử đọc và hiểu biết về giới luật của một vị tỳ-kheo như kinh sách phát triền. Do có sự hiểu biết như vậy thì mới ngăn chặn được những tà sư ngoại đạo và những người đi tìm cơm ăn áo mặc núp bóng và mượn danh nghĩa Phật giáo làm danh, làm lợi riêng cho cuộc sống cá nhân của mình.
Trách nhiệm và bổn phận của người đệ tử Phật thì cần phải chỉnh đốn lại Phật giáo cho tốt đẹp, cho đúng nghĩa của Phật giáo. Đừng nghe theo kinh sách phát triển và Bồ Tát Giới cấm các phật tử không được nói sai, nói lỗi của các vị tỳ-kheo, ai nói sai, nói lỗi của các vị tỳ-kheo sẽ bị đọa địa ngục. Kinh sách này dạy như vậy là cốt để cho Phật giáo suy đồi, đó cũng là mục đích phá và diệt Phật giáo tận gốc, đồng thời để bảo vệ uy tín và duy trì những thầy tu phá giới, phạm giới tức là duy trì những tu sĩ Bà La Môn theo kinh sách phát triển.
Vậy quý phật tử hãy cảnh giác đừng sợ hãi, chỉ vạch thẳng những vị tỳ-kheo làm sai để xây dựng lại Phật giáo cho tốt. Và những kẻ gian manh đội lốt tu sĩ Phật giáo như sư cô mà con đã gặp trên xe, hãy báo cho Công an làm việc với họ. Có như vậy họ mới không làm điều xảo trá nguy hại đến thanh danh Phật giáo. Người phật tử có quyền chỉnh đốn, chỉ vạch cho họ biết đừng giả danh tu sĩ Phật giáo làm điều lừa đảo, chúng ta sẽ gọi Công an bắt họ. Có như vậy họ mới sợ và không còn lợi dụng Phật giáo nữa. Các con đừng có sợ tội nghiệp cho những người lừa đảo gian ác này mà hãy thương cho đạo Phật. Những người này ra đường gặp những người phật tử chân chánh của đạo Phật thì hãy lột mặt giả của họ xuống.
Nếu quý phật tử khi thấy một vị tỳ-kheo Tăng hay Ni làm sai không đúng tư cách giới luật của Phật giáo thì thẳng tay mà trừng trị. Có như vậy Phật giáo mới tốt đẹp. Còn nếu theo kinh sách phát triển và Bồ Tát giới thì ngàn đời Phật giáo sẽ chìm đắm và mất dần, biến phật tử thành những tín đồ mê tín, lạc hậu, ngu si. Quý phật tử hãy mạnh dạn cứ thẳng tay vạch mặt, có tội thì chúng tôi xin chịu thay cho. Quý vị làm điều tốt, điều phải cho Phật giáo thì quý vị có tội gì? Ai bắt tội?
Theo luật nhân quả quý phật tử đừng sợ gì, đừng nhân nhượng những người gian manh xảo trá lường lận này đang làm hại Phật giáo khắp nơi.
81. CÚNG KEM
Hỏi: Kính thưa Thầy, có một gia đình bệnh nhân ốm nặng nằm lâu ngày trên giường bệnh, mời các cư sĩ đến làm lễ cúng bái, các cư sĩ bầy thêm phần mua hoa quả, bánh, kẹo để cúng tế kem (kem tức là cái miệng của bệnh nhân lúc còn trẻ vì hoàn cảnh gia đình nghèo túng, không có tiền mua thức ăn đầy đủ nên thường nói dối là đã ăn rồi, ngày nay lúc sắp chết phải cúng kem là vậy).
Kính thưa Thầy, đây có phải là hình thức mê tín dị đoan không?
Đáp: Đúng vậy, đây là những trò mê tín dị đoan của một số thầy phù thủy Bà La Môn. Người ta đâu nghĩ rằng: thân tứ đại này là thân vô thường, liên tục thay đổi không lúc nào ngừng nghỉ. Do sự thay đổi mà thân nay bệnh, mai đau, chứ đâu phải do quỷ thần bắt hoặc giáng họa làm cho bệnh tật khổ đau mà cúng bái làm gì?
Thân tứ đại là thân từ nhân quả sinh ra, nên khi có thân này khó có ai tránh khỏi bệnh tật khổ đau hoặc tai nạn đâu. Vì nhân đời trước chẳng thiện thì đời nay phải chịu khổ đau. Đó là nhân quả trả vay, vay trả chứ đâu có ai quở trách gây cho ta đau khổ.
Những thầy phù thủy Bà La Môn lợi dụng sự sợ hãi và không hiểu biết được nhân quả nên bày ra cúng tế, tụng niệm, cầu khẩn, van xin. Đó là những người lừa đảo để kiếm tiền sống bằng cách vô lương tâm. Quý phật tử là đệ tử của Phật hãy cảnh giác đừng để những thầy cúng lường gạt, đừng nghe theo.
Sống chết, bệnh tật, tai nạn đều do nhân quả, mình đã gieo nhân nào thì phải gặt quả nấy chứ đừng có sợ hãi, đừng cầu cạnh, không ai phò hộ quý vị được bằng chính quý vị. Cố gắng đừng làm khổ mình, khổ người khác thì bệnh tật tai nạn sẽ lần lần chuyển sạch, chừng đó quý vị làm chủ sự sống.
Những việc làm mê tín dị đoan này đạo Phật không bao giờ dạy, chỉ có kinh sách phát triển Bà La Môn giáo mới có mà thôi. Các phật tử cần phải đề cao cảnh giác, đừng để họ lợi dụng.
82. LÀM LỄ NHẬP NHÀ MỚI
Hỏi: Kính thưa Thầy, có gia đình mới cất nhà mới, ăn khánh thành mời một số bạn đạo hữu đến tụng kinh làm lễ về nhà mới. Người chủ nhà lại mời thêm một ông thầy cúng, ông đến bảo mua một con ngựa bằng giấy thật to. Khi tụng kinh cầu nguyện xong, lấy 38 đồng tiền chinh để cắt giải rồi ông thầy ấy cưỡi ngựa giấy phi quanh nhà.
Thưa Thầy, gia chủ này không phải là không hiểu đạo pháp, thường đi đây đi đó để hoằng dương Phật pháp, thế mà làm những việc như vậy có gọi là cuồng tín không thưa Thầy. Hay tại vì lòng tham muốn giàu sang, phúc lộc hơn nữa mà làm việc không đúng chánh pháp?
Đáp: Khi cất được ngôi nhà mới, ăn tân gia mời bạn bè thân hữu đến ăn mừng thì đúng, nhưng bày ra tụng niệm thì không đúng. Tại sao vậy? Tại vì đó là mê tín dị đoan. Trong Kinh Bát Dương (thuộc kinh sách phát triển) có dạy điều mê tín này. Dùng 38 đồng tiền chinh và một con ngựa giấy cưỡi phi quanh nhà đó là kinh sách của ngoại đạo dạy những điều mê tín lạc hậu.
Vì lòng tin không đúng của con người nên bị kẻ khác lừa gạt bằng những hình thức tà kiến. Tại sao chúng ta theo đạo Phật mà không biết cái nào là chánh kiến, cái nào là tà kiến để lầm lạc biến Phật giáo thành tà kiến, biến Phật giáo thành một thứ Phật giáo mê tín dị đoan lạc hậu?
Từ đây về sau quý phật tử là đệ tử của Phật thì niềm tin chánh kiến phải sâu, không để kẻ khác lừa đảo và thẳng tay chỉ mặt những sự mê tín dị đoan chẳng đem lại ích lợi gì cho mình và cho cả gia đình mình. Phải nói đây là một trò bịp bợm, gạt người bằng những hình thức mê tín dị đoan một cách xảo thuật. Chỉ có những người không hiểu, tham danh lợi mới đi thỉnh bọn tà sư ngoại đạo làm điều chẳng ích lợi gì như trẻ con cưỡi ngựa chuối.
83. THẦY TỤNG
Hỏi: Kính thưa Thầy, các cư sĩ tại gia ngày nay học hỏi kinh sách phát triển dạy về tán tụng, cúng bái làm Bồ Tát hạnh. Các vị ấy tự xem mình tài giỏi hơn ai hết, hơn cả các thầy ở trong chùa nữa. Thưa Thầy như vậy có đúng không?
Đáp: Kinh sách phát triển chế ra Bồ Tát giới để cho hàng cư sĩ thọ giới Bồ Tát, làm việc từ thiện giúp mọi người cúng bái tế lễ. Đó là một hình thức của Bà La Môn giáo ngày xưa. Bà La Môn giáo chia làm ba giai đoạn:
1- Bà La Môn giáo thiếu niên thì phải học tập thông suốt kinh điển, cúng bái tế lễ, đây là giai đoạn học tập (giống như các thầy ứng phú của kinh sách phát triển).
2- Bà La Môn giáo trung niên chuyên cúng bái tế lễ, sống ăn mặc như người thế tục giống như cư sĩ bây giờ gọi là Phạm chí. Đây là giai đoạn làm từ thiện (Bồ Tát Hạnh).
3- Bà La Môn giáo tuổi già bỏ nhà cửa gia đình thân quyến xuất gia đi tu nhưng đầu không có cạo. Đây là giai đoạn tu hành của Bà La Môn giáo.
Người cư sĩ tụng niệm, cúng tế, làm Bồ Tát hạnh chính là Bà La Môn tụng niệm. Cho nên hình thức tổ chức của kinh sách phát triển là của Bà La Môn giáo. Người cư sĩ hành nghề cúng tế tụng niệm là một Bà La Môn. Họ không phải là một người tu mà là một người bình thường như thế tục, chỉ hơn người khác là có đọc kinh sách Vệ Đà và các nghi thức cúng tế.
Thọ giới Bồ Tát rồi tự xưng mình là Bồ Tát (giới Bồ Tát cũng tự họ đặt ra) nên bản chất ngã mạn tự kiêu của họ rất lớn.
Những người này chúng ta không nên trách vì họ là những cư sĩ Bà La Môn (khất thực). Đáng trách là trách quý vị tỳ-kheo đầu cạo trọc, mặc pháp y mà đi làm chuyện mê tín gạt người khác, chứ còn các vị cư sĩ Bà La Môn này họ hành nghề của họ thì không nên trách họ làm gì.
84. ÔNG TÁO
Hỏi: Kính thưa Thầy, sắp đến ngày 23 Tết Âm lịch, năm nào cũng vậy, mọi nhà lo mua ba bộ mũ, hia, giày và một con cá chép sống để cúng tiễn đưa ông Táo về Trời và ông Táo sẽ tâu trình với Ngọc Hoàng việc làm ác và thiện của gia chủ. Như vậy có không, xin Thầy chỉ dạy? Có người còn bảo, năm nào mà không mua mũ cho ông Táo, thì đêm đến nằm mơ thấy ông Táo về đòi. Như vậy có đúng không thưa Thầy?
Đáp: Ông Táo là một chuyện mê tín của dân gian, mục đích là để răn người làm điều ác, vì làm điều ác là ông Táo sẽ về chầu Trời tố cáo tội ác trong năm và Ngọc Hoàng sẽ cho giáng họa người làm ác phải chịu biết bao nhiêu đau khổ. Mũ hia áo mão của ông Táo giống như mũ hia áo mão của một vị quan phong kiến.
Ông Táo không có thật mà chỉ là một tưởng tri của loài người để khiến cho người ta sợ mà không làm điều ác. Từ câu chuyện dân gian răn nhắc đừng làm ác, biến dần thành một phong tục đến cuối năm nhà nào cũng đều cúng ông Táo để ông về tâu bớt những chuyện làm ác của mình, để ông Trời không có gieo tai họa.
Câu chuyện biến dần thành câu chuyện lo lót hối lộ. Từ câu chuyện răn nhắc đừng làm ác thì dần dần biến thành phi công lý đạo đức (hối lộ mũ hia giày, quần áo, cá chép cúng bái thần linh là một hình thức hối lộ).
Nằm mộng thấy ông Táo về đòi, đó là tưởng mộng chứ ông Táo đâu có thật. Người ta huyền thoại nhiều câu chuyện về Táo quân “Một bà hai ông” bây giờ đã thành một phong tục truyền thống dân tộc cứ đến ngày 23 tháng chạp nhà nhà đều cúng đưa ông Táo về trời. Phật giáo phát triển cũng chịu ảnh hưởng nhưng lấy ngày đó làm ngày lễ đưa chư thiên về chầu trời. “Dân gian thì đưa Táo quân, Phật giáo thì đưa chư Thiên về trời.”
Qua câu chuyện ông Táo đã chỉ cho chúng ta thấy được Phật giáo phát triển có trí tuệ hay không trí tuệ, điều này chắc ai cũng rõ.
Câu chuyện mê tín dân gian mà Phật giáo phát triển lại biến thành Phật giáo mê tín. Bởi vậy Phật giáo phát triển có đáng cho chúng ta đủ niềm tin chăng? Phật giáo phát triển đi đến đâu cũng viên dung và viên thông, lấy tất cả các pháp của mọi tôn giáo và sự mê tín của dân gian làm giáo pháp của mình. Hay nói cách khác cho dễ hiểu hơn Phật giáo phát triển đi đến đâu đều gieo rắc mê tín đến đó.
Cho nên giáo pháp Phật giáo phát triển là giáo pháp lượm lặt của các tôn giáo khác, chỉ cần thay danh từ là biến thành giáo pháp của mình. Khi dân gian mê tín cúng Táo quân thì Phật giáo phát triển biến danh từ Táo quân thành danh từ chư Thiên. Nếu các nhà nghiên cứu Phật giáo phát triển xét kỹ, đừng kẹt trong danh từ thì thấy rất rõ giáo pháp đó là bã mía của các tôn giáo khác.
Đó là đứng về nội dung, còn đứng về hình thức thì giáo pháp phát tiển không có gì đặc biệt chỉ giống như chiếc áo nhiều mảnh vải kết lại mà thành. Cho nên câu chuyện Táo quân là câu chuyện tưởng tượng chứ không có thật Táo quân, chỉ có người không thông hiểu mới tin rằng có thật. Cúng lễ Táo quân ngày 23 là phong tục mê tín dân gian.
85. BÀ CHÚA BA
Hỏi: Kính bạch Thầy, câu chuyện công chúa Ba (chùa Hương Tích) có thật hay là chuyện huyền thoại để răn đời mà từ xưa tới nay mỗi năm vào đầu xuân không biết bao nhiêu người đổ về chùa tham quan vãng cảnh.
Điều này theo con nghĩ: vãng cảnh đẹp thiên nhiên là đúng, nhưng ngoài ra đa số lại đi chùa cầu xin tài lộc, cầu tự... là do lòng tin của mọi người đối với Bà Chúa Ba qua đức nhẫn nhục và lòng hiếu hạnh.
Vua cha đã làm nhiều điều ác độc, nhưng nhờ cô con gái thứ ba tu thành chánh quả dùng tay mắt của mình làm thuốc chữa trị bệnh cho cha, làm như vậy có trái luật nhân quả thiện ác không thưa Thầy?
Đáp: Câu chuyện Bà Chúa Ba là câu chuyện truyền thuyết huyền thoại, chứ không phải chuyện thật, câu chuyện này cũng giống như câu chuyện Quan Âm Thị Kính vậy. Những nhân vật trong truyện là những nhân vật tiểu thuyết giả tưởng của một tác giả xưa chịu ảnh hưởng Nho giáo và Phật giáo Đại Thừa.
Câu chuyện này là câu chuyện tội lỗi phi đạo đức của Phật giáo Đại Thừa mà từ lâu chưa có ai vén bức màn đen tối này lên nên mọi người đều lầm tưởng Bà Chúa Ba tu hành đã thành Phật. Câu chuyện này là câu chuyện phi đạo đức đệ nhất trong giáo lý Đại Thừa.
Trang Vương là một nhà vua vào thời Đông Chu Liệt Quốc bên Trung Hoa, tương đương ở Việt Nam vào thời Trưng Vương, vì xét qua lịch sử khi Trưng Vương nổi dậy chống quân xâm lăng vào thời nhà Đông Hán, như vậy câu chuyện này xảy ra trong lúc nước ta còn trong giai đoạn bộ lạc.
“Vua Trang Vương có ba người con gái, hai đứa con lớn đã lập gia thất, chỉ còn đứa con gái Út thứ ba là Diệu Thiện chưa lập gia đình, vì thế nhà vua rất thương cô gái Út nên khi nghe Diệu Thiện muốn đi tu là ông tìm mọi cách ngăn cản. Trước khi Bà Chúa Ba đi tu, nhà vua rất sùng kính Phật giáo, ông rất hiền lành, sống có đạo đức, lấy chánh pháp trị dân, thương dân như con một. Sau khi nàng công chúa Ba đi tu, nhà vua trở thành độc ác, ông nghĩ rằng: Các Tăng trong chùa quyến rũ con gái ông khiến ông khổ đau vì thương nhớ con, ông căm tức ra lệnh cho quân lính vây chùa giết Tăng và đốt chùa.
Do hành động ác độc này và sự buồn rầu nhớ thương con nên ông mang bệnh và căn bệnh rất nặng không có thuốc thang nào chữa trị được đành phải chờ chết, trong lúc đó có một vị Tăng xuất hiện xin trị bệnh cho vua. Sau khi xem xét bệnh tình, vị Tăng kê toa nhưng còn thiếu hai vị thuốc là mắt và tay của con người được đem nấu chung với các vị thuốc khác thì trị bệnh mới hết, nhưng mắt tay phải là của con nhà vua thì mới hiệu nghiệm, còn của người khác thì không hiệu nghiệm.
Hai đứa con gái đầu đã có chồng con nên không dám hy sinh mắt tay để làm thuốc cho cha, vì thế nhà vua không còn hy vọng sống chút nào, chỉ còn chờ ngày chết mà thôi. Tại động Hương Tích, nàng công chúa Ba được sứ thần đến xin mắt và tay để về làm thuốc cho vua cha. Khi nghe cha bệnh nặng và xin mắt tay, nàng bèn khoét mắt chặt tay giao cho sứ thần mang về làm thuốc trị bệnh, lúc bây giờ nàng đã thành Phật nên mắt tay đều lành lặn trở lại như xưa.”
Câu chuyện trên đây là câu chuyện cấu kết nhân vật giả tưởng, mới nghe qua thì tưởng là đạo đức nhưng sự thật câu chuyện này là phi đạo đức nhân quả và rất nhiều điều tội lỗi:
1- Nàng công chúa Ba chịu ảnh hưởng Đại Thừa giáo nên bỏ cha đi tu khiến cho vua cha buồn khổ thương nhớ, đó là tội thứ nhất làm khổ cha già là người sanh thành dưỡng nuôi lớn khôn, công lao trời biển đó thế mà nỡ tâm đành bỏ cha già đi tu thật là vô đạo đức bất hiếu thứ nhất.
2- Nàng công chúa Ba đi tu theo Đại Thừa giáo theo kiểu bất hiếu khiến cho vua cha căm tức đốt chùa giết Tăng tạo tội ác tày trời, đó là hành động tội lỗi vô đạo đức thứ hai, nếu công chúa Ba không bỏ đi tu thì người cha đâu có làm nên tội lỗi tày trời như vậy.
3- Chặt tay khoét mắt mình đó là làm khổ mình tức là vô đạo đức với mình, tội vô đạo đức thứ ba.
4- Dùng thần thông lừa đảo người (mắt tay lành lặn như xưa) để mọi người tỏ lòng cung kính ngưỡng mộ đó là háo danh, là tội lỗi phi đạo đức thứ tư, không phải là người tu hành chân chánh của đạo Phật.
Tóm lại Bà Chúa Ba được thờ tại chùa Hương Tích với một lịch sử tội lỗi và phi đạo đức như vậy thì có xứng đáng gì cho chúng ta thờ phụng và tỏ lòng tôn kính, đó chỉ là một sự mê tín trong dân gian mà tác giả dựa vào tư tưởng của Đại Thừa vẽ rắn thêm chân, vì thế câu chuyện này vô đạo lý nhân quả của Phật giáo. Từ đây về sau con người sẽ lần lượt vạch trần bộ mặt thật của kinh sách phát triển để mọi người không còn bị lường gạt nữa. Đối với Phật giáo Nguyên Thủy thì không chấp nhận những câu chuyện huyền thoại phi đạo đức như trên, đi ngược lại với đạo đức của đạo Phật.
86. CÓ THỜ CÓ THIÊNG, CÓ KIÊNG CÓ LÀNH Hỏi: Kính bạch Thầy, người đời thường nói: “Có thờ có thiêng, có kiêng có lành, vì thế ở đâu cũng phải thờ cúng thần linh, thổ công (đất có Thổ Công, sông có Hà Bá). Vậy thờ cúng như thế nào cho đúng chánh pháp? Có người bị bệnh ung thư gan; có người bị bại liệt; có người bị tóc kết rồng phượng trên đầu, người đời cho đó là Thần Thánh phạt phải ra hàng đầu bốn phủ, có nghĩa là phải lên đồng, nhưng những bệnh nhân này đã làm theo, kết quả thực tế những bệnh nhân này đều chết hết, như vậy tiền mất tật mang như lời Thầy đã dạy. Sau khi những thân nhân của các bệnh nhân này đã chết mà họ còn không tỉnh ngộ, họ còn u mê, vì thế, mỗi năm cứ đến ngày giỗ, họ làm cỗ bàn linh đình giết hại bao nhiêu sinh vật, đốt rất nhiều đồ mã cho người quá cố. Như vậy có lợi gì có hại gì? Xin Thầy giảng rõ cho chúng con hiểu hiện giờ và mai sau con cháu của chúng con không còn lầm đường lạc nẻo mê tín lạc hậu như vậy nữa. Con thành tâm sám hối Phật, sám hối Thầy và cô Diệu Quang từ bi thương xót xá tội cho chúng con đã thưa hỏi quá nhiều, tuy biết rằng tuổi già sức yếu của Thầy, nhưng chúng con hiểu ngoài Thầy ra không có vị Thầy nào giảng dạy cho chúng con được thân tâm an lạc và giải thoát như Thầy. Kính thư! Thay mặt một số chị em. Đáp: “Có thờ có thiêng, có kiêng có lành”, câu tục ngữ của người xưa đã dạy như vậy, câu này nó đã trải qua biết bao đời người, người ta rút ra được cái kinh nghiệm thiêng và lành đó, nhưng người xưa đâu biết cái thiêng và cái lành đó ở đâu mà ra. Cái linh thiêng đó không phải ở chỗ thờ phụng tức là không phải ở chỗ tượng cốt, hình ảnh, bình vôi, ông táo, gốc đa, thổ công, thành hoàng, thổ địa, hà bá, thủy long, ông địa, thần tài v.v… mà ở chỗ tâm của con người. Hằng ngày chúng ta thường đến thắp hương lạy lễ dù là gốc cây, cục đá, gò mối lâu ngày tâm chúng ta truyền cảm năng tín lực tưởng vào đó biến gốc cây, cục đá, gò mối linh thiêng, ai đi ngang qua không tỏ lòng cung kính, khạc nhổ, tiêu, tiểu nơi đó sẽ bị nhức đầu, bệnh đau v.v… có khi rối loạn thần kinh giống như người điên. Vậy cái thiêng của gốc cây, gò mối, cục đá có phải tự nó thiêng đâu, nó thiêng là nhờ tín tâm của chúng ta mà đức Phật đã nói rằng: đó là năng lực tưởng của con người. Cho nên thế giới siêu hình có là do năng lực của tưởng chúng ta tạo thành, vì thế nó không thật có, chỉ là tưởng tri tạo ra mà thôi. Chúng ta chớ nên tạo ra cái thế giới siêu hình đó nó không ích lợi cho chúng ta mà còn là một tai họa, một gánh nặng cho chúng ta. Nhà thiền học Suzuki nói: “Nếu chúng ta làm sống cái thế giới siêu hình là chúng ta đem đến tai họa cho con người.” Đúng vậy, từ bao đời cái thiêng ấy đã khiến cho người ta tốn biết bao nhiêu tiền của về sự cúng bái tế lễ cho cái thế giới ảo này. Cái thế giới này chẳng giúp gì cho chúng ta được, cuối cùng tiền mất tật mang, bởi vì luật nhân quả do mình tạo ra thì mình phải chịu lấy, không có một ai chịu thay hay phù hộ cho mình được. Nếu có ai chịu thay cho mình hay phù hộ cho mình thì đó là một việc làm không công bằng, vô đạo đức. Người ta đâu ngờ rằng những tai qua nạn khỏi của con người là nhờ hành động thiện của họ đã chuyển hóa sự đau khổ nạn tai, chứ không phải do cái thiêng của gốc cây, cục đá, gò mối mà chuyển họa thành phước được. Bởi cái thiêng đó do tâm của các con tạo ra, nó là một năng lực của tưởng thức các con chứ nó không thật có, nếu các con không tin tưởng, không thắp hương, không cúng tế, không lạy lễ... thì cái thiêng đó không còn thiêng nữa. Các con cứ suy ngẫm có đúng như lời Thầy đã nói không? Nếu đúng thì các con tin, còn không đúng thì đừng tin. Có kiêng là có lành, người ta nói: “Mùng năm, mười bốn, hai mươi ba. Đi chơi cũng lỗ lựa là đi buôn.” Trong sách xem ngày giờ tốt xấu cho ba ngày ấy trong tháng là ba ngày “tam sát”, người đi đường xa hay khởi công làm ăn một việc gì hoặc thưa kiện... mà chọn trong ba ngày ấy thì trăm ngàn lần đều thất bại, từ đó đã ghi nhận vào tâm mọi người một ấn tượng xấu cho những ngày ấy, và vì thế mọi sự tai họa xảy ra trong đời người đều xảy ra đúng vào những ngày ấy, vì vậy người ta rất kiêng cữ vào những ngày xấu đó. Người Tây phương kiêng cữ ngày 13 trong mỗi tháng, ngày đó họ ít đi đâu cũng như chúng ta kiêng ngày lẻ, đi đường vào những ngày lẻ dễ xảy ra tai nạn nên thường chọn vào ngày chẵn mà đi, làm ăn cũng như đi đường xa vậy, người ta đều chọn ngày chẵn. Như chúng tôi đã nói ở trên, do lòng tin của chúng ta mà năng lực tưởng tạo ra thế giới siêu hình biến thành một thế giới tai họa cho loài người. Từ nơi tâm của chúng ta tạo ra thế giới siêu hình thì cũng từ nơi tâm của chúng ta đã tạo ra nhân quả thiện ác, do đó nhân quả thiện ác cũng theo từng tâm niệm và lòng tin đó của chúng ta mà thực hiện luật nhân quả thưởng phạt rất công minh, do thế con người lại không hiểu, nên cho đó là có chư Phật, chư Bồ Tát, Bát Bộ Thiên Long cùng chư Thần, chư Thánh hoặc Tam Bảo gia hộ, nói chung là người của thế giới siêu hình cứu khổ, cứu nạn chúng ta, nhưng chúng ta đâu có ngờ rằng thế giới siêu hình không có gia hộ cho ai cả mà chỉ có luật nhân quả đang chuyển họa thành phước, đang chuyển phước thành họa, chúng ta lầm tưởng những người thế giới siêu hình cứu giúp chúng ta. Ngày giờ, thời tiết không có tốt hay xấu, ngày nào, giờ nào cũng như ngày nào, giờ nào; ngày nấy, giờ nấy cũng như ngày nấy, giờ nấy; chỉ do lòng tin của con người đã biến thành ngày giờ tốt xấu. Vì lòng tin tức là tâm linh của con người đã tạo thành ngày giờ tốt xấu ấy, từ đó chúng ta gây ảnh hưởng cho nhau để rồi có ngày, có giờ phải kiêng cữ trong tháng trong năm, đúng là chúng ta đã tự tạo ra cho mình nhiều thứ khổ, đi đâu hoặc làm cái gì đều phải xem ngày giờ tốt xấu thật là phiền phức, sự phiền phức này do ai tạo ra cho chúng ta, đó là sự vô minh tức là sự không hiểu biết, hiểu biết không rõ do đó lòng tin tạo ra thêm những sự rắc rối phiền phức này. Do lòng tin ngày tốt ngày xấu tự nơi tâm chúng ta thì luật nhân quả cũng tự nơi tâm chúng ta mà thi hành nên luật nhân quả tùy theo tâm niệm và lòng tin của chúng ta ban phát hành luật, vì thế có kiêng là có lành. Những người hay kiêng cữ tin vào ngày giờ tốt xấu, khi nhân quả đến thường đến trong những ngày xấu giờ xấu là tại sao vậy? Luật nhân quả theo lòng tin của người đó mà trả quả như trên chúng tôi đã nói, và lúc bây giờ người trả nhân quả thì không còn nhớ đến ngày giờ tốt xấu nữa và cũng không làm chủ được ngày giờ tốt xấu đó. Ví dụ: một người trộm cắp giết người sau bao ngày trốn tránh công an nhưng hôm đó nhằm ngày 14 anh ta lại ngủ quên, Công an bao vây mà không hay nên anh bị bắt, khi anh bị bắt thì anh nghĩ: “Ngày 14 là ngày xấu.” Do lòng tin của anh ngày 14 là ngày xấu thì luật nhân quả nó rõ thấu tâm niệm anh như vậy nên quả bị bắt thì phải nhằm ngày đó, do đó chúng ta mới thấy rõ lòng tin tốt ra tốt, lòng tin xấu ra xấu, nhưng chúng ta phải hiểu hành động chúng ta xấu thì làm sao chúng ta tin nó tốt được, vì nó là lương tâm của chúng ta. Ví dụ: hôm qua chúng ta chửi mắng và đánh người khiến cho họ khổ đau, thế mà chúng ta tin mình làm tốt được hay sao? Làm tốt sao lại chửi mắng đánh người, vu khống người làm khổ người? Cũng như hôm qua chúng ta bị người khác chửi mắng và đánh nhưng chúng ta nhẫn nhục không chửi mắng, không đánh lại người, không tức giận, không phiền não, khiến cho người này không giận dữ và bớt khổ đau. Những hành động như vậy chúng ta có tin mình tốt được không? Những hành động này chúng ta biết rất rõ không làm khổ mình khổ người là những hành động tốt, biết rất rõ là những hành động tốt thì chúng ta có lòng tin không? Chắc hẳn là tin rồi phải không các con? Cho nên lòng tin của chúng ta là mọi sự quyết định cho cuộc sống vui hay buồn, khổ đau hay an lạc. Trong giáo lý của nhà Phật, lòng tin là trên hết, nhưng tin phải tin đúng chánh pháp, tin đúng chánh pháp tức là tin vào thiện pháp, có tin vào thiện pháp thì mới có cuộc sống trong thiện, có cuộc sống thiện thì mới có cuộc sống an vui, thanh thản, an lạc và vô sự. Nếu lòng tin ấy được đặt vào tà pháp, tức là tin có thế giới siêu hình, tin có ngày giờ tốt xấu, tin có bản thể vạn hữu, tin có thần thông phép tắc, tin có bùa chú linh thiêng, tin có cõi Cực Lạc Tây phương, tin có Thiên Đàng, Địa Ngục v.v… lòng tin như vậy sẽ đưa chúng ta đến muôn ngàn sự khổ đau bởi chính lòng tin ấy thúc đẩy chúng ta đi vào ác pháp, hành động ác pháp, do đó mới tiền mất tật mang, khổ đau lại còn khổ đau hơn, như vậy niềm tin đó không phải là niềm tin đúng chánh pháp. Như chúng ta đã biết, lòng tin tạo nên tâm lực con người. Vì thế, khi ở đâu có lòng tin có ma thì ở đó có ma, lòng tin có quỷ thì ở đó có quỷ, lòng tin có thần thì ở đó có thần… quỷ, ma, thần có được là do lòng tin của chúng ta. Ngoài lòng tin thì không có ma, quỷ, thần và như vậy lòng tin đã thị hiện ma, quỷ, thần chứ không phải có ma, quỷ, thần thật. Từ lòng tin sanh ra ma, quỷ, thần, ngoài lòng tin thì không có ma, quỷ, thần, như trên Thầy đã nói. Cho nên thiêng hay không thiêng đều do lòng tin của con người mà có. 87. THỜ CÚNG ĐÚNG CHÁNH PHÁP Hỏi: Kính thưa Thầy, thờ cúng như thế nào cho đúng chánh pháp? Đáp: Thờ cúng đúng chánh pháp là thờ cúng đúng đạo nghĩa làm người. Vậy thờ cúng đúng đạo nghĩa làm người là thờ cúng như thế nào? Thờ cúng đúng đạo nghĩa làm người tức là hành động cung kính tôn trọng, tỏ lòng nhớ tưởng biết ơn những người đã khuất bóng. Ví dụ 1: Thờ cúng Tổ Tiên, Ông Bà, Cha Mẹ là một hành động đạo nghĩa để tỏ lòng cung kính, tôn trọng nhớ tưởng đến ân đức, công lao khó nhọc của những người này đã gây dựng một gia đình êm ấm, một dòng họ tốt đẹp, một xã hội đoàn kết, một đất nước phồn vinh thịnh trị, đó là thờ cúng đúng chánh pháp. Còn nếu như thờ cúng Tổ Tiên, Ông Bà, Cha Mẹ là để linh hồn của những người đã khuất bóng này về hưởng của dâng cúng hay về để phù hộ cho con cháu mạnh khỏe bình an thì đó là thờ cúng không đúng chánh pháp. Đó là thờ cúng theo mê tín, lạc hậu. Ví dụ 2: Thờ cúng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là để tưởng nhớ công lao của Ngài, vì loài người Ngài đã tìm ra chân lý giúp con người thoát bốn sự đau khổ của kiếp làm người, đó là thờ cúng đúng chánh pháp. Còn ngược lại thờ cúng Ngài để Ngài phù hộ cho tai qua nạn khỏi, bệnh tật tiêu trừ thì đó là thờ cúng không đúng chánh pháp, thờ cúng như vậy là thờ cúng mê tín, lạc hậu, đó là thờ cúng theo kiểu Đại Thừa biến chùa là nơi tu hành của Tăng Ni và cư sĩ trở thành nơi hành hương mê tín. Thờ cúng đúng chánh pháp là phải thờ cúng những nhân vật có thật, là những con người được sanh ra và lớn lên trên hành tinh này làm lơi ích cho gia đình, xã hội, Tổ quốc và loài người. Thờ cúng đúng chánh pháp không được thờ cúng những nhân vật huyền thoại, những nhân vật tiểu thuyết, những nhân vật bịa đặt ra như: Phật Di Lặc, Phật Di Đà, Quan Thế Âm, Thế Chí, Tề Thiên Đại Thánh, Sa Tăng, Bát Giới, Nhiên Đăng Cổ Phật, Tỳ Lô Giá Na Phật, Phật Tỳ Bà Thi v.v… Tất cả những nhân vật Phật và các vị Bồ Tát này là những nhân vật huyền thoại tiểu thuyết, thờ cúng những nhân vật này là thờ cúng mê tín, những nhân vật này thờ cúng có thiêng cũng chỉ do tâm của chúng ta mà có thiêng chứ riêng các vị này chẳng có thiêng gì cả vì nó là những nhân vật không có thật. Thần Sông, Thần Núi, Thổ Công, Thổ Địa, Thần Hoàng, Bổn Cảnh, Thủy Long, Long Vương, Hà Bá, Diêm Vương, Ngọc Hoàng, Thượng Đế, Nam Tào, Bắc Đẩu v.v… đều là những nhân vật giả tưởng không có thật, nếu thờ cúng những vị này là thờ cúng mê tín, lạc hậu, là thờ cúng không đúng chánh pháp. Sự thờ cúng mê tín là thờ cúng không đúng chánh pháp, thờ cúng làm hao tài tốn của mà không có ích lợi gì cho mình, cho mọi người, cho xã hội và không nói lên được ý nghĩa cao đẹp của lòng biết ơn sâu xa của chúng ta phải không các con? Thờ cúng như vậy là vô minh, là ngu si bị người khác lừa đảo làm tiền mà không biết, là tiền mất tật mang. Thờ cúng đúng chánh pháp là các con nên nhớ kỹ: “Bệnh tật tai nạn là do hành động thiếu đạo đức làm khổ mình khổ người của chúng ta tạo ra, nếu muốn cho bệnh tật tai nạn không xảy ra thì luôn luôn phải sống đúng đạo đức làm người không làm khổ mình khổ người, chứ không phải thờ cúng mê tín, cầu khấn van xin với Thánh Thần, chư Phật, chư Bồ Tát mà tai qua nạn khỏi, bệnh tật tiêu trừ được.” Thờ cúng đúng chánh pháp là thờ cúng trong tinh thần đạo lý, đạo nghĩa, ân đức và lòng hiếu sinh làm người. Không được giết hại sinh linh làm cỗ bàn linh đình, ngày ấy chỉ nên cúng tế trái cây, thực phẩm thực vật, tránh những sự khổ đau của sinh linh, máu đổ, thịt rơi của loài động vật, tránh cúng bông hoa, có như vậy thì ơn nghĩa của chúng ta đối với những người quá cố mới tròn đầy nghĩa tình đạo lý làm người. Ngày ấy, nếu các con cúng tế bằng sự giết hại sinh linh làm cỗ bàn linh đình, tiếng kêu la đau đớn của loài vật trong tuyệt vọng trước những lưỡi dao sắc bén của những con người ác độc, những sự giãy giụa run rẩy của loài vật để mong thoát chết nào có được đâu, đôi mắt chúng long lanh nhìn vào những con người như tha thiết cầu xin tha cho mạng sống, nhưng con người như vô tình nào để ý đến. Trước khi chết, đôi mắt long lanh căm hờn khi mũi dao đâm vào cổ họng chúng, nhưng lòng thương đau của chúng ta nào có hay biết gì? Chỉ biết ăn uống nhậu nhẹt vui chơi thỏa thích phải không các con? Đạo đức ân nghĩa không thể lấy sự giết hại, lấy sự chết chóc và lấy sự đau khổ của sinh linh mà nói lên được ân nghĩa sao? Đạo đức ân nghĩa thì phải lấy sự an vui, hạnh phúc của muôn loài dâng lên cúng tế những bậc tiên Hiền Thánh đức, Tổ tiên, ông bà, cha mẹ của chúng ta thì mới có ý nghĩa tỏ hết lòng tri ân chân thành. Đó là sự thờ cúng đúng chánh pháp các con nên ghi nhớ và cố gắng nhẫn nhục, tùy thuận, vui lòng thực hành cho đúng chánh pháp của Phật để mang đầy đủ ý nghĩa cao đẹp của người đệ tử Phật phải không hỡi các con? Đến đây Thầy xin dừng bút thăm và chúc các con vui mạnh, tu tập xả tâm tốt và sống một đời sống đạo đức làm người không làm khổ mình khổ người. Kính thư! |
|||
88. HŨ HÀI CỐT LÀ CON TIN TRONG CHÙA
Hỏi: Kính bạch Thầy, hiện nay có một phong trào của một số người giàu có tiền muốn báo hiếu cho thân nhân của mình sau khi chết. Họ đến các chùa có diện tích đất rộng bỏ tiền ra mua một đám đất để xây một cái mồ rồi đưa xác thân nhân về chôn cất ở đó, hoặc gửi tro vào tháp hài cốt trong chùa, nhà chùa gặp cơ may này làm giàu, tính giá ít nhất là từ năm triệu đồng cho đến mười triệu đồng và có thể còn hơn nữa, nhờ đó nhà chùa mới làm lễ cầu siêu độ cho vong...
Các người này họ rất vinh dự được đưa thân nhân về chùa “nằm trong đất chùa, được nghe kinh, được theo Phật v.v…”
Kính thưa Thầy, với việc làm này, người chôn trong đất chùa có lợi ích gì? Người con báo hiếu đưa xác hay hài cốt người thân về chùa có lợi ích gì? Quý thầy trong chùa nhận hài cốt và an táng trong đất chùa có lợi ích gì? Chúng con xin Thầy từ bi chỉ dạy cho chúng con được rõ.
Đáp: Theo phong tục mê tín của dân tộc Việt Nam xuất phát từ trong các chùa cho rằng người chết được chôn trong đất chùa hoặc gửi nắm tro tàn trong tháp hài cốt hằng ngày linh hồn sẽ được nghe kinh, nhờ đó được siêu thoát lên cõi Cực Lạc, Thiên Đàng…
Do lòng thương yêu và sự hiếu hạnh khiến cho người ta không còn sáng suốt nên nghe quý thầy, quý cô trong chùa bảo sao làm vậy chứ không có tư duy, suy nghĩ chín chắn, vì thế sự tin tưởng thiếu thực tế, mơ hồ, không trí tuệ của một số phật tử đã làm giàu cho các chùa và biến các chùa trở thành nhà mồ, trở thành một nơi sinh hoạt mê tín chứ không còn là nơi tu hành của Tăng Ni và cư sĩ nữa.
Ở thành phố đất hẹp người đông, vì thế chùa muốn kinh doanh làm tiền phật tử bằng sự lừa đảo mê tín như chúng tôi đã nói ở trên. Chùa nào hiện giờ cũng xây tháp hài cốt, khi có thân nhân chết người ta đem thiêu xác gửi vào chùa và khi gửi nắm tro tàn như vậy thì phải tốn bao nhiêu tiền đóng vào và còn phải cúng dường tiền cho chùa rất nhiều hằng năm, nếu thân nhân không cúng dường tiền thì hũ hài cốt ấy sẽ bị dẹp vào chỗ khuất lấp, còn ai cúng dường tiền nhiều thì hũ hài cốt sẽ được để trên chỗ sang trọng trong tháp.
Trong chùa các thầy thường bảo nhau: Tháp hài cốt là núi tiền, là những mẫu ruộng mầu mỡ xài hoài không hết. Đúng vậy, nhà chùa hiện giờ lấy hài cốt của những thân nhân phật tử làm con tin để làm tiền một cách phi nhân nghĩa, phi đạo đức.
Ví dụ: Nhà chùa muốn làm một việc gì thì nhắm vào những phật tử có gửi hài cốt hoặc chôn những thân nhân trong đất chùa, họ kêu gọi đóng góp làm từ thiện hoặc xây cất chùa và bất cứ một việc gì trong chùa v.v... đều kêu gọi. Nghe kinh được siêu thoát về Cực lạc, Thiên đàng đâu không thấy mà chỉ thấy những người còn sống phải gánh một gánh nặng của tôn giáo mê tín.
Cho nên chùa nào có đất rộng làm nghĩa địa hoặc xây tháp hài cốt là chùa đó giàu to, giàu không phí sức lao động chút nào cả như các con đã thấy tệ nạn lừa đảo phật tử hiện giờ trong các chùa rất lộ liễu
Bây giờ Thầy sẽ hỏi quý phật tử, quý vị cứ vui lòng nói thẳng có sao nói vậy đừng tự dối mình:
Hiện giờ quý phật tử thường đến chùa không những nghe thuyết pháp mà còn ngồi thiền, tụng kinh, niệm Phật, niệm chú, lạy hồng danh sám hối v.v… thế mà quý vị có thấy ai đã được lên Thiên Đàng, Cực Lạc chưa? Có thấy hết khổ chưa? Có ai làm chủ sanh, già, bệnh, chết chưa? Có thấy sự giải thoát chưa?
Quý vị cứ thành thật trả lời xem. Trong lúc quý vị còn sống mà còn chưa biết được Cực Lạc, Thiên Đàng ở đâu? Có hay không có? Huống là người chết họ còn nghe thấy được những gì. Nếu quả chăng nghe kinh được sanh về Cực Lạc Thiên Đàng thì người ta tu làm gì cho cực khổ phải không quý vị? Đó là những mánh khóe lừa đảo của kinh sách phát triển chúng ta nên cảnh giác.
Với tinh thần tình cảm đạo nghĩa của cuộc sống dân tộc Việt Nam “Sống cái nhà, thác cái mồ”, người sống dù nghèo hay giàu đều phải có một ngôi nhà, dù là nhà tranh vách lá, chòi, lều, cho đến nhà lầu, vila, biệt thự, cũng vẫn là một cái nhà mà thôi.
Vì đạo nghĩa làm người nên khi chết còn lại nắm xương hoặc nắm tro tàn người ta xây một ngôi mộ nho nhỏ đủ để vùi lấp nắm xương và nắm tro trong lòng đất mẹ quê hương, để đánh dấu ghi khắc một kỷ niệm thăng trầm của một đời người.
Nơi đây là để ghi nhớ lại cho con cháu, cho người sau một ân nghĩa khó quên, chứ người chết còn gì nữa, chết là mất đi một kiếp người.
Nơi đây là nơi để cho con cháu tập hợp nhắc lại những thành tích của tổ tiên ông bà cha mẹ.
Nơi đây là nơi để cho con cháu đừng quên nắm xương tàn của những người thân thương. Mỗi năm chỉ có một lần về thăm mồ mả tổ tiên ông bà cha mẹ là chúng tôi cảm thấy có một điều gì thương nhớ bùi ngùi trong tâm hồn của chúng tôi.
Bởi vậy, đối với người Việt Nam có một tình nghĩa sâu sắc khó quên, những nấm mồ của tổ tiên ông bà cha mẹ còn đó là tình cảm con người không bao giờ phai nhòa.
Có những dân tộc khi chết đi, họ đem thiêu đốt và lấy tro đem đổ xuống biển, bảo rằng đem tro đổ xuống biển cho mát mẻ, khi thiêu xác sao không bảo rằng nóng? Việc an táng này có lợi nhưng có hại. Lợi là con cháu khỏi quét mả (tảo mộ), hại là lòng người ân nghĩa dễ quên, con cháu sau này không còn chỗ để nhớ tưởng tổ tiên ông bà cha mẹ vì đã ném tro xuống biển làm ô nhiễm môi trường sống.
Như chúng ta đã biết trên hành tinh này con người có nhiều kiểu an táng tùy theo bản năng, tình cảm của mỗi dân tộc chia ra làm bốn cách an táng: 1- Địa táng; 2- Hỏa táng; 3- Thủy táng; 4- Điểu táng
Những dân tộc có tình cảm sâu xa như dân tộc Việt Nam, Trung Hoa thì địa táng xây mồ mả giữ gìn nơi an nghỉ cuối cùng của những người thân thương của mình.
Những dân tộc ít tình cảm hơn như dân tộc Campuchia thì hỏa táng lấy tro đựng trong một cái ghè để dưới gốc cây lâm vồ, cây lâm vồ giống như cây đa ở nước chúng ta. Người Campuchia để tro hài cốt của ông bà cha mẹ như vậy rất thiếu vệ sinh, gây ra môi trường ô nhiễm, khiến cho con người dễ bịnh đau.
Những dân tộc ít tình cảm hơn nữa như dân tộc Tây Tạng thì họ điểu táng, khi người chết họ đem vào rừng cắt ra từng miếng thịt nhỏ quăng ném khắp nơi để cho loài chim kên, quạ bay đến ăn thịt. Cách thức điểu táng gây ra môi trường ô nhiễm ghê gớm, mùi tanh hôi thối bốc ra khắp cả một vùng rừng núi khiến cho không ai dám đến nơi đó. Tục lệ điểu táng là một việc làm thiếu vệ sinh gây ô nhiễm khiến mọi người dễ sanh bệnh tật khổ đau.
Thủy táng là những người dân sống trên sông nước, họ không có địa táng, hỏa táng hoặc điểu táng, khi có người chết họ an táng bằng cách neo vào quan tài một tảng đá to, dùng thuyền chở ra giữa dòng sông họ dứt dây, quan tài từ từ chìm xuống đáy sông.
Lại có một số người sống ven biển như dân tộc Đại Hàn khi chết đem thiêu xác rồi lấy tro đổ xuống biển đó cũng là loại thủy táng, thủy táng bằng tro. Loại thủy táng nào cũng thiếu vệ sinh gây ra môi trường ô nhiễm cho cuộc sống của con người.
Trong bốn loại an táng thì loại địa táng là tình cảm thiêng liêng nhất của loài người vì không thấy thi thể của người thân của mình bị hủy hoại một cách tàn nhẫn. Vả lại địa táng còn lưu lại dấu tích sau cùng để con cháu tưởng nhớ khó quên tổ tiên dòng giống, duy trì và truyền thống một nền đạo đức ân nghĩa sâu dày.
Địa táng là một sự giữ gìn vệ sinh môi trường sống rất tốt, nhưng nó không được trọn vẹn vệ sinh bằng hỏa táng cộng địa táng, nhưng hỏa táng tình cảm thiêng liêng của con người không cho phép chúng ta và chúng ta không thể không đau lòng được trước cảnh thiêu xác người thân. Nếu hỏa táng đem tro hài cốt người thân vào chùa, điều này:
1- Mê tín (nghe kinh và siêu thoát).
2- Thiếu vệ sinh môi trường vì nắm tro tàn vẫn còn bốc mùi hôi khét khó chịu và để khơi khơi trên bàn thờ tỏa ra mùi uế trược bất tịnh ghê gớm.
3- Tốn hao tiền bạc phải cúng tế trong nhà chùa, nhà chùa lợi dụng tro hài cốt kêu gọi đóng góp mọi thứ khi chùa cần xây dựng, làm từ thiện hoặc tổ chưc cúng tế, lễ lộc v.v…
4- Nắm tro tàn hài cốt của người thân là con tin của nhà chùa để họ làm tiền phật tử, nếu phật tử nào không có tiền cúng chùa thì tro hài cốt ấy được đẩy lui vào hốc tháp, có khi bị dẹp bỏ nếu con cháu không cúng dường tiền cho chùa.
5- Nấm mồ trong đất chùa cũng vậy, cũng chỉ là con tin để chùa làm tiền mà thôi. Vì thế chùa có mả mồ nhiều, có tháp tro hài cốt to thì chùa ấy giàu, quý phật tử có thấy điều này không? Quý vị có thân nhân được chôn trong đất chùa, quý vị đừng lấy làm vinh hạnh, nhà chùa họ kinh doanh lừa đảo quý phật tử đó, bán đất chôn thì quá đắt (tấc đất tấc vàng) chứ họ chẳng cho quý vị đồng nào cả, họ cắt cổ quý vị tới chết chưa thôi mà còn cắt cổ con cháu của quý vị nữa, được đem tro hài cốt vào chùa thì phải có một số tiền mặt và từ đó về sau nhà chùa ăn không tiêu, tiểu tiện không thông thì họ đều kêu quý phật tử đó.
Quý vị đừng tưởng rằng: thân nhân được chôn trong đất chùa hoặc nắm tro tàn hài cốt được đặt vào ngôi tháp xinh đẹp của chùa là linh hồn được nghe kinh, được siêu thoát về cõi Cực Lạc, Niết Bàn v.v... không chắc đâu quý vị ạ!
Điều này các con đã bị lừa đảo lọt vào mê tín. Một đời tu hành của chúng tôi hết sức giới luật nghiêm túc, thực hiện pháp ly dục ly bất thiện pháp không lúc nào nghỉ ngơi, thế mà chúng tôi đi tìm cái Thiên Đàng, Cực Lạc, Niết Bàn… cũng chẳng thấy ở đâu mà có, chỉ có là ở chỗ trạng thái tâm bất động trước các pháp lúc chúng tôi còn đang sống, còn người chết rồi thì còn chi nữa nghe kinh siêu thoát.
Chết rồi chỉ còn nghiệp lực tái sanh luân hồi vào thân nghiệp khác còn chi nữa, nắm xương tàn trong lòng đất và nắm tro tàn trong tháp còn có nghĩa lý gì trong cuộc sống này nữa, hết cả rồi nếu lúc sống không tu, đến khi chết còn gì nghe kinh siêu thoát được.
Chúng tôi xin góp ý với quý phật tử, chúng ta là dân Việt Nam, hãy vì tinh thần đạo đức ân nghĩa sâu dày và tình cảm khó quên, vì truyền thống “cây có cội, nước có nguồn” hay “ăn quả nhớ kẻ trồng cây, uống nước nhớ người đào giếng” chứ đừng vì một niềm tin mơ hồ, mê tín nào khác.
Dân tộc Việt Nam có cái nhìn sự sống và chết không khác “sống cái nhà, thác cái mồ.” Với tinh thần truyền thống đạo lý này cụ Nguyễn Du nói:
Đó là một tục lệ truyền thống tốt đẹp của con người hằng năm đến ngày này mọi người đều về thăm và quét dọn sạch sẽ mồ mả của tổ tiên, ông bà, cha mẹ, đó là một hành động tình nghĩa đạo đức làm người, làm người không thể không có được đạo nghĩa này, nếu không có đạo nghĩa này thì không xứng đáng làm người.
Nhưng chúng ta đã thiêu xác cha mẹ, đã gửi vô tháp nhà chùa, muốn vào thăm thì quý vị cũng phải có lễ lộc cúng bái chứ không lẽ đi không xem sao được. Và thăm như vậy thì đâu còn có nghĩa là đi tảo mộ.
Đi vào chùa thăm tro hài cốt của cha mẹ không còn ý nghĩa như đi tảo mộ ngày xưa nữa, nó chỉ có nghĩa là đi cúng Phật lễ bái mà thôi. Ngày tảo mộ là ngày con cháu tụ họp về đông đủ, nói lên tinh thần đạo đức ân nghĩa, khiến cho giòng họ không còn xa lạ, con cháu gần gũi với nhau hơn, do đó gia tộc có một tinh thần đoàn kết chặt chẽ.
Ngày nay đất hẹp người đông nên người ta thiêu xác lấy tro bỏ vào hũ, đem gửi vào chùa làm mất ý nghĩa truyền thống đạo lý tốt đẹp của dân tộc Việt Nam và biến nhà chùa thành nhà mồ, không còn ý nghĩa nhà chùa là nơi tu hành của Tăng Ni và cư sĩ.
Theo chúng tôi thiết nghĩ, nhà chùa là nơi thanh tịnh trang nghiêm để tu hành chứ không phải nghĩa địa nhà mồ mà người tín đồ có thể đem sự bất tịnh vào đó làm cho ô uế môi trường sống chung chỗ tu hành. Thành phố hiện giờ có rất nhiều chùa, mỗi chùa đều có nơi để tro hài cốt người chết, mùi hôi của chất tro này bốc lên và lan rộng khắp cùng trong thành phố làm cho bầu không khí ở đây rất ô nhiễm, khiến cho người dân thành phố dễ bệnh hơn dân chúng ở nông thôn. Ở thành phố chỉ có nhà chùa thì được lợi mà dân thành phố thì chịu thiệt thòi.
Theo sự suy nghĩ của chúng tôi, một nhà chùa nên tổ chức một nghĩa địa cách xa thành phố do phật tử tại chùa hùn nhau mua một khu đất rồi tất cả thân nhân của các phật tử chùa đó chết đều được đem về chôn cất, nhưng nhà chùa không được bán, không được lấy tiền dù ít dù nhiều của một người nào cả, vì đó là khu đất chung của phật tử, của chùa đó, cũng giống như bên đạo Thiên Chúa, nơi nhà thờ nào họ cũng tổ chức một nghĩa địa, tất cả những tín đồ chết đều được đem vào đó chôn cất một tập thể mồ mả của tín đồ Thiên Chúa.
Nhà chùa chúng ta cũng nên tổ chức như vậy nhưng không được bán lấy tiền như trên chúng tôi đã nói, bán lấy tiến làm mất ý nghĩa đạo lý của tôn giáo. Các nhà chùa ở miền Bắc đã làm sai không đúng tinh thần đạo đức làm người, đến người chết chúng ta không dành cho họ một tấc đất để gửi nắm xương tàn hay sao? Vậy mà các chùa sao nỡ nhẫn tâm làm tiền người chết là cha mẹ hay người thân của phật tử sao đành?
