Giới Đức Làm Người

GIỚI ĐỨC LÀM NGƯỜI CẦN NÊN HỌC

 

Sách của Trưởng Lão Thích Thông Lạc chỉ kính biếu, không bán!

Quý phật tử hay bạn đọc nào có nhu cầu thỉnh sách, xin vui lòng liên hệ ban kinh sách của TU VIỆN CHƠN NHƯ:

ĐT:066.3892911 (Tu viện Chơn Như)

0988094445  (Hà Nội)

Email:  chonnhu2@gmail.com kinhsach.chonnhu@gmail.com

Web: www.chonnhu.net

Pháp Âm: www.youtube.com/tuvienchonnhu

Giới Đức Làm Người Tập 1

LỜI NÓI ĐẦU

Lời nói đầu

Một trăm giới chúng học nghĩa là gì?

Một trăm giới chúng học có tên là “Thức Xoa Ca La Ni”, cũng có chỗ gọi “Thi Xoa Kế Loại Ni”, nghĩa là cần nên học.

Một trăm giới chúng học này còn gọi là giới thủ (giới giữ gìn oai nghi tế hạnh), tội nó rất nhẹ và vi tế, giữ gìn rất khó nên cần phải học cho kỹ, và phải cố gắng giữ gìn hết sức, mới giữ được, nó là hành động đạo đức của con người. Nếu ai giữ trọn nó, người ấy là người có đạo đức xứng đáng làm người, làm đệ tử Phật.

Tội nó phạm không nặng, nên các vị tỳ kheo xem thường, phần nhiều không chịu để tâm học cho kỹ và quán xét oai nghi tế hạnh đạo đức của mình xem có phạm một trong những giới luật này hay không?

Như trên đã nói, giới luật này khó giữ, tội thì nhẹ, thoảng như có phạm, tâm phải ăn năn, gắng nhớ mà học, không được để cho phạm nữa. Vì vi phạm giới này làm mất oai nghi tế hạnh tức là đức hạnh làm người, làm một vị tỳ kheo. Làm người mà đức hạnh không có, thì làm sao gọi là làm người; làm người không xứng đáng làm người thì làm sao xứng đáng là vị tỳ kheo đệ tử của Đức Phật cho được.

Nếu ai thấy vị tỳ kheo nào phạm tội này, không nên kết tội mà chỉ khuyên răn,”cần nên học” kỹ lại một trăm giới này, để thực hiện đạo đức làm người cho trọn vẹn.

Một trăm giới chúng học này không nói rõ tên tội, nhưng phạm mà do sự cố tâm hoặc là vô tâm. Cố tâm thì phạm tội Đột cát la, phi oai nghi (thiếu đạo đức), tức là mất oai nghi tế hạnh của vị tỳ kheo (vị tỳ kheo không có đạo đức), phải sám hối, trước đại chúng để chừa bỏ, không còn tái phạm lại, còn nếu không cố tâm thì phạm tội Đột các la trơn, thì khỏi phải sám hối trước chúng, nhưng phải biết tự trách mình và cố gắng khắc phục không còn tái phạm nữa thì mới hết tội.

Một trăm giới chúng học này là đạo đức làm người, là oai nghi tế hạnh của một vị tỳ kheo, là hành động giới hạnh của người tu sĩ đệ tử của Phật. Vì thế, giới luật này được Đức Phật chế ra dạy chúng tỳ kheo lần đầu tiên trước khi hoàn thành bộ giới luật. Nếu chúng tỳ kheo có đầy đủ oai nghi tế hạnh, mới xứng đáng là đệ tử của mình và mới trở thành là những bậc danh Tăng, thạc đức, chân tu giải thoát của Đạo Phật.

Sau này các Tổ biên soạn Luật Tạng, đặt một trăm giới chúng học này ra sau. Đây là lỗi thứ nhất của các Tổ viết, soạn về luật tạng đầu tiên của Phật, các Ngài đã tự ý làm sai ý Phật, giới luật trước dời ra sau, giới luật sau dời ra trước, làm theo ý của các Tổ mà không thấy ý Phật dạy: đạo đức làm người đi trước rồi mới thực hiện đạo đức làm bậc Thánh Tăng. Các Tổ lấy giới trọng để trước, giới khinh để sau. “Một trăm giới chúng học này, đối với năm thiên giới luật kia thì nó tội nhẹ hơn hết nên đặt nó ở sau”. Căn cứ vào tội nặng nhẹ và luận như vậy, nên các Tổ đã xem thường một trăm giới luật này. Vì thế, dựa theo ý của các Tổ xưa mà những vị Tỳ Kheo Tăng và Tỳ Kheo Ni sau này đều vi phạm và cũng ít có ai học tập về giới luật này, nếu có học những giời này cũng chỉ học cho biết mà thôi.

Nhưng phải hiểu ý Phật, một trăm giới này rất quan trọng và căn bản cho người mới tu về đạo đức làm người và đạo đức làm Thánh Nhân. Những giới luật này rất cần thiết về việc xả tâm “vô lậu” để đạt đến sự cứu cánh giải thoát hoàn toàn trong đường lối tu tập của Đạo Phật.

Một trăm giới chúng học này kết tội không nặng như trên đã dạy, nhưng phải biết nó rất quan trọng cho người tu sĩ cũng như người cư sĩ “lập đức hạnh không làm khổ mình khổ người”, để đem lại một đời sống thanh thản an lạc cho nhau trên quả đất này. Một vị tỳ kheo thiếu oai nghi tế hạnh của một trăm giới luật này thì được xem là tà sư, ngoại đạo, không phải là đệ tử của Phật, là đệ tử của Ma.

Những hành động một trăm giới luật này là những hành động của con người có đạo đức, và của các bậc Thánh Tăng, chứ không phải những hành động của kẻ phàm phu tục tử. Tuy tội nó không nặng, giữ gìn rất khó, nhưng nó rất quan trọng cho sự tu tập nhập Bốn Thánh Định và thực hiện Tam Minh.

Biết thế, nên Phật đã chế ra và dạy cho chúng tỳ kheo trước tiên, như trên đã nói. Nhưng các Tổ không hiểu, cho nó tội nhẹ không quan trọng và xem thường, vì thế đó là một lầm lỗi rất lớn của các Tổ, để lại cho người đời sau đã mất đường lối tu hành giải thoát. Do đó tu sĩ đời sau đều mất oai nghi tế hạnh, không còn giữ đạo đức đúng cách như các bậc Thánh Tăng trong thời Đức Phật còn tại thế.

Một trăm giới chúng học này, nếu một vị Tỳ Kheo Tăng và Tỳ Kheo Ni xem thường nó, thì oai nghi tế hạnh và đạo đức của một người tu sĩ sẽ không còn nữa. Đi, đứng, nằm, ngồi, mặc y, mang bát, vào làng khất thực, ăn, uống, nói, nín, làm tất cả các hành động, v.v… đều thiếu đạo đức, thường làm “trò cười” cho những người hiểu biết đạo đức, và họ khinh bỉ, chê bai Phật Giáo.

Trong một trăm giới chúng học này, các vị tỳ kheo không giữ gìn nghiêm chỉnh, thường oai nghi tế hạnh thô tháo, mọi người nhìn vào dễ nhận thấy hành động thiếu đức hạnh của người tu sĩ Đạo Phật, nên đánh giá trị và khinh chê Đạo Phật không có đạo đức và thiếu tổ chức. Vì thế, nhất là giới trí thức, người không tôn giáo và các tôn giáo khác, họ không kính trọng giới tu sĩ Phật Giáo, chỉ ngoài mặt xã giao mà thôi.

Bởi vậy, đã không đi tu theo Đạo Phật thì thôi, mà đã đi tu thì phải hết sức thận trọng, giữ gìn một trăm giới chúng học này, để làm sáng tỏ Phật Giáo, Một trăm giới chúng học này giúp cho tu sĩ “Tăng phải ra Tăng, Ni phải ra Ni, cư sĩ phải ra cư sĩ”, không được lộn xộn Tăng, Ni lẫn lộn như người thế tục, gần gũi bừa bãi, thiếu đức hạnh của người tu, dần dần biến chư Tăng, Ni thành trùng trong lông sư tử, thành Ma Vương và thành tà sư, ngoại đạo, v.v...

Ngày nay, Phật Giáo không những ở Việt Nam, mà ở các nước khắp năm châu bốn biển. Đạo đức và oai nghi tế hạnh của các vị tỳ kheo Tăng và tỳ kheo Ni đang trên đà xuống dốc và sa đọa. Giới luật không còn nghiêm chỉnh, tu sĩ phần đông, gần như hầu hết, giới trọng và giới khinh đều vi phạm, thầy lớn, thầy nhỏ, không có thầy nào không vi phạm. Các thầy cứ tưởng mình đang ly dục lạc và ly ác pháp, nhưng nào ngờ lại chạy theo dục lạc và còn đang đắm chìm, say mê trong dục lạc triền miên mà không biết. Cứ luôn luôn lý luận theo kiểu Đại Thừa và Thiền Đông Độ, để che đậy tội lỗi của mình và lừa đảo tín đồ, cũng như những người khác.

Vì thế, những người đứng ngoài vòng Phật Giáo đã thấy Phật Pháp suy đồi đến đỗi thậm tệ, như dòng thác nước đổ xuống, không sao ngăn lại được. Tu sĩ Đạo Phật ngày nay không còn biết xấu hổ, ngang nhiên ăn thịt chúng sanh và uống rượu giữa đám đông người, xem như giới luật không có nữa. Tu sĩ Phật Giáo hiện giờ đang bị thế tục hóa, dần dần mất bản chất tôn giáo, chỉ còn lại hình thức đầu tròn và chiếc áo cà sa.

Các vị tỳ kheo ngày nay đua nhau dịch kinh, viết sách, tưởng giải ra viết quá nhiều, làm sai lệch giáo pháp của Đức Phật. Có kẻ dám cắt xén lời Phật dạy, cũng có khi dám thêm thắt theo ý của mình vào, nhưng lại cũng có kẻ dám lấy sự mê tín dân gian biến thành giáo pháp của Phật, để kinh doanh làm giàu trên mồ hôi nước mắt của kẻ khác, rất là ác độc, làm mất ý nghĩa giáo pháp giải thoát của Đạo Phật.

Đây, quý vị dọc bài kệ của Đức Phật mà các Tổ đã cắt bớt hai câu để biểu dương tinh thần chống lại Phật Giáo, bằng cách mạo nhận Đức Phật đã dạy:

“Thiên thượng, thiên hạ,

Duy ngã độc tôn,

Nhất thiết thế gian,

Sanh, lão, bịnh, tử”.

Bỏ hai câu cuối, lấy hai câu đầu, để chỉ cho “Phật tánh”, làm sai lệch nghĩa lý bài kệ của Đức Phật, mà còn phản lại tông chỉ đường lối tu hành của Phật Giáo.

Bài kệ của Đức Phật là để xác định sự tu hành của Ngài, khi đã hoàn thành con đường giải thoát làm chủ bốn sự đau khổ của kiếp người: sanh, già, bịnh, chết.

Các Tổ còn cả gan dám viết kinh sách “Tâm kinh bát nhã” bài bác chơn lý của Đạo Phật: “Vô khổ, tập, diệt, đạo”. Một chơn lý bất di bất dịch, từ khi Đức Phật ra đời, triển khai đến giờ, với thời gian và không gian nhiều thay đổi, nhưng chơn lý này không hề thay đổi được, dù các Tổ muốn xóa bỏ nó, nhưng nó là chơn lý chỉ rõ kiếp sống của con người thật sự khổ là như vậy. Với ý đồ tiêu diệt Phật Giáo, các Tổ đã truyền dạy trong các chùa khóa nhật tụng hằng ngày, không lúc nào mà không tụng niệm những câu này: “Vô khổ, tập, diệt, đạo”. Nhưng làm sao phá được, mãi đến giờ nó vẫn là chơn lý. Đó là những điều các Tổ đã làm tội lỗi, đối với Đạo Phật và với tín đồ Phật Giáo, nên thảo nào các Tổ phải chịu khổ đau trước giờ phút viên tịch, những cơn bịnh hiểm nghèo.

Gần đây, có các bậc tôn túc đã giảng sai kinh sách phát triển Phật Giáo Đại Thừa như: Giảng Bát Nhã Tâm Kinh, câu“Viễn ly điên đảo, mộng tưởng, cứu kính, niết bàn”, thay vì nghĩa của kinh này dạy là viễn ly bốn điều kiện:

1- Điên đảo.

2- Mộng tưởng.

3- Cứu kính.

4- Niết bàn.

Nhà học giả lại giảng: Chỉ viễn ly điên đảo, mộng tưởng để đạt được cứu kính và niết bàn. Giảng như vậy không đúng nghĩa của Bát Nhã Tâm Kinh.

Gần đây nhất, thế kỷ thứ hai mươi có một vị học giả, luận về Bốn Thánh Định của Phật, đã dám thêm bớt lời Phật dạy: “Sơ thiền lìa ngũ dục được hỷ lạc”, câu này vị học giả tự đặt ra chứ trong kinh không có dạy như vậy. Kinh dạy: “Ly dục ly ác pháp nhập Sơ Thiền, do ly dục sanh hỷ lạc có tầm có tứ”. Ngũ dục và dục có nghĩa không giống nhau. “Ngũ dục” là đối tượng của tâm dục, còn “Dục” trong kinh Phật dạy là “lòng ham muốn”, tâm dục của con người. Trong Tứ Diệu Thánh Đế Đức Phật đã xác định: “Dục” là nguyên nhân sanh ra muôn thứ khổ.

Nhà học agiả thêm vào chữ “Ngũ” đã làm mất ý nghĩa của kinh Phật, chứng tỏ nhà học giả chưa hiểu về Bốn Thiền của Đạo Phật. Trong kinh Phật dạy “ly dục” chớ không phải “ly ngũ dục”, tức là nhà học giả bịa ra dạy như vậy làm sai lệch ý kinh sách của Phật. Do đó người đời sau tu hành chẳng đến nơi đến chốn, vì hiểu sai, nên tu sai.

Kinh A-Hàm là kinh Nguyên Thủy, nằm trong Hán Tạng của Đại Thừa Phật Giáo, nên các Tổ soạn dịch thêm bớt rất nhiều, và nhất là bộ kinh Tăng Nhất A Hàm, một bộ kinh làm gạch nối giữa kinh Nguyên Thủy và kinh Phát Triển, để dìm giáo lý Phật Giáo Nguyên Thủy xuống hàng Tiểu Thừa, khiến cho người đời sau đọc kinh sách này xem thường, và cho là kinh sách ngoại đạo nên không bao giờ tu hành theo đó.

Ví dụ: Ăn là một dục lạc trong ngũ dục lạc. Sắc, danh, lợi, thực, thùy là năm thứ dục lạc. Người đang ăn cảm thấy có dục hỷ lạc, nên thích ăn, nếu không có dục hỷ lạc thì họ không thích ăn.

Vậy một tu sĩ ly dục “Ăn”, chỉ ăn ngày một bữa để sống, thì đâu có hỷ dục lạc bằng người ăn ba bữa phải không?

Chắc hẳn là không có rồi. Nhà học giả nói: “Lìa ngũ dục được hỷ lạc”. Vậy thực tế mà nói, ăn ngày một bữa không có hỷ lạc, chỉ có nỗi khổ trong tâm của mình mà thôi, vì muốn ăn mà không dám ăn; vì muốn ngủ mà không dám ngủ; vì thấy sắc đẹp phụ nữ muốn nhìn mà không dám nhìn; vì muốn danh mà không dám nhận danh; vì muốn lợi mà không dám nhận lợi. Đó là nỗi khổ của tâm ham muốn của người ly ngũ dục, ly ngũ dục tức làm khổ tâm mình, làm khổ tâm mình, đó là một điều không ai chối cãi được, một bằng chứng hiển nhiên. Vậy mà nhà học giả dạy ly ngũ dục được hỷ lạc, là được hỷ lạc chỗ nào?

Kế tiếp, nhà học giả cắt và bỏ mất, “Ly ác pháp” trong câu kinh Phật, để làm mất ý nghĩa lời Phật dạy. “Ác pháp” tức là tâm tham, sân, si. Trong kinh dạy: “Tâm lìa ác pháp”, tức là tâm lìa tham, sân, si; tâm lìa tham, sân, si tức là tâm nhập “Sơ Thiền”. Sơ Thiền do “tâm ly dục” nên sanh hỷ lạc. “Dục” là lòng ham muốn, mà lìa lòng ham muốn và tham, sân, si thì người ấy có giải thoát không? Có hạnh phúc không? Có hỷ lạc không? Xin quý vị cứ thành thật mà trả lời, đúng thì nói đúng, sai thì nói sai, đừng thiên vị nhà học giả cũng đừng thiên vị chúng tôi. Thế mà, ở đây, nhập Bốn Thiền nhà học giả nói không giải thoát, thì quý vị nghĩ sao? Có đúng không? Chỉ có nhập Sơ Thiền mà chúng tôi đã thấy giải thoát nơi tâm hồn của mình một cách rất cụ thể và rõ ràng, huống là nhập luôn cả Bốn Thiền thì phải nói làm chủ sanh, già, bịnh, chết một cách dễ dàng, chứ đâu như Sơ Thiền chỉ làm chủ được tâm mà thôi.

Thưa quý vị, trong kinh Tứ Thánh Đế Phật dạy: “Dục” là nguyên nhân sanh ra muôn thứ khổ của loài người, nên gọi là Tập Đế, Tập Đế là nơi tập trung các thứ khổ. Nhưng khi đã ly được tâm dục đó thì nỗi khổ của con người đã thoát chưa?

Chính “Diệt Đế” là diệt hết tâm ái dục, tức là diệt hết dục, diệt hết dục tức là Niết Bàn. Vậy Niết Bàn có giải thoát không? Đã nói Niết Bàn mà không giải thoát sao?

Vì thế, kinh điển Nguyên Thủy Phật dạy rất rõ ràng: “Sơ Thiền chỉ có ly dục ly ác pháp”. Nếu ai thực hành tu tập được như vậy thì chắc chắn phải có giải thoát. Đối với Đạo Phật đâu cần phải tu nhiều, chỉ cần tu tập nhập được “Sơ Thiền” thì hành giả cũng thấy được tâm hồn giải thoát rõ ràng và cụ thể. Cho nên Đức Phật đã dạy: “Pháp của Ta đến để mà thấy, không có thời gian”.

Thế mà, nhà học giả bảo rằng: “Đức Phật tu một thời liền chứng được Bốn Thiền, xét lại kết quả chưa giải đáp được ba nghi vấn ôm ấp đã lâu”.

Thưa quý vị! Bốn loại thiền này là loại thiền gì đây? Nhà học giả nói rằng: “Ngài A La Ra Ka La Ma đã dạy Đức Phật tu nhập được bốn thiền này mà không thấy giải thoát nên Đức Phật bỏ”. Lời dạy này chúng tôi không thấy trong các bộ kinh A Hàm và kinh Nguyên Thủy Nikaya.

Trong khi đó, kinh điển Nguyên Thủy Phật dạy rất rõ, về Bốn loại thiền định này còn có những tên gọi khác nhau là: “Tứ Thánh Định, Định Lực, Thánh Trú, Phạm Trú, Như Lai Trú, v.v...”

Trong kinh A Hàm và kinh Nikaya, Ngài A La Ra Ca La Ma dạy Đức Phật tu và nhập được “Vô Sở Hữu Xứ Định”, và Ngài Uddka Ramaputta dạy Đức Phật nhập “Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Định”. Khi nhập xong hai thứ định này, Đức Phật xét lại tâm mình không thấy có sự giải thoát, nên lìa bỏ hai vị thầy đã tận tình dạy bảo mình. Hai vị thầy này không có dạy Đức Phật nhập Bốn Thiền Hữu Sắc, và cũng không có dạy nhập Không Vô Biên Xứ Định, Thức Vô Biên Xứ Định, nhưng các nhà học giả đã lầm tưởng, khi đã nhập được Vô Sở Hữu Xứ Định và Phi Tưởng Thi Phi Tưởng Xứ Định” là phải nhập được Bốn Thiền Hữu Sắc và Không Vô Biên Xứ, Thức Vô Biên Xứ Định.

Các nhà học giả hiểu như vậy không đúng, tức là các nhà học giả chưa bao giờ biết nhập định như thế nào, đó là nói theo kiểu “dốt”. Mỗi thứ thiền đều có sự nhập vào khác nhau. Cho nên trong Tứ Như Ý Túc, Đức Phật đã xác định rõ ràng: “Định Như Ý Túc”, nghĩa là muốn nhập định nào thì nhập ngay định ấy, chớ không phải nhập từ định thấp rồi đến định cao hơn.

Vì vậy, khi nhập Sơ Thiền, không phải ở trạng thái Sơ Thiền mà nhập lên Nhị Thiền được, phải xả Sơ Thiền rồi mới nhập Nhị Thiền; xả Nhị Thiền rồi mới nhập Tam Thiền; xả Tam Thiền rồi mới nhập Tứ Thiền; xả Tứ Thiền rồi mới nhập Không Vô Biên Xứ; xả Không Vô Biên Xứ rồi mới nhập Thức Vô Biên Xứ; xả Thức Vô Biên Xứ rồi mới nhập Vô Sở Hữu Xứ; xả Vô Sở Hữu Xứ rồi mới nhập Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ. Đó là sự nhập định tuần tự ở trong kinh, chớ không phải dạy nhập định như vậy. Các nhà học giả không có thực hành nên không hiểu rõ, tưởng phải nhập định tuần tự như vậy theo kiểu học trò lên từng lớp một.

Người có kinh nghiệm thiền định, tức là người đã nhập được các loại thiền định, thì biết cách nhập định rất rõ và dạy người nhập thiền định dễ dàng không có khó khăn, nhưng người đệ tử phải làm đúng theo lời dạy.

Ví dụ, hành giả muốn nhập ngay Tứ Thiền, thì không cần phải dạy nhập Nhị Thiền, Tam Thiền rồi mới dạy nhập Tứ Thiền, chỉ cần hành giả sống đúng giới luật, thiểu dục tri túc, ba y một bát, hoàn toàn giữ hạnh “Độc Cư” và hướng tâm tịnh chỉ hơi thở là nhập ngay liền Tứ Thiền. Muốn nhập loại thiền nào thì chỉ cần hướng tâm tịnh chỉ ngay thiền định đó là nhập ngay.

Như vậy, rõ ràng Đức Phật nhập Vô Sở Hữu Xứ và Phi Tưởng Phi Phi Tường Xứ Định thì không có tu tập nhập Tứ Thánh Định, nên không thể nào nhập được, trong bài kinh Saccaka đã xác định rất rõ ràng, xin quý vị đọc lại bài kinh đó. Tứ Thánh Định thuộc về thiền hữu sắc, còn bốn định tưởng thuộc về thiền vô sắc (thiền tưởng), nên hai loại thiền định này cách thức tu tập khác nhau. chứ không phải như các Tổ đã nghĩ: “Nhập Bốn thiền hữu sắc rồi mới nhập đến Bốn định vô sắc”, hiểu như vậy không đúng, tức là đọc qua kinh sách của các Tổ thì chúng ta biết các Tổ không có kinh nghiệm về thiền định. Trong bài kinh Tiểu Không thuộc kinh Trung Bộ Nikaya, Phật dạy nhập Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Định không có giải thoát, phải nhập vào “Vô Tướng Tâm Định” thì dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu mới diệt sạch, lúc bấy giờ mới có sự giải thoát thật sự.

Vô Tướng Tâm Định là một tên khác của Sơ Thiền, tức là ly dục ly ác pháp, mà đã ly dục ly ác pháp thì tâm bất động, Tâm bất động tức là Bất động tâm định; Bất Động Tâm Định tức là Vô Tướng Tâm Định. Như vậy, dù có nhập Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Định thì cũng phải nhập lại Sơ Thiền.