Để xác định điều này người chôn trong đất chùa cũng như gửi tro hài cốt vào tháp trong chùa thì chẳng có ích lợi gì về mặt tôn giáo, mà còn có hại là con cháu phải tốn tiền bạc đủ mọi thứ, nếu nhà chùa kêu đóng góp, thì chắc quý vị phật tử không thể nào từ chối được. Theo Phật giáo Nguyên Thủy, sống không tu tập ngăn ác diệt ác pháp, đến khi chết chôn trong đất chùa cũng như chôn trong các nghĩa địa khác. Chôn và gửi tro hài cốt trong đất chùa là làm con tin cho nhà chùa. Người con hiếu chôn hay gửi tro hài cốt cha mẹ vào chùa để được theo Phật nghe kinh siêu thoát là điều mê tín
Nhà chùa nhận chôn thi hài và tro hài cốt vào đất chùa là một lợi ích rất lớn, đó là kinh doanh hài cốt con người đễ làm giàu bất chánh, đây là cái sai thứ nhất.
Nhà chùa đã biến nơi tu hành thành nơi nhà mồ nghĩa địa, nơi thực hiện sự mê tín của dân gian, đây là cái sai thứ hai.
Tóm lại, vì lợi ích vệ sinh trong môi trường sống chung và đạo nghĩa làm người trong tinh thần dân tộc Việt Nam “sống cái nhà thác cái mồ” thì mỗi nhà chùa đều có một nghĩa địa riêng cách xa nơi sinh hoạt tu học của Tăng Ni và cư sĩ. Nơi đó tất cả tín đồ Phật giáo khi chết đều được an táng, mỗi tín đồ không phải tốn hao một đồng một xu nào cả. Đó là thể hiện tình người tương thân tương ái, giúp nhau trong lúc hữu sự.
89. NHỮNG TRÒ MÊ TÍN, LỪA ĐẢO TRONG CHÙA
Hỏi: Trung tâm thành phố Hà Nội có một ngôi chùa, ở phố Bà Triệu, tại đây đã thực hiện di dân hai lần (chi phí lên tới vài chục tỉ đồng) để cho nhà chùa được rộng rãi khang trang và riêng biệt. Quý sư ni ở đây hành đạo bằng pháp tụng kinh, gõ mõ, dâng sao, giải hạn... và đặc biệt vào khóa lễ đầu năm có làm một chiếc thuyền Bát Nhã bằng giấy để chở vong linh người chết về Tây phương, Niết Bàn. Vậy những việc làm trên của các sư ni có đem lại lợi ích gì cho Phật pháp, cho các sư ni và cho chúng sanh không ạ? Con xin Thầy từ bi dạy bảo cho chúng con được rõ, đâu là việc làm đúng chánh tín, đâu là việc làm mê tin để cho những người hiện thời và con cháu mai sau không còn lầm lạc.
Đáp: Tụng kinh, gõ mõ, dâng sao, giải hạn, làm thuyền Bát Nhã bằng giấy để chở các vong linh về Tây phương, Niết Bàn v.v… đó là những việc làm mê tín, lừa đảo những tín đồ nhẹ dạ vì thương cha mẹ và những người thân nên bỏ tiền ra cúng để các sư cô ghi tên họ được đưa về Tây phương Cực Lạc, đó là một việc làm mê tín lạc hậu nhất trong các kinh sách phát triển mà các sư cô thực hiện
Những việc làm này là những việc phỉ báng Phật giáo, có mục đích tiêu diệt Phật giáo, thấy những việc làm này, người có trí hiểu biết sẽ đánh giá trị Phật giáo là một loại tôn giáo mê tín, lừa đảo tín đồ, do đó việc làm này không có lợi mà còn có hại cho Phật giáo rất lớn. Những việc làm này nó không có lợi ích cho con người khiến cho con người tiền mất, tật mang, chỉ có những người hành nghề bất chánh này là có lợi ích mà thôi.
Bằng chứng như trong thư các con đã nói, các ni sư chỉ hành một cái nghề mê tín này mà nhà chùa có hằng tỉ bạc dám bỏ tiền ra di dân để nhà chùa được rộng rãi khang trang hơn. Cho nên không có cái nghề nào làm giàu dễ như làm nghề mê tín trong các chùa. Nghề mê tín là nghề bói khoa, chiêm tinh, cúng sao, giải hạn, xem ngày giờ tốt xấu dựng vợ gả chồng, làm nhà xây mồ mả v.v…
Nghề mê tín là nghề cúng bái, tụng niệm, cầu siêu, cầu an, làm ma chay, làm tuần cúng vong, tiễn linh, mở cửa mả, đốt tiền vàng mã và nghề dán kho đụn, quần áo, mũ nón v.v… đó là nghề lừa đảo lường gạt tín đồ Phật giáo, trong kinh sách Nguyên Thủy không bao giờ đức Phật dạy, duy chỉ có kinh sách phát triển mới có dạy điều này mà thôi
Người cư sĩ đệ tử của đức Phật phải có trí tuệ, phải xác nhận thấy biết những điều mê tín không lợi ích cho mình cho người, những điều phi công lý và công bằng, vô đạo đức thì nhất định không làm theo, hoàn toàn không để cho người khác lợi dụng mình, lừa đảo mình. Có như vậy mới làm sáng tỏ lại Phật giáo, mới đem lại nền đạo đức nhân bản không làm khổ mình khổ người.
Nếu phật tử không sáng suốt, vô tình làm theo những lời dạy mê tín của giáo pháp kinh sách phát triển thì đó là quý vị đã tiếp tay với kinh sách phát triển diệt Phật giáo, và như vậy quý vị sẽ tự đánh mất nền đạo đức nhân bản - nhân quả của đạo Phật, nền đạo đức nhân bản - nhân quả của đạo Phật mất đi là quý vị không còn có đường lối tu hành giải thoát, và như vậy quý vị đã tự làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh.
Tóm lại quý vị cư sĩ phải đề cao cảnh giác và thường nên tránh xa những giáo pháp trừu tượng, mê tín, cúng bái, cầu siêu, cầu an, bùa chú, thần thông, dù bất cứ những loại thần thông nào, chúng là những pháp môn lừa đảo chứ không có ích lợi gì cho ai cả, quý vị nên nhớ kỹ đừng để mắc lừa, tốn hao tiền bạc, công sức tu tập mà chẳng giải thoát gì, chỉ phí uổng công khó nhọc cho một đời tu mà thôi.
90. TÔN GIÁO VÀ KHOA HỌC
Hỏi: Kính thưa Thầy, tại sao các chùa, các đền, các đình làng và các tôn giáo khác ở mỗi miền đất nước trên quả địa cầu này đều phát triển theo đời sống khoa học và vật chất lên cao so với các thế kỉ trước: Số lượng thờ cúng mọc lên quá nhiều, số tín đồ cũng đông đúc tăng lên, sự cầu xin khấn lạy trời đất quỷ thần hằng năm cũng vô kể, theo thế gian nói là “thịnh.”
Ấy thế mà tại sao không xoay chuyển nổi sự vận hành của thiên nhiên như: bão lụt, hạn hán, sâu bọ phá mùa màng, chuột bọ phá phách, thời tiết thất thường nóng lạnh không có nhà khoa học nào điều chỉnh được, bệnh tật ngày càng phát nhiều bệnh “nan y.”
Các nước khoa học tân tiến hiện đại phát triển cấy được gen nên người còn sống bèn mổ ra lấy lục phủ ngũ tạng thay thế cho người bệnh v.v…
Kính thưa Thầy, vì nguyên nhân gì mà trái đất này chịu nghiệt ngã trong cuộc sống của loài người đến như thế này ạ? Những việc làm trên của các nhà khoa học hay sự cầu khấn của các tín đồ tôn giáo có tác dụng hay không có tác dụng mà kết quả thật thảm khốc cho loài người trên hành tinh này vậy? Sao sự cầu khấn của mọi tín đồ các tôn giáo và khoa học hiện đại trên hành tinh này không khắc phục được những thiên tai và bệnh tật để cho loài người được bình an, thịnh vượng?
Đáp: Trong câu hỏi này có hai phần rõ rệt:
1- Vật chất khoa học; 2- Tâm linh Tôn giáo.
Khi khoa học vật chất có một bước tiến triển khá xa để phục vụ đời sống con người, nhưng khoa học không chịu nhận thức đạo đức nhân bản - nhân quả là một đạo luật công bằng và công lý. Vì thế, khi phát minh ra một vật dụng gì để phục vụ con người lại quên đi hành động thiếu đạo đức nhân bản - nhân quả.
Do đó khi áp dụng khoa học vào sản xuất thành vật phẩm để nâng cao đời sống của con người thì thải ra không biết bao nhiêu là chất độc làm cho môi trường sống chung của con người bị ô nhiễm, do môi trường sống chung bị ô nhiễm nên thời tiết không ôn hòa, khí hậu bất thường, thường xảy ra thiên tai bão lụt liên miên và đủ mọi loại bệnh tật.
Khoa học mà không có đạo đức là khoa học giết người, giết người một cách kinh khủng, vì khoa học làm đảo lộn môi trường sống, làm đảo lộn tâm lý con người (tham ít đến tham nhiều), biến con người thành ác thú. Do thế, khoa học không có đạo đức là một tai họa rất lớn cho loài người. Điều này đã chứng minh và xác định trải qua những thế kỉ gần đây, khi khoa học phát triển đã diệt con người bằng mọi cách từ bệnh tật, tai nạn giao thông đến súng đạn, bom, bom vi trùng, thuốc khai hoang, bom hạt nhân nguyên tử v.v… bom nguyên tử đã diệt con người trong hai thành phố ở Nhật Bản một cách quá kinh khiếp, và tai họa đến giờ này mà dân Nhật Bản phải gánh chịu chưa dứt hậu quả của khoa học.
Xưa ông bà chúng ta di chuyển bằng đi bộ, cưỡi voi, cưỡi ngựa, xe bò, xe ngựa, xe trâu, vì thế tai nạn giao thông không xảy ra và con người không mất mạng một cách vô lý, nhưng thời đại ngày nay khoa học phát minh xe cộ chạy bằng cơ giới, tốc độ càng nhanh thì tai nạn giao thông càng tăng. Do thế chúng ta nên biết, những sáng tạo khoa học của loài người để phục vụ cho con người thì con người phải kèm theo trách nhiệm bổn phận đạo đức thì sự sáng tạo của khoa học là một điều lợi ích rất lớn cho loài người. Bằng ngược lại, nếu con người thiếu đạo đức, chỉ lo sáng tạo khoa học thì con người đã tự mình tự tử mà không hề hay biết.
Tóm lại, khoa học là một sự phát minh phục vụ đời sống vật chất của con người rất thực tế, nhưng về tinh thần đạo đức nhân bản - nhân quả làm người là những hành động trách nhiệm bổn phận đạo đức lương năng và lương tri của con người nó còn thực tế hơn và lợi ích hơn khoa học rất nhiều. Nếu khoa học không có mà con người có đạo đức thì cuộc sống cũng được an lành, hạnh phúc hơn nhiều, tuy nhiên vật chất không nhiều và đời sống thiếu tiện nghi, nhưng lại yên ổn và an vui.
Có khoa học mà không có đạo đức thì tai họa sẽ xảy ra cho con người vô cùng vô tận, bằng chứng lũ lụt, thiên tai, động đất, những bệnh tật thời đại nan y v.v… Có đạo đức mà không có khoa học thì con người vẫn sống an nhiên tự tại không có khổ đau, như chúng tôi đã nói ở trên, còn nếu có khoa học mà có cả đạo đức nhân bản - nhân quả nữa thì đời sống con người hạnh phúc biết bao!
Về tôn giáo thì trên hành tinh này có biết bao nhiêu tôn giáo, hằng ngày sự cầu khấn của tín đồ trên hành tinh này không lúc nào không cầu khấn, và tốn hao cho sự cầu khẩn này cũng nhiều công và của. Thế mà, tai nạn vẫn đổ lên đầu con người, như vậy tôn giáo chỉ chẳng qua là lừa đảo con người mà thôi. Bởi vì theo luật nhân quả không có một tôn giáo nào cứu khổ con người được, chính hành động đạo đức của con người mới cứu khổ cho con người được. Tôn giáo nào ra đời chỉ dạy cho con người có đạo đức nhân bản - nhân quả là tôn giáo không lừa đảo, là đem lại lợi ích thiết thực cho con người, còn ngược lại dạy cầu khấn ban phước, có Thiên Đàng, Cực Lạc, Niết Bàn, Địa Ngục v.v… đó là một sự chỉ dạy phi đạo đức, dối gạt, lừa đảo, thiếu thực tế, phản khoa học, không rõ ràng, không logic.
Những điều con hỏi là những sự nghi ngờ chánh đáng về khoa học, về tôn giáo. Chính khoa học ngày nay vì thiếu đạo đức nên đưa con người đến khổ đau và ra nông nỗi này. Hầu hết tôn giáo chỉ khéo lừa đảo tín đồ chứ không có thiết thực cụ thể chút nào cả.
Cho nên tôn giáo và khoa học hiện giờ mới nhìn vào thì dường như mang đến hạnh phúc cho người, nhưng thật sự là đem tai họa đến cho con người nhiều hơn. Như chúng tôi đã nói ở trên, tôn giáo mà không có đạo đức là tà giáo, tà giáo sẽ lừa đảo con người bằng mọi cách, mọi thủ đoạn. Khoa học mà không có đạo đức sẽ làm ô nhiễm môi trường sống, và vì thế vừa phục vụ và cũng vừa giết hại loài người bằng mọi cách mà pháp luật không bắt tội được. Cho nên làm một việc gì điều phải có đạo đức, đạo đức là hàng đầu của cuộc sống của loài người, nếu thiếu đạo đức thì con người phải chịu khổ đau muôn vàn.
91. TỤNG KINH ĂN TÂN GIA VÀ ĐẦY THÁNG CHO CHÁU BÉ
Hỏi: Kính thưa Thầy, bên Tịnh Độ và kinh sách Đại Thừa dạy: “Nếu người nào về nhà mới (ăn tân gia) lập bàn thờ và có con cháu đầy tháng thì mời các cư sĩ đến nhà tụng kinh cầu nguyện cho mát mẻ. Làm như vậy có lợi ích gì không? Kính thưa Thầy, xin Thầy dạy bảo cho chúng con được rõ.
Đáp: Làm lễ “ăn tân gia” có nghĩa là khoe nhà mới với bạn bè thân hữu, làm lễ “đầy tháng” cho con tức là mừng đứa bé chào đời vừa tròn đầy một tháng (mẹ tròn con vuông). Đối với Phật giáo Nguyên Thủy, những việc làm này như tụng kinh cầu nguyện là một việc làm ngược lại với Phật giáo. Vì Phật giáo không thể cầu nguyện cho một sự khổ đau đang bắt đầu như vậy được.
Một ngôi nhà mới được kiến tạo xây dựng là một sự cực khổ bằng sức lao động trí tuệ và tay chân, mồ hôi và nước mắt của người gia chủ. Một đứa bé chào đời vừa tròn một tháng là báo động cho biết một kiếp người phải chịu khổ đau bắt đầu từ đây.
Đôi mắt nhân quả của Phật giáo nhìn ngôi nhà mới và đứa bé đầy tháng là một sự khổ đau tiếp nối của một chuỗi dài nhân quả tiếp theo.
Thọ Bát Quan Trai là một sự tu tập buông xả để học những đức hạnh của bậc Thánh Tăng. Thọ Bát Quan Trai là để tu tập tâm ly dục ly ác pháp trong một ngày để được tâm hồn thanh thản, an lạc và vô sự. Thọ Bát Quan Trai là một ngày để tu tập giúp cho tâm hồn trắng bạch như vỏ ốc, phóng khoáng như hư không. Thọ Bát Quan Trai là một ngày tập sống như Phật, là một ngày hạnh phúc nhất trần gian. Thọ Bát Quan trai không phải là một ngày mừng tân gia, mừng cháu bé đầy tháng mà là một ngày hết sức quan trọng cho một đời người.
Vì gieo một hạt giống Thọ Bát Quan Trai đúng nơi, đúng chỗ, đúng lúc thì ngày mai nó sẽ trổ hoa quả giải thoát mà chính người gieo phải được thọ hưởng. Nếu hiểu sai, đặt không đúng nơi, đúng chỗ, đúng lúc thì hoa giải thoát kia không bao giờ nở và người gieo chỉ uổng phí công lao mà thôi.
Tóm lại đừng lấy ngày Thọ Bát Quan Trai mà cầu phúc mừng ngày về nhà mới hoặc mừng cháu bé ra đời đầy tháng là sai. Ngày thọ Bát Quan Trai là ngày mà chính mọi người phải tự gieo hạt giống này chứ không ai gieo cho mình được. Các con nên nhớ lời Phật dạy: “Các con hãy tự thắp đuốc lên mà đi, Ta không thể đi thay cho các con được con đường ấy, Ta chỉ là một người chỉ đường mà thôi.”
92. NGƯỜI CHẾT RỒI CÒN ĐAU ĐỚN NỮA KHÔNG?
Hỏi: Kính thưa Thầy, người chết rồi còn đau đớn nữa không? Trong quyển “Sống Và Chết” con đã được đọc, trong đó nói rằng: “Người chết từ lúc tắt thở phải được để yên, không được đụng vào người chết từ 8 đến 12 giờ, nếu đụng vào người ta đau đớn lắm nhưng người ta không nói ra được nữa.” Có phải thế không thưa Thầy?
Đáp: Trong sách “Sống và Chết” này người ta dựa vào đâu mà dám bảo rằng người đã tắt thở từ 8 giờ đến 12 giờ mà còn cảm giác đau đớn. Trong bệnh viện về khoa giải phẫu, bác sĩ gây mê cho bệnh nhân, thế mà khi mổ bệnh nhân còn không thấy đau đớn. Huống là một người đã chết, toàn bộ thần kinh không còn hoạt động nữa thì làm sao người ta còn có cảm giác đau đớn được? Thật ra người viết cuốn sách này sống toàn trong tưởng, vậy mà các con tin được sao?
Một sự chết của một người là sự vô thường của một giai đoạn nhân quả trả vay, vay trả và tiếp tục những thân khác nữa để nối tiếp ngọn đuốc nhân quả mãi mãi. Chết là toàn bộ thân ngũ uẩn tan rã không còn một uẩn nào cả thì cái gì còn cảm giác biết đau? Sách này nói đi ngược lại lời Đức Phật dạy. Năm xưa Đức Phật dạy rằng: “nếu người chết còn lại một chút xíu thức dù như đất trong móng tay Ta thì đạo Ta cũng không ra đời.” Lời nói này rất chân thật, Đức Phật dám lấy tôn giáo của mình ra xác chứng rằng không có linh hồn, thần thức như kinh sách ngoại đạo thường tuyên bố.
Không có thần thức linh hồn thì cái gì còn biết đau, thật ra những người viết kinh sách không có kinh nghiệm tu hành, cứ theo lối mòn của người xưa mà lập lại y khuôn khiến cho con người lầm lạc lại còn lầm lạc hơn; khiến cho con người bị lừa đảo lại còn bị lừa đảo hơn; cho nên mọi người tiền mất tật mang là phải. Bởi vậy Đức Phật dạy chúng ta mười điều chớ có tin, và chỉ dạy cho chúng ta tin khi nào điều đó đem lại lợi ích cho mình cho người.
Thân tứ đại này là cát bụi, chết thì trả về cát bụi. Cái cảm thọ đau đớn kia của thân tứ đại này đã tan rã theo nó còn đâu đau đớn nữa mà gọi rằng người chết còn đau đớn. Biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe, không biết mà viết kinh sách như vậy là lừa đảo người, thật đáng hổ thẹn, thật đáng chê trách.
93. NGƯỜI CHẾT ĐEM THIÊU CẢM THẤY NÓNG LẮM
Hỏi: Kính bạch Thầy, có người bảo rằng nhà có người chết đem thiêu xác, khi đi gọi hồn, tức là đồng hay cốt về nói là chết nóng lắm, do đó mọi người và chúng con cũng thấy sợ thiêu Thầy ạ!
Đáp: Với đân tộc Việt Nam tình cảm rất sâu sắc, khi thấy người thân của mình chết được đem thiêu đốt thì có một cảm giác như chính bản thân của mình đang bị nóng lắm phải không hỡi các con? Người chết rồi như một khúc cây đã bị chặt lìa thì còn gì là nóng, là đau nữa.
Những người đồng, cốt, những nhà ngoại cảm là những người sống trong tưởng uẩn nên tưởng thường thể hiện cảm giác thấy nóng mà nói ra, nó là một ảo giác nóng chứ không thật có nóng. Người tu theo đạo Phật không nên tin thế giới tưởng, vì thế giới tưởng là một thế giới không thật có, là một thế giới ảo giác do năng lực của tưởng giao cảm những sự kiện xảy ra của thế giới hữu hình. Bởi vì mọi sự kiện xảy ra của thế giới hữu hình âm thanh và hình ảnh còn lưu lại trong không gian và thời gian đó.
Khi năng lực của tưởng bắt gặp âm thanh sắc tướng đó, sự bắt gặp này giống như chúng ta nằm mộng nên những nhà ngoại cảm cũng như những người lên đồng, nhập cốt thấy như mình đang sống và sinh hoạt trong thế giới những người đã chết, chính lúc bây giờ nhà ngoại cảm cũng như đồng cốt không còn biết mình là ai đang sống giữa hai cảnh giới thực và ảo, giống như người chết mượn phần xác của người sống để nói lại tình trạng của mình cách đây năm năm hay mười năm. Bởi thế con người không đủ khả năng thiền định như Phật nên mới cho rằng có thế giới của con người sau khi chết.
Các loại thiền định của các Tổ và kinh sách phát triển không vượt qua thế giới ảo tưởng này nên mới thấy có Phật Tánh, Bản thể Vạn hữu, cho nên chúng ta không nên trách con người bình thường làm sao thấu rõ trong cái thế giới hữu hình. Khi có thế giới hữu hình thì phải có cái bóng dáng của nó, mà con người không đủ trí sáng suốt nên mới cho cái thế giới bóng dáng đó là thế giới của người sau khi chết.
Ví dụ: Một cây cổ thụ kia đang đứng sừng sững giữa trời thì cái bóng của cây kia luôn luôn cũng sừng sững không lìa nó, khi cây bị chặt phá không còn nữa thì bóng kia cũng không còn, nhưng âm thanh, sắc tướng của cây kia còn lưu lại mãi trong không gian và thời gian của nó. Cho nên người chết rồi còn gì biết đau, biết nóng, chỉ là một sự tưởng của người sống mà thôi.
94. BA NĂM CẢI TÁNG
Hỏi: Kính thưa Thầy, ngoài Bắc có tục lệ, người chết chôn ba năm lại đào lên bốc xương đem chôn nơi khác, thật là mất vệ sinh làm ô nhiểm môi trường sống và chật đất. Chúng con mong Thầy dạy bảo để chúng con và mọi người thấu hiểu sự thật cái nào đúng, cái nào sai để chúng con và mọi người sửa lại cho tốt đẹp và phù hợp hơn.
Đáp: Việc ba năm cải táng là một việc làm vừa hao tốn tiền của, vừa làm mất vệ sinh môi trường sống chung. Ngoài Bắc đã thành một tục lệ, tục lệ này xuất phát từ đâu? Từ những ông thầy địa lý.
Trong lúc Đinh Bộ Lĩnh còn là một chú bé chăn trâu, có một thầy địa lý bên Trung Hoa sang Việt Nam đi tìm hàm rồng để cải táng nắm xương tàn của người cha vào huyệt đế vương để con cháu sau này làm nên danh phận. Khi tìm được huyệt đế vương dưới đáy hồ, ông bèn đến nhờ Đinh Bộ Lĩnh đem gói xương này bỏ xuống đáy hồ nơi có các gộp đá. Đinh Bộ Lĩnh nhận làm việc này, nhưng ông về cải táng mộ cha mình lấy nắm xương của cha bỏ vào những gộp đá trong đáy hồ, còn nắm xương cha của ông thầy địa lý kia được ném vào chỗ khác, nhờ đó sau này Đinh Bộ Lĩnh lên làm vua nước ta.
Nếu chúng tôi xác định không lầm thì tục lệ ba năm cải táng là do các ông thầy địa lý bịa đặt ra để lừa đảo mọi người, làm tiền một cách bất chánh. Cải táng là để chôn vào huyệt đế vương, con cháu sau này làm ăn phát đạt sang giàu, làm quan hoặc làm vua. Nhưng mãi sau này thành một tục lệ khó bỏ. Người miền Bắc bị phong tục này nên ba năm phải cải táng, nếu không cải táng thì thấy như mình còn thiếu sót một việc gì và bị mọi người lên án là bất hiếu. Cũng như bây giờ nhà nào có người chết mà không rước thầy chùa tụng kinh thì coi như thiếu sót một việc gì và cũng bị mọi người lên án là bất hiếu. Vì thế người ta quá sợ hãi những dư luận, cho nên ít ai dám đi trên dư luận để đả phá đi những phong tục mê tín lạc hậu.
Hiện giờ người ta không dám đả phá những phong tục mê tín lạc hậu mà lại còn ca ngợi tán thán cho đó là văn hóa dân tộc, thật là đáng trách. Người ta đâu biết rằng sự giàu nghèo và làm quan, vua chúa đều do nhân quả. Nếu không gieo nhân làm vua, làm quan thì không bao giờ làm vua, làm quan được, nếu không gieo nhân giàu có thì không bao giờ giàu có được. Tất cả đều do nhân quả thiện ác mà có những điều trên chứ không phải đi tìm huyệt đế vương là con cháu làm vua làm quan; chứ không phải đi tìm huyệt giàu sang mà con chau sẽ giàu sang. Những điều này là những điều mê tín lạc hậu, còn những loại sách địa lý là những loại sách phi đạo đức, muốn ăn không ngồi chơi mà làm giàu, muốn không đánh giặc mà làm vua, muốn không học tập mà làm quan thì thật là một điều bất công.
Đứng trên đạo đức làm người, ba năm cải táng là một việc làm vô đạo đức:
1, Điều vô đạo đức thứ nhất: ông cha đã chết đi, được chôn cất yên mồ ấm mả, bây giờ con cháu xúm lại móc lên, phải chi móc lên mà được sống lại thì cũng nên, móc lên để làm đám ma một lần nữa, giết hại sanh linh, tạo thêm tội ác không những cho những người còn sống mà người đã chết cũng thêm tội, chỉ có ăn uống nhậu nhẹt say sưa chứ chẳng có ích lợi gì.
2, Điều vô đạo đức thứ hai: là điều bất hiếu với người đã chết rồi, ba năm để nấm mồ đất lạnh, đó là tội thứ nhất. Nấm xương tàn cuối cùng cũng chẳng yên đó là tội bất hiếu thứ hai. Giết hại sanh linh làm đám gây tạo tội cho người chết đó là tội bất hiếu thứ ba.
3, Điều vô đạo đức thứ ba: là làm mất vệ sinh, gây nên môi trường sống ô nhiễm, khiến cho những người còn sống phải chịu những bệnh tật khổ đau tức là thiếu đạo đức làm người, làm khổ mình khổ người. Môi trường sống của chúng ta hôm nay tràn đầy sự ô nhiễm do vô tình mà chúng ta đã thải ra trong không gian biết bao nhiêu những loại khí độc, để rồi chúng ta phải thọ chịu lấy những hậu quả của những chất khí độc đó.
Tóm lại khi trong nhà có người chết thì chúng ta nên chôn cất một lần, xây mồ mả cho yên ấm ngay liền, đó là một việc làm tốt đẹp nhất, trong sạch nhất và đạo đức nhất của con người: “Sống cái nhà thác cái mồ.”
Thầy tin rằng mọi người khi hiểu được sự lợi ích này thì những phong tục tập quán kia sẽ được dẹp bỏ và phật tử các con là những người tiên phong đi trước để xứng đáng là những người con của Phật, sống đầy đủ đạo đức làm người, không làm khổ mình khổ người, luôn luôn phá dẹp những phong tục mê tín lạc hậu khiến cho mọi người không hao tiền tốn của một cách vô lý, khiến cho mọi người không bị những kẻ lừa đảo “tiền mất tật mang,” khiến cho mọi người không còn bị các tôn giáo lừa đảo bằng sự cúng bái tụng, niệm, ngồi thiền, thần thông, bùa chú v.v… làm những việc phi đạo đức.
95. ĐÀN CẮT GIẢI OAN KẾT
Hỏi: Kính thưa Thầy, đàn cắt giải oan kết là gì? Thưa Thầy, ở các chùa miền Bắc thường hay lập ra đàn cắt giải oan kết cho gia tiên tiền tổ rất là tốn kém.
Cuối tháng 11 âm lịch năm nay, có một gia đình lập một đàn cắt giải oan kết cho các cụ, gồm có cỗ mặn, cỗ chay tụng kinh lễ bái ba ngày đêm tốn hao trên 30 triệu đồng. Còn như nhà nghèo không có tiền chắc các cụ phải chịu oan kết mãi phải thế không thưa Thầy?
Theo thiển nghĩ của con thấy là quá lãng phí và tốn kém rất nhiều mà không có ích lợi gì, nếu cả đời con nằm mơ cũng chưa bao giờ có số tiền đó. Con cúi mong Thầy dạy rõ cho mọi người khỏi bị lừa gạt bởi những sự mê tín này, giúp cho mọi người sau này đỡ tốn kém và không mắc nợ vào thân.
Đáp: Trước khi muốn hiểu điều này thì chúng ta phải hiểu cho rõ ràng. Đàn cắt giải oan kết là gì?
Đàn có nghĩa là lập đàn tràng, nói rõ hơn để dễ hiểu là tổ chức một cuộc tế lễ cúng bái với một hình tức mê tín.. Cắt giải oan kết có nghĩa là làm cho đoạn dứt những điều oan ức của những người đã chết.
Những người chết tức, chết tối, chết oan, chết không đi đầu thai được, như những người tự tử, những người lính chết trận, những người chết bị tai nạn giao thông, chết bị cướp đâm, giặc giết v.v… Vua Đường Lý Thế Dân đánh Đông dẹp Bắc, chinh Nam, phạt Tây. Sau khi bình định được quê hương xứ sở thì những người chết oan vì chiến tranh vô số kể, vì thế vua Đường Lý Thế Dân cho người qua Thiên Trúc thỉnh kinh về lập đàn kỳ siêu giải oan kết. Tổ tiên, ông bà, cha mẹ của chúng ta có làm gì oan kết với ai, có chết đường, chết sá, chết tức, chết tối đâu mà phải lập đàn cắt giải oan kết.
Kinh sách phát triển bày ra nhiều điều mê tín lừa đảo người làm hao tốn tiền của phật tử mà chẳng có ích lợi thiết thực gì.
Luật nhân quả rất công bằng, trên đời này không có ai chết oan ức, nếu mọi người lái xe cẩn thận đúng luật lệ giao thông thì làm sao có tai nạn chết người thình lình, làm sao có sự chết tức chết tối. Nếu con người không có lòng tham lam, không vì quyền lợi thì làm sao có chiến tranh, không có chiến tranh thì làm sao có người chết. Bởi con người chết vì chiến tranh, chết vì thiên tai hỏa hoạn, chết vì giặc cướp, chết vì buồn khổ thất tình, thất vọng hoặc tức giận tự tử, chết vì tai nạn giao thông đều do nhân quả tự mình làm ra rồi tự mình phải gánh chịu hậu quả đó chứ không phải ngẫu nhiên mà chết.
Đối với luật nhân quả thì không có ai là người chết oan cả. Người chết thế này, kẻ chết thế khác đều do nhân quả. Người chết yểu không có nghĩa là chết oan. Người đó vô ý tứ dậm đạp lên chúng sanh khiến vô số loài côn trùng và loài kiến bị chết. Người ấy đã vô tình gieo nhân ác nên gặp người lái xe thiếu cẩn thận cũng vô tình gây tai nạn chết người, khiến cho người kia chết không toàn thây, đó cũng là trả quả, như vậy đâu có phải là chết oan.
Một đứa bé chơi bóng, chạy đuổi theo quả bóng ra đường bị xe cán chết, chết như vậy đâu có nghĩa là chết oan, mà chết theo luật nhân quả. Một người phụ nữ mang thai do sự nông nổi không làm chủ được mình nên sợ tai tiếng, do đó phá thai, thai nhi bị chết và chết như vậy không có nghĩa là chết oan, mà chết theo luật nhân quả.
Tất cả những sự sống chết khổ đau của con người đều nằm trong môi trường nhân quả cả, không một ai thoát ra khỏi định luật của nhân quả vì nhân quả chính là mình làm ra nhân, đến khi hái quả thì quả xử phạt lại chính mình, đo đó làm sao có sự oan kết được. Vì thế lập đàn cắt giải oan kết là một việc lừa đảo của kinh sách phát triển mà người phật tử cần phải suy tư chín chắn đừng để kẻ khác lừa gạt mình, hao tài tốn của vô ích. Là đệ tử của Phật, các con đừng tin theo những tà sư ngoại đạo này mà hãy dẹp bỏ những điều phi đạo đức, không phải là của Phật dạy.
96. TỰ TỬ
Chơn Như ngày 01 tháng 02 năm 2001
Kính bạch Hòa Thượng! Nếu như có một người già ốm bệnh hoạn sống dở chết dở, muốn tự mình hoặc nhờ người giúp đỡ chấm dứt cuộc sống của mình để không khổ mình và phiền khổ mọi người. Vậy người này có phạm tội tự sát không? Có phải là trốn nghiệp không? Và nếu có người giúp đỡ có bị tội không?
Đáp: Người tự tử là người có tội giết người mặc dù mình tự sát vẫn có tội như giết người khác. Tội giết mình còn nặng hơn tội giết người khác, cũng như tội làm khổ mình còn nặng tội hơn tội làm khổ người. Vì chính mình, mình còn làm khổ cho mình thì có ai mà mình từ bỏ. Tội tự giết mình còn mang thêm một cái tội nữa là tội trốn tù. Người giúp cho người tự tử là người có tội tòng phạm giết người.
Người già ốm bệnh hoạn sống dở chết dở nên tự mình hoặc nhờ người khác để chấm dứt cuộc đời, đối với luật nhân quả thì người đó tránh né trốn tội và như vậy tội còn nặng hơn
Luật nhân quả rất công bằng, khi một người làm ác thì phải trả quả khổ. Già, ốm, bệnh hoạn, sống dở, chết dở là đang trả những quả mà trước kia mình đã gieo nhân ác. Sao bây giờ vội tự sát để tránh quả khổ này ư? Nếu tránh được quả khổ thì làm sao còn có luật công lý và công bằng được? Đừng nghĩ rằng chết là hết khổ, chết là một sự tiếp nối trong đau khổ hơn. Nếu tự sát chết cho hết khổ, điều này không bao giờ có được. Luật nhân quả không phải lấy cái chết là hết tội được. Đối với luật pháp thế gian chết là hết tội, nhưng với luật pháp của nhân quả thì chết sẽ tiếp tục trả quả khổ kế tiếp và tội còn nặng hơn.
Tại sao vậy? Tại vì khi tự sát mình là tội giết người còn thêm một cái tội nữa là tội trốn tù như trên chúng tôi đã nói. Cho nên kẻ tự sát là kẻ trốn nghiệp, những người tự sát như vậy là những người hèn nhát trước cái khổ mà trốn tránh, không dám nhìn thẳng cái khổ, không dám lấy cái khổ làm niềm vui cho mình, không dám lấy cái khổ để trả nghiệp, không biết chuyển khổ làm vui, chuyển họa làm phước.
Xưa Đức Phật dạy: “Đứng lại thì chìm xuống. Tiến tới thì trôi dạt. Chỉ có vượt qua.” Kẻ gặp khổ mà đứng lại là kẻ hèn nhát chỉ biết kêu khóc, rên la, than thân, trách phận, oán trời, trách người, làm như vậy có lợi ích gì? Hoặc vào chùa cúng bái, tế lễ, cầu xin thì cũng chẳng bao giờ giải quyết được những gì? Hoặc trốn bỏ đi tu vào chùa thì những người này có tìm sự giải thoát chỗ nào được, đó là hạng người tránh né.
Kẻ gặp khổ cầm dao tự sát, hay uống thuốc độc hoặc thắt cổ, nhảy sông trầm mình tự tử, đó là những người trôi dạt, những người hèn nhát, những người này bị nhân quả xỏ mũi, những người này nô lệ cho nhân quả, những người này vô đạo đức thiếu ý chí làm người.
Người ta cứ nghĩ rằng khi chết là hết khổ, sự thật không phải thế, khổ là do nhân quả, ăn ở chẳng lành khiến cho bao nhiêu người khác khổ, vì thế mà phải thọ quả khổ để đền trả những điều mình đã làm ác, và như vậy không phải là đạo lý. Tại sao làm cho kẻ khác khổ bây giờ lại trốn tránh? Một đời dám ăn thịt chúng sanh, biết bao nhiêu xương máu và sự đau khổ của loài vật khác đã đem vào cuộc sống của mình mà bây giờ không dám nhìn thẳng sự khổ ấy? Không dám vui nhận sự khổ ấy? Cớ sao lại phải tự tử. Tự tử đâu có nghĩa là thoát khổ mà còn phải thọ khổ gấp trăm ngàn lần.
Tại sao vậy? Vì tự tử là tội ác chồng lên tội ác, các phật tử đừng nghĩ rằng mình tự giết mình là vô tội. Đối với luật nhân quả không có thời gian và không gian, nó chỉ biết có thiện và ác mà thôi. Vì không có không gian nên nó trừng phạt quý vị chịu khổ đau trong nhiều thân và nhiều kiếp; vì không có thời gian nên sự thưởng phạt của nó liên tục không gián đoạn. Nên quý vị bỏ thân này thì lại tiếp tục thân kia để chịu khổ đau và cái khổ đau này lại chồng lên cái khổ đau khác nữa.
Người tự tử đối với luật nhân quả được xem là tội giết người, phải xử phạt tội như xử phạt kẻ cố sát, còn thêm một tội nữa là tội trốn pháp luật (luật định của nhân quả).
Người giúp đỡ cho người tự tử cũng là có tội tòng phạm giết người. Một lời nói khiến cho người ta chết là tội giết người. Rầy mắng con cái khiến con cái tự tử là tội giết người. Vợ chồng rầy rà cãi vã khiến chồng hoặc vợ tự tử đều là tội giết người.
Tóm lại người tử tự là người trốn luật nhân quả, là con người không thể nào trốn luật nhân quả được. Dù trốn bất cứ nơi đâu cũng không thể thoát khỏi, trốn luật nhân quả càng trốn luật nhân quả là bị luật nhân quả chi phối nặng thêm, tức là thọ khổ nhiều hơn nữa. Chỉ có điều duy nhất là tâm bất động trước luật nhân quả là đã chuyển được nhân quả.
Hỡi các phật tử! Tất cả những sự đau khổ tận cùng của sinh mạng con người, nếu ai không dao động tâm thì thân tâm người ấy sẽ mát lạnh, chính người ấy đã chuyển được nhân quả của người ấy, người ấy thoát khổ.
Bởi vậy người tự tử là người ngu si tự mình làm khổ thêm cho mình, tạo thêm tội ác cho mình. Đức Phật dạy: “thọ là vô thường” có gì mà chúng ta phải sợ, vì thọ có khi có, có khi không, có gì mà chúng ta lo sợ mà tự tử phải không quý vị.
97. MẤT TRÍ
Hỏi: Kính bạch Thầy! Nếu như có một người mất trí phạm tội giết người thì đối với pháp luật thế gian họ không có bị tội vì không có chủ ý, nhưng đối với luật nhân quả họ có bị tội báo gì không thưa Thầy?
Đáp: Người mất trí là người đã bị luật nhân quả xử phạt tội rất nặng, nặng hơn tội giết người. Đối với luật nhân quả, tử hình xem như tội còn nhẹ. Sống mà chịu khổ đau đủ mọi điều thì đó gọi là địa ngục. Địa ngục là tội nặng nhất của luật nhân quả.
Người mất trí chỉ là một sự hình phạt nặng của luật nhân quả để người này thi hành bản án tử hình và làm khổ cho những người khác, để cho những người khác trả quả, chứ riêng bản thân kẻ mất trí thì không còn khổ đau gì cả. Lấy luật thế gian mà so sánh với luật nhân quả thì không thể được, luật thế gian tội tử hình là nặng nhất, ngược lại luật nhân quả không có tội tử hình mà chỉ có tội địa ngục là nặng nhất. Đối với luật nhân quả con người chỉ là một chuỗi dài nhân quả khổ vui mà thôi, chứ không có sự sống chết, sự sống chết chỉ là một sự vô thường thay đổi nối tiếp sự khổ vui nhiều hay ít hơn.
98. CÕI TRỜI
Hỏi: Trong tập hai mới này ở trang 294, khi Đức Phật chứng đạo, Ngài quan sát thấy nghiệp lực của mẹ sanh lên cõi Trời và đến cõi Trời đó để dạy mẹ tu hành. Như vậy học giả sẽ nghĩ có sự mâu thuẫn ở đoạn sau Thầy giải thích không có cõi Trời và chư Thiên. Xin Thầy hoan hỷ giải cho con những thắc mắc này.
Đáp: Một lần nữa Thầy xác định và quả quyết thế giới siêu hình không có, mà chỉ có thế giới siêu hình tưởng. Đức Phật thể hiện vào thế giới tưởng để độ mẹ. Thế giới tưởng của Đức Phật chứ không phải thế giới tưởng của mẹ Ngài. Bởi vì Đức Phật đã xác định ba mươi ba cõi trời là ba mươi ba cõi tưởng, mà cõi tưởng thì không ngoài con người còn sống mà có. Và như vậy cõi Trời tưởng của Đức Phật chứ không có cõi Trời tưởng của mẹ Ngài vì mẹ Ngài đã chết thì thế giới tưởng của mẹ Ngài cũng không còn.
Mẹ Ngài chỉ còn là một trạng thái nghiệp thiện, trạng thái nghiệp thiện đó không tái sanh làm người được, chờ khi nào trạng thái nghiệp thiện đó hết duyên thì mới tái sanh làm người. Trạng thái nghiệp thiện đó là một từ trường, nói một cách khác dễ hiểu hơn là một luồng khí, đây cũng chỉ là những ví dụ cho dễ hiểu chứ kỳ thật trí hữu hạn của chúng ta mà hiểu trạng thái của nghiệp thì chỉ có tưởng tri chứ không phải liễu tri.
Một người còn sống thì có ba thế giới: dục giới, sắc giới và vô sắc giới. Sắc giới là cảnh hiện hữu của chúng ta đang sống, vô sắc giới là cảnh mộng trong giấc chiêm bao của chúng ta. Trong cõi sắc giới có dục giới, cũng như trong cõi vô sắc giới thì cũng có dục giới. Khi một người chết, cõi dục giới, sắc giới và vô sắc giới đều đoạn diệt, chỉ còn nghiệp lực tương ưng nơi đâu thì tái sanh về đó. Vì thế mà bảo rằng không có thế giới siêu hình khách quan mà chỉ có thế giới siêu hình chủ quan.
Đọc kinh sách Phật, phần nhiều người ta cảm thấy như Đức Phật mâu thuẫn, lúc thì Đức Phật nói có cõi Trời, lúc thì nói cõi Trời là cõi tưởng. Đức Phật không mâu thuẫn, khi nói đến cõi Trời là Ngài nói đến cõi tưởng tức là cõi tưởng của Ngài, chứ chúng ta đừng hiểu có cõi tưởng bên ngoài Ngài.
Trong bài kinh Giáo Giới Nandaka dạy:
… “Thưa không vậy, Tôn giả. Vì sao vậy? Trước đây, thưa Tôn giả, chúng con đã khéo thấy như chơn với chánh trí tuệ rằng: “Sáu thức thân này là vô thường.”
“Lành thay, lành thay, chư Hiền tỷ! Chính phải là như vậy, là cái nhìn như chơn, với chánh trí tuệ của vị Thánh đệ tử. Ví như, chư Hiền tỷ, một ngọn đèn dầu được đốt cháy: dầu là vô thường, chịu sự biến hoại; ngọn lửa là vô thường, chịu sự biến hoại; ánh sáng là vô thường chịu sự biến hoại. Chư Hiền tỷ, nếu có ai nói rằng: “Ngọn đèn dầu này được đốt cháy; dầu là vô thường chịu sự biến hoại; bấc là vô thường chịu sự biến hoại; ngọn lửa là vô thường chịu sự biến hoại nhưng ánh sáng ấy là thường còn, thường trú, thường hằng, không chịu sự biến hoại”; chư Hiền tỷ nói như vậy là có nói chơn chánh hay không?
Thưa không vậy, Tôn giả. Vì sao vậy? Thưa Tôn giả, ngọn đèn dầu này được đốt cháy; dầu là vô thường chịu sự biến hoại; bấc cũng là vô thường chịu sự biến hoại; ngọn lửa cũng vô thường chịu sự biến hoại. Còn nói gì đến ánh sáng cũng là vô thường chịu sự biến hoại!”
Cũng trong bài kinh này còn cho thêm một ví dụ khác nữa:
… “Lành thay, lành thay, các Hiền tỷ! Chính phải là như vậy, là cái nhìn như chơn với chánh trí tuệ của vị Thánh đệ tử. Ví như, này các Hiền tỷ, có một cây to lớn đứng thẳng, có lõi cây vô thường chịu sự biến hoại, có rễ cây vô thường chịu sự biến hoại, với thân cây vô thường chịu sự biến hoại, với cành lá vô thường chịu sự biến hoại, với bóng cây vô thường chịu sự biến hoại.
Nếu có người nói như sau: “Có cây lớn đứng thẳng, có lõi cây này, với rễ vô thường chịu sự biến hoại, với thân cây vô thường chịu sự biến hoại, với cành cây lá vô thường, chịu sự biến hoại, nhưng bóng mát của cây ấy là thường còn, thường trú, thường hằng, không chịu sự biến hoại.” Này các Hiền tỷ, người ấy có nói một cách chơn chánh không?
Thưa không, thưa Tôn giả. Vì sao vậy? Thưa Tôn giả, cây to lớn đứng thẳng có lõi cây này, có rễ vô thường chịu sự biến hoại, có thân cây vô thường chịu sự biến hoại, có cành lá vô thường chịu sự biến hoại. Còn nói gì đến bóng mát cũng là vô thường chịu sự biến hoại!”
Cho nên thế giới siêu hình là thế giới tưởng, thế giới tưởng là thế giới bóng dáng của thế giới hiện hữu mà chúng ta đang sống. Vì thế khi chúng ta còn sống là thế giới ấy còn, chúng ta mất là thế giới ấy mất.
Hai đoạn kinh trên Đức Phật đã xác định rõ ràng thế giới siêu hình không có, nhưng khi nghe Thầy nói Đức Phật lên cõi Trời Đâu Suất để dạy mẹ tu hành thì các con tưởng là có cõi Trời thật. Không đâu, trong không gian chúng ta có ba mươi ba từ trường thiện (ba mươi ba cõi Trời) muốn tương ưng với từ trường nào đó thì Đức Phật nhập vào trạng thái từ trường đó ở tâm mình thì bắt gặp ngay liền từ trường thiện đó.
Từ trường thiện đó không phải linh hồn của người chết. Xin quý vị đừng hiểu sai lệch, vì không có ngôn ngữ nên chúng tôi không thể giải thích cho quý vị hiểu, chỉ tạm dùng danh từ “Từ Trường” chứ chưa được đúng lắm.
Thêm một lần nữa để chúng ta hiểu cho rõ, trong khoảng không gian trên hành tinh của chúng ta là một môi trường sống có nhiều từ trường thiện và ác. Những từ trường ác theo nghiệp ác hợp thành thế giới khổ đau (sắc giới, dục giới và vô sắc giới), còn từ trường thiện theo nghiệp thiện nên không hợp thành thế giới được vì là một từ trường đơn điệu.
Muốn thành một cõi giới thì phải có một sự hợp thành, không có một sự hợp thành thì không có cõi giới.
Ví dụ: Một cái nhà không thể lấy một cây cột hoặc một tấm tôn mà cho là cái nhà được, cũng như một cái xe không thể lấy một cây căm hay một cái đùm xe mà bảo rằng là xe được.
Thế giới chúng ta đang sống mà Đức Phật đã xác định là thế giới duyên hợp do mười hai nhân duyên hợp lại mà tạo thành thế giới này. Vì thế, một từ trường đơn điệu không thể tạo thành một thế giới được. Sau này con có dịp đọc đạo đức nhân quả thì con sẽ rõ thế giới siêu hình cụ thể hơn.
99. NHÂN QUẢ Hỏi: Kính thưa Thầy! Khuya 2 giờ con thức dậy ra sau hè tu tập thì con chó (ban quản lý nuôi canh giữ ký túc xá) thường chạy theo con. Trong suốt thời gian con tu tập nó nằm im một xó vừa bị run, vừa lạnh, vừa bị muỗi đốt trông rất tội nghiệp. Con đuổi nó đi, nhưng nó vẫn nằm ì, ngày thường con đâu có cho nó ăn gì, chẳng hiểu sao nó lại mến con. Có khi nào con và nó có nhân duyên tiền kiếp với nhau? Nghe người ta nói loài chó mèo rất có linh tính. Điều đó có đúng không thưa Thầy? Đáp: Tất cả những loài vật và mọi người đang sống chung quanh ta đều có duyên nhân quả thuận hay nghịch với nhau. Những loài vật nhỏ như kiến trùng muỗi, mồng, rắn, rết đang sống chung quanh con đều có duyên nhân quả với con cả, chứ không riêng con chó này. Nếu con giết chúng là con tạo nhân ác. Một con muỗi đến thăm con là đòi nợ máu của con, vô tình con chẳng biết rồi đập chết nó là con đã không trả nợ máu cho nó xong mà lại còn mang thêm nghiệp sát sanh giết muỗi. Khi một con kiến cắn, một con muỗi, một con mòng, một con rết hoặc con rắn cắn đều có nợ nhân quả với nhau cả. Ta hãy vui vẻ đừng giết chúng, vì có giết chúng thì quả đau khổ của chúng ta cũng không hết liền được mà lại tạo thêm nhân ác là giết chúng. Vì thế, khi bị chúng cắn đau đớn thì con nên nghĩ ngay rằng con đang trả nợ nhân quả. Do hiểu biết đang trả nợ nhân quả thì con liền dừng tay không làm thêm một tội ác (giết chúng sanh). Bố thí một ít máu cho con muỗi, con có chết gì đâu mà lại giết chúng để mãi mãi nợ nhân quả ác từ kiếp này đến kiếp khác không bao giờ dứt. Một con chó theo quấn quít bên con đều có nhân quả. Đời trước nó là một người thân của con, hiện giờ ở lốt nghiệp chó, con không biết nó là ai, nhưng khi con có đôi mắt Tam Minh vượt qua nghiệp thì con biết nó là ai ở kiếp trước của con. Nó có thể là cha, là mẹ, là anh chị em, là cô bác, là những người thân chứ không có ai xa lạ đâu con ạ! Vì hiểu biết nhân quả cho nên mọi người, mọi vật chung quanh ta đều là nhưng người thân của chúng ta. Do đó ta đừng đánh đập chúng mà hãy thương yêu và tha thứ khi chúng đã lỡ lầm xúc phạm đến ta hoặc làm cho ta khổ đau, hoặc chúng đói khát ăn lén thực phẩm của ta thì ta nên tha thứ đừng giết hại chúng, đừng làm chúng đau khổ mà hãy thương xót chúng như thương thân ta vậy con ạ! Vì nghiệp nhân quả mà con muỗi đốt ta để hút máu nuôi sống thân, chúng có biết gì đâu, chỉ theo quy luật nhân quả đói là phải ăn, mà ăn thì phải làm ác cũng giống như chúng ta vậy. Phải không con? Ở đời mọi người sống cũng vậy, vì không rõ nhân quả nên mọi người vì cuộc sống của mình mà chà đạp lên sự sống của loài vật khác, người khác. Vì cuộc sống của ta nên ta trở thành kẻ ác, gian tham, giết hại lẫn nhau. Con chó vì nhân quả ái kiết sử đời trước chưa tan, nên nó vẫn theo sát và nằm gần bên con, dù cho trời lạnh, muỗi đốt mà không hề rời con. Lòng yêu thương nó con đuổi nó vào, nhưng nó vẫn không nỡ rời lìa bỏ con vào nhà. Xem thế đủ biết luật nhân quả ái kiết sử quả là ghê gớm thật. Có đúng như vậy không con? Thương thì ai cũng thương, nhưng bản chất hung dữ và giận hờn, oán ghét thì ai cũng còn, chứ không bao giờ bỏ được. Phải không con? Chúng ta được sanh làm người đều do nhân quả nên lúc nào cũng bị chi phối bởi luật nhân quả. Buồn rầu, đau khổ, bệnh tật, tai nạn, thương yêu, giận hờn, v.v… đều do nhân quả cả. Chúng ta sống trong vòng tay nhân quả mà không biết chuyển đổi nhân quả thì không thể nào thoát khỏi vòng tay nhân quả. Không gian và thời gian là những mảnh lưới thiên la, địa võng của nhân quả nên không có một vật nào thoát ra khỏi sự chi phối của nó. Muốn thoát ra khỏi qui luật của nhân quả thì chỉ có sống thiện. Sống thiện có mười điều chúng ta cần phải thực hiện trong cuộc sống hằng ngày. 1, Không giết hại và ăn thịt chúng sanh. Trên đây là mười điều thiện để chuyển hóa nhân quả, khiến cho nhân quả xấu trở thành nhân quả tốt. Con hãy đọc sách Hành Mười Thiện và Tứ Vô Lượng Tâm mà Thầy đã cho ấn tống thì rõ. 100. PHÓNG SANH Hỏi: Kính thưa Thầy! Ở Châu Đốc người ta thường lợi dụng dịp vía bà Chúa Xứ, vía Quán Âm, vào ngày rằm lớn bắt chim nhốt vào lồng bán cho khách hành hương phóng sanh. Việc đó có ý nghĩa gì không? Thế nào là phóng sanh đúng chánh pháp? Đáp: Phóng sanh đúng chánh pháp là phóng sanh theo luật nhân quả, là phóng sanh đúng thời, đúng đối tượng. Đúng thời, đúng đối tượng như thế nào? Đúng thời và đúng đối tượng là thời gian vô tình chúng ta gặp một con vật đang bị lưới, bị câu thì ngay đó chúng ta xin mua con vật đó để phóng sanh. Đó là đúng giờ giấc và đối tượng nhân quả ta và con vật. Nếu xem xét trong nhân quả thì ta và con vật có nhân duyên với nhau đã khéo gieo nhân quả trong tiền kiếp, nên kiếp này gặp nhau trong hoạn nạn. Ta phóng sanh như vậy là phóng sanh đúng thời, đúng đối tượng, còn ra chợ mua chim cá phóng sanh là khiến cho người bắt chim cá giam nhốt lại trong chậu trong lồng để chờ chúng ta đến mua phóng sanh cho có giá. Phóng sanh như vậy là chúng ta mang tội đồng lõa với kẻ bắt chim cá. Có nghĩa chúng ta phóng sanh là trở lại thành tội sát sanh. (Vì đi bắt chim cá nhốt là đã vô tình dẫm đạp một số con vật chết; và khi nhốt thì có thể chúng bị thương, bị đói, bị xa đàn, lẻ bầy,… lòng dạ chúng cũng thương nhớ, âu sầu, sợ hãi,… và chết; hoặc có khi người khác thích ăn loại chim cá ấy đến mua thì chúng bị giết hết). Kinh sách Đại Thừa dạy phóng sanh nhưng không giải thích rõ ràng, vì thế người phóng sanh không được phước báo, ngược lại trong nhà có nhiều tai nạn, bệnh tật cho người này hoặc người khác. Làm phước mà không thấy phước, chỉ thấy tai họa, thật là tội nghiệp. Nếu từ đây có ai phóng sanh thì con khuyên họ phóng sanh cho đúng chánh pháp, cho đúng luật nhân quả, chứ không khéo phóng sanh mà cuối cùng lại mang họa vào thân. Loài chim cá bị lưới rập, chài câu đều là do nhân quả đời trước mà đời nay phải làm thân chim cá để bị người đời chài câu, lưới rập lại. Cho nên người làm nghề chài lưới cá tôm sau này thành thân cá tôm cho người khác chài lưới lại, đó là nhân quả. Người săn bắn lưới rập chim thú, sau này trở thành chim thú cho người khác săn bắn và lưới rập trở lại. Quy luật nhân quả xoay vần không ai có thể thoát lưới rập của nó được. Loài người và loài vật được sanh ra đều do quy luật của nó. Cho nên không ai trốn khỏi luật nhân quả. Nhân nào thì quả nấy, có vay thì phải có trả. Đối với luật nhân quả mà không đủ trí tuệ thì làm một điều thiện nhưng trở lại là làm một điều ác như đi ra chợ mua chim cá phóng sanh. Mới nghe thì rất thiện, nhưng lại là ác pháp vì không trí tuệ, thiếu sự hiểu biết vô tình khiến người làm ác lại làm thêm, nên làm thiện mà lại làm tội ác đồng lõa. Cũng như bố thí cho người ăn mày nghèo, không ngờ chúng ta lại bị người không nghèo lừa đảo. Họ không nghèo giả vờ nghèo, họ không tàn tật giả vờ tàn tật ngửa tay xin tiền. Ta vô tình bị lừa đảo, tiền mất mà không phước lại còn bị kẻ lừa đảo cười chê cho mình là ngu. Trong kinh dạy: - Này Đại Vương, muốn cúng dường, bố thí, phóng sanh cho đúng chánh pháp. Khi cúng dường phải chọn những người tu sĩ giới luật nghiêm chỉnh mà cúng dường thì mới được phước báo. Còn cúng dường cho những tu sĩ phạm giới, phá giới thì không được phước mà còn thêm tội nối giáo cho các tu sĩ phạm giới diệt Phật giáo. Tội ấy muôn đời sẽ không còn gặp chánh pháp của Đức Phật và đời sau sanh làm người, làm vật đều gặp nhiều tai nạn, bệnh tật nan y khổ đau vô cùng, vô tận. - Này Đại Vương, muốn bố thí thì phải chọn một người nghèo mà ăn ở hiền lành, hiếu hạnh đối với cha mẹ, không tham lam, trộm cướp, không giựt của người, không lấy của không cho. Bố thí cho những người ấy thì được phước báo vô lượng. Bản thân ít bệnh tật, ít tai nạn, gia đình luôn luôn mọi người đều được bình an, yên vui và hạnh phúc tràn trề. Còn bố thí cho những người ác tham lam, lấy của không cho, trộm cắp, cướp giựt thì không được phước báo mà còn tai họa sẽ đến, hay gặp bệnh tật khó trị.” Sư cô Trí Hải chuyển dịch Anh ngữ sang Việt ngữ những kinh sách có giá trị được mọi người biết đến. Nhưng khi đi làm từ thiện, đem tài vật đi bố thí cho những người nghèo, bất hạnh, mà bị tai nạn giao thông làm sư cô chết một cách đột ngột thê thảm và đau xót. Bố thí mà không được phước, còn mang họa vào thân. Nhân quả do những người tham lam giết người, cướp của, hại mạng chúng sanh hay ăn thịt chúng sanh hoặc bắt chim cá bán cho người phóng sanh. Vì thế mới lâm vào cảnh màn trời chiếu đất nghèo khổ, bất hạnh. Họ là những người không thiện, thế mà mình không trí tuệ mang của cải tài sản đến cho họ, nên mình phải lãnh nhân quả của họ. Vì thế tai nạn mới về mình. Cho nên Đức Phật dạy bố thí phải chọn lấy những người hiền lành mà bố thí thì mới được phước báo. Muốn phóng sanh thì phải chọn đúng nhân quả mà phóng sanh, chứ không phải đi tìm nhân quả của loài chúng sanh đang trả vay nợ nhân quả mà phóng sanh thì sai, không đúng chánh pháp. Phóng sanh như vậy là lãnh nhân quả của chúng. Cho nên người phóng sanh không được phước mà lại gặp tai nạn, đó là lãnh nhân quả của chúng. Kinh sách phát triển dạy phóng sanh hay bố thí thì người phóng sanh, bố thí không biết mình phóng sanh, bố thí và người nhận bố thí và vật được phóng sanh cũng không biết. Theo kinh sách phát triển, phóng sanh và bố thí như vậy mới là bố thí và phóng sanh đúng chánh pháp. Lời dạy này là lời dạy phóng sanh bố thí không trí tuệ, dạy như vậy đi phóng sanh và bố thí để trở thành cây đá. Bố thí mà không biết mình bố thí, phóng sanh mà không biết mình phóng sanh thì thật là vô lý, người được thí mà không biết mình được bố thí. Thật là ngu ngơ. Bố thí, phóng sanh như vậy là kẻ ngu dại si mê. Đối với đạo Phật, phóng sanh hay bố thí đều bằng trí tuệ nhân quả. Soi sáng tận gốc của nhân quả rồi mới bố thí, cúng dường và phóng sanh. |
|||
101. NHÂN QUẢ PHẢI TRẢ
Hỏi: Kính thưa Thầy! Ở kế nhà con có bà lão tuổi cao, sức yếu, thế mà ngày nào cũng phải đi bán vé số lo cho hai cháu đi học. Thằng con trai cầu tự của bà cũng chính là cha của hai đứa bé, suốt ngày ăn chơi, rượu chè, cờ bạc về nhà kiếm chuyện đập phá đồ đạc, đòi tiền bà như là món nợ tiền kiếp.
Lúc ở nhà con thường qua lại nói chuyện với bà. Bà mến con lắm. Nhìn tình cảnh của bà mà con động lòng thương. Con muốn nói lời nào đó an ủi bà, giúp bà vui vẻ trả nghiệp, vượt qua đau khổ mà suy nghĩ mãi không ra. Thầy có thể giúp con không?
Đáp: Bà lão này nợ đứa con trai và hai đứa cháu trong đời trước, đời này chúng sinh ra để đòi nợ, cho nên bà không bỏ được mà phải vất vả bán vé số nuôi hai cháu, nhưng còn phải đưa tiền cho cậu con trai đi nhậu, nếu không có tiền đưa thì nó đập nhà phá cửa. Thật là tội nghiệp cho bà, nhưng luật nhân quả ai gieo thì phải gánh chịu, dù chúng ta có thương giúp đỡ nhưng nghiệp nhân quả bà đâu trốn khỏi.
Con thương bà nên khuyên bà đừng buồn rầu, đừng than thân trách phận mà hãy vui lòng trả món nợ tiền kiếp. Vui vẻ chấp nhận khi con trai về xin tiền bà hãy vui lòng mà vét sạch tiền cho nó với tâm không buồn rầu, không trách mắng.
Đối với luật nhân quả muốn chuyển hóa thì phải vui vẻ và giữ gìn tâm bất động, xem như không có việc gì xảy ra. Khi nhân quả đến, đến với sự khắc nghiệt cay đắng đến mức độ nào, dù cho có chết ta cũng giữ gìn tâm bất động, chẳng sợ hãi, chẳng khiếp đảm thì ngay lúc ấy ta đã chuyển hóa nhân quả.
Nếu chỉ có một chút xíu sự buồn phiền, than trách trong lòng là ta bị nhân quả chuyển hóa tức khắc; là ta đang tạo thêm nhân quả.
Con muốn giúp bà thì nên khuyên bà vui vẻ sẵn sàng tha thứ cậu con trai thì mới chuyển đổi cậu con trai sẽ trở thành người tốt, lo làm ăn nuôi dưỡng hai cháu và phụng dưỡng bà.
Nhân quả chỉ có sống thiện, làm thiện thì mới chuyển đổi được, còn sống ác làm ác thì không bao giờ chuyển đổi được nhân quả mà còn gia tăng thêm.
102. CẦU CƠ
Hỏi: Kính thưa Thầy! Hằng năm sắp đến kỳ thi thì có những học sinh, sinh viên không lo học bài mà chỉ rủ nhau đi cầu cơ để hỏi vong hồn xem đề ra câu hỏi gì rồi học tủ câu đó. Chẳng may ma, quỷ, Thần, Thánh yếu năng lực chỉ sai câu, làm hại nhiều học sinh, sinh viên thi rớt chán nản, có người còn rơi vào tình trạng tuyệt vọng đến bất cần sống.
Thưa Thầy, cầu cơ là như thế nào? Có thực vong hồn về không? Tại sao nó nói nhiều chuyện đúng thực tế làm cho nhiều người phải khâm phục mà tin theo?
Đáp: Trong thân con người gồm có năm uẩn: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Sắc uẩn là phần hữu hình của bốn uẩn kia thường hoạt động trên thân tứ đại (đất, nước, gió, lửa). Trong thân tứ đại gồm có sáu căn, sáu thức và thường tiếp xúc với sáu trần bên ngoài.
Sáu căn gồm có: 1, Nhãn căn; 2, Nhĩ căn; 3, Tỷ căn; 4, Thiệt căn; 5, Thân căn; 6, Ý căn
Sáu thức gồm có: 1, Nhãn thức; 2, Nhĩ thức; 3, Tỷ thức; 4, Thiệt thức; 5, Thân thức; 6, Ý Thức
Sáu trần gồm có: 1, Sắc trần; 2, Thanh trần; 3, Hương trần; 4, Vị trần; 5, Xúc trần; 6, Pháp trần
Sáu căn tiếp xúc sáu trần sinh ra sáu thức tạo thành một sự sống của muôn loài muôn vật; một thế giới quan của Phật giáo hiện bày; một thế giới khổ đau đến với cuộc sống của con người và cả loài vật; một thế giới duyên hợp tưởng tri khiến cho con người sống điên đảo lầm chấp là có thật, nên tạo ra biết bao nhiêu điều ác làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh. Thế mà, còn chưa đủ lại tưởng tri thế giới siêu hình có linh hồn người chết, ma, quỷ, Thần, Thánh, v.v… Chính những hình ảnh ấy mà tưởng uẩn mới dựa vào đó mà hoạt động thành ra mới có người lên đồng, kẻ nhập cốt; mới có kẻ cầu cơ; mới có người cúng bái cầu siêu, cầu an, coi sao, bói quẻ, v.v…
Tưởng uẩn là phần vô hình của thân ngũ uẩn, nhưng nó hoạt động theo sự tiếp nhận của các từ trường sắc uẩn còn lưu lại trong không gian. Tưởng uẩn cũng có những năng lực như sắc uẩn và còn hơn nữa. Cho nên có những điều sắc uẩn không làm được mà tưởng uẩn làm được.
Vì những năng lực hoạt động kỳ lạ phi thời gian và không gian ngắn hạn của tưởng uẩn, nên tri kiến, kiến thức của con người không thể nào hiểu được. Do đó họ cho những năng lực ấy là thế giới siêu hình, là có sự sống sau khi con người chết.
Do không hiểu nên người ta mới tin tưởng cầu siêu, cầu an, cầu cơ, v.v... Do cầu siêu, cầu an, cầu cơ, v.v… mà gần đây người ta thành lập ra một tôn giáo siêu hình tưởng. Nói chung tất cả các tôn giáo không chứng minh giáo lý được như khoa học là tôn giáo tưởng, tôn giáo mê tín.
Cầu cơ là một hình thức cầu linh hồn người chết giáng cơ bút cho biết những điều mình ước muốn trong tương lai. Cầu cơ là một loại mê tín tri thức, chứ không phải loại mê tín bình dân. Cầu cơ là một phương pháp tập hợp tín lực vào một đối tượng ảo tưởng để nội lực tín lực của những người có mặt trong lễ cầu cơ thực hiện những ước muốn.
Nhất là những người trực tiếp cầu nguyện. Nếu những người đặt trọn lòng tin vào cơ bút thì tưởng uẩn sẽ họat động mạnh và rõ ràng. Còn không đủ tín lực thì tưởng uẩn không hoạt động, cơ bút không về hay nói cách khác là cầu cơ không được.
Cầu cơ chẳng qua là một việc làm đánh thức năng lực của tưởng uẩn hoạt động. Năng lực tưởng uẩn hoạt động đúng thì người cầu cơ phải thân tâm thanh tịnh, nếu thân tâm không thanh tịnh thì cầu cơ không linh tức là không đúng, vì thế những học sinh cầu cơ thi rớt là vậy.
Cho nên trước khi cầu cơ thì thân phải tắm rửa sạch sẽ, còn tâm thì phải giữ gìn trai giới nghiêm chỉnh, nhờ có sự thanh tịnh như vậy nên tưởng uẩn giao cảm nhận ra từ trường đúng như thật. Còn thân tâm không thanh tịnh thì tưởng uẩn không nhận ra đúng, nên tín lực tạo thành ảo tưởng, vì thế mọi việc cơ báo đều sai.
Cầu cơ cũng giống như lên đồng nhập cốt qua một hình thức khác nhưng cũng chỉ có một tưởng uẩn hoạt động giống như linh hồn người chết về nhập vào, thay vì nhập vào người thì gọi là lên đồng, lên cốt, nhập vào cơ thì gọi là cơ bút.
Cho nên cơ bút chỉ là tưởng uẩn của con người hoạt động, chứ không có linh hồn người chết hay Tiên, Phật, Thần Thánh, quỷ, ma nhập vào.
Những điều kỳ lạ xảy ra chung quanh thế giới của con người cũng chỉ nơi thân tâm con người lưu xuất, ngoài thế giới con người đang sống thì không bao giờ có thế giới vô hình nào khác. Bởi, mỗi con người đều có năm uẩn mà phần sắc uẩn chỉ có một, còn phần không hình sắc tới bốn uẩn như:
1, Tưởng uẩn (vô hình); 2, Thức uẩn (vô hình)
3, Thọ uẩn (vô hình); 4, Hành uẩn (vô hình)
Cho nên kẻ nào tin có Thiên Đàng, Cực Lạc, có linh hồn người chết, có Phật tánh, có thần thức, có ma, quỷ là mê tín, là thiếu óc khoa học, là thiếu đạo đức nhân bản - nhân quả, là những người còn lạc hậu.
Cầu cơ là một loại mê tín tri thức như trên đã nói, do những nhà tri thức mê tín, trong đó có học sinh, sinh viên và một số người có trình độ học thức cao nhưng vẫn không thoát ra khỏi sự mê tín này. Ngay cả những nhà khoa học vẫn sống trong mê tín, vì những trạng thái mê tín khoa học chưa giải thích được.
Gần đây có một số nhà khoa học dựa vào đạo học Đông phương giải thích theo khoa học vật lý. Cuốn sách “Đạo Của Khoa Học” được dịch từ sách “The Tao of Physies” của tác giả Frityof Capra do nhà khoa học giáo sư Nguyễn Tường Bách biên dịch. Tập sách dựa trên ngôn ngữ khoa Đạo Học Đông Phương, nhất là tư tưởng của Lão, Trang và Thiền Tông Trung Hoa để minh chứng một số vật lý siêu hình.
Dù cho các nhà khoa học có cố gắng làm sáng tỏ mọi vấn đề trừu tượng, nhưng vì vấn đề tri kiến của các nhà khoa học vẫn còn bị hạn cuộc trong không gian và thời gian. Vì thế không thể vượt qua hàng rào không gian và thời gian mà minh chứng được rõ ràng.
Muốn vượt qua hàng rào không gian và thời gian thì chỉ có tu tập Tứ Thánh Định của Phật giáo, ngoài ra trong thế gian này không có một loại thiền nào vượt qua hàng rào không gian và thời gian được.
Thường các loại thiền đều sống trong từ trường tưởng nên diễn tả thiền đạo bằng ngôn từ hư ảo, thực thực, hư hư, v.v... khiến cho mọi người hiểu rồi không hiểu; không hiểu rồi hiểu. Giống như một trò cút bắt. Do những danh từ hư ảo ấy mà các nhà khoa học lầm đạo học giống như khoa vật lý. Khi khám phá về vật lý thấy các pháp duyên tan hợp liên tục rồi cho đó là “Đạo của vật lý.” Cho nên các nhà khoa học còn bị “Đạo học” qua mặt huống chi là những người bình thường.
Kính thưa quý vị, Đạo học như vậy có ích lợi gì cho ai? Có bao nhiêu người đạt được đạo học ấy? Đạt được để làm gì? Hay chỉ để sống không bình thường như Bùi Giáng, Trần Chấn, Tế Công, v.v...
Cầu cơ là một sự đánh thức tưởng uẩn hoạt động để nó giao cảm với những từ trường mọi sự việc đã, sẽ xảy ra bằng tín lực của con người. Còn đúng sai là do thân tâm của những người cầu cơ có thanh tịnh hay không thanh tịnh như trên đã nói. Linh hồn con người không bao giờ có. Người chết chỉ còn lưu lại những âm thinh sắc tướng khi còn sống trong không gian bằng những từ trường.
103. MA ĐÈ
Hỏi: Kính thưa Thầy! Cách đây khá lâu con bị tình trạng ma đè (hay bóng đè theo cách gọi dân gian). Toàn thân con bị tê cứng, con không điều phục được gì, ngoại trừ hơi thở, lúc đó vô tình con nhớ đến pháp môn Định Niệm Hơi Thở của Thầy bèn tác ý “hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra.” Chỉ trong hai hơi thở con đã phục hồi trạng thái thân thể bình thường không cần xoa bóp chỗ tê như những người khác đã từng bị ma đè. Điều này được lý giải như thế nào? Xin Thầy chỉ dạy.
Đáp: Ma đè là một trạng thái tưởng, khi ngủ nửa tỉnh nửa mê, tình trạng này sắc uẩn chưa ngưng nghỉ thần kinh trọn vẹn, còn tưởng uẩn mới bắt đầu hoạt động nên cũng chưa hoạt động trọn vẹn, khiến thân con bị cứng không động đậy được, miệng chỉ ú ớ chứ không kêu la được như người ngủ mớ. Người bị ma đè cố gắng vùng vẫy cho đến khi tỉnh hẳn thì trạng thái ma đè biến mất.
Một người ngủ say thì không bị ma đè; một người ngủ trong chiêm bao cũng không bị ma đè, chỉ có người ngủ nửa tỉnh nửa mê, trạng thái ấy trong thiền định của Phật giáo gọi là hôn tịch. Nhóm hôn tịch gồm có: hôn trầm, thùy miên, vô ký, hôn tịch, ngoan không.
Chiêm bao, ma đè, v.v… đó là một nhóm trạng thái si mê, do tưởng uẩn hoạt động. Tưởng uẩn hoạt động điều khiển thần kinh chưa trọn vẹn nên lúc bấy giờ có một số thần kinh không hoạt động. Một số thần kinh không hoạt động nên người ngủ nửa tỉnh nửa mê mới có cảm giác thân bị đè nặng và không động đậy được.
Ở đây không có ma đè mà có một số thần kinh nghỉ ngơi chưa hoạt động trở lại bình thường trong khi còn đang ngủ nên cảm thấy thân cứng đơ.
104. NGHIỆP TÁI SANH
Hỏi: Kính bạch Thầy, con nghĩ khi chúng sanh luân hồi là do nghiệp lực, nghiệp lực như luồng khí, luồng từ trường sẽ thu hút những gì có chung duyên nhân quả với nó để hợp lại tạo nên một kiếp chúng sanh mới? Bởi vì ngay cả con người chết rồi là tan hoại hết thì chỉ còn có nghiệp luân hồi. Vậy nghiệp là thế phải không thưa Thầy?
Đáp: Đúng như vậy, con đã hiểu đúng nghiệp lực tái sanh luân hồi là như vậy. Khi một người còn sống hằng ngày thân, miệng, ý thường hay hoạt động tạo ra nghiệp lực, nghiệp lực có thiện và có ác.
Hành động ác thì làm khổ mình khổ người tạo ra nghiệp khổ chẳng lợi mình lợi người, mang đến sự khổ đau cho nhau, tạo cuộc sống chung như Địa Ngục.
Hành động thiện thì không làm khổ mình khổ người tạo ra nghiệp thiện lợi mình lợi người, mang đến hạnh phúc cho mọi người tạo cuộc sống chung an vui, thanh thản như cảnh giới Thiên Đàng.
Khi con người chết rồi, tất cả toàn thân ngũ uẩn đều trả về môi trường sống của nó, chẳng còn một vật gì là của ta dù chỉ còn lại một chút xíu nhỏ như đầu mũi kim cũng không còn, nhà cao cửa rộng, con bầy cháu đàn cũng chẳng còn gì, vàng bạc châu báu ngọc ngà cũng vô nghĩa, chỉ còn lại nghiệp ác thiện mà thôi.
Nghiệp ác thiện là gì?
Nghiệp ác thiện như con đã hiểu ở trên, nó là luồng khí như bao nhiêu luồng khí khác trong môi trường sống này, khi luồng khí nghiệp lực đó tương ưng với các luồng khí khác đủ duyên hợp lại thành một con người mới.
Nói một cách khác cho dễ hiểu là mỗi hành động của chúng ta làm, nói và suy tư đều có một từ trường, từ trường đó thiện hay ác là do hành động thân, miệng, ý ác hay thiện mà thôi.
Từ trường toàn thiện thì không có duyên để hợp nên không tái sanh, chỉ hưởng quả phước thiện ở từ trường đó chờ hết quả phước đó mới tái sanh làm người trở lại.
Còn từ trường thiện nhiều ác ít thì sẽ hợp duyên với những từ trường thiện ác khác trong môi trường sống và từ đó tiếp tục tái sanh làm chúng sanh mới trong hoàn cảnh thiện và phước báo đầy đủ, chứ không có linh hồn đi tái sanh.
Từ trường ác cũng vậy, sẽ hợp duyên với những từ trường ác khác trong môi trường sống và tiếp tục tái sanh trong hoàn cảnh khốn khổ đủ mọi điều khổ hoặc sanh làm những loài vật nhỏ bé ti tiện như côn trùng, sâu, bọ v.v… sống nơi ẩm ướt dơ bẩn, thời gian sống quá ngắn ngủi, tuổi thọ không được dài lâu.
Hỏi: Kính bạch Thầy, xin Thầy chỉ dạy “thức” trong mười hai nhân duyên và “thức” nào mà người vô minh cho là linh hồn? Họ dựa vào gì?
Đáp: Trong mười hai nhân duyên có ba thức:
1- Thức là thức uẩn (thức thức).
2- Danh là tưởng uẩn còn gọi là tưởng thức (cái thức trong giấc mộng).
3- Sắc là sắc uẩn còn gọi là sắc thức, sắc thức gồm có sáu thức: Nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức.
Người đời vô minh không rõ cho tưởng thức là linh hồn. Dựa vào những hiện tượng phi không gian và thời gian của tưởng thức tạo ra sắc tưởng như ánh sáng, lửa hay những hình bóng mờ mờ ảo ảo, v.v… thanh tưởng như âm thanh tiếng kêu, tiếng khóc, tiếng rên, v.v… hương tưởng như mùi thơm, mùi thối, v.v… vị tưởng như mùi vị ngon ngọt, cay, đắng xuất phát từ trong miệng của mình, v.v… xúc tưởng như cảm giác mát mẻ, nóng nực, khinh an, hỷ lạc, v.v… pháp tưởng như sự hiểu biết về các pháp tưởng v.v…
Như Tổ Long Thọ tưởng ra trí tuệ Bát Nhã Chân Không, Phật Tánh, v.v… hoặc nói chuyện quá khứ vị lai của người chết hay người đang sống rất đúng. Do những hiện tượng này nên tưởng tri của loài người dựng ra có thế giới siêu hình và cho tưởng thức là những con người vô sắc (linh hồn) sống trong thế giới đó.
Trong mười hai nhân duyên thì duyên “danh sắc” là một duyên mà chiếm hai thức, đó là sắc thức và tưởng thức. Do sự tu tập nhập Tứ Thánh Định, tịnh chỉ các thức mới biết rõ mười hai nhân duyên có ba thức chứ không có nhiều thức như các nhà Duy Thức phát triển chia chẻ đặt ra làm cho người sau khó hiểu.
Các nhà kinh sách phát triển cho ý thức không niệm thiện niệm ác là Phật Tánh, đó là một điều lầm lạc và quá sai do lạc vào tưởng tuệ tạo ra Tánh thấy, Tánh biết, Tánh nghe, ... Xin quý vị cứ suy ngẫm kỹ, nếu xét đúng thì tin chúng tôi, còn nếu thấy chúng tôi nói sai thì đừng tin.
Chúng tôi nói ở đây không phải tự nói mà không thấy, chúng tôi thấy biết rất rõ mới nói và nói ra không phải chỉ có một mình chúng tôi nói mà Đức Phật đã nói cách đây 2550 năm. Vì vậy những điều chúng tôi nói là lập lại của Đức Phật qua sự chứng thật của mình. Vì vậy quý vị tin là có lợi ích cho quý vị, còn không tin thì thôi và quý vị sẽ bị người khác lừa đảo “Tiền mất tật mang và phí công vô ích.”
Tóm lại: thân người có ba thức, không có linh hồn. Khi người chết đều tan hoại tất cả không còn một vật gì tồn tại, chỉ còn nghiệp thiện ác do trong lúc sống gây tạo ra do lòng ham muốn.
106. CHỮ “VONG LINH”
Hỏi: Kính bạch Thầy, kinh Tăng Chi, phẩm “Nghiệp Các Công Đức” trang 680, Phật dạy cho ngài Cấp Cô Độc: “Vị Thánh đệ tử với tài sản... thu hoạch đúng pháp... tổ chức năm loại lễ hiến cúng... hiến cúng cho các vong linh quá khứ...” để đạt được đi đến hưởng thọ đúng phương xứ. Con phải hiểu và hành theo ý kinh này như thế nào cho đúng?
Đáp: Con có đọc bài kinh Pháp Môn Căn Bản chưa? Ba mươi ba cõi trời là ba mươi ba cõi tưởng. Con có đọc bài kinh Mười Hai Nhân Duyên chưa? Khi mười hai duyên tan rã thì không còn một duyên nào cả. Vậy thì linh hồn ở chỗ nào mà có? Ở đoạn kinh này con phải hiểu nghĩa cho chính xác:
1- Nghĩa thứ nhất của nó sai là do người biên soạn viết ra hoặc người dịch không hiểu ý Phật nên dịch là vong linh.
2- Nghĩa thứ hai là kinh sách Phật không bao giờ dạy có mâu thuẫn nhau.
3- Nghĩa thứ ba trong bài kinh Tăng Chi Phật dạy đạo đức làm người nên phải dành ra một số tiền đã thu hoạch được để sửa sang mồ mả và nơi thờ tự để tưởng nhớ công ơn Tổ Tiên, ông bà, cha mẹ, đó là lời dạy của Phật về đạo đức làm người tỏ lòng biết ơn của những người quá cố.
Đừng có hiểu theo nghĩa của ngoại đạo “vong linh” mà phải hiểu theo nghĩa nhân quả “Cây có cội nước có nguồn” mới đúng nghĩa đạo đức làm người. Vì thế thờ cúng Tổ Tiên không có nghĩa là thờ cúng những vong linh người chết.
107. TỤNG KINH ĐỊA TẠNG
Hỏi: Kính thưa Thầy, trong kinh Địa Tạng có nói khi sanh nở không được sát hại để tìm vật bổ dưỡng cho sản mẫu ăn và biết trai giới chí thành trì tụng kinh này hoặc niệm danh hiệu ngài Địa Tạng một muôn biến v.v... đại khái là khi sanh cũng như lúc tử đều được lợi ích như ý.
Như vậy, chúng con thành tâm trai giới và trì tụng kinh Địa Tạng cùng niệm danh hiệu của ngài muôn muôn biến để cầu cho con của chúng con đặng thông minh được không? Và như vậy thì sự tương ưng nhân quả sẽ giải thích như thế nào? Và kinh Địa Tạng có phải là kinh Phật thuyết không? Chúng con cúi xin Thầy khai thị.
Đáp: Kinh Địa Tạng là một loại kinh mê tín của Đại Thừa, những điều trong kinh này dạy đều là ảo tửởng, không thực như:
"Muốn sinh con dễ nuôi, kiếp sau không sinh làm thân gái, không sinh vào hàng bần tiện, tướng hảo xinh đẹp ... hoặc đem chén nước trong để trước tượng một ngày một đêm bưng lấy uống một phen ngủ dậy đặng thông minh v.v... rồi kinh ấy dạy không được sát hại ... phải chí thành cúng dường trì tụng kinh Địa Tạng cùng tán thán công đức ... và niệm danh hiệu ngài Địa Tạng một muôn biến v.v..." (Trong kinh Địa Tạng đầy dẫy những đoạn dạy như thế...). Với những việc làm như vậy thì các bạn thấy có liên can gì đến đời sống, tướng hảo và sự thông minh của đứa bé không?
Ví dụ: Cha mẹ đứa bé này đều u tối, kém thông minh, đần độn trí nhớ, học trước quên sau... thì khi sinh đứa con, đứa con nầy do gen của cha mẹ kết hợp thành thai nhi. Như vậy đứa bé nầy có thông minh không các bạn? Cứ dựa theo lời dạy trong kinh này, không sát hại, ngày đêm chí thành cung kính cúng dường và trì tụng kinh Địa Tạng ...
Chúng tôi tin chắc rằng những việc làm này là không tương ưng với sự thông minh, nên đứa bé này vẫn u tối. Vì gen của cha và mẹ là gen không thông minh. Cho nên việc trai giới và tụng kinh là việc làm không tưởng đối với đời sống và sự thông minh của đứa bé.
Ngược lại hai vợ chồng người này là nhà bác học, có kiến thức sâu rộng, có đạo đức, có nhiều phát minh giúp ích cho nhân loại thì chắc chắn đứa con của họ phải thông minh, vì gen của hai người này là gen thông minh. Cho nên họ đâu cần tụng kinh cầu khẩn mà con họ vẫn thông minh. Có đúng như vậy không các bạn?
Nếu làm cha mẹ muốn cho con mình được thông minh thì cha mẹ phải siêng năng học tập, cha mẹ siêng năng học tập tức là huân tập sự thông minh. Do huân tập sự thông minh như vậy nên mới thi đỗ bằng cấp cao học, tiến sĩ và trở thành những nhà bác học. Do sự huân tập, học tập như vậy nên cha mẹ đã tạo ra những gen thông minh. Tạo ra những gen thông minh có sự tương ưng với chủng tử thông minh của đứa con, vì thế khi sinh con ra đời, đứa con phải thông minh.
Hành động học tập của cha mẹ, sinh con ra thông minh là đúng. Đó là tạo nhân thông minh tương ưng với các nhân quả thông minh của đứa con mình, có đúng như vậy không các bạn?
Còn hành động không sát hại và tụng kinh Địa Tạng cầu xin... các bạn xét với việc làm này có tương ưng với sự thông minh không? Như vậy, lời dạy trong kinh này phi lý, lừa đảo người nhẹ dạ dễ tin. Vì thế, kinh Địa Tạng dạy những điều đầy ắp những ảo tưởng gây mê tín, lạc hậu biến tư tưởng con người tiêu cực cầu xin tha lực, thường tựa lưng vào thế giới siêu hình, do đó sức tự lực của con người lần lần đã tiêu tan hết sạch…
Thưa các bạn! Khi chúng ta đọc kinh sách, dù kinh sách nào dạy một điều gì thì chúng ta cũng đều phải lưu ý: bất cứ một việc làm nào cũng phải có sự tương ưng với kết quả mục đích của nó, nếu nó không tương ưng với mục đích kết quả của nó thì đó là kinh tưởng giải tà kiến dạy sai.
Muốn cho con mình thông minh thì cha mẹ phải thông minh. Cha mẹ muốn thông minh thì cha mẹ phải siêng năng học tập. Đó là quy luật nhân quả rất tự nhiên, không thể có một điều nào khác hơn ngoài quy luật này. Ngoài quy luật nhân quả là ảo tưởng, không tưởng. Vì thế, chúng tôi khẳng định kinh Địa Tạng là kinh ảo tưởng của tà giáo ngoại đạo chứ không phải là kinh Phật.
Đây, các bạn hãy lắng nghe Đức Phật xác định:
"Như vậy, này Vàsettha lời nói của những Bà La Môn tinh thông ba tập kinh Vệ Đà người đầu không thấy, người giữa không thấy, người cuối cùng cũng không thấy "Phạm Thiên." Giống như lời nói mù quáng, lời nói của những Bà La Môn tinh thông ba tập kinh Vệ Đà như vậy là lời đáng chê cười, là lời nói suông, là lời nói không tưởng, là lời nói trống rỗng...”
Qua lời dạy trên đây chúng ta xét về kinh Địa Tạng, thì kinh Địa Tạng không đáng cho chúng ta tin cậy, vì kinh Địa Tạng là lời nói suông, là lời nói không tưởng, là lời nói trống rỗng…
108. CHO VỢ SINH NON THEO SỐ TỬ VI
Hỏi: Kính thưa Thầy, hiện giờ có một số người tin vào Tử Vi: "Nếu đứa bé ra đời đúng vào ngày giờ năm tháng như lá số đã chấm..." thì sẽ đem lại phước lộc cho gia đình, như thăng quan tiến chức, làm ăn khắm khá v.v... và tương lai của đứa bé sau này cũng thành đạt công danh hiển hách... Vì thế một số người trong ngành y và những người giàu có tin tưởng, đưa vợ mình sanh sớm đúng ngày giờ bằng phẫu thuật có lúc phải nuôi con trong lồng kính... Như vậy có đúng không? Cúi xin Thầy giải thích.
Đáp: Theo nơi Tử Vi thì đứa bé ra đời phải đúng ngày giờ năm tháng ... thì sẽ đạt được phước lộc cho gia đình và bản thân đứa bé sau này sẽ thành đạt hiển hách vv... có phải vậy không ?
Do sự lợi ích lớn như nêu trong số Tử Vi nên có người đưa vợ mình vào khoa sản để mổ xẻ cho đứa con ra đời sớm đúng ngày giờ năm tháng theo thầy tử vi (có nghĩa là phải sinh non và có lúc phải nuôi con trong lồng kính tại các nhà bảo sanh).
Thưa các bạn! Trường hợp số tử vi này chấm ngày giờ tốt cho đứa bé ... sẽ có lợi ích lớn cho cha mẹ và ngay cả bản thân nó. Thế mà đứa bé này phải chịu sinh non và người mẹ phải chịu mổ xẻ, thì đây là tai hoạ hay phước báu? Xin các bạn vui lòng trả lời cho!?
Số tử vi nói phước báu lớn, thế mà phước báu đâu không thấy, mà chỉ thấy sinh con non, mẹ phải chịu phẫu thuật, như vậy là tai hoạ cho gia đình phải không các bạn? Như vậy thì tử vi chấm không đúng mà còn khiến cho tâm tham vọng của con người phát khởi nên mới chịu cảnh mổ xẻ đau thương!
Tham vọng là ác pháp nên luật nhân quả không tha thứ, do đó gia đình này phải nhận lãnh quả khổ cả mẹ lẫn con và còn hao tốn tiền bạc. Như vậy số tử vi có đúng không xin các bạn vui lòng trả lời?
Nếu đúng sao mấy ông thầy tử vi không chấm số cho con cháu mình thăng quan tiến chức làm giàu, ăn trên ngồi trước với thiên hạ, có đâu lại đi hành nghề chấm tử vi, xem bói, là những nghề lừa đảo mọi người, các bạn nên lưu ý: Họ là những người hành tà nghiệp, sống bằng miếng cơm manh áo, làm ra tiền của hằng ngày không chân chánh.
109. CHỌN NGÀY GIỜ ĐỂ SINH CON NHƯ TRẠNG
Hỏi: Kính bạch Thầy, theo khoa dịch học lý số thì người cha và mẹ muốn sinh con xuất chúng như Lê Quý Đôn, như Trạng Trình thì phải biết lựa mùa tiết năm tháng ngày giờ nào hạp với ngũ hành v.v... để vợ chồng giao hợp, như thế có đúng không?
Vậy thì Dịch Lý và Phật lý có trái ngược nhau không? Vì Phật lý căn cứ trên luật nhân quả? Kính xin Thầy giải thích.
Đáp: Một lần nữa câu hỏi này cũng thuộc về khoa lý số. Cha và mẹ muốn cho con mình thông minh xuất chúng như: Lê Quý Đôn và Trạng Trình là phải lựa mùa tiết ngày giờ... hạp với ngũ hành để giao hợp v.v…
Thưa các bạn! Nếu như khoa lý số mà đúng như vậy thì các nhà lý số đều sinh con thông minh như Trạng Trình, như Lê Quý Đôn hết và như vậy luật nhân quả không còn công bằng, vì do lý số mà người ta cải hoán nhân quả!? Luật nhân quả thì phải có thiện có ác, mà đã có thiện, có ác thì phải có hành động tương ưng, chớ không phải như lý số. Cho nên con người thông minh hay u tối, đều do hành động nhân quả thiện ác của chính họ, chớ không phải dựa vào lý số cải ác vi thiện.
Vì vậy trí tuệ thông minh là phải do sự tu học huân tập nhiều đời, do nhân huân tập nhiều đời mà ngày nay đứa bé mới thông minh. Đó là một lý đúng mà không ai dám bảo rằng sai được. Còn theo lý số chọn ngày giờ... hạp thời tiết ngũ hành để giao hợp đặng có con thông minh, điều đó là tham vọng không đúng chánh pháp. Muốn đặng thông minh thì phải siêng năng tu học huân tập như trên đã nói ... "Vì Nhân nào Quả nấy."
110. NHẬP THẤT THỌ PHÁP ĐỂ CẦU SANH ĐẶNG CON THÁNH
Hỏi: Kính thưa Thầy, chúng con nghe kể có một vài môn phái bí mật truyền pháp cho những cặp vợ chồng nhập thất khoảng ba năm tu tập theo một phương pháp bí mật để mong cầu đặng sanh ra đời những bậc Thánh. Vậy xin Thầy định nghĩa Thánh Nhân là người như thế nào? Họ còn dâm dục không? Kính mong Thầy từ bi khai thị.
Đáp: Qua câu hỏi này chúng tôi xét thấy sự thật nếu tu cầu như vậy thì không đúng nghĩa Thánh. Trước khi muốn trả lời câu hỏi nầy chúng ta phải định nghĩa chữ Thánh.
Vậy Thánh nghĩa là gì? Thánh là người tài giỏi xuất chúng về văn học, cũng như võ học mà người đời thường ca tụng xưng hô như Thánh Trần Hưng Đạo, Quan Thánh Đế Quân, đức Thánh Khổng Phu Tử v.v... Tất cả những vị Thánh này được tôn xưng như vậy nhưng tâm họ vẫn còn phàm phu, có nghĩa là tâm họ còn tham, sân, si, mạn, nghi và còn dâm dục như bao nhiêu người khác.
Còn đứng về góc độ của tôn giáo thì những bậc Thánh không phải nghĩa như vậy. Thánh của Phật giáo gọi là Thánh Tăng, Thánh Ni, Thánh Sa Di, Thánh Cư Sĩ, Thánh A-la-hán v.v… Những vị Thánh của Phật giáo không có võ nghệ tuyệt luân, không có văn chương hay xuất chúng, không có đánh giặc giết người cướp thành trì,… Thánh của Phật Giáo là những con người sống đúng Phạm hạnh (Giới luật) ly tham đoạn ác pháp. Thánh của Phật giáo là tâm bất động trước các pháp ác và các cảm thọ. Thánh của Phật giáo là tâm vô lậu hoàn toàn, đầy đủ Tam Minh, Lục Thông… Thánh của Phật giáo là một người như bao nhiêu người khác nhưng có một đời sống không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh.
Những danh từ chỉ định nghĩa Thánh của Phật giáo nghe thì dễ không có gì cao siêu, nhưng làm không phải dễ, nhất là không làm khổ mình. Không làm khổ mình là một hành động đạo đức cao thượng mà chỉ có những bậc Thánh trong Phật giáo mới làm được. "Thắng trăm trận không bằng tự thắng mình, tự thắng mình mới là chiến công oanh liệt." Vì thế, Thánh của đạo Phật là từ con người phàm phu biết khắc kỷ mình, biết sửa sai những lỗi lầm, biết chế ngự lòng ham muốn, biết siêng năng hằng ngày ngăn và diệt ác pháp, biết tự nguyện sống đúng Phạm hạnh để trở thành bậc Thánh, chứ không phải bằng những phương pháp bí mật tu tập nhập thất ba năm để mong cầu sinh đặng con Thánh.
Thánh mà do con đường dâm dục sinh ra, xin các bạn định nghĩa! Xưa Đức Phật cũng là một người phàm phu, cũng có vợ, có con, cũng dâm dục, cũng có cha, có mẹ, sinh ra cũng từ chỗ bất tịnh nhơ uế, chớ đâu phải từ trên trời rơi xuống hay dưới đất trồi lên. Ngài cảm nhận được đời người là khổ nên từ giã xuất gia tu hành. Tu hành đúng chánh pháp, ngăn và diệt các ác pháp trong tâm mình, biết sửa sai những lỗi lầm của mình, biết từ bỏ những tà pháp thay vào bằng chánh pháp. Nhờ thế mà Ngài trở thành bậc Thánh A-la-hán Vô Lậu chớ đâu phải Ngài là Thánh có sẵn.
Theo câu hỏi này thì có một vài môn phái bí mật dạy đệ tử muốn sanh con Thánh thì vợ chồng phải thọ pháp, phải nhập thất tu tập như trên đã nói thì vợ chồng ấy mới sanh ra được con Thánh. Đã là Thánh mà sao không chọn con đường hoá sinh, mà lại chọn con đường sinh ra ô uế như vậy? Đã là Thánh thì làm sao tương ưng được với cha mẹ tâm còn tham sân si mà tái sinh luân hồi làm con họ. Đó là một sự lừa đảo của tôn giáo. Cho nên không ai có thể sinh con Thánh, chỉ có Bát Thánh Đạo mới sinh ra con Thánh. Từ con người phàm phu làm nên Thánh là do con đường Bát Chánh Đạo, các bạn nên lưu ý để các bạn khỏi bị lừa đảo.
Các bạn lắng nghe Đức Phật dạy: “Này Vàsettha, người nói tỳ-kheo không có dục ái, Phạm Thiên không có dục ái, có thể có một sự cộng hành cộng trú không? Thưa Tôn giả Gotama, có thể được…”
Thưa các bạn! Trong thời Đức Phật, người ta tôn kính Phạm Thiên như bây giờ chúng ta tôn kính Phật và A-la-hán vậy. Theo như lời dạy trong kinh này, tỳ-kheo không có ái dục với Phạm Thiên không có ái dục thì hai người giống nhau, hai người giống nhau thì cùng cộng trú cộng hành với nhau.
Còn ở đây cha mẹ tu hành mà còn dâm dục nên mới sinh con. Khi cha mẹ sinh con ra là do đường dâm dục, tức là cha mẹ còn dâm dục và đứa con được sinh ra trong đường dâm dục thì đứa con phải còn dâm dục, còn dâm dục thì tương ưng với dâm dục. Nếu đứa con là Thánh thì không còn dâm dục, không còn dâm dục thì không thể tương ưng với cha mẹ. Không tương ưng với cha mẹ thì làm sao sinh con Thánh được. Cho nên tôn giáo này dạy phi lý. Đây là Thánh không tưởng.
Vì vậy, chấm số tử vi, tụng kinh, thọ bí pháp, nhập thất,… để cầu mong sinh con Thánh là sai, không hợp lý, thiếu logique. Qua đoạn kinh trên đây Đức Phật đã xác định rõ ràng. Vậy bây giờ các bạn còn tin những điều phi pháp này nữa không?
111. LÀM KIẾP CON MÈO LÀ SẮP ĐẾN KIẾP LÀM NGƯỜI
Hỏi: Kính thưa Thầy, người chết đi sau khi bị hành tội dưới địa ngục rồi mới đi đầu thai, lần lượt sanh thành 12 loài động vật: Chuột, trâu, cọp, mèo, rồng, rắn, ngựa, dê, khỉ, gà, chó, heo. Khi sanh làm kiếp mèo là kiếp cuối cùng của loài động vật thì mới sanh làm người. Như vậy có đúng không thưa Thầy?
Đáp: Đời người sanh ra với trí hữu hạn, thường sống trong tưởng thức nên sanh ra nhiều chuyện mê tín dị đoan:
1- Chưa bao giờ có ai biết địa ngục ở đâu, thế mà mọi người vẫn cho là có địa ngục.
2- Chưa bao giờ có ai biết linh hồn như thế nào, mà cho rằng chết linh hồn đi xuống địa ngục và đi đầu thai.
3- Chưa bao giờ có ai biết chính xác: Con người chết sanh làm thú vật và thú vật sanh làm người.
4- Có bao giờ ai biết chính xác: Con mèo chết sanh làm người chưa? Chỉ ước đoán loài vật nào được ăn trong chén, dĩa nên cho nó sẽ chết làm người.
Ví dụ: Có người nào sanh ra mà tự ăn trong bát đĩa chưa? Hay là ăn bốc hốt bằng tay bằng chân, bằng miệng? Muốn ăn trong bát đĩa cũng phải có sự tập luyện từng chút rồi mới cầm đĩa, muỗng được. Bảo rằng, làm kiếp con mèo là kiếp cuối cùng của loài cầm thú thì không đúng. Đây chỉ là sự tưởng tượng của những người sống trong tưởng, dựa theo cách thức ăn uống của con người rồi tưởng ra, chứ mèo rừng có chén đĩa đâu mà ăn? Không phải chúng ăn dưới đất, dưới cát sao?
Chính con người, tự đặt ra năm, tháng, ngày, giờ rồi dùng tên của những con thú vật mà gọi tên năm, tháng, ngày, giờ như: “năm Tý, tháng Tý, giờ Tý; năm Sửu, tháng Sửu, giờ Sửu rồi Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.” Ai sanh năm nào đúng tên con vật đó liền gọi là tuổi đó.
Ví dụ: Năm nay là năm Tân Tỵ, cháu bé sanh vào năm này thì gọi cháu bé đó có tuổi Tỵ (tuổi Tỵ có nghĩa là tuổi con rắn).
Con người là con người, chứ không phải con người sanh ra để có tuổi con trâu, con chó, con ngựa, con heo, con mèo, con chuột v.v... Trâu, chó, ngựa, heo, mèo, chuột là những loài động vật, chứ đâu phải con người, thế mà con người sanh ra lại có tuổi con thú vật như vậy.
Con người là một loài động vật hơn muôn thú vật khác, cớ sao làm người mà còn lấy tuổi của con thú vật? Đó là một điều ngu si, mê muội của những người còn lạc hậu, trình độ khoa học chưa có nên sống trong vô minh u tối, giàu tưởng tượng, sống thụt lùi. Sáu mươi hai lập luận của ngoại đạo ngày xưa, đã bị Đức Phật bài bác thẳng tay khiến cho toàn bộ thế giới rung chuyển. Những học thuyết trừu tượng, mơ hồ, mê tín, lạc hậu này, đã làm cho con người điêu đứng khổ sở. Từ cất nhà cửa, đến cưới hỏi, ma chay, thậm chí đào giếng, đào ao, sửa bếp cũng xem tuổi tác, ngày giờ, tốt xấu.
Ảnh hưởng những truyền thống mơ hồ, trừu tượng, lạc hậu, mê tín từ ngàn xưa truyền lại cho tới ngày nay, đã khiến cho bao nhiêu người khổ đau và bất hạnh. Người ta không biết rằng: mọi tai nạn và mọi sự khổ đau trên đời này đều do hành động nhân quả thiện hoặc ác mà ra, chứ đâu phải do tuổi tác tốt xấu mà thành tai nạn khổ ách. Cho nên nếu một người cứ làm ác mà mỗi lần cất nhà xây cửa, hay làm tất cả mọi thứ, rồi đi coi tuổi tác, ngày giờ tốt xấu, liệu người ấy có qua khỏi tai nạn không?
Nếu một người đi ăn trộm, xem năm nay hợp với tuổi, được tuổi tốt và ngày xuất hành (đi ăn trộm) cũng tốt. Nếu tuổi ngày, tháng và năm đều tốt mà đi ăn trộm (làm điều ác) được trót lọt thì xã hội loài người chịu sao cho nổi bọn đầu trộm, đuôi cướp này. Phải không quý vị?
Nếu ngày giờ và tuổi tác, tốt xấu như kinh sách con (bói quẻ) nói thì con người sẽ làm ác, và thế gian này mấy ai sống lương thiện? Bởi vậy, kinh sách xem ngày giờ, tuổi tác, tốt xấu là những loại kinh sách phi đạo đức, cần phải diệt sạch, đốt sạch. Chính những kinh sách phi đạo đức này, đã đưa con người vào đường tội ác và lạc hậu, mê tín, sống trong ảo tưởng.
Lấy 12 con thú vật làm 12 con giáp rồi tính ra năm, tháng, ngày, giờ để chia thời gian làm ra lịch. Lúc đầu lịch sách rất có ích lợi này cho loài người. Những người làm ra Âm lịch chia thời gian để biết mưa nắng, gió, bão giúp cho nhà nông biết thời vụ làm mùa. Đó là sự ích lợi phục vụ rất lớn cho loài người, lấy nông nghiệp làm nghề chánh cho sự sống.
Từ lịch sách có lợi ích, những kẻ xấu bụng dựa vào sách lịch này triển khai biến thành khoa bói toán, xem ngày tốt xấu để lừa đảo người khác, làm tiền một cách vô lương tâm, biến thành sự siêu hình vô đạo đức.
Đến giờ này, người ta còn tưởng tượng ra kiếp con mèo là kiếp cuối cùng của loài động vật, hết kiếp con mèo sẽ tái sanh làm người. Đó là một lý luận mơ hồ trừu tượng không có sự chứng minh cụ thể, vậy mà mọi người vẫn tin theo và có người thì bán tin bán nghi, chưa biết chắc đúng sai. Nếu chúng ta muốn trở thành những người có đạo đức, thì phải ăn ở như thế nào mà mọi người chấp nhận là người có đạo đức. Nếu chúng ta ăn ở đối xử với mọi người đầy tánh hung ác, đụng cái gì cũng chửi mắng người, rồi say sưa, rượu chè, đĩ thõa, điếm đàng, trộm cướp thì làm sao chúng ta chấp nhận là người có đạo đức?
Cũng như chúng ta muốn làm một bậc Thánh nhân thì đâu phải chỉ có ăn hiền ở lành, mà còn phải có những Thánh hạnh cao thượng, chứ ăn ở như thú vật thì làm sao gọi là Thánh nhân được.
Không có con mèo nào ăn hiền ở lành cả. Bộ dáng thì dễ thương, nhưng bản chất hung ác, gặp chuột thì chụp ngay xé xác liền, gặp cá thịt thì ăn quên thôi, tâm còn hung ác thì sanh ra làm người sao được? Thế mà người ta tưởng tượng ra kiếp làm con mèo là sắp làm kiếp người!
Đức Phật dạy: “Được thân người khó, khó như con rùa mù tìm bọng cây giữa biển.” Như vậy, được thân người không phải dễ đâu. Thân người chỉ sống có thời gian quá ngắn, 100 tuổi là cùng, thế mà người ta tiêu phí thời gian một cách vô ích. Đức Phật dạy:
“Tấc bóng thời gian một tấc vàng
Tấc vàng tìm được không gì khó,
Tấc bóng thời gian khó hỏi han.”
Theo luật nhân quả, bất cứ con thú vật nào muốn sanh làm người đều phải sống trong thiện pháp, hoặc người nuôi chúng tạo môi trường cho chúng sống trong thiện pháp thì chúng sẽ sanh làm người sớm.
Ví dụ: chúng ta nuôi một con mèo mà cứ cho ăn thịt cá thì đương nhiên hiện tại chúng ta được xem là thương chúng, nhưng chúng mãi mãi trôi lăn trong kiếp làm con mèo và những loài vật khác không bao giờ sanh làm người được. Đó là ta hại chúng, chứ không phải ta thương chúng. Ta cho chúng ăn cơm, nước tương, đậu, dưa, chúng không thích ăn nhưng hết kiếp làm con mèo, chúng sanh làm người. Đó là thương chúng, khiến cho chúng sanh làm người hạnh phúc hơn làm loài chúng sanh. Luật nhân quả rất công bằng, đối xử với tất cả mọi người, mọi vật trên hành tinh này.
Trước khi đọc những câu chuyện kỳ lạ, chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu lại cho rõ thân ngũ uẩn của mỗi người. Trong cơ thể con người có năm uẩn, nhưng mỗi uẩn phải làm việc theo nhiệm vụ của nó. Nếu một con người bình thường thì có ba uẩn làm việc gồm như sau: 1- Sắc Uẩn; 2- Hành Uẩn; 3- Thọ Uẩn.
Ba uẩn này hoạt động thì con người không có gì mầu nhiệm, nhưng khi có Tưởng Uẩn hoạt động với ba uẩn kia thì con người có nhiều điều mầu nhiệm mà trí thức con người không thể giải thích được, dù khoa học hiện đại cũng không làm sáng tỏ. Khi người ta không giải thích được những hiện tượng kỳ lạ của thân tâm con người thì người ta thường gọi là thiêng liêng hay là tâm linh.
Khi Tưởng Uẩn hoạt động nơi hai bàn tay thì chúng ta gọi là Sự Mầu Nhiệm Của Những Bàn Tay. Thường Tưởng Uẩn hoạt động theo sáu căn của con người, có khi đồng thời nó hoạt động cả hai căn, có khi nó chỉ có một căn, khi nó hoạt động vào đôi bàn tay thì nó sờ vào thân chỗ nào có bệnh là bệnh giảm bớt và lành hẳn. Chúng ta hãy đọc những câu chuyện sau đây thì sẽ rõ.
112. SỰ MẦU NHIỆM CỦA NHỮNG BÀN TAY
Mùa thu năm 1989 tại Athen thủ đô Hy Lạp, đã tiến hành Hội nghị Quốc tế về những phương pháp trị bệnh ngoài tiêu chuẩn. Tại hội nghị này người ta trao đổi và tặng cho cô Djouna Davitasivili huy chương vàng của Viện Hàn Lâm Ngoại giao Liên hợp quốc, và huy chương “Tiến sỹ y học.”
Vậy cô Djouna là ai và có gì đặc biệt để xứng đáng được hưởng những phần thưởng cao quý này?
Cô Djouna sinh ra và lớn lên ở Cuban (Liên Xô cũ), hồi nhỏ cô đã cảm thấy có khả năng kỳ lạ mà người khác không có. Cô có khả năng trị các bệnh (cho bạn bè và người thân) như cục bướu, mụn cơm, hay cầm máu cho những vết thương nhẹ.
Ở thôn quê, nơi cô sinh sống, những bệnh lặt vặt đều được chữa trị bằng đôi tay của Djouna. Dù thời đó, người ta sẵn sàng kết luận là ma quỷ đồng bóng, nhưng mọi người không cho cô bé Djouna là phù thủy, vì trên thực tế cô chữa hết bệnh bằng tay không.