Theo như lời dạy của vị học giả ở trên, thì không biết vị học giả đã tìm những lời dạy này ở đâu ra, nếu không có trong kinh sách, mà vì một danh dự riêng tư, bịa đặt ra lời dạy ấy, làm lệch ý nghĩa Giáo Pháp chơn chánh của Đức Phật thì rất tội cho Phật Giáo.

Trong kinh sách Nguyên Thủy Nikaya, Đức Phật đã xác định rất rõ ràng:

1- Sơ Thiền thì tâm được giải thoát vì đã ly dục ly bất thiện pháp.

2- Nhị Thiền thì khép kín sáu thức nên tầm tứ tịnh chỉ, tức là sáu thức ngưng hoạt động, tâm hoàn toàn nhập định.

3- Tam Thiền đóng kín tưởng thức nên các loại hỷ tưởng đều xả (gọi là ly hỷ trú xả), tức là xả mộng (hết chiêm bao).

4- Tứ Thiền tịnh chỉ hơi thở làm chủ sự sống chết, tức là xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh, tức là tâm định trên thân, thân định trên tâm.

Xét trong bốn thiền định này, chúng ta thấy rất rõ ràng, tương ứng với bốn câu kệ của Đức Phật:

“Trên trời dưới trời

Ta người duy nhất

Khắp trong thế gian

Vượt ra:

Sanh, già, bịnh, chết”.

Mỗi loại thiền định này chỉ định sự làm chủ của bốn sự khổ của kiếp người như:

1- Sơ Thiền làm chủ cuộc sống (sanh), thuộc về tâm.

2- Nhị Thiền làm chủ sự vô thường (già), thuộc về thân.

3- Tam Thiền làm chủ tưởng (bịnh), thuộc về thọ.

4- Tứ Thiền làm chủ hơi thở (tử), thuộc về pháp.

Qua kinh nghiệm tu hành của chúng tôi, xét thấy nhà học giả xác định bốn thiền tu hành không giải thoát là sai, không đúng lời dạy trong kinh Nguyên Thủy Nikaya.

Những bậc tôn túc, Hòa Thượng, Thượng Tọa có cấp bằng tiến sĩ Phật học, nhưng không có thực hành tu tập đến nơi đến chốn, nên dịch sai nghĩa kinh, thường soạn, viết, luận, giảng làm lệch nghĩa lý giáo pháp của Phật. Những bậc Thầy Tổ có trình độ học thức cao đã được truyền thừa cho nhau những kiến giải lệch lạc, nên đã chịu ảnh hưởng những sai lầm đó đối với giáo lý của Đạo Phật. Còn bây giờ những người mới học lem nhem mà dám dịch, viết kinh sách Phật, họ xem địa ngục như không có.

Trong kinh giới Đức Phật đã dạy: “Kẻ nào đã làm lệch hoặc làm sai nghĩa lý kinh, tức là phỉ báng Phật Pháp, thì phạm tội Ba Dật Đề, tội đọa địa ngục”.

Cho nên, các Hòa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức Tăng, Ni phải cảnh giác, coi chừng khi dịch, viết, giảng kinh điển Phật, đừng làm lệch sai nghĩa lý của Phật dạy, nếu làm sai lệch nghĩa lý của Phật, thì quý vị phải gánh chịu hậu quả “địa ngục”, mà không thể trốn đâu khỏi.

Những gương các bậc tôn túc Hòa Thượng, Thượng Tọa, trước khi chết một hai năm, phải chịu hành hạ xác thân, những bịnh khổ tột cùng, ỉa đái một chỗ, ăn uống phải có người đút, giống như trẻ con, đau nhức và hôn mê bất tỉnh, tay chân run rẩy, chịu hôi chịu thúi chính của mình. Đó không phải là các Ngài đang sống trong cảnh địa ngục sao? Mà quý vị Phật tử ai cũng biết những vị Hòa Thượng này, đều là những bậc cao Tăng trong Giáo Hội Phật Giáo, tên tuổi trong tín đồ đều lừng danh.

Cắt xén, thêm bớt làm lệch nghĩa lý kinh, để gây tạo uy tín đường lối dạy đạo của mình, hòng để thỏa thích danh lợi thế gian, mà hầu hết mọi người không để ý cái sai, cái đúng của Phật Pháp, chỉ biết tin theo Thầy Tổ của mình mà không thấy những cái sai của Thầy Tổ. Đừng bảo rằng: “Xưa bày nay làm”, hay là “Tổ Tổ truyền nhau không được làm sai”, đó là những sự ngu si và u mê. Ví dụ: khi ông cha của chúng ta đã làm nghề ăn trộm, ăn cướp, giết người hoặc lường gạt người khác, mà bây giờ chúng ta là con cháu vẫn làm theo những nghề nghiệp gian ác đó sao? Biết cái sai, làm những điều tội ác của người xưa bịa đặt ra pháp này pháp kia, thế giới này, thế giới khác, tu chứng cái này, tu chứng cái kia, để lừa đảo lường gạt mọi người còn lạc hậu, mê tín, chưa đủ trí tuệ thông minh quán xét vạn pháp trong thế gian. Bây giờ chúng ta đã biết rất rõ những điều tội lỗi đó mà chúng ta còn nỡ tâm lừa đảo lường gạt người khác nữa sao?

Vả lại, trong thời đại này (năm 1998), ít có người tu chứng pháp của Phật, nên khó có ai hiểu rõ nghĩa lý Phật dạy như thế nào. Và vì thế mà các nhà học giả cứ việc soạn, viết, dịch và giảng, theo sự hiểu biết nông cạn của mình và giẫm lại lối mòn của người xưa. Họ nói bậy nói bạ, miễn luận có lý, là người ta tin theo, tin theo như vậy tức là tin mù quáng, tin trong ngu si, u tối.

Bởi thế, tu sĩ Đạo Phật hiện giờ đã giết chết Đạo Phật, mà họ tưởng là cải cách Đạo Phật (phái tân tăng ở Nhật Bổn, Thiền Tông, Tịnh Độ Tông, Mật Tông, Pháp Hoa Tông).

Tịnh Độ Tông đã biến Phật Giáo thành Thần Giáo, vị tỳ kheo có vợ con như một người cư sĩ Bà La Môn, họ sống làm mọi nghề như người thế tục, ăn thịt, uống rượu say sưa giấc mả, nằm đường, ngủ bụi, ăn quán, ngồi lều, đụng đâu ngồi đó, chẳng có chút hổ thẹn; lại còn được Giáo Hội tấn phong Hòa Thượng, Thượng Tọa, v.v... thật là, nhìn cảnh tượng này đau lòng cho Phật Giáo.

Tịnh Độ Tông đã biến Phật Giáo thành một tôn giáo mê tín, chuyên cúng bái tụng niệm, cầu siêu, cầu an, lên đồng, nhập xác, xưng ông này, bà kia, Phật, Tổ, Quan Thánh Đế Quân, v.v... thường đốt tiền vàng mã, quần áo kho đụn, và còn làm nhiều điều mê tín dị đoan khác nữa.

Tịnh Độ Tông xây dựng một thế giới siêu hình có cõi Cực Lạc Tây Phương, làm mất ý nghĩa chân thật của Đạo Phật. Riêng Phật Giáo xây dựng một cảnh giới Niết Bàn cụ thể và thực tế, không có trừu tượng, mơ hồ như cõi Cực Lạc Tây Phương. Cho nên trong Bốn Thánh Đế, “Diệt đế” là cảnh giới Niết Bàn của chư Phật, diệt đế tức là diệt cái nguyên nhân sanh ra muôn thứ đau khổ của con người. Cảnh giới Niết Bàn là một trạng thái tâm hồn không có tâm ham muốn và ác pháp đau khổ, chớ không có cảnh giới siêu hình nào cả ở trên thế gian này.

Vậy mà người sau này bịa đặt ra cảnh giới Cực Lạc Tây Phương, để đưa con người đi đến chỗ mê tín lạc hậu, chuyên cúng bái, cầu khẩn, làm những việc vô ích, hao tài tốn của, chẳng lợi mình, lợi người.

Pháp Hoa Tông đã biến Phật Giáo thành một tôn giáo phi đạo đức, khiến mọi người làm tội ác tày trời mà vẫn có đức “Bồ Tát Quan Thế Âm” phò hộ. Được xem đây là một giáo phái ngoại đạo đả phá nền đạo đức nhân quả của Đạo Phật tận cùng, khiến cho nền đạo đức của Đạo Phật đã diệt mất, hiện giờ hỏi đến đạo đức của Đạo Phật thì không còn ai biết đến.

Mật Tông biến Phật Giáo thành một tôn giáo linh thiêng, huyền bí, độc ác, chuyên niệm chú, yểm bùa, làm bao nhiêu người tang tóc, mua bùa chuộc chú để làm mê hoặc người khác, có những kẻ nhẹ dạ, non lòng ham mê thần thông bất chánh, bỏ vợ, bỏ con, bỏ cả công ăn việc làm, để đi theo Mật Tông dùng bùa chú làm những điều ác đức, lấy vợ người, cướp tiền, cướp bạc kẻ khác, làm những điều tồi tệ, tội lỗi, tạo biết bao nhiêu tội ác trong thế gian này, chính đều do Mật Tông mà ra cả.

Mật Tông Tây Tạng còn lắm nhiều điều thần biến, khiến cho con người trên hành tinh nầy mê mệt; nào là biến hóa tàng hình; nào là để lại nhục thân; nào là tái sanh luân hồi nhớ lại tiền kiếp của mình; nào là biết chuyện quá khứ vị lai, v.v... Nhưng nhìn lại Đạo Phật thì mục đích thật sự là không phải vậy, mục đích thật sự của Đạo Phật là tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ, còn tất cả những vấn đề kia là phụ thuộc, không phải là vấn đề chánh quan trọng hàng đầu của Phật Giáo. Cho nên Đức Phật và các đệ tử của Ngài không ai để lại nhục thân, hoặc thể hiện tái sanh, nhớ lại đời sống đã qua của mình. Tuy rằng Đức Phật và các đệ tử của Ngài đều có thần thông hơn ai hết, nhưng Ngài xem đó là một trò ảo thuật, không có lợi ích thiết thực cho kiếp sống con người.

Thần thông là những trò ảo thuật của “tưởng thức” mà thiên hạ tưởng là thật, nên sanh tâm ham mê chạy theo tìm nó. Xưa Đức Phật không chấp nhận những trò ảo thuật thần thông này, Ngài cấm những đệ tử của mình không được thực hiện thần thông bừa bãi. Phải nói trong tất cả các thời đại, thời nào người ta cũng đều ham mê thần thông, cho đến thời đại khoa học hiện giờ người ta vẫn còn lạc hậu đam mê, dù người có trình độ học thức rất cao, nhưng họ vẫn mù mờ không rõ về thần thông, chỉ vì khoa học chưa chứng minh rõ ràng về thần thông, nên người ta còn sống trong nhiều tưởng thức mơ hồ .

Chính nỗi khổ của mỗi con người còn đang mang nặng trong lòng, chưa giải quyết xong sự khắc khoải đau khổ nhất của kiếp làm người, thế mà người ta không lo sợ, lại đi tìm và ham mê cái không ích lợi gì của thần thông để bị Mật Tông lừa đảo, một cách ngu si và dại dột.

Hiện giờ người ta chú ý thần thông nhiều nhất, nhất là để lại nhục thân (bộ xương khô), người nào để lại bộ xương khô được xem là người đắc thiền định. Thiền định của Đạo Phật không phải vậy, mà chỉ xả tâm dục và ác pháp, nhờ tâm thanh tịnh mới làm chủ sự sống chết, đó là thiền định của Đạo Phật.

Thiền Tông đã biến Phật Giáo thành một tôn giáo “Hữu ngã”, qua hai câu kệ của Phật mà các Tổ Thiền Tông đã khéo cắt xén:

“Thiên thượng, thiên hạ

Duy ngã độc tôn”.

Bài kệ này có bốn câu, Thiền Tông chỉ lấy hai câu đầu, để xây dựng giáo phái Thiền Tông của mình, rồi tự tôn tự đại giáo pháp mình là trên hết, nên gọi là “Tối Thượng Thừa”, không có một tông phái nào hơn được.

Thiến Tông chấp nhận “Phật tánh”, xây dựng một giáo phái hữu ngã vĩ đại, mà hiện giờ tín đồ Phật Giáo đều chịu ảnh hưởng rất nặng: “Tâm tức Phật, Phật tức tâm, hay Tất cả chúng sanh đều có Phật Tánh”. Những câu kinh này đã ăn sâu vào đầu óc của Phật Tử, chớ họ đâu biết rằng, nếu các pháp trong thế gian này chỉ thường còn một chút xíu, thì con người cũng không thoát khổ được. Bởi vì còn có một chút xíu thì còn có “Ngã”, mà còn có ngã thì tu hành không giải thoát được và như thế thì Đạo Phật cũng không ra đời, vì có ra đời thì cũng không giải quyết sự khổ đau của con người được. Do đó, Đạo Phật gọi là Đạo “Vô ngã”.

Các đệ tử của Thiền Tông người nào cũng mang đầy kiến giải và chấp ngã vĩ đại, chẳng bao giờ biết nhường nhịn ai hết, lúc nào cũng tự kiêu, cho tôn giáo của mình là trên hết, Phật Tánh là một pháp môn tuyệt đối nhất trong thế gian này, không có pháp môn nào hơn được “Pháp mà vô pháp”.

Ngược lại tông chỉ của Thiền Tông, Đạo Phật là đạo “Vô ngã”, cho nên những gì đường lối Thiền Tông dạy là không đúng đường lối Phật Giáo dạy. Thiền Tông biến thành một Phật Giáo mới, một Phật Giáo chấp ngã, kiêu căng tự đắc, lúc nào cũng thích tranh luận (nói nhiều), không đúng tánh hạnh trầm lặng, ít nói của một tu sĩ Phật Giáo.

Tánh cách của một thiền sư Đông Độ là la, hét, đánh, thuyết giảng lung tung, dịch, viết kinh sách rất nhiều, tuy rằng đã nói: “Giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tư” nhưng các Ngài thường sống không đi đôi với lời nói, thiền sư nào cũng để lại văn thơ quá nhiều, chỉ có Đức Phật, Ngài không để lại cho đời một cuốn kinh nào cả.

Đạo Phật không nói mà hành, Thiền Tông tri hành không hợp nhất. Vì thế, Phật Giáo và Thiền Tông không giống nhau. Thiền Đông Độ thì ức chế tâm rơi vào các định tưởng, phát triển tuệ tuởng. Ngược lại, thiền định của Đạo Phật thì xả tâm tham, sân, si nên làm chủ sự sống chết, chấm dứt luân hồi, tri hành nhất quán .

Trên đây, các vị Tổ Sư thiền Đông Độ trong quá khứ, cho đến các bậc tôn túc trong hiện tại đã dịch, viết, giảng, giẫm lại lối mòn của người xưa, làm sai ý nghĩa Phật Pháp, họ tưởng việc làm của mình như vậy là đúng, không ngờ lại thành ra phỉ báng Phật Pháp. Vì vậy từ xưa đến giờ, các Ngài thuờng phải chịu thọ khổ trong cảnh địa ngục, mà trong giới luật Phật đã xác định tội danh rõ ràng.

Các Ngài do chỗ tu hành chưa đến nơi, đến chốn, bị tưởng giải nên phỉ báng Phật Pháp, do đó không trốn khỏi cảnh khổ đau của địa ngục tại trần gian trước khi viên tịch.

Các Ngài đọa địa ngục tại thế gian này, để cho mọi người trông thấy cảnh bịnh tật, khổ đau tận cùng của các Ngài, để quý vị chứng kiến Thầy Tổ của mình trước khi viên tịch như thế nào? Chắc điều này quý vị đã rõ hơn ai hết.

Xét Thầy Tổ và các bậc tôn túc của chúng ta, đó là một điều nhắc nhở và cảnh giác cho tất cả Tăng, Ni và các cư sĩ để tự răn mình, khi viết dịch kinh sách, cái nào hiểu rõ thì viết, không hiểu thì đừng, “làm ẩu thì vi phạm giới luật của Phật phải chịu thọ khổ muôn kiếp”.

Người tu sĩ phạm tội “Ba Dật Đề” là do dịch viết giảng sai ý kinh, là tự mình đã phỉ báng Phật Pháp và còn khiến cho mọi người hiểu sai Phật Pháp. Vì vậy, hiện giờ tín đồ Phật Giáo đang hiểu sai kinh điển Phật Giáo, thế nên mọi người tu mãi mà chẳng tới đâu, tu mãi trở thành những người mê tín, dị đoan, khiến cho người ngoài đời khinh chê Phật Giáo là một tôn giáo mê tín, một tôn giáo bị thế tục hóa, một tôn giáo lừa đảo, v.v...

Tăng, Ni và cư sĩ đừng nên xem thường giới luật của Phật, ăn uống phi thời, ngồi lều, ngồi quán, nam nữ chung chạ, Tăng, Ni gần gũi, đi đứng nói nín oai nghi tế hạnh chẳng có, cười nói đùa cợt không đúng cách, đó là phạm giới. Tăng, Ni và cư sĩ mà đã phạm giới thì khiến cho người đời chê bai Phật Giáo. Tất cả những lỗi này Tăng Ni phải gánh chịu, nhiều đời nhiều kiếp đọa địa ngục và còn tái sanh làm thân súc sanh. Do thế, tất cả giới luật của Phật rất quan trọng đối với Tăng Ni, khi đã cắt ái ly gia, xuất gia học đạo, thì phải hết sức dè dặt cẩn thận giữ gìn giới luật, mới không tội lỗi.

Một trăm giới chúng học gồm có những oai nghi tế hạnh của một vị tỳ kheo Tăng cũng như tỳ kheo Ni, được chia ra mười giai đoạn thực hành đạo đức làm người cho đúng nghĩa, và những việc cần phải làm cho rõ ràng trong sanh hoạt cuộc sống hằng ngày. Vì vậy cần phải cố gắng giữ gìn nghiêm chỉnh những giới luật này:

1- Phải ăn mặc tề chỉnh.

2- Đi vào làng phải nghiêm trang.

3- Ngồi đứng phải đúng cách của một vị tỳ kheo.

4- Ăn uống phải nghiêm trang tề chỉnh.

5- Phải khéo giữ gìn bát ăn nhẹ nhàng, khoan thai.

6- Đại tiểu tiện phải đúng cách.

7- Thuyết pháp phải đúng nơi, đúng đối tượng, đúng chỗ.

8- Đắp tượng, xây tháp đúng pháp.

9- Đi đường phải đúng pháp.

10- Trèo cây phải biết đúng pháp.

Do từ các giới luật giữ gìn và tu tập nghiêm túc, thì tâm mới ly dục ly ác pháp. Có ly dục ly ác pháp, thì hành giả mới có giải thoát khổ đau của kiếp người; có ly dục ly ác pháp, thì hành giả mới nhập được các định sâu hơn. Nếu không ly dục ly ác pháp, thì thiền định chỉ là thiền tà, thiền đầu môi chót lưỡi mà thôi. Ly dục ly ác pháp do từ giới luật sanh ra, nếu không giữ gìn và tu tập giới luật thì chẳng bao giờ có ly dục ly ác pháp được. Vậy thì người tu sĩ Đạo Phật phải hết sức giữ gìn giới luật nghiêm túc, có giữ gìn giới luật nghiêm túc, tức là có phòng hộ sáu căn và giữ gìn thân mạng của mình được an ổn, để tiến bước trên lộ trình giải thoát của Đạo Phật mà không bị ma chướng, nghịch cảnh ám hại hay lỡ dở đường tu.

Việc biên soạn giới luật Phật hiện giờ có nhiều điều phức tạp, do người xưa thêm bớt và bẻ vụn giới để quý vị tỳ kheo Tăng và tỳ kheo Ni vi phạm mà người khác không ai dám chỉ trích, phê phán, nên việc biên soạn chắc chắc phải có sự sai sót, mong quý vị giới đức cao minh hoan hỷ bổ chính những chỗ sai sót ấy, để lần tái bản sau sẽ được sửa lại hoàn chỉnh hơn, xin chân thành tri ân.

Bộ kinh giới này được đến tay quý vị, mong quý vị cảm thông nỗi khoắc khoải của người viết, chỉ mong sao nó đem lại cho quý vị một đạo đức làm nguời, một phạm hạnh của một vị tỳ kheo Tăng, tỳ kheo Ni, và một đức hạnh Thánh thiện của những bậc chân tu tìm cầu sự giải thoát, để mãi mãi làm sáng tỏ lại Phật Giáo muôn đời.

Kính ghi

Trưởng Lão Thích Thông Lạc


 

SƯ TỬ

Bọ chét trong lông sư tử sẽ giết sư tử chết. Những vị tỳ kheo phạm giới, phá giới, bẻ vụn giới luật của Phật, họ cũng giống như bọ chét trong lông sư tử, và sẽ diệt Đạo Phật. Một bằng chứng cụ thể là những tu sĩ Phật giáo hiện giờ, dù Nam Tông hay Bắc Tông, đều dựa theo kinh sách kiến giải thầy tổ của họ mà sửa đổi giới luật, làm cho giới luật mất tính chất nguyên thủy. Hiện giờ họ phạm giới, chà đạp lên giới luật Phật mà không biết, vì thế cuộc đời tu hành của họ chẳng làm chủ sinh, già, bệnh, chết chỉ uổng phí một đời tu hành mà thôi.

CHƯƠNG I: ĂN MẶC TỀ CHỈNH

Có 6 giới

(Từ giới thứ 1 đến giới thứ 6)

 

Giới thứ nhất: MẶC QUẦN ÁO CHĂN PHẢI TỀ CHỈNH

Vị tỳ kheo khi mặc chăn hoặc quần, không được để ống cao, ống thấp, hoặc xăn, guộn làm cho ống quần cũn cỡn, chăn cũng vậy, không được xắn quá cao, không được quá thấp.

Người ăn mặc xốc xếch, nhìn vào biết ngay là người lôi thôi; người lôi thôi là người thiếu đức hạnh về đời sống cá nhân cũng như về đời sống chung với mọi người, nhất là cách thức ăn mặc; cách thức ăn mặc không đúng đắn thì cách thức ăn nói cũng không chừng mực, dáng đi không đằm thắm, nhẹ nhàng, khoan thai. Người cư sĩ ăn mặc lôi thôi, xốc xếch, người ta nhìn thấy còn khinh chê thay, huống là vị tỳ kheo Tăng và tỳ kheo Ni (tu sĩ đệ tử của Đức Phật), nếu một người tu sĩ mặc quần ống cao, ống thấp thì còn ra vẻ gì là một tu sĩ nữa.

Nhìn người tu sĩ như vậy, còn giá trị gì là một tu sĩ nghiêm trang đạo hạnh của Phật Giáo. Do thế, Đức Phật chế giới luật này để dạy cho chúng tỳ kheo Tăng, tỳ kheo Ni và nam nữ cư sĩ phải luôn luôn giữ gìn oai nghi tế hạnh, lúc mặc quần, chăn, y, áo phải tề chỉnh, nghiêm trang, không được nút trên gài khuy dưới, nút dưới gài khuy trên, quần, chăn cũng phải mặc ngay ngắn, đàng hoàng, v.v...

Nhìn một vị tỳ kheo ăn mặc xốc xếch, lôi thôi thì mọi người khinh chê và xem thường Đạo Phật. Bằng ngược lại ăn mặc quá chải chuốt, thì người ta cũng xem thường vị tỳ kheo còn tâm ham thích đời, nên còn thích trang điểm làm đẹp, làm dáng. Và vì vậy, họ cũng sẽ đánh giá trị tu sĩ thấp kém.