Và với đôi bàn tay nhiệm mầu này, Djouna đã cứu cha mình khỏi tử thần vì ông lên cơn động kinh lớn do chấn thương sọ não. Cô chỉ vuốt lên đầu người cha khi ông ngất đi, và ông đã khỏi.
Lớn lên Djouna vào đại học y khoa. Cái kiến thức y học giúp cô chữa trị tốt hơn. Với đôi tay mầu nhiệm, Djouna có thể chẩn đoán bệnh mà không cần thiết bị dụng cụ y tế. Djouna đã đạt đến điểm cốt yếu: “Tất cả những gì đang sống đều phải có một môi trường sinh vật học.”
Song nó tượng trưng cho cái gì?
Điều đó còn huyền bí?
Khi người ta không hiểu tại sao đôi bàn tay trị bệnh mầu nhiệm của Djouna như thế nào nên dùng những danh từ mù mờ để che lấp những gì khoa học và tri thức của con người chưa biết “Tất cả những gì đang sống đều phải có một môi trường sinh vật học.”
Những danh từ môi trường sinh vật học người ta không thể hình dung được sự sống trong vũ trụ, nhưng khi nói đến sự sống trong vũ trụ do một vòng tròn mười hai nhân duyên, hễ duyên này có thì duyên kia có và khi hợp đủ mười hai duyên thì thế giới đau khổ hiện bày. Nếu mười hai duyên này bắt đầu diệt một duyên thì các duyên kia đồng thời diệt theo và như vậy thế giới khổ đau sẽ bị diệt. Cho nên nói môi trường sinh vật học là những danh từ khoa học. Vậy đôi tay của Djouna là môi trường sinh học gì?
Khi người ta không trả lời được thì bảo rằng đó là Tâm Linh. Vậy tâm linh là cái gì? Có phải chăng Tâm Linh là những gì mà con người không thể giải thích được phải không?
Đúng vậy khi những gì không giải thích được thì chỉ còn biết dùng những từ Tâm Linh để tránh né sự ngu dốt, sự không hiểu biết của mình. Con người rất kỳ lạ, cái gì không hiểu, không giải thích được thì phủ nhận hoặc cho đó là Tâm Linh chứ không chịu khó tìm hiểu những điều Kỳ Lạ đó là do cái gì làm ra.
Theo chúng tôi nghĩ trên đời này không có cái gì Kỳ Lạ và cũng không có cái gì Mầu Nhiệm. Những kỳ lạ và mầu nhiệm là vì chúng ta chưa hiểu biết mà thôi. Có rất nhiều chuyện về đôi tay, vậy chúng ta hãy đọc tiếp “Sự Mầu Nhiệm Của Đôi Bàn Tay.”
Vài nhà bác học và hầu hết những người không tin những điều kỳ lạ này đều phủ nhận. Nhưng đối với Djouna tuy không giải thích được nhưng nó vẫn tồn tại. Đối với mọi dư luận, dù tin hay không tin nhưng thực tiễn thì đôi bàn tay của Djouna vẫn đang chữa trị được bệnh cho mọi người.
Với bàn tay mình, Djouna điều trị được một số bệnh với chứng thực khoa học. Cô đã giúp các bác sĩ xác định đúng căn bệnh, phương pháp trị liệu tốt hơn. Năm 1988, tại Matxcơva đã xuất hiện cuốn sách “Tôi nghe bàn tay mình” của Djouna (Nhà xuất bản Khoa học Kỹ thuật Hà Nội dịch và xuất bản năm 1995). Cuốn sách này nói về khả năng Thiên Phú Tuyệt Vời và nỗi đau của chị khi chưa được công nhận, vì có nhiều người hiểu sai rồi bài xích.
Viện giám định Quốc gia Liên Xô năm 1989 đã quan tâm đến những kết luận của Bộ Y tế, chính thức công nhận phương pháp chữa bệnh bằng đôi bàn tay của Djouna. Thế nhưng Djouna vẫn chỉ là người duy nhất có hai bàn tay mầu nhiệm qua ngần ấy năm. Cô vẫn chưa hiểu nguyên nhân vì đâu mà có và chưa thể huấn luyện lại cho người khác hay cho cộng đồng biết chữa bệnh. Không hề có thế hệ thứ hai của Djouna biết chữa bệnh.
Đúng vậy chính Djouna tự không biết đôi tay của mình làm sao mà có khả năng trị bệnh như vậy. Hầu hết mọi người trên thế gian này cũng không hiểu biết huống là Djouna.
Những điều khó hiểu này chỉ có những người am tường Phật giáo tu hành chứng đạo thì biết rất rõ sự mầu nhiệm này từ đâu lưu xuất ra. Sự mầu nhiệm này thật sự thì không mầu nhiệm chút nào cả, nếu chúng ta biết rằng Tưởng Uẩn trong thân chúng ta làm ra những sự mầu nhiệm này thì không còn gì là mầu nhiệm được nữa.
Theo Phật giáo, trong thân người có năm uẩn, khi Sắc Uẩn hoạt động thì con người sống bình thường không có cái gì là mầu nhiệm cả, chỉ khi nào Tưởng Uẩn hoạt động thì tri thức con người không giải thích được nên gọi nó là Mầu Nhiệm. Nếu Tưởng Uẩn hoạt động nơi căn nào thì căn đó mầu nhiệm. Như Djouna thì Tưởng Uẩn hoạt động nơi đôi tay nên đôi tay của Djouna trị hết bệnh cho mọi người.
Ở Việt nam có một thời xuất hiện một ông thầy trị bệnh bằng nước lã, ông ta chỉ dùng tay mình rờ vào chai hoặc ly nước rồi cho người bệnh uống là bệnh hết, rồi lại có xuất hiện một ông thầy lá cây, cứ ông ta rờ lá cây bất cứ lá cây nào, khi được tay ông ta rờ vào rồi đem về nấu uống là hết bệnh.
Tất cả những hiện tượng này xảy ra đều do Tưởng Uẩn hoạt đông. Khi người ta không hiểu thì cho rằng: “Bao sự kỳ lạ quanh ta mà khoa học hiện đại chưa có lời giải trình thỏa đáng.” Trái tim Thích Quảng Đức, nhục thân Vũ Khắc Minh và Vũ Khắc Trường để lại đang thờ tại chùa Đậu đâu có gì là lạ mà chỉ là sự không hiểu biết của mọi người nên thấy kỳ lạ.
Khi trái tim của Hòa Thượng Thích Quảng Đức đốt không cháy là do Tưởng Uẩn của Hòa Thượng Thích Quảng Đức khởi hoạt động (đồng hành) trong khi ý chí (Sắc Uẩn) dũng cảm ngút ngàn của Hòa Thượng quyết liệt chống lại chế độ độc tài kỳ thị tôn giáo của gia đình trị Ngô Đình Diệm.
Và nhục thân của Vũ Khắc Minh, Vũ Khắc Trường được duy trì đến ngày nay hiện để lại như hai bộ xương khô cũng là do Tưởng Uẩn của hai Ngài, khi còn sống hai Ngài tu tập thân tâm đều rơi vào Định Không Tưởng, lúc đó Tưởng Uẩn của hai Ngài hoạt động tác dụng vào thân nên khi chết nhục thân hai Ngài không bị hoại diệt, sình trương hôi thối như các thân người khác. Cho nên khi hiểu biết sự hoạt động của Tưởng Uẩn thì cuộc sống quanh chúng ta đâu còn cái gì cho là Bí Ẩn Kỳ Lạ, đâu còn cho là Tâm Linh.
Có một nhóm người không hiểu biết Tưởng Uẩn nên khi nghe nói đôi tay trị bệnh của Djouna thì tuyên bố ở Việt Nam sẽ có những người biết dạy cho nhau cách tạo ra và sử dụng năng lượng sinh học (mà gọi là “nhân điện,” “ngoại cảm,” “trường sinh học”…) để chữa bệnh bằng đôi tay mầu nhiệm, nhất là từ năm 1991 tới nay.
Chúng ta cùng đọc đoạn viết sau:
“Phương pháp chữa bệnh bằng năng lượng sinh học (nhân điện) đã được các nước trên thế giới công nhận như Liên Xô, Mỹ, Venezuela…
Tính đến nay, ở nước ta có hàng ngàn đôi bàn tay mầu nhiệm như vậy. Gia đình Nhân điện Việt Nam ra đời theo quy luật khách quan và nhu cầu bức thiết của cuộc sống đời thường. Bước đầu những người có “đôi bàn tay mầu nhiệm” làm từ thiện, chữa bệnh cho những ai tự nguyện, kể cả các trường hợp đã cùng đường, sau khi qua nhiều bệnh viện, nhiều thầy thuốc.
Theo những tư liệu mà một số cơ sở nhân điện ở Việt Nam còn lưu giữ được (hồ sơ bệnh án, ảnh chụp, băng video, thư cảm ơn, giấy xác nhận…) thì họ đã tự chữa hoặc chữa cho người khác khỏi hoặc đỡ hẳn một số chứng bệnh như: hội chứng đau (đầu, cổ, lưng, tứ chi, bụng, ngực…) mất ngủ kéo dài, suy nhược, cao huyết áp, thấp khớp, hen suyễn, động kinh, suy tim, viêm tấy phần mềm…
Vậy đấy, những điều bình thường đang xảy ra trong cuộc sống quanh ta, trong đó có những bàn tay mầu nhiệm chữa bệnh bằng nhân điện - Năng lượng sinh học.”
GS.TS. NGUYỄN ĐÌNH PHƯ
(Trong tập “Nhân điện – những phát hiện và ứng dụng” NXB VHTT 1996).
Chúng ta đã nghe giáo sư tiến sĩ Nguyễn Đình Phư quảng cáo Nhân Điện như bài viết trên đây.
Vậy nhân điện là gì?
Người ta cứ nghĩ rằng trong mỗi thân con người có những dòng điện vô hình nhưng luyện tập có kết quả thì dùng nó sẽ trị được nhiều thứ bệnh. Khi luyện tập họ dùng cái gì để luyện tập, vì là nhân điện vô hình thì không thể dùng ý thức được, cho nên họ dùng Tưởng Uẩn để tập luyện, khi thành công trị bệnh được thì có phải là do Tưởng uẩn không?
Cô Djouna không dùng Tưởng Uẩn luyện nhân điện mà tự đôi tay cô có công năng trị hết tất cả các thứ bệnh thì như vậy đâu phải là nhân điện.
Khi quý vị luyện tập nhân điện thì quý vị cho cái gì trị bệnh đều là nhân điện hết sao. Trước khi có nhân điện quý vị đã dùng Tưởng Uẩn để luyện tập như thế nào quý vị biết không? Nếu quý vị quả quyết có nhân điện trị bệnh mà bệnh nào cũng hết thì từ khi có nhân điện đến bây giờ thì bệnh viện sẽ đóng cửa vì còn ai đến bệnh viện trị bệnh. Quý vị đừng quảng cáo ca ngợi nhân điện nhiều quá mà thành quý vị nói không thật. Hiện giờ quý vị cứ đến bệnh viện mà xem. Bệnh viện không còn đủ giường cho bệnh nhân nằm, phải hai, ba, thậm chí tới bốn người bệnh một giường.
Nhân điện do luyện tập bằng Tưởng Uẩn mới có nhân điện. Cho nên khi trị bệnh không phải bệnh nào cũng hết. Bệnh nhân nào hết bệnh là bệnh nhân ấy phải hợp với Tưởng Uẩn của người trị bệnh tức là Tưởng Uẩn người trị bệnh và người bệnh phải tương ưng, còn nếu không tương ưng thì không bao giờ hết bệnh.
Đôi tay của Djouna tuy trị hết bệnh nhưng bệnh nhân nào có Tưởng Uẩn tương ưng với Tưởng Uẩn đôi tay của Djouna thì mới hết bệnh. Nên khi Tưởng Uẩn không hoạt động thì đôi tay không còn mầu nhiệm trị bệnh được nữa. Hầu hết những người trị bệnh bằng Tưởng Uẩn thì chỉ có một thời gian rồi sau đó không còn trị được bệnh cho ai cả.
Do biết Tưởng Uẩn nên chúng ta không thấy có Tâm Linh, không có sự Mầu Nhiệm mà đó chỉ là một sự hoạt động tự nhiên năm Uẩn của con người. Nhưng tại sao người có Tưởng Uẩn hoạt động mà cũng có người Tưởng Uẩn không hoạt động.
Thường con người ai cũng có Tưởng Uẩn, nhưng Tưởng Uẩn vẫn nằm im lìm không hoạt động, chỉ khi nào có một cú “sốc” chết đi sống lại thì Tưởng Uẩn mới hoạt động như nhà ngoại cảm Bích Hằng bị chó điên cắn.
Theo chúng tôi hiểu biết, hiện giờ có một số người có khả năng Tưởng Uẩn hoạt động. Để chứng minh được những điều này chúng ta nên nghiên cứu lại những chuyện đã xảy ra được báo chí và được viết ra thành sách. Chúng ta hiện giờ chỉ chịu khó nghiêm cứu thì sẽ biết rõ thực chất của những điều kỳ lạ và mầu nhiệm là do đâu.
113. SỰ BÍ ẨN KỲ LẠ CỦA MỘT TRÁI TIM
Ngọn lửa tự thiêu của Hòa Thượng Thích Quảng Đức phản đối Mỹ – Diệm cách nay gần 40 năm đã đi vào lịch sử đấu tranh của giới Phật giáo Việt Nam cùng với đồng bào cả nước chống xâm lược.
Thân xác Ngài sau 40 giờ hỏa táng, xương thịt của Ngài đã trở về tro bụi – nhưng kỳ lạ thay: trái tim của Ngài vẫn còn nguyên vẹn!
Khi miền Nam giải phóng – năm 1975, trái tim đó được chuyển gửi và giữ gìn ở Ngân hàng nhà nước Việt Nam và sau đó được đưa ra Hà Nội để các nhà Khoa học làm công việc nghiên cứu.
Với người dân thì trái tim Hòa Thượng Thích Quảng Đức vẫn là điều bí ẩn. Nhưng đối với chúng tôi thì không có bí ẩn gì cả, vì đó là lúc Hòa Thượng còn sống, trước cái chết tự nguyện, tự thiêu vì Phật pháp nên tinh thần ý chí dũng cảm sắt đá của Hòa Thượng rất mạnh, do đó Tưởng Uẩn của Hòa Thượng bắt đầu hoạt động trong ngọn lửa tự thiêu, vì thế trái tim không bao giờ cháy. Cháy làm sao được khi Tưởng Uẩn hoạt động mà người đời không hiểu mới cho là mầu nhiệm.
114. KHOA HỌC TÂM LINH CỦA CON NGƯỜI
Chúng tôi xin thuật lại một câu chuyện nữa mà người đời không hiểu cho rằng câu chuyện này kỳ lạ:
“Theo ông Dalai Lama thì khi trải qua một quá trình thiền định lâu dài con người có thể loại bỏ được những ý nghĩ và cảm xúc mang tính tiêu cực và thù địch.
Trong khi đó các nhà tâm lý học Tây phương lại không đồng ý với luận điển này. Họ cho rằng những ý nghĩ và cảm xúc như vậy là thuộc về bẩm sinh của con người.
Đạo Phật Tây Tạng lại cho rằng luận điểm của Tây phương là không rõ ràng.”
Thiền định của các ông Dalai Lama khác với thiền định của Đức Phật. Trong khi Đức Phật dạy: “Ý làm chủ, ý dẫn đầu các pháp và tu tập phải làm chủ các cảm thọ” thì các Dalai Lama lại dạy: “Loại bỏ ý nghĩ và cảm xúc mang tính tiêu cực và thù địch.”
Các ông Dalai Lama dạy: “Loại bỏ ý nghĩ mang tính tiêu cực và thù địch.” Vậy lấy cái gì loại bỏ ý nghĩ mang tính tiêu cực? Các ông nói được mà các ông không biết lấy cái gì loại bỏ ý nghĩ ác.
Trong khi Đức Phật dạy rất dễ hiểu: Lấy ý thức “Ngăn ác diệt ác pháp.” Bởi trong kinh Pháp Cú dạy: “Ý làm chủ, ý tạo tác, ý dẫn đầu các pháp, …”
Sự chống đối giữa các nhà khoa học Tây phương và ông Dalai Lama chưa ngã ngũ ai đúng ai sai thì các nhà khoa học thí nghiệm cuộc ngồi thiền của Dalai Lama.
“Cuộc thử nghiệm diễn ra khi ông Dalai Lama đang ngồi thiền thì cho nổ một phát súng ngay bên cạnh. Nhưng lạ thay, ông Dalai Lama vẫn ngồi thiền bình thường không hề có một chút phản ứng nào – điều mà các nhà khoa học Mỹ chưa từng thấy ở bất kỳ một cuộc thử nghiệm trước đây!”
Khi các vị Dalai Lama không ngồi thiền, không nhập định, tâm rất bình thường như mọi người mà cho một tiếng nổ rất lớn gần bên mà các vị Dalai Lama không giật mình thì đó các Ngài đang ở trong tâm bất động. Đó mới chính là thiền định của Phật giáo, còn các ông ngồi thiền nhập định mà không giật mình thì đó là tà thiền, tà định của ngoại đạo.
Khi thân tâm đều rơi vào Định Không Tưởng thì dù cho bom nổ bên cạnh thân tâm cũng không nhúc nhích. Bình thường mọi người nghe tiếng nổ lớn đều phản ứng giật mình, đó là một phản xạ tự nhiên. Nhưng ở người nhập định thì tâm bất động, vì thế sự phản xạ tự nhiên cũng không còn nữa.
Cho nên các nhà khoa học thử nghiệm với một người nhập thiền định thì sự thử nghiệm vẫn chỉ hoài công vô ích. Vì thiền định mà đem thử nghiệm với người bình thường thì cho đó là điều kỳ lạ, chớ sự thật không có gì kỳ lạ cả. Vì thiền định là Tưởng Uẩn hoạt động nên mới có Định Không Tưởng.
115. HOA NHIỆM MẦU VÔ ƯU
Chúng tôi xin thuật lại một câu chuyện nữa mà người đời không hiểu cho là mầu nhiệm:
Người ta nói đến hoa Vô Ưu là nói đến sự không buồn phiền, đó là người ta khéo tưởng tượng một Đức Phật sinh ra nơi gốc cây Vô Ưu có nghĩa là một bậc Thánh không còn phiền não.
Bao đời nay con người cũng hay tưởng tượng huyền thoại một đấng Giáo Chủ rồi bịa ra hoa Vô Ưu để ca ngợi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là một bậc Thánh từ cung Trời Đâu Suất sinh về thế gian nên mới có những hiện tượng hoa Vô Ưu nở.
Hiện giờ ở Việt Nam người ta trồng cây Vô Ưu rất nhiều, hoa nở liên tục mùa nào cũng có hoa nở. Do đó chứng tỏ người ta khéo ca ngợi Đức Phật mà thành dối trá lừa đảo mọi người. Cho nên trên cuộc đời này đừng bao giờ nghe người ta nói mà hãy nhìn rõ mọi việc người ta làm rồi mới có tin.
Khi thấy hoa Vô Ưu tại đền thờ Phật và đền thờ đức Trần Nhân Tông tại TP Hồ Chí Minh ở Việt Nam mùa nào cũng nở thì người ta lại lý luận Phật giáo Việt Nam hưng thịnh.
Chúng ta hãy nghe trích bài ca ngợi Phật giáo Việt Nam của Ngô Văn Quán viết:
“Đức Phật ra đời, do năng lượng bởi nguồn tâm vô nhiễm của Ngài đã chiêu cảm cho Vô Ưu nở hoa. Đạo Phật truyền vào Việt Nam được sự gia trì của Phật, các Tổ, các Thánh Hiền, các bậc Giác Ngộ của dân tộc với năng lượng của nguồn tâm vô nhiễm đã chiêu cảm để đất nước và con người Việt Nam thăng hoa. Cũng có thể do tâm Phật của những hội viên Trung tâm trong cả nước phát nguyện và quyết tâm ứng dụng những lời Phật dạy vào cuộc sống đã giúp cho mọi người thăng hoa trong tâm hồn, hăng hái xây dựng đất nước. Chính tâm từ bi ấy đã chiêu cảm cho loài hoa này nở liên tục.”
Lời ca ngợi này có đúng không?
Phật giáo Việt Nam đang đi lên hay đang xuống dốc, nếu chúng ta không lầm thì Phật giáo Việt Nam đang lúng túng trước hai ngả đường, không biết sẽ đi đường nào: Nam Tông và Bắc Tông. Nam Tông thì ức chế tâm, Bắc Tông thì mê tín, còn con đường chính gốc của Phật giáo làm chủ sinh, già, bệnh, chết thì không biết đâu mà tu tập.
Còn hoa Vô Ưu nở hay không nở thì có liên hệ gì với tâm con người. Nếu bảo rằng nhờ hoa Vô Ưu nở thì Đức Phật đâu cần tu tập làm gì. Sáu năm khổ hạnh tưởng như thân xác Ngài như gần chết, nếu không nhờ bát sữa của cháu bé chăn bò thì Đức Phật có chứng đạo được không?
Trong sự tu tập rất gian khổ vô cùng, nhất là khi chưa biết pháp tu tập còn mò mẫm đường đi như người mù dùng gậy dò đường. Vì thế Đức Phật phải dũng cảm phát nguyện: “Nếu không chứng đạo thề nát xương không rời khỏi cội bồ đề.” Như vậy hoa Vô Ưu nở hay không nở có gì liên hệ với sự tu tập của Đức Phật đâu.
Cho nên ở đời người ta hay thêu dệt và ca ngợi một cách vô lý, thế mà ai cũng nghe và tin theo một cách mù quáng, thật là điên đảo tưởng mà không biết.
116. NHÀ SIÊU NGOẠI CẢM VANGA
Chúng tôi xin giới thiệu một câu chuyện nữa mà người đời không hiểu cho là mầu nhiệm:
Nhà siêu ngoại cảm Vanga là một nữ tiên tri người Bungari đã làm cả thế giới phải ngưỡng mộ lên khuôn mặt, với đôi mắt không nhìn thấy ánh sáng của bà, như vậy bà Vanga là một người mù.
Một người cháu của bà thuật lại: “Mỗi khi bà tiên tri một việc gì thì mặt bà tự nhiên tái nhợt, miệng thốt ra những điều khó hiểu, giọng nói bỗng to lên một cách không tự nhiên, tiếng nói không giống bà, thậm chí đầy đe dọa, làm chúng tôi kinh ngạc vì cái sức nào đó tiềm ẩn trong bà.”
Quý vị lưu ý lời thuật lại ở trên của người cháu bà, khi bà Vanga muốn tiên tri một điều gì thì toàn thân bà không còn bình thường, giống như có ai nhập xác bà.
Theo chúng tôi hiểu không có ai nhập xác bà cả mà chỉ có Tưởng Uẩn của bà hoạt động. Cho nên tất cả những hiện tượng gọi là tâm linh đều hoàn toàn do Tưởng Uẩn mà chỉ có Phật giáo mới vạch trần bộ mặt tâm linh mầu nhiệm của thế giới siêu hình.
117. CÔ GÁI CÓ ĐÔI MẮT THẦN KỲ
Nữ bác sĩ quân y Trịnh Tường Linh mới 23 tuổi, người Thiểm Tây Trung Quốc có đôi mắt thần kỳ mà không ai lý giải nổi, nhìn cành hoa thì cành hoa đứt ngang, nhìn cá thì cá chết.
Dùng tai đọc chữ, nếu ai viết một tờ giấy rồi xếp lại nhét vào tai Tường Linh thì Tường Linh đọc không sai chữ nào cả.
Dùng đôi mắt nối được chỉ đứt, kim gãy và cũng đôi mắt đó nhìn thì kim gãy và chỉ lại bị đứt.
Dùng đôi mắt khám bệnh, Trịnh Tường Linh đã khám bệnh cho bốn vạn người. Bệnh nhân thuộc mười mấy tỉnh thành ở Trung Quốc đã mời cô hội chẩn.
Dùng đôi mắt khám thai nhi như máy X quang, như máy siêu âm B và máy rà quét CD.
Ở đây chúng ta thấy rất rõ, nếu mọi người không hiểu biết đều cho tai và mắt Tường Linh là mầu nhiệm, nhưng sự thật không có mầu nhiệm chút nào cả, chỉ Tưởng Uẩn của Tường Linh hoạt động ở tai, ở mắt thì việc làm như trên của Tường Linh làm rất dễ dàng.
Trên đời này không có gì mầu nhiệm vì thân người có năm uẩn đầy đủ khả năng làm bất cứ việc gì, nhưng năm uẩn có chịu làm việc hay không, nếu chịu làm việc thì người nào cũng giống như người nào. Người ta chỉ thấy có người làm được và có người không làm được, vì thế mà mọi người mới cho nó là mầu nhiệm.
Tất cả mọi sự mầu nhiệm chẳng qua chỉ là Tưởng Uẩn hoạt động mà thôi.
Chúng tôi xin kể lại một số người có khả năng tưởng uẩn hoạt động như sau:
1- Cháu Bích Hằng người Việt Nam đã nổi tiếng là nhà ngoại cảm có một cảm nhận chính xác tìm hài cốt liệt sĩ.
2- Bà Vanga người Bungari có đôi mắt không bị thời gian ngăn cách.
3- Trịnh Tường Linh người Trung Quốc có đôi lỗ tai nghe chữ, có đôi mắt nhập định đã cắt đứt cành hoa, nối chỉ và nối kim bị gãy, nhìn cá cá chết.
4- Ông B.Kajinxki người Liên Xô (cũ) có ý thức giao cảm với mọi việc xảy ra (thần giao cách cảm).
5- Trung sĩ Ivan Petrov người Liên Xô (cũ) nằm mộng thấy mọi việc xảy ra đúng như thật.
6- Ông Nguyễn Văn Chiều chữa bệnh bằng đôi tay, khi bị điện cao thế giật tưởng ông đã chết vì cơ thể bị bỏng nặng, nhưng khi ông tỉnh lại được và dùng đôi tay của mình vuốt các vết bỏng liền phục hồi lại như xưa. Ông Chiều cũng nghe được những âm thanh của những người đã chết.
7- Nguyễn Thị Hằng được hồn liệt sĩ Nguyễn Văn Tự nhập vào dẫn tìm hài cốt anh ta.
8- Trương Thị Phước nằm mộng thấy đúng như thật.
9- Em trai liệt sĩ Nghiêm Xuân Phú theo giấc mộng tìm hài cốt của anh.
10- Hài cốt Nguyễn Bá Hòa được một người bạn đồng đội mười ba lần đi vào Nam tìm kiếm, đó là bác sỹ Trần Văn Bản.
11- Đỗ Bá Hiệp có khả năng tìm hài cốt như cháu Bích Hằng. Tìm hài cốt người con cho bà mẹ Mỹ.
12- Phạm Văn Mẫn có khả năng tìm hài cốt như cháu Bích Hằng.
20- Một cháu gái bé khi thấy bộ hài cốt liệt sĩ được người cha dấu trong khóm chuối hoảng hồn ngất xỉu, khi tỉnh dậy cháu bé như người mất hồn giống như người lên đồng nhập xác.
21- Nguyễn Văn Liên người tỉnh Hải Dương thường ngồi tại nhà dùng Tưởng Uẩn của mình giao cảm chỉ cho những người thân của các liệt sĩ đi tìm hài cốt, tìm đâu được đấy. Ngay cả giữa thành phố Hà Nội ông chỉ cho những người thân tìm hài cốt những người đã bị giặc Pháp sát hại trong nhà giam Hỏa Lò.
22- Năm Chiến tức là Bùi Đăng Chiến người Thăng Bình (Quảng Nam – Đà Nẵng), ông đã từng đảm nhiệm những chức vụ như: phó Bí thư Huyện đoàn; Trưởng công an xã, vào năm 38 tuổi ông bị một cơn bệnh thập tử nhất sinh. Hai năm sau bệnh tật qua khỏi, bỗng một hôm ông bị “nhập đồng” và tìm được nơi chôn người chết dưới lớp đất sâu. Sau này trước khi mỗi lần tìm hài cốt ông phải thắp nhang, lâm râm khấn khứa… Rồi lặng người theo kiểu “nhập đồng” mới chỉ mọi người tìm hài cốt.
Đây là một hiện tượng ngoại cảm, đó là cách thức để Tưởng Uẩn hoạt động. Cho nên ngoài Tưởng Uẩn con người không có cách thức nào giao cảm với các từ trường người còn sống cũng như người đã chết.
23- Nguyễn Thị Nghi người tỉnh Hải Dương chữa được bệnh điên, bệnh mắt, tìm xác người chết bị mất tích, tìm mộ bị thất lạc. Cô chỉ ngồi tại nhà mà hướng dẫn mọi người bằng khả năng của mình qua chiếc đĩa cũ và hai đồng tiền xu để gieo quẻ âm dương như những ông thầy bói ở nơi đền thờ Bà Chúa Xứ, Trần Hưng Đạo, Quan Thánh Đế Quân, Bà Chúa Tiên, Bà Đen v.v… Đó cũng là một hành động đánh thức Tưởng Uẩn hoạt động.
24- Phạm Ngọc Hiền dùng con lắc để tìm hài cốt liệt sĩ, có khi dùng quả trứng vịt còn sống đặt trên đầu đũa. Con lắc và đầu đũa đều có một lực hút, vậy lực hút từ đâu mà có. Có phải từ hài cốt liệt sĩ không? Ngoài Phạm Ngọc Hiền thì mọi người dùng con lắc và đầu đũa sao không có sức hút. Như vậy rõ ràng không có linh hồn người chết mà lực hút đó có từ anh Phạm Ngọc Hiền. Lực hút của anh Phạm Ngọc Hiền do đâu mà có?
Lực hút của anh Phạm Ngọc Hiền do từ Tưởng Uẩn của anh hoạt động mà có. Do sự hoạt động này tác động vào sáu căn của con người mà mọi người không biết nên mới gọi là Tâm Linh Mầu Nhiệm.
118. CHUYỆN CÓ THẬT Ở TRƯỜNG TRƯNG VƯƠNG
Ngày 20-07-2003, khi tới trường Trưng Vương (Hà Nội) công tác, bằng khả năng đặc biệt của mình, Phan Bích Hằng - người từ lâu được coi là nhà ngoại cảm tài năng - đã phát hiện ít nhất chừng 7, 8 bộ hài cốt vẫn còn nằm dưới lòng đất trong khuôn viên trường, đồng thời xác định cả tên và vị trí nằm của ba bộ hài cốt nói trên. Chị đã đề nghị với trường, khi nào có điều kiện, những hài cốt này sẽ được khai quật.
Dịp may đó đã đến khi dự án cải tạo nâng cấp trường được chính thức phê duyệt và thi công. Ngày 15 - 9 - 2004, ba bộ hài cốt nói trên được tìm thấy ở đúng vị trí chị đã xác định với những đặc điểm đúng như nhận định ban đầu của chị.
Ngay sau khi phát hiện ra hài cốt (mà Bích Hằng khẳng định là của chiến sĩ cảm tử trong trận sáu mươi ngày đêm chiến đấu bảo vệ Thủ đô mùa Đông năm 1946), Bích Hằng đã báo cho Trung tâm Nghiên cứu Tiềm năng đặc biệt của Con người, nơi chị đang là cộng tác viên.
Vấn đề này, giáo sư Đào Vọng Đức (Giám đốc Trung tâm) và nhà văn - tiến sỹ - Thiếu tướng Chu Phác (Chủ nhiệm Bộ môn) trước đó đã cử ba nhà ngoại cảm khác với tính chất độc lập trắc nghiệm. Tất cả đều xác nhận thông tin này là chính xác.
Nhưng trớ trêu thay, theo bản sơ đồ của Bích Hằng và ba nhà ngoại cảm kia thì vị trí của ba bộ hài cốt lại nằm ngay dưới chân cầu thang nhà C (còn gọi là dãy Côn Sơn - giáp đường Lý Thường Kiệt), không thể vì lý do đó mà khai quật được.
Cho mãi tới ngày 15 - 9 - 2004, trường Trưng Vương chính thức bàn giao mặt bằng để khởi công. Theo hình thức xây cuốn chiếu nên dãy nhà Côn Sơn được phá dỡ trước. Ngay sau đó, Trung tâm Nghiên cứu Tiềm năng đặc biệt của con người và Phan Bích Hằng đã có cuộc trao đổi với nhà trường và bên thi công, đề nghị được tìm kiếm hài cốt nói trên.
Ngay trong hai ngày khai quật đầu tiên (23 và 24 / 9) ở đây đã tìm được hai bộ hài cốt và tối 25 / 9 là bộ hài cốt thứ ba ở đúng vị trí trong sơ đồ của Bích Hằng đã khẳng định. Đông đảo đại diện các cấp ngành, cùng các thầy cô giáo Trường Trung học Cơ sở Trưng Vương đã chứng kiến việc làm trên.
Điều đặc biệt là mặc dù những bộ hài cốt đã khá mủn, nhưng các đặc điểm nhận dạng trên từng bộ đều khớp với những tình tiết mô tả của Bích Hằng một năm trước đó như: ông D. là người hy sinh đầu tiên. Hài cốt của ông D. bị mất sọ khi ông vừa nhô người lên khỏi giao thông hào thì bị pháo địch phạt ngang, đồng đội thương ông nên trước khi chôn đã lấy chiếc bát (loại Bát Tràng thời đó có đáy bằng, thành đứng) úp lên cổ (hiện hay chiếc bát đó được đặt trong tiểu cùng hài cốt có tên là D).
Bích Hằng còn cho biết chị đã “nói chuyện” và biết được tên và chức danh của ba người hy sinh, nay là ba bộ hài cốt nói trên, đó là Phan Hào (còn gọi là Hào Professeur) - trung đội trưởng, Nguyễn Văn Dư (còn gọi là Dư đen, Dư còi) là trung đội phó, chính trị viên và Nguyễn Văn Đẳng. Cả ba đều thuộc Trung đội 1, Đại đội 1, Tiểu đoàn 77, hy sinh ngày 21-12-1946.
Ông Hàn Thụy Vũ - đại tá, hiện là phó trưởng bộ môn Cận Tâm lý, nguyên phóng viên báo Quân đội Nhân dân, trước đây cũng là chiến sĩ Trung đoàn 48 - Trung đoàn Thăng Long (hai trung đoàn của Hà Nội là Thủ đô và Thăng Long) xác nhận: Về tiểu sử trung đội trưởng Phan Hào đã được nhắc đến trong cuốn lịch sử sáu mươi ngày đêm toàn quốc kháng chiến.
“Trung đội của ông Hào còn được gọi là Tiếp hoàn quân, chọn lọc toàn những trí thức giỏi tiếng Pháp. Đêm 19 rạng ngày 20, các lực lượng vũ trang nhân dân thủ đô Hà Nội và các thành phố nổ súng chiến đấu - toàn quốc bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Ngày 20/12, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Cũng trong ngày 20/12/1946, bộ đội ta và quân Pháp giao tranh ở Tòa thị chính (tức UBND thành phố Hà Nội ngày nay), Bưu điện và Bắc Bộ phủ. Các chiến sĩ của ta tuy lực mỏng nhưng đã dũng cảm ngăn cản được nhiều đợt tấn công của giặc Pháp, cầm cự được một ngày để cho nhân dân và bộ đội chủ lực rút qua cầu Long Biên về chiến khu an toàn.
Đến ngày 21-12-1946, địch tăng cường lực lượng viện binh nên đã chiếm được một số chốt, trong đó có chốt ở Trường Trung học Cơ sở Trưng Vương. Và ba ông Hào, Dư, Đẳng có thể đã hy sinh trong ngày 21-12” (Theo báo Hà Nội Mới điện tử 15 / 11 / 2004).
Chuyện có thật ở trường Trưng Vương do cháu Bích Hằng giao cảm hướng dẫn lấy hài cốt là một sự thật, nhưng chúng ta phải xác định cháu Bích Hằng làm sao lại có khả năng đó mà mọi người khác không có, không làm được.
Qua câu chuyện tìm hài cốt cô Khang em gái của giáo sư Trần Phương chúng tôi đã xác định rất rõ ràng. Cháu Bích Hằng có khả năng đó được là nhờ Tưởng Uẩn của cháu hoạt động. Tưởng Uẩn của cháu hoạt động là nhờ nọc độc chó dại. Cháu không chết mà lại có sự giao cảm với các từ trường bên ngoài bằng hình thức như linh hồn người chết nhập và nói chuyện với cháu. Toàn bộ những sự việc này xảy ra đều do năng lực Tưởng Uẩn của cháu.
119. MỘT LINH HỒN NHIỀU THỂ XÁC
“Một vị Tăng ở Tây Tạng đã nói cuộc đời chỉ là một sân khấu. Diễn tại sân khấu này đóng vai một người nghèo khó, nhưng ở một sân khấu khác, người đó lại hóa thân thành vị công tử, có thể là do sự lựa chọn vai diễn của người đó.”
Lời nói của vị Tăng Tây Tạng chứng tỏ ông ta chẳng biết gì về Phật giáo. Ông nói theo sự truyền thừa thuyết Linh Hồn Đi Tái Sanh của loài người từ xưa đến nay, chứng tỏ các vị Tăng Tây Tạng chỉ mang hình thức Tăng chớ thật sự không phải là tu sĩ Phật giáo. Các ngài đang theo tu theo ngoại đạo Bà La Môn nhưng mượn danh là Tăng sĩ Phật giáo để lừa độc giả.
Phật giáo thì cấm các đệ tử của mình không nên thị hiện thần thông, còn các ông Lạt Ma thì chuyên luyện thần chú để thể hiện cầu vồng, biết chuyện quá khứ vị lai của người khác để làm cho mọi người phục mình. Vì thế nói đến Tây Tạng thì người ta kèm theo danh từ Huyền Bí.
Có những tác giả họ hiểu như thế nào xứ Tây Tạng mà dám ghép Tây Tạng Đất Phật Huyền Bí. Trong khi Đức Phật sinh ra ở Ấn Độ, còn các sư Tây Tạng tu hành có làm chủ bốn sự đau khổ chưa? mà dám cho Tây Tạng Đất Phật Huyền Bí.
Tu thành Phật mà cũng (sống đời) giống như một người bình thường thì có gì huyền bí đâu?
Các sư Tây Tạng cũng sợ chết như mọi người, khi Trung Quốc qua xâm chiếm đất nước này thì các ông Lạt Ma chạy trốn sang bên Mỹ.
Khi Trung Quốc đặt nền cai trị đất nước này, biến đất nước này thành một nơi du lịch của Trung Quốc, muốn quyến rũ du khách đông đảo nên đặt cho cái tên đầy hấp dẫn “Tây Tạng Huyền Bí.” Nghe cái tên ai cũng muốn đến đó tham quan một lần, nhưng các ông Lạt Ma tu hành cũng như các sư thầy ở Việt Nam có khác chỗ nào đâu.
Có ông Lạt Ma nào tu tập làm chủ bốn sự đau khổ: Sinh, Già, Bệnh, Chết chưa?
Vậy mà huyến bí để làm gì hay để quyến rũ những người hiếu kỳ. Huyền bí để xây dựng thế giới siêu hình, để xây dựng một Linh Hồn bất diệt, để đi ngược lại lời dạy của Đức Phật, để diệt nền đạo đức nhân bản - nhân quả của loài người.
Đừng lấy các sư Tây Tạng mà xây dựng thành một đất nước Huyền Bí, vì các sư Tây Tạng tu hành có ra, có tới đâu, chỉ đọc thần chú hiện cầu vồng để lừa bịp thiên hạ. Tu hành mà lừa gạt mọi người như vậy thì tự các ngài Lạt Ma rất xấu hổ cho người trước đã làm mà người sau phải chịu lấy tiếng xấu muôn đời.
Chúng ta ai cũng biết Phật giáo đã xác định rõ ràng: “Con người có thân ngũ uẩn là do nghiệp thiện ác.” Như vậy Nghiệp Thiện Ác Đi Tái Sinh chớ đâu phải Linh Hồn đi tái sinh.
Nếu quả có Linh Hồn đi tái sinh thì Linh Hồn đâu có ngu dại điên khùng mà chọn chỗ nghèo, chỗ con bò, con heo, con gà, con vịt, con cá, con tôm, con trùng, con dế v.v… mà tái sinh. Phải không quý vị?
Nếu có Linh Hồn Tái Sinh thì thế gian này toàn là ông chủ không có người làm công, còn trong cuộc sống hiện tại trong xã hội, ông chủ thì ít mà công nhân thì nhiều, như vậy Linh Hồn quá ngu si phải không, thưa quý vị?
Nếu có Linh Hồn Đi Tái Sinh thì thế gian này toàn là người giàu, nhưng sự thật trong xã hội hiện tại người giàu thì ít mà người nghèo thì vô số kể, như vậy Linh Hồn quá ngu si. Phải không quý vị?
Nếu có Linh Hồn Đi Tái Sinh thì thế gian này toàn là con người, nhưng sự thật trên hành tinh của chúng ta đang sống thì con người lại quá ít mà loài vật thì vô số kể, như vậy Linh Hồn quá ngu si. Phải không quý vị?
Cho nên Linh Hồn có là do những người sống trong ảo tưởng dựng lên để nuôi hy vọng mình có một cái gì vô hình mà luôn luôn trường tồn mãi mãi. Do những điều lý luận trên đây chúng tôi xác nhận và bảo thẳng cho mọi người biết Linh Hồn Không Có. Chỉ có nghiệp thiện ác của mọi người đi tái sinh mà thôi. Đó là luật Nhân Quả không sửa đổi hay bóp méo nó được.
Nếu ai bảo có Linh Hồn là những người không thông suốt Phật giáo, không hiểu biết Luật Nhân Quả.
Chúng tôi xin thành thật khuyên những người viết sách về tâm con người trong góc độ Tôn giáo, chỉ khi nào tu hành làm chủ Sinh, Già, Bệnh, Chết thì mới viết sách, còn chưa làm chủ bốn sự đau khổ này mà viết sách là viết theo Tưởng giải của mình, viết sách như vậy dạy người tu Thiền là giết người mà không cần gươm đao quý vị ạ!
Người chưa chứng đạo giống như người mù, cho nên quý vị đừng viết sách nữa và xin cáo lỗi với độc giả bốn phương để thu hồi những tập sách đó lại.
Viết sách là làm lợi ích cho mọi người chớ không phải viết sách cầu danh, cầu lợi.
Có một cuốn sách đề tựa “Một Linh Hồn Có Nhiều Thể Xác” tác giả biết chắc có Linh Hồn thật hay sao mà dám đặt tên sách như vậy. Muốn viết sách về Linh Hồn thì nên dựa vào lời dạy của Đức Phật mà viết. Khả năng mình biết gì trong thân người mà dám cho trong thân con người có Linh Hồn. Một mình không hiểu biết mà muốn cho mọi người cũng không hiểu biết như mình sao?
Người nào chưa hiểu biết về Linh Hồn mà dám xác định có Linh Hồn là người nói vọng ngữ đệ nhất. Xin quý vị tránh xa những người không thành thật với mình vì những người này còn tiếp tục nói vọng ngữ nữa. Cho nên ở đời cái gì biết chắc thì nói còn chưa biết thì thôi. Đừng làm hay mà thành dở.
Ở đây Linh Hồn là một việc cần phải làm sáng tỏ, bởi vì nó không có, nhưng từ xưa cho tới nay mọi người luôn cho rằng có, nhưng cho có mà không xác định được. Bởi vì nó có là do truyền thuyết từ xa xưa đến nay đã ăn sâu vào lòng con người, nó đã trở thành một Phong Tục Linh Hồn chớ không có Linh Hồn Thật Sự. Cho nên muốn dẹp bỏ nó không phải trong một ngày một giờ mà dẹp được.
Muốn dẹp nó phải bền chí, phải đủ sức thuyết phục mọi người, phải dẹp sạch những sách vở nói về Linh Hồn với sự tưởng tượng của các nhà văn, nhà báo.
120. MỘT NGƯỜI ĐÃ CHẾT SAO CÒN ÓI MÁU TƯƠI?
Có một phật tử kể: “Chúng tôi có một ông chú, ông chú có hai đứa con, một trai một gái. Cậu con trai thì ruợu chè be bét. Cô con gái thì đàng điếm trai gái, quan hệ với toàn là những người hư thân mất nết.
Khi ông sắp chết, ông cấm không cho hai đứa con để tang, nhưng hai đứa nhậu nhẹt và dẫn bạn bè về quậy phá trong đám tang làm cho cô bác bất bình. Lúc bấy giờ thân xác ông đang liệm trong một chiếc áo quan bằng thủy tinh, vì thế mọi người đều nhận thấy máu tươi trong miệng ông trào ra.”
Có người hỏi tại sao người chết rồi mà còn tức tối đến đỗi máu tươi chảy ra miệng?
Người chết rồi nhưng thân xác chưa hủy hoại nên Tưởng còn đang hoạt động, nếu khi thân hủy hoại tan nát còn một đống thịt hôi thối thì Tưởng ngưng hoạt động.
Tưởng còn hoạt động thì tham, sân, si, mạn, nghi người đó còn đủ, vì thế con cái không nghe lời dạy bảo, cứ quậy phá, dù lúc bây giờ thân xác đã chết, tức là thân xác ngưng thở chớ toàn bộ thân ngũ uẩn còn nguyên vẹn thì tức giận ói máu là một lẽ bình thường, vì tai, mắt, mũi, miệng họ còn nguyên vẹn có hao mất căn nào đâu.
Cho nên người không hiểu tưởng là hết thở thì thân xác như một khúc cây. Hiểu như vậy là sai, thân xác người mới chết không phải là khúc cây, khúc gỗ. Họ không thở nhưng Tưởng của họ vẫn cảm nhận tất cả mọi sự việc xảy ra xung quanh bên ngoài, lúc bây giờ người chết cũng giống như người đang chiêm bao. Khi nào giấc chiêm bao mất là họ mới chết thật.
Khi mới chết chúng ta đừng vội tẩm liệm mà hãy để thân xác người chết nằm ngay ngắn trên giường như người nằm ngủ.
Hiện giờ nghiệp lực của họ đã tương ưng tái sinh luân hồi thành người hoặc thành loài vật khác rồi. Những người tạo nghiệp ác thường khi sống ăn thịt chúng sinh nên khi chết nghiệp ăn thịt chúng sinh tương ưng đi tái sinh làm loài vật để trả nhân quả để người và loài vật khác ăn thịt lại.
Người sống bằng thực phẩm thực vật thì tránh nghiệp tái sinh làm loài vật và cơ thể ít bệnh tật. Cho nên người ăn rau quả sống an vui và trường thọ hơn người sống bằng thịt chúng sinh
121. ĐƯA ANH TRỞ LẠI QUÊ NHÀ
“Thiết nghĩ trong cuộc đời của một con người ai mà chẳng có không ít những niềm vui mênh mông và có cả những nỗi buồn vô tận. Nhất là đối với những gia đình trong những năm tháng đất nước có chiến tranh, hình ảnh người vợ trẻ ôm đứa con bé bỏng đưa tiễn chồng ra mặt trận… họ lặng lẽ nuốt nước mắt vào trong, dành cho ngày gặp lại. Và sau bao năm, chiến tranh đã lùi xa - người vợ trẻ ngày nào, bây giờ trên mái tóc đã bạc - người ra đi mãi chẳng thấy về?!
Đó là trường hợp của gia đình chị Trần Thị Nghĩa ở xã Bình Minh, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình - giữa những ngày giặc Mỹ mở rộng chiến tranh ở cả hai miền Nam Bắc (1965), anh Đoàn Văn Cờ, chồng của chị – một bộ đội phục viên đã nhanh chóng trở lại quân ngũ. Ngày anh lên đường, chị Nghĩa hai tay ẵm đứa con gái nhỏ tiễn chân anh… và rồi có ai ngờ cho mãi đến khi cả hai miền đất nước tràn ngập niềm vui đại thắng, chị Nghĩa mới biết tin chồng qua mảnh giấy báo tử: anh Đoàn Văn Cờ, chồng chị đã hy sinh ngày 13 / 8 / 1968 tại… “mặt trận phía Nam” (!).
Trước nỗi đau tử biệt, chị Nghĩa chỉ còn biết âm thầm lặng lẽ đau xót phận mình và thương cho đứa con côi, suốt bao năm ròng mong gặp mặt cha.
Giống như nhiều gia đình có người thân còn “nằm” lại trên các chiến trường, dù xa xôi cách trở, chị Nghĩa đã cùng các anh chị em trong nhà và nhất là sự quyết tâm của cháu Hoa – con gái duy nhất của liệt sỹ, đã bằng mọi cách liên hệ với các đồng đội cũ của anh còn sống để thăm dò nơi chôn cất di hài. Các bác, các chú và cả các cô đã cùng cháu Hoa lần dò đến nhiều nơi. Song tất cả chỉ là “mò kim đáy biển.” Mãi năm 1994, gia đình mới nhận được tin báo của Ban chính sách Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Kon Tum - thì nỗi buồn lại càng thêm sâu nặng! Bởi đó là những lời an ủi, vì chính họ cũng không biết phần mộ liệt sỹ Cờ hiện giờ đang “yên nghỉ” ở nơi đâu!? Chốn trận địa năm nào, gió núi vẫn ào ào, mưa rừng vẫn ngày đêm xối xả…
Cho mãi cuối năm 2003, tức là sau 34 năm ngày liệt sỹ Đoàn Văn Cờ hy sinh, cháu Thiêm - người cháu cùng huyết tộc mới gặp cô Năm Nghĩa - một nhà ngoại cảm có uy tín, được báo chí ca ngợi có khả năng tìm mộ liệt sỹ thất lạc. Cô Năm Nghĩa đã dùng phương pháp đặc biệt của mình để tiếp nối thông tin với những người đã khuất. Qua cô Năm Nghĩa - liệt sỹ Cờ đã chỉ cho người thân trong gia đình, rằng mộ của anh nằm trên một bìa rừng, phải đi qua Huyện Đắc Tô: đây là cầu, đoạn kia là cống và quãng xa xa là khu vực nhà rông…
Liệt sỹ còn chỉ rõ mộ của mình nằm ở phía Tây cách 20 mét của một con suối, đầu quay về phía núi. Phần bên trên, sau 35 năm trên mộ không còn dấu vết. Tỉ mỉ hơn, nay trên mộ có những cây mắc cỡ (xấu hổ) trổ hoa màu tím. Tấm vải bạt mà đồng đội cuộn xác để chôn, hiện có góc đã bị trồi lên trên mặt đất. Mộ của anh ở vị trí đầu tiên, kế đó phía bên trái là mấy ngôi mộ nữa là của những chiến sỹ quê miền Nam (có kèm theo tên tuổi và địa chỉ là các liệt sỹ Nguyễn Đức Tâm, vợ là Bùi Thị Ngoạt ở phường Tân Hiệp, TP. Biên Hòa; liệt sỹ Bùi Văn Trọng, có con là Hoàng Văn Thọ ở thị trấn Bình Ba, Bà Rịa…). Cuối cùng liệt sỹ Cờ thúc giục:
“Các em hãy nhanh chóng đưa anh về, kẻo mùa mưa này chắc các anh không còn trụ nổi…”
Qua bước đầu “nắm” được thông tin coi là hệ trọng, những người thân trong gia đình liệt sỹ hẳn còn niềm vui dào dạt nào vui hơn? Và chặng đường thực hiện, dù khó khăn đến mấy, nhưng đã có cô Năm cùng đi và đến đâu cũng gặp người dẫn đường chỉ lối - mọi trở ngại cũng đã qua đi. Mấy gia đình của liệt sỹ Nguyễn Đức Tâm; Bùi Văn Trọng… cùng đi tìm mộ đã toại nguyện niềm mong đợi.
Riêng có liệt sỹ Đoàn Văn Cờ là người miền Bắc - theo lời kể lại của ông Nguyễn Minh Châu, em rể của liệt sỹ… “Ngày hôm ấy, từ bến xe Gia Lai, hai vợ chồng tôi mua 3 vé xe khách Bắc Nam, trong đó có một vé dành riêng cho anh. Trên đường đón và cũng là đưa anh của chúng tôi về rất an toàn. Tới Phủ Lý, tại đây có khá đông đủ anh chị em cùng các cháu công tác và sinh sống ở Hà Nội, Hải Dương… Lại có cả vợ chồng con cái của cháu Thiêm từ Tp.Hồ Chí Minh… tất cả đang túc trực và chuẩn bị sẵn sàng xe cộ, rất trân trọng đón hài cốt của anh với một niềm vui hòa quyện trong nỗi buồn khôn ngăn giọt lệ… Trên đường về Thái Bình, qua cầu Tân Đệ khá hiện đại hôm nay, chúng tôi cố ý cho xe chầm chậm để anh được lắng nghe những âm thanh quá khứ của con phà năm xưa, khi anh cùng đồng đội sang sông thẳng tiến vào Nam.
Xe vừa xuống khỏi chân cầu, đây rồi! Cháu Hoa con gái của anh! Cháu Ngọc con rể của anh, các cháu Long và Linh, cháu của anh. Và còn đây, có không ít những người thân đang chờ, đang đợi. Chỉ tiếc rằng chị Nghĩa vợ anh hiện đang ốm nên đành phải ở nhà chờ anh nơi cổng như những ngày nào.
Đó là lúc đông đủ anh em, bà con trong gia tộc, trong làng xóm đã có mặt đông đủ để đón nhận di hài của một người chiến sỹ ngày ấy đã ra đi… Trong những tiếng nghẹn ngào nức nở... tôi hiểu, với chị Nghĩa - ngày ấy tiễn chồng lên đường, chị đâu có mong sau này đón anh trở về trong niềm vinh dự được là vợ của một anh hùng liệt sỹ! Trước anh linh của người đã khuất - chúng em và các cháu xin được đôi chút tự hào là đi tìm được di hài của anh đem về trong nỗi ngóng trông gần suốt đời chị.”
Mộ của anh đã được nằm trong nghĩa trang liệt sỹ của huyện…Trong nỗi đau mất mát có lẫn niềm vui mừng rằng: sau 35 năm anh đã trở về với bao niềm thương nỗi nhớ.”
Đưa Anh Trở Về làm cho mọi người có người thân đã hy sinh nằm xuống trên mảnh đất quê hương đã không cầm được những giọt nước mắt. Phải rồi! Chúng ta khóc cho những người chưa được mang hài cốt về tận quê nhà, và cũng không biết những hài cốt ấy hiện giờ còn ở đâu. Chẳng hạn như em trai của chúng tôi – Lê Văn Tân, xương cốt em ở đâu? Mẹ đã chết lâu rồi, khi còn sống mỗi khi nhắc đến em, mẹ không cầm được nước mắt, mỗi chiều tựa cửa nhìn về phía bước chân em đi mà nước mắt mẹ cứ tuôn trào không dứt.
Lúc bấy giờ, em biết sao không? Anh chỉ khuyên lơn mẹ: Mẹ đừng khóc nữa mẹ, mai mốt em con sẽ về khi nhiệm vụ làm xong. Lời an ủi mẹ như vậy, nhưng chính anh cũng không cầm được những giọt nước mắt của mình. Vì biết bao giờ nhiệm vụ giải phóng đất nước mới xong. Giặc thì ào ạt súng đồng đại bác, xe tăng thiết giáp, còn quân đội mình đánh giặc bằng tầm vông vạt nhọn. So hai lực lượng thì biết rằng đất nước muốn giải phóng thì phải hy sinh biết bao người con thân yêu của Tổ quốc.