Quý vị đã cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất gia, sống không nhà cửa, không gia đình, thì quý vị tự nghĩ: Quý vị còn có những gì nữa đâu của thế tục, thế mà quý vị không giữ trọn oai nghi tế hạnh đạo đức của một bậc Thánh Tăng, Thánh Ni, để chứng tỏ quý vị đã là người giải thoát ra khỏi kiếp làm người đầy khổ đau trong biển luân hồi sanh tử. Bởi vậy, quý vị phải cẩn thận dè dặt những oai nghi tế hạnh đạo đức trong khi ăn mặc của mình, nếu quý vị ăn mặc xốc xếch, lôi thôi, là quý vị đã bôi nhọ cho Phật Giáo, quý vị đừng bắt chước Tế Điên Hòa Thượng và Phật Sống Cựu Kim Sơn, đó là hai nhân vật ngoại đạo đội lớp tu sĩ Phật Giáo, phá oai nghi tế hạnh giới luật đạo đức của Đạo Phật, khiến cho người đời sau bắt chước, phá giới luật và xem thường oai nghi tế hạnh đạo đức của một vị tỳ kheo đệ tử Phật, và cũng vì vậy mà người tu theo Đạo Phật đời sau này chẳng có ai giải thoát được.

Muốn cho Đạo Phật được trường tồn, thì quý vị tỳ kheo Tăng và tỳ kheo Ni phải giữ gìn oai nghi tế hạnh hẳn hòi. Ăn, mặc, nói, năng phải có khuôn phép nghiêm trang, chững chạc, đàng hoàng. Đừng bắt chước những kẻ phạm giới luật, bán đứng Phật Giáo, khiến cho Phật Giáo ngày càng suy đồi thì tín đồ Phật Giáo càng đi vào trong đêm tối âm u, trên bước đường tu hành giải thoát không có người hướng dẫn và làm gương hạnh tốt.

Hiện giờ, người ta đi tìm một vị tu sĩ chân tu của Phật Giáo thật là khó khăn và chẳng bao giờ có. Giữa thế kỷ 20, đất nước Việt Nam còn tìm thấy được một vị Sư Tổ Minh Đăng Quang giữ gìn giới hạnh nghiêm túc, ít muốn biết đủ, sống ngày một bữa, lấy hạnh đi xin làm chánh nghiệp. Ngài đã làm sống lại đạo hạnh của một vị tỳ kheo Thánh Tăng trong thời Đức Phật còn tại thế. Ngày nay không còn nữa, phần nhiều toàn là tu sĩ chạy theo danh lợi, ăn uống, và Chùa to, Phật lớn, lấy Phật Giáo kinh doanh, buôn Phật bán Pháp làm giàu trên xương máu của tín đồ Đạo Phật. Thật là, nhìn tu sĩ Phật Giáo hiện giờ, mà chúng ta phải đau lòng trước sự tồn vong của Đạo Phật, mà chẳng biết than thở cùng ai.

Số tu sĩ có học thức ở thành phố, khi ra đường còn ăn mặc tề chỉnh một chút, còn giới tu sĩ ở nông thôn thì ăn mặc rất là lôi thôi, nhiều khi đến chùa gặp thầy trụ trì, ở trần mặc quần đùi, không giống một tu sĩ chút nào, ra đường họ mặc chiếc áo ngắn, thật là không có oai nghi tế hạnh đạo đức gì cả, họ nghĩ rằng sống như vậy là bình đẳng, bình dân, không có giai cấp, tự tại vô ngại. Sự thật không phải vậy, hình ảnh của người tu sĩ Đạo Phật là hình ảnh của một người có đạo đức, làm gương đạo đức sáng cho mọi người soi, chứ không phải là một con người thô lỗ, vô đạo đức như họ nghĩ. Cách thức ăn mặc đàng hoàng, trang nghiêm, tề chỉnh là những hành động đạo đức mà mọi người cần phải học, không riêng cho đệ tử của Đức Phật, như trên chúng tôi đã dạy.

Ăn mặc như thế nào có đạo đức và ăn mặc như thế nào không đạo đức?

Thời nay, nhìn các cô gái ăn mặc hở hang bày da, bày thịt, khiêu dâm gợi dục là các cô gái vô đạo đức; còn những chàng thanh niên ăn mặc để hở ngực hoặc xăn tay áo, hoặc đội kết để mũi ngược sau ót là những chàng thanh niên côn đồ vô đạo đức, nhìn lối ăn mặc chúng ta đánh giá trị được người có đạo đức và người vô đạo đức. Bởi vậy, cách thức ăn mặc là một hành động đạo đức để nâng cao phẩm giá con người, khi nhìn vào người ta kính trọng và yêu mến, không bao giờ dám khinh dễ.

Giới luật Phật dạy đạo đức về tư cách ăn mặc như vậy, mà tu sĩ Phật Giáo lại xem thường những oai nghi tế hạnh đạo đức ăn mặc của mình, để cho người đời không kính nể và xem thường Phật Giáo thì thật là đau lòng.

Một người có giáo dục đạo đức thì không bao giờ ăn mặc lôi thôi mà cũng không ăn mặc quá chải chuốt, xe xua, trang điểm, loè loẹt, chỉ ăn mặc trang nghiêm, sạch sẽ và đơn giản. Người có đạo đức thì phải ăn mặc đàng hoàng, nghiêm trang và tề chỉnh thì mới gọi là người có đạo đức, còn ngược lại là người vô đạo đức.

Đối với Đạo Phật, cách thức ăn mặc là một oai nghi tế hạnh đạo đức không riêng cho giới tu sĩ Phật Giáo, mà cho tất cả những người cư sĩ, cũng như những người không tôn giáo, cần phải học tập và tu sửa lại cách thức ăn mặc của mình cho có đạo đức. Chính đó là những hành động đạo đức của mỗi con người, mà mọi người cần phải chấp nhận và thi hành nghiêm chỉnh, để tự xây dựng cho mình một người công dân đất nước Việt Nam có đạo đức về ăn mặc nghiêm chỉnh. Đừng chạy theo các “mode” Tây Phương, ăn mặc quá lố lăng, diêm dúa, cầu kỳ, v.v... không đúng với tinh thần bình dị của dân tộc Á Đông chúng ta.

Giới thứ hai: MẶC BA Y PHẢI CHỈNH TỀ

Tề chỉnh nghĩa là gì? Thứ nhất, nghĩa là phải bỏ tánh láu táu không nghiêm trang. Thứ hai: Vấn y không thòng xuống qua cánh chỏ bày da thịt trong thân, hay cao quá bắp chân, hoặc thòng xuống một góc như vòi voi, hoặc thòng hai góc trước, hai góc sau vén lên cao, hoặc xếp nhỏ thành lai y.

Tăng khước kỳ tức là áo trùm vai (y trung). Phép mặc, đắp nó, phải chừa trống vai bên tay mặt, đắp qua vai bên tay trái. Khi ở trong thất hoặc trong phòng thì chỉ mặc y tăng khước kỳ và y tăng kỳ chi (cái chăn); khi đi ra ngoài đường hay làm lễ các bậc tôn túc, thì phải mặc đắp thêm y thượng; khi sắm sửa đồ cúng dường hoặc làm những công việc khác thì mặc y tăng khước kỳ và y tăng kỳ chi; khi nào làm phước chú nguyện hoặc thuyết giảng pháp, thì phải đắp y trùm hai vai (y thượng), để thể hiện tướng phước điền.

Khi nào thì hiện tướng phước điền? Và tướng phước điền như thế nào?

Khi được vua mời cúng dường cơm, hoặc đi vào làng khất thực, hoặc lúc ngồi thiền dưới gốc cây, hoặc khi thọ thực, đều phải mặc y thượng. Do đó, mọi người trông thấy một vị tỳ kheo ăn mặc tề chỉnh nghiêm trang, đúng là bậc chân tu giải thoát, có vẻ đầy đủ đạo hạnh, khiến cho mọi người nhìn thấy sanh tâm cung kính và tôn trọng. Đó là chúng ta, những tu sĩ tỳ kheo Tăng và tỳ kheo Ni, đã tạo nhân duyên tốt để dạy đạo đức cung kính và tôn trọng cho người khác, hầu giúp họ hướng về con đường giải thoát của Đạo Phật bằng đức hạnh toàn thiện làm người, làm Thánh Nhân.

Tướng phước điền là tất cả hành động oai nghi tế hạnh đạo đức của một vị tu sĩ mà không có ai dám chê trách được. Người hiện tướng phước điền là người thực hiện lòng từ bi, muốn đem lại lợi ích cho chúng sanh nên thể hiện tướng phước điền đó, để chúng sanh nào có hữu duyên được nhìn thấy và sanh khởi lòng mến phục, cung kính và tôn trọng, nhờ lòng cung kính và tôn trọng đạo hạnh phước điền đó, nên thường sống trong đạo đức nhân quả không làm khổ mình khổ người. Do đó, tâm thường sống trong thanh thản, an lạc và hạnh phúc. Cho nên hành động đạo đức giới luật là ruộng phước của vị tu sĩ đệ tử của Đức Phật thể hiện, để mọi người hữu duyên gieo trồng và cấy gặt mà hưởng phước báu vô lượng nơi đó.

Tóm lại, tướng phước điền là những hành động đạo đức giới luật của Đức Phật đã dạy làm người, làm Thánh Nhân. Ai biết cung kính và tôn trọng đức hạnh đó thì sẽ hưởng phước báu vô lượng vô biên.

Người ăn mặc lôi thôi là người có hành động thiếu đạo đức đối với mình và với người khác. Tại sao vậy?

Vì ăn mặc lôi thôi khiến cho người khác khinh chê mình, đó là thiếu đạo đức với mình; vì ăn mặc lôi thôi đối với người khác là thiếu lòng tôn trọng người khác, xem mọi người xung quanh mình chẳng ra gì. Người có học đạo đức về cách thức ăn mặc là phải biết tôn trọng mình và tôn trọng người khác thì chẳng bao giờ ăn mặc lôi thôi.

Ở ngoài đời người có đạo đức còn không ăn mặc lôi thôi như vậy, huống là chúng ta những tu sĩ đệ tử của Đức Phật thì không thể nào ăn mặc lôi thôi được, phải ăn mặc nghiêm trang, tề chỉnh, đúng phạm hạnh của người tu sĩ, tức là phải nghiêm chỉnh trong oai nghi tế hạnh đạo đức của tất cả giới luật Đức Phật đã dạy.

Nhìn một vị tu sĩ ăn mặc nghiêm trang, tề chỉnh mới xứng đáng làm gương hạnh đạo đức cho tín đồ. Là một vị Thánh Tăng và Thánh Ni thì ăn mặc phải nghiêm trang, tề chỉnh, chứ không lẽ bậc Thánh mà ăn mặc lôi thôi sao? Chúng ta là những tu sĩ Đạo Phật phải giữ gìn nghiêm chỉnh những hành động đạo đức này, để không phụ công ơn dạy bảo của Đức Phật, mà toàn bộ kinh giới dạy về đạo đức của Ngài còn để lại cho chúng ta mãi mãi muôn đời.

Chỉ có bọn tà giáo ngoại đạo, lợi dụng có chút ít thần thông để lừa đảo người, ăn mặc lôi thôi, ăn uống bẩn thỉu làm ra vẻ Bồ Tát giáng lâm, đó là hình ảnh Hàn Sơn, Thập Đắc trong Thiền Tông; Phật sống xuất hiện, ăn mặc dơ bẩn lôi thôi lếch thếch, đó là Tế Điên Hòa Thượng, Phật Sống Cựu Kim Sơn; Di Lặc ra đời, ăn mặc hở hang, bày da hở thịt, phơi bày ngực bụng, trông giống như phụ nữ mang thai, đó là Bố Đại Hòa Thượng và ông Trần Văn Em, Giáo Chủ Thiền Xuất Hồn, v.v...

Tất cả những nhân vật này, toàn là những người vô đạo đức, sống không đúng đức hạnh của Phật Giáo, thường phạm tất cả những giới luật của Phật, không còn một giới luật nào mà không phạm, nhìn những người tu sĩ này thật là đau lòng cho Phật Giáo. Trên đời này còn có mấy ai đã thấy được và cảm thông với chúng tôi những nỗi niềm đau xót tận đáy lòng này hay không?

Giới thứ ba: CHẲNG ĐẶNG LẬT Y TRÁI VÀO NHÀ CƯ SĨ

Lật trái y, nghĩa là lật cái y qua bên vai tay trái hay là vai bên tay mặt, giống như người mặc áo trái.

Y phục trên dưới không nên lật trái hoặc lật qua một bên và còn có nghĩa là không nên mặc bề trái hoặc để lộ bày thân hình, hoặc lật cả hai bên, có khi guộn lại để trên vai, đi cho gọn gàng và mát mẻ, cách thức ăn mặc như vậy đi ngoài đường và đến nhà cư sĩ không đúng oai nghi đạo hạnh của người tu sĩ Phật Giáo.

Giới luật này dạy về đạo đức cách thức ăn mặc phải có đầy đủ oai nghi khi đi ra ngoài đường, hoặc đi vào nhà cư sĩ, hoặc đến Tịnh Xá, hoặc đến Niệm Phật Đường, Nhà Thờ, Thánh Thất, Chùa, Tu Viện, Am, Cốc, v.v... của người khác. Khi đến các nơi đó, tu sĩ cũng như cư sĩ đều cần phải giữ gìn y áo nghiêm trang, tề chỉnh, không được ăn mặc xốc xếch, lôi thôi, guộn lại, và phải kín đáo, không được bày da thịt hở hang.

Cách thức xăn gọn tay áo hoặc ống quần là cách thức của nông dân cày cuốc tay lấm, chân bùn, lao động quanh năm suốt tháng, xăn guộn như vậy cho dễ bề tiện lợi việc lao động ngoài đồng áng, chớ không phải ăn mặc như vậy để đi dạo xóm, dạo làng hoặc đến nhà người này, người kia là không đúng tư cách đạo đức của người bình thường, huống là một người biết tu theo Đạo Phật.

Người đi ngoài đường hoặc đến nhà người khác mà ăn mặc xăn guộn, lôi thôi, xốc xếch như vậy là biết ngay người ấy thiếu đạo đức tư cách về ăn mặc. Đó là những người không biết tôn kính mình và cũng không biết tôn kính người khác, người như vậy là người thiếu giáo dục đạo đức trong một gia đình vô đạo đức. Vậy, chúng ta là những tu sĩ đệ tử của Đức Phật, chúng ta phải ăn mặc sao cho đúng tư cách đạo đức con người, đừng để mang tiếng là những vị tỳ kheo Tăng và những vị tỳ kheo Ni thiếu oai nghi tế hạnh đạo đức, đạo hạnh về ăn mặc làm người và làm Thánh Nhân.

Giới thứ tư: CHẲNG ĐẶNG LẬT Y TRÁI NGỒI NHÀ CƯ SĨ

Khi vào ngồi trong nhà người cư sĩ, cần phải ăn mặc y, áo nghiêm chỉnh cho đúng tư cách của một vị tỳ kheo, y áo phải che kín thân, phải được ngay ngắn, phải được tề chỉnh, nghiêm trang, không xốc xếch, xăn guộn, v.v...

Y áo phải đoan trang, sạch sẽ, mắt phải nhìn xuống chân chánh, không được nhìn ngó láo liên, luôn luôn phải giữ gìn ý tứ và không làm mất vẻ oai nghi tế hạnh đạo đức của một vị tỳ kheo, khiến cho người đời nhìn thấy sanh tâm tín kỉnh, không những cá nhân của vị tu sĩ ấy mà còn tín kỉnh Tam Bảo và tôn trọng Phật Pháp.

Nếu tâm buông lung, các căn không ngay chánh, miệng nói lung tung đủ chuyện, mắt nhìn láo liên, y áo lật bày da thịt, hỉ mũi, khạc nhổ, đụng đâu nhổ đó, không đúng tư cách oai nghi đạo đức của người tu sĩ, không giữ vệ sinh chung cho mình cho người khác, khiến cho mọi người nhìn thấy chê bai và xem thường giới tu sĩ Phật Giáo, không những cá nhân của tu sĩ ấy mà còn khinh chê tất cả các tu sĩ khác. Tục ngữ có câu: “Một người làm xấu cả bọn mang nhơ”. Vì thế, hiện giờ tu sĩ Phật Giáo đi ra đường gặp mọi người, ngoài mặt họ xã giao gọi “thầy, thầy”, nhưng trong tâm họ xem chẳng ra gì, họ khẳng định bọn thầy chùa là bọn lừa đảo, tạo nhiều điều mê tín lường gạt người và còn cắt giá ăn tiền cắt cổ tín đồ Phật Giáo.

Người không giữ gìn oai nghi tế hạnh đạo đức trong giới luật của Đức Phật thì phải chịu tổn phước trên bước đường tu hành và còn phải gánh chịu những hậu quả tai nạn, bịnh tật về sau.

Người ăn mặc y áo trái, đi ngoài đường, hoặc vào làng, cũng như đi đến nhà những người cư sĩ. Đó là người thiếu ý tứ, tức là thiếu tỉnh thức; thiếu tỉnh thức tức là thiếu oai nghi tế hạnh đạo đức của một vị tỳ kheo; vị tỳ kheo thiếu oai nghi tế hạnh đạo đức là vị tỳ kheo phạm giới; vị tỳ kheo phạm giới tức là không có đạo đức, đạo hạnh, là vị tỳ kheo của ngoại đạo.

Nhìn cách thức ăn mặc y áo là biết ngay những tu sĩ ngoại đạo hay tu sĩ Phật Giáo, vì giới luật của Phật đã dạy và xác định rõ ràng: “Thầy tỳ kheo phải ăn mặc đơn giản nhưng rất tề chỉnh, nghiêm trang, đúng đắn, luôn luôn thể hiện tướng phước điền khi đi, đứng, nằm, ngồi, nói, nín, ăn, uống, v.v... để gieo duyên hóa độ chúng sanh”.

Ngược lại, nếu cách thức ăn mặc không đúng như giới luật đã dạy ở trên thì đó là những vị tỳ kheo ngoại đạo của Bà La Môn đang mượn danh là những tỳ kheo tu sĩ Phật Giáo Đại Thừa.

Giới thứ năm: Chẳng đặng y áo quấn cổ đi vào nhà cư sĩ

Khi đi vào nhà cư sĩ không được cầm hai góc y đắp lên vai, hoặc lấy y, áo quấn cổ như khăn quàng, hoặc lấy vạc áo dài phủ lên đầu để che nắng, hoặc lấy y, áo đội trên đầu, đi đường cũng như đi vào nhà cư sĩ. Người tu sĩ cũng như người cư sĩ không được có những hành động thiếu đạo đức lễ độ như vậy.

Hành động cầm hai góc y đắp lên vai, lấy y, áo quấn cổ như khăn quàng, lấy vạc áo dài che đầu như đội mũ mà đi trên đường, cũng như đi vào nhà cư sĩ. Đó là những hành động làm mất oai nghi tế hạnh của một vị tỳ kheo có đạo đức phạm hạnh của một bậc tu hành chân chánh.

Người tu sĩ đệ tử của Đức Phật cần phải lưu ý những oai nghi tế hạnh của giới luật này, nó giúp cho quý vị có những hành động thanh cao, Thánh thiện, cao đẹp và rất lễ độ, không có thô lỗ như kẻ phàm phu tục tử.

Khi đi đường cũng như vào nhà cư sĩ hay đi bất cứ vào nơi nào, cũng phải giữ gìn thận trọng mọi hành động như trong giới luật này đã dạy về tư cách đạo đức lễ độ, khi giao tiếp với mọi người. Nhờ có giữ gìn được như vậy thì chẳng còn ai dám khinh chê Phật Pháp, mọi người sẽ kính trọng và luôn luôn đảnh lễ quý thầy như một vị Phật sống tại thế gian.

Người lấy y, áo che đầu hoặc đội trên đầu hoặc quấn cổ đi đường cũng như đi vào nhà người cư sĩ, là những người thiếu giáo dục đạo đức về ăn mặc và lễ phép. Người không có giáo dục đạo đức lễ độ, đó chỉ là bọn phàm phu tục tử; bọn lưu manh, đá cá, lăn dưa; bọn người trụy lạc, xì ke, ma túy, v.v...

Giới luật này dạy tư cách đi đường hoặc đến nhà những người cư sĩ, Chùa, Am, Thất khác, v.v... thì phải giữ gìn y, áo đúng tư cách ăn mặc của một tu sĩ có đạo đức về lễ độ, nếu không học những giới luật này thì những hành động đạo đức, và những oai nghi tế hạnh của một vị tỳ kheo Tăng và Ni không làm sao biết được, để thực hành cho đúng phạm hạnh của người tu theo Phật Giáo.

Chúng ta rất hữu duyên và may mắn gặp được bộ giới luật dạy về đạo đức ăn mặc và lễ độ làm người, để có một phẩm cách thanh cao của một tâm hồn thanh thản và an lạc trong việc đối xử với nhau trong xã hội loài người mà không còn làm khổ mình khổ người nữa.

Giới thứ sáu: Chẳng đặng y, áo quấn cổ ngồi trong nhà cư sĩ

Khi vị tỳ kheo ở trong nhà người cư sĩ phải đắp y cho tề chỉnh, để bày tỏ tướng phước điền, tức là oai nghi tế hạnh đầy đủ, giới đức nghiêm túc thanh tịnh, thì mới ngồi trong nhà người cư sĩ đúng cách, bằng ngược lại lấy y, áo quấn cổ thì không đúng tư cách lễ độ của một tu sĩ. Nên phải lưu ý khéo léo giữ gìn cẩn thận, không được để mọi người khinh chê Phật Pháp. Nếu vô tình sơ sót một vài hành động thiếu lễ độ về ăn mặc y, áo thì tội rất nặng.

Y, áo quấn cổ ngồi trong nhà người cư sĩ là kẻ du côn, côn đồ, không phải là người tu hành, nhất là người tu sĩ Phật Giáo phải dè dặt cẩn thận những oai nghi tế hạnh này hơn hết, vì y, áo thường hay mặc đắp trong người, không khéo ăn mặc lôi thôi thì lại mang tiếng tu sĩ Phật Giáo là kẻ lưu manh, côn đồ.

Người lấy y, áo quấn cổ đi đứng ngoài đường cũng như ngồi trong nhà người cư sĩ là những người không học đạo đức nên hành động bất lịch sự đối với mình cũng như đối với những người khác, hành động đó là những hành động ngang tàng, bướng bỉnh của bọn lưu manh, mất dạy.

Người tu sĩ Đạo Phật cần phải giữ gìn không để vi phạm giới này, vì vi phạm giới này người tu sĩ sẽ trở thành những người không tốt.

Sáu giới này Phật dạy người tu sĩ phải luôn luôn giữ gìn cách thức ăn mặc nghiêm chỉnh, dù mặc y phấn tảo cũng phải trang nghiêm, khi bước chân ra đường cũng như đến nhà cư sĩ, đều phải thể hiện tướng phước điền để mọi người có hữu duyên gieo trồng phước vô lậu, đó là cách thức hóa độ chúng sanh thực tế và cụ thể bằng hành động đức hạnh của một vị tỳ kheo, hơn là lý thuyết suông ngoài đầu môi chót lưỡi.

Cho nên tất cả tỳ kheo Tăng cũng như tỳ kheo Ni và cư sĩ, cần nên phải học và sống cho dúng sáu oai nghi tế hạnh đạo đức này, để xứng đáng là đệ tử của Đức Phật, và để xứng đáng làm thầy Trời, Người.

GIỚI LUẬT LÀ BỨC TƯỜNG THÀNH KIÊN CỐ

Giới luật là tường thành kiên cố, phòng hộ và bảo vệ sáu căn vững chắc, tiến đến tâm ly dục ly ác pháp một cách dễ dàng, khiến tâm thanh tịnh hoàn toàn giải thoát.