Ngày nay đất nước thống nhất, độc lập hòa bình, mọi gia đình có con em hy sinh thì rủ nhau đi tìm hài cốt qua các nhà ngoại cảm, họ đi khắp nơi trong nước, còn gia đình mình thì sao? Gia đình mình đâu có người làm quan lớn thì biết dựa vào đâu mà tìm hài cốt em mình, nhiều khi người ta còn bảo em mình theo giặc chết. Thật là đau lòng. Những anh cán bộ làm tỉnh ủy viên Tây Ninh năm xưa họ đã đưa em tôi thoát ly gia đình vào chiến khu lập bộ đội để đánh giặc. Bây giờ lần lượt họ đã chết gần hết chỉ còn một vài anh chị em vì quá già nên phải hưu trí.
Nỗi đau của gia đình còn biết nói với ai bây giờ. Cha mất, mẹ mất, anh em lần lượt cũng chết theo, những thế hệ con cháu về sau còn có ai biết không, nếu không có những trang sử gia đình thì ngày mai con cháu còn lấy đâu làm chứng cứ. Gia đình từ ông, cha, anh em và chị em đều đem công sức và máu xương tô đắp cho quê hương xứ sở.
Để kết thúc bài viết này, chúng tôi xin khẳng định Linh Hồn Không Có mà chỉ có Tưởng Uẩn hoạt động mà thôi.
122. NÓI CHUYỆN VỚI NGƯỜI ÂM
Chúng tôi nhận được một tài liệu “Nói Chuyện Với Người Âm.” Nói chuyện với người âm toàn là những người có học thức, xem thế mới biết kiến thức con người dù có học thức bao nhiêu, nhưng khi đứng trước những hiện tượng của Tưởng Uẩn thì không giải thích được. Khi không giải thích nổi thì chỉ còn biết dùng hai chữ Tâm Linh để tránh né sự ngu dốt của mình.
Tâm Linh là cái thứ gì?
Chẳng qua Tâm Linh mà mọi người đều hiểu biết, đó là Linh Hồn người chết. Linh Hồn người chết chẳng qua là ảo tưởng của mọi người đặt ra qua những hiện tượng mà ý thức con người không giải thích được. Khi viết tập sách “Một Linh Hồn Có Nhiều Thể Xác,” tác giả chưa biết chắc mà dám khẳng định: “Điều tôi muốn nói là hầu hết những phần quan trọng của chúng ta như là Linh Hồn sẽ tồn tại vĩnh viễn.”
Câu này bác sĩ phát biểu quá sớm do sự lượm lặt những trạng thái tưởng của bệnh nhân mà nói ra như vậy sẽ làm mất giá trị của một bác sĩ chưa nghiên cứu Phật giáo tường tận. Trong lúc Đức Phật xác định: “Thân người do năm uẩn hợp thành.” Trong năm uẩn này Đức Phật không có xác định uẩn nào là Linh Hồn tồn tại vĩnh viễn cả. Vậy mà bác sĩ dám xác định Linh Hồn tồn tại vĩnh viễn. Có lẽ bác sĩ Brian L. Weiss hơn Đức Phật ư!
Theo Đức Phật đã dạy: “Tâm Linh không phải là Linh Hồn, vì Linh Hồn không có.” Tâm Linh chỉ là Tưởng Uẩn hoạt động giao cảm mọi âm thinh sắc tướng của mọi người còn lưu lại trong không gian vũ trụ. Điều này với ý thức của con người không thể hiểu biết được, nên cho đó là Tâm Linh (Linh hồn).
123. VUA ITALY UMBERTO VÀ UMBERTO CHỦ NHÀ HÀNG
“Ngày 28/7/1900 vua Italy Umberto I ăn tối trong nhà hàng ở thành phố Monza. Người ta được biết chủ của nhà hàng cũng có tên Umberto, sinh ra cùng ngày với nhà vua trong cùng một thành phố, vợ của họ có cùng một tên, đám cưới cũng cùng diễn ra trong cùng một ngày, còn nhà hàng khai trương đúng vào ngày nhà vua lên ngai vàng.
Nhà vua và người dân thường này rất vui vẻ nhân cuộc gặp gỡ kỳ lạ này và thống nhất sáng hôm sau sẽ đến sân vận động. Nhưng đến buổi sáng, chủ nhà hàng Umberto đột ngột qua đời, nhà vua tỏ lòng tiếc thương và chỉ vài giờ sau thì ông bị một kẻ vô chính phủ bắn chết. Số phận của họ chỉ không giống nhau ở hai vị trí chết tại hai nơi khác nhau”.
Trong cuộc sống có những sự trùng hợp khó tin và không thể giải thích được, khi đó một cách tự nhiên người ta bắt đầu nghĩ đến khía cạnh Nhân Quả hay bí ẩn của số phận. Liệu có thể giải thích những chuyện trùng hợp kỳ lạ của nhân quả, hay đây là trò chơi của sự ngẫu nhiên? Khoa học có những lý thuyết gì về vấn đề này?
Kính thưa Thầy cho con xin hỏi: Có phải hai người này do từ một nhân sinh ra hay không?
Đáp: Đúng vậy, hai người này cùng tạo một nghiệp nhân quả tiền kiếp giống nhau, nhưng có khác nhau một chút là tạo nhân quả khi chết không cùng giờ và không cùng một cách chết.
Trên hành tinh sống này đều do các duyên hội tụ đầy đủ bốn đại thì mới có sự sống, nếu chỉ cần thiếu một đại là sự sống không có. Cỏ cây, đất đá, núi sông, ao hồ, rừng biển đều do bốn đại mà thành. Vạn vật sinh ra kể từ loài nhỏ nhất như vi khuẩn, vi trùng, cho đến những loài to nhất như voi, hổ, đại bàng, và thông minh nhất như loài người đều do bốn đại hợp duyên mà thành. Ngoài bốn đại đi tìm sự sống trên hành tinh này không có. Cho nên hành tinh sống được gọi là hành tinh bốn đại. Vậy bốn đại là gì? Bốn đại là: Đất, Nước, Lửa, Gió.
1- Đất do nhiều nguyên chất khác hợp lại mà thành. Đất không thể là một nguyên chất đơn độc, đất chỉ là một hợp chất như trên đã nói. Không có đất thì hành tinh này chỉ là một hành tinh chết mà thôi.
2- Nước cũng vậy, do các nguyên chất khác hợp lại thành nước. Nước không đứng riêng rẽ nguyên chất một mình mà thành nước được. Nước là một hợp chất, nếu trái đất không có nước thì trái đất là hành tinh chết chứ không thể nào là hành tinh sống được.
3- Lửa cũng vậy, do các nguyên chất khác hợp lại thành lửa. Lửa không đứng riêng rẽ một nguyên chất mà thành lửa được, lửa là một hợp chất, nếu không có lửa thì hành tinh này cũng chỉ là một hành tinh chết.
4- Gió cũng vậy, do các nguyên chất khác nhau hợp lại thành gió. Gió không đứng riêng rẽ một nguyên chất mà thành gió được, gió là một hợp chất. Nếu hành tinh này không có gió thì hành tinh này là hành tinh chết.
Các nguyên chất khác hợp lại mà thành đấtm nước, lửa, gió. Rồi đất, nước, lửa, gió theo duyên hợp lại mà thành vạn vật trong vũ trụ. Theo các duyên hợp lại gọi là sinh, khi các duyên tan rã gọi là diệt. Duyên sinh diệt đều do quy luật nhân quả điều hành. Cho nên, trên thế gian này không có chuyện ngẫu nhiên xảy ra mà tất cả đều do sự sắp xếp của nhân quả. Chúng ta hãy nghiệm xét trong một tai nạn giao thông, mỗi người đang ở một nơi khác nhau, thế mà nhân quả sắp xếp cho mọi người đi chung một chiếc xe đò để khi tai nạn giao thông xảy ra thì tất cả đều chết một lượt chỉ trong vài ba giây.
Trở lại câu chuyện trùng hợp của nhà vua Italy Umberto I và ông chủ nhà hàng cũng tên Umberto. Hai người có cùng ngày tháng năm sinh, cùng có vợ một ngày, ngày nhà vua lên ngôi thì cũng là ngày khai trương nhà hàng, và khi chết thì có khác nhau vài giờ.
Câu chuyện này rất hy hữu, nhưng bởi hai người lúc tiền kiếp đều tạo một nhân quả giống nhau nên nghiệp lực không khác. Vì nghiệp lực tương ưng nên sự trùng hợp của hai người không có gì là ngẫu nhiên mà do nhân quả sắp xếp từ tên tuổi, ngày tháng năm sinh không có gì sai khác.
Người hiểu biết nhân quả thì mỗi việc trên đời xảy ra như thế nào cũng không làm cho họ ngạc nhiên. Bởi vì họ biết rõ trên đời này không có điều gì là ngẫu nhiên cả. Cho nên, mọi việc đều không thể qua mắt họ được. Họ hiểu biết rất rõ ràng các duyên hợp lại và các duyên tan rã luôn luôn phải theo quy luật của nhân quả chỉ đạo như trên đã nói. Vì thế không có một vật gì trên hành tinh này đi ra ngoài quy luật nhân quả được.
Nhân quả có hai phần rất rõ ràng:
1- Nhân quả về phần hữu hình (vật chất): Cơ thể con người không ai giống ai, nếu giống nhau ở điểm này thì lại có điểm khác ở chỗ kia.
2- Nhân quả về phần vô hình (tinh thần): Tinh thần cũng vậy, không có ai giống ai, nếu giống chỗ này thí khác chỗ kia.
Đó là do nghiệp lực cá nhân của mỗi người tạo ra đều theo quy luật nhân quả từ vô lượng kiếp. Cho nên mọi vật đều bị sự điều khiển của nhân quả, do đó mọi người trên thế gian này không ai vượt qua sự điều khiển của nhân quả.
Câu chuyện vua Umberto và chủ nhà hàng Umberto là do nghiệp tạo ra từ kiếp trước giống nhau nên hiện kiếp mới có sự trùng hợp như vậy, không có gì là lạ. Tuy câu chuyện trùng hợp đon sơ như vậy cũng làm cho mọi người khắp nơi trên thế giới lấy làm ngạc nhiên mà ít có ai lý giải được.
Về xác cô Bernadette chết cách đây đã 122 năm nhưng vẫn tươi như người đang ngủ.
These are the pictures of St.Bernadette who died 122 years ago in Lourdes, France and was buried, her body was only discovered 30 years ago after the church officials decided to examine her body.
Her body is still fresh until today and if you ever go to Lourdes , France you can see her body in the church in Lourdes. Her body does not decay because during her lifetime, the mother of Jesus would always appear to her and give messages and advice to all mankind on the right way to live on this earth.
(Đây! Những bức tranh của nữ thánh Bernadette đã chết cách đây 122 năm tại Lourdes, nước Pháp và được chôn, xác của cô chỉ được khám phá cách đây 30 năm sau khi người của nhà thờ quyết định khám tử thi.
Xác của cô vẫn còn tươi tới tận nay và nếu có dịp rảnh tới thăm Lourdes, nước Pháp bạn có thể thấy thi thể của cô trong nhà thờ tại Lourdes. Xác của cô không thối rữa bởi vì trong thời gian cô còn sống, mẹ của chúa Jesus đã hiện ra với cô và cho cô những tín nhắn cùng lời khuyên đến nhân loại sống đúng có đạo đức trên trái đất này).
(Nhiều hiện tượng lạ đã diễn ra tại chỗ này của Lourdes và cho tới tận ngày nay. Những bức tranh này cho thấy xác cô sau 122 năm).
… … …
Nhìn xác chết của cô Bernadette cách đây 122 năm mà vẫn còn tươi như người đang ngủ. Tại sao một người chết cơ thể không bị vi khuẩn hủy hoại mà lại còn tươi như người đang ngủ? Thân xác ấy còn lưu giữ tại nhà thờ Lourdes ở bên Pháp. Đây là một bằng chứng cụ thể mà không ai lý giải dù các nhà khoa học cũng không giải thích được. Vậy có bàn tay thần thánh nào đã giúp cho thân xác của cô Bernadette không hư hoại?
Muốn biết rõ điều này chúng ta hãy đọc câu chuyện kể về đời sống của cô Bernadette thì thấy rất rõ không có bàn tay nào cả mà chỉ có Tưởng Uẩn của cô đã giữ gìn thân xác suốt 122 năm.
Thật là Tưởng Uẩn của mỗi con người đã làm nên những phép mầu kỳ diệu mà không ai ngờ được. Nếu một người nào biết cách tu tập làm cho tưởng uẩn hoạt động thì trong cuộc đời không còn có một sự việc gì xảy ra mà người ta gọi là mầu nhiệm hay là tâm linh nữa.
Bernadette sinh ngày 7 tháng 01 năm 1844 trong căn nhà kinh doanh máy xay bột ông Boly, đến tháng 02 năm 1856, gia đình dọn về ở căn phòng “Cachot”, Cachot là phòng giam nhà tù xưa. Từ ngày 11 tháng 02 đến 16 tháng 06 năm 1858, Đức Mẹ đã hiện ra 18 lần với Bernadette. Ngày 18 tháng 01 năm 1862, Đức Cha Laurence, giám mục giáo phận Tarbes công nhận sự thật Đức Mẹ hiện ra. Ngày 04 tháng 07 năm 1866, Bernadette xin vào Dòng thánh Gilard, dòng nữ tu Bác Ái ở Nevers. Ngày 30 tháng 10 năm 1867, Bernadette tuyên khấn và lấy tên là chị Marie-Bernard. Tháng 09 năm 1874, Bernadette ngã chứng bệnh hen kinh niên và mất ngày 16 tháng 04 năm 1879. Ngày 08 tháng 12 năm 1933 được Đức Thánh Cha Piô XI phong thánh.
Gia đình Bernadette rất nghèo. Cha là chủ tiệm một máy xay, bị phá sản, gia đình sống dựa vào những công việc nhỏ nhặt. Họ ở trong căn nhà tù cũ được cải dụng bởi vì nhà tù này trước đây tối tăm và hại cho sức khỏe. Họ có bốn người con, đêm ngủ chung một giường. 14 tuổi mà Bernadette chẳng hề biết đọc, chỉ biết nói tiếng thổ ngữ (bigourdan).
… … …
XIN THẦY CHO CON HỎI
Qua câu chuyện về thánh nữ Bernadette, xin Thầy giải thích thêm cho rõ.
Hỏi 1: Khi một người chết mà thân xác còn tươi như vậy là do họ tu tập pháp gì mà có?
Đáp: Khi một người chết mà thân xác còn tươi như vậy là do họ tu tập Tưởng Pháp. Ở đây cô Bernadette do lòng tin tuyệt đối nên tưởng cô hoạt động chớ không phải do tu tập.
Tưởng Uẩn của cô Bernadette đã 18 lần hoạt động và như vậy tưởng cô rất dễ sử dụng, khi cô muốn là nó hoạt động. Đọc trong bài chúng ta thấy rất rõ như: lửa cháy trên bàn tay mà không bị phỏng, Đức Trinh Nữ hiện ra nhiều lần cô đã thấy qua Tưởng.
Người nào muốn luyện cho Tưởng Uẩn hoạt động thì dùng tưởng hơi thở từ trên đầu đi xuống chân, rồi từ chân đi vòng ra sau lưng, rồi chạy theo xương sống trở lên đầu và hơi thở cứ đi vòng tròn như vậy gọi là chuyển pháp luân. Đó là luyện tưởng hơi thở.
Khi ức chế ý thức không cho niệm khởi như Thiền Đông Độ biết vọng liền buông, tham thoại đầu, tham công án v.v…, đó là tu tập về tưởng không, người này tu tập như vậy sẽ nhập vào Không Vô Biên Xứ Tưởng. Khi người này nhập vào Không Vô Biên Xứ Tưởng rồi bỏ thân xác thì thân xác người này còn nguyên vẹn không tan rã hôi thối.
Hỏi 2: Người theo đạo Thiên Chúa không có tu định, vậy tại sao họ lại có thể để lại thân xác như vậy? Bằng cách nào Tưởng Uẩn của họ hoạt động? Do quá tin vào có Thiên Chúa chăng?
Đáp: Tưởng do lòng tin vào Thiên Chúa, Tưởng Uẩn cô Bernadette hoạt động. Nhờ Tưởng Uẩn hoạt động nên thân xác cô không hư hoại.
Hỏi 3: Có phải Tưởng Uẩn của họ đang hoạt động cho nên thân xác không hủy hoại?
Đáp: Đúng vậy, Tưởng Uẩn của cô Bernadette đang hoạt động nên thân xác cô không hủy hoại
Hỏi 4: Những người có thân xác như vậy đã tái sanh chưa? Hay có phải tái sanh không?
Đáp: Việc tái sinh không liên hệ với thân xác người chết. Khi người vừa tắt thở là nghiệp của người ấy tương ưng đã tái sinh làm một người khác rồi. Nghiệp cô Bernadette đã tái sinh làm một người khác, còn thân xác cô không hư hoại là do Tưởng Uẩn trong thân cô hoạt động bảo vệ nên thân xác cô giống như người đang ngủ, một giấc ngủ dài 122 năm và còn tiếp tục nữa nếu Tưởng Uẩn cô còn hoạt động.
Tưởng Uẩn trong con người là một pháp mầu, là một điều kỳ lạ mà người nào cũng có, nhưng người có Tưởng Uẩn hoạt động và người có Tưởng Uẩn chưa hoạt động. Vì thế mà mọi người không biết nên cho là pháp mầu, cho là những điều kỳ lạ.
Hỏi 5: Có những hiện tượng lạ nói rằng nhiều người bị bệnh viếng thăm bà thì được chữa khỏi bệnh? Điều đó được giải thích như thế nào?
Đáp: Đã nói đến Tưởng thì trị bệnh cho người khác là một việc dễ dàng, chỉ cần hai Tưởng tương ưng nhau trong một từ trường thì người có bệnh sẽ lần lần hết bệnh. Cho nên có người bệnh đến thăm thân xác cô Bernadette là về nhà hết bệnh, nhưng có người lại không hết bệnh. Đó là Tưởng người bệnh tương ứng với Tưởng của cô Bernadette đang hoạt động để bảo vệ thân xác cô.
Hỏi 6: Có cách nào làm cho thân xác đang tươi như vậy tan rã không? Hay là cứ để theo thời gian sẽ tan rã?
Đáp: Chỉ cần một người nhập vào Thức Vô Biên Xứ Tưởng thì sẽ bắt gặp Tưởng thức của cô Bernadette và giúp Tưởng thức cô ngưng họat động thì thân xác cô tan rã tức khắc. Còn nếu để Tưởng thức của cô Bernadette hoạt động thì thân xác cô không bao giờ tan rã.
125. MỘT LINH HỒN NHIỀU THỂ XÁC
“Một vị Tăng ở Tây Tạng đã nói cuộc đời chỉ là một sân khấu. Diễn tại sân khấu này đóng vai một người nghèo khó, nhưng ở một sân khấu khác, người đó lại hóa thân thành vị công tử, có thể là do sự lựa chọn vai diễn của người đó.”
Lời nói của vị Tăng Tây Tạng chứng tỏ ông ta chẳng biết gì về Phật giáo. Ông nói theo sự truyền thừa thuyết Linh Hồn Đi Tái Sanh của loài người từ xưa đến nay, chứng tỏ các vị Tăng Tây Tạng chỉ mang hình thức Tăng chớ thật sự không phải là tu sĩ Phật giáo. Các ngài đang theo tu theo ngoại đạo Bà La Môn nhưng mượn danh là Tăng sĩ Phật giáo để lừa độc giả.
Phật giáo thì cấm các đệ tử của mình không nên thị hiện thần thông, còn các ông Lạt Ma thì chuyên luyện thần chú để thể hiện cầu vồng, biết chuyện quá khứ vị lai của người khác để làm cho mọi người phục mình. Vì thế nói đến Tây Tạng thì người ta kèm theo danh từ Huyền Bí.
Có những tác giả họ hiểu như thế nào xứ Tây Tạng mà dám ghép Tây Tạng Đất Phật Huyền Bí. Trong khi Đức Phật sinh ra ở Ấn Độ, còn các sư Tây Tạng tu hành có làm chủ bốn sự đau khổ chưa? mà dám cho Tây Tạng Đất Phật Huyền Bí. Tu thành Phật mà cũng (sống đời) giống như một người bình thường thì có gì huyền bí đâu?
Các sư Tây Tạng cũng sợ chết như mọi người, khi Trung Quốc qua xâm chiếm đất nước này thì các ông Lạt Ma chạy trốn sang bên Mỹ.
Khi Trung Quốc đặt nền cai trị đất nước này, biến đất nước này thành một nơi du lịch của Trung Quốc, muốn quyến rũ du khách đông đảo nên đặt cho cái tên đầy hấp dẫn “Tây Tạng Huyền Bí.” Nghe cái tên ai cũng muốn đến đó tham quan một lần, nhưng các ông Lạt Ma tu hành cũng như các sư thầy ở Việt Nam có khác chỗ nào đâu.
Có ông Lạt Ma nào tu tập làm chủ bốn sự đau khổ: Sinh, Già, Bệnh, Chết chưa?
Vậy mà huyến bí để làm gì hay để quyến rũ những người hiếu kỳ. Huyền bí để xây dựng thế giới siêu hình, để xây dựng một Linh Hồn bất diệt, để đi ngược lại lời dạy của Đức Phật, để diệt nền đạo đức nhân bản - nhân quả của loài người.
Đừng lấy các sư Tây Tạng mà xây dựng thành một đất nước Huyền Bí, vì các sư Tây Tạng tu hành có ra, có tới đâu, chỉ đọc thần chú hiện cầu vồng để lừa bịp thiên hạ. Tu hành mà lừa gạt mọi người như vậy thì tự các ngài Lạt Ma rất xấu hổ cho người trước đã làm mà người sau phải chịu lấy tiếng xấu muôn đời.
Chúng ta ai cũng biết Phật giáo đã xác định rõ ràng: “Con người có thân ngũ uẩn là do nghiệp thiện ác.” Như vậy Nghiệp Thiện Ác Đi Tái Sinh chớ đâu phải Linh Hồn đi tái sinh.
Nếu quả có Linh Hồn đi tái sinh thì Linh Hồn đâu có ngu dại điên khùng mà chọn chỗ nghèo, chỗ con bò, con heo, con gà, con vịt, con cá, con tôm, con trùng, con dế v.v… mà tái sinh. Phải không quý vị?
Nếu có Linh Hồn Tái Sinh thì thế gian này toàn là ông chủ không có người làm công, còn trong cuộc sống hiện tại trong xã hội, ông chủ thì ít mà công nhân thì nhiều, như vậy Linh Hồn quá ngu si phải không, thưa quý vị?
Nếu có Linh Hồn Đi Tái Sinh thì thế gian này toàn là người giàu, nhưng sự thật trong xã hội hiện tại người giàu thì ít mà người nghèo thì vô số kể, như vậy Linh Hồn quá ngu si. Phải không quý vị?
Nếu có Linh Hồn Đi Tái Sinh thì thế gian này toàn là con người, nhưng sự thật trên hành tinh của chúng ta đang sống thì con người lại quá ít mà loài vật thì vô số kể, như vậy Linh Hồn quá ngu si. Phải không quý vị?
Cho nên Linh Hồn có là do những người sống trong ảo tưởng dựng lên để nuôi hy vọng mình có một cái gì vô hình mà luôn luôn trường tồn mãi mãi. Do những điều lý luận trên đây chúng tôi xác nhận và bảo thẳng cho mọi người biết Linh Hồn Không Có. Chỉ có nghiệp thiện ác của mọi người đi tái sinh mà thôi. Đó là luật Nhân Quả không sửa đổi hay bóp méo nó được.
Nếu ai bảo có Linh Hồn là những người không thông suốt Phật giáo, không hiểu biết Luật Nhân Quả.
Chúng tôi xin thành thật khuyên những người viết sách về tâm con người trong góc độ Tôn giáo, chỉ khi nào tu hành làm chủ Sinh, Già, Bệnh, Chết thì mới viết sách, còn chưa làm chủ bốn sự đau khổ này mà viết sách là viết theo Tưởng giải của mình, viết sách như vậy dạy người tu Thiền là giết người mà không cần gươm đao quý vị ạ!
Người chưa chứng đạo giống như người mù, cho nên quý vị đừng viết sách nữa và xin cáo lỗi với độc giả bốn phương để thu hồi những tập sách đó lại.
Viết sách là làm lợi ích cho mọi người chớ không phải viết sách cầu danh, cầu lợi.
Có một cuốn sách đề tựa “Một Linh Hồn Có Nhiều Thể Xác” tác giả biết chắc có Linh Hồn thật hay sao mà dám đặt tên sách như vậy. Muốn viết sách về Linh Hồn thì nên dựa vào lời dạy của Đức Phật mà viết. Khả năng mình biết gì trong thân người mà dám cho trong thân con người có Linh Hồn. Một mình không hiểu biết mà muốn cho mọi người cũng không hiểu biết như mình sao?
Người nào chưa hiểu biết về Linh Hồn mà dám xác định có Linh Hồn là người nói vọng ngữ đệ nhất. Xin quý vị tránh xa những người không thành thật với mình vì những người này còn tiếp tục nói vọng ngữ nữa. Cho nên ở đời cái gì biết chắc thì nói còn chưa biết thì thôi. Đừng làm hay mà thành dở.
Ở đây Linh Hồn là một việc cần phải làm sáng tỏ, bởi vì nó không có, nhưng từ xưa cho tới nay mọi người luôn cho rằng có, nhưng cho có mà không xác định được. Bởi vì nó có là do truyền thuyết từ xa xưa đến nay đã ăn sâu vào lòng con người, nó đã trở thành một Phong Tục Linh Hồn chớ không có Linh Hồn Thật Sự. Cho nên muốn dẹp bỏ nó không phải trong một ngày một giờ mà dẹp được.
Muốn dẹp nó phải bền chí, phải đủ sức thuyết phục mọi người, phải dẹp sạch những sách vở nói về Linh Hồn với sự tưởng tượng của các nhà văn, nhà báo.
126. NGƯỜI CẦU VỒNG
Sau khi Thầy nhận được thư của Chơn Giác và một tài liệu nói về hiện tượng huyền bí của xứ Tây Tạng với tựa đề: “Từ Một Câu Chuyện Kỳ Lạ Tại Tây Tạng,” câu chuyện huyền bí kỳ lạ ấy xảy ra đã khiến nhiều nhà khoa học trên thế giới vào cuộc truy tìm với mọi góc độ khoa học để chứng minh con người có linh hồn hay không.
Tuy bức thư này Chơn Giác đã gửi đến Thầy rất lâu, nhưng Thầy chưa trả lời vì bận quá nhiều công việc. Nhưng rồi có nhiều người gửi thư đến hỏi Thầy về câu chuyện kỳ lạ này và ai cũng muốn biết linh hồn có hay không có, mà sao trong cuộc sống họ thường gặp những hiện tượng kỳ lạ. Những hiện tượng kỳ lạ đó phải chăng là linh hồn của con người?
Trước khi trả lời thư Chơn Giác và mọi người, Thầy xin mọi người hãy đọc lại câu chuyện xảy ra tại Tây Tạng và những sự tìm tòi linh hồn của các nhà khoa học. Câu chuyện như sau:
“Tại vùng đất huyền bí nhất trên thế giới – Tây Tạng cho đến ngày nay vẫn còn lưu truyền một sự kiện hết sức kỳ lạ về Người Cầu Vồng. Sự kiện xảy ra vào năm 1998 tại Kham – khu vực hẻo lánh phía đông Tây Tạng - sự biến mất kỳ lạ của vị Lạt ma Khenpo A-chos. Ông là một trong các Lạt ma có uy tín nhất trong vùng, thường xuyên thuyết giảng về đạo Phật dù chính phủ Trung Quốc có những quy định rất khắt khe về việc này. Vào tuổi tám mươi, vị Lạt ma vẫn hoàn toàn khỏe mạnh. Một hôm, Lạt ma Khenpo A-chos lên nằm trên giường của mình, miệng lẩm bẩm câu thần chú Tây Tạng “Omani padmehum” và qua đời. Ngay sau đó cầu vồng xuất hiện trên căn phòng nhỏ của ông suốt cả ngày.”
Ở Tây Tạng, các vị Lạt ma thường tu tập theo Mật Tông nên ngày đêm chuyên niệm câu thần chú “Omani padmehum”. Khi tập luyện câu thần chú này linh hiển thường xuất hiện cầu vồng. Vị Lạt ma Khenpo A-chos trước khi chết cũng đọc câu thần chú này và cầu vồng hiện ra khi ông vừa tắt thở. Do đó, người ta nghĩ rằng khi ông chết, linh hồn ông hiện ra cầu vồng, vì thế mà người ta gọi ông là Người Cầu Vồng.
Tin tức này loan truyền khắp mọi nơi trên thế giới. Do những hiện tượng kỳ lạ này mà các nhà khoa học vào cuộc để nghiên cứu “linh hồn”, nhưng linh hồn chỉ là một sự tưởng tượng của loài người, qua những hiện tượng của loài người, qua những hiện tượng xảy ra xung quanh cuộc sống của con người mà không thể giải thích được. Câu chuyện cầu vồng của vị Lạt ma Khenpo A-chos khiến chúng tôi nhớ đến câu chuyện cầu vồng do các vị Lạt ma đưa xá lợi của Phật, của ông Phú Lâu Na và của ông Xá Lợi Phất qua cúng dường cho Phật giáo. Phật giáo tổ chức buổi lễ tiếp xá lợi và nhập tháp. Phật tử và quý chư Tăng, Ni về đông đảo để làm cho buổi lễ tiếp xá lợi rất long trọng.
Khi quý Hòa thượng tiếp nhận đưa xá lợi của Phật và các vị Thánh Tăng nhập tháp thì tất cả quý vị Hòa thượng đồng tụng kinh an vị (quý vị Hòa thượng Lạt ma Tây Tạng đọc chú “Omani padmehum”) lúc đó trên nền trời ngay tháp xuất hiện một cầu vồng khiến cho toàn thể phật tử và quý vị Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức Tăng, Ni trong Giáo hội Phật giáo đều bái phục sự linh thiêng của xá lợi Phật và các vị Thánh Tăng.
Qua sự việc xảy ra người cầu vồng Lạt ma Khenpo A-chos và cầu vồng xuất hiện khi xá lợi của Phật nhập tháp mà chúng Thánh Tăng và phật tử chứng kiến ở Việt Nam khiến cho chúng tôi xác định các vị Lạt ma sử dụng thần chú xuất hiện cầu vồng là để lừa đảo mọi người trên thế giới.
Đạo Phật ra đời nhằm giúp cho con người làm chủ bốn sự đau khổ: sinh, già, bệnh, chết để đem lại sự an vui hạnh phúc chân thật cho con người, chứ không dạy con người tu tập luyện thần thông hay niệm thần chú xuất hiện cầu vồng. Thế mà Phật giáo Tây Tạng lại sản sinh ra câu thần chú xuất hiện cầu vồng. Xuất hiện cầu vồng như vậy có ích lợi gì cho tín đồ và bản thân người tu sĩ? Cầu vông chẳng qua chỉ tạo cho tín đồ lòng tin mù quáng, khi nhìn thấy cầu vồng xuất hiện là tất cả tín đồ cho rằng các vị Lạt ma tu chứng xuất hồn bay về xứ Phật.
Sự thật tu chứng của Phật giáo không phải vậy. Người tu chứng đạo của Phật giáo là một người bình thường như bao nhiêu người khác, nhưng tâm họ không còn giận hờn, phiền não hay tham muốn một điều gì cả, thân họ nếu có đau nhức chỗ nào thì họ tác ý đuổi đi. Do đó, người tu chứng đạo của Phật giáo là người làm chủ được thân tâm. Cho nên tất cả các ác pháp đến với họ như nước chảy qua cầu, tâm họ bất động như nước, như đất.
Tu sĩ chơn chánh của Phật giáo họ tu hành không có cầu vồng, không có thần thông bùa ngải, không có tụng kinh niệm chú, không cầu an, cầu siêu, không cầu xin bất cứ một đấng Bồ Tát nào để gia hộ cho họ. Thế mà ở đây, những người đệ tử của Khenpo A-chos tổ chức lễ cầu kinh để linh hồn người thầy siêu thoát.
Chúng ta hãy đọc đoạn kế tiếp để thấy các vị Lạt ma có nhiều xảo thuật qua mắt mọi người: “Những người học trò của Khenpo A-chos tổ chức lễ cầu kinh để linh hồn người thầy mình siêu thoát.” Một vị Lạt ma đã tu chứng, khi chết có cầu vồng xuất hiện, vậy mà những đệ tử của người lại xúm nhau cầu kinh để linh hồn siêu thoát. Việc làm này có khác nào như người thế gian.
Một người tu chứng đạo khi chết biết mình đi về đâu, trước khi chết và sau khi chết phải làm gì. Ngược lại, vị Lạt ma Khenpo A-chos chưa biết mình tu chứng, chẳng biết mình chết đi về đâu, chẳng biết mình chết phải làm gì, chỉ biết đọc thần chú hiện cầu vồng. Do đó, sau khi chết các đệ tử cứ làm theo tục lệ tụng kinh niệm Phật cầu siêu để linh hồn siêu thoát.
Người tu chứng đều biết con người có linh hồn hay không có. Còn vị Lạt ma này chết chẳng biết gì cả như một người bình thường ở thế gian. Thường cơ thể một người chết là máu không còn lưu thông và đông đặc lại, không có ô xy thì da xanh xám, vậy mà ở đây cơ thể vị Lạt ma lại hồng hào. Chúng ta đọc đoạn này sẽ thấy sự lừa đảo không có khoa học của những vị Lạt ma Tây Tạng:
“Nhưng hiện tượng lạ thường xáy ra. Da thịt của vị Lạt ma bắt đầu hồng hào trở lại. Dường như Khenpo A-chos đang từ từ tái sinh. Học trò của ông đi hỏi ý kiến một vị Lạt ma khác và được lời khuyên hãy bọc thi thể của thầy lại và tiếp tục cầu kinh. Họ làm đúng như lời hướng dẫn. Một tuần sau, khi mở tấm áo bọc thi thể vị Lạt ma, người ta chỉ thấy vài sợi tóc còn sót lại trên gối, thi thể của Khenpo A-chos đã hoàn toàn biến mất. Từ đó người Tây Tạng gọi ông là Người Cầu Vồng.”
Người Tây Tạng gạt mọi người trên thế giới được, chứ không thể gạt được những người tu chứng của Phật giáo. Đọc đoạn này chúng ta biết rõ Phật giáo Tây Tạng chỉ là một Phật giáo Cầu Vồng chứ không có sự giải thoát làm chủ sinh, già, bệnh, chết như Phật giáo Nguyên Thủy.
“Câu chuyện thần bí lan khắp nơi. Cha Francis Tiso, một cha đạo dòng thánh Benedict cũng nghe được câu chuyện kỳ bí này. Cha Francis Tiso tổ chức một chuyến đi đến Kham để ghi lại lời kể của những người đã chứng kiến sự kiện. Người mà cha Tiso muốn gặp nhất là vị Lạt ma A-chos để hỏi ý kiến. Vị Lạt ma nói với cha Tiso rằng sự biến mất của vị Lạt ma Khenpo A-chos là do một lực vật chất xuất phát từ trong linh hồn của ông ấy. Đây không phải là một câu nói mang hàm ý triết học hoặc ẩn dụ. Điều ông muốn nói ở đây là một sự thật đã xảy ra.
Vị Lạt ma đưa cho cha Tiso xem một bức ảnh của Lạt ma Khenpo A-chos khi ông đã qua đời, bằng mắt thường có thể nhìn thấy rất rõ một luồng ánh sáng phát ra từ thân thể của ông ta. Xem bức ảnh, cha Tiso thốt lên:
“Đây là sự giao hòa giữa cái có thể và không thể, giữa một con người hiện hữu và con người siêu phàm. Một ngày nào đó chúng ta sẽ tìm được cơ sở để chứng minh rằng nó có thật.”
Điều cha Tiso muốn tìm trong sự kiện xảy ra tại Kham cũng nằm trong vấn đề lớn mà ông đang nghiên cứu, đó là có hay không có sự tồn tại của linh hồn con người. Hiện nay, những cuộc tranh cãi xung quanh vấn đề này vẫn diễn ra quyết liệt. Mấu chốt của vấn đề này nằm ở chỗ: nếu có sự tồn tại của linh hồn thì làm sao để xác định được. Những người cho rằng linh hồn có thật dựa vào các tài liệu tôn giáo để chứng minh cho sự tồn tại của nó, còn người phản đối thì cho rằng các lập luận đó quá mơ hồ và không thể đủ độ tin cậy khi kiểm chứng bằng các nghiên cứu khoa học.”
Cha Francis Tiso – một cha đạo dòng thánh Benedict tại Mỹ, ông cũng chỉ là một con người bình thường, làm sao biết linh hồn có hay không?
Các nhà khoa học chỉ khám phá được những gì vi tế nhất của vật chất chứ không thể khám phá những gì của tinh thần. Cho nên nói đến linh hồn thì các ông biết gì mà muốn khám phá có hay không. Trong khi những hiện tượng tưởng uẩn của con người còn sống đang phóng xuất khắp nơi, nhất là những vùng mà con người không xác định được những hiện tượng đó nên cho là “Huyền bí”. Khắp nơi trên thế giới nước nào cũng có, nhưng chỉ nhiều hay ít mà thôi. Nơi nào nhiều là nơi đó có những người dân sống trong tưởng nhiều như đất nước Tây Tạng.
Cha Tiso, ông đã từng nghiên cứu Phật giáo sao ông không biết rằng Đức Phật đã xác định: “Thế giới siêu hình chỉ là thế giới của tưởng tri, chứ không phải thế giới liễu tri.” Như vậy, ông là người nghiên cứu Phật giáo như thế nào? Ông có hiểu lời dạy này của Đức Phật không? Ông đi tìm linh hồn vậy linh hồn ở đâu mà tìm?
Đức Phật còn xác định rõ ràng: “Thân ngũ uẩn này khi tan rã thì không còn một uẩn nào cả.” Vậy trong thân ngũ uẩn này linh hồn là cái gì? Lời Đức Phật là lời một người tu chứng đầy đủ Ba Minh, lục thông, Ngài thấu suốt cả vũ trụ, có cái gì còn che mắt Ngài được. Những lời Ngài đã xác định: thế giới siêu hình và linh hồn không có.
Vậy mà cha Tiso – một nhà nghiên cứu Phật giáo lại không tin lời Phật dạy nên mới đi tìm cái cầu vông linh hồn của Lạt ma A-chos, thật là phí công vô ích, chỉ chạy loanh quanh trong ảo tưởng. Tri thức phàm phu mà đòi tìm hiểu linh hồn thì thực là quý vị không tự lượng sức hiểu biết của mình.
Một Lạt-ma ở Kham, vùng đất đầy bí ẩn của xứ Tây Tạng
Chúng ta hãy theo chân các nhà khoa học xem họ có những kiểm chứng nào để xác định có linh hồn, nhưng chúng ta đã thất vọng vì các nhà khoa học đã không đủ khả năng xác dịnh linh hồn có hay không. Từ nghiên cứu này đến nghiên cứu khác, họ hoàn toàn gặp thất bại. Xin quý vị hãy đọc những đoạn văn dưới đây để thấy rằng các nhà khoa học chỉ phí công, có khi đến hai ba chục năm mà cũng không làm sáng tỏ vấn đề linh hồn của con người.
“Những kiểm chứng khoa học nhiều người đã cố gắng chứng minh sự tồn tại của linh hồn bằng các thí nghiệm khoa học. Một trong số đó là bác sĩ Dumcan Mac Dougall. Sau khi tiến hành thí nghiệm trên bảy người chết, ông phát hiện ra rằng ngay sau khi qua đời, cân nặng của người chết giảm đi từ 11 – 43 gram. Ông cho rằng đó là phần vật chất mà người ta thường gọi là linh hồn thoát ra khỏi thi thể. Sau này nhiều người khác cũng lặp lại thí nghiệm của Dumcan, nhưng câu trả lòi cho sự tồn tại của linh hồn vẫn chưa được làm sáng tỏ. Phần trọng lượng bị mất đi đó của người sau khi chết được giải thích chỉ đơn giản là sự bốc hơi của lượng nước có sẵn bên trong cơ thể.”
Thưa quý vị! Bác sĩ Dumcan Mac Dougall cũng là một người đang sống trong tưởng tri nên cho rằng sự bốc hơi của cơ thể khi một người chết là linh hồn bay ra thì có ai tin không? Vậy mà bác sĩ phải tốn bao nhiêu công sức thí nghiệm trên bảy tử thi. Cho nên nói về linh hồn thì chỉ có những người có Thiên Nhãn Minh mới xác định được linh hồn có hay không, còn ý thức tri kiến của người bình thường không thể hiểu biết được. Hiện giờ chúng ta không đủ khả năng hiểu được về linh hồn thì nên tin lời day của một người tu chứng đạo, đó là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Ngài đã day: “Ba mươi ba cõi trời là tưởng tri chứ không phải liễu tri”, tức là Đức Phật đã xác định: “Không có linh hồn, không có thế giới siêu hình.” Như vậy, chúng ta hãy tin theo lời Ngài dạy mới không bị ảnh hưởng sai lệch của những tôn giáo khác, của những phong tục truyền thừa từ xưa tới nay.
Bây giờ chúng ta hãy theo chân một bác sĩ khác để biết nhà khoa học này xác định có linh hồn hay không:
“Một bác sĩ khác cũng cố gắng chứng minh sự tồn tại của linh hồn bằng những thí nghiệm khoa học, đó là Gerand Nahum, giám đốc bộ phận nghiên cứu của Công ty Dược phẩm Berlex. Ông đã bỏ ra hai mươi năm chỉ để nghiên cứu lĩnh vực này. Theo Nahum, vấn đề khó nhất để xác định sự tồn tại của linh hồn là phải tìm được những chuỗi điện từ phát ra từ thi thể người chết. Ông đặt hàng loạt những máy dò hiện đại xung quanh thi thể: máy viba, máy dò tia hồng ngoại, tia gama, điện tử… để tìm ra linh hồn.
Nahum chắc chắn rằng sau khi chết, tất cả những gì thuộc về người đó khi họ còn sống không thể ngay lập tức mất đi hoàn toàn được. Nó sẽ phải qua một quá trình chuyển biến đến một nơi nào đó trong không gian. Tại những nơi đó, chúng sẽ được giữ gìn và tồn tại vĩnh cửu. Nhưng khi ông thử trình bày ý tưởng của mình với các trường đại học tại Mỹ thì tất cả đều từ chối, ngay cả nhà thờ Thiên Chúa giáo cũng không chấp nhận tài trợ cho những nghiên cứu của Nahum. Vì thế, những nỗ lực của nhà khoa học này dẫm chân tại chỗ…”
Một thất bại rất lớn cho sự nghiên cứu của bác sĩ Nahum, những điều ông nghiên cứu khi đưa ra trong giới trí thức họ đều không ai tin. Một lần nữa cho những ai muốn đi tìm linh hồn. Khi Đức Phật bảo rằng linh hồn không có thì dù quý vị có nghiên cứu gì cũng hoài công vô ích. Vì linh hồn không có mà đi tìm cho có thì không bao giờ có được…
Cuối cùng, các nhà khoa học không thể chứng minh có linh hồn vì thế họ thoái thác bằng lý luận:
“Đó không phải là thứ dành cho đôi mắt mà là trái tim. Đối với chúng ta, có lẽ sự nhìn nhận bằng đôi mắt và cả sự cảm nhận bằng trái tim chia sẻ cho câu trả lời chính xác nhất. (Lời nói này của vị Lạt ma mà cha Tiso gặp tại Kham đã nói).
Tại đại học Virginia, một chuyên gia tâm thần học là Gruce Greyson cũng có các nghiên cứu liên quan đến sự tồn tại của linh hồn. Greyson là người đầu tiên tập trung vào tâm lý của những người đang ở ranh giới của sự sống và cái chết, ông phát hiện ra rằng một vài người đang hấp hối đều nhìn thấy một luồng ánh sáng xanh rất mạnh, và cảm thấy một đường hầm đang dẫn họ về phía trước. Nhưng thực ra Greyson lại không hoàn toàn tin tưởng vào sự tồn tại hay không tồn tại của linh hồn.”
Đây là sự nhìn nhận bằng trái tim mới biết linh hồn. Nhìn nhận có linh hồn bằng trái tim chứ linh hồn không thể nào nhìn nhận bằng đôi mắt, bằng ý thức được. Như vậy, sự nhìn nhận linh hồn bằng trái tim như thế nào?
Nhìn nhận linh hồn bằng trái tim là nhìn nhận bằng tưởng tri. Do vậy, linh hồn chỉ có là bằng tưởng tri của con người mà thôi. Và tưởng tri cho có linh hồn thì linh hồn không có thật, đó chỉ là sự tưởng tượng mà thôi. Từ nghiên cứu này đến nghiên cứu khác, các nhà khoa học đưa ra biết bao nhiêu lý thuyết, nhưng lý thuyết nào cũng không xác định được có. Rồi cuối cùng cũng chấp nhận không có linh hồn. Chỉ vì người ta không tin lời Đức Phật dạy nên mới bỏ biết bao công sức đi tìm linh hồn.
Ngày xưa Đức Phật đã xác định: Không có linh hồn. Do vậy dù chúng ta có chạy Đông, chạy Tây để tìm xem có linh hồn hay không, nhưng cuối cùng đến giờ này không ai xác định linh hồn có thực sự: “Những câu trả lời có căn cứ từ khoa học đến các tôn giáo hiện nay vẫn chưa có thể coi là thỏa đáng.”
Chúng ta quyết định theo chân các nhà khoa học để xem họ đang làm gì và đang nghiên cứu những gì để biết có linh hồn hay không. Nếu thật có linh hồn thì Đức Phật là người nói không đúng. Phải không quý vị? Một ngàn lần các nhà khoa học đi tìm linh hồn thì một ngàn lần các ngài sẽ gặp thất bại, chỉ uổng phí công của các ngài mà thôi.
“Qua ba mươi năm tìm hiểu về trạng thái tâm thần của người hấp hối, ông đã phát hiện thấy 10% số người trong số các nạn nhân suy tim đều có dấu hiệu hoạt động của não trong khi họ đang bất tỉnh. Sau khi được cứu chữa và tỉnh lại, những bệnh nhân này cho biết họ thấy những hoạt động của bác sĩ và y tá ở một điểm cao hơn.
Tiếp tục nghiên cứu, Greyson cho đặt một màn hình với những giao diện khác nhau bên ngoài phòng cấp cứu bệnh nhân bị suy tim. Năm mươi người đã được thử nghiệm, nhưng không một ai biết được màn hình có màu gì. Nhà khoa học giải thích rằng đó là do tác dụng của thuốc gây mê đã cản trở sự thoát ra của linh hồn.
Pim Van Lommet, bác sĩ chuyên khoa tim người Đan Mạch cũng đồng ý với quan điểm của Greyson. Lommet cho rằng con người không chỉ có một ý thức trong khi họ đang ở trong tình trạng hấp hối thì những ý thức khác hoạt động và mở rộng phạm vi của nó nhiều hơn so với bất cứ thời điểm nào trước đó. Lúc đó họ có thể hồi tưởng lại những khoảng thời gian xa xôi nhất trong quá khứ và cảm nhận được một cách rõ ràng hơn bình thường sự vật và con người xung quanh. Trong khi đó thần kinh trung ương của họ vẫn đang ngừng hoạt động.”
Các nhà khoa học truy tìm ngoài cái biết của ý thức còn có một cái biết đặc biệt hơn, nhưng các ngài không biết nó là cái gì đang thay thế ý thức khi ý thức ngưng hoạt động. Do điều này mà các ngài cho đó là linh hồn ư?
Không! Không phải đâu! Các ngài đã lầm. Rất sai lầm. Hiện tượng cái biết ngoài ý thức mà các ngài đang tìm và cho là linh hồn thì các ngài quá sai.
Thưa quý vị! Nó không phải là linh hồn mà là Tưởng uẩn hoạt động như Đức Phật đã xác định trên thân mỗi con người đều có năm uẩn:
1- Sắc uẩn; 2- Thọ uẩn; 3- Tưởng uẩn; 4- Hành uẩn; 5- Thức uẩn.
Năm uẩn này kết hợp lại mới thành thân và tâm của con người. Một con người bình thường hằng sống với sắc uẩn. Sắc uẩn gồm có sáu cái thức (biết), sáu thức đó là:
1- Nhãn thức; 2- Nhĩ thức; 3- Tỷ thức; 4- Thiệt thức; 5- Thân thức; 6- Ý thức.
Thông thường con người sử dụng ý thức nhiều nhất, còn mắt, tai, mũi, miệng, thân đều hoạt động để phụ giúp cho ý thức làm việc phân biệt, nhận thức, quan sát, cảm nhận cho chính xác. Cho nên mỗi con người đều biết qua sáu cái biết này, còn cái biết của tưởng uẩn thì ít ai lưu ý.
Tưởng uẩn làm việc không thua gì ý thức. Khi chúng ta ngủ thường có chiêm bao là do tưởng uẩn làm việc. Cho nên các nhà khoa học và mọi người đã sai lầm cho tưởng uẩn là linh hồn con người, vì họ nghiên cứu rất rõ ý thức ngưng hoạt động, vậy sao con người còn có một cái biết nữa.
Thưa các nhà khoa học, con người có ba cái biết chứ không phải có một cái biết. Ba cái biết ấy như Đức Phật đã dạy trong các kinh gồm có:
Cái biết thứ nhất là Sắc thức.
Cái biết thứ hai là Tưởng thức.
Cái biết thứ ba là Thức thức.
Ba cái biết này, một con người bình thường sử dụng hai cái biết, đó là Sắc thức và Tưởng thức. Còn cái biết thứ ba Thức thức chỉ dành cho người tu chứng đạo. Cho nên, người đời thường nhận định Sắc thức là cái biết trong đời sống hàng ngày, và Tưởng thức là cái biết trong chiêm bao, mộng mị và còn cho là linh hồn. Còn người tu Thiền Đông Độ cho Sắc thức (sáu thức) là Phật tánh: tánh biết, tánh thấy, tánh nghe, v.v…
Bác sĩ Pim Van Lommet và bác sĩ Greyson đều cho tưởng thức là linh hồn. Bởi vậy, các nhà khoa học chỉ có kiến thức thế gian thì làm sao biết linh hồn là gì mà tìm kiếm để chứng minh cho có thì cũng chỉ hoài công vô ích mà thôi.
Chúng ta sẽ tiếp tục theo chân của những nhà khoa học bác sĩ này để tìm xem họ truy tìm linh hồn.
“Những giả thuyết đặt ra một sự nghi ngờ đối với kiến thức mà chúng ta đã biết và thừa nhận từ lâu: Ý thức là sản phẩm của não bộ.”
Đúng vậy, ý thức là sản phẩm của não bộ, ngoài não bộ đi tìm ý thức không bao giờ có. Cho nên người chết thì ý thức bị diệt mất, như vậy lời xác định trên là đúng không sai.
Chúng ta hãy nghe tiếp các nhà khoa học đã nghiên cứu trên lâm sàng nhiều bệnh nhân và đi đến kết luận: “Điều đó giờ đây có thể không còn chính xác nữa, bởi vì nếu như vậy ý thức sẽ không thể tồn tại nếu não bộ ngừng hoạt động. Nhưng các thí nghiệm ở trên thì đều chứng minh ngược lại.”
Nhiều lần nghiên cứu, khi não bộ ngưng hoạt động mà lại còn có cái biết nên các nhà khoa học cho đó là linh hồn. Do không hiểu trong thân người có ba cái biết nên các nhà khoa học vội kết luận cho cái biêt ngoài ý thức là linh hồn. Đó là một sai lầm rất lớn. Do những điều này mà chúng ta biết ý thức của con người không thể hiểu biết được con người có linh hồn hay không.
Còn hai nhà học giả của trường đại học Oxford là Stuart Hameroff và Roger Penrose lại giải thích sự tồn tại của linh hồn bằng quá trình lượng tử:
“Theo hai ông, não bộ con người được chia làm hàng tỉ ô siêu nhỏ, các ô này liên kết với nhau thông qua một quá trình di chuyển của các lượng tử. Khi cơ thể của một người ngưng hoạt động, máu sẽ không được chuyển đến các ô này và chúng cũng ngừng hoạt động. Nhưng sự di chuyển của các lượng tử thì không mất đi, chúng sẽ thoát ra bên ngoài não bộ và ghi nhận những gì tồn tại ở không gian xung quanh. Nếu người đó tỉnh lại, các lượng tử sẽ quay trở lại não bộ và hoạt động với chức năng thông thường của chúng. Những gì chúng ghi lại khi thoát ra bên ngoài cũng được não bộ tiếp nhận và đó là lý do tại sao một người hấp hối nhưng sau đó được cứu sống lại có thể biết được những sự kiện mà anh ta không hề tận mắt chứng kiến hoặc được nghe kể lại. Vậy nếu người đó không tỉnh lại được nữa thì các chuỗi lượng tử đó sẽ di chuyển đi đâu?
Tiếp tục mở rộng giả thuyết của Hameroff và Penrose, bác sĩ Jan Stevenson đã nghiên cứu về khả năng chuỗi lượng tử đó sẽ được tiếp nhận trong não bộ của trẻ sơ sinh, hay nói cách khác, đó chính là sự tái sinh. Sau khi Jan Stevenson mất, con trai ông là Tucker tiến hành phỏng vấn rất nhiều trẻ em. Trong số đó ông đã tập hợp được 1400 em có khả năng biết được những sự kiện xảy ra trước khi chúng hồi sinh. Thậm chí một vài em còn có thể kể rất rõ những sự kiện trong cả các giai đoạn phát triển rất sớm của lịch sử loài người.
Thực tế cho đến nay, dù có tập hợp được tất cả các công trình nghiên cứu khoa học về vấn đề này thì chúng ta cũng không thể nào biết được chính xác liệu có sự tồn tại của linh hồn hay không, và nếu có tồn tại thì chúng sẽ tồn tại ở dạng nào. Có lẽ khoa học không phải lúc nào cũng là giải pháp tối ưu cho tất cả mọi vấn đề.”
Cuối cùng các nhà khoa học không thể chứng minh được linh hồn có hay không, chỉ nêu lên những giả thuyết không thể xác định được. Do đó, các vị Lạt ma Tây Tạng chỉ kết luận một cách thiếu khoa học như lời của vị Lạt ma mà cha Tiso gặp tại Kham đã nói:
“Đó không phải là thứ dành cho đôi mắt, mà là của trái tim. Đối với chúng ta, có lẽ sự nhìn nhận bằng đôi mắt và cả sự cảm nhận từ trái tim sẽ cho câu trả lời chính xác nhất.”
Một đất nước mà con người tin vào những sự huyền bí, vì thế tôn giáo nơi đó lợi dụng lòng mê tín ấy mà các vị Lạt ma cố gắng tu luyện thần thông để thể hiện những sự huyền bí Cầu Vồng làm cả thế giới xôn xao, mọi người cho đó là linh hồn.
Tiếng nói của chúng ta không đủ lòng tin của mọi người. Vậy chúng ta hãy để câu trả lời đó cho Đức Phật, một người nói ra mà không ai dám phủ nhận: “Ba mươi ba cõi trời là tưởng tri chứ không phải liễu tri.”
Lời phủ nhận thế giới siêu hình không có quá rõ ràng, vậy chúng ta còn đi tìm linh hồn để làm gì cho phí thời gian và công sức. Như trên đã nói, cái gì không có mà cố đi tìm cho có thì làm sao có được. Phải không quý vị?
1. TÂM LINH
Hỏi: Kính thưa Thầy! Khoa học chưa tìm ra “tâm linh vi diệu” của con người, chỉ biết con người do bộ não điều khiển và còn biết một số tế bào não chưa làm việc. Có phải vậy không thưa Thầy?
Đáp: Đúng vậy, nếu khoa học nghiên cứu tìm cách đánh thức số tế bào não chưa hoạt động để được hoạt động thì sẽ thấy được tâm linh vi diệu của con người hoạt động rất là siêu việt. Nói tâm linh nhưng sự thật ra nó chẳng linh hiển gì cả, chỉ vì nó hoạt động ở trí vô hạn nên không còn không gian và thời gian chi phối, đó cũng là do tế bào não hoạt động điều khiển tạo ra những năng lực siêu việt kì lạ.
Hiện giờ tế bào não hoạt động trong trí hữu hạn mà chúng ta gọi là ý thức. Ý thức là sự hiểu biết bị hạn chế trong không gian và thời gian nên con người sống không nhìn hiểu biết rõ sự vật và các pháp, thường lầm chấp sống với tưởng tri nên cho thế giới hữu hình và vô hình là thật có. Vì thế mới đắm đuối dính mắc chạy theo cái bóng giả tạo này, cho mọi vật và mọi sự việc là đúng sai, phải trái, tốt xấu v.v... rồi sanh ra ham thích dính mắc, giận hờn, thương ghét, đau khổ, phiền não... Cũng chỉ vì tưởng tri cái thế giới này có thật, trong con người có cái vĩnh hằng.
Cái vĩnh hằng đó được gọi nhiều tên khác nhau: linh hồn, Phật tánh, Thể tánh, Bản thể vạn hữu, Nhất nguyên, Tánh không, Bát Nhã Ba La Mật, Chân không, Chân như, thần thức, thần hồn v.v... Từ chỗ hiểu sai lầm đó mới sanh ra chấp ngã, do chấp ngã nên làm việc gì cũng tích lũy cho ngã, thậm chí tu hành cũng tu cho ngã tức là tu để kiến tánh thành Phật, tu để trở về Nhất nguyên... Đó là một tư tưởng điên đảo mà đã truyền thừa từ khi con người có mặt trên hành tinh này và sự điên đảo tưởng tri này vẫn còn kế tiếp nhau mãi mãi.
2. MẠT NA THỨC VÀ A LẠI DA THỨC
Hỏi: Kính thưa Thầy! Mạt na thức như người giữ kho. A lại da thức ví như cái kho chứa nhóm tất cả chủng tử thiện ác.
Khi người chết, thân, thọ, tâm, pháp đều hoại diệt chỉ còn Mạt na thức và A lại da thức đi đầu thai. Có phải vậy không thưa Thầy?
Đáp: Đó là những danh từ trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A lại da thức và Mạt na thức), được xem là người giữ kho và cái kho tích trữ tạo thành nghiệp lực. Theo kinh Nguyên Thủy, nghiệp lực không có thức tức là không có cái biết. Do sự vô minh tương ưng nghiệp tái sanh luân hồi chứ không có cái thức đi tái sanh.
Các nhà duy thức học chỉ tưởng ra mà thôi nên tưởng ra người giữ kho và cái kho đi tái sanh (Mạt na thức và A lại da thức đi tái sanh). Sự thật trong kinh Nguyên Thủy dạy không có thức nào đi tái sanh luân hồi, chỉ có nghiệp thiện, ác đi tái sanh mà thôi. Nghiệp thiện ác tức là do hành động nhân quả thiện ác tạo thành nghiệp. Kinh sách phát triển đã lầm lạc vì bị thế tục hóa, nên biến linh hồn mê tín trong dân gian thành thần thức và khéo lý luận đặt tên là Mạt na thức và A lại da thức đi tái sanh luân hồi để xây dựng thế giới linh hồn người chết, để sanh ra cái nghề tụng niệm, nếu không có linh hồn thì các thầy đều thất nghiệp.
Phật giáo Nguyên Thủy đã dạy: “Trong thân người gồm có 5 uẩn: 1. Sắc uẩn; 2. Thọ uẩn; 3. Tuởng uẩn; 4. Hành uẩn; 5. Thức uẩn”.
Sắc uẩn còn gọi là sắc ấm họat động gồm có sáu thức: Nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức, gọi chung là Sắc thức. Khi một người sống bình thường suy nghĩ, nói nín hay họat động làm bất cứ một việc gì, nói bất cứ một điều nào hay suy nghĩ bất cứ một điều gì thì sắc thức họat động tức là nhóm sáu thức trong đó có ý thức họat động. Ý thức còn gọi là Tri thức, là Tri kiến.
Tưởng uẩn họat động khi nào lục thức ngưng họat động. Lục thức ngưng họat động là lúc chúng ta đang nằm ngủ chiêm bao. Trong giấc chiêm bao chúng ta cũng nghe, thấy, biết, ngửi, cảm giác rõ ràng. Cái biết trong chiêm bao gọi là Tưởng thức. Như vậy tuởng thức và ý thức là hai thức chỉ giống nhau là cái biết, nhưng cái biết này có thì cái biết kia dừng lại. Có đúng như vậy không quý vị?
Thức uẩn họat động chỉ khi nào sắc uẩn và tưởng uẩn ngưng họat động. Muốn sắc uẩn và tuởng uẩn ngưng họat động thì phải nhập định thứ tư. Nhập định thứ tư là phải tịnh chỉ hơi thở. Khi tịnh chỉ hơi thở thì thức uẩn họat động. Thức uẩn họat động tức là Tam Minh. Tam Minh gồm có: Túc mạng Minh, Thiên nhãn Minh, Lậu tận Minh. Tam Minh còn gọi là “Tuệ”. Tuệ Tam Minh là một cấp học thứ ba, cấp học cao nhất của Phật giáo. Phật giáo có ba cấp học gồm có: “Giới, Định, Tuệ”. Như vậy Phật giáo không có Mạt na thức và A lại da thức. Có đúng như vậy không quý vị?
Thọ uẩn là sự cảm thọ của ba thức, khi các thức họat động thì thọ uẩn có mặt.
Hành uẩn là sự họat động của ba thức, khi ba thức hoạt động thì hành uẩn có mặt.
Cho nên Mạt na thức và A lại da thức là tưởng tri của kinh sách phát triển tưởng ra, vốn để chia chẻ tâm thức con người ra nhiều mảnh. Đó là ý đồ làm lệch hướng của Phật giáo chân chánh, để biến Phật giáo thành một tôn giáo mê tín, đầy lý luận, đầy ảo giác tưởng tri..
3. TIÊNG KÊU CỨU GIỮA BIỂN KHƠI
Hỏi: Kính thưa Thầy! Thầy dạy không có thế giới siêu hình sao có người vượt biển, chỉ còn thấy trời nước mênh mông không biết đường nào đi cả. Quá sợ hãi trước cái chết giữa biển khơi nên mọi người đều niệm Quan Thế Âm Bồ Tát, nhờ Ngài cứu khổ và dẫn đường thế mà đã vượt qua tai nạn.
Những người này họ thuật lại khi ra giữa biển lúc ban đêm nhiều tiếng kêu cứu cho lên tàu, đợi đi với! Có người bệnh đi bệnh viện, bác sĩ cho uống thuốc không hết lại chỉ nghe lời dạy của mấy ông thầy cúng, địa lý dời mả đi chỗ khác thì hết bệnh. Theo những điều trên đây con tự nghĩ, không có thế giới siêu hình đối với người đã tu chứng vì đã vượt qua cảnh giới tưởng, còn những người phàm phu đang sống trong tưởng thì phải có thế giới siêu hình, cho nên không thể trả lời đúng hay không thưa Thầy? Xin Thầy chỉ dạy cho con rõ.
Đáp: Tiếng kêu cứu giữa biển khơi không phải là những linh hồn người vượt biên chết giữa biển mà tiếng kêu thanh tưởng trong tâm của mọi người đang quá sợ hãi, đang gặp tai nạn trên biển thì tưởng của họ phát ra tiếng kêu cứu, khiến cho sự khiếp đảm của họ lại càng khiếp đảm hơn. Lúc bấy giờ, mọi người trước cái chết quá khiếp đảm, không còn biết nương tựa vào đâu, chơi vơi. Vì thế, mọi người trên tàu đặt hết trọng tâm nương tựa và an ủi tinh thần của mình, nhất là từ lâu đã được nghe về đức Quan Thế Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn.
Do đó chẳng ai bảo ai, mọi người đều tự động dồn hết lòng tin bám vào chiếc phao đức Quan Thế Âm nên nó trở thành một sức lực rất mạnh to lớn (gọi là tín lực). Nhờ tín lực của mọi người dẫn đường thoát nạn, hoặc ghe tàu hư hỏng mà nước không tràn vào. Chúng ta không hiểu điều đó nên cho rằng: có đức Quan Âm Bồ Tát gia hộ cứu nan. Sự thật không phải vậy mà là nhân quả của chúng ta chưa hết nên khiến trước cảnh quá khiếp đảm lòng tin của chúng ta tập họp trỗi dậy thành một tín lực dẫn dắt chúng ta thoát nạn mà thôi.
Chúng ta thấy biết bao nhiêu người vượt biên đã chết giữa biển khơi? Họ phần đông là phật tử chắc làm sao họ cũng biết được Quan Âm Bồ Tát là một vị Bồ Tát cứu khổ cứu nạn do các kinh sách phát triển dựng lên và gieo rắc vào tư tưởng của họ. Trước những giờ phút sắp chết chắc họ sợ lắm nên niệm Quan Thế Âm không dứt. Thế sao họ lại chết, tại sao Quan Thế Âm không cứu khổ họ mà lại cứu những người khác?
Kẻ sống thì nhờ niệm Quan Thế Âm cứu khổ, còn kẻ chết cũng niệm Quan Thế Âm sao lại không cứu khổ. Người vượt biên mà thoát nạn là nhờ nghiệp thiện chứ không phải nhờ ai cứu khổ. Vì cứu khổ như vậy là một việc làm phi đạo đức. Tạo nhân ác phải gặt lấy quả khổ tai nạn đi đến tử vong. Tạo nhân ác mà cố trốn tránh quả khổ là một việc làm vô đạo đức.
Ngoài biển khơi, tiếng kêu của loài cá heo, cá ông rền rĩ, nếu người quá sợ hãi thì tiếng kêu ấy trở thành tiếng ma kêu quỷ khóc, chứ không phải linh hồn người chết oan kêu gọi.
Dời mồ mả mà hết bệnh tức là nhân quả thiện của cả hai người:
1- Là người bệnh. 2- Của ông thầy.
Nhân duyên của nhân quả do duyên dời mả hết bệnh thường trong Đông y có nói: “Phước chủ may thầy”, hay sách Đông y có câu: “Vận bĩ hoài sơn năng sát chúng. Thời lai bạch thủy cứu nhân gian.” Ở đây chúng ta phải hiểu không phải vì dời mả mà hết bệnh, mà do phước của người bệnh, bệnh sắp hết nên gặp cái may của ông thầy cúng chỉ vạch mê tín mà hết. Ấy cũng là duyên nhân quả giữa ông thầy và người bệnh ở tiền kiếp.
Người tu theo đạo Phật phải tin sâu nhân quả. Vì con người sanh ra từ nhân quả, sống trong nhân quả và chết về nhân quả thì mỗi sự việc xảy ra trong cuộc sống này đều do nhân quả. Nếu ta biết cứu mình thoát tai nạn bệnh tật thì luôn sống trong mọi hành động thiện “không làm khổ mình, khổ người” thì không có bệnh tật tai nạn nào mà không qua được.
Tin nhân quả, thì thế giới siêu hình không có, thế giới siêu hình không có thì không có sự mê tín dị đoan và không ai lường gạt mình được.
Tin nhân quả, tai nạn, bệnh tật đến, tâm bất động không hề sợ hãi. Nhờ đó mà tai nạn, bệnh tật đều qua.
Tin nhân quả, sẽ mang cho ta một tâm hồn giải thoát an lạc, thanh thản, yên vui, hạnh phúc của cuộc sống.
Tin nhân quả, sẽ không làm khổ mình, khổ người, mang lại hạnh phúc cho mình cho người, tạo thế gian này là cảnh Thiên đàng, Cực lạc. Ngược lại, người không tin nhân quả thì thiếu đạo lý công bằng, thường sống trong cảnh thế giới siêu hình, cúng bái, cầu khẩn, van xin, mê tín dị đoan, lạc hậu, phi đạo đức, thường làm khổ mình, khổ người, tạo cảnh sống thế gian thành cảnh địa ngục.
Tóm lại, tất cả những chuyện ma quái xảy ra đều do năng lực tưởng tạo ra chứ không có ma quái thật sự bên ngoài, mà chỉ có ma quái bên trong của mọi người do tưởng ấm của họ tạo ra. Vì thế Đức Phật gọi là: “ngũ ấm ma”. Trong ngũ ấm gồm có năm loại ma: 1, Sắc ấm ma; 2, Thọ ấm ma; 3, Tưởng ấm ma; 4, Hành ấm ma; 5, Thức ấm ma.
1, Sắc ấm ma gồm có: Tất cả các bệnh nơi thân, tất cả các dục nơi tâm.
2, Thọ ấm ma gồm có các cảm thọ nơi sắc uẩn, nơi tưởng uẩn, nơi tâm uẩn.
3, Tưởng ấm ma có mười tám loại hỷ tuởng ma.
4, Hành ấm ma gồm có các hành nơi thân, nơi tưởng và nơi tâm.
5, Thức ấm ma gồm các ma của thức ấm.
Cho nên trong năm loại ma này thường tác động và tạo nhiều điều đau khổ những ai tìm đường tu hành cầu giải thoát. Đó là năm loại ma ngũ ấm trong thân tâm của mỗi con người chứ không có ma bên ngoài, quý vị lưu ý.
4. NÉN TÂM HƯƠNG
Hỏi: Kính thưa Thầy! Hôm quy y lễ thọ giới, trong đạo tràng có một vị bảo rằng thắp hương lên để cho trang nghiêm, song có một vị lại bảo trong băng Thầy giảng không thắp hương vỏ cây, như vậy con ở giữa không biết theo ai bây giờ, cuối cùng con phải bị lôi cuốn để làm theo đa số tâm còn phàm phu (thắp hương) và như vậy con tùy thuận như thế có phạm vào đâu không? Xin Thầy chỉ giáo cho con để sau này có pháp nào tương tự chúng con còn biết tùy thuận.
Đáp: Cây hương bằng vỏ cây đã ăn sâu vào lòng người trở thành phong tục văn hóa truyền thống của dân tộc. Biết đó là sai, là mê tín, là không thật, nhưng muốn bỏ nó không phải là một việc dễ làm. Cũng như chúng ta biết tham, sân, si là khổ, là ba thứ độc của con người, muốn dẹp bỏ nó không phải là việc dễ, nó còn hơn gấp trăm ngàn lần cây hương vỏ cây. Thế mà cây hương vỏ cây chúng ta bỏ còn chưa được thì tâm tham, sân, si bỏ nó đâu phải dễ sao?
Thế đã biết cái sai, cái bị kẻ khác lợi dụng lòng mê tín mà lường gạt chúng ta, vậy mà chúng ta không mạnh dạn quyết tâm dứt bỏ, huống là cái tâm tham, sân, si muôn đời trong thân chúng ta thì làm sao xả ly được. Cây hương vỏ cây xả ly không được, nó ở bên ngoài chứ đâu có ở trong tâm. Bởi vậy tu theo đạo Phật ta mới thấy rõ được tâm con người yếu đuối, biết cái sai mà không dám bỏ, không dám sửa. Cho nên Phật dạy: “Những gì cần vứt bỏ thì nên vứt bỏ.” Đâu phải thắp cây hương vỏ cây mà Phật chứng giám lòng của chúng ta mà chính chúng ta đã về đây tụ họp với lòng thành chỉ ngồi lắng nghe lời Thầy giảng về Tam quy, Ngũ giới cũng đủ là thắp nén hương lòng.
Dù nơi đây không phải là một ngôi chùa kiến trúc kiên cố, đồ sộ vĩ đại, tường cao Phật lớn; dù nơi đây chỉ là một chòi tranh vách lá nhưng tâm thành các con tụ họp về đây nghe lời giảng nói Tam quy, Ngũ giới là các con tự mỗi người đã thắp nén hương lòng trang nghiêm trước Phật đài vô hình. Đối trước tượng Phật chúng ta giữ im lặng thân tâm hướng về tượng Phật đó là ta đã thắp nén hương lòng cúng dâng lên mười phương chư Phật.
Chúng ta giữ gìn giới luật không hề vi phạm một lỗi nhỏ, không bẻ vụn giới, lấy giới phòng hộ sáu căn, sống đời thiểu dục tri túc là ta đã thắp nén hương lòng cúng dâng lên chư Phật. Hàng ngày ta sống trong đạo đức nhân quả, không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh thì đó là ta đã thắp lên nén hương lòng cúng dâng chư Phật.
Sống ngăn ác, diệt ác bằng pháp môn Tứ Chánh Cần, thường sanh khởi thiện pháp trong tâm, tăng trưởng thiện pháp, tâm hồn thanh thản, an lạc là ta đã thắp nén hương lòng cúng dâng lên chư Phật.
Sống trầm lặng độc cư, luôn luôn tu tập chánh niệm tĩnh giác, thường khắc phục tâm ly dục ly ác đó là ta đã thắp nén hương lòng cúng dâng lên mười phương chư Phật.
Sau này trong các buổi lễ họp, các con mạnh dạn dứt khoát làm đúng theo lời Phật dạy, đừng làm theo thói quen đã bị ảnh hưởng của ngoại đạo. Phải sửa lại tu tập cho đúng theo đạo Phật thì chẳng có lỗi, còn tu tập theo ngoại đạo là có lỗi với Phật giáo.
“Tùy thuận là tùy thuận thiện pháp, không thể tùy thuận ác pháp, không thể tùy thuận những điều sai trái, không thể tùy thuận những điều mê tín, lạc hậu, không thể tùy thuận theo pháp của ngoại đạo mà dìm mất Chánh Phật pháp.”
Người tu sĩ đệ tử của Phật sống rất tùy thuận nhưng lại rất cương quyết, mạnh mẽ, đập phá những cái sai. Ai có tu đúng, tu được thì nhờ, còn không tu được thì làm người cư sĩ, chứ mặc chiếc áo tu sĩ mà tu theo ngoại đạo khiến mọi người nghi ngờ và khinh chê Phật giáo thì không được. Đừng để một số người đông đảo làm hình tướng tu tập mà tu tập sai không đúng lời Phật dạy. Những người tu tập phá giới, phạm giới như vậy thì chúng ta không chấp nhận, yêu cầu Giáo hội Phật giáo và Ban Tôn giáo dùng mọi biện pháp bắt buộc những người này hoàn tục.
Đạo Phật còn có người tu thì phải có người tu xứng đáng, phải tu đúng giáo pháp của Phật, còn lấy số đông mà tu sai, làm sai thì đừng nên có đạo Phật. Có mà chẳng ra gì thì chẳng nên có “đời chẳng giống đời, đạo chẳng giống đạo”, đạo Phật như vậy thì nên dẹp đi cho xong, đừng để lợi dụng đạo Phật lừa đảo người.
Đạo Phật không cần đông người, chỉ cần số người giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh, sống trong thiện pháp không làm khổ mình, khổ người, không lường gạt, không gây mê tín, không nói ba hoa thì đạo Phật như vậy mới có lợi ích thiết thực cho con người.
Sau này cái gì các con đã học được đúng chánh pháp của Phật thì phải thực hiện cho đúng. Chuyện cây hương vỏ cây bên ngoài thân tâm mà các con còn xả không được thì làm sao xả tâm tham, sân, si được mà tu theo đạo Phật. Không xả tâm tham, sân, si mà tu theo đạo Phật thì rất uổng công. Ngày xưa Đức Phật đã đập phá bốn giai cấp ở Ấn Độ và đem lại quyền bình đẳng nam nữ trong thời nước Ấn Độ xa xưa còn lạc hậu, còn mê tín dị đoan rất nhiều mà Ngài còn làm được huống là chúng ta bây giờ. Bây giờ dân trí có sự hiểu biết càng cao, khoa học tiến triển đã phục vụ loài người đầy đủ vật chất và tiện nghi cho đời sống.
Sự việc xẩy ra vừa rồi các con còn yếu kém, đôi mắt nhân quả chưa sâu, chưa vượt khỏi phong tục tập quán lạc hậu, còn mang đầy tính chất mê tín. Những gì học được của Phật ta hãy quyết tâm áp dụng làm cho bằng được chính là ta đã tự cứu mình thoát khổ. Nên Đức Phật dạy:
“Đứng lại thì chìm xuống. Đi tới thì trôi dạt. Chỉ có vượt qua.” Chúng ta nên vuợt qua những điều sai trái làm hao tốn tiền của một cách nhảm nhí như cây huơng vỏ cây.
5. LÀM CHÙA, TÔ TƯỢNG, ĐÚC CHUÔNG
Hỏi: Kính thưa Thầy! Người đời truyền thuyết cho nhau làm thiện có ba việc: làm chùa, tô tượng, đúc chuông, ba việc này làm được thì công đức thật là vô biên vô lượng. Thưa Thầy có đúng không?
Đáp: Đây không phải là truyền thuyết của người đời mà là kinh sách nhân quả của Phật giáo phát triển do Thượng tọa Thiền Tâm đã dịch ra Việt ngữ. Ca ngợi ba việc làm có công đức và phước báo lớn, đó là làm chùa, tô tượng, đúc chuông. Làm chùa, tô tượng, đúc chuông là một lối lừa đảo lường gạt phật tử nhẹ dạ dễ tin.
Lịch sử đã ghi lại những nhà vua làm chùa, tô tượng, đúc chuông mà chết một cách rất xót xa như nói về làm chùa, tô tượng, đúc chuông của vua Bình Sa Vương ở Ấn Độ và vua Lương Võ Đế ở Trung Hoa. Ngay từ thời Đức Phật còn tại thế, Tịnh Xá Trúc Lâm không phải là của một nhà vua xây cất cúng dường cho Đức Phật sao? Thế mà ông chết đói trong ngục, đó là vua Bình Sa Vương.
Vua Lương Võ Đế cất bảy mươi hai kiểu chùa, tô tượng, đúc chuông đầy đủ, thế mà ông bị giặc Hầu Nhân Bảo giết. Còn ở Việt Nam thì các vua nhà Lý đã xây dựng bao nhiêu chùa, tạc bao nhiêu tượng, đúc bao nhiêu chuông, thế mà dòng tôn thất nhà Lý bị chôn sống. Thời nhà Trần là thời vàng son nhất của Phật giáo Việt Nam, dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử cũng xuất phát từ đó. Thế mà nhà vua cuối cùng phải tự tử một cách đau thương và thê thảm.
Như vậy kinh sách phát triển đã từng kêu gọi mọi người làm chùa, tô tượng, đúc chuông thì sẽ được công đức vô lượng vô biên. Đó là lối lừa đảo làm tiền phật tử.
Lịch sử từ Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam đã chứng minh sự lừa đảo của những kinh sách phát triển quá rõ ràng. Nên trong kinh Nguyên Thủy Phật dạy: cúng dường bố thí cho đúng chánh pháp tức là cúng dường đúng đối tượng thì mới có lợi ích, còn bố thí cúng dường sai thì cũng giống như đem hạt giống tốt trồng trên đất xấu (đất cằn cỗi) thì hạt giống hư mà chẳng lợi ích gì, nhiều khi còn phi đạo đức tạo duyên cho kẻ khác làm ác. Đức Phật còn dạy cúng dường tứ sự cho bậc chân tu giới đức nghiêm chỉnh, thiền định sâu mầu được nhiều công đức và phước báo nhưng không bằng giữ gìn năm giới.
Rõ ràng Phật đã dạy như vậy là không lừa đảo gạt người, chỉ có phước báo lớn là ta phải tự làm thiện, sống thiện, ăn ở thiện thì phước báo vô lượng vô biên, tức là tạo nhân quả tốt thì hưởng phước báo, chứ không phải xây chùa, tô tượng, đúc chuông là phước báo lớn, đó là ta bị những kẻ kinh doanh Phật giáo lừa gạt.
Ta cúng dường bậc chân tu giới đức nghiêm chỉnh là để duy trì Phật giáo mãi mãi trên thế gian này. Vì Phật giáo có duy trì thì có những hình ảnh bậc chân tu làm gương hạnh thiện pháp để ta noi theo sống và làm việc thiện, tạo nên một xã hội không có con người làm khổ cho nhau (giải thoát).
Đế Thiên, Đế Thích là một ngôi chùa được liệt vào một kì quan trong bảy kì quan thế giới. Hiện giờ người ta thấy kiến trúc đẹp đẽ của nó, chứ người ta đâu có nghĩ rằng bao nhiêu tiền của và mồ hôi xương máu của toàn dân nước Cămpuchia đã đổ vào bằng một sự cưỡng bức, ép buộc của nhà vua độc tài sùng đạo. Lẽ ra việc làm chùa, tô tượng, đúc chuông như nhà vua và dân chúng nước Cămpuchia thì công đức sẽ vô lượng vô biên. Có đâu dân tộc này lại bị diệt chủng gần hết và nghèo nàn, lạc hậu, hung ác như thế này.
Thời gian đã qua cũng đủ xác chứng được những lời nói của Thầy về các pháp môn lừa đảo của các tông phái do kinh sách phát triển dựng ra. Cho nên việc cúng dường cất chùa, tô tượng, đúc chuông có phước báo lớn là một việc lừa đảo chỉ cần chịu khó suy nghĩ một chút là sẽ thấy rõ ràng. Tuy Thầy đã dẫn chứng những trang sử như vậy nhưng chắc gì quý vị đã tin. Hãy chờ đợi, nếu bây giờ quý vị còn kiến chấp chưa đủ điều kiện để tin lời Thầy đã nói thì ngày mai sẽ rõ.
6. YỂU TỬ ĐƯỢC TÁI SANH KHÔNG?
Hỏi: Kính thưa Thầy! Người ta bảo em bé mới sanh hoặc còn tuổi trẻ mà chết thì có được đi đầu thai không thưa Thầy? Chết như vậy thường không đi đầu thai, sống vơ vẩn làm cô hồn, các đảng, có đúng vậy không? Có em bé mới sanh không may bị chết, người ta bảo em bé đó chưa bị bệnh đậu mùa chết được đầu thai làm người ngay có phải không thưa thầy?
Đáp: Như các con đã học và biết đạo Phật chủ trương không có linh hồn, mọi pháp đều do duyên hợp mà thành nên không có vật thường còn, bất biến.
Đạo Phật cũng không chủ trương có một Đấng Tạo Hóa sinh ra vạn vật, tất cả đều do duyên hợp tùy theo môi trường sống mà vạn vật tùy đó sanh ra.
Đạo Phật chủ trương theo nghiệp lực do duyên nhân quả tạo ra vạn hữu, tùy theo môi trường sống mà cây cỏ vạn vật sinh nở.
Đạo Phật cũng không chủ trương đi tìm kiếm cái nguyên nhân ban đầu mà chỉ nhắm vào sự đau khổ hiện tại của con người giải quyết cho hết khổ mà thôi.
Đạo Phật chủ trương chết đây sanh kia tiếp tục luân hồi mãi mãi, vì thế ai tạo nhân yểu tử (sát hại chúng sanh nhiều) thì phải trả nợ yểu tử (chết còn tuổi trẻ) như kinh Tiểu Nghiệp phân biệt trang 475 thuộc Trung Bộ kinh tập 3 dạy:
“Ở đây này thanh niên Subha có người đàn bà hay người đàn ông, sát sanh tàn nhẫn, tay lấm máu, tâm chuyên sát hại, đả thương, tâm không từ bi đối với các loại chúng sanh. Do nghiệp ấy, thành đạt như vậy, thành tựu như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, hoặc bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ địa ngục hoặc đi tái sanh loài người, chỗ nào người ấy sanh ra, người ấy phải đoạn mạng, này thanh niên Subha, tức là sát sanh tàn nhẫn, tay lấm máu, tâm chuyên sát hại đả thương, tâm không từ bi đối với các loại hữu tình.”.
Theo luật nhân quả ai giết hại, đoản mạng chúng sanh thì phải chịu yểu tử. Yểu tử có nhiều giai đoạn:
1- Vừa ở bào thai đã bị trôi thai hoặc 1, 2, 3, 4, 5, 6 tháng bị chết trong bụng mẹ.
2- Vừa sanh ra chết.
3- Được một tuổi chết.
4- Hai, ba, bốn, năm tuổi chết. Từ một tuổi đến sáu tuổi hoặc từ mười tuổi đến mười một, có khi đến 18 tuổi chết.
Chết vì bệnh đau, chết vì tai nạn giao thông, cọp ăn, chiến tranh, té sông, giếng, hồ, ao, chết vì tự tử, uống thuốc độc, thắt họng v.v… Nói chung toàn bộ chết tuổi còn trẻ đều gọi là chết yểu. Nhưng chết già hay chết yểu đều đi tái sanh luân hồi liền.
Nếu đã tạo nhân yểu mạng thì tiếp tục chết mãi cho đến khi trả xong nghiệp yểu tử mới kéo dài tuổi thọ ra được, chứ không có nghĩa chết chưa bệnh đậu mùa là được đi tái sanh, còn có bệnh đậu mùa tức là từ một, hai tuổi trở lên chết không đi tái sanh, làm cô hồn các đảng hay những hồn ma chết oan uổng vất vưởng cây cao bóng mát, đó là những quan niệm sai lầm không đúng luật nhân quả, luật nhân quả chết đây sanh kia không kẽ hở, nối tiếp nhau như ngọn đuốc này vừa tắt thì ngọn đuốc kia bắt đầu cháy ngay liền.
Vì thế Phật giáo gọi là “Vô Thường.” Chết, tức là sống, cho nên người đang sống, tức là người đang chết từng phút từng giây thế mà có ai biết. Đến khi thân này hoại diệt (chết) thì người ta cho rằng mất chứ có mất đi đâu, chỉ có thay lốt nghiệp mới. Và vì thế nên không có linh hồn oan vất vưởng.
7. NHÂN QUẢ XINH ĐẸP
Hỏi: Kính thưa Thầy! Kiếp này dâng hoa lên cúng dường Tam Bảo, nếu kiếp sau được làm người thì sẽ có thân xinh đẹp phải không thưa Thầy?
Đáp: Theo kinh nhân quả phát triển đã dạy: dâng hoa lên cúng dường Tam Bảo kiếp sau sinh làm người sẽ được thân xinh đẹp. Điều này không thực tế, không đúng theo tinh thần từ bi của đạo Phật. Cây hoa là một loài thảo mộc đang có một sự sống, thế chúng ta trực tiếp cắt hoa hoặc gián tiếp mua hoa làm cho bông hoa mất sự sống, rồi đem lên dâng cúng dường Tam Bảo thì còn ý nghĩa gì khi cành hoa đẹp lại bị cắt lìa thân mẹ của nó. Rồi chúng ta nghĩ tưởng rằng dâng cúng hoa như vậy thân sau sẽ đẹp xinh.
Luật nhân quả không cho phép làm điều ác đức này, vì ít hôm cành hoa sẽ rơi rụng, tàn úa, cành hoa sẽ hôi thối, rõ ràng là một sự chết của cành hoa, còn đâu là đẹp nữa. Ai đã làm cho cành hoa tàn úa và đem đến sự chết cho nó? Có phải là người dâng cúng hoa không? Hành động nhân quả như vậy là hành động ác, mà hành động làm ác như vậy thì làm sao có thân sinh ra đẹp đẽ được? Nếu người nào thường cắt hoa dâng cúng Phật thì thân sau phải xấu xí vì có hành động sát hại hoa làm cho hoa mau tàn héo úa (xấu xí). Như trong kinh Nguyên Thủy Phật dạy:
“Ở đây này thanh niên Subha có người đàn bà hay người đàn ông, phẫn nộ, nhiều phật ý, bị nói đến một chút thời bất bình, phẫn nộ, sân hận, chống đối và tỏ lộ phẫn nộ, sân hận, bất mãn. Do nghiệp ấy thành đạt như vậy, thành tựu như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, nếu không sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục, được sanh làm người thì thân sắc xấu xí, con đường ấy đưa đến xấu sắc, này thanh niên Subha tức là, phẫn nộ, sân hận bất mãn.” Đoạn kinh này được rút ra từ kinh Trung Bộ tập 3 bài kinh Tiểu Nghiệp phân biệt trang 477.
Bông hoa cắt chưng làm đẹp cho con người, chứ không phải làm đẹp cho chư Phật. Khi nhìn cành hoa bị cắt nếu là chư Phật thì rất là đau lòng. Cỏ mà Đức Phật còn không nỡ giẫm đạp huống là cắt hoa.
Loài người không ý thức được nhân quả nên lấy sự chết của loài hoa làm đẹp cho mình. Là đệ tử của Phật, dù là cư sĩ hay tu sĩ, chúng ta hãy thực hiện lòng từ bi như Đức Phật, biết thương xót sự sống của muôn loài.
Loài người lấy sự chết của chúng sanh làm sự sống cho mình, làm đẹp đẽ cho mình thì bảo sao đời không khổ, trừ khi con người muốn thoát khổ thì hãy chấm dứt những hành động cực ác này. Nếu không chấm dứt, mãi mãi muôn đời thọ lấy tai ương, khổ nạn. Đó cũng chính là cái vô minh của con người từ muôn kiếp; đó cũng chính là thiếu lòng yêu thương sự sống của muôn loài vạn vật.
Hành động cắt hoa dâng lên cúng dường Tam Bảo là hành động ác đức, chỉ có kinh sách phát triển ngoại đạo là dạy những điều phi đạo đức đó, khiến cho sự cắt hoa chưng cúng trở thành một phong tục quá tàn nhẫn và ác đức. Cho nên hiện giờ mọi người đến chùa thường dâng hoa cúng Phật, thật là đau lòng.
Chúng ta là những người tu theo Phật giáo thì phải lấy lòng thương yêu đối với sự sống của muôn loài trên hành tinh này. Vì có thương yêu sự sống của muôn loài thì mới chính thương yêu mình.
8. HỐI LỘ PHẬT
Hỏi: Kính thưa Thầy! Kiếp này mang tiền vào cúng Tam Bảo, cúng một đồng mong được mười đồng có phải không thưa Thầy? Đây có phải là hành động cúng dường Phật không? Đây có phải là tư tưởng bán buôn, hối lộ không thưa Thầy?
Đáp: Những hướng dẫn trên đây cúng dường Tam Bảo đều do kinh sách phát triển dạy mà quý thầy trong các chùa đều theo đó hướng dẫn quý phật tử (tín đồ) cúng dường, chứ riêng quý thầy không phải không biết giới luật của Phật đã ngăn cấm người cư sĩ không được cúng dường tiền bạc cho Phật và chúng Thánh Tăng, chỉ được quyền cúng dường thực phẩm mà thôi.
Thời Đức Phật còn tại thế, Ngài sống đời phạm hạnh của một tu sĩ buông xả nên Ngài đi khất thực (xin thực phẩm để sống) chứ không có xin tiền, bây giờ Ngài đã tịch rồi thì phật tử lại đến chùa cúng dường Ngài tiền bạc thì như vậy có đúng không? Lúc còn sống Ngài đã không nhận tiền bạc, còn bây giờ Ngài đã chết lại nhận tiền bạc sao?
Nếu những cư sĩ đem tiền cúng dường chư Phật thì đó là hành động phỉ báng Phật, một hành động cúng dường như vậy không đúng chánh pháp, cúng dường sai pháp thì Đức Phật có chứng minh lòng cúng dường như vậy của quý vị không?
Quý vị cúng sai không đúng phạm hạnh của người tu sĩ thì Ngài làm sao nhận lòng cúng dường của quý vị được? Cúng dường như vậy làm cho Phật giáo suy đồi, tội ấy về ai? Cúng dường như vậy quý vị xem ông Phật như ông thần ăn hối lộ. Cúng một đồng nhờ Tam Bảo gia hộ cho quý vị làm ăn được mười đồng. Người phật tử cúng dường như vậy là xem Phật giáo chẳng ra gì. Nếu không quá đáng thì bảo rằng quý vị không phải đệ tử của Phật, vì đệ tử của Phật phải hiểu Phật. Chẳng qua quý vị là đệ tử của ngoại đạo, của kinh sách phát triển Bà La Môn nên mới cúng dường Phật và chúng Tăng như vậy.
Đến với Phật giáo để làm gì? Để học cách hối lộ cho thần thánh. Ông Phật thời bây giờ giống như Thần trong miếu, ông quan ăn hối lộ. Làm quan ăn hối lộ dân chúng xem chẳng ra gì. Phật ăn hối lộ còn nghĩa lý gì là ông Phật nữa.
Cách thức cúng dường tiền bạc nhờ Tam Bảo gia hộ cho tai qua nạn khỏi, nhìn cảnh tượng này chúng tôi thật đau lòng cho Phật giáo ngày nay. Thế mà chùa nào hiện giờ cũng có thùng phước sương để nhận tiền cúng dường, chùa bây giờ giống như miễu bà Chúa Xứ, đền bà Chúa Kho.
Nhìn hiện tượng này chúng tôi chẳng biết nói làm sao bây giờ. Phật giáo hay là ngoại đạo? Mê tín dị đoan hay chánh tín chân chánh? Tóm lại, đây là cách thức cúng dường không đúng chánh pháp của Phật mà đúng theo giáo pháp của ngoại đạo.
Nếu là người tín đồ chân chánh của đạo Phật, khi cúng dường Tam Bảo thì nên cúng dường thực phẩm để giúp cho các vị tu hành sống ngày một bữa ăn, để giữ gìn đúng phạm hạnh không cất giấu tiền bạc.
Bởi vậy, cái sai của đạo Phật cũng chính quý thầy vì tham tiền dạy cho người tín đồ cúng dường sai pháp. Cúng dường sai và cũng chính các ông thầy ham tiền, ham bạc nên làm thinh để nhận tiền một cách phi giới luật. Các quý thầy chỉ là kẻ phàm phu tục tử mang lớp áo tu sĩ, chất chứa tiền bạc trở thành phú ông hơn là một người tu sĩ chân chánh tu hành.
Biết cúng dường tiền bạc Tam Bảo là sai thì từ đây về sau quý phật tử đừng làm sai nữa. Cúng dường sai pháp đã không được phước mà còn thêm tội với Tam Bảo mà còn tiếp tay cho ngoại đạo diệt Phật giáo nhanh chóng. Tội ấy về phía phật tử phải gánh chịu.
9. THÔNG MINH
Hỏi: Kính thưa Thầy! Kinh nhân quả dạy mang dầu, nến thắp sáng điện Phật (Tam Bảo) kiếp sau sanh ra làm người được thông minh, lời dạy ấy có đúng không? Xin Thầy dạy bảo.
Đáp: Người thông minh không phải do cúng dường đèn dầu, nến thắp sáng điện Phật mà người ấy phải chịu khó học tập những điều mình chưa biết. Hiện giờ chúng ta thấy có người học tốt, nhớ lâu, học mau thuộc ta cho họ thông minh, sự thật tiền kiếp họ đã gieo nhân học tập nên thời nay ta nói họ thông minh chứ họ đã học sẵn rồi.
Muốn thông minh ở kiếp sau thì kiếp này phải chăm học tập, theo luật nhân quả học tập là gieo nhân thông minh chứ không phải cúng dường đèn đuốc mà thông minh; đó là lối lừa đảo không thực tế của kinh sách phát triển, chúng ta không nên tin như vậy, tin như vậy chỉ có người vô minh mới tin, chúng ta tin cái gì thì cái đó phải cụ thể và thực tế rõ ràng.
Đời nay cố gắng chăm học tập đời sau thông minh, đó là lẽ đương nhiên không ai nói ta lừa đảo được. Bây giờ ta u tối phải cố gắng học “có công mài sắt có ngày nên kim.” Còn những người thông minh là do kiếp trước họ đã học rồi, bây giờ nhớ trở lại chứ không có thông minh gì cả.
Đức Phật dạy: “Cây ngả về hướng nào thì bóng ngả về hướng ấy.” Đúng vậy, khi ta làm một điều gì thì hậu quả của điều đó, sẽ đến với ta tốt hay xấu là do việc của ta làm ác hay thiện. Còn đốt đèn đuốc làm sáng bàn thờ Phật mà được thông minh thì không đúng.
Chúng tôi xin nêu lên một điều để quý vị được rõ: Hàng ngày quý vị đều đốt cây hương vỏ cây tượng trưng cho năm cây hương giải thoát: “giới hương, định hương, tuệ hương, tri kiến hương và giải thoát tri kiến hương” nhưng quý vị có thấy tâm mình giải thoát chưa? Có hết tham, sân, si chưa?
Tượng trưng là một lẽ và giải thoát là một lẽ, cho nên thắp đèn, đuốc, nến cho sáng thì có ai đốt đèn mà thông minh chưa? Nếu đốt đèn mà siêng năng chăm học thì thông minh là lẽ đúng, nếu đốt đèn để sáng bàn thờ Phật, không học mà thông minh, đó là lối lừa đảo của kinh sách phát triển để các chùa khỏi tốn tiền mua dầu thắp bàn thờ Phật vì có mấy đứa học sinh tối dạ mua dầu đèn thắp sáng.
Nhưng chúng cũng phải học chúi đầu chúi mũi mới có thuộc bài, chứ đâu có thắp đèn mà khỏi học bài bao giờ hay chư Phật học bài giùm cho. Đó là một lối lừa đảo gian xảo của kinh sách phát triển.
Kinh sách phát tiển nói về nhân quả có rất nhiều điều vô lý, thế mà người phật tử vẫn tin, tin trong mù quáng vô minh, tin mà không chịu suy nghĩ. Thắp đèn sáng cúng dường chư Phật là thông minh, học một biết mười, điều này không bao giờ có. Nếu việc làm này có được thì thế gian này không còn người u tối, đần độn, dốt nát và ngu si.
Chỉ cần mua dầu thắp đèn sáng cúng dường chư Phật là thông minh sáng suốt thì ai mà làm không được. Trong cuộc đời này có ai muốn mình không thông minh; có ai muốn minh u tối, dốt nát, ngu si, đần độn; có ai muốn mình thua kém mọi người. Phải không quý vị?
Nếu kết quả chỉ cần mua dầu thắp đèn sáng cúng dường chư Phật là thông minh sáng suốt thì chùa sẽ thắp đèn sáng ngày đêm quanh năm suốt tháng, nhưng hiện giờ đến chùa nơi điện thờ Phật chỉ có một ngọn đèn leo lét mờ mờ ảo ảo, như vậy chứng tỏ lời dạy này không có hiệu quả, chỉ là một trò lừa đảo.
10. MỜI ÔNG BÀ ĐÃ CHẾT VỀ ĂN TẾT
Hỏi: Kính thưa Thầy, hằng năm cứ đến ngày giỗ và sắp đến ngày Tết, người còn sống ra mồ mả mời ông bà, cha mẹ đa chết có từ 60, 70 năm nay về ăn Tết với con cháu, như vậy có đúng không thưa Thầy?
Đáp: Câu hỏi này có hai cách trả lời để xác định:
1. Mê tín; 2. Chánh tín
Câu hỏi này mê tín như thế nào? Như trong các kinh phát triển dạy: “Người chết còn thần thức nên nghiệp dẫn thần thức đi luân hồi. Đó là hiện tượng thế giới siêu hình của tưởng tri.” Nếu còn có thần thức, tức là linh hồn đi luân hồi tái sanh thì đến ngày Tết, ngày giỗ ra mộ mời những người như ông bà, cha mẹ đã chết lâu rồi, về ăn Tết với con cháu, mà đã đi đầu thai rồi còn đâu về ăn Tết với con cháu, đó là sự mê tín của kinh sách phát triển.
Đối với Phật giáo Nguyên Thủy thì con người do các duyên hợp lại mà thành nên không có linh hồn và thần thức. Trong kinh Ngũ Uẩn đã dạy: “Thân người gồm có năm duyên: sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Khi một người chết thì năm duyên này đều tan rã sạch, không còn sót một chút xíu nào cả. Cái còn lại để tái sanh luân hồi là Nghiệp.”
Nghiệp là những hành động thiện, ác của con người hằng ngày huân tập mà thành. Vì thế, khi chết con người chẳng còn sót cái gì cả thì làm sao về ăn Tết với con cháu được. Còn nghiệp là hành động thiện ác huân tập mà thành thì nghiệp làm sao về ăn Tết với những người thân được. Vì thế, mời ông bà, cha mẹ về ăn Tết với con cháu là mê tín không đúng tính cách “Chánh Tín” của đạo Phật.
Kinh sách phát triển cho người chết còn có thần thức nên có cầu siêu: làm tuần bảy ngày, hai mươi mốt ngày, bốn mươi chín ngày, một trăm ngày, giáp năm, ba năm v.v... Đó là lối mê tín lạc hậu của kinh sách phát triển, trong khi Phật giáo Nguyên Thủy xác định: không có thế giới siêu hình, thế giới siêu hình chỉ là thế giới tưởng tri.
Mê tín dân gian cho rằng: người chết là đàn ông có ba hồn bảy vía (tam hồn thất phách), đàn bà có ba hồn chín vía (tam hồn cửu phách). Khi người chết chỉ còn một hồn một vía sống tại mồ mả, còn tất cả các hồn vía khác đều xuống dưới địa ngục âm ti để thọ tội và tiếp tục đi tái sanh luân hồi. Do mê tín này trở thành một tục lệ đến ngày giỗ, ngày Tết con cháu ra mộ mời ông bà cha mẹ đã quá cố lâu xa về ăn Tết với con cháu. Từ mê tín của kinh sách phát triển đến mê tín của dân gian đều đi ngược lại đường lối của đạo Phật.
Mê tín của kinh sách phát triển là tạo ra nghề nghiệp tụng niệm, cầu siêu để kiếm miếng sống như các nghề nghiệp khác ngoài đời. Nhưng quý vị phải biết nghề tụng niệm cầu siêu là nghề lừa đảo lường gạt người, lấy hình thức báo hiếu cho những linh hồn ông bà, cha mẹ được siêu thoát về miền Cực Lạc Tây phương.
Kinh sách phát triển là loại giáo pháp mê tín có sách vở, có bài bản nên khó ai thấy được. Vì thế mọi người đều sa lưới bẫy của giáo pháp này. Nghề này đã trở thành một nghề cắt họng thiên hạ, tụng một ngọ có giá cả hẳn hòi không có mặc cả được.
Còn câu hỏi này về “Chánh Tín” như thế nào? Hằng năm nhớ lại ngày mất cha, mất mẹ, mất những người thân. Hoặc những ngày tư, ngày Tết cả gia đình cười đùa, vui chơi thì họ lại nhớ đến công ơn của những người quá cố nên đến nơi an nghỉ cuối cùng của những người thân thương này, tức là thăm mồ mả. Khi thấy mồ mả của những người thân, con cháu tưởng chừng những người khuất mặt đang ở đâu đây nên mới mời những người đó về vui chơi Tết với con cháu. Đó là lòng tưởng nhớ của những người còn sống, chứ người chết rồi còn những gì mà về ăn Tết vui chơi với con cháu.
Khi làm một việc gì mà không biết, không rõ, cứ theo phong tục thói quen xưa bày nay làm; hoặc tin theo các tôn giáo chỉ dạy, chẳng cần suy tư tìm hiểu gì cả thì sẽ mang ý nghĩa mê tín lạc hậu. Chính vì làm mà không thấu rõ là mê tín. Còn ngược lại, khi làm việc gì thì phải hiểu rõ, biết rõ việc mình đang làm, không bị ảnh hưởng phong tục, tập quán, không bị tôn giáo lừa đảo, đầy đủ ý nghĩa đạo đức làm người thì việc ấy là “Chánh Tín”.
11. CẦU PHÚC XIN LỘC
Hỏi: Kính thưa Thầy, đầu năm đi chùa để lễ bái cầu phúc, cầu lợi, có lợi lạc gì không thưa Thầy? Nhất là ngày rằm tháng giêng thì chùa nào cũng đông nghẹt, từ sáng sớm đến khuya, vì người ta nghĩ “Đi lễ quanh năm, không bằng đi ngày rằm tháng giêng!” Chúng con cúi xin Thầy từ bi chỉ dạy cho chúng con được rõ.
Đáp: Đó là phong tục mê tín từ lâu trong các chùa do kinh sách phát triển dạy cầu phúc, cầu lợi như vậy để lừa đảo tín đồ Phật giáo, đem phúc lợi cho những tu sĩ ngồi trong mát ăn bát vàng hơn là phúc lợi cho tín đồ.
Đi chùa để nghe pháp, nhớ lời Phật dạy về đạo đức làm người để sống toàn thiện. Nếu một người nghe lời Phật dạy, luôn luôn sống toàn thiện thì phước lộc đầy đủ, cần gì phải đi chùa cầu phước, cầu lợi? Nếu đi chùa quanh năm, hoặc nhân ngày rằm tháng giêng đến lễ Phật, cầu chư Phật ban phúc ban lộc mà chẳng làm một điều lành, luôn luôn làm khổ mình, khổ người, không hề tu tập nhẫn nhục, tùy thuận, vui lòng, lúc nào cũng có phiền não sân hận, bất toại nguyện v.v... thì có ích lợi gì?
Có Phật nào ban cho phúc lộc hay không? Đụng việc gì cũng làm to ra, la lối om xòm, chửi làng, mắng xóm, cuộc sống lúc nào cũng bỏn xẻn, ích kỉ, không hề giúp đỡ người bất hạnh thì dù có lạy Phật đến sói đầu, cầu phước, cầu lộc cũng chẳng có được chút nào. Đó là một việc làm mê tín, mơ hồ, phi đạo đức, không có thánh thần, chư Phật, chư Bồ Tát nào ban phước, ban lộc cho quý vị ấy được, vì những việc ban phước ban lộc như vậy, không đúng đạo đức công bằng và công lý.
Cầu phúc cầu lợi không bằng sống đúng đạo đức nhân bản - nhân quả. Không làm khổ mình khổ người thì cuộc sống sẽ có phước báo đầy đủ; đó chính là hành động đối xử với nhau biết nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng với mọi người.
Cầu phúc cầu lợi là một việc làm mê tín trừu tượng, ảo mộng. Vì chẳng có ai ban phước ban lộc cho mình mà chỉ có chính mình làm được những hành động thiện; thân, miệng, ý không làm khổ mình khổ người. Đó sẽ là sự ban phước, ban lộc cho mình cụ thể, thiết thực và rõ ràng.
Đi chùa cầu phước, cầu lộc là việc làm thiếu trí tuệ. Nếu chúng ta làm ác, bỏn xẻn, ích kỉ thì thử hỏi có ai dám đem phước lộc đến chúng ta chăng? Phước lộc không phải tự dưng mà đến với chúng ta. Nó đến với chúng ta bằng tâm niệm tốt của chúng ta, do chúng ta biết thương người, biết giúp đỡ người trong cảnh bất hạnh tai ương, biết ban phúc ban lộc cho người gặp cảnh khó khăn.
Phước lộc đến với chúng ta phải đến với sự công bằng và công lý. Nếu ta làm xấu ác, chẳng giúp người trong cảnh khổ nạn thì khi chúng ta gặp khổ nạn chẳng có thần thánh hay ai giúp chúng ta được, và chẳng bao giờ có phước lộc đến với chúng ta. Nếu chúng ta có ban phước lộc cho người thì phước lộc mới đến với chúng ta. Cho nên chẳng cần cầu khẩn ai ban phước lộc cho mình. Phước lộc đều do nơi mình. Thế nên Đức Phật đứng trong góc độ đạo đức nhân bản - nhân quả mà dạy chúng ta tu hành thiện pháp.
Đầu năm đi chùa, lễ bái, cầu phúc, xin lộc chẳng được phước lộc mà còn bị kẻ khác lừa đảo, lường gạt, tiền mất tật mang. Đầu năm đi chùa lễ bái cầu phúc xin lộc để rồi trở thành những tín đồ Phật giáo mê tín dị đoan, lạc hậu, bị người đời cười chê là những phật tử ngu si, mê muội.
Đầu năm đến chùa xin được đảnh lễ bậc chân tu giới đức, để học hỏi những đức hạnh của người thì đó là phước là lộc. Người chân tu hướng dẫn và chỉ dạy cho mình những hành động sống để được phúc lộc an vui thanh thản và hạnh phúc. Đầu năm đi chùa cầu phúc xin lộc như vậy mới là chân chánh vì ích lợi thiết thực cho mình, cho người, cho xã hội và cho đất nước quê hương.
Tóm lại, đi chùa lễ bái cầu phúc xin lộc là hành động mê tín dị đoan, thiếu đạo đức, thiếu trí tuệ, là ngu si mê mờ. Đi chùa lễ bái bậc chân tu, xin dạy đạo đức làm người không làm khổ mình, khổ người là chân chánh, không mê tín lạc hậu. Đó là người cư sĩ đệ tử Phật thông minh và trí tuệ, tìm học những điều phúc lộc chân chánh, cụ thể, thực tế, không mơ hồ, trừu tượng…
12. HÌNH ẢNH QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
Hỏi: Kính thưa Thầy, gia đình con có thờ hình ảnh Quan Thế Âm Bồ Tát. Khi nghe Thầy giảng trong băng: Bồ Tát Quan Thế Âm không có thật, mà chỉ là sự tưởng tượng của con người. Trước kia, con chưa được biết, nên được sư ở chùa cho về thờ gần hai năm nay. Bây giờ con rất áy náy trong lương tâm, điều này nên để thờ hay thay bằng tranh Phật khác? Xin Thầy hoan hỷ chỉ dạy cho con được rõ.
Đáp: Bồ Tát Quan Thế Âm là một vị Bồ Tát tưởng tượng của kinh sách phát triển chứ không có một Bồ Tát trong lịch sử loài người. Cũng như Bồ Tát Di Lặc, chỉ là một Bồ Tát tưởng tượng. Khi thấy ai hay cười hề hề đều cho đó là Bồ Tát Di Lặc. Gần đây có một số nhà học giả dạy người tu hành luôn luôn tập một nụ cười. Vì thế, có nhà học giả dạy: “Hít vô, tôi mỉm miệng cười, thở ra tôi mỉm miệng cười.”
Cách thức cười như vậy cũng giống như người Hoa kiều buôn bán ở Chợ Lớn, luôn lúc nào cũng cười hề hề làm vui lòng khách hàng. Nhiều người tập vui cười ngoài mặt nhưng bên trong thì tham, sân, si còn hơn những người không tu. Đạo Phật chỉ duy nhất có một Đức Phật lịch sử trong loài người, đó là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Người đã tự tìm ra một giáo pháp tu hành để đi đến giải thoát sự đau khổ của kiếp người.
Là đệ tử của Đức Phật, các con nên thờ một vị Phật duy nhất để tỏ lòng biết ơn, đó là thờ Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Muốn thay đổi hình tượng thờ phụng trong nhà thì hình ảnh Quan Thế Âm Bồ Tát con nên đem gửi lại chùa hoặc đem thiêu đốt.
Nên thỉnh hình ảnh Đức Phật Thích Ca đang ngồi thiền tại cội bồ đề, bên dòng sông Ni Liên dưới ánh trăng đêm khuya về thờ phượng thì mới đúng tư cách là tín đồ Phật giáo.
13. BA HỒN BẢY VÍA, BA HỒN CHÍN VÍA
Hỏi: Kính thưa Thầy, người chết mới tắt thở, có tục lệ, nếu đàn ông thì cho bảy hạt gạo nếp cộng bảy hạt muối trắng vào miệng, đàn bà thì chín. Làm như vậy có đúng không thưa Thầy? Xin Thầy dạy cho chúng con được rõ. Người nào tín đồ Phật giáo thì cho một quyển kinh Kỳ Cầu nhỏ bằng bao thuốc lá để vào túi áo cho người chết mang đi, để quỷ sứ biết là đệ tử của Phật, không tra khảo buộc tội.