Chương II: ĐI VÀO LÀNG PHẢI NGHIÊM TRANG

Có 12 giới

(từ giới thứ 7 - giới thứ 18)

Giới thứ bảy: CHẲNG ĐẶNG DÙNG MỌI VẬT CHE ĐẦU ĐI VÀO NHÀ CƯ SĨ

Nghĩa là vị tỳ kheo khi đi vào nhà cư sĩ không được lấy y, áo, khăn, lá cây, quạt hoặc bất cứ một vật dụng gì khác đội trên đầu.

Mũ nón đều không được đội vào nhà người cư sĩ, trừ khi bị bịnh đau, gio, mưa, nắng, lạnh, v.v...

Chỉ được đội mũ, khăn ở thất và ở chùa riêng của mình, còn bất cứ nơi đâu, Chùa, Am, Thất, Nhà Thờ, Thánh Thất, Tịnh Xá, Niệm Phật Đường, v.v... đều không được đội đi vào.

Giới luật này Phật dạy sự tôn trọng và tôn kính đối với những người khác, khi bước chân vào trụ xứ của họ, phải cởi bỏ mũ nón trước khi vào nhà. Đó là một sự lịch sự của người Á Đông, mà người tu sĩ Phật Giáo Việt Nam cần phải biết, vì đã có một truyền thống đạo đức Khổng Mạnh lâu đời.

Hiện giờ người tu sĩ Phật Giáo Việt Nam gần như quên đi truyền thống tốt đẹp ấy, và cũng quên đi một trăm giới chúng học của Đức Phật đã dạy cách đây 2542 năm.

Những vị tu sĩ có học thức, có cấp bằng tiến sĩ Phật học và được tấn phong Thượng Tọa, Hòa Thượng thì lại tự cao tự đại, xem mình như Phật sống, thường chấp nhận cho những người khác đảnh lễ mình, mà không chút gượng gạo, có vị còn mặc y áo tề chỉnh rồi cho người khác đảnh lễ, nhưng cũng có vị lại xem những người khác chẳng ra gì, nên chẳng cần mặc y áo tề chỉnh, đôi khi không cần lưu ý đến những người đang lễ mình, thường ăn mặc áo ngắn, không nghiêm trang, tề chỉnh, cứ mải mê công việc, hoặc ngồi đọc kinh sách tự nhiên để cho kẻ khác đảnh lễ, hành động đó thật là vô lễ hết sức. Dù Đức Phật còn tại thế Ngài cũng không có hành động vô lễ như vậy, huống là quý vị tu hành giới luật còn chưa nghiêm chỉnh mà dám ngồi cho người khác đảnh lễ, thì thật là háo danh, không biết xấu hổ.

Những hành động vô lễ thiếu đạo đức đó, không đúng oai nghi tế hạnh của một vị tu sĩ Đạo Phật, phạm vào một trăm giới chúng học, tức là thiếu phạm hạnh ở trong Đạo Phật, và thiếu đạo đức ở ngoài đời.

Họ tưởng rằng họ là “Phật sống”, nhưng Đức Phật khi còn sống Ngài còn không có những hành động vô đạo đức như vậy. Ngài rất khiêm tốn và cung kính mọi người. Ngài ra đời thành lập Tôn Giáo Phật Giáo, có mục đích ban bằng giai cấp của xã hội, thành lập một giai cấp con người bình đẳng như nhau. Cho nên lúc ông A Nan xin Đức Phật cho giới nữ xuất gia, Đức Phật chấp nhận, nhưng biết rằng Đạo Phật trụ thế chỉ có năm trăm năm mà thôi. Biết vậy, nhưng vì lợi ích cho con người không phân biệt nam nữ, Ngài cho thành lập giáo đoàn tu sĩ nữ.

Như vậy, Đạo Phật là đạo biết tôn trọng mọi người, xem mọi người như mình, bỉnh đẳng như nhau, không ai hơn ai, thế mà, được xuất gia tu hành, đắp áo cà sa là đã xem người không ra gì, coi giới cư sĩ là những người làm công quả, xem họ như lao công tôi tớ trong nhà, như người làm công để nhờ ơn đức Phật ban phước cho, nên quý vị tu sĩ xem họ chẳng ra gì cả, một chú Sa Di sai bảo một người cư sĩ tuổi lớn hơn cha, trông thấy thật là đau lòng cho Phật Giáo ngày nay.

Hiện giờ, giới tu sĩ Phật Giáo được xem như giai cấp quan liêu, vua chúa, bệ vệ trong chiếc áo rộng tay của Trung Quốc và chiếc y cà sa móc, họ luôn luôn đội mũ, nón, mão ở trong nhà, khi dự lễ trai đàn hoặc chứng minh đều đội mão “từ lư”, hình ảnh giống như Tam Tạng đi thỉnh kinh Đông Độ trong Tây Du Ký.

Hình ảnh này không giống hình ảnh của Đức Phật và Thánh chúng ngày xưa chút nào. Một hình ảnh nhà giàu có, sang trọng, không phải là một hình ảnh của vị tu sĩ buông xả (bần tăng), ba y một bát, sống thiểu dục tri túc với chiếc y phấn tảo, do lượm vải bó thây ma. Hình ảnh của những tu sĩ hiện giờ là hình ảnh thế tục hóa tôn giáo, một hình ảnh chứng tỏ Phật Giáo đang mất gốc.

Vào nhà người mà trên đầu còn đội mũ, nón, khăn, v.v... là một người không biết tôn trọng mình và cũng không biết tôn trọng người khác, đó là một người vô đạo đức, thiếu giáo dục, còn một vị tu sĩ mà có những hành động như vậy là một vị tu sĩ tỳ kheo ngoại đạo, chớ không phải là một vị tỳ kheo đệ tử của Đức Phật. Một vị tỳ kheo đệ tử của Đức Phật thì phải oai nghi tế hạnh đầy đủ, đâu có những hành động phi phạm hạnh như vậy.

Người tu sĩ đệ tử của Đức Phật cần phải học và tu tập rèn luyện đạo đức làm người, làm Thánh Nhân cho nghiêm chỉnh, nếu không học và không tu tập thì không làm sao xứng đáng làm người, làm Thánh Tăng được. Vì Phật và Thánh Tăng là những người luôn luôn thể hiện một con người có đạo đức hoàn toàn Thánh Thiện.

Giới thứ tám: CHẲNG ĐẶNG ĐỘI NÓN NGỒI TRONG NHÀ CƯ SĨ

Nghĩa là tỳ kheo khi ở trong nhà người cư sĩ, không nên đội mũ, nón, khăn trùm trên đầu, chỉ khi nào có bệnh mới được che đầu.

Giới này Đức Phật dạy các vị tỳ kheo phải giữ lễ độ, tôn trọng người khác, chớ đừng tưởng mình là tu sĩ Hòa Thượng, Thượng Tọa là Phật, là Thánh, v.v... hơn thiên hạ hết, trong lúc mình chỉ là một người phàm phu tầm thường, có khi còn kém đạo đức hơn thiên hạ nhiều, tham, sân, si còn đủ, tánh hung ác hơn thú dữ, chỉ có khác ở thiên hạ là chiếc áo cà sa, và cái đầu cạo tóc. Thế mà đi vào nhà người không chịu dỡ mũ, nón ra, người ở đời người ta còn không làm như vậy, họ luôn thể hiện sự lễ độ với mọi người, huống chúng ta là những tu sĩ Phật Giáo, gọi là Thánh Tăng thì phải có những hành động lễ đọ hơn nhiều.

Bởi vậy, sự lễ độ cung kính đối với mọi người là một đạo đức của con người trong cách thức xã giao, là một hành động đẹp đẽ trong sự tôn quý lẫn nhau mà con người cần phải có trong cuộc sống chung hằng ngày, huống là chúng ta, những vị tỳ kheo đệ tử của Đức Phật thì phải làm gương hạnh tốt cho tín đồ, chớ không nên tự kiêu, tự đắc, tỏ ra mình là bậc Thầy, Tổ, Tiên, Thánh, Phật, v.v... Khi mà còn mang thân nhân quả thì ai cũng giống như ai, hơn nhau là ở chỗ có đạo đức, biết tôn trọng mọi người, tức là biết tôn trọng mình; biết không làm khổ người tức là biết không làm khổ mình, chớ không phải vì tiền bạc, danh lợi, cấp bằng, địa vị cao, giàu có. Dù cao sang giàu có, kiến thức rộng, cấp bằng cao đến đâu mà đức hạnh chẳng ra gì, thì con người đó chỉ là một loài cầm thú mà thôi.

Cho nên, khi bước chân vào nhà, bất kỳ ở nơi đâu, cũng không được đội nón, mũ, khăn, v.v... mà phải lột xuống cầm tay, đó là một đạo đức lễ độ không riêng cho giới tu sĩ mà cho tất cả mọi người, vì vậy mọi người ai ai cũng cần phải học hành động đạo đức lễ phép này để chứng tỏ chúng ta là người Châu Á có một truyền thống đạo đức đẹp đẽ.

Giới thứ chín: CHẲNG ĐẶNG VỪA ĐI VỪA NHẢY NHÓT VÀO NHÀ CƯ SĨ

Vị tỳ kheo Tăng và các chú Sa Di vừa đi vừa nhảy nhót, tướng đi đứng như vậy không phải là tướng của bậc đại nhân, người tu sĩ đệ tử của Đức Phật cần nên chừa bỏ những tướng đi, đứng ấy.

Tướng đi đứng của một người bình thường thế tục còn không vừa đi vừa nhảy, huống là một tu sĩ đệ tử của Đức Phật lại có những hành động như vậy sao?

Vị tỳ kheo phải đi đứng nhẹ nhàng, khoan thai, không chậm quá, không nhanh quá, luôn luôn mắt nhìn xuống, đi như người vô sự, không vội vàng, nôn nóng, đi cho đúng cách của một vị tu sĩ Đạo Phật là phải đi trong nhiếp niệm, tỉnh thức, xả tâm, ly tham, đoạn diệt, v.v...

Vả lại, một vị tỳ kheo, khi ra đường cũng như đến nhà cư sĩ đều ăn mặc y áo tề chỉnh, nghiêm trang, với y áo lễ phục của một vị tỳ kheo mà vừa đi vừa nhảy thì làm sao xem cho được, vậy mà không những thầy sa di, còn có những thầy tỳ kheo đã vi phạm giới luật này.

Giới luật này Đức Phật dạy những người tu sĩ Đạo Phật phải đề cao cảnh giác khi đi đứng chạy nhảy, chớ nên để vi phạm, dù gặp duyên gì, bất cứ cũng phải nhẹ nhàng, khoan thai đi, đứng, không được vội vàng.

Mặc dù trong giới luật này có dạy: khi bị người đánh phải chạy, bị ăn cướp rượt, bị thú dữ, bị chông gai, hoặc nhảy qua khe nước, hầm, hố, v.v... thì không phạm giới.

Người ở ngoài đời khi đi đứng còn không vừa đi, vừa nhảy, vì vừa đi, vừa nhảy là trẻ con, là còn con nít, cho nên giới này dạy cho những chú sa di còn tuổi trẻ, không được vui đùa chạy nhảy như trẻ con ngoài thế tục, để tập dần cho đến khi thọ giới tỳ kheo thì hoàn toàn nghiêm chỉnh trong những oai nghi tế hạnh này, còn người đã trưởng thành thọ tỳ kheo giới thì không nên vừa đi vừa nhảy, mà phải tập đi đứng khoan thai, nhẹ nhàng, không chậm quá mà cũng không nhanh quá, phải đi đứng tư cách nghiêm trang, tề chỉnh của một vị tu sĩ Đạo Phật.

Hành động đi đứng khoan thai, nhẹ nhàng là hành động đạo đức của một con người có giáo dục. Hành động vừa đi vừa nhảy là hành động của người lấc cấc, ngang tàng, bướng bỉnh, mất dạy, v.v...

Người tu sĩ đệ tử của Đức Phật phải tránh những hành động lấc cấc này, nó không phải là hành động của người tu hành. Nếu người tu sĩ còn có những hành động như vậy thì nên lột áo, ra khỏi cổng chùa để khỏi mang tiếng chung cho những người tu sĩ khác, vì những hành động đi đứng không nghiêm chỉnh này, người ta sẽ xem thường và khinh chê Phật Giáo.

Vậy các vị tỳ kheo Tăng và tỳ kheo Ni cần phải đề cao cảnh giác, không được vi phạm những giới luật này.

Giới thứ mười: CHẲNG ĐẶNG CHẠY VÀO VÀ NGỒI KHÔNG ĐÚNG CÁCH TRONG NGƯỜI NHÀ CƯ SĨ

Phàm chạy nhảy vào nhà người cư sĩ, tướng ấy không phải tướng của bậc đại nhân, mà cũng không phải tướng của vị tỳ kheo đệ tử Đức Phật. Vì chạy như vậy y, áo sẽ tung toé bay phấp phới rất khó coi, khiến cho người ngoài nhìn vào đánh giá trị người tu sĩ như kẻ phàm phu tục tử.

Ngồi trong nhà cư sĩ không nên ngồi ôm đầu gối, không nên ngồi tréo chân. Ngồi tréo chân có nghĩa là bắp vế này để lên bắp vế kia, hoặc đầu gối này dể trên đầu gối kia, hoặc bắp chân này để trên ống chân kia, hoặc xếp bằng một chân, còn một chân co lại để bàn chân trên mắt cá. Đó là những tư cách ngồi không đúng đắn của một vị tu sĩ Đạo Phật, cho nên vị tỳ kheo không được ngồi như vậy. Cách thức ngồi tốt nhất của tu sĩ Đạo Phật là ngồi xếp bằng kiết già hoặc bán già.

Cách thức chạy vào nhà cư sĩ (nói chung là tu sĩ không nên chạy là tốt nhất) và ngồi không đúng cách như trên đã dạy, đó là những vị tu sĩ đã phạm vào những oai nghi tế hạnh tư cách đạo đức đi, đứng, ngồi của một vị tỳ kheo thiếu giáo dục phạm hạnh.

Trong kinh Đức Phật đã dạy có bốn hạng người không nên chạy nhảy:

1- Một vị tu sĩ dệ tử của Phật, mặc y áo cà sa không được chạy nhảy.

2- Một ông vua mặc áo long bào, không nên chạy nhảy.

3- Một cô gái, dù giai cấp nào cũng không được chạy nhảy.

4- Một thớt voi bắt bành ra trận không được chạy nhảy.

Người chạy nhảy là những người không đằm thắm, tánh tình không dịu dàng, êm ái, v.v... đó là những người không học đạo đức làm người nên mới có những hành động thiếu tư cách đạo đức như vậy. Người tu sĩ Đạo Phật phải tu tập và giữ gìn những oai nghi tế hạnh này, để trở thành những con người đằm thắm, dịu dàng, êm ái, khoan thai. Nhờ có tánh tình đó mà tâm hồn trầm lặng, vô sự, thanh thản, an lạc và tiến đến xả tâm, ly tham, đoạn diệt mới dễ dàng.

Khi vào ngồi trong nhà người cư sĩ, ngồi tréo chân, nhất là bắp đùi này gác lên bắp đùi kia, đó là cách thức ngồi tỏ vẻ ngã mạn, kiêu căng, tự đắc, phách lối (tỏ ra ta đây là hơn ai hết). Những người như vậy là những kẻ không biết tôn trọng mình, thấy cử chỉ như vậy là người ta mất thiện cảm ngay liền. Nhất là phụ nữ ngồi tréo chân trông có vẽ phách lối như tay anh chị “Cầu muối”. Người đời có học đạo đức Nho Giáo họ không bao giờ ngồi như vậy, chỉ có những người thiếu đạo đức mới có những cử chỉ ngồi như vậy.

Người tu sĩ Đạo Phật cần phải học tập giới luật này thông suốt và giữ gìn nghiêm chỉnh, để xứng đáng là đệ tử của Đức Phật. Biết khiêm hạ trong tất cả những hành động đối xử với mọi người, mọi lúc; để xứng đáng là người tu sĩ của đạo “vô ngã” và luôn luôn lúc nào cũng giữ mình vô ngã thật sự.

Giới thứ mười một: CHẲNG ĐẶNG NGỒI CHỒM HỔM TRONG NHÀ CƯ SĨ

Ngồi chồm hổm nghĩa là ngồi dưới đất, hoặc trên giường, trên ghế mà khu mông không chấm đất hoặc chấm giường, ghế, tức là hai bàn chân đạp đất, hai đầu gối dựng lên.

Cách thức ngồi như thế này là cách ngồi theo kiểu nông dân, vì ngoài ruộng bùn nước, cỏ rác dơ bẩn, nên phải ngồi chồm hổm để quần áo khỏi dính nước, bùn dơ bẩn. Ngược lại không phải ở ngoài đồng ruộng mà ngồi chồm hổm thì thật là khó coi.

Người có biết chút ít đạo đức về tư cách đi, đứng, nằm, ngồi cũng không thể ngồi chồm hổm trong nhà người khác. Nhất là người tu sĩ Đạo Phật lại còn không thể ngồi như vậy được, ngồi như vậy trông giống như một con khỉ đột, không phải cách ngồi của bậc đại nhân. Cách thức ngồi như vậy không nghiêm trang tề chỉnh, trông có vẻ gò bó, khắc khổ của một người bần cùng, khốn đốn, không thoái mái dễ chịu.

Người tu sĩ Đạo Phật, từ chú Sa Di cho đến vị Tỳ Kheo trưởng lão không được ngồi chồm hổm, vì ngồi như vậy không đúng cách thức của con người có đạo đức. Đó là nói riêng về tu sĩ, còn nói chung về giới đệ tử cư sĩ của Đức Phật cũng như người ngoài đời thì cũng chẳng nên ngồi như vậy, hành động ngồi như vậy còn mang bản chất loài thú vật. Chúng ta cứ nhìn xem một con thú đang ngồi như con khỉ, con chó, v.v... thì đủ biết lời chúng tôi nói không sai.

Người tu sĩ Đạo Phật ăn có nơi, ngồi có chỗ và ngồi phải đúng cách ngồi (cách ngồi đúng nhất của vị tỳ kheo là ngồi xếp bằng kiết già hoặc ngồi bán già).

Người thiếu giáo dục đạo đức về tư cách đi, đứng, nằm, ngồi thì cách thức ngồi nào họ cũng ngồi được cả, họ đâu biết rằng, con người vừa sanh ra thì cũng giống như một con thú vật, nếu không tập đi hai chân thì con người cũng đi bốn chân như con thú vật mà thôi; nếu không tập nói thì con người cũng chỉ biết kêu thét và la hú như con thú vật; nếu con người không tập luyện mỗi mỗi hành động của mình cho đúng tư cách làm người thì con người chỉ là con thú vật mà thôi. Cho nên muốn làm người không phải dễ, người xưa nói: “làm người khó! làm người khó !”

Đừng bảo rằng: “Trời sanh sao để vậy, sống tự nhiên cho khỏe hơn”, đó là sự hiểu sai, không đúng. Một cây kia nếu không được sự rong uốn thì cây kia cong queo trở thành vô dụng chỉ có làm củi mà thôi. Con người mà không học đạo đức khi sanh ra sống tự nhiên thì chẳng khác nào giống như một con thú vật. Bởi vậy, con người cần phải được giáo dục đạo đức toàn diện từ cách thức đi, đứng, nằm, ngồi, cho đến mọi cách thức ăn, nói, giao tiếp và xã giao với mọi người, không những đối với con người mà còn đối xử với tật cả loài cầm thú, lúc nào cũng phải lịch sự và lễ độ để tránh những hành động vô đạo đức vừa làm khổ mình làm khổ người và khổ chúng sanh. Đó là mọi hành động cách thức con người vượt ra khỏi những hành động của loài cầm thú để không còn làm khổ, giết hại và ăn thịt lẫn nhau nữa. Nhờ vượt thoát ra khỏi những hành động của loài cầm thú, nên không gây ra những hậu quả khổ đau sau này.

Vì thế chúng ta mới học đạo đức, nếu không ích lợi như vậy thì học đạo đức để làm gì? Nếu con người không chà đạp lên sự sống của nhau và không làm khổ đau cho nhau thì học đạo đức cũng chỉ bằng thừa mà thôi. Cho nên, đạo đức rất quan trọng cho đời sống của loài người trên hành tinh này.

Chính vì con người đã tự làm khổ mình và làm khổ người khác, nên nói có đạo đức không làm khổ mình khổ người ra đời để dạy cho con người thoát khổ, tức là thoát kiếp làm loài động vật hung ác, gian xảo, lừa đảo, điêu ngoa, xảo quyệt, v.v...

Đạo đức không làm khổ mình khổ người đã được Đức Phật cách đây 2542 năm, Ngài đã dạy chúng ta học tập và tu sửa mỗi mỗi hành động thân, miệng, ý, đầy đủ những đạo đức và những đạo hạnh làm Người, làm Thánh Nhân, mà trong bộ Giới luật của Ngài còn lưu lại mãi mãi muôn đời cho chúng ta sau này. Tuy nó có mặt, nhưng con người đã bỏ quên, đến giờ này chúng tôi mới triển khai, cố gắng làm cho nó sống lại, để đem đến lợi ích cho cuộc sống con người.

Giới thứ mười hai: CHẲNG ĐẶNG CHỐNG NẠNH ĐI VÀO NHÀ CƯ SĨ

Chống nạnh là dùng một tay hoặc là hai tay, chống nạnh làm vuông cánh chỏ, có vẻ ngang tàng, hung dữ theo kiểu “anh hùng rơm”.

Người tu sĩ Đạo Phật không thể có những hành động như vậy được, vì đó là hành động của những người hung dữ ở thế gian, tỏ vẻ phách lối “ta đây” là tay anh chị không chịu thua ai hết.

Người tu sĩ đệ tử của Đức Phật phải tránh xa những hành động này, nó làm mất oai nghi tế hạnh hiền đức của bậc chân tu.

Người ở ngoài đời thấy tướng chống nạnh là họ mất thiện cảm ngay, tướng ấy là tướng côn đồ, người tu sĩ cũng như người cư sĩ đệ tử của Đức Phật cần phải tránh xa những hành động này, nó là hành dộng thiếu giáo dục đạo đức làm người. Hành động này chỉ có bọn đầu trộm, đuôi cướp; bọn đá cá, lăn dưa; bọn xì ke ma túy, chứ người lương thiện thì không bao giờ có những hành động này.

Làm người, nếu chúng ta không học đạo đức về giới luật này thì vô tình chúng ta sẽ có những hành động chống nạnh phách lối, nhất là lúc chúng ta sân hận giận dữ. Muốn tránh những hành động phách lối vô đạo đức này thì ngay từ bây giờ chúng ta hãy bỏ tật chống nạnh, bằng cách thường hướng tâm: “Chống nạnh là một hành động phách lối vô đạo đức, ta hãy từ bỏ”.

Giới luật Phật đã dạy: “Chẳng đặng chống nạnh đi vào nhà người cư sĩ”, đó là một lời dạy nghiêm túc mà người đệ tử của Đức Phật phải thấy đó là một hành động vô đạo đức hết sức quan trọng đối với Đạo Phật. Một tu sĩ Đạo Phật mà chống nạnh thì không thể nào tha thứ và chấp nhận họ là tu sĩ Đạo Phật được.

Người tu sĩ nào vi phạm giới luật của Đức Phật thì đương nhiên người tu sĩ đó phi đức hạnh hay là phi phạm hạnh; người tu sĩ phi đức hạnh và phi phạm hạnh là người tu sĩ ngoại đạo, họ không phải là đệ tử của Đức Phật.

Đối với những vị thầy phạm giới phá giới thì chúng ta nên xa lánh họ, họ là trùng trong lông sư tử, đang diệt Phật Giáo.

Giới thứ mười ba: CHẲNG ĐẶNG TAY CHỐNG NẠNH, NGỒI TRONG NHÀ CƯ SĨ

Chống nạnh là một hành động phách lối như giới trên đã dạy, ngồi mà chống nạnh lại còn phách lối hơn nữa, chỉ có bọn người lưu manh, chuyên môn đi đánh lộn, tánh tình ngang tàng, bướng bỉnh, chẳng biết phải trái, nên mới có những hành động ngồi mà chống nạnh.

Người có đạo đức không bao giờ có những hành động ngồi chống nạnh như vậy được, vì thế ngồi trong nhà người cư sĩ không nên chống nạnh, người thế gian ngoài đời còn không ngồi như vậy, huống là một vị tỳ kheo đệ tử của Đức Phật cần phải tránh xa những hành động này, hành động này khiến cho chúng ta nhìn thấy một vị tu sĩ giống như một tên côn đồ, vô đạo đức, chớ không phải là những bậc Hiền Thánh Tăng. Vì vậy người tu sĩ Đạo Phật cần phải tránh xa những hành động chống nạnh, ngang tàng, thiếu giáo dục đạo đức làm người.

Người tu sĩ Đạo Phật ngồi không nên chống cằm, một tay hoặc hai tay. Chống cằm có nghĩa là người đang suy tư, lo buồn, u sầu một điều gì. Người tu sĩ Đạo Phật tất cả đều buông xả sạch hết thì còn có gì mà lo buồn, u sầu. Những điều lo rầu, u buồn này không đúng đối với một vị tu sĩ Đạo Phật, người tu sĩ Đạo Phật luôn luôn thanh thản và vô sự. Tâm hồn lúc nào cũng vui tươi và an lạc, nên không bao giờ ngồi chống tay lên cằm.

Vị tỳ kheo, người tu sĩ của Đạo giải thoát thì lúc nào cũng tỏ ra hoan hỷ, vui tươi chứ có đâu lại ngồi chống tay lên cằm tư duy, lo rầu, u não. Hành động như vậy không đúng tư cách đối với một vị tỳ kheo đã lìa đời sống thế gian, cần phải sửa sai những hành dộng này, không nên tập thành thói quen như vậy.

Hành động chống nạnh ngồi trong nhà người cư sĩ là một hành động vô đạo đức trong một gia đình thiếu giáo dục. Làm người không nên có những hành động như vậy, rất là vô phép và thiếu lễ độ đối với mọi người.

Chống tay lên cằm, chứng tỏ có sự buồn khổ, nhưng ngồi trong nhà người mà buồn khổ tức là làm cho gia đình người ta buồn khổ lây, làm cho gia đình người ta buồn khổ lây tức là làm khổ người; làm khổ người tức là vô đạo đức. Mang đến niềm vui cho người thì nên làm bằng ngược lại thì nên tránh xa những hành động chống tay lên cằm. Cách thức ngồi chống tay lên cằm không phải cách ngồi khoan thai của những bậc đại nhân mà là cách ngồi của những kẻ chiến bại, thất tình, tiêu cực, bi quan, yếm thế, v.v...

Hai hành động trên là những hành động thiếu đạo đức giải thoát của Đạo Phật, mà người tu sĩ đệ tử của Đức Phật cần phải tránh xa, vì phạm hạnh của người tu, vì làm gương hạnh đạo đức nhân quả cho tín đồ và cũng là nói lên tư cách của một vị tỳ kheo đệ tử Phật luôn luôn hoan hỷ trong tâm hồn giải thoát, để mọi người trông thấy mà không ai có thể khinh khi và chê trách được.

Tuy mới học mười ba giới chúng học trong đây mà chúng ta đã thấy rõ giới luật đức hạnh của Đạo Phật rất lợi ích cho mỗi con người, Đức Phật dạy đạo đức làm người trong cuộc sống rất cụ thể, thiết thực và rõ ràng, từng mỗi hành động đạo đức của con người đều mang đến cho nhau những niềm vui an lạc. Càng học chúng ta càng say mê và thích thú, càng sống đúng đạo đức chúng ta càng thấy cuộc sống của mình như đang sống trong cõi Thiên Đàng, Cực Lạc.

Vì thế, mỗi khi được học một giới luật nào thì chúng ta hãy cố gắng thực hành cho bằng được, để đem lại lợi ích cho mình cho người một đời sống an vui và hạnh phúc.

Giới thứ mười bốn: CHẲNG ĐẶNG LẮC MÌNH ĐI VÀO NHÀ CƯ SĨ

Lắc mình nghĩa là nghiêng thân qua bên tay trái, qua bên tay phải và vừa rảo bước đi; lắc mình còn có nghĩa là làm dáng yểu điệu “lả lướt”, đi theo kiểu “tiểu thư” đài các con nhà giàu sang, quý phái.

Vị tỳ kheo Tăng và tỳ kheo Ni đệ tử của Đức Phật cần nên tránh xa những hành động làm dáng yểu điệu này, nó không phải dành cho những người tu sĩ chân chánh mà dành cho phái yếu (phái nữ) người thế tục.

Đối với người tu sĩ dáng đi yểu điệu không phù hợp, nhiều khi người ta nhìn thấy sẽ nghĩ rằng tu sĩ mà còn làm dáng đẹp. Khi đã bỏ thân bằng quyến thuộc, của cải, tài sản, sang giàu và sắc đẹp, v.v... đi tu mà còn làm dáng đẹp để làm gì?

Giới luật Phật đã dạy: “Chẳng dặng trang diểm làm đẹp, đeo vòng hoa, chuổi ngọc, đồ trang sức bằng vàng bạc đá quý, xoa dầu thơm, v.v...” Như vậy, một người tu sĩ không được trau dồi làm đẹp từ khuôn mặt, tóc, tai, chân mày, y phục, giày dép, dáng đi, cách đứng, v.v... đều phải được giữ vẻ tự nhiên, y phục không trau dồi chải chuốt; đi đứng không được sửa tướng đi, dáng đứng. Vì còn sửa tướng làm đẹp, làm dáng thì rất khó tu, nghĩa là rất khó buông xả. Bản chất người phụ nữ rất ưa thích làm đẹp, làm dáng, nên xưa Đức Phật từ chối không muốn nhận người nữ xuất gia là cớ này, người còn làm dáng làm đẹp là tâm ham muốn đời còn nhiều, thì làm sao ly dục ly ác pháp được, nếu không ly dục ly ác pháp được thì làm sao xả cho sạch tâm được, mà xả sạch tâm không được, thì con đường tu theo Đạo Phật như một giấc mơ mà thôi.

Có một cô gái rất đẹp đến xin với một thiền sư, để được tu hành, nhưng thiền sư từ chối:

- Cô tu không được đâu.

Cô ta buồn bã hỏi:

- Sao con lại tu không được, thưa thiền sư?

Thiền sư đáp:

- Tại cô đẹp lắm.

Cô ta rơi nước mắt và nghẹn ngào hỏi :

- Như vậy người xấu mới tu được sao, thưa thiền sư?

Đúng vậy, người có sắc đẹp khó yên thân tu hành, gặp nhiều điều phiền phức, thường được mọi người chú ý nên tâm dễ bị động, dễ bị lôi cuốn và dễ bị sa ngã.

Do thế, vị tỳ kheo Tăng và vị tỳ kheo Ni là những người tu sĩ đệ tử của Đức Phật mà còn làm dáng, yểu điệu, đi lắc qua, lắc lại, làm đẹp đẽ như vậy thì đừng nên tu theo Đạo Phật, vì có tu theo Đạo Phật cũng chẳng ích lợi gì cho mình cho người khác mà còn làm hại uy danh của Phật Giáo, khiến cho người ta khinh chê các tu sĩ khác của Đạo Phật.

Đi lắc qua, lắc lại làm mất vẻ tự nhiên, thiếu trang nghiêm thanh tịnh của kẻ xuất gia thoát tục. Vì thế vị tỳ kheo cần nên lưu ý giới này, đừng để vi phạm phải. Người ở ngoài đời, nhất là thanh niên họ còn không làm dáng yểu điệu như vậy, huống là chúng ta, những vị tỳ kheo đệ tử của Đức Phật, thì phải cẩn thận hơn nhiều về dáng đi, cách đứng.

Đối với Đạo Phật hành động đi yểu điệu là một hành động thiếu đạo đức hồn nhiên giải thoát của người tu sĩ, khiến cho người ta khinh chê Phật Pháp, kẻ đi tu rồi mà còn làm dáng, làm đẹp. Vì vậy, vị tỳ kheo cần nên cảnh giác, chớ nên để vi phạm giới này.

Giới thứ mười lăm: CHẲNG ĐẶNG LẮC MÌNH NGỒI TRONG NHÀ CƯ SĨ

Thầy tỳ kheo khi đến nhà người cư sĩ phải sửa sang oai nghi, đi, đứng, ngồi phải đúng cách. Ngồi phải nghiêm trang không được lắc qua, lắc lại, không được xoay thân ngó ngoái lại đàng sau hoặc lắc mình ngó qua bên nây, ngó lại bên kia, trông vật này đến vật khác, tỏ ra rất ưa thích giống như một kẻ bất lương. Đó là những hành động thiếu nghiêm trang, tề chỉnh, mất oai nghi tế hạnh của một người tu sĩ đệ tử Phật.

Ngồi mà lắc qua lắc lại, lúc nào cũng nhúc nhích thân, động địa thân, đó là tiền căn của một loài khỉ vượn, người nào bị chứng trạng này phải cố gắng khắc phục, thân tâm phải bất động, để khi ngồi phải giữ gìn cho được tề chỉnh, nghiêm trang, nếu thân muốn lúc lắc thì nhớ hướng tâm và nhắc: “Thân tâm bất động không được lắc qua lắc lại, phải nghiêm trang, tề chỉnh, mới xứng đáng là một vị tỳ kheo đệ tử của Đức Phật”.

Từ loài khỉ, vượn, người ta tập luyện mãi nó cũng thành thói quen không lúc lắc, không nhảy nhót cũng giống như con người. Đó là cách thức tập và rèn luyện loài khỉ vượn để làm xiếc cho mọi người xem. Hiện giờ chúng ta tu tập và rèn luyện những hành động đạo đức thân, miệng, ý của mình để làm người có đạo đức không làm khổ mình khổ người, và nhờ sự luyện tập ấy sau này chúng ta mới mong trở thành những bậc Thánh Nhân thoát trần, áp dụng và thực hành theo đúng như trong những giới luật Phật đã dạy, thì chắc chắn mỗi người trong chúng ta sẽ tìm thấy một chân trời giải thoát.

Sự tu tập rèn luyện thân, miệng, ý của chúng ta về đạo đức và đạo hạnh trong giới luật của Đức Phật, chúng ta cũng giống như nhà huấn luyện khỉ, vượn để làm trò xiếc. Họ đã thành công thì chúng ta cũng thành công, không có khó khăn gì.

Vậy, nếu hằng ngày chúng ta chuyên cần “như lý tác ý” để hướng tâm, dẫn tâm ghi khắc mãi những hành động thân, miệng, ý toàn thiện thì chúng ta sẽ trở thành những con người có đạo đức đầy đủ, đạo đức ấy đã giúp chúng ta thoát khổ, mà người đời gọi chúng ta là những bậc Thánh Tăng.

Những oai nghi tế hạnh mà trong một trăm giới chúng học đã dạy chúng ta, là những hành động của một con người có đầy đủ đạo đức làm người, chớ chưa phải là những hành động đạo đức của bậc Thánh Nhân. Nếu chúng ta có đủ duyên học và tu tập tiếp những giới luật dạy về “Đạo Đức Làm Thánh Nhân”, thì chúng ta sẽ thích thú vô cùng, vì được sống trong những hành động giải thoát hoàn toàn, không còn lo lắng, sợ hãi, khổ đau trong bốn nỗi khổ của kiếp làm người: “sanh, già, bịnh, chết”.

Người tu sĩ Đạo Phật ngày nay lại có những hành động ngồi lúc lắc bất an, thì làm sao bằng một người bình thường thế tục có đạo đức ở ngoài đời. Hành động này là hành động của loài khỉ, vượn còn sót lại trong chúng ta, chớ con người thì phải tề chỉnh, nghiêm trang. Nếu những ai còn có những hành động này là nghiệp lực duy trì của loài khỉ vượn còn sót lại ở kiếp trước mà kiếp này chưa quên.

Cho nên, vị tỳ kheo đệ tử của Đức Phật cần phải lưu ý và giữ gìn những oai nghi tế hạnh này, để không bao giờ vi phạm, vì vi phạm sẻ làm mất giá trị chung cho các tu sĩ Đạo Phật chân chánh khác, và tội ấy phải chịu khổ đau muôn kiếp, muôn đời.

Giới thứ mười sáu: CHẲNG ĐẶNG LẮC CÁNH TAY ĐI VÀO NHÀ CƯ SĨ

Vừa đi vừa lắc cánh tay, có nghĩa là thòng hai cánh tay đưa tới đưa lui, từ trước ra sau, từ sau ra trước theo bước chân đi. Vị tỳ kheo khi đi vào nhà cư sĩ hoặc đi ngoài đường cũng không nên lắc cánh tay (đánh đàng xa), đưa mạnh hai tay theo hướng ngược nhau và theo bước chân đi như quân đội. Đi như vậy không đúng cách của người tu sĩ Phật Giáo.

Hạnh đi đứng của người tu sĩ Phật Giáo không thể đánh đàng xa mạnh như vậy được, sẽ làm mất oai nghi tế hạnh đằm thắm, dịu hiền của người tu sĩ Đạo Phật.

Bởi vậy, khi làm người tu sĩ Đạo Phật, chúng ta cần phải dè dặt, mỗi hành động thân, miệng, ý của mình và còn phải luôn luôn giữ gìn cho đúng một trăm giới chúng học, tức là một trăm oai nghi tế hạnh của một người có giáo dục đạo đức trong nhà Phật. Nếu chúng ta không giữ gìn nghiêm chỉnh một trăm giới chúng học này, thì chúng ta là những người thiếu giáo dục đạo đức làm người của Đạo Phật. Làm người phải có đạo đức, nếu không có đạo đức thì những hành động hằng ngày trong cuộc sống sẽ thô lỗ, phách lối như bọn côn đồ, du đãng, v.v... Đối với nhà Phật sẽ không chấp nhận những người này trong tôn giáo của mình.

Một trăm giới chúng học này chỉ dạy những hành động đạo đức của một con người, để xứng đáng là một con người, những hành động đạo đức này chưa phải là những hành động đạo đức của những bậc Thánh Nhân như trên đã dạy, nhưng trước khi tu tập và rèn luyện những hành động đạo đức của bậc Thánh Nhân, thì đều phải có đầy đủ oai nghi tế hạnh đạo đức của một con người.

Trước khi muốn làm một bậc Thánh Tăng giải thoát trong Đạo Phật thì chúng ta phải đầy đủ đức hạnh của một con người, tức là phải giữ gìn một trăm giới chúng học nghiêm chỉnh, không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào cả, rồi mới học đến đức hạnh của các bậc Thánh Tăng mới được.

Chỉ khi nào một trăm giới chúng học chúng ta đã giữ gìn trọn vẹn và nghiêm túc thì mới bắt đầu sống và thấy được một phần nào đạo đức nhân quả không làm khổ mình khổ người trong cuộc sống giao tiếp với mọi người hằng ngày.

Vị tỳ kheo đệ tử của Đức Phật không giữ gìn một trăm giới chúng học thì đương nhiên chẳng bằng người thế tục có giáo dục đạo đức Nho Giáo. Trong cuốn Thiền Lâm Bảo Huấn, các nhà sư Trung Hoa thường lấy đạo đức Nho Giáo đem ra giảng dạy chúng Tăng hơn là dạy đạo đức của Phật Giáo. Ở Việt Nam Thầy Tổ của chúng ta cũng vậy, không bao giờ dạy đạo đức Phật Giáo, nên hiện giờ tu sĩ Phật Giáo cũng chẳng biết đạo đức Phật Giáo là pháp môn gì?

Muốn trở thành những bậc Thánh Tăng giải thoát của Đạo Phật mà không học đạo đức của Đạo Phật, lại học đạo đức của Nho Giáo, thì những vị tỳ kheo này làm sao trở thành những bậc Thánh Tăng được, chỉ trở thành những cụ Đồ Nho mà thôi: “Vạn Hạnh dung tam tế”

Bởi vậy, làm một vị tỳ kheo muốn sống đúng giới luật của Phật không phải dễ đâu? Vì thời đại hiện giờ vật chất quá nhiều, khó mà buông bỏ, nên phần nhiều hiện giờ người ta tu ăn, tu mặc, tu danh, tu lợi, tu Chùa to Phật lớn, nhưng họ khéo lý luận vừa lừa dối tâm họ mà cũng vừa lừa dối những người khác bằng: “Làm Chùa to Phật lớn để cho Tăng, Ni tu hành, chứ không làm cho cá nhân mình”. Phần đông có một số rất nhiều vị tỳ kheo giới đức và giới hạnh chẳng ra gì, còn thua người ngoài đời rất xa, nếu so với một nhà Nho, họ giữ gìn đạo đức tam cang, ngũ thường, nhân, nghĩa, lễ, trí tín của Nho Giáo, thì tu sĩ Phật Giáo hiện giờ đối với giới luật của Đức Phật thì họ chỉ là số “không”.

Trong khi Đạo Phật đã có đầy đủ giới luật dạy về đức hạnh, từ đạo đức làm người đến đức hạnh làm một bậc Thánh Tăng. Tất cả những đạo đức này đều nằm trọn trong Tạng Giới Luật rất đầy đủ, từ oai nghi tế hạnh đạo đức của con người đến oai nghi tế hạnh đạo đức của bậc Thánh Nhân, rõ ràng và cụ thề, không thiếu một hành động nào mà không có. Thế mà tu sĩ Đạo Phật lại không lưu ý và quan tâm đến, nên oai nghi tế hạnh đạo đức của họ chẳng ra gì.

Người tu sĩ Đạo Phật chỉ cần học và hành đúng giới luật của Đức Phật, thì đạo đức ở ngoài đời sống thế tục và các tôn giáo khác không có một đạo đức nào hơn được, nếu còn nói về đạo đức Thánh Nhân thì không có kinh sách nào dạy đạo đức Thánh Nhân hơn kinh sách của Phật Giáo được. Bằng chứng chúng ta tu tập, rèn luyện và trau dồi chỉ một trăm giới chúng học này mà thôi thì đạo đức con người cũng không ai bằng được, và chẳng bao giờ có ai chê trách được điều gì, huống là học và sống đúng toàn bộ giới luật của Đức Phật thì mọi người sẽ nằm phục sát đất cho những vị tỳ kheo bước đi với lòng cung kính và tôn trọng tuyệt đối, như lời Đức Phật đã dạy trong kinh Nikaya.

Đối với một trăm giới chúng học là một trăm oai nghi đạo đức đi, đứng, nằm, ngồi, nói, nín, ăn, uống, ngủ, nghỉ, rất đầy đủ đức hạnh của một con người có giáo dục đạo đức nhân quả không làm khổ mình khổ người, mà nếu ai đặt trọn lòng tin sống đúng một trăm giới luật này thì cuộc sống của họ sẽ an vui, hạnh phúc vô cùng.

Bởi vậy, chúng ta là những người có đủ phước duyên rất lớn mới tu theo Đạo Phật và gặp được chánh pháp đức hạnh toàn thiện của Đạo Phật, để học tập, trau dồi và rèn luyện đạo đức nhân quả không làm khổ mình khổ người, nhờ đó chúng ta được giải thoát hoàn toàn, thoát khổ của đời sống hiện tại và mai sau.

Nếu không tin thì quý vị hãy đọc trọn bộ “Giới Đức Làm Người”, tức là một trăm giới chúng học trong các bộ giới luật của Đức Phật, thì quý vị sẽ rõ lời chúng tôi nói là chân thật.

Giới thứ mười bảy: CHẲNG ĐẶNG NGỒI TRONG NHÀ CƯ SĨ LẮC CÁNH TAY

Vị tỳ kheo khi ngồi trong nhà người cư sĩ phải giữ vững thân mình, hai tay thả xuôi theo thành nghế, ngồi phải tề chỉnh, không nên động tay, động chân hoặc múa tay, múa chân, tức là lắc tay, lắc chân, ngồi phải vững vàng. Nếu có ai hỏi, trước hết phải lấy giới phòng hộ sáu căn, giữ gìn mắt, tai, mũi, miệng, thân và ý xong rồi, mới thuận theo câu hỏi mà đáp.

Không được vừa đáp vừa múa tay múa chân (làm điệu bộ), phải hết sức ôn tồn, điềm đạm trả lời, không được cao tiếng tranh luận và giữ thân bất động nhẹ nhàng.

Có giữ gìn oai nghi tế hạnh như vậy thì mới xứng đáng là vị tỳ kheo đệ tử của Đức Phật; mới đúng là người có đạo đức, sống và làm việc đúng theo một trăm giới chúng học, không hề phạm phải một lỗi nhỏ.

Hành động ngồi trong nhà người cư sĩ mà hai tay động đậy, lúc lắc, không nghiêm chỉnh, đối với Đạo Phật được xem là hành động thiếu đạo đức, vì thân tâm còn động đậy; còn động đậy tức là còn tâm ham muốn và ác pháp; còn thân tâm ham muốn và ác pháp thì thân tâm thường lúc lắc, do đó nên sống trầm lặng chưa yên; sống trầm lặng chưa yên thì người đó bản chất còn mang loài cầm thú. Tại sao vậy? Tại vì, con thú vật không bao giờ sống trầm lặng yên tịnh được.

Muốn thân tâm yên tịnh và sống một đời sống trấm lặng, nên Đạo Phật có những pháp môn tu tập và rèn luyện thân tâm bất động, đó là những loại thiền định: “Bất động tâm định hay là thân định trên tâm, tâm định trên thân”, hoặc phải tập luyện sống trầm lặng, độc cư thì thân tâm mới bất động.

Nhờ có tu tập và sống trầm lặng, độc cư như vậy thì thân tâm mới bất động và không còn lúc lắc, thì đạo đức phạm hạnh của người tu sĩ Phật Giáo mới trọn vẹn.

Người tu sĩ tỳ kheo Tăng và tỳ kheo Ni thường sống thân tâm bất động, thích trầm lặng, độc cư, đó là đạo hạnh của mình, hay là đạo hạnh của những bậc Thánh Tăng, còn người cư sĩ giữ gìn thân tâm bất động, tu tập sống trầm lặng, độc cư, đó là đạo đức làm người không làm khổ mình khổ người thường có tâm hồn điềm đạm, tề chỉnh khi đối xử với những người khác. Vì thế chúng ta cũng cần nên tập luyện đạo đức này, tức là “im lặng bất động là vàng, nói năng động đậy là đất”.

Cho nên, Đạo Phật dạy người lấy bất động thân tâm làm giải thoát, nếu thân tâm ai đã bất động trước các pháp và các cảm thọ thì người ấy đã giải thoát, không còn phải tu tập những gì khác nữa.

Giới luật của Đạo Phật cũng dạy như vậy: “Chẳng đặng ngồi trong nhà cư sĩ lúc lắc cánh tay, cần nên học”. Đạo đức bất động tâm định và bất động thân định là những pháp đầu tiên của Đạo Phật dạy về oai nghi tế hạnh làm người, nếu ai hay động đậy lúc lắc thân mình, đó là không đúng tư cách đạo đức của Đức Phật, được xem là người thiếu giáo dục đạo đức về sự nghiêm trang, tề chỉnh.

 

GIỚI LUẬT NHƯ CHIẾC THUYỀN QUA SÔNG

Giới luật như chiếc thuyền đưa người qua biển khổ, người tu sĩ không giữ gìn giới luật như người qua biển không thuyền bè.