Người nào được làm lễ quy y Tam Bảo thì được phát cho hai tờ điệp. Khi chết, một tờ đem thiêu đốt cháy thành tro than đem đi bỏ xuống giếng hoặc mang ra sông bỏ, một tờ xếp nhỏ để vào lòng bàn tay người chết mang đi. Làm như vậy có đúng không thưa Thầy?
Đáp: Sau khi đọc lại những sách nói về phong tục dân gian trong ba miền Nam, Trung, Bắc ta thấy, dù lý luận kiểu nào, các tập tục đó cũng chỉ là mê tín mà thôi. Đối với đạo Phật, thân tứ đại này khi rã tan thì đất, nước, gió, lửa phải trả về đất, nước, gió, lửa, có còn gì đâu mà phải bỏ gạo muối vào miệng để đem theo ăn uống như người còn sống. Thường tục lệ dân gian người ta cúng cô hồn, tức là những vong hồn người chết oan ức, chết tức tối, không đi đầu thai được, họ cúng bằng gạo và muối. Do đó suy ra chúng ta cũng nhận ra được người nam chết cho bảy hạt gạo và bảy hạt muối vào miệng, để nhờ đó mà linh hồn và phách vía không còn đói khát trong lúc chưa đi đầu thai.
Từ chỗ tưởng tri, người ta suy tưởng thế giới siêu hình và cho rằng người chết là chết thân tứ đại, còn riêng linh hồn thì bất tử, bất biến, không thay đổi và không bao giờ chết. Bảy hạt gạo và bảy hạt muối hay chín hạt gạo và chín hạt muối, đó là sự tưởng tri của tình cảm con người đối với người thân đã chết. Họ nghĩ rang số gạo và muối như vậy đủ dùng trong thời gian tiếp tục đi tái sanh mà không bị đói.
Người ta không hiểu rằng khi một người chết, bỏ cái xác thân cằn cỗi này thì tiếp tục ngay với cái xác thân mới trong bào thai, giống như ngọn đuốc này vừa tắt thì được mồi sang ngọn đuốc khác, cây đuốc cũ đã thành cát bụi không còn một vật gì lưu lại. Vì không còn một vật gì lưu lại nên chẳng có đi đâu và chẳng có thời gian chờ đợi xuống địa ngục hay lên Thiên đàng hoặc đi tái sanh.
Cây đuốc cũ và cây đuốc mới thì có khác nhau, nó có vô số hình tướng khác nhau nhưng lửa thì như nhau, dù lửa than và lửa ngọn, hoặc ngọn lửa lớn hoặc nhỏ, tánh lửa vẫn là một (tánh nóng, ấm) chứ không hai ba được. Cây đuốc dụ cho thân nghiệp của con người, nó có nhiều hình thức khác nhau, như làm thân người, đàn ông, đàn bà, hoặc làm thân trâu, bò, heo, dê, cọp, chó, gà, vịt, mèo, chuột, cá, tôm, chim, côn trùng, sâu bọ, rắn rít, ong bướm, v.v...
Tất cả đều là thân tứ đại, nhưng hình dáng không giống nhau, dù rất nhỏ như vi trùng cũng là thân tứ đại mà có, lớn như chim đại bàng bay che mát nửa bầu trời thì cũng là thân tứ đại. Lửa dụ cho nghiệp của chúng sanh, nghiệp thì di chuyển linh động trong thiện và ác liên tục không có kẽ hở. Vậy nghiệp luôn luôn vận hành không gián đoạn phút giây nào cả.
Thân thì có tiếp nối thân này thân khác (thân người, thân chúng sanh), còn nghiệp thì liên tục dù thay đổi bao nhiêu thân thì nghiệp liên tục mượn thân này, thân nọ mà hoạt động thành nhân quả thiện ác. Nghiệp thiện ác nối tiếp từ thân này thân khác và cứ mãi hoạt động như vậy nên Đức Phật gọi là tái sanh luân hồi mãi mãi.
Tín ngưỡng mê tín cho rằng con người có hồn và vía, đàn ông có ba hồn bảy vía, đàn bà có ba hồn chín vía. Người ta tưởng tri khi một người chết ba hồn đi xuống địa ngục bị hành tội, khi mãn tội thì đi đầu thai; còn bảy vía đàn ông, và chín vía đàn bà thì ở lại dương gian vất vơ, vất vưởng đói khát. Cho nên khi chết, người ta cho vào miệng hoặc bảy hạt nếp hoặc chín hạt nếp để bảy vía hoặc chín vía đó có mà sống không bị đói khát, hoặc lấy trong miệng mà tiêu phí.
Đó là sự mê tín nhưng cũng nói lên được tình thân thương của người sống đối với người đã chết. Nhưng vì sự mê tín lạc hậu đó mới có những kẻ trộm hay quật mồ, cạy quan tài lấy vàng bạc, của báu đã được chôn theo người chết. Một việc làm mê tín lạc hậu cũng đã đưa đến nhiều điều tai hại, nhất là khi quật mồ người chết, mùi hôi thối của tử thi bay ra làm ô nhiễm một vùng.
Người chết là hết, không còn ăn uống và tiêu xài vàng bạc tiền của như lúc còn sống. Người chết chỉ còn nghiệp tiếp tục tái sanh luân hồi, tức là hành động thiện ác nối tiếp sự sống. Người chết là đang tiếp tục sống và người sống đang tiếp tục đi dần đến sự chết. Nếu hiểu được như vậy thì chúng ta không còn mê tín lạc hậu, không còn làm hao tài tốn của một cách vô lý. Chết là hết một kiếp thân nhân quả, còn có gì đâu mà xài tiền bạc và mặc quần áo?
Vì mê tín người ta tưởng rằng người chết cũng như người đang sống ở trên dương gian (dương gian âm phủ đồng nhất lý). Hiểu như vậy là cái hiểu của tưởng tri (hiểu bằng tưởng) không đúng, không thực tế, là hiểu mơ hồ trừu tượng. Cái hiểu đó đã khiến cho người ta hao tốn tiền của rất nhiều bằng cách mua giấy tiền vàng mã, rồi đem đốt. Thật là lãng phí, nhảm nhí, chẳng có linh hồn nào sử dụng quần áo giấy và tiền bạc giả đó, nó chẳng ích lợi cho người sống cũng như người chết.
Tóm lại, mê tín là sự ngu si dại dột của những con người còn lạc hậu trong những thời kì bộ lạc xa xưa, khi loài người còn ăn lông ở lỗ.
14. TUẦN THẤT
Hỏi: Kính thưa Thầy, trong nhà có người chết, trong chùa quý thầy dạy làm tuần thất, cho đến bảy thất, tức là bốn mươi chín ngày, thường tụng kinh Địa Tạng Vương. Vậy thưa Thầy, có lợi ích gì cho người chết và những người còn sống trong gia đình không thưa Thầy?
Đáp: Xưa Đức Phật đã không chấp nhận thế giới siêu hình thì làm gì có linh hồn người chết mà cầu siêu, làm tuần thất, tụng kinh Địa Tạng. Kinh Địa Tạng Vương là một loại kinh mê tín của giáo pháp Bà La Môn, do các Tổ biên soạn ra dựa theo sự mê tín của những người dân còn lạc hậu tin rằng người chết có linh hồn, nên kinh này đặt ra Bồ Tát Địa Tạng xuống địa ngục giải cứu những linh hồn tội lỗi. Họ bảo rằng, nếu ai tụng kinh này và cúng bái, tế lễ, sẽ được ngài Bồ Tát Địa Tạng cứu khổ, thoát khỏi vòng lao lý ở địa ngục. Khi người mới chết, linh hồn được quỷ sứ bắt về hành tội, do lúc ông bà ở trên dương thế làm điều ác đức nên chết xuống địa ngục bị hành xử đủ mọi cực hình.
Nếu khi trong nhà có người chết phải đến nhờ quý thầy trong các chùa đến tụng kinh cầu siêu. (thường là đem kinh Địa Tạng Vương ra tụng) để cầu ngài Địa Tạng cứu hộ thoát cảnh địa ngục. Mỗi thất đều có cúng dâng lên hương hoa trà quả cùng những thực phẩm bánh trái cơm canh, cúng chư Phật và cầu ngài Địa Tạng xuống địa ngục giải cứu. Suốt trong bốn mươi chín ngày được cúng bái như vậy thì vong linh người chết sẽ khỏi tội, được đi tái sanh.
Cúng bái, tụng niệm như vậy tức là kinh sách phát triển dạy làm một điều phi đạo đức. Có chắc làm tuần và tụng kinh Địa Tạng trong 49 ngày mà tiêu tội được ư? Điều này lấy gì làm bằng chứng? Đây là một kiểu cách ăn lo hối lộ. Có đúng như vậy không quý vị?
Trong kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện dạy: “Như có người nào sắp mạng chung, hàng thân quyến trong nhà nếu có một người vì người bệnh sắp chết đó mà niệm lớn tiếng danh hiệu của một Đức Phật, thời người chết đó, trừ được năm tội lớn vô gián, các nghiệp báo khác đều tiêu sạch.” (kinh Địa Tạng, trang 133). Lời trong kinh này là một lời dạy phi đạo đức, lừa đảo những người không hiểu, mê tín, lạc hậu.
Luật nhân quả là một đạo luật công bằng và công lý, làm sao lại có Bồ Tát hoặc Đức Phật nào dám giải cứu cho kẻ làm ác? Kẻ làm điều cực ác nên mới đọa vào địa ngục vô gián, thế mà chỉ cần có một người niệm giúp thì cũng thoát ra khỏi địa ngục vô gián thì đó có phải là lời lừa đảo người khác không? Thảo nào có nhiều người đem công đức tụng kinh này hoặc làm đàn tràng thỉnh mời các sư về tụng niệm để cầu cho người thân thương của mình thoát cảnh địa ngục và tất cả các nghiệp báo khác đều tiêu sạch.
Kinh sách phát triển dối gạt người bằng nhiều hình thức mê tín khiến cho con người hao tài tốn của rất nhiều, về vấn đề cúng bái, tụng niệm, cầu an, cầu siêu mà chẳng có ích lợi gì thiết thực cho người còn sống và người chết, (tiền mất tật mang). Đây là một đoạn kinh lừa đảo dối gạt làm hao tốn tiền của con người rất nhiều:
“Có thể vẽ, cho đến dùng vàng bạc, đồng sắt đúc nắn hình tượng Địa Tạng Bồ Tát đốt hương cúng dường, chiêm lễ ngợi khen thì chỗ người đó ở có mười điều lợi ích. Những gì là mười?
Một là đất cát tốt mầu.
Hai là nhà cửa an ổn mãi mãi.
Ba là người chết được sanh lên cõi trời.
Bốn là những người còn sống hưởng sự lợi ích.
Năm là cầu chi cũng được toại ý cả.
Sáu là không có tai họa về nước và lửa.
Bảy là trừ sạch việc hư hao.
Tám là dứt hẳn các ác mộng.
Chín là khi ra lúc vào có thần hộ vệ.
Mười là thường gặp bậc thánh nhân.”
Kinh Địa Tạng, trang 155.
Trên đây là những lời nói xảo trá, dối người. Làm gì có chuyện vẽ hình, đúc tượng Bồ Tát Địa Tạng, thờ cúng mà đất ở đó lại tốt mầu. Đất xấu là đất xấu, chỉ có bón phân, đổ rác mục thì đất mới có mầu mỡ trở lại. Còn đất tốt là đất tốt, đất phù sa nên mới tốt chứ đâu phải thờ hình tượng Bồ Tát Địa Tạng mà tốt được. Thật là kinh sách gạt người, chỉ có người không hiểu mới tin kinh Địa Tạng mà thôi.
Từ cuốn kinh Địa Tạng chúng ta suy ra tất cả những cuốn kinh khác của kinh sách phát triển cũng đều là loại kinh xảo trá lừa đảo gây mê tín cho mọi người. Đây là một đoạn kinh nói láo nhất, chúng tôi xin trích ra để quý vị nghiên cứu: “Chiêm lễ hình tượng của Địa Tạng Bồ Tát và đọc tụng kinh bổn nguyện này tự nhiên được rốt ráo xa lìa biển khổ, chứng đạo Niết Bàn an vui, vì thế nên được ủng hộ một cách lớn lao như thế.” (Trang 154, kinh Địa Tạng).
Muốn lìa biển khổ của cuộc đời để chứng đạo Niết Bàn đâu phải là một việc dễ làm. Biết bao nhiêu người tu hành bỏ cả công sức vô cùng, vô tận mà chưa chắc đã đạt được. Xưa Đức Phật Thích Ca sáu năm khổ hạnh gần như muốn chết, sau đó nhờ 49 ngày tu tập Tứ Niệm Xứ miên mật, tâm không phóng dật mới chứng được Niết Bàn.
Vậy mà trong kinh này dạy: “Chỉ cần chiêm lễ và tụng niệm kinh bổn nguyện thì tự nhiên giải thoát biển khổ thế gian chứng đạo Niết Bàn.” Thật là kinh đại vọng ngữ. Nếu được như trong kinh này dạy thì Bồ Tát Địa Tạng Vương là hiện thân cho sự phi công bằng và công lý, là hiện thân của Ma vương, ác quỷ, của ác pháp.
Tóm lại, Phật giáo chủ trương không có linh hồn, nên làm tuần thất là mê tín. Kinh Địa Tạng là kinh Bà La Môn ngoại đạo dạy những điều phi đạo đức và lừa đảo.
Nhìn vào cuốn kinh có hình Địa Tạng Vương cưỡi con sư tử lông xanh, hình ảnh một vị Phật mà cưỡi một con thú, hình ảnh ấy phản lại đạo đức từ bi, bình đẳng của đạo Phật. Một vị tu sĩ mà bắt con vật chở mình đi thì còn nghĩa lý gì là tu sĩ đạo Phật. Hình ảnh đó là bắt loài thú làm nô lệ, đó là hình ảnh giai cấp vua chúa.
Không có linh hồn thì cầu siêu cho ai, cầu như vậy có ích lợi gì? Xin quý phật tử cứ đọc kinh sách của Phật giáo Nguyên Thủy rồi suy ngẫm, đừng để mắc lừa kinh sách phát triển, những tà sư ngoại đạo hiện giờ nhiều lắm.
15. XÓC THẺ
Hỏi: Kính thưa Thầy! Đầu năm, nhất là trong những ngày Tết Nguyên Đán, chùa nào cũng có làm một bàn thờ phục vụ cho những người đến xóc thẻ. Trong một mâm đầy những tờ giấy đã được in và giải thích trong thẻ quẻ đó sẵn, theo số thứ tự ai xóc được thẻ số mấy thì đến nhận tờ giải số đó. Ai xóc được thẻ nói tốt thì vui mừng phấn khởi, còn ai được thẻ nói xấu thì buồn phiền lo âu. Kính thưa Thầy, như vậy trong tờ xem số mệnh có lợi ích gì mà đầu năm người nào cũng xóc thẻ nhất là phụ nữ chúng con. Mong Thầy vì lợi ích giải thích cho chúng con được hiểu?
Đáp: Thường thường theo các chùa cổ ở miền Nam thì có hai nơi xóc thẻ. Một bên xóc thẻ gọi là xóc thẻ xăm Ông và một bên khác gọi là xóc thẻ xăm Bà.
Ông ở đây thường chỉ cho một danh tướng người Trung Hoa, đó là Quan Thánh Đế Quân tức Quan Công hay còn gọi là Quan Vân Trường (một danh tướng thời Tam quốc bên Trung Quốc), người Việt Nam như Lê Văn Duyệt, Thủ Khoa Huân, Trần Hưng Đạo v.v... (những danh tướng Việt Nam).
Các Bà thường là những người Việt, Hoa, Chiêm Thành như: Bà Đen (Việt Nam) hay Lê Sơn Thánh Mẫu, Diêu Trì Kim Mẫu, Quan Âm (Trung Hoa), Bà Chúa Xứ, Chúa Tiên, Chúa Ngọc, (Chiêm Thành), Bà Mẹ Sanh, Mẹ Độ, Bà Chúa Kho (Việt Nam) v.v... Thường những nơi bàn thờ của các vị đó đều có ống xóc thẻ. Hằng năm đồng bào mê tín đến cúng bái nhang đèn hoa quả, gà, vịt, heo quay, v.v... với một số tiền rất lớn. Chùa Phật Quang ở Bến Tre thu lợi rất lớn là nhờ thờ Quan Thánh Đế Quân. Chúng Tăng ở đó không có lo gì cả, ăn ở không chỉ cần giữ mấy ống xóc thẻ là dư sống.
Xóc thẻ là một hình thức bói toán qua tư tưởng mê tín, lạc hậu. Người ta cho rằng con người có số mệnh. Ai có số giàu là giàu, số nghèo là nghèo; số nghèo thì không làm sao làm giàu nổi. Do tin tưởng vào số mệnh nên có một số người tiêu cực, sanh ra lười biếng bê tha rượu chè bài bạc, cho số mình là vậy.
Cũng từ thuyết định mệnh đã khiến cho một số người tiêu cực không làm việc, mà đã không làm việc thì nghèo lại càng nghèo hơn. Vì không làm việc nên thì giờ rảnh rỗi nhiều sanh ra bài bạc, đĩ thõa, điếm đàng, trộm cướp khiến cho gia đình tan nát, xã hội rối ren, mất trật tự an ninh.
Bởi thuyết định mệnh ra đời cũng là một tai hại rất lớn cho loài người. Từ thuyết định mệnh mới sanh ra bói toán, chiêm tinh dịch số âm dương, xin xăm, xóc thẻ, xem ngày tốt xấu, v.v... tạo biết bao nhiêu sự mê tín, dị đoan khiến cho mọi người tốn hao tiền bạc rất nhiều.
Nếu xóc thẻ tốt, chúng ta đi ăn trộm ăn cắp của người khác thì thử hỏi có bị ở tù không? Một việc làm ác là tự mình làm khổ cho mình chứ thẻ nào nói là tốt?
Luật nhân quả vốn công bằng và công lý, ai làm ác thì phải thọ khổ, ai làm thiện thì được hưởng phước, không thể ở chỗ tốt xấu của thẻ mà được. Nếu thẻ bảo xấu mà chúng ta sống không làm khổ mình, khổ người thì làm sao có xấu được. Người ta chửi mình mà mình không giận hờn, không chửi mắng lại họ thì có xấu đâu.
Trong các chùa quý thầy đều biết xóc thẻ đó là mê tín, nhưng quý thầy cứ duy trì, vì duy trì có lợi rất lớn. Nếu một ngôi chùa duy trì sự xóc thẻ xin xăm thì hằng năm kiếm cũng được năm, mười triệu đồng dễ dàng, nhất là những ngôi chùa ở nơi thắng cảnh hằng năm phật tử trẩy hội ba tháng mùa Xuân, nhà chùa kiếm hằng bao nhiêu tỉ bạc như Chùa Hương, Yên Tử. Sự mê tín rất tai hại cho đồng bào và làm hao tốn tiền bạc của dân, của nước rất nhiều mà không có ích lợi gì.
16. TƯỢNG PHẬT QUÁ NHIỀU
Hỏi: Kính thưa Thầy, chùa nào cũng có rất nhiều tượng Phật, phía trước là thờ Tam Thế chư Phật, Di Đà, Quan Âm, Thế Chí, kế Ngọc Hoàng, Nam Tào, Bắc Đẩu, cho đến Đức Phật Thích Ca đản sanh, hai bên là ông thiện và ông ác. Đối diện trước chánh điện là tượng hộ pháp, phía trước chánh điện là bàn thờ Tiêu Diện Đại Sĩ, cô hồn, các đảng và bộ xương đầu ông cọp. Bên tả chùa thờ Quan Thánh Đế Quân, năm vị vua Diêm Vương, Quan Âm Thị Kính, bên hữu thờ Bà Lê Sơn Thánh Mẫu, hay Bà Chúa Tiên, Chúa Xứ, kế đó là năm vị Vua Diêm Vương, tức là Thập Điện Diêm Vương, Phật Mẫu Chuẩn Đề 18 tay. Thường bàn thờ Quan Thánh Đế Quân nhân dân thường mang gà luộc hoặc thịt heo quay vào cúng.
Thờ cúng như vậy có đúng không thưa Thầy? Xin Thầy chỉ dạy cho chúng con được rõ.
Đáp: Một ngôi chùa đúng đắn của Phật giáo thì chỉ có thờ một Đức Phật duy nhất. Đó là Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni, vì Ngài là người đứng đầu Phật giáo, còn tất cả những vị Phật khác đang được thờ cúng trong chùa là do các Tổ tưởng tượng ra truyền bá đạo Phật. Nói cho đúng hơn, trên đường truyền bá các Tổ đã bị ảnh hưởng của ngoại đạo và đã lượm những đức Phật thần thánh này của dân gian lôi lên bàn thờ để làm vui lòng những người dân địa phương, nhờ thế mà họ mới cúng dường.
Các Tổ truyền đạo vì danh, vì lợi nên các Ngài tiếp nhận tất cả mọi sự mê tín dân gian và các tôn giáo khác. Thế là Phật giáo chân chánh trở thành Phật giáo hỗn tạp đa thần, đa pháp môn, bỏ mất nguồn gốc Phật giáo chân chánh. Còn Phật giáo chân chánh thì xả bỏ danh và lợi và bỏ tất cả, chỉ còn ba y một bát, đời sống xin ăn, bữa đói bữa no thật là vất vả.
Các Tổ theo Phật giáo chân chánh không chịu nổi, cho nên các Ngài bẻ vụn giới để mà sống, phạm giới để hòa hợp với dân gian, với mọi sự mê tín, cúng bái, tế lễ, cầu siêu, cầu an v.v... (giết chúng sanh tế lễ) và các tôn giáo khác để dễ bề lừa đảo mọi người và lường gạt tín đồ.
Cho nên sau khi Đức Phật tịch, những người đệ tử tu chứng thì vào núi rừng ẩn bóng rồi tịch mất, còn lại những đệ tử tu hành chưa chứng thì tâm danh lợi tham đắm còn nhiều nên phân làm nhiều bộ phái như chúng tôi đã nói ở trên. Chiếm lãnh một giáo đoàn rồi tự do phát triển mọi thủ thuật điêu ngoa, xảo trá, lừa đảo bằng lối lý luận theo kiểu sáu mươi hai luận chấp của ngoại đạo để tạo danh, tạo lợi. Từ đó kinh sách phát triển viết ra rất nhiều cuốn sách, cuốn sách nào cũng lý luận trên mây xanh mà tu hành chẳng ra gì; chỉ có xây dựng chùa to, Phật lớn, những ngôi tháp vĩ đại.
Tu sĩ ăn uống, ngủ nghỉ sống như một ông quan to, đi ra thì có tiền hô, hậu ủng xe cộ rầm rộ. Tu sĩ hiện giờ thì giàu có hàng tỉ bạc, trong lúc dân chúng tín đồ quá nghèo, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc; dành dụm đồng nào thì đem cúng chùa để được phước, để được siêu thoát, chỉ nuôi hi vọng như vậy mà bị kẻ khác lừa đảo một cách rất đáng thương.
“Cúng dường xây chùa, đúc chuông, tạc tượng Phật, xây tháp và cúng dường chư Tăng sẽ được phước báo vô lượng.” Nhờ lời phỉnh gạt này mà chùa nào chùa nấy đều xây dựng hàng tỉ bạc, biến cảnh tu hành thành nơi thắng cảnh du ngoạn của mọi người. Trong chùa thờ Phật càng nhiều thì thu lợi càng to, mỗi tượng Phật cúng một đồng, mười tượng cúng mười đồng, một trăm tượng cúng một trăm đồng. Vì tư lợi như vậy nên chùa nào cũng thờ Phật rất nhiều, đó là hình thức làm tiền.
Người dân mê tín cứ nghĩ rằng mình cúng và lạy nhiều tượng Phật là nhờ nhiều ông Phật phò hộ thì tai qua nạn khỏi dễ dàng hơn, cho nên thấy tượng nào cũng thắp hương, lễ bái. Còn cúng và lạy có một ông thì được sự phù hộ ít và có thể tai nạn đến. Lợi dụng sự mê tín mà các chùa để thật nhiều hình tượng, nhất là chùa có ống thẻ xin xăm xóc quẻ, cúng sao, giải hạn thì phật tử lại cúng càng nhiều.
Nói một cách khác, chùa thờ nhiều tượng Phật là có mục đích tạo sự mê tín để lừa đảo, lường gạt tín đồ cúng bái nhiều. Nhưng chính sự thờ phượng này quý thầy trong các chùa cũng không hiểu đó là sự mê tín, sự lừa đảo mà chỉ biết xưa thầy Tổ bày, nay quý thầy chỉ biết làm theo “Tổ Tổ tương truyền,” chứ quý thầy không ý thức rằng việc làm của mình là mê tín, là lừa đảo tín đồ.
Các thầy cũng tin tưởng mê tín như các phật tử khác; tin rằng có chư Phật, Bồ Tát gia hộ; tin rằng có linh hồn, có Phật tánh, có thế giới siêu hình, có thần Thánh Tiên Phật, chư Bồ Tát, ma, quỷ; tin rằng có cõi địa ngục, Thiên đàng, Cực lạc, Niết Bàn và các cõi Phật, có mười phương chư Phật, có chư Bồ Tát vô lượng vô biên, v.v...
Tất cả mọi người không riêng gì tín đồ Phật giáo đang sống trong tưởng thức, còn quý thầy là những người tu sĩ phải giữ gìn giới luật nhưng lại không giữ gìn giới luật, vì thế nên sống trong tưởng thức như những người khác. Cho nên hiện giờ họ chẳng biết giới luật là gì. Cứ dựa theo lời dạy của các Tổ rồi quý thầy truyền dạy lại sự mê tín cho nhau, cho tín đồ. Vì thế, quý thầy không bị tội lừa đảo, lường gạt người khác, vì thầy Tổ dạy sao thì cứ dạy lại cho người khác như vậy không dám thêm bớt một lời nào.
Thật đáng thương một người mù dẫn đám người mù cùng đi, rồi mỗi người mù trong đám người mù đó lại dẫn đám người mù khác cùng đi, cứ như thế mà nhân lên mãi từ đời này sang đời khác, từ thế hệ này đến thế hệ khác đều đi sai đường lạc nẻo. Cuối cùng không có một người nào sáng mắt, toàn là mù, vì mù nên phải xóc thẻ làm thầy mù.
17. CHẾT GIỜ TỐT, GIỜ XẤU
Hỏi: Kính thưa Thầy, trong gia đình nào có người chết, rất quan trọng là giờ phút lúc tắt thở. Họ đến nhờ ông thầy cúng xem người chết lúc đó giờ tốt hay xấu, giờ trùng hay không trùng. Nếu ông thầy nói chết được giờ tốt, không có trùng thì gia đình yên tâm, nếu ông thầy bảo giờ xấu có trùng thì ông thầy ấy cho bùa yểm để trong gia đình không có người chết nữa. Như vậy có đúng không thưa Thầy?
Đáp: Không đúng đâu con ạ! Đó là những kinh sách mê tín, lạc hậu của người xưa khi đời sống con người còn lạc hậu, dân trí chưa cao, kiến thức khoa học chưa có, tầm hiểu biết không nhìn rộng thấy xa được. Con người thời ấy bản chất còn mang tính thú vật, chưa biết đạo đức là gì, chỉ còn đi lượm trái cây rừng hoặc đào rễ cây mà ăn. Cho nên những hiện tượng thiên nhiên, thời tiết họ không thể nào hiểu được nên đành dùng tưởng tri để hiểu. Do tưởng tri để hiểu thì những cái không hiểu được nên đã biến thành một ảo tưởng, một thế giới siêu hình.
Từ tưởng tri thế giới siêu hình họ mới tìm cách đo đạc thời gian phân chia ngày, tháng, năm để hoàn thành lịch và dịch số chiêm tinh. Do chỗ không thấu rõ hiện tượng thiên nhiên vũ trụ nên các nhà tôn giáo và triết gia sản xuất ra biết bao nhiêu loại kinh sách tưởng, để thuyết minh các hiện tượng siêu hình bằng hình thức thiên khải. Thiên khải tức là hiện tượng tưởng thức họat động.
Cho nên những hiện tượng siêu hình ngày nay đã biến thành một tai họa rất lớn cho con người trên thế giới; muốn phá bỏ nó thật là điều nan giải. Nó đã in sâu vào tâm khảm và truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác.
Những cái không đúng sự thật chỉ là tưởng mà thôi, những cái tai hại cho con người vô cùng to lớn từ đời trước đến đời sau; những cái phi đạo đức đã đưa con người đến chỗ hung ác, gian xảo hơn loài cầm thú, dùng mọi cách lừa đảo, lường gạt. Báo Công An đã tường thuật không biết bao nhiêu là mánh khóe cưỡng đoạt tài sản của kẻ khác, chỉ cần một trăm ngàn hay một triệu đồng là xem mạng sống con người không ra gì.
Những kẻ đầu trộm đuôi cướp này chỉ mua một cuốn sách tử vi xem ngày tốt xấu đi trộm cướp giết người lấy của mà không bị ai bắt được thì cần gì phải đi lao động khó nhọc mà chưa chắc đã có tiền như đi ăn trộm, ăn cướp. “Con ơi học lấy nghề cha, một đêm ăn trộm bằng ba năm làm”, đó là tục ngữ ca dao dân gian đã dạy như vậy.
Trên cuộc đời này, thứ nhất là danh; thứ hai là lợi. Các nhà triết học đua nhau dựng lên những triết thuyết này đến triết thuyết khác đủ mọi thứ mọi loại, phần nhiều đều nằm ở trong tưởng thức mà luận ra, không thực tế, mơ hồ, trừu tượng. Khi áp dụng vào đời sống con người vốn đã khổ đau lại càng khổ đau hơn.
Như thuyết hiện sinh, thuyết vô ngã của kinh sách phát triển, thuyết hữu ngã ảo tưởng của Thiền Đông Độ, thuyết hữu thần của các tôn giáo khác, thuyết âm dương của Trung Quốc, thuyết luân hồi tái sanh mê tín của kinh sách phát triển và các tôn giáo khác, v.v... đều đưa con người quay cuồng trong các học thuyết đảo điên và điên đảo.
Thuyết âm dương của Trung Quốc mới có xem ngày giờ tốt xấu, coi cung mạng xung khắc, trong bát quái có các cung như: càn, khảm, cấn, chấn, tốn, ly, khôn, đoài. Họ lý luận rằng con người khi chết, cũng như lúc sanh ra phải ở trong một cung nhất định.
Các nhà học giả thời nay đua nhau nghiên cứu triết thuyết trừu tượng này và đã tốn biết bao nhiêu tâm lực và giấy mực. Nhưng nó có đem lại lợi ích cụ thể thiết thực cho đời sống của loài người đâu, chỉ toàn là luận thuyết để mà cầu danh và lợi. Và chính nó càng làm thêm rắc rối cho tư tưởng con người, mất hết một cuộc sống an nhiên tự nhiên.
Những loại triết thuyết này đưa ra biến thành một cuộc nội chiến trong tâm của mọi người. Đó là những cuộc chiến tranh tư tuởng của con người giữa đời và đạo; giữa triết học này và triết học khác. Có những người cuồng tín tin một cách mù quáng, biến mình thành những công cụ cho những tôn giáo và những triết thuyết này triết thuyết khác. Đó là những tín đồ hăng say, điên khùng xông vào cái chết và giết người như cỏ rác mà chẳng chút xót thương ai cả.
Năm tháng, ngày giờ tốt xấu, đó là một triết thuyết về luật âm dương đưa con người đến chỗ mê tín nhảm nhí tận cùng, mỗi khi làm việc gì cũng xem ngày giờ tốt xấu và tuổi tác có hợp hay không hợp.
Hiện giờ ai cũng biết đó là việc mê tín, lạc hậu, phi đạo đức, vậy mà người ta không thể bỏ được tập quán, thói quen này, ngay cả những người có học thức, có kiến thức về khoa học mà vẫn còn bỏ không được.
Đạo đức nhân bản - nhân quả đã xác định: kẻ làm ác dù có xem ngày giờ tuổi tác, tốt xấu, cất nhà, dựng vợ gả chồng cho con cái, hoặc xem giờ an táng, hoặc xem tuổi tác người chết tránh cung trùng tang liên táng; bằng mọi cách như mua bùa về yếm cho tai qua nạn khỏi, bệnh tật được triêu trừ và hưởng được phước báo đầy nhà thì chẳng bao giờ được. Nếu được thì đó là một điều vô đạo đức không công bằng và công lý.
Người ta sanh ra ở đời phải chấp nhận luật nhân quả. Nếu ta làm điều thiện thì ngay đó tâm ta được an vui thanh thản, đó là phước báo của mình làm ra. Còn nếu mình làm ác mà cầu phước báo thì chẳng bao giờ có được, dù cho những bậc xem ngày giờ tốt xấu giỏi như Trương Lương, Tiêu Hà, Khổng Minh, Quỷ Cốc, cũng không tránh khỏi luật nhân quả. Cho nên Trương Lương phải ẩn bóng, Tiêu Hà bị chết, Khổng Minh thất bại trong việc chấn hưng nhà Hán.
Xét cho cùng, từ xưa cho đến nay có mấy ai xem ngày giờ tốt xấu mà làm nên sự nghiệp đâu. Làm lên sự nghiệp đều do nhân quả thiện của mình. Người xưa nói: “Tích ác phùng ác, tích thiện phùng thiện”, làm ác gặp khổ, làm lành gặp phước an vui thanh thản.
18. GIỜ HẠ HUYỆT
Hỏi: Kính thưa Thầy, khi linh cữu đưa ra khỏi nhà, vào lúc hạ huyệt có phải xem giờ không thưa Thầy? Người mới chết có cần phải cúng cơm bốn mươi chín ngày mới thôi không thưa Thầy?
Đáp: Theo sự mê tín lạc hậu của những người xưa thường sống trong tưởng thức nên dễ bị ảnh hưởng của sách vở mê tín phi đạo đức của nền văn minh Trung Quốc. Cho nên xem ngày giờ tốt xấu rồi mới được chôn cất để không ảnh hưởng xấu đến con cháu sau này.
Phật giáo truyền sang qua Trung Quốc thấy dân chúng ở xứ này đang tin tưởng vào ngày giờ, năm, tháng, tuổi tác, tốt xấu của những người giàu tưởng tượng nên cũng chế ra những loại sách vở mê tín để bói toán xem số mạng, vận nước tốt xấu.
Những nhà thiên văn, địa lý dựa vào luật âm dương, tạo ra sách vở chiêm tinh bói toán dịch số như Châu Văn Vương sống trong tù bảy năm ở Vạn Lý Gia soạn bộ dịch số, Quỷ Cốc Tử, Tôn Tử, Trương Lương, Khổng Minh, đều là những tay bói toán thần tình, biết trước những sự việc xảy ra. Thế mà Châu Văn Vương không tránh khỏi bảy năm tù mà còn ăn thịt con, Trương Lương vào núi ở ẩn, Khổng Minh tan mộng phục hưng nhà Hán.
Tất cả những sự thành bại trong đời người đều do nhân quả. Không có nhà chiêm tinh bói toán nào giải quyết được luật nhân quả. Không thể nào xem giờ tốt xấu, cất nhà, hạ huyệt, an táng mà tránh khỏi luật nhân quả.
Nếu là chiêm tinh gia tiên tri mọi việc, sao quý vị không xem giờ tốt xấu để cãi lại luật nhân quả số phận của mình, để mình giàu sang và quyền cao quan, tước trọng. Cớ sao lại đi ngồi ngoài hè đường phố hoặc mở phòng xem bói, chiêm tinh, tử vi. Hoặc ẩn náu trong chùa, mang hình thức tu sĩ Phật giáo làm những chuyện phi Phật, phi pháp, phi đạo đức, lừa đảo tín đồ Phật giáo bằng cách xem ngày giờ tốt xấu như các nhà Nho lỗi thời. Đúng là không biết nghề nào làm ăn, mượn ba thứ sách mê tín, dị đoan để lừa gạt người nhẹ dạ.
Phần nhiều, những hạng người có học Nho như các thầy đồ nho, học hành, thi cử thất bại, và các ông thầy chùa, tu chẳng ra tu, mượn chiếc áo Tỳ-kheo làm những điều mê tín, lường gạt người bằng những trò bịp bợm xem ngày giờ tốt xấu, cung mạng, sao hạn để khiến người khác sợ hãi, bỏ tiền ra cúng bái tế lễ và còn nhận tiền tổ, tiền sư, đủ mọi thứ, để rồi những người mê tín “tiền mất tật mang.” Luật nhân quả rất công bằng và rất cụ thể. Nếu ai làm điều ác, dù xem ngày giờ tốt xấu cũng không tránh khỏi tai họa; nếu ai làm một việc lành, dù chẳng xem ngày giờ tốt xấu, chẳng cúng sao hạn mà phước báo vẫn cứ đến.
Xưa Đức Phật dạy: “Nếu một người làm ác, như cục đá ném xuống hồ, dù cho tụng kinh niệm chú, cầu khẩn cho cục đá nổi lên thì nó chẳng bao giờ nổi. Nếu một người làm thiện, giống như những giọt dầu nổi trên mặt nước, dù không cần tụng kinh, niệm chú và cầu khẩn, giọt dầu vẫn nổi, không ai làm nó chìm được.”
Theo đạo Phật, chết là nên đem xác thiêu đốt và chôn cất không cần phải xem ngày giờ tốt xấu, vì thây người chết bất tịnh, uế trược, hôi thối, để lâu sình ra truyền nhiễm những bệnh tật khổ đau cho người còn sống. Không có giờ ngày nào là tốt hay xấu. Tốt xấu là do hành động thiện ác của con người tạo ra để rồi thọ lấy tai nạn, bệnh tật, khổ đau chứ không phải người chết nhằm giờ ngày xấu, hoặc hạ huyệt vào giờ ngày xấu mà con cháu những người thân trong gia đình xảy ra tai nạn bệnh tật.
Đạo Phật không hề chủ trương sự mê tín như vậy. Đạo Phật xây dựng tôn giáo mình trên một nền đạo đức nhân bản – nhân quả rất khoa học và bình đẳng, phá vỡ những điều mê tín mù mờ, dị đoan, tưởng tượng của những loại kinh sách phi khoa học, phi đạo đức v.v…
Đạo Phật chủ trương ai làm ác thì phải gặt lấy quả khổ, chịu quả đau đớn chứ không có kẻ này làm mà người khác chịu.
Đạo Phật không có dạy rằng: cha giết người mà con bị tù tội, cha ăn trộm mà con bị chặt tay. Quý phật tử hãy tin nhân quả và sống cho đúng nhân quả, đừng làm khổ mình khổ người thì cuộc đời sẽ được an vui và hạnh phúc, không bao giờ có tai nạn, bệnh tật nan y xảy đến.
Chết muốn chôn giờ nào, ngày nào cũng đều tốt, vì ngày giờ là thời gian tự nhiên của vũ trụ, không bao giờ có tốt, có xấu. Nếu lúc nào chúng ta cũng làm điều thiện, làm điều lành thì hà tất phải sợ những tai nạn bệnh tật khổ đau. Bệnh tật khổ đau là hành động thân, miệng, ý làm ác.
Xem ngày giờ tốt xấu để chôn cất là những người lạc hậu, mê tín bị kẻ khác lừa đảo, tiền mất chẳng ích lợi gì. Hãy mạnh dạn, đừng sợ hãi, bất chấp mọi thử thách, mọi dư luận, lúc nào cũng làm lành, không làm khổ mình khổ người, rồi mọi sự tốt đẹp sẽ đến với mình.
19. KHÔNG THẮP HƯƠNG KHI CÚNG GIỖ
Hỏi: Kính thưa Thầy, khi nhà có đám giỗ kị, hoặc ngày tư, ngày tết, cúng bái không thắp hương có được không thưa Thầy?
Đáp: Được, xưa Đức Phật dạy nên thắp năm thứ tâm hương cúng Phật, năm thứ hương đó là:
1- Giới hương tức là đức hạnh làm người, không làm khổ mình, khổ người.
2- Định hương tức là đức hạnh làm Thánh nhân.
3- Tuệ hương tức là sự hiểu biết siêu việt phi thường của Tam Minh khiến cho nguyên nhân tái sanh của con người không còn.
4- Giải thoát hương tức là về trí tuệ đức hạnh làm người, làm Thánh.
5- Giải thoát tri kiến hương là trí tuệ giải thoát mọi kiến chấp, mọi tà pháp, mọi ác pháp.
Người tu theo đạo Phật không nên thắp những thứ hương vỏ cây. Trong ngày giỗ, ngày tết nên thắp năm loại hương này cúng dâng lên chư Phật, ông bà, cha mẹ nhiều đời. Không những người thắp lên nén tâm hương này được nhiều phước báo, mà những người quá cố như ông bà, tổ tiên, cha mẹ đều được phước báo vô lượng ở kiếp sau.
Bởi thắp hương vỏ cây chỉ tượng trưng lòng thành kính, có tánh cách mê tín lạc hậu. Ngầm trong hành động thắp hương này đã bị người khác lừa đảo, tiền mất mà ô nhiễm khói hương khó thở, chẳng đem lại sự ích lợi thiết thực cho mình, cho người khác mà còn dại dột đem tiền cho kẻ kinh doanh hương vỏ cây làm giàu.
Càng suy ngẫm chúng ta càng thấy con người dễ bị kẻ khác lừa đảo bằng mọi hình thức mê tín. Họ kinh doanh, làm giàu trên mồ hôi nước mắt của kẻ khác, như nhóm xe ôm, xe lôi, xe buýt đô thị đồn đại Đức Mẹ hiện hình trên đỉnh núi xã Phú Lâm, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai là hàng ngàn người đổ về xem Đức Mẹ hiện hình.
Rồi Phật sống ở An Giang, thầy nước lạnh, uống vào bệnh gì cũng hết, thầy rờ lá cây trị bệnh như thần, người không thấy đường năm mười năm, uống vào mắt sáng liền, v.v... Biết bao nhiêu điều lừa đảo như vậy để lường gạt hàng trăm, hàng vạn người bỏ công, bỏ của để làm giàu cho bọn xe thồ, xe ôm, xe lôi v.v...
Tại núi tỉnh Tây Ninh có Bà Đen được vua Gia Long sắc phong là Linh Sơn Thánh Mẫu. Hằng năm người ta trẩy hội Bà Đen rất đông, số tiền cúng nơi đây có thể hằng tỉ bạc. Trong chiến tranh người ta bảo rằng Bà Đen nay bà về chỗ này, mai bà về chỗ kia để lôi cuốn những người mê tín về cúng bái. Đó cũng là hình thức kinh doanh thần thánh.
Ngày xưa, người ta không biết thắp hương nhưng những người trong các tôn giáo có sáng kiến mới chế ra cây hương làm bằng vỏ cây, dạy cho mọi người thắp hương cúng bái. Mỗi lần có thắp hương là linh hồn ông bà, thánh thần nghe mùi hương mà trở về chứng giám lòng thành của con cháu. Đó là cách thức dạy mê tín của các nhà tưởng tri, của các nhà sư kinh sách phát triển.
Sau này, các nhà kinh doanh lợi dụng lòng mê tín này biến thành một nghề nghiệp sống. Do đó, hàng năm người ta phải bỏ ra một số tiền hằng tỉ tỉ bạc, tiêu phí mua hương vỏ cây trong việc cúng bái tế lễ. Họ bảo, nếu chúng ta cúng bái mà không thắp hương thì sự cúng bái lạnh lẽo không trang nghiêm bằng thắp những cây hương, khói hương quyện vào nhau trông rất ấm cúng và đẹp đẽ, tưởng chừng như những linh hồn người chết nương theo khói hương mà trở về vui vầy sum họp với con cháu.
Đó là sự tưởng của người giàu tưởng tượng. Ngày nay, cây hương bằng vỏ cây đã trở thành một truyền thống, một thói quen rất khó bỏ. Nếu ngày giỗ, ngày Tết mà không thắp hương thì phải thật là người có óc khoa học, có trí hiểu biết thấu suốt thế giới siêu hình không có thì mới có can đảm vượt qua sự mê tín cố hữu ấy.
Đức Phật dạy: “Đứng lại thì chìm xuống” nghĩa là mình cứ theo phong tục thắp hương trong những ngày giỗ, ngày tư, ngày tết và những lễ cúng bái là mình đang đứng mà đang đứng lại là đang chìm xuống, đang chìm xuống tức là ngu si, mê muội, dại dột, tiền mất mà chẳng có ý nghĩa gì và lợi ích gì về cuộc sống.
Còn “Tiến tới thì trôi dạt” có nghĩa là chống hẳn lại sự mê tín, không chấp nhận nó thì chúng ta sẽ bị chống đối nguyền rủa của người khác. Họ nói rằng chúng ta ngang tàng, vô thần, v.v... không có ân nghĩa, không biết có tổ tiên, ông bà, cha mẹ, v.v... là những người ở dưới đất nẻ chui lên.
“Chỉ có vượt qua.” Vượt qua cái gì? Nghĩa là không chấp nhận mê tín, không làm theo mê tín, nhưng không chống mê tín mà chuyển mê tín thành chánh tín. Cho nên, ai mê tín mặc họ, chúng ta chỉ biết giải quyết cho chúng ta mà thôi, giải quyết tâm mình đừng sống trong mê tín, giải quyết tâm mình đừng chướng ngại với người mê tín. Cho nên, thắp hương hay không thắp hương trong ngày giỗ là do ở tâm con.
Ví dụ: nhà có giỗ kị, mọi người thắp hương cúng bái, con không nên cấm họ, nhưng đến khi con cúng bái, con không thắp hương, chỉ đứng trước bàn thờ, con thầm tưởng nhớ đến công ơn của tổ tiên, ông bà và đem sự sống của con không làm khổ mình, khổ người dâng lên.
Nhớ lại ngày nào ông bà, cha mẹ lìa khỏi cuộc đời để lại trong tâm con một kí ức, một niềm thương nhớ. Hôm nay con còn chỉ biết dâng lên nén tâm hương với lòng đầy đạo đức làm người của con, không làm ô nhục tổ tông, không làm mang tiếng tai cho dòng họ.
Những hành động sống hằng ngày đó đến ngày giỗ ông bà, tổ tiên và cha mẹ con thắp trước bàn thờ. Đó là con thắp cây hương đạo đức làm người cúng dâng tổ tiên, ông bà, cha mẹ chứ không thắp những cây hương bột vỏ cây mà thắp hương lòng của con đối với tổ tông, không có gì xấu hổ cả con ạ!
Nếu con làm đúng như vậy (không thắp hương vỏ cây) vào ngày giỗ vẫn ấm cúng và trang nghiêm vô cùng. Con thắp cây hương lòng không phải mất tiền, tiền ấy để dành dụm làm việc từ thiện, giúp người bất hạnh trong xã hội còn tốt hơn.
20. SÁU NẺO LUÂN HỒI
Hỏi: Kính thưa Thầy! Xin Thầy giảng cho con hiểu đúng nghĩa của “Sáu nẻo luân hồi: Trời, Người, Atula, ngạ quỷ, súc sanh và địa ngục.”
Đáp: Sáu nẻo luân hồi theo kiến giải của các nhà học giả thì có sáu cõi để linh hồn người chết tiếp tục tái sanh tùy theo việc làm thiện ác của người đó.
Các nhà học giả kiến giải như sau:
Ở cõi Trời, nếu chư Thiên sanh lòng dục tạo ác pháp, chờ hết duyên chư Thiên sanh xuống làm người. Nếu ở cõi làm người mà làm thiện, ít ham muốn dục thì sanh trở lại cõi Trời.
Nếu ở cõi làm người sanh tâm làm ác, thường giận dữ, thích đánh đá, khi lìa bỏ thân người thì “linh hồn” tái sanh vào cõi Atula. Loài Atula ở đó hung dữ vô cùng, chuyên môn đi đánh lộn hoặc đi đánh cướp nước người khác.
Nếu sanh vào cõi Atula thường làm thiện, ít giận hờn, không đánh đá ai hết, đến khi chết thì sẽ sanh làm người trở lại. Nếu Atula này làm thiện, ít dục, không giận dữ, không đánh đập, không làm khổ mình, khổ người thì đến khi chết sẽ sanh vào cõi Trời. Nếu đã sanh ở cõi Atula mà giận dữ, ích kỉ, bỏn xẻn không dám bố thí thì khi bỏ thân Atula sẽ sanh vào Ngạ quỷ.
Con người sanh vào cảnh giới Ngạ quỷ thường đói khổ, muốn ăn mà không có ăn, muốn uống mà không có uống, quần áo rách rưới, lang thang, nghèo khổ. Nếu cõi Ngạ quỷ mà biết bố thí, san sẻ thì được sanh trở lại cõi Atula.
Nếu ở cõi Ngạ quỷ mà biết bố thí, san sẻ, không giận dữ, làm thiện, ít làm khổ mình, khổ người khác thì sanh làm con người.
Nếu ở cõi Ngạ quỷ làm toàn thiện, không làm khổ mình, khổ người thì được sanh ngay lên cõi Trời. Nếu ở cõi Ngạ quỷ mà tâm ác không trừ, lòng ích kỷ, bỏn xẻn, không bố thí thì đọa xuống địa ngục chịu đủ thứ cực hình khổ sở.
Cõi địa ngục là nơi con người sanh vào đó chịu đủ thứ mọi cực hình. Nói chung cõi địa ngục là cõi tiếng kêu khóc không hề dứt. Sau khi sanh ở cõi địa ngục, con người ở đó mới tiếp tục sanh làm loài vật. Như chúng ta đã thấy các loài vật đang sống quanh ta, đó là cõi súc sanh.
Trên đây là cái hiểu của các nhà học giả của kinh sách phát triển có sáu cảnh giới rõ ràng: trời, người, Atula, ngạ quỷ, địa ngục và súc sanh, con người phải tiếp tục trôi lăn mãi mãi ở đó.
Thật ra, sáu nẻo luân hồi là cảnh ở trần gian của chúng ta trên hành tinh này, không có ở nơi nào khác nữa. Tùy theo đặc tính, cách sống, cuộc sống của mọi con người và loài vật trên hành tinh này mà phân chia làm sáu nẻo luân hồi.
Chánh Phật pháp dạy:
Thứ nhất là cõi Trời, là chỉ cho những người đang sống đúng trong mười điều lành, tâm hồn của họ thường thanh thản, an lạc và vô sự, không làm khổ mình, khổ người, không làm điều ác, toàn làm điều thiện, muốn chi có nấy. Đó là những bậc chân tu, thạc đức đang sống trầm lặng, sống với trí tuệ nhân quả, sống với tâm hồn tha thứ và thương yêu mọi loài chúng sanh.
Thứ hai là cõi Người, người là những người đang sống đúng năm điều lành không hề phạm phải, còn những người sống không đúng năm điều lành này là cõi khác chứ không phải cõi người.
Thứ ba là cõi Atula, Atula là những người hay sân hận, giận dữ, chuyên môn đi đánh lộn, không biết nhường nhịn và nhẫn nhục ai cả, chỉ biết la hét đánh đập với nhau.
Thứ tư là cõi Ngạ quỷ, Ngạ quỷ là những người nghèo đói khổ sở không có cơm ăn, áo mặc.
Thứ năm là cõi súc sanh, súc sanh gồm có con người và các loài thú vật. Vì những người này hình người mà bản chất sống như loài thú vật, họ chẳng hề sống có một chút đạo đức làm người nào cả. Cho nên, dưới đôi mắt của Đức Phật thì những người này họ là súc sanh (động vật).
Thứ sáu là cõi Địa ngục, địa ngục là những người đang bệnh đau, đang khổ sở rên la trên giường bệnh, chúng ta hãy đến nơi các bệnh viện, nơi đó là Địa ngục.
Tóm lại, sáu cõi luân hồi không phải ở đâu xa mà chính cuộc sống của chúng ta trên hành tinh này hiện ra đầy đủ sáu cõi. Sáu cõi này được xác định thực tế và cụ thể, rất khoa học, không có mơ hồ trừu tượng mà ai cũng có thể hiểu một cách dễ dàng.
Chỉ có những người tu theo kinh sách phát triển sống trong tưởng tri, trong mơ mộng mới xây dựng sáu nẻo luân hồi ảo tưởng ngoài cuộc sống của con người.
21. ĐỨC PHẬT DI LẶC
Hỏi: Kính thưa Thầy, xin Thầy chỉ dạy cho chúng con được rõ: Phật Di Lặc có thật hay không?
Đáp: Phật Di Lặc không có, đó chỉ là một Phật tưởng tượng của các kinh sách phát triển Bà La Môn. Vì thế, chúng tôi mạnh dạn lật tẩy bộ mặt thâm độc của Bà La Môn giáo để cho phật tử hiểu rõ. Nếu bảo rằng quá khứ đã có bảy vị Phật thì khi Đức Phật Thích Ca đi tu phải có đạo Phật, tại sao lại chỉ có lục sư ngoại đạo mà không có cái tên là Phật giáo?
Thật ra, mãi đến khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni tu hành chứng quả, nhờ mọi người hiểu biết cung kính và tôn trọng Đức Phật nên dựng ra tôn giáo Phật giáo, bấy giờ chúng ta mới có tôn giáo mang tên là Phật giáo. Thế mà kinh sách phát triển dám bảo quá khứ có bảy vị Phật, rồi gán cho Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói thì rất oan cho Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Trong kinh Tương Ưng Đức Phật nói: “Nếu Ta nói một điều gì mà chúng sanh hiểu bằng tưởng thì có nói láo trong Ta.”
Rồi về vị lai các kinh sách phát triển sản xuất ra một người có tên là Từ Thị, hiệu là Di Lặc muốn tranh chức giáo chủ với Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giống như các nhà vua phong kiến ở thế gian tranh ngai vàng. Thật là danh lợi ghê quá. Theo như kinh sách phát triển, đạo Phật có chín vị giáo chủ:
Bảy vị Phật làm giáo chủ ở quá khứ là:
1- Tỳ Bà Thi (Vipassĩ.)
2- Thi Khí (Sikhĩ).
3- Tỳ Xá Bà (Vessabhũ)
4- Câu Lâu Tôn (Kakusandha)
5- Câu Na Hàm (Konãgamana)
6- Ca Diếp (Kassapa)
7- Cổ Phật Nhiên Đăng.
Một vị Phật giáo chủ ở hiện tại tức là Đức Phật Thích Ca.
Một vị Phật giáo chủ ở vị lai tức là Phật Di Lặc.
Phật Di Lặc đã được kinh sách phát triển nói đến rất nhiều. Đó là một thâm ý nham hiểm của các kinh sách phát triển thành lập Phật Di Lặc để làm một cuộc cách mạng Phật giáo, lật đổ Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni, thay thế bằng vị giáo chủ mới là Phật Di Lặc. Hội Long Hoa tức là cuộc cách mạng Phật giáo do các nhà thuộc kinh sách phát triển lãnh đạo. Khi Phật Di Lặc lên nắm quyền giáo chủ Phật giáo thì toàn bộ kinh sách Nguyên Thủy sẽ bị triệt tiêu, tức là đường lối giáo lý của Phật Thích Ca Mâu Ni sẽ bị đốt sạch.