 

CHƯƠNG III: Ngồi, đứng phải đúng cách

Có 8 giới

(Từ giới thứ 18 cho đến giới thứ 25)

Giới thứ mười tám: KHÉO CHE THÂN KÍN ĐÁO, KHI NGỒI TRONG NHÀ CƯ SĨ

Vị tỳ kheo, khi vào ngồi trong nhà người cư sĩ, y áo phải khéo léo che thân kín đáo, không được bày lộ da thịt thân mình hở hang hoặc tay, chân, ngực, bụng, v.v...

Người tu sĩ Đạo Phật ăn mặc phải kín đáo, dè dặt khi y, áo bị rách hoặc chưa phủ kín thân thì không được bước chân ra đường hoặc vào nhà cư sĩ, nếu không để ý, y áo lôi thôi, làm mất vẻ nghiêm trang và thiếu đúng đắn đạo hạnh của một người tu sĩ chân chánh Đạo Phật, thì người hiểu biết sẽ đánh giá trị là kẻ lừa đảo tín đồ buôn Phật bán Pháp, làm ô uế Đạo Phật.

Người thế tục ở ngoài đời có giáo dục đạo đức cũng còn không ăn mặc hở hang, lôi thôi, xốc xếch, huống là một vị tỳ kheo đệ tử của Đức Phật lại ăn mặc bày da, hở thịt hay sao?

Vì thế, người tu sĩ Đạo Phật khi ăn mặc cần phải cẩn thận hơn, y, áo mặc, đắp phải ngay ngắn, tề chỉnh và kín đáo, thì mới xứng đáng là người đệ tử của Đức Phật và không phạm lỗi vào oai nghi tế hạnh của một trăm giới luật chúng học.

Oai nghi tế hạnh trong một trăm giới chúng học, quý vị tỳ kheo Tăng và tỳ kheo Ni phải cố gắng giữ gìn nghiêm túc đừng để vi phạm. Vì những hành động vi phạm vào giới luật này sẽ làm Phật Pháp suy đồi và Đạo Phật sẽ biến mất; Đạo Phật sẽ biến mất thì những gì quý báu nhất của loài người cũng sẽ bị mất, đó là nền đạo đức nhân bản nhân quả không làm khổ mình khổ người mà chúng tôi đã từng nhắc đi nhắc lại nhiều lần, Phật Giáo hiện giờ còn lại những thứ căn bã tà giáo ngoại đạo, mê tín lừa đảo lường gạt người khác một cách trắng trợn mà không có pháp luật nào bắt tội họ được.

Cho nên Đạo Phật mất thì trên thế gian này loài người chịu một thiệt thòi rất lớn cho. Tại sao vậy?

Nền đạo đức nhân bản của Đạo Phật không có thì loài người sẽ xâu xé và giết hại lẫn nhau, một bằng chứng rất cụ thể là thế giới không lúc nào mà không có chiến tranh, và không có nước nào mà không có trộm cắp cướp của giết người. Nếu con người trên hành tinh này có được nền đạo đức ấy thì người người sẽ không làm khổ cho nhau, họ sẽ xây dựng cảnh sống thế gian này trở thành một cảnh sống Thiên Đàng mà mọi người đang mơ ước.

Cách đây 2542 năm, Đạo Phật xuất hiện ra đời chưa đầy trăm năm mà đã bị giáo pháp Bà La Môn dìm mất, gần như tín đồ Phật Giáo không còn hiểu biết giáo pháp của Phật là giáo pháp nào? Cho nên đạo đức nhân bản của Đạo Phật rất thiết thực, cụ thể và lợi ích to lớn cho kiếp sống của con người trên hành tinh này, thế mà hiện giờ mọi người chẳng có ai biết đến, không những tín đồ cư sĩ mà ngay cả những vị tỳ kheo Tăng và tỳ kheo Ni cũng chẳng biết. Đạo đức của Đạo Phật mà họ còn chẳng biết thì thử hỏi còn pháp môn thiền định nào của Phật Giáo mà họ hiểu đúng được.

Họ hiểu giáo pháp của Đức Phật qua ống kính của giáo pháp Bà La Môn bằng những lý thuyết suông, như trong kinh Đại Thừa có câu chuyện: “Một vị Tiên nhân đắc ngũ thông muốn đến cầu pháp với Phật, ông ta bèn nhổ hai cây hoa ngô đồng để dâng cúng Phật, khi đến gặp Phật ông cầu pháp giải thoát, Đức Phật bảo:

- Buông xuống.

Ông ta liền buông cây ngô đồng xuống, nhưng Đức Phật lại bảo:

- Buông xuống nữa.

Ông ta liền buông cây ngô đồng còn trên tay xuống, nhưng Đức Phật lại bảo:

- Buông xuống nữa.

Lúc bây giờ ông ta lấy làm lạ hỏi:

Bạch Đức Thế Tôn, con đã bỏ hết còn gì mà bỏ nữa?

Đức Phật giải thích :

- Ta bảo ông muốn giải thoát thì phải bỏ căn, trần, thức, chứ không phải bảo ông bỏ hai cây ngô đồng, bỏ hai cây ngô đồng thì làm sao có giải thoát được.

Câu chuyện trên chỉ là một lý luận suông chứ không có thực hành được, vì con người có thể bỏ sáu trần như: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, còn sáu căn như: mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý và sáu thức như: nhãn thức, nhĩ thức, tỹ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức thì không có cách nào bỏ được, chỉ lý luận vui chơi như: “Thấy như không thấy, nghe như không nghe, biết như không biết”. Do những lý luận suông này, nên đời này đến đời khác chẳng ai tu giải thoát sanh, già, bịnh, chết cả, chỉ là những huyền thoại lừa đảo, lường gạt tín đồ và mọi người với những lý luận tuyệt vời: “Kiến tánh thành Phật, tánh thấy, tánh nghe, tánh biết, ngũ uẩn giai không, xả căn, trần, thức, độ hết chúng sanh thành Phật, v.v...”

Nhưng đến thời đại chúng ta đã có người tu đúng giáo pháp của Đức Phật, thấy được rõ ràng thâm ý ác độc của Bà La Môn Giáo quyết tâm diệt sạch Phật Giáo trên hành tinh này bằng một chiêu bài Giáo Chủ Đức Phật Di Lặc ra đời, thay thế Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Nếu sự thay thế này được thành tựu thì Đạo Phật sẽ bị diệt mất. Đây là có một sự sắp xếp từ xưa của các giáo sĩ Bà La Môn làm một cuộc cách mạng Phật Giáo, chỉ còn chờ ngày lật đổ Đức Phật Thích Ca mà thôi.

Trước khi lật đổ Đạo Phật, họ đã đưa giáo pháp của họ lồng trong giáo pháp của Phật Thích Ca, và chúng còn chế ra Bồ Tát giới cấm tu sĩ và cư sĩ không được học và tu theo Giáo Pháp Nguyên Thủy của Phật, cho đó là giáo pháp của Thinh Văn, Nhị Thừa ngoại đạo.

Từ khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nhập diệt đến giờ đã có hơn hai nghìn năm, Đạo Phật chỉ còn là hình thức và danh từ, nghĩa là những tỳ kheo Tăng và tỳ kheo Ni đã vi phạm và phá sạch giới luật của Đạo Phật, họ không còn là một vị tu sĩ chân chánh, sống đầy đủ đức hạnh, làm gương tốt cho tín đồ. Họ là những vị tỳ kheo của Bà La Môn Giáo, thường làm những việc mê tín, tụng kinh, niệm Phật, cúng bái, cầu khẩn, xây chùa, đúc chuông, xây tháp, đúc tượng Phật to, ngồi thiền ức chế tâm, niệm bùa, đọc chú, bắt ấn, v.v... làm hao tài, tốn của của biết bao nhiêu của đồng bào Phật tử trong nước cũng như ở ngoại quốc. Họ chẳng làm lợi ích gì cho con người trong thực tại bằng những đạo đức làm người, bằng mồ hôi nước mắt của họ, họ lại còn gây tạo ra tai hại rất lớn, đó là dẫn dắt con người vào thế giới siêu hình mê tín, thần quyền, phi đạo đức, phi nhân quả, v.v...

Cho nên, người tu sĩ đệ tử của Đức Phật phải thấy trọng trách của mình, là không những giữ gìn một trăm giới chúng học cho nghiêm chỉnh, mà còn phải giữ gìn tất cả giới luật của Phật, không được vi phạm, vì vi phạm những giới luật này, oai nghi tế hạnh đạo đức làm người, làm Thánh Tăng sẽ mất đi; đạo đức làm người, làm Thánh Tăng sẽ mất đi thì không xứng đáng là đệ tử của Đức Phật, nhất là cách thức ăn mặc phải được kín thân, không được hở hang bày da hở thịt và không được lôi thôi, xốc xếch, v.v...

Bày da hở thịt là cách thức khiêu dâm gợi dục, mà khiêu dâm gợi dục là những hành động của hạng người phàm phu tục tử, chỉ biết mua dâm bán thể xác để làm cuộc sống thật là hèn hạ và ô nhục, những hạng người này không phải là con người mà là con thú vật không biết xấu hổ, họ bán dâm dục như một nghề làm ăn sinh sống khác, họ cho sự dâm dục như là sự ăn và ngủ, họ đâu biết rằng ăn, ngủ là là hai phương tiện để sống, nếu không ăn và ngủ thì con người không thể sống được, còn không dâm dục thì người ta vẫn sống và sống một cách khỏe mạnh hơn là người dâm dục nhiều.

Người đời thường cho dâm dục giống như ăn và ngủ thì không đúng. Nếu con người dâm dục mà không đúng tư cách đạo đức làm người thì có khác nào là một con thú vật, cho nên dâm dục trong đạo đức, trong tình nghĩa vợ chồng, phải chung thủy và trung thành với nhau, còn dâm dục nay người này mai người khác không có luân thường đạo lý, đó là kẻ vô đạo đức, vô giáo dục.

Những bậc Thánh Nhân thì không thể như con người phàm phu thường tình được, họ hoàn toàn phải tuyệt dâm dục, có tuyệt dâm dục thì mới được gọi là Thánh Nhân, nếu còn dâm dục thì không được gọi là Thánh Nhân. Cho nên giới hạnh về ăn mặc thì phải kín đáo, không khiêu gợi dâm dục, hành động ăn mặc kín đáo không bày da hở thịt là những hành động đạo đức của con người và của những bậc Hiền Thánh.

 

Giới thứ mười chín: KHÔNG ĐƯỢC ĂN MẶC Y ÁO CỦA NGƯỜI CƯ SĨ

Vị tỳ kheo phải ăn mặc đúng cách, y hạ, y trung và y thượng, ba y một bát phải đầy đủ khi ra đường cũng như đến nhà cư sĩ, thân mình ăn mặc kín đáo không được hở hang, không được mặc y áo của người cư sĩ, không nên mặc áo tròng đầu, áo thêu bông hoa hoặc túi bát thêu màu mè, cây, cảnh, hoa lá, v.v...

Không được mặc áo có sọc hoặc áo ca rô, không nên mặc áo bằng các loại da thú, không nên mặc áo cặp (áo kép, áo đôi), không nên mặc áo bằng vỏ cây, bằng lá cây, bằng anh lạc, bằng lông, bằng tóc, bằng lông đuôi ngựa, v.v...

Nói chung tất cả hàng lụa vải tốt, vải nhập mà người thế gian đang may mặc các loại y, áo, cũng như các loại pháp y của ngoại đạo. Vị tỳ kheo đệ tử của Đức Phật không nên may sắm, mặc, nhất là các loại y áo của ngoại đạo thì lại càng không được bắt chước may mặc.

Hiện giờ giới tu sĩ Phật Giáo Việt Nam ăn mặc đủ loại, bắt chước y áo của các tôn giáo khác và màu sắc đủ loại, sửa bên nây, chấp bên kia, giống như y áo thế gian, chạy theo “mode” thời đại nên áo chẳng ra áo, y chẳng ra y, áo đời cũng chẳng ra áo đời, áo đạo cũng chẳng ra áo đạo.

Lại có một số tu sĩ ăn mặc theo y áo thế tục; áo thung, áo blouse, áo veston, áo len, v.v... kiểu mode ngoài đời.

Tu sĩ Phật Giáo hiện giờ ăn mặc theo kiểu Phật Giáo mới (Tân Tăng). Từ cách ăn mặc cho đến cách tu hành đều không giống như Đức Phật và chúng Thánh Tăng ngày xưa lúc còn tại thế. Vì thế, giới luật Phật không còn giới nào mà họ không vi phạm, cho nên tu mãi thành danh, thành lợi, thành bọn ma vương, quỷ la sát, v.v... chớ không thành giải thoát.

Nếu mùa đông rét lạnh thì nên mặc nhiều lớp y, chớ không nên mặc áo lông thú.

Người tu sĩ Đạo Phật còn thích mặc áo thế gian thì nên trở về đời sống cư sĩ, vì tâm đời còn đầy ắp ham muốn thì làm sao tu giải thoát theo Đạo Phật cho được. Tu giải thoát là phải buông bỏ sạch các pháp thế gian, chỉ còn ăn mặc y, áo xấu xí, vải bó thây ma thô xấu kết lại thành một miếng vải lớn, để vấn cho kín đáo thân, mà có tên gọi là áo Cà Sa.

Nếu vị tỳ kheo Tăng và tỳ kheo Ni ăn mặc sang đẹp áo quần thế gian, thì đó là tu sĩ của ngoại đạo chẳng phải là đệ tử của Đức Phật, Đức Phật ngày xưa đắp y phấn tảo, ngày nay đệ tử của Người không còn như vậy nữa. Chúng tỳ kheo Tăng và chúng tỳ kheo Ni đã vi phạm một trăm giới chúng học này, không còn một giới nào mà không vi phạm, vì giáo pháp Đại Thừa là giáo pháp bị thế tục hóa, đã lừa đảo và biến họ thành những tu sĩ ngoại đạo, mà chính họ, họ cũng không hay biết, cứ ngỡ mình là tu sĩ tỳ kheo Tăng và tỳ kheo Ni đệ tử của Đức Phật.

Giới thứ hai mươi: KHÔNG ĐƯỢC LIẾC NGÓ HAI BÊN KHI ĐI VÀO NHÀ CƯ SĨ

Vị tỳ kheo khi đi đường cũng như đi vào nhà người cư sĩ không nên liếc ngó trước sau và xung quanh. Phạm hạnh của người tu sĩ là phải phòng hộ mắt, tai, mũi, miệng, thân và ý của mình, để không bị dính mắc sáu trần: sắc, thinh, hương, vị, xúc và pháp, vì thế, không được ngó qua, ngó lại, chỉ ngó xuống hoặc ngó ngay phía trước chừng một du dà, (một du dà dài bằng bốn cánh chỏ), không nên ngó một bên mà cũng không nên ngó ngoái lại đàng sau lưng, cứ thẳng mà ngó ngay tới phía trước và bước chậm rãi mà đi, nhưng phải dự phòng loài trâu, ngựa, chó dữ, v.v... không nên đi gần nó lắm.

Vị tỳ kheo không nên gục đầu như ngựa đi, như kiểu người khiêng kiệu, không được xem ngó đông tây, nếu khi muốn nhìn ngó chỗ nào thì phải xoay hết mình qua hướng đó rồi mới xem.

Tất cả những lời dạy trên đây đều nằm trong giới luật của Phật, vị tỳ kheo đệ tử của Đức Phật cần nên lưu ý và cố gắng giữ gìn, đừng để cho sai phạm. Chính không cho sai phạm những oai nghi tế hạnh này tức là đã góp phần vào sự xây dựng và chấn hưng Phật Giáo, chứ không phải cất chùa to Phật lớn làm cảnh quang đẹp đẽ; mà cũng chính không cho sai phạm những giới luật này là để tâm ly dục ly ác pháp; có ly dục ly ác pháp thì đời sống tu sĩ mới có sự giải thoát.

Những giới luật này chúng ta phải hiểu, nó giúp cho sự tu tập của chúng ta rất lớn về sự phòng hộ sáu căn, có phòng hộ sáu căn thì tâm chúng ta mới dễ ly dục ly ác pháp, chính ly dục ly ác pháp là pháp môn “Độc cư” nội tâm của chúng ta. Mục đích giới luật là để thực hiện tâm “không phóng dật”.

Nhờ tâm có ly dục ly ác pháp thì giới luật mới thanh tịnh, giới luật có thanh tịnh thì tâm mới thanh tịnh, tâm có thanh tịnh thì tâm mới nhập được các Thánh Định, còn tâm chưa thanh tịnh mà tu thiền định là tu tà thiền. Do vậy, ta mới biết rõ cần phải sống và tu tập giới luật cho nghiêm túc, không hề được vi phạm một lỗi nhỏ, thì mới mong nhập được các chánh định của Đạo Phật.

Hành động đi không ngó qua, ngó lại là những hành động phòng hộ sáu căn của người mới tu theo Đạo Phật, nhưng phải hiểu đó là những hành động đạo đức và đạo hạnh của những bậc Thánh Nhân, người đời không thể có những hành động này được, vì tâm họ còn tham đắm quá nhiều vật chất, nên dễ bị lôi cuốn vào các pháp thế gian, mắt luôn luôn nhìn ngó hai bên, tai luôn luôn thường nghe ngóng không có thứ gì bên ngoài mà họ bỏ xót, mọi sự việc xảy ra họ đều bị dính mắc trong tâm cả.

Đi không ngó qua, ngó lại là một việc làm rất khó, chứ không phải dễ, nếu không có nhiệt tâm tu giải thoát theo đường lối của Đạo Phật đã dạy: “Cách thức phòng hộ sáu căn” thì không bao giờ có ai giữ gìn được.

Chỉ có những hàng Thánh Nhân mới có những hành động đi ngó xuống và không bao giờ ngó qua, ngó lại, liếc tới, liếc lui, đó là các Ngài đã quét sạch lòng ham muốn và ác pháp trong tâm của mình, nên nhờ đó đi nhìn xuống mà rất tự nhiên, không có một chút gò ép và ức chế tâm mình.

Hàng phàm phu tục tử không thể nào có những hành động này được, dù có cố gắng cách nào cũng không giữ được nhìn xuống một cách tự nhiên. Tại sao vậy?

Vì tâm của họ còn ham muốn quá nhiều. Cho nên đây là những Thánh hạnh, đạo đức của bậc Thánh, không thể phàm phu mà thực hiện được. Trong một trăm giới chúng học này rất là cao quý, không những chỉ dạy trau dồi, tu tập đạo đức làm người, mà còn chỉ dạy những hành động đạo đức của bậc Thánh Nhân, nhưng đây chỉ là một trong hai giới luật gạch nối, từ đạo đức làm người đến đạo đức Thánh Nhân.

Vậy các vị tỳ kheo Tăng và tỳ kheo Ni muốn trở thành những bậc Thánh Tăng và Thánh Ni, thì chỉ có nghiêm trì giới luật nghiêm túc, trước tiên mới xứng đáng là đệ tử của Đức Phật, là những bậc Thánh Tăng và Thánh Ni; sau cùng quý vị là những gương hạnh đạo đức tốt cho tín đồ soi, và còn giữ gìn mạng mạch của Phật Giáo được trường tồn mãi mãi muôn đời.

 

Giới thứ hai mươi mốt: Không được liếc ngó hai bên khi ngồi trong nhà người cư sĩ

Vị tỳ kheo, phàm ngồi trong nhà người cư sĩ, tâm phải chân chánh, mắt phải ngó ngay và nhìn xuống, buộc tâm tưởng niệm mà ngồi, không nên xem người qua kẻ lại trong nhà, cũng như xem bọn trẻ con ca, múa, hát, v.v...

Khi đến nhà người cư sĩ, người chủ nhà chưa mời ngồi thì không nên ngồi, phải xem xét kỹ lưỡng chỗ nào là chỗ dành riêng cho người tu sĩ thì mới ngồi, còn bằng không thì đứng nói một vài điều cần thiết rồi xin phép cáo lui.

Nếu vào nhà cư sĩ chưa được mời mà ngồi liền, thì không đúng tư cách đạo đức của người tu sĩ, nhưng khi được mời ngồi, mà chỗ ngồi không phù hợp với người tu sĩ như: giường, chõng, võng, ghế nằm của phụ nữ và của trẻ con thì xin phép được đứng nói chuyẹn một lúc rồi cũng xin cáo lui đi.

Phàm con người có giáo dục đạo đức, khi đến nhà người khác, thì không được nhìn liếc ngó lung tung, phải nghiêm trang nhìn ngó xuống chân mình, chỉ khi nào người chủ nhà giới thiệu những vật dụng trong nhà và hướng dẫn đi xem, thì người tu sĩ phải đoan trang nhìn mọi vật với tâm không ham thích. Mọi vật dù có đẹp đến đâu, có kỳ lạ đến đâu, nó cũng là các pháp vô thường, không nên vì các vật đó để tâm thấy tốt xấu, phải nhìn nó bằng đôi mắt bàng quang, dù nó có tiện nghi cho đời sống như thế nào, nó cũng chỉ toàn là ác pháp thường mang đến sự đau khổ cho loài người, vì ham thích nên thường sanh ra tranh chấp, tạo biết bao nhiêu sự khổ đau cho nhau.

Cho nên khi vào nhà người cư sĩ, mà giữ gìn được tư cách đạo đức ngồi đúng nơi, đúng chỗ là người biết giữ gìn giới luật, để không làm mất uy danh của Phật Giáo, đó là một điều rất khó. Phải nói cách thức ngồi trong nhà người cư sĩ đúng cách không phải dễ, ngồi như thế nào để hiện tướng phước điền, khiến cho mọi người sanh lòng cung kính và tôn trọng.

Người giữ gìn được Thánh hạnh này là bậc Thánh Tăng, không phải phàm phu mà giữ được, dù có cố giữ gìn cũng chỉ là hình thức bên ngoài, chớ nội tâm thì không phải vậy. Cho nên giới nầy rất khó chớ không phải dễ giữ gìn, chớ nên xem thường một trăm giới chúng học là một trăm giới khinh, tội nhẹ. Một trăm giới luật này là một trăm hành động đạo đức của con người và của Thánh Nhân, không phải là thứ đạo đức tầm thường.

Giới thứ hai mươi hai: Đi vào nhà cư sĩ phải giữ gìn im lặng

Vị tỳ kheo khi đi vào nhà người cư sĩ không được ở ngoài cổng kêu réo, gọi to tiếng, hoặc đứng trước cổng nói chuyện lung tung, đó là làm mất vẻ oai nghi tế hạnh của người tu sĩ, khi đến trước cổng không thấy ai, phải đứng đợi, chờ khi có người ra rồi mới ra dấu xin mở cửa cho vào. Khi vào trong nhà phải sống trầm lặng, ít nói, nếu có việc gì cần thì nói một vài lời, ai có hỏi điều gì thì trả lời gọn nhẹ, không được giải thích lòng vòng. Nếu có ai nhắn điều chi cần thiết thì ôn tồn nhã nhặn hỏi lại.

Vị tỳ kheo khi đến trước cổng nhà người thì cần phải giữ gìn im lặng, không được kêu réo om sòm như trên đã dạy, phải chịu khó chờ đợi, nếu chờ đợi không thấy ai thì ta đến nhà người kế bên, nhờ người khác đến gọi dùm, đó là chúng ta rất cần gặp chủ nhà vì có duyên sự cần thiết, nếu không có việc cần thì chúng ta trở về, chẳng nên làm động ai cả.

Đạo hạnh của người tu sĩ là phải vậy, lúc nào cũng giữ im lặng, không được làm ồn náo, đó là một hành động đạo đức của người có giáo dục trong gia đình Phật Giáo. Ngược lại, người không có giáo dục đạo đức của Phật Giáo thường đi ngoài đường, cũng như đến nhà người khác hay nói chuyện phiếm, chuyện này dẫn đến chuyện khác, chuyện không ích lợi, chuyện tào lao. Tiếng nói to lớn, có khi vừa nói vừa cười làm ồn náo, không có vẻ nghiêm trang thanh tịnh chút nào cả.

Ngoài đời, những người có đạo đức họ còn giữ gìn im lặng, tề chỉnh, ít nói, thường lắng nghe, cái gì đáng nói thì nói, cái gì không đáng nói thì thôi, không nói bậy bạ, đó là những hạng người có giáo dục trong gia đình đạo đức, còn những người không có giáo dục đạo đức thì chúng ta xin miễn nói, dù có nói thì cũng chẳng ích lợi gì cho họ, chắc chắn không bao giờ họ nghe chúng ta.

Riêng tu sĩ Phật Giáo chúng ta cần phải giữ bổn phận của mình, vì muốn thoát ra mọi sự khổ của kiếp làm người; vì phải sống đúng gương hạnh đạo đức giải thoát không làm khổ mình khổ người để cho tất cả tín đồ soi; vì Phật Pháp trường tồn và hưng thịnh nên chúng ta phải sống đúng giới luật để làm thầy Trời, Người. Vì thế, chúng ta cần phải giữ gìn im lặng, không được to tiếng, kêu réo, la lối, hú, gọi, v.v...

Có như vậy mới xứng đáng là những vị tỳ kheo Tăng và những vị tỳ kheo Ni đệ tử của Đức Phật; có như vậy mới xứng đáng là bậc Thánh Tăng và Thánh Ni, là Thầy Trời Người.

Tóm lại, người tu sĩ đệ tử của Đức Phật phải giữ gìn im lặng, nghiêm trang và tề chỉnh để thực hiện con đường giải thoát, chính sự ít nói, im lặng mới là đức hạnh “độc cư”. Độc cư là bí quyết thành tựu Tứ Thánh Định của Đạo Phật, mà trong đời này ít ai lưu ý.

 

Giới thứ hai mươi ba: Ngồi trong nhà cư sĩ phải giữ gìn im lặng

Vị tỳ kheo khi ngồi trong nhà người cư sĩ cần phải lẳng lặng, ngồi im như bậc Thánh Hiền, nếu có ai hỏi đến thì tùy duyên theo câu hỏi mà đối đáp, tiếng nói phải ôn tồn, nhẹ nhàng, êm diệu, từ tốn, nhã nhặn, hiền hòa, v.v...

Nếu vị tỳ kheo có muốn hỏi điều chi, thì phải nói vừa đủ nghe, muốn gọi ai không được kêu réo to tiếng mà phải khảy móng tay cho người đó biết, nếu người đó không nghe và không hiểu ý mình gọi, thì phải nói với người ngồi gần bên, nói truyền lại.

Trong kinh sách Nguyên Thủy Đức Phật đã dạy: “Này các thầy tỳ kheo, các thầy phải sống trầm lặng, ca ngợi sự trầm lặng, ưa thích sự trầm lặng”, đó là những lời dạy chí tình, chỉ thẳng những bí quyết thành công trong đường tu tập giải thoát.

Hầu hết giới luật và giáo pháp của Đức Phật đều dạy phải giữ gìn im lặng, không được làm ồn náo, làm ồn náo là phạm vào oai nghi tế hạnh, không những riêng trong một trăm giới chúng học này mà còn tất cả giáo pháp của Người, Nếu ai đã làm ồn náo là đã vi phạm vào đời sống của Đức Phật. Ngài không chấp nhận những sự làm ồn náo đó, vì làm ồn náo con đường tu sẽ không tu tập đến đâu cả.

Người tu sĩ làm ồn náo không xứng đáng là đệ tử của Đức Phật. Xưa Đức Phật đuổi năm trăm vị tỳ kheo, đệ tử của ông Xá Lợi Phất và ông Mục Kiền Liên, vì làm ồn náo nơi Đức Phật đang trú, và còn quở trách ông Xá Lợi Phất và ông Mục Kiền Liên không giáo dục đệ tử của mình cho đúng tư cách đạo đức của một vị tỳ kheo có đầy đủ đạo hạnh.

Đọc trong kinh Nguyên Thủy, ta thấy rất rõ ràng, các vị đệ tử của Lục Sư ngoại đạo thường sống ồn náo, thích tranh luận nói chuyện đủ thứ. Cho nên, trong giáo đoàn của Đức Phật lúc thời bấy giờ có các vị tỳ kheo nào làm ồn náo, thích tranh luận, nói chuyện phiếm thì được xem là đệ tử của ngoại đạo, chứ không phải là đệ tử của Đức Phật.

Đức hạnh của một người tu sĩ Đạo Phật là đức trầm lặng, đức trầm lặng là đức hạnh của những bậc Thánh Nhân, chớ không phải kẻ phàm phu mà sống được như vậy.

Người phàm phu thường sống trong ồn náo, thích vui chơi, ca hát, thích nói chuyện tào lao, thích làm việc này đến việc kia, thích đi đây đi đó, không bao giờ chịu sống vô sự, im lặng, và nhất là thích xây dựng nhà cửa kiên cố, kiến tạo những cảnh quang đẹp đẽ, làm hao tốn tiền của vật chất của con người mà chẳng có ích lợi gì thiết thực cho cuộc sống tu hành giải thoát của họ, còn khiến cho mọi người đam mê cảnh quang đẹp đẽ ấy, và cũng vì vậy mà làm hao tốn tiền của mọi người để đi chơi, du ngoạn cảnh.

Bởi những hành động giữ gìn im lặng, ít nói, sống trầm lặng, độc cư là những hành động đạo đức của những bậc Thánh Hiền trên đường tu hành giải thoát của Đạo Phật, mà hầu hết thời nay ít có người sống và thực hiện được những đức hạnh này.

Tu viện Chơn Như có cả trăm người ở tu, nhưng khi khép vào đức hạnh “ăn” của Thánh Hiền, “ngày một bữa”, tất cả tu sĩ bỏ đi gần phân nửa. Đến khi khép họ vào đức hạnh “ngủ” của bậc Thánh Hiền, ngày đêm chỉ “ngủ bốn tiếng đồng hồ”, thì họ bỏ đi gần hết, chỉ còn lại năm ba người. Rồi đến khi khép vào đức hạnh “độc cư” của bậc Thánh Hiền, “sống trầm lặng”, thì họ lại bỏ đi hết, chỉ còn sót lại một hai người mà thôi.

Thế mới biết sống độc cư, trầm lặng là đức hạnh của những bậc Thánh Hiền, đâu phải người phàm phu mà sống được, chỉ có những bậc chơn tu giới đức thì mới sống trọn vẹn với đức hạnh này. Tuy danh từ độc cư thì dễ nhưng mấy ai đã sống được, xem vậy mà rất khó vô vàn.

 

Giới thứ hai mươi bốn: Đi đường hoặc đi vào nhà cư sĩ chẳng đặng cười giỡn, nói chuyện ồn náo

Vị tỳ kheo khi đi ngoài đường, cũng như khi đi vào nhà người cư sĩ không được cười giỡn, nói chuyện “bô lô ba la”, làm ồn náo mất vẻ nghiêm trang, khiến oai nghi tế hạnh không có, làm cho mọi người khi nghe thấy khinh khi cười chê.

Cười giỡn tức là vừa nói, vừa cười ngả nghiêng ngả ngửa (cười bằng thích thú).

Người đời có đạo đức một chút vẫn giữ nghiêm trang không cười giỡn, nhất là ở ngoài đường và vào nhà của người khác.

Cười giỡn là tánh tình của trẻ con, Thiền Tông dạy người sống như “anh nhi”, tức là sống như trẻ con. Đối với Đạo Phật thì không phải vậy, một người tu giải thoát thì không phải tối ngày cười hề! hề! đùa giỡn như trẻ con, mà phải sống trầm lặng, sống có trí tuệ “tri kiến giải thoát”, khiến cho tâm hồn thanh thản và an lạc, đi ngoài đường cũng như đến nhà người cư sĩ đều đầy đủ oai nghi tế hạnh, không như trẻ con cười giỡn ồn náo.

Gần đây có một số thiền sinh tập cười, lúc nào cũng nở trên môi một nụ cười tươi như hoa “chúm chím”, “hề! hề!” để chứng tỏ mình đã giải thoát, nhưng không ngờ hành động đó là một người khùng, điên lãng trí (bịnh thần kinh), chớ không phải người tu giải thoát. Vì người tu giải thoát theo Đạo Phật thì sống nghiêm nghị, trầm lặng, vô sự, v.v...

Những oai nghi tế hạnh trầm lặng như vậy mới xứng đáng là những bậc Thánh Tăng, đệ tử của Đức Phật, nên giới luật cấm các vị tỳ kheo Tăng và tỳ kheo Ni không nên có những hành động thiếu giáo dục: “Mĩm cười, cười hề! Hề! Cười duyên”. Nếu cười như vậy đó là những vị tu sĩ tỳ kheo thiếu đạo đức Thánh hạnh.

Giới thứ hai mươi lăm: Ngồi trong nhà cư sĩ chẳng đặng cười giỡn

Vị tỳ kheo khi ngồi trong nhà người cư sĩ phải ngồi ngay ngắn, tề chỉnh nghiêm trang, giống như tướng người đại nhân, không được cười đùa giỡn hớt theo thói trẻ con.

Không nên vừa nói, vừa cười; không nên cười mỉm với người khác; không nên cười nịnh bợ với người khác; không nên cười tình với người khác phái.

Khi nói chuyện cũng như lúc đang ăn cơm không nên cười giỡn hoặc nói chuyện phiếm, dù có việc đáng cười cũng không nên cười to tiếng. Nếu không nhịn được thì phải lấy vạt y, áo che miệng lại rồi cười.

Đây là hành động đạo đức của con người, khi ở trong nhà hay chùa, am, thất người khác thì không được cười giỡn to tiếng, dù ở trong nhà hay chùa, am, thất của mình cũng vậy, vì cười giỡn to tiếng, làm ồn náo là một hành động thiếu đạo đức nghiêm trang, tề chỉnh và trầm lặng.

Người có giáo dục đạo đức thì không bao giờ cười giỡn to tiếng, mà luôn luôn giữ gìn sự điềm đạm, cười nói nhẹ nhàng, đúng cách, lúc nào cũng giữ bầu không khí thanh tịnh, trang nghiêm, êm đềm, vui tươi, hòa nhã, dù ở nhà mình hay đến nhà người khác hay bất cứ nơi đâu đều giữ một mực như vậy.

Tóm lại bảy giới luật này chỉ dạy chúng ta cách thức đi, đứng, ngồi, cho đúng đạo đức làm người và Thánh Hiền, khi đã học xong bảy giới luật này thì bốn hàng đệ tử của Đức Phật phải nghiêm trì, thực hành cho đúng, đừng để vi phạm mà sẽ trở thành người thiếu đạo đức, khi mà đã thiếu đạo đức thì chúng ta chẳng khác gì là một con thú vật mang lớp người, không hơn không kém.

Muốn thoát ra những hành động của loài thú vật thì chúng ta phải cố gắng thực hiện cho bằng được những hành động đạo đức mà giới luật của Đức Phật đã dạy.

CHÌA KHÓA GIỚI LUẬT

Muốn vào cửa thiền định của Đạo Phật phải dùng chìa khóa “Giới luật” thì sẽ mở được cửa. Ngoài chìa khóa giới luật ra thì không còn phương cách nào mở cửa Tứ Thánh Định và Tam Minh.

 

 

CHƯƠNG IV: ĂN, UỐNG PHẢI NGHIÊM TRANG TỀ CHỈNH

Có 23 giới

(Từ giới thứ 26 cho đến giới thứ 48)

Giới thứ hai mươi sáu: GIỮ CHÁNH Ý KHI THỌ ĐỒ ĂN

Vị tỳ kheo khi thọ dụng cơm canh phải cẩn thận khi ăn uống, không được làm đổ tháo, phải ăn uống gọn gàng, nhẹ nhàng và vén khéo. Ăn uống phải từ tốn, không được ngốn ngấu, cũng không được nhai từng hạt cơm một, miếng ăn phải vừa với miệng của mình, không được quá lớn mà cũng không được quá nhỏ.

Giới thứ hai mươi sáu này, Đức Phật đã dạy tổng quát về đạo đức cách thức ăn uống của một vị tỳ kheo Tăng cũng như tỳ kheo Ni rất đầy đủ, tuy đơn giản có mấy danh từ, nhưng nếu vị tỳ kheo nào lưu ý thì thấy cả một đạo đức về ăn uống của con người có giáo dục, có học thức.

Người có đạo đức thì không bao giờ phạm vào giới này, luôn luôn sống đầy đủ oai nghi chánh hạnh trong lúc ăn uống, khiến cho mọi người càng kính trọng Tăng và Ni.

Chính những hành động tu tập đạo đức này là để ly dục ly ác pháp; là để tâm không phóng dật; là để tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ; là để tâm đạt đến giải thoát hoàn toàn.

Hành động ăn uống là một hành động hết sức đạo đức đối với mình, nếu ăn nhanh quá, nhai thực phẩm không nhỏ dễ sanh ra bịnh tật làm khổ mình, còn ăn chậm quá làm mất thì giờ vô ích, ăn ngốn ngấu là tướng cố ăn, tham ăn, ăn như vậy là cách thứ ăn của kẻ phàm phu tục tử, chớ không phải cách ăn của người có đạo đức, có giáo dục, người ăn uống không đúng cách, khiến cho người khác chê cười và bỉ khinh.

Người tu sĩ Đạo Phật khi ăn uống cần nên tránh cách ăn thô tháo như vậy, nó làm mất vẻ đẹp và phạm hạnh của người tu hành chân chánh của Đạo Phật.

Người ở đời chỉ biết lo làm ra của cải để sống, ít có ai để ý về cách thức ăn uống, ai muốn ăn làm sao cũng được, hầu như họ xem thường về cách thức ăn uống, chỉ miễn ăn như thế nào cho no bụng mà thôi.

Nhiều khi chúng ta vô tình ăn uống giống như loài thú vật mà không biết mình là một con thú đang ăn tươi nuốt sống những miếng thịt của loài vật khác còn tươi máu chưa khô.

Phật dạy cách ăn uống có đạo đức để con người vượt ra khỏi cách ăn uống của loài thú vật. Phàm làm người phải biết cách ăn uống như thế nào là con người và ăn uống như thế nào là con vật? Ăn uống đúng tư cách đạo đức mà Đức Phật đã dạy trong kinh giới thì mới trọn vẹn đạo đức làm người, bằng không, xem thường sự ăn uống, coi chừng mà trở thành con thú vật không hay.

Chúng ta là tu sĩ của Đạo Phật đã được học giới luật về ăn uống thì chúng ta phải nghiêm trì, đừng để vi phạm thì mới xứng đáng là những bậc Thánh Tăng và Thánh Ni; thì mới xứng đáng là bậc Thầy Trời Người.

Giới thứ hai mươi bảy: Thọ cơm vừa bát ăn

Vị tỳ kheo khi thọ cơm và thực phẩm vừa đầy bát, không được nhận đầy tràn, không được ém cơm, không được cơi ngọn, và không được xin thêm mang ở ngoài bát, v.v...

Khi nhận bát cơm đầy tràn hoặc ém hoặc cơi ngọn tức là thầy tỳ kheo còn tham ăn, mà tâm còn tham ăn thì còn tham tất cả, còn tham tất cả vật chất thế gian thì đi tu theo Đạo Phật để làm gì? Chẳng có ích lợi gì cho mình cả mà còn làm mang tiếng xấu cho Đạo Phật. Tốt hơn nên về đời mặc chiếc áo người cư sĩ còn quý hơn và không mắc nợ của đàn na thí chủ, mắc nợ đàn na thí chủ rất khổ, kiếp sau phải trả bằng thân trâu cày, ngựa cỡi hoặc làm tôi tớ trong nhà người trải qua nhiều đời kiếp.

Mục đích của đạo Phật là phải ly dục, ly dục tức là ly tâm tham. Vì thế người tu sĩ Đạo Phật phải cảnh giác khi ăn uống xem tâm mình còn tham ăn hay không? Nếu còn tham ăn thì nên quán thực phẩm bất tịnh hôi thúi, ăn nơi miệng thì còn dục lạc nuốt khỏi cổ thì trở thành đồ uế trược, thấy mà ghê gớm và mùi hôi thúi khó chịu, nên dùng pháp như lý tác ý: “Thực phẩm là đồ bất tịnh, uế trược không nên tham ăn phải từ bỏ và viễn ly xa lìa”.

Tánh tham ăn là một tánh rất xấu, người ở ngoài đời có học đạo đức, họ còn từ bỏ tánh tham ăn, huống chúng ta là những tu sĩ đệ tử của Đức Phật, nương theo con đường Đạo giải thoát, mà không giải thoát được tham ăn thì còn giải thoát cái gì?

Người tham ăn là một người thiếu đạo đức làm người, Vì loài thú vật bản tánh tham ăn nên thường giết hại lẫn nhau, nếu con người không vượt ra hành động tham ăn thì cũng giống như con thú vật.

Đạo đức làm người không chấp nhận những người tham ăn, thế mà con người không học tập và xây dựng mình trên nền tảng đạo đức làm người từ bỏ tánh tham ăn, từ bỏ tánh tham ăn tức là tránh giết hại nhau và đấu tranh với nhau vì miếng ăn. Đừng vì miếng ăn mà chà đạp lên nhau thì còn đâu là đạo đức làm người.

Người ta bảo: “thương trường như chiến trường”, đúng là con người đang đói đạo đức, nên mới biến thương trường thành chiến trường.

Vì thiếu đạo đức làm người, con người giết con người bằng mọi thủ đoạn độc ác hơn loài cầm thú.

Người tu sĩ Đạo Phật cần phải cảnh giác xa lìa tâm tham ăn để giữ trọn giới luật của Đức Phật đã dạy về ăn uống, vì tham ăn là tánh rất xấu, và ăn uống không đúng tư cách đạo đức làm người thì chẳng khác nào là con thú vật. Như vậy làm sao xứng đáng là đệ tử Phật và làm sao làm gương tốt cho tín đồ?

Giới thứ hai mươi tám: Thọ canh vừa bát ăn

Vị tỳ kheo không được thọ cơm quá nhiều, không còn chỗ để thọ canh, nghĩa là nhận cơm và canh vừa đầy bát mà thôi, không được dư thừa ra ngoài. Nếu sức ăn nhiều nên dùng cái bát lớn, chớ không nên dùng bát nhỏ, mà nhận cơm canh dư thừa ra ngoài, thì trông có vẻ vị tỳ kheo còn tham ăn quá độ.

Tánh tham ăn là một tật rất xấu, người ở ngoài đời mà còn tánh đó thì mọi người khinh chê và coi rẻ, huống chi chúng ta là những tu sĩ Phật Giáo mà còn mang tánh đó thì tín đồ và người đời xem chúng ta ra gì.

Thà không làm tu sĩ thì thôi, nếu đã làm tu sĩ thì phải sống cho đúng cách, bỏ tánh tham ăn, còn tánh này thì không bao giờ tu giải thoát được. Tăng và Ni hãy lưu ý giới này, đừng xem thường mà chiếc áo tu sĩ chẳng ra gì.

Đạo đức ở đời người ta cũng không chấp nhận tánh tham ăn, người tham ăn là người thiếu giáo dục đạo đức, vì vậy trẻ con đều mang tánh tham ăn, cho nên phải được giáo dục từ lúc còn thơ ấu, sau này lớn lên mới trở thành người có đạo đức không còn tham ăn, nếu không được giáo dục như vậy lớn lên chúng sẽ còn mang tánh tham ăn.

Người ta đừng nghĩ rằng người lớn không tham ăn, nếu không được giáo dục đạo đức, người lớn vẫn tham ăn như thường, thấy ai còn mang tánh tham ăn thì biết người đó thiếu giáo dục đạo đức về ăn uống.

Tham ăn là một tánh rất xấu cần phải được khắc phục, để thực hiện đạo đức làm người cho tốt đẹp. Người tu sĩ đệ tử của Đức Phật không nên vi phạm giới này, vi phạm giới này sẽ làm mất oai nghi tế hạnh phạm hạnh của người tu, khiến cho người khác có sự hiểu biết sẽ khinh chê Phật Pháp và sau này còn thọ tội ấy rất nặng, không thể tha thứ hoặc sám hối mà hết được.

Giới này dạy cách thức xới cơm và thực phẩm vào bát, nếu ăn nhiều thì dùng bát to, ăn ít thì dùng bát nhỏ, nghĩa là lấy cơm và đồ ăn không được đầy tràn bát mà phải lưng dưới bát, phải lấy vừa đủ ăn không được ém, không được cơi vun, vì ém và cơi vun chứng tỏ tâm còn tham ăn nhiều.

Như trên đã nói tham ăn là một tánh rất xấu, mà đã có tánh xấu đó thì không thể nào gọi là người có đạo đức được. Người có đạo đức thì không bao giờ có tánh tham ăn, hễ có tham ăn thì không có đạo đức. Bản chất tham ăn là bản chất loài thú vật. Nếu người còn tham ăn là người còn mang bản chất thú vật.

Vì vậy, khi xới cơm vào bát vừa đủ ăn không được dư thừa ra ngoài, dư thừa ra ngoài tức là tham ăn. Mỗi mỗi hành động về sự ăn uống, nếu không giữ gìn nghiêm chỉnh giới luật này thì sẽ mang tiếng là người tham ăn, người tham ăn là người rất tệ và rất xấu.

Chúng ta là những tu sĩ Phật Giáo phải giữ gìn giới luật này nghiêm chỉnh không được để vi phạm, nếu vi phạm là chúng ta đã tự đào mồ không những chôn mình mà chôn luôn cả Phật Giáo.

Giới thứ hai mươi chín: CƠM CANH ĐỒNG ĂN

Vị tỳ kheo khi thọ thực không được vội vàng ăn, mà phải chờ dọn thực phẩm đầy đủ rồi mới ăn. Nghĩa là cơm và thực phẩm được dọn lên mâm bàn đầy đủ thì mới ăn, còn đang dọn thì không được ăn.

Người tu sĩ đệ tử của Đức Phật phải hiểu biết rõ ràng và tin tưởng trong những oai nghi tế hạnh nào mà giới luật đã dạy cũng đều rất quan trọng cho đời sống tu hành của mình. Về vấn đề ăn uống cũng vậy, phải hết sức cẩn thận, không được xem thường, mặc dù đang đói hết sức cũng phải giữ gìn nghiêm cẩn.

Lúc nào cũng gìn giữ oai nghi tế hạnh tề chỉnh, nghiêm trang, không được hốp tốp ăn đại, ăn đùa mà phải chờ dọn cơm lên đầy dủ và mọi người được mời thọ trai đều ngồi vào bàn xong, thì mình là người ngồi sau chót, nếu được mời trước tiên thì mình ngồi vào trước, nhưng phải chờ đợi đủ mặt và mọi người bắt đầu ăn thì mình mới ăn.

Đây cũng là một hành động đạo đức dạy về cách ăn uống, nếu một người ngồi vào bàn ăn chưa dọn xong mà lo vội ăn là người thiếu đạo đức, người ngoài đời còn giữ gìn hành động đạo đức này không khéo người ta khinh chê, huống là chúng ta, những tu sĩ đệ tử của Đức Phật thì càng phải ăn uống từ tốn không được hấp tấp, vội vàng, trong những giờ phút thọ thực cùng với mọi người.

Chúng ta đừng nên xem thường những gì Phật đã dạy. Phật dạy những gì đều có một giá trị đạo đức giải thoát rất lớn cho đời sống của con người.