Kinh sách Nguyên Thủy không bao giờ có nói đến Phật Di Lặc, các bậc Thánh Tăng đệ tử của Đức Phật không có ai tên là Di Lặc. Đối với kinh sách Nguyên Thủy, tên Di Lặc là một tên xa lạ, vậy mà bây giờ sắp lên nắm quyền giáo chủ Phật giáo! Xin quý vị phật tử suy ngẫm để khỏi lầm lạc.
Hội Long Hoa được xem như một cuộc trưng cầu dân ý bầu cử đức giáo chủ mới cho Phật giáo. Các tôn giáo khác không hiểu, dựa vào gốc kinh sách phát triển và tưởng ấm của con người thể hiện qua “cơ bút” cho biết ngày tận thế và Hội Long Hoa sắp mở bày. Phật giáo Nguyên Thủy không chấp nhận điều này. Đức Phật dạy: “Quá khứ không truy tìm, vị lai không ước vọng, chỉ có hiện tại.” Quá khứ và vị lai không cần biết đến, chỉ làm một việc lành ngay trong hiện tại thì quá khứ và tương lai là hạnh phúc.
Hội Long Hoa là một sự bịa đặt của những kinh sách phát triển, chờ cơ hội thuận tiện nhất để mở một cuộc họp Phật giáo toàn thế giới lật đổ Phật giáo Nguyên Thủy. Nhưng vì thế lực Phật giáo Nguyên Thủy còn mạnh cho nên họ không thể làm gì được.
Hiện nay cả Phật giáo thế giới đều chấp nhận kinh sách phát triển là giáo pháp của Phật giáo. Đó là một bước thắng lợi thứ nhất của kinh sách này. Đến khi các sư Nam Tông tức là các sư Phật giáo Nguyên Thủy dần dần chịu ảnh hưởng giáo pháp của kinh sách phát triển và lần lượt các sư Nam Tông sẽ tu tập theo giáo pháp của kinh sách phát triển thì giáo pháp Nguyên Thủy sẽ bị đốn tận gốc. Lúc bấy giờ người ta bảo rằng Hội Long Hoa ra đời thành lập Phật giáo mới và đức giáo chủ là Phật Di Lặc.
Đó là một thâm ý sâu sắc của kinh sách phát triển dựng lên Phật Di Lặc là có ý diệt trừ Phật giáo tận gốc mà hầu hết các tu sĩ Phật giáo hiện giờ, Nam Tông lẫn Bắc Tông đều vô tình không thấy ý đồ thâm độc của Bà La Môn giáo ngày xưa.
Kinh sách nói về Phật Di Lặc và Hội Long Hoa là do các giáo sĩ Bà La Môn viết soạn ra rồi đưa vào kinh sách Phật giáo mạo nhận Phật thuyết. Lợi dụng lúc Phật giáo kết tập kinh sách nhiều lần chưa thành văn bản, người ta đã tùy tiện thêm bớt thật dễ dàng. Cho nên người nghiên cứu kinh sách Phật giáo hiện nay gặp phải khó khăn là có nhiều bài kinh mâu thuẫn nhau, khiến chẳng biết đâu là lời Phật dạy chân chánh, đâu là lời giả không phải Phật thuyết.
22. XEM NGÀY TỐT XẤU
Hỏi: Kính thưa Thầy! Các cư sĩ tại gia khi làm nhà, đào móng, xây tường hoặc làm chuồng heo, chuồng bò, làm cổng ngõ, đào giếng, v.v... đều phải xem ngày tốt xấu. Khi cất nhà xong thì gia chủ phải lập đàn Đại Bi năm ngày đêm trì chú cầu nguyện cho gia chủ được may mắn phát tài phát lộc, thưa Thầy, xem ngày giờ tốt xấu như vậy có đúng không? Xin Thầy chỉ dạy.
Trong kinh Bát Dương dạy: Ngày nào cũng tốt, tháng nào, năm nào, giờ nào cũng tốt, nếu ai nói ngày, tháng, năm, giờ tốt xấu là phản lại thiên thần địa lý. Tuy trong kinh dạy như vậy nhưng nếu khi làm nhà, cưới hỏi, chết, bốc mộ, làm chuồng nuôi gia súc, v.v... tùy trường hợp xem ngày tốt xấu lại mang kinh Bát Dương ra tụng. Thưa Thầy như thế là thế nào?
Đáp: Xem ngày tốt xấu là sự mê tín của Trung Quốc nên có những bộ sách mà trong các chùa dùng để xem ngày tháng tốt xấu như Ngọc Hạp, Thông Thư, Trần Tử, Văn Công, Thọ Mai v.v... Những loại sách lịch này không phải của Phật giáo mà của nền văn minh Trung Quốc sản xuất ra dưới các triều đại phong kiến. Từ âm dương bát quái, dịch số, đến tứ thời, ngũ hành, nhị thập bát tú v.v... Do đó các nhà tri thức lập thành theo vận khí âm dương để xem ngày giờ tốt xấu đoán vận mạng cho con người.
Đối với đạo Phật thì kinh sách này không đúng với tinh thần của Phật giáo. Đôi mắt của Phật giáo nhìn các pháp thế gian đều là do duyên hợp tạo thành, diễn biến theo luật nhân quả nên không thể nào đoán vận mạng được. Vì đạo Phật cho rằng: vận mạng của con người di động theo diễn biến hành động thiện ác của con người. Nên làm sao biết chắc được đúng mà tiên đoán.
Ví dụ: có người muốn cất nhà đến xem tuổi năm nay có cất nhà được không? Ông thầy xem tuổi bảo: năm nay tuổi tốt, cất nhà khỏi kim lâu, địa sát, thọ tử, được tứ tấn tài, đại kiết; kế đó xem tháng tốt, ngày tốt, đến ngày giờ làm lễ khởi công. Cất xong nhà, thỉnh quý sư thầy đến tụng kinh cầu an. Nhưng người gia chủ này làm nghề buôn bán đồ lậu thuế, Nhà nước phát giác ra bắt bỏ tù và niêm phong tất cả nhà cửa của cải, tài sản v.v…
Như vậy cất nhà coi tuổi tốt, ngày, tháng tốt được tấn tài tấn lộc, đại kiết, mà sao lại không tấn tài tấn lộc, đại kiết mà phải đi ở tù, của cải bị Nhà nước tịch thu? Xét như vậy xem ngày tốt xấu có đúng không? Hay do hành động làm điều ác? Nếu người này không buôn bán đồ lậu thuế thì làm sao có sự việc ở tù, của cải bị tịch thu. Gieo nhân nào thì phải gặt quả nấy chứ không phải do cất nhà, tuổi tác, ngày giờ tốt xấu mà tốt được. Tốt xấu là do hành động thiện ác của mình. Vì vậy trong kinh Bát Dương dạy: “Ngày tháng năm nào cũng tốt, tốt xấu là do hành động thiện ác của mình.”
Kinh Bát Dương là một loại kinh phát triển thuộc Bà La Môn giáo, đập phá sự mê tín xem ngày tốt xấu của văn minh Trung Quốc nhưng lại bày vẽ cúng bái tụng niệm theo sự mê tín của tôn giáo này. Cất nhà, cưới hỏi, chết, bốc mộ, làm chuồng nuôi gia súc đều đem kinh Bát Dương ra tụng để cầu tài, cầu lợi thì sự mê tín lại còn dị đoan lạc hậu hơn, cũng không thua gì xem ngày giờ tốt xấu.
Xem ngày tốt xấu người ta dựa theo luật âm dương, tính toán ra ngày tốt xấu thì còn có chút ít khoa học thực tế hơn, còn kinh Bát Dương thì không có khoa học chút nào cả, chỉ dựa vào chư Phật cứu độ, gia hộ tai qua nạn khỏi thì thật là lạc hậu dị đoan. Nếu giết người, cướp của, đi buôn đồ lậu thuế bị bắt ở tù, đem kinh Bát Dương ra tụng thì dù cho tụng ngàn biến cũng chẳng tiêu tai giải nạn nổi. Đó là sự lừa đảo của các loại kinh sách phát triển, chỉ những người chưa có trình độ kiến thức sâu rộng mới tin và nghe theo.
Từ sự mê tín xem ngày tốt xấu đến sự mê tín cúng bái của kinh sách phát triển, tất cả đều là lừa đảo người để làm tiền một cách trắng trợn mà không ai bắt tội được. Quý phật tử cần nên sáng suốt, đừng để bị lừa gạt bởi những kẻ vô lương tâm làm nghề bất chính. Phải mạnh dạn thực hiện đạo đức nhân bản - nhân quả, sống không làm khổ mình, khổ người, tức là sống thiện, làm thiện, ăn ở thiện thì mọi phước báo và sự an vui sẽ đến với quý vị.
23. ĐỘ SIÊU THOÁT
Hỏi: Kính thưa Thầy, có một số tu sĩ ăn mặn, cứ mỗi tuần ăn khoảng hai, ba con gà do phật tử mang đến cúng dường. Thấy chuyện lạ như vậy, con hỏi người phật tử, người ấy nói: “Vị tu sĩ ăn thịt gà như vậy sẽ trì chú và độ cho con vật ấy được siêu thoát. Như vậy có đúng không thưa Thầy?
Đáp: Theo như trong các chùa Tịnh Độ dạy, mỗi khi muốn giết con vật gì thì gọi là quy y cho con vật ấy, trong nhà có đám tiệc giết gà vịt thì người cầm dao cắt cổ gà vịt đều đọc bài chú Vãng Sanh ba lần rồi mới cắt cổ con gà. Với ý nghĩa khi con gà bị chết sẽ được siêu thoát về cõi Cực Lạc sung sướng hơn là làm con gà, con vịt.
Trong câu hỏi của con cũng có ý như vậy. Ăn thịt gà chỉ cần trì chú là con gà được siêu thoát. Đó là một lối lừa đảo lường gạt người bằng những hành động cực ác. Ăn thịt loài vật mà trì chú để nó được siêu thoát! Đó là một việc làm mơ hồ không bao giờ có thật.
Chú Vãng Sanh trong kinh phát triển dạy: “NamMô a rị đa bà dạ, đa tha đà đa dạ, đa điệt dạ tha, a di rị đô bà tỳ….” Người chết đọc chú này linh hồn sẽ được vãng sanh về Cực Lạc. Khi giết gà, vịt, heo, dê, bò, ngựa v.v... cũng đều đọc thần chú này thì mọi vật bị giết đều được sanh về Cực Lạc hết.
Trong bài kinh Ước Nguyện Phật dạy:
“Nếu muốn ước nguyện một điều gì có lợi ích cho người và chúng sanh thì mình phải giữ gìn giới luật nghiêm túc, không gián đoạn thiền định, phải có đạo hạnh đầy đủ, thích sống trầm lặng tại các trụ xứ không tịch thì sự ước nguyện mới được viên mãn.”
Ngay cả giới luật đầu tiên trong bộ giới luật thuộc loại giới đứt đầu (Ba la di), có nghĩa người phạm giới này không còn duyên tu tập để được giải thoát, đó là giới sát sanh. Trong giới sát sanh Phật dạy: “Không được giết hại chúng sanh, xui bảo người giết hại, thấy người giết hại vui theo.” Vị sư này ăn thịt chúng sanh tức là gián tiếp sát sanh, có nghĩa là xui bảo người khác giết hại cho mình ăn thịt. Người phật tử đem thực phẩm động vật cúng dường cho tu sĩ là có năm điều phi công đức, không có phước báo mà còn mang tội đọa địa ngục (khổ). Còn vị sư ăn thịt chúng sanh phạm vào tội sát sanh thì trở thành ác quỷ, ma vương, không phải là đệ tử của Phật. Vị này dù có tu một ngàn kiếp vẫn thành ác quỷ.
Người đệ tử của Phật trong mỗi miếng ăn phải trải tâm từ bi khắp cùng, ăn không thấy, không nghe, không nghi. Thấy thịt chúng sanh mà ăn được đó là loài quỷ dữ chứ không phải là người tu sĩ đạo Phật. Loài ác quỷ thường đội lốt tu sĩ đạo Phật lừa đảo tín đồ, ăn thịt chúng sanh như loài cọp dữ. Thế mà gọi là độ siêu thoát chúng sanh thì thật là lừa đảo những phật tử chưa thông suốt đường lối của đạo Phật.
Trong suốt cuộc đời tu hành của Thầy, Thầy chỉ thấy có một mình Hòa Thượng Minh Châu dám nói thẳng: “Kinh sách phát triển là giáo pháp của Bà La Môn đang tìm mọi cách diệt Phật giáo,” còn khắp trong nước chưa thấy có một vị thầy nào dám nói thẳng, hầu như toàn bộ đều tiếp tay với Bà La Môn để diệt Phật giáo. Bởi vậy, thấy đời sống của tu sĩ hiện giờ là biết Phật giáo còn hay mất. Phật giáo mất thì không còn người tu chứng, chỉ còn chứng miệng và lưỡi mà thôi.
Quý phật tử muốn biết một vị tỳ-kheo đệ tử của Phật thì hãy xem giới luật của Phật, kẻ nào vi phạm giới luật, bẻ vụn giới luật, kẻ đó là ma vương đội lốt tỳ-kheo đệ tử của Phật để lừa gạt quý phật tử. Hãy đề cao cảnh giác, tránh xa những kẻ phạm giới, phá giới. Cúng dường những ma vương này chẳng được phước mà còn làm suy đồi Phật giáo.
Đừng nghĩ rằng cúng dường cho một trăm người ác bằng cúng dường cho một người thiện, điều này quý vị đã bị kinh sách phát triển lừa đảo. Làm sao một trăm người ác bằng một người thiện được, ác và thiện là hai con đường song song làm sao gặp nhau được, mà đã không gặp nhau thì không thể nào so sánh được.
Ăn thịt chúng sanh mà còn gọi là chú nguyện cho chúng sanh siêu độ, cũng như lời của các tổ Thiền Tông nói: “Phóng sanh sa địa ngục, sát sanh được lên Thiên Đàng.” Đây là lời nói của ác quỷ chứ không phải lời nói của người tu sĩ đạo từ bi. Trong kinh sách phát triển lại dạy: “Nói như vậy chứ đừng hiểu nghĩa như vậy.” Đó là lý luận trườn uốn như con lươn, có đúng như vậy không quý vị?
24. ĂN MẶN NÓI NGAY, ĂN CHAY NÓI DỐI
Hỏi: Kính thưa Thầy, có tu sĩ đã thụ giới đến hàng Thanh Văn mà còn đứng trước Tam Bảo tuyên bố với phật tử: “Ăn mặn nói ngay, ăn chay nói dối”. Thưa Thầy, như thế các phật tử biết được người ăn chay đều đả phá, nhất là những người ăn một bữa thì họ nói là xưa kia Đức Phật Thích Ca Mâu Ni tu khổ hạnh đã thành Phật đâu, nhờ có tiên nữ dâng sữa tươi Ngài mới tỉnh ra. Rồi sau đó phải ăn đầy đủ ngày một bữa, rồi mới tu hành đạt được chân lý. Ngài uống sữa vẫn là ăn mặn. Xin Thầy giảng và nói rõ cho con hiểu?
Đáp: Người xưa đã chẳng nói: “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo, miệng không vành nó méo tứ tung.” Câu nói: “Ăn mặn nói ngay, ăn chay nói dối” đó là lối lý luận của những người đội lốt tu sĩ Phật giáo phạm vào giới luật, dùng miệng lưỡi chống chế lỗi lầm để đánh lạc hướng phật tử và tự tại ăn thịt chúng sanh mà chẳng chút lòng thương yêu. Đó là những Ma vương đội lốt tu sĩ Phật giáo để phá hoại đạo Phật, những hạng người này là trùng trong lông sư tử.
Không biết người ta hiểu như thế nào là ăn mặn và như thế nào là ăn chay. Ăn mặn có nghĩa là ăn thịt chúng sanh, không có lòng thương xót chúng sanh, coi mạng sống chúng sanh rất rẻ. Chà đạp, đánh đập, giết hại mà chẳng thấy sự đau khổ của chúng sanh. Dù kẻ đó ăn rau cải, tương dưa, nói chung là thực phẩm thực vật nhưng không có tâm từ bi thương xót chúng sanh thì kẻ đó đối với Phật giáo là kẻ ăn mặn, kẻ đó đang sống trong ác pháp (tạo nhân ác, quả khổ cho chính họ), kẻ ăn chay đó là con bò ăn cỏ.
Còn kẻ nào ăn uống thực phẩm gì cũng được, miễn là trong thực phẩm đó không có sự giết hại, không có sự đau khổ của chúng sanh thì đó là ăn chay. Mục đích của đạo Phật là từ bi, cho nên trong sự sống phải luôn luôn thị hiện lòng từ bi, thương xót tất cả muôn loài chúng sanh. Nếu có sự chết và khổ đau của chúng sanh thì không bao giờ ăn. Do đó mới gọi đạo Phật, đạo Phật chính là đạo “Từ Bi”.
Sữa là một thực phẩm trong thân động vật do từ cây cỏ, rau cải, đậu đi vào thân động vật và chế biến thành, trong đó không có sự chết của chúng sanh. Vì thế người tu sĩ Phật giáo được dùng, như Đức Phật ngày xưa đã thọ dụng sữa dê. Như vậy đâu có lỗi gì với đạo Phật. Vì Đức Phật đâu có dạy chúng ta ăn chay như Bà La Môn. Bà La Môn dạy chúng ta ăn chay như con bò ăn cỏ. Đức Phật dạy chúng ta ăn không thấy, không nghe, không nghi có nghĩa là ăn không thấy, không nghe và không nghi trong thực phẩm có sự chết chóc và sự đau khổ của chúng sanh.
Trong “Bát Chánh Đạo”, Chánh Mạng là một điều quan trọng thứ nhất, vì nuôi Chánh Mạng bằng sự đau khổ và chết chóc của chúng sanh thì Chánh Mạng thành Tà Mạng. Và người nuôi tà mạng thì tu hành không thành Phật mà thành quỷ dữ. Vì thế đừng lấy việc uống sữa dê của Đức Phật ngày xưa mà cho đó là thực phẩm mặn, để rồi lấy cớ ăn thịt chúng sanh cho thỏa thích, thỏa mãn.
Còn ngược lại ăn chay, ăn toàn rau cải mà tâm không có từ bi thương xót muôn loài chúng sanh thì giống như con bò ăn cỏ. Còn cho sữa là thực phẩm mặn là người đó không hiểu đạo Phật và cũng không hiểu mục đích của đạo Phật thì tu hành dễ sai lạc vào tà pháp.
Như ở trên chúng tôi đã nói, trong Bát Chánh Đạo có “Chánh Mạng.” Chánh Mạng tức là nuôi mạng sống chân chánh. Muốn nuôi mạng sống chân chánh thì không nên nuôi nó bằng sự đau khổ của chúng sanh (như ăn thịt chúng sanh gọi là ăn mặn).
Đối với Chánh Mạng, nếu giết hại chúng sanh làm thực phẩm để nuôi sống thân mạng thì đó là nuôi tà mạng, nếu tham lam trộm cắp, lấy của không cho về nuôi thân mạng, dù là ăn chay (thực phẩm thực vật rau cải) thì vẫn là nuôi tà mạng; nếu làm nghề cúng bái, tụng niệm, xem xăm, bói quẻ, coi ngày giờ tốt xấu, làm thầy địa lý, thầy pháp, thầy bùa, thầy thuốc châm cứu, v.v… để trao đổi cuộc sống, đó là nuôi tà mạng; nếu đi khất thực tiền bạc, của báu để nuôi mạng sống đó là nuôi tà mạng; nếu buôn bán, làm ruộng rẫy, trồng cây trái vườn tược để nuôi sống đều là nuôi tà mạng. Tất cả mọi nghề nghiệp trên đây để nuôi mạng sống, đều không đúng đường lối tu tập của đạo Phật. Cho nên nuôi mạng sống như vậy thì dù tu ngàn kiếp cũng không thành tựu đạo giải thoát.
Xưa Đức Phật vào rừng tọa thiền, loài khỉ vượn hái trái cây dâng cúng dường. Phật không thọ dụng khi thấy trong chùm trái cây chín có nhiều kiến, vì thọ dụng loài kiến sẽ bị động làm chúng đau khổ nên Đức Phật dù đang đói nhưng không ăn. Loài vượn thấy Đức Phật không ăn nên đến quan sát lại chùm trái cây, thấy kiến, chúng đã hiểu ý Phật nên đi hái trái cây khác không có kiến bu, lúc bấy giờ dâng lên Đức Phật mới nhận và thọ dụng. Qua chùm trái cây như vậy ta thấy rõ, khi thọ dụng thực phẩm (tức là nuôi mạng sống) Đức Phật hết sức cẩn thận.
Chùm trái cây là thực phẩm chay hay mặn? Tại sao Đức Phật lại không ăn? Và tại sao lại ăn? Chắc quý vị ai cũng đều rõ, Đức Phật không ăn dù đó là món ăn chay nhưng trong đó có sự đau khổ của chúng sanh. Đức Phật thọ dụng thực phẩm trong đó không có sự đau khổ của chúng sanh. Sữa lấy ra từ loài động vật nhưng trong đó không có sự đau khổ của chúng sanh nên Phật thọ dụng. Trái cây lấy ra từ loài thực vật nhưng có sự đau khổ của chúng sanh nên Ngài không ăn.
Câu nói “ăn mặn nói ngay, ăn chay nói dối” đó là những tà sư ngoại đạo mang lốt tu sĩ Phật giáo quyết tâm diệt Phật giáo trên hành tinh này nên họ mới dùng lời nói này, họ là trùng trong lông sư tử, quý phật tử là đệ tử của Phật phải cảnh giác những tà sư ngoại đạo này, đừng để họ diệt Phật giáo. Nếu Phật giáo bị diệt thì loài người sẽ bị thiệt thòi mất đi nền đạo đức nhân bản - nhân quả. Một nền đạo đức tự sống không làm khổ mình khổ người và khổ tất cả chúng sinh.
25. ĂN THỊT CHÚNG SANH
Hỏi: Kính thưa Thầy, do giới luật nào, định luật nào và pháp môn nào mà các chùa từ Thường Tín đến Hà Nam, Phủ Lý, Nam Định, đến Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An tu sĩ Phật giáo toàn là ăn mặn, còn ở Hà Nội có một số chùa chỉ ăn chay một tháng có mấy ngày. Thưa Thầy, hay là ngày nay Phật giáo đã đổi mới?
Đáp: Không phải do định luật nào, pháp môn nào và giới luật nào dạy tu sĩ ăn thịt chúng sanh mà chính tà giáo ngoại đạo đã có ý thâm độc quyết diệt Phật giáo trên hành tinh này. Thế nên, kinh sách phát triển triển khai giáo pháp của ngoại đạo lồng trong khuôn giáo pháp của đạo Phật để dìm mất chánh pháp của đạo Phật, tức là diệt sạch nền đạo đức nhân bản – nhân quả của đạo Phật. Có nghĩa là dạy tu sĩ phá giới, phạm giới qua những nhân vật Tế Điên Tăng Hòa Thượng, và những lý luận của Thiền Tông: “Đói ăn, khát uống, mệt ngủ, tự tại vô ngại.”
Kinh sách phát triển sản xuất ra rất nhiều hệ phái, nhưng ở Việt Nam còn duy trì được ba tông phái lớn, đó là: 1- Thiền Tông; 2- Mật Tông; 3- Tịnh Độ Tông.
Các nhà sư ăn thịt chúng sanh mà con hỏi, đó là các nhà sư Tịnh Độ Tông phá giới luật Phật tận cùng, không có giới nào mà không vi phạm. Họ có những hành vi phi đạo đức, phi giới luật, họ là tu sĩ Bà La Môn giáo mang nhãn hiệu Phật giáo, không những ở miền Bắc mà cả ở miền Nam cũng vậy. Nếu quý vị phật tử thông suốt được Phật giáo thì số tu sĩ hiện giờ không còn là tu sĩ Phật giáo mà toàn là tu sĩ ngoại đạo, họ là những người tu ăn, tu ngủ, tu danh, tu lợi, tu cấp bằng, tu chùa to tháp lớn, chứ không phải tu giải thoát.
Đứng trong giới luật Phật xin miễn bàn về những tu sĩ này. Họ mượn danh Phật giáo để lừa gạt tín đồ chứ họ chẳng có tu hành gì cả. Lối thuyết giảng là lối lừa bịp của họ chứ Phật pháp không phải như vậy. Phật dạy xả tâm thì họ dạy ức chế tâm. Phật dạy giới luật thì họ dạy phá giới luật.
Ở đây Thầy nói quý phật tử hiểu, ai làm gì mặc kệ họ, nhưng các phật tử đừng nên đến với những ma vương. Phật tử đến là giúp họ diệt Phật giáo thì nền đạo đức nhân bản – nhân quả của Phật sẽ không còn nữa thì loài người trên hành tinh này sẽ chịu thiết thòi rất lớn thì tội đó thuộc về ai? Quý phật tử có biết không?
26. TÂM DANH VÀ BỎN XẺN
Hỏi: Kính thưa Thầy, cái tâm của phật tử lúc phấn khởi lên trước đám đông người: “Tôi xin đăng ký cúng dường vào sổ công đức” nhưng một tuần sau lại trả lời: “Tôi chỉ cúng ít thôi.” Thưa thầy, có phải là tâm chúng sanh hoảng loạn không? Lúc vầy lúc khác.
Đáp: Không phải là tâm hoảng loạn mà tâm háo danh và tâm bỏn xẻn. Vì Phật pháp, vì lợi ích chung cho mọi người mà phát tâm cúng dường cũng như làm việc từ thiện, không ai bắt buộc mình cúng dường nhiều hay ít mà tùy nơi lòng thành và lòng hảo tâm. Những phật tử làm như vậy là có đúng chánh pháp không?
Tâm danh và tâm bỏn xẻn chen lẫn nhau trong một việc làm như vậy để cho mọi người nhận được tâm mình thiếu thành thật, đang bốc đồng trong danh chứ không phải thực lòng cúng dường, thực lòng thương người mà làm từ thiện. Rồi sau đó lại cúng dường ít và làm từ thiện ít thôi, trong khi mình rất khá giả, giàu có, đó là thể hiện tâm bỏn xẻn để mọi người đều nhận biết, đó là cái danh “hão”. Đạo Phật dạy thật tình, thật tâm. Cái gì đúng nghĩa, đúng chánh pháp thì cúng dường bao nhiêu không tiếc.
Trong thời Đức Phật có hai vợ chồng nhà kia rất nghèo. Hai người chỉ có một bộ y áo. Khi chồng đi ra ngoài thì mặc bộ y áo đó, còn vợ thì ở trong nhà đóng cửa lại vì không có y áo che thân. Khi vợ đi ra ngoài mặc y áo đó đi thì chồng cũng đóng cửa ở trong nhà. Thế mà khi nghe Đức Phật đến trụ tại vùng này thì hai vợ chồng bàn nhau đem bộ y áo đó cúng dường cho Phật. Cuối cùng họ phải dùng lá cây che thân và dâng bộ y áo cúng dường Phật. Đây là do tâm thành cúng dường Phật mặc dù rất nghèo.
Cúng dường không có nghĩa là cầu danh.
Trên một chiếc xe buýt, người ăn mày tàn tật đi xin từ đầu xe đến cuối xe chẳng ai cho một xu, thấy thế chúng tôi bảo người phật tử ngồi gần bên hãy bố thí cho người ăn mày quá tội nghiệp này. Khi người phật tử cho tiền thì mọi người xúm nhau cho tiền. Đó là sự bố thí xu hướng chạy theo “danh” từ thiện, biết “thương người”.
Kì thực họ chẳng thương ai hết. Làm việc từ thiện cũng như cúng dường, không ai bắt buộc ai mà phải tự tâm mình thấy việc mình làm là cần thiết vì lợi ích mọi người; vì Phật pháp được trường tồn; vì nỗi bất hạnh của mọi người trong xã hội đang cần sự cứu giúp. Còn đối với Phật giáo đang cần sự duy trì thì sẵn sàng cúng dường, không danh, không bỏn xẻn, đúng lúc, đúng thời điểm nhưng không bị lừa đảo.
27. THỜ PHỤNG, ĐI LỄ, CÚNG CHÙA
Hỏi: Kính thưa Thầy, có phật tử nói: “Nhà tôi giàu có là nhờ thờ phụng đến nơi đến chốn, đi lễ cúng chùa nhiều, các con tôi làm toàn chức to, ông lớn.” Thưa Thầy như vậy có đúng không?
Đáp: Không phải nhờ thờ phụng, đi lễ, cúng chùa nhiều mà nhà giàu có, con cháu làm quan to, chức lớn mà chính là nhân quả. Giàu có là nhờ không tham lam trộm cắp, biết san sẻ bố thí cho người bất hạnh, biết giúp đỡ người khốn cùng trong cảnh hoạn nạn v.v... Làm quan là nhờ không sát hại chúng sanh, giúp người thế cô, yếu sức, an ủi chia sẻ nỗi khổ đau của mọi người và giúp người nghèo khó học tập đến nơi đến chốn.
Dân chúng Campuchia cất một ngôi chùa vĩ đại Đế Thiên, Đế Thích (một trong những kỳ quan thế giới) nhưng nước Campuchia có giàu có hơn ai đâu, vẫn lạc hậu nghèo nàn và hung dữ. Nếu nói: “Nhà tôi giàu có là nhờ thờ phụng đến nơi đến chốn, đi lễ cúng chùa nhiều, các con tôi làm toàn chức to, ông lớn” thì nước Campuchia giàu có nhất thế giới. Phải không quý vị?
Người phật tử chưa hiểu luật nhân quả nên tưởng mình thờ phụng và đi lễ chùa nhiều là giàu có làm quan. Nhưng không ngờ đó là một hành động mê tín lạc hậu. Một hành động làm sai đạo đức làm người, bị kinh sách phát triển lừa gạt mà không biết Sự thờ phụng đúng cách như thờ tổ tiên, ông bà và nếu có đạo Phật thì nên thờ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni mà thôi. Thờ nhiều tức là thờ đa thần mê tín.
Thờ ông bà tổ tiên là nhớ nguồn gốc của mình.
Thờ Phật Thích Ca Mâu Ni là nhớ ơn người chỉ dạy con đường giải thoát không làm khổ mình, khổ người, khổ chúng sanh, tạo nên gia đình hạnh phúc, xã hội yên vui và có trật tự.
Thờ Đức Khổng Tử là nhớ ơn người dạy đạo đức tam cương, ngũ thường, nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Mỗi sự thờ cúng của chúng ta đều có ý nghĩa sâu xa và tình cảm sâu sắc của tình người.
Thờ Thần Tài, Chúa Tiên, Chúa Xứ, Bồ Tát, Tứ Đại Thiên Vương, thờ rồng, thờ hổ thì đó là mê tín, thờ cô hồn các đảng cũng là mê tín, thờ cúng đa thần mà không ý nghĩa đạo đức là mê tín. Thờ cúng cho đúng cách là người chánh kiến, thờ cúng không đúng cách là người tà kiến.
Đi chùa lễ bái cúng dường Phật, cúng dường chư Tăng đúng cách là người chánh kiến; đi chùa lễ bái cúng dường không đúng cách là người tà kiến mê tín.
Người tu sĩ đệ tử Phật phải sáng suốt và đừng để những tà sư ngoại đạo của kinh sách phát triển lừa đảo, kinh sách đó dựng lên những giáo lý mang đầy những tư tưởng mê tín tà kiến vào đạo Phật chẳng lợi mình, lợi người mà còn tạo nên một truyền thống mê tín cho dân tộc nước này, nước khác và đời này sang đời khác, từ thế kỉ này đến thế kỉ khác. Những điều đó đã chứng minh cho chúng ta thấy những tư tưởng kinh sách phát triển không tốt đẹp cho các thế hệ từ hai mươi lăm thế kỉ trước đến nay.
28. GIẢI HẠN
Hỏi: Kính thưa Thầy, ở khu vực con có một gia đình, không hiểu đi xem ở đâu có ông thầy bảo: tháng năm bị một cái hạn phải nằm bệnh viện thập tử nhất sinh. Đến tháng mươi một cũng bị sao hạn như vậy nữa. Gia đình này sợ quá mời thầy ấy đến cúng sao giải hạn. Thưa Thầy như thế có giải hạn được không?
Cũng ở khu vực con, có gia đình đó nghe được như vậy rất ân hận là vì bố chị ta ốm nặng phải nằm bệnh viện, mẹ chị không chịu mời thầy cúng sao giải hạn nên bố chị phải nằm bệnh viện khổ sở. Xin Thầy vui lòng giải tỏa cho chúng con những điều thắc mắc trên đây, chúng con xin được tri ân công đức.
Đáp: Như con đã biết: luật nhân quả, ai làm ác thì phải thọ lấy quả khổ, ai làm thiện thì sẽ hưởng phước báo. Không thể có Thánh thần, chư Phật, chư Bồ Tát hoặc sao hạn nào cứu khổ hoặc giải hạn cho các con được. Như trong sách ngoại đạo dạy người nào gặp sao La Hầu, Kế Đô, Thái Bạch v.v... Vào tháng giêng, tháng ba, tháng bảy, tháng chín, tháng năm, tháng mười một thì sẽ gặp tai nạn hoặc bệnh tật thập tử nhất sinh.
Loại kinh sách này là loại kinh sách phi đạo đức, dạy người làm điều mê tín lạc hậu. Làm sao cúng bái sao hạn mà giải hạn tai ách được? Nếu giải hạn tai ách được thì thế gian này còn gì là công bằng công lý? Kẻ làm ác cứ việc cầu cúng nhiều thì tiêu tai giải hạn không còn khổ đau nữa và họ tha hồ làm ác, giết hại người vô tội được sao?
Một người bị bệnh tật khổ đau hoặc tai nạn đâu phải ngẫu nhiên mà có, chính do hành động bất thiện làm khổ kẻ khác, loài vật khác mà phải trả quả. Do hành động làm ác của mình, thời tiết nhân duyên đủ thì phải thọ quả khổ chứ đâu phải có ai làm cho họ khổ mà phải cầu cạnh kẻ khác giải hạn, giải khổ cho. Những loại kinh sách mê tín do những kẻ gian xảo viết ra, lừa đảo người khác để làm tiền một cách bất chính. Người hiểu luật nhân quả thì những ông thầy cúng sao giải hạn không lừa đảo được. Ngược lại, không hiểu luật nhân quả dễ bị kẻ khác lừa đảo bằng nhiều hình thức mê tín khác nhau.
Quý phật tử là đệ tử của Phật phải sáng suốt đừng để những tà sư ngoại đạo đội lốt tu sĩ Phật giáo làm mất uy tín Phật giáo, hãy chỉ thẳng cho mọi người biết không ai giải hạn tiêu tai, tiêu nạn mà chính tự mình giải nó, nghĩa là mình đừng làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh khác thì chẳng có tai nạn gì xảy ra thì cần phải giải hạn.
Quý phật tử hãy tu tập tâm bất động trước các pháp, tâm bất động trước các pháp thì không ai lừa đảo quý vị được và quý vị sẽ không còn bị ảnh hưởng mê tín của những tà sư ngoại đạo bịa ra sao hạn.
Muốn tiêu tai giải hạn thì quý phật tử hãy nghe Đức Phật dạy: “Các pháp ác chớ làm, nên làm các pháp thiện”. Nếu người nào nghe lời Phật dạy như vậy mà sống thì người ấy sẽ tiêu tai giải hạn tất cả, cuộc sống không còn đau khổ nữa.
29. TRIỆU LINH, TIẾP LINH
Hỏi: Kính thưa Thầy, lúc lâm chung, theo chúng con nghĩ, vong linh vẫn còn trong nhà, khi mời thầy cúng đến làm lễ phải triệu vong tiếp vong rồi mới tụng kinh. Như vậy có đúng không thưa Thầy?
Đáp: Theo đạo Phật khi một người chết tức là thân tứ đại tan rã, mà thân tứ đại tan rã thì thân ngũ uẩn cũng không còn sót một thứ gì, nghĩa là tất cả đều hoại diệt sạch, không có vong linh và thần thức nào còn, chỉ còn lại hành động thiện ác, tức là “nghiệp lực” và nghiệp lực tiếp tục tái sanh luân hồi.
Cho nên đối với đạo Phật không có triệu linh và tiếp linh, vì có linh hồn đâu mà triệu và tiếp. Cái không có người ta tưởng ra cho có thì đó là mù quáng vô minh không hiểu biết. Người phật tử không nên nghe theo lời dạy vô minh này.
Tất cả thế giới hữu hình có con người và vạn vật cỏ cây, đất đá, núi sông, dưới đôi mắt của Đức Phật chỉ là những cảnh huyễn giả, những cảnh tưởng tri không có thật. Cảnh hữu hình còn như vậy thì cái thế giới vô hình làm sao có thật được mà cầu mà cúng, mà triệu linh, tiếp linh. Phải không quý vị?
Nếu thế gian này có thật thì phải có một vật hằng còn. Nhưng dòng lịch sử của loài người chưa chứng minh có một vật gì hằng còn, tất cả đều hoại diệt theo thời gian năm tháng. Cho nên, những việc làm của các nhà phát triển kinh sách Bà La Môn là việc làm mê tín dị đoan, lừa đảo con người.
Vậy chúng ta là những phật tử đệ tử của Phật mà lại đi nghe và làm theo những lời dạy không đúng sự thật thì chúng ta có xứng đáng là đệ tử của Phật nữa không? Người tín đồ của Phật giáo không nên nghe và làm theo những việc mê tín dị đoan, ngu si để bị người khác lừa đảo thì quá dại dột.
30. LINH HỒN BÁO MỘNG
Hỏi: Kính thưa Thầy, trong thời gian từ lúc mới chết đến bốn mươi chín ngày, người trong nhà thường hay nằm mộng thấy người chết về. Vậy có phải linh hồn người chết về báo mộng hay không?
Đáp: Trong nhà có người mới chết, không những 49 ngày mà còn nói rằng có thể đến khi mãn tang hai năm vẫn còn nằm mộng thấy người chết. Đó không phải linh hồn về báo mộng mà chính tưởng ấm của người thân trong gia đình nằm mộng biến hiện ra hình ảnh người chết.
Vì tình cảm thương nhớ người mất nên tưởng ấm xuất hiện giấc mộng để khiến cho ngươi thân thỏa tình nhớ thương chứ không có linh hồn nào cả. Giấc mộng do tưởng thức hoạt động mà thành, nó thể hiện tình cảm, tâm lý và sự ước ao của người sống đối với người chết. Người thân, thương nhớ người quá cố thì nằm mơ thấy người chết về.
Ước mong nằm mộng thấy thành tựu điều ao ước như: trúng vé số, giao cảm nằm mộng thấy sự việc hoặc tai nạn xảy đến đều có đúng như thật. Đó là tưởng giao cảm biến thành mộng báo trước (trực giác qua mộng), trực giác qua thân (máy mắt, hồi hộp tim đập), trực giác qua tâm (tâm lo lắng nghĩ ngợi, bứt rứt).
Nói về mộng thì quý phật tử đừng nghĩ rằng có linh hồn người chết mà hãy biết đó là tưởng thức tự tạo ra bối cảnh theo tâm lý, tình cảm của con người rồi nó tự hiện, chủ khách đều là nó cả.
Trong thân ngũ uẩn nó là tưởng uẩn, còn gọi về thức thì nó gọi là tưởng thức; còn gọi về dục thì nó gọi là tưởng dục; còn gọi về vô minh nó được gọi là vô minh tưởng; còn gọi về trí tuệ thì nó gọi là tưởng tuệ; còn gọi về tri kiến thì nó gọi là tưởng kiến; còn gọi về tri thì nó gọi là tưởng tri; còn gọi về năng lực thì nó là tưởng lực.
Cho nên tưởng uẩn nó có rất nhiều tên khác nhau, khi nó ở phận sự nào thì nó có một cái tên rất xứng hợp. Vì thế sự hoạt động của nó cũng không lường. Tóm lại linh hồn không có, chỉ có tưởng thức biến hiện ra khiến cho mọi người chưa có trí vô hạn lầm chấp “có sự sống sau khi chết”.
31. TẠO ĐIỀU THIỆN CHO NGƯỜI CHẾT
Hỏi: Kính thưa Thầy, trong nhà có người chết, mọi người đều làm điều thiện, cố hồi hướng cho người chết để được siêu thoát. Thưa Thầy người chết có được siêu thoát không?
Đáp: Theo luật nhân quả ai làm thiện sẽ hưởng được phước chứ không thể người khác làm thiện mà mình được hưởng phước. Được phước như vậy là không công bằng, vì công bằng thì phải tự người đó làm điều thiện thì người đó hưởng. Nên Đức Phật dạy: “Các con tự thắp đuốc lên mà đi, ta không đi thay cho các con được.”
Lời dạy như vậy tức là đứng trên đạo lý công bằng của nhân quả. Mọi người muốn thoát khổ thì phải tự mình làm điều thiện chứ không ai làm điều thiện giúp cho mình được.
Như vậy các phật tử đã biết, nếu mình làm điều ác thì tâm mình phải chịu khổ, còn người khác làm điều thiện mà tâm mình hết khổ sao được. Chỉ có tự mình làm điều thiện thì tâm mình mới hết khổ.
Cho nên, có làm điều thiện để hồi hướng cho người chết thì người chết vẫn thọ khổ, mà người sống làm điều thiện thì người sống hưởng, còn người chết thì không hưởng gì cả.
Đức Phật dạy trên con đường giải thoát ấy phải độc bộ, độc trình, không ai đi thế cho ai được. Cũng như cha mẹ đau bệnh, đứa con có thương cha mẹ cách gì cũng không đau thế cho cha mẹ được. Ngược lại, cha mẹ cũng vậy, dù thương con cách mấy cũng không thay thế sự đau khổ của con được.
Đó là định luật công bằng của nhân quả mà không ai có thể chuyển hóa nghiệp của kẻ khác được. Chỉ có mình làm thiện và ước muốn cho những người thân còn sống hay đã chết, để họ đủ duyên làm thiện, sống thiện, thì sự ước muốn đó có thể thực hiện được, dù là người kia đã chết nhiều năm.
32. SỐNG CHẲNG CHO ĂN, CHẾT LÀM VĂN TẾ RUỒI
Hỏi: Kính thưa Thầy, lúc cha mẹ còn sống không phụng dưỡng, đến khi cha mẹ chết làm ma chay thật to để lấy tiếng ở đời thì có nghĩa lý gì. Thưa Thầy phải không?
Đáp: Lúc cha mẹ con sống phải lo phụng dưỡng để đền đáp ơn sinh thành dưỡng dục. Lúc cha mẹ chết chỉ làm ma chay đơn giản, giữ gìn sự im lặng trong những ngày mất mẹ, mất cha, nhớ đến công lao mẹ cha lo làm ăn nuôi con lớn khôn nên người hữu dụng cho xã hội. Công ơn ấy rất lớn không thể lấy gì sánh được. Cha mẹ chết mà làm ma chay linh đình là báo hiếu hình thức, làm như thế là để che mắt thế gian.
Đạo Phật dạy chúng ta làm những điều chân thật; sống thích trầm lặng đơn giản (thiểu dục tri túc); chết an táng đơn giản rồi đem thiêu đốt, không cần quan quách sang trọng, không cần nhạc lễ, cúng bái tụng niệm, chỉ cần giữ vệ sinh chung đừng để ô nhiễm môi trường sống.
Vì thân tứ đại do đất, nước, gió, lửa hợp thành, chết thì đất, nước, gió, lửa trở về đất, nước, gió, lửa, có vật gì quý báu đâu mà để 5, 7 ngày, để lâu càng làm mất vệ sinh gây môi trường sống ô nhiễm, khiến mình khổ người khác khổ.
Đức Phật nhìn thân tứ đại là một pháp vô thường, bất tịnh, không có gì đáng quý và lưu giữ nên khi chết đem thiêu đốt bỏ. Đức Phật và các đệ tử của Ngài khi chết đều đem thiêu đốt bỏ.
Trong khi ấy các nhà Phật giáo phát triển theo giáo pháp phong tục Tây Tạng, Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản khi chết tìm mọi cách để lại nhục thân. Đó là một hình thức quí trọng thân, luôn luôn lúc nào cũng muốn giữ lại bằng mọi cách (ướp xác).
Có lần về thăm miền Bắc, chúng tôi có đến thăm nhục thân của Vũ Khắc Minh và Vũ Khắc Trường, đó là hai bộ xác khô do định tưởng hoặc do khéo ướp xác bằng một loại thuốc uống vào trước khi chết.
Phật giáo Tây Tạng muốn giữ xác thân phải móc bỏ ruột gan rồi mới ướp xác chết bằng thuốc. Trung Quốc và Việt Nam thì lại ướp xác bằng chất thuốc đặc biệt hơn, trước khi chết chỉ cần uống thuốc vào là xác thân không hôi thối như trên đã nói.
Gần đây, Trung Quốc và Việt Nam khai quật một số mồ mả cổ và đã nhận được rất nhiều nhục thân, toàn là cung nữ, quan chức vua chúa như trong báo Nguyệt san Giác ngộ số 35 “Di ấn Phật giáo trong nền văn hóa mộ táng cổ ở Nhật”. Bài báo viết: “Năm 1963-1965 vô tình các nhà khảo cổ đã khai quật được xác ướp của vua Lê Dục Tông từ thời Lê Trịnh, xác còn nguyên như vua còn đang an tịnh giấc nồng.”
“Huyện Đông Anh ngoại thành Hà Nội vô tình nhà máy thuốc lá đào được hai cái xác của hai vũ nữ đời nhà Lê. Xác ướp của bà Phan Thị Nguyên Chân vợ thượng thư trụ quốc Đặng Đình, tướng thời Lê Trịnh ở Phủ Lý, Hà Nam vào năm 1968.” “Tại Xóm Củi quận 8 thành phố Hồ Chí Minh đã khai quật lăng mộ Bà Nguyễn Thị ..., thi thể còn nguyên vẹn, thậm chí còn rất đẹp, cơ bắp còn co duỗi được. Các nhà y học đã cấy vào cơ thể bà nhiều lít nước thuốc dẫn dần hết dưới da thịt như chúng ta tưởng ở bệnh viện vậy.”
Gần đây như xác ướp Bác Hồ vẫn giữ nguyên vẹn như nằm ngủ. Chúng tôi đi đến đám tang vị bí thư tỉnh Tây Ninh, xác được tẩm liệm trong một quan tài bằng kính từ khi chết đến giờ phút đi an táng xác vẫn như người ngủ không thấy hôi thối sình trương chảy nước vàng như các đám tang của dân sự.
Qua những nhục thân của quan vua và các thiền sư để lại thì chúng tôi có một xác định rõ ràng: Nếu một vị thiền sư muốn giữ xác thân của mình mà không cần phải ướp thuốc thì thiền sư ấy phải nhập Diệt Thọ Tưởng định. Từ trường của diệt thọ tưởng định bảo vệ thân xác không có một vật gì xâm thực phá hoại cơ thể được nên xương cốt và da thịt luôn luôn tươi nhuận như người còn đang sống (chứ không phải như bộ xương khô Vũ Khắc Minh và Vũ Khắc Trường ở Thường Tín, Hà Nội).
Báo chí có đăng tin bên Đài Loan người ta đã khai quật mộ của một vị sư được an táng trong một cái lu và cơ thể còn nguyên vẹn, không phải như bộ xương khô của nhục thân của Vũ Khắc Minh và Vũ Khắc Trường ở Việt Nam. Qua báo chí, tin tức, đài, chúng tôi có nhận được nhiều tin tức về nhục thân. Đến khi xem các bộ nhục thân này chúng tôi chẳng thấy có từ trường thiền định nào chung quanh nhục thân ấy. Do đó chúng tôi xác định những nhục thân này được để lại có nhiều cách ướp xác, hoặc để khô giữ không cho nước gió xâm thực thì cơ thể vẫn còn nguyên vẹn.
Tóm lại, Đức Phật nhìn cơ thể con người là một hợp duyên không có thật, bất tịnh và uế trược nên chết là thiêu đốt không có giữ lại, không coi nó là một vật quý báu. Vì thế khi Đức Phật và các đệ tử của Ngài nhập diệt đều thiêu đốt, không có vị nào để lại nhục thân.
Huyền thoại Ngài Ca Diếp ôm y bát vào núi Kê Túc nhập Diệt Thọ Tưởng định để chờ Phật Di Lặc ra đời trao y bát cho. Đó là một câu chuyện bịa đặt của các Tổ sau này. Đức Phật nhìn các pháp trong thế gian này là vô thường nên Ngài đâu có cần gì mà trao y bát, chỉ có di chúc: “Nên lấy giới luật và giáo pháp của Ta làm thầy mà tu hành.”
Đời người khổ vì luôn chấp mọi thứ: chấp thân, chấp tâm, chấp pháp, chấp hình thức để mà chịu khổ với những lầm chấp đó. “Sống chẳng cho ăn, chết làm văn tế ruồi.” Đó cũng là một lầm chấp về hình thức của kinh sách phát triển.
Từ những sự việc đó, Phật giáo do kinh sách phát triển triển khai thêu dệt ca ngợi những nhục thân và xá lợi do tu tập thiền định mới có. Còn người không tu tập thì chẳng bao giờ có. Đó là các nhà Bà La Môn phát triển kinh sách lấy vải thưa che mắt mọi người. Nhưng không ngờ ngày nay có những đoàn khoa học khảo cổ về sử học đã lật tẩy sự lừa đảo này. Những ngôi cổ mộ đã được khai quật để nghiên cứu, xác chứng kinh sách phát triển và kinh sách Thiền Tông không còn là một chứng tích thiền định mà là một sự lừa đảo gian xảo.
Cho nên có những bài tán tụng ma chay do các Tổ biên soạn ra để hành nghề mê tín lừa đảo người, như ngày nay chúng ta đã thấy khắp nơi. Sự lừa đảo này chỉ gạt những người không hiểu, chứ những người đã am hiểu Phật giáo chân chánh thì không thể gạt họ được.
Hầu hết lối tụng niệm ma chay của kinh sách phát triển đều là lối lừa đảo che mắt thế gian chứ chẳng có ích lợi gì mà còn làm cho người sống hao tổn tiền của và vất vả trong những ngày ma chay, cúng tế. Cầu siêu mà chẳng có linh hồn thì lấy cái gì mà siêu? Thấu rõ được như vậy mới thấy Phật giáo phát triển là một giáo pháp vay mượn của mọi tôn giáo và phong tục mê tín của con người để thỏa mãn sự không hiểu của những người đang sống trong tưởng tri.
33. “CHẾT” LÀ MỘT SỰ NỐI TIẾP
CỦA LUẬT NHÂN QUẢ VÔ THƯỜNG
Hỏi: Kính thưa Thầy, bên kia cõi chết, tử thần đã cướp đi người bạn đời của con, hiện nay đời sống bỗng trở thành vô vị, cuộc đời đầy tẻ nhạt, chán chường, hạnh phúc đã mất đi không bao giờ trở lại. Người ấy đã đi xa đi mất, số phận duyên nợ chỉ có thế thôi. Nhưng có lúc con cầu mong cho họ được bình an, nhưng con lại thấy có cái gì không ổn đối với họ. Thân tứ đại này do đất, nước, gió, lửa hợp lại rồi tan đi; đó là số phận phải không thưa Thầy? Xin Thầy chỉ cho con biết.
Đáp: Không có sự sống sau khi chết mà chỉ có sự nối tiếp của luật nhân quả. Với trí hữu hạn của con người không thể hiểu thấu được sự tiếp nối của định luật nhân quả luân hồi nên thấy có sanh và có tử. Sự thực sanh tử là một diễn biến của luật nhân quả, xác định sự vô thường của các pháp trong thế gian này.
Các pháp trong thế gian này đều chịu luật vô thường, sanh diệt của nhân quả. Vì thế, không có pháp nào trong thế gian này ra khỏi sự chi phối của luật nhân quả, nên các pháp thường sanh diệt theo chu kỳ tuần tự của định luật và mỗi pháp phải chịu sự biến dịch.
Người bạn đời của con gặp nhau trong duyên nhân quả để trả vay, vay trả. Khi vay trả xong thì phải theo định luật nhân quả tiếp tục trả vay sự việc khác. Con không thấu hiểu điều đó nên tạo thêm nhân quả thương nhớ ràng rịt và trói buộc, không phải trói buộc với nhân quả của người đã mất mà trói buộc với nhân quả tương ưng.
Lòng thương nhớ của con sẽ gặp nhân quả tương ưng với lòng thương nhớ đó để mà trả vay, vay trả. Còn nhân quả kia (người bạn đời của con) thì đã trả vay xong thì không còn tương ưng với con nữa. Cho nên con quá không hiểu và điên đảo đã thương nhớ một nhân quả để rồi phải gặt lấy một nhân quả khác đang trói buộc (kiết sử) để kiếp sống đời đời chẳng bao giờ thoát ra khỏi biển khổ sanh tử luân hồi.
Con muốn tu hành giải thoát thì hãy đoạn dứt sợi dây ái kiết sử này. Sợi dây ái kiết sử này là con đường tiếp tục sanh tử luân hồi đầy đau khổ mãi mãi. Tình cảm của con người là một sợi dây rất khó bứt, nếu không thấu suốt được luật nhân quả thì không bao giờ đoạn sạch được “ái kiết sử”.
Người tu theo đạo Phật thấy ái kiết sử như là thấy một con rắn độc, nó từng đem đến nọc độc khổ đau cho loài người. Con là một con người đang bị nọc độc của ái kiết sử.
Một người vợ khóc chồng, một người chồng thương vợ là ái kiết sử; một người mẹ thương con, một người con thương mẹ là ái kiết sử. Nói chung tất cả các tình cảm thương yêu nhau là ái kiết sử.
Người nào đã bi lụy vì tình cảm yêu thương ấy, trong đạo Phật gọi là đã bị nọc độc rắn nhân quả cắn. Kẻ nào đoạn dứt được nọc độc này là kẻ đó làm chủ rắn độc nhân quả. Nếu không làm chủ được nhân quả thì đời đời kiếp kiếp ta sẽ bị nọc độc rắn nhân quả làm cho ta sống trong cảnh khổ đau triền miên, bất tận, không những trong một đời mà nhiều đời nhiều kiếp.
Con cần phải thấu suốt luật nhân quả để không còn buồn khổ vô ích. Trong luật nhân quả khi một người mất đi thì chỉ còn nghiệp lực của nhân quả tiếp tục tái sanh luân hồi, và người bạn đời của con đâu còn cái gì gọi là người bạn của con nữa. Thế nên, sự thương nhớ của con chỉ là nhớ lại một hình bóng ảo tưởng của con trong kí ức mà thôi. Cũng như hiện giờ trong kiếp sống này con có bao giờ nghĩ đến thương người bạn đời trong kiếp quá khứ của mình chăng? Chắc điều đó không bao giờ có phải không con?
Cũng như người bạn đời của con đã chết thì trong kiếp khác họ đâu có còn nhân quả để mà nhớ đến con nữa. Trong họ chỉ biết kiếp hiện tại của họ mà thôi. Cũng như con bây giờ vậy, chỉ có không thông hiểu, điên dại đi khóc nhân quả.
Nhân quả có nghĩa lý gì đâu? Nó chỉ là những hành động của con rắn độc ái kiết sử, nó đã làm khổ loài người trên hành tinh này khiến cho nước mắt của con người còn nhiều hơn nước biển. Trên hành tinh này duy nhất chỉ có đạo Phật mới dạy con người về lý nhân quả, không có một giáo phái nào mà dạy chúng ta làm chủ như vậy được.
Con đủ phước duyên tu tập hãy dứt sạch ái kiết sử đó đi, đừng thương vay khóc mướn nhân quả, chẳng có ích gì mà tự con đã làm khổ lấy mình.