Xưa các Tổ đã không hiểu về giới luật đạo đức làm người làm Thánh Nhân, nên các Tổ đã cho một trăm giới chúng học này là giới khinh, tội nhẹ và khinh thường nó, sự thật nó không khinh chút nào cả, và tội nó cũng không nhẹ đâu, vì người phạm giới này sẽ làm cho người khác khinh chê Phật Pháp, mà kẻ nào làm cho người khác khinh chê Phật Pháp thì kẻ đó phải chịu tội đọa Địa Ngục. Bởi, những giới luật này là đạo đức của con Người và Thánh Nhân, nó đều thể hiện những hành động đạo đức làm Người và làm Thánh Nhân rõ nét và cụ thể, mà không ai chê được, nó còn mang đến sự lợi ích rất lớn cho đời sống của chúng ta trong suốt cuộc đời.

Trên bước đường tu tập Thiền Định để giải thoát bốn sự khổ của kiếp người là: sanh, già, bịnh, chết, nó là pháp môn ly dục ly ác pháp, đưa tâm con người đến chỗ thanh tịnh hoàn toàn, sống đầy đủ đức hạnh làm Người và Thánh Nhân.

Giới thứ ba mươi: DÙNG THỨ LỚP ĂN

Vị tỳ kheo khi ăn cần phải theo thứ lớp, món ăn nào ở gần thì nên lấy mà ăn, đừng với tay lấy món ăn ở xa, với lấy như vậy chứng tỏ tâm vị ấy còn tham ăn, và hành động với lấy như vậy sẽ làm mất oai nghi tế hạnh trong khi ăn uống của người tu sĩ Phật Giáo.

Trong tô hoặc đĩa thực phẩm đừng bươi móc lấy món ăn ưa thích hoặc ngon béo, v.v... Tóm lại, ăn không nên lựa món ăn.

Đối với người tu sĩ, ăn chỉ là món thuốc trị bịnh đói của thân tứ đại, ăn chỉ để nuôi sống thân tu hành, chớ không phải để trang điểm thân cho đẹp, ăn không phải để cầu ngon miệng, ăn không phải để tìm kiếm những món cao lương mĩ vị, người tu sĩ phải ý thức điều này, vì sự tu hành nhằm mục đích ly dục ly ác pháp khiến cho tâm không phóng dật, làm cho tâm thanh tịnh, nhờ đó tâm mới nhập được các chánh định dễ dàng. Nếu ăn uống còn chọn thức ăn bổ béo có nhiều dinh dưỡng thì đó là nô lệ cho thân tứ đại, sợ ốm, sợ gầy, sợ bịnh, sợ đau, v.v... Ốm, gầy, bịnh, đau là do nhân quả chứ không phải do chỗ ăn uống. Có nhiều người muốn ăn uống những thực phẩm đầy đủ dinh dưỡng thì lại không có mà ăn; lại có những người ăn uống thực phẩm đầy đủ dinh dưỡng mập, béo mà lại bịnh tật ốm đau. Cho nên, người chạy theo ăn uống dinh dưỡng chỉ là một lý luận tham ăn để chạy theo dục lạc thế gian.

Ăn uống có dinh dưỡng hay không có dinh dưỡng đều do nhân quả, chứ không thể muốn mà có được; còn đau ốm bịnh tật cũng đều do nhân quả, chứ không phải do ăn uống đầy đủ dinh dưỡng mà không bịnh tật đau ốm.

Bởi vậy, một trăm giới chúng học là những hành động đạo đức rất cụ thể của những ai quyết đi tìm đường giải thoát của Đạo Phật, để ra khỏi cuộc đời đầy đau khổ này thì nên tránh sự tham ăn tham uống.

Hành động lựa món ăn trong đĩa hoặc với tay lấy món ăn ở xa, hoặc móc trong bát mà ăn, là hành động thiếu đạo đức, thể hiện tánh tham ăn rõ nét. Người đời nhìn thấy hành động như vậy sẽ khinh chê, nhất là chúng ta, những tu sĩ Phật Giáo, nếu để người đời khinh chê thì còn gì giá trị Phật Pháp, nên tỳ kheo Tăng và tỳ kheo Ni khi ăn uống phải dè dặt, cẩn thận không được có những hành động như vậy.

Là tu sĩ Phật Giáo tất cả giới luật của Phật đã dạy không được bỏ giới nào, vì giới nào cũng dạy đạo đức làm Người, làm Thánh Nhân rất xứng đáng và có một giá trị giải thoát tuyệt vời. Chính những đạo đức trong giới luật đã dạy chúng ta xa lìa các ác pháp để có được một tâm hồn thanh thản, an vui và vô sự.

Tóm lại, loài thú vật ăn uống để sống không có đạo đức, còn con người thì ăn uống vừa để nuôi thân sống mà cũng vừa thể hiện những hành động đạo đức không làm khổ mình khổ người. Ăn uống không phải vì miếng ăn, mà ăn để sống, sống để tu hành thoát khổ.

Giới thứ ba mươi mốt: CHẲNG ĐẶNG MOI GIỮA BÁT ĂN

Vị tỳ kheo khi thọ thực phải ăn từ trên xuống dưới, chớ không được moi giữa bát mà ăn, không được ăn cơm không mà cũng không được ăn thực phẩm không. Phải ăn có thực phẩm và cơm hòa lẫn nhau mà ăn, ăn như vậy mới đúng cách của người tu sĩ Đạo Phật.

Giới này Phật dạy rất kỹ về cách thức ăn uống. Ăn uống mà moi giữa bát tức là kiếm đồ ăn ngon, ăn như vậy tâm còn ưa thích ăn ngon tức là tâm còn dục, tâm còn dục tức là tâm còn ác pháp, tâm còn ác pháp tức là tâm còn đau khổ, tâm còn đau khổ tức là tâm chưa giải thoát, tâm chưa giải thoát tức là tâm còn phạm giới; tâm còn phạm giới tức là người tu sĩ không có đạo đức; người tu sĩ không có đạo đức thì đi tu để làm gì, tốt hơn là nên làm người cư sĩ ở ngoài đời tự làm lấy sống không mắc nợ đàn na thí chủ. Còn nếu muốn làm tu sĩ thì phải giới luật nghiêm chỉnh, đức hạnh hẳn hòi thì sẽ đi đến giải thoát hoàn toàn.

Muốn giải thoát, thì trước tiên người tu sĩ phải tu tập về ăn uống không được moi giữa bát mà ăn, hoặc lựa thực phẩm ăn không hoặc ăn cơm không rồi ăn thực phẩm sau, ăn như vậy tức là tâm chạy theo dục về ăn uống. Hành động đó khiến cho người cư sĩ nhìn thấy chê cười, khinh bỉ, họ bảo tu hành mà còn tâm tham ăn ngon, giống như trẻ con, không phải là người lớn.

Vậy, vị tỳ kheo đệ tử của Phật phải cố gắng khắc phục làm chủ sự ăn uống, giữ gìn oai nghi tế hạnh nghiêm chỉnh, không nên để vi phạm những lỗi lầm nhỏ mọn này.

Ăn uống là một hành động đạo đức của con người cần phải biết, nếu không biết đạo đức về ăn uống thì không khéo sự ăn uống của chúng ta cũng giống như những con vật. Con vật không có đạo đức nên muốn ăn sao cũng được. Còn con người phải có những hành động tề chỉnh nghiêm trang hơn loài thú vật, nghĩa là phải có những hành động đạo đức biết cách thức ăn uống mới được gọi là con người.

Cho nên cái ăn uống của con người phải có tư cách đạo đức, biết nhường nhịn trong bữa ăn rõ ràng, cụ thể mới là một con người, không còn là con vật.

Con người cũng từ ăn bốc bằng tay, cắn xé bằng răng, và lần lượt tu sửa biến dần thành những hành động của con người hơn để thoát ra kiếp thú vật bằng cách ăn với chén, bát, muỗng, nĩa, dao, đũa, v.v...

Những hành động này được Đức Phật dạy trong giới luật để cho người tu sĩ có đầy đủ oai nghi tế hạnh đạo đức phạm hạnh của một vị Thánh tăng và Thánh ni.

Người tu sĩ Đạo Phật cần lưu ý và giữ gìn cho trọn vẹn một trăm giới chúng học này, nó là hành động đạo đức của con người và Thánh Nhân về sự ăn uống.

Giới thứ ba mươi hai: NẾU TỲ KHEO KHÔNG BỆNH CHẲNG ĐẶNG ĐÒI CƠM CANH CHO MÌNH

Vị tỳ kheo không bịnh, khi được Phật tử cúng dường cơm và thực phẩm khô thì không được phép xin thêm canh hoặc sữa, đề hồ, v.v...

Khi đi khất thực cơm canh không được để lẫn lộn nhau hay lấy cơm phủ lên canh và thực phẩm để xin thêm canh và thực phẩm nữa, đó là muốn cầu cho nhiều thực phẩm, vì tâm buông lung theo lòng tham ăn, nên tính việc ăn uống, chớ không phải có tâm tưởng nhàm lìa ăn uống. Người tu sĩ mà còn có tâm không nhàm lìa ăn uống thì không nên đi tu làm gì, vì có đi tu cũng chẳng ích lợi gì cho mình và cho người khác, nhiều khi còn làm ảnh hưởng chung cho các vị tỳ kheo phạm hạnh khác và làm cho kẻ khác khinh chê Phật Giáo.

Vậy chúng tôi xin kêu gọi quý vị tỳ kheo Tăng và tỳ kheo Ni hãy giữ gìn một trăm giới chúng học cho nghiêm chỉnh, để Phật Giáo không bị mai một và thường còn mãi mãi.

Xin quý vị đừng tưởng một trăm giới chúng học là giới khinh, mà hãy xem nó là đạo đức của Phật Giáo, là một nền tảng vững chắc trên đường tu tập đi đến giải thoát.

Phận sự của người xuất gia, dù khất thực được nhiều hay ít thực phẩm, dù đang ăn đều phải nhớ: “Thiểu dục là gốc, tri túc là cội nguồn giải thoát”.

Đạo đức và phạm hạnh của con người và tu sĩ không cho phép quý vị xem thường những giới luật này, nếu quý vị xem thường những hành động ăn uống về giới luật này, thì quý vị không phải là những con người có đạo đức, con người không đạo đức thì Đạo Phật không chấp nhận là đệ tử của mình. Cho nên, những tu sĩ phạm giới là những tu sĩ ngoại đạo, dù họ có dùng những danh từ mạo nhận là tu sĩ Phật Giáo, nhưng chúng ta cũng dễ nhận ra qua đức hạnh giới luật. Xưa, Đức Phật nêu lên một ví dụ: “Có một bầy bò, trong đó có năm ba con dê, những con dê ấy cố gắng làm cho giống những con bò, nhưng không làm cách nào giống được, nên cuối cùng những con dê vẫn là những con dê”.

Giới thứ ba mươi ba: CHẲNG ĐẶNG LẤY CƠM PHỦ TRÊN CANH VÀ THỰC PHẨM ĐỂ ĐƯỢC CÚNG DƯỜNG THÊM

Cơm canh tức là nói cơm và thức ăn, lấy cơm phủ trên thức ăn để xin thêm, đó là mong cầu nhiều thức ăn, vì lòng tham nên tính việc ăn uống, người tu hành tìm cầu sự giải thoát, chớ không phải đi tìm sự ăn uống, cho nên phải có tâm tưởng nhàm chán ăn uống. Người xuất gia tu hành dù được cúng dường nhiều thức ăn, khi ăn còn phải quán xét xem công đức tu hành của mình có xứng đáng thọ dụng bữa cơm này hay không?

Nếu thấy giới luật chưa nghiêm chỉnh, công đức tu hành chưa sâu, thì thọ dụng bữa cơm như ăn sỏi đá, vì nghĩ mình chưa xứng đáng thọ bữa cơm này, chớ có đâu lại tham ăn nhiều, cầu mong thực phẩm ngon.

Bởi vậy, người tu sĩ chân chánh khi thọ bữa cơm luôn luôn nhớ đến hạnh “thiểu dục tri túc” làm gốc của người tu.

Hành động lấy cơm phủ lên thực phẩm để xin thêm đó là một hành đọng sai phạm rất lớn, đi ngược lại với Đạo Phật, vì Đạo Phật là Đạo ly dục ly ác pháp, có đâu lại tham ăn như vậy.

Nếu là người quyết tâm tu giải thoát thì phải tránh xa những hành động tham ăn này, không được tái phạm lại nữa. Là một người tu sĩ đệ tử của Đức Phật phải luôn luôn xa lìa lòng tham, nhất là tham ăn.

Đối với một vị tỳ kheo còn có lòng tham ăn, thì không nên làm một vị tỳ kheo, nên trở về đời sống cư sĩ, làm lại cuộc đời như bao nhiêu người bình thường khác, chỉ nên cố giữ gìn đạo đức nhân quả “không làm khổ mình khổ người”, thì cũng được giải thoát an vui và hạnh phúc trong cuộc sống.

Tham ăn là một tánh xấu, làm người cần phải tránh sự tham ăn, vì hành động tham ăn còn là bản chất của loài thú vật, người mà còn tham ăn là người chưa có giáo dục đạo đức làm người.

Cách thức ăn uống như thế nào để xứng đáng là người có đạo đức, muốn được vậy thì phải học giới luật cho thông suốt và còn phải tu tập rèn luyện mọi hành động thân, miệng, ý của mình. Không ai từ trong bụng mẹ sanh ra mà biết tất cả đạo đức làm người làm Thánh Nhân. Vì thế, chúng ta thường có những hành động thiếu đạo đức mà không biết.

Trên thế gian này có rất nhiều tôn giáo, mỗi tôn giáo đều có dạy đạo đức cả, nhưng không được toàn diện, chỉ có Đạo Phật mới có xây dựng giáo pháp của mình trên một nền tảng đạo đức nhân bản: “Không làm khổ mình khổ người”. Chỉ có nền đạo đức này mới được đầy đủ toàn thiện, chuyển hóa loài người thoát kiếp làm chúng sanh, và còn thoát ra mọi sự khổ đau của kiếp sống làm người.

Đạo Phật ra đời mang đến cho con người một nền đạo đức giải thoát, khiến cho người nào thực hiện được đạo đức này liền có một cuộc sống với một tâm hồn thanh thản, an vui, hạnh phúc. Vì thế, Đạo Phật mới được gọi là Đạo giải thoát.

Giới thứ ba mươi bốn: CHẲNG ĐẶNG KHI ĂN NHÌN TRONG BÁT NGƯỜI NGỒI BÊN CẠNH

Vị tỳ kheo khi thọ thực nhìn vào bát của mình mà ăn, không được nhìn qua bát của người khác, nhìn qua nhìn lại bát của người khác đó là hiện tướng tham ăn sanh lòng tật đố, đó là tự mình chuốc lấy sự khổ đau cho chính mình, tự mình trói buộc thêm cho mình. Đã bỏ cuộc đời, bỏ sạch hết không còn gì cả, chỉ còn ba y một bát để xin ăn, thế mà tâm còn tham ăn là nghĩa lý gì?

Nếu tánh còn tham ăn thì không nên đi theo con đường của Đạo Phật, mà hãy chọn con đường khác. Còn lòng tham ăn này mà đi tu theo Đạo Phật thì chẳng có ích lợi gì cho mình, và cho người khác, trái lại còn làm hại cho Phật Giáo.

Nếu là vị tỳ kheo đệ tử của Đức Phật, phải xa lìa, phải từ bỏ lòng tham ăn này, thì con đường giải thoát kia mới mong đạt được.

Đang ăn mà ngó nhìn vào bát của người khác là một hành động thiếu đạo đức, người ở ngoài đời người ta còn không làm như vậy, huống chúng ta là những tu sĩ đệ tử của Đức Phật thì phải giữ gìn những oai nghi tế hạnh này mà trong giới luật Phật đã dạy, không được vi phạm, vì vi phạm giới này người đời sẽ khinh chê và xem thường Phật Pháp.

Đang ăn mà nhìn vào trong bát người khác là một hành động thiếu lịch sự, thiếu lễ độ, thiếu đạo đức về ăn uống. Giới này Phật dạy chúng ta phải sống có lịch sự, có lễ độ, có đạo đức trong lúc ăn uống. Tuy rằng một hành động ăn không nhìn vào bát người khác, mà ai đã thực hiện được có cả ba điều đạo đức tốt đẹp làm người, quý vị tu sĩ cũng như cư sĩ hãy giữ gìn giới luật này, đừng nên vi phạm.

 

Giới thứ ba mươi lăm: TRONG KHI THỌ THỰC PHẢI NHẤT TÂM TƯỞNG NƠI BÁT ĂN CỦA MÌNH

Vị tỳ kheo vì muốn thành tựu đạo nghiệp, nên khi thọ thực không được nhìn ngó hai bên, mà phải nhiếp tâm quán tưởng, ăn là giúp cho thân thể mạnh khoẻ để tu tập; ăn là vị thuốc trị bịnh đói của cơ thể, chớ không phải ăn để tìm cầu sự mập béo; Ăn cũng không phải để trang sức làm đẹp thân thể; ăn cũng không phải để cầu cho ngon miệng và cũng không cầu cho trường thọ sống lâu. Người tu sĩ không nên chọn những thức ăn bổ dưỡng có đầy đủ vitamin, theo như lời các bác sĩ Tây y và Đông y đã dạy, cách thức ăn uống như vậy là những người còn sợ chết, nhưng có ai tránh khỏi cái chết đâu, dù có ăn đầy đủ những chất bổ cũng không thoát khỏi thân vô thường này.

Đối với người tu sĩ, mục đích ăn là để sống tu hành, bất kỳ cái gì ăn mà sống được là ăn, nhưng món ăn không có sự đau khổ của chúng sanh tức là không ăn thịt chúng, vì ăn thịt chúng sanh là làm đau khổ chúng sanh là gieo nhân ác. Thực phẩm nào ăn vào mà không làm đau khổ thân dù ngon hay dở, dù bổ hay không bổ đều ăn cả, còn thực phẩm nào có ngon bổ đến đâu mà ăn vào sanh bịnh tật đau khổ thì nhất định không ăn. Đó là trí tuệ của người tu sĩ.

Cho nên người tu sĩ đệ tử của Đức Phật luôn luôn phải giữ chánh niệm hiện tiền, đừng để tâm tán loạn chạy theo ăn uống ngon ngọt, nhưng khi nuốt vào khỏi cổ thì phải xem như nuốt những đồ bất tịnh, uế trược.

Vị tỳ kheo khi thọ thực phải tư duy: “Ăn cơm đây do con người làm ra rất khó nhọc và nặng nề bằng cả công sức, kể ra trong bát cơm này, người ta làm ra phải đổ mồ hôi quá nhiều mới có, tính ra mỗi hạt cơm là mỗi hạt mồ hôi, cơm này làm ra được rất gian nan, cực khổ, vậy khi ta nuốt khỏi cổ rồi, nó trở thành đồ bất tịnh, trải qua cách đêm biến thành đồ nhơ nhớp, hôi thúi, trước kia nó mới làm ra là đồ ngon ngọt thơm tho, thấy nó là bắt thèm muốn ăn, còn bây giờ thì không muốn nhìn”.

Vị tỳ kheo người tu sĩ đệ tử của Đức Phật cần phải suy nghĩ như vậy và còn suy nghĩ hơn nữa: “Nếu ta tham ăn uống sau này sẽ đọa vào ba đường khổ: Địa Ngục, Ngạ Quỷ và Súc Sanh”. Suy tư như vậy từ đó tâm ta sanh ra nhàm chán và xa lìa ngũ dục lạc thế gian, chớ đừng theo miệng lưỡi của Thiền Đông Độ: “Đói ăn, khát uống, mệt ngủ liền”. Đó là lời nói để che đậy hành động phạm giới, phá giới, phi đạo đức và tự dối tâm mình để chạy theo dục thế gian, mà cứ ngỡ rằng mình đã là “tự tại vô ngại”, không ngờ đã bị ngũ dục lạc xỏ mũi, và cũng vì sợ người khác chê cười, nên túng thế phải dùng những lời nói che đậy lòng tham đắm của mình và cũng để lừa đảo tín đồ.

Vị tỳ kheo đệ tử của Đức Phật phải sáng suốt và cảnh giác, đừng để những ngôn ngữ của các vị Tổ Sư Thiền Đông Độ tự lừa đảo mình, lừa đảo người. Đã biết bao nhiêu người dùng câu nói này tự lừa dối mình và dối người, chỉ huênh hoang trong ngôn ngữ mà tu hành chẳng ra gì.

Với tâm của quý vị, giải thoát quý vị đều biết rất rõ ràng và không giải thoát quý vị cũng biết rất rõ, đừng dùng ngôn ngữ “vô sở đắc” tự lừa dối mình dối người thì không tốt.

Vậy từ đây, giới luật này (100 giới chúng học) quý vị cần phải giữ gìn nghiêm chỉnh, để tìm lấy con đường giải thoát chân thật nơi tâm của quý vị, đó là đạo đức không làm khổ mình khổ người.

Một trăm giới chúng học là một trăm hành động đạo đức không riêng cho các vị tỳ kheo Tăng và tỳ kheo Ni, mà cho tất cả mọi người, ai ai cũng cần phải học tập và trau dồi đạo đức này để không làm khổ mình khổ người, và hưởng được một đời sống hạnh phúc an vui.

Giới thứ ba mươi sáu: CHẲNG ĐẶNG VẮT CƠM LỚN MIẾNG ĐỂ ĂN

Vị tỳ kheo không nên ăn miếng cơm to quá, cũng không nên ăn miếng cơm quá nhỏ, cũng đừng ăn giống như người dâm nữ, mỗi lần ăn hai ba hột cơm. Phải ăn vừa miệng, ăn phải chậm chạp, từ tốn, nhẹ nhàng, ăn phải giống như con tượng vương ở trên núi tuyết, ăn miếng kia vào miệng rồi, lấy vòi tém miếng sau để sẵn, cơm trước nuốt xong và tiếp miếng cơm sau vào miệng, cứ thế tuần tự cho đến khi ăn xong bữa.

Trên đây, Đức Phật dạy cách ăn uống rất rõ ràng đầy đủ oai nghi đức hạnh của một vị tỳ kheo. Cách thức ăn như vậy không thể ai chê được, kẻ phàm phu tục tử ăn nhiều cách, nhưng ta xét thấy không có cách nào ăn uống oai nghi tề chỉnh bằng cách ăn của người tu sĩ đệ tử Đức Phật.

Thế mà, vị tỳ kheo không để ý hoặc xem thường lời dạy “giới luật về ăn uống” của Đức Phật, đến đỗi đi, đứng, nằm, ngồi, ăn uống, nói nín đều thô lỗ như kẻ phàm phu tục tử.

Vị tỳ kheo đệ tử của Đức Phật phải nhớ ăn, uống, đi, đứng, nằm, ngồi, v.v... phải như tượng vương không được phạm vào một trăm giới chúng học này. Vì phạm vào một trăm giới chúng học này quý vị tỳ kheo Tăng và tỳ kheo Ni sẽ không bằng người có đạo đức ngoài đời, và như vậy người ta sẽ khinh chê Phật Pháp, cho rằng Phật Giáo không có dạy đạo đức làm người và làm Thánh Nhân.

Nếu ai bảo rằng Đạo Phật không có đạo đức thì hai trăm năm chục giới tỳ kheo Tăng và ba trăm bốn mươi tám giới tỳ kheo Ni không phải là đạo đức của Đạo Phật sao?

Đạo đức của Đạo Phật rất rõ ràng và cụ thể, mỗi mỗi hành động trong cuộc sống hằng ngày đều thực hiện toàn thiện không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh, thì không thể nào có ai chê trách được rằng Đạo Phật không có đạo đức. Vậy mà tu sĩ Phật Giáo hiện giờ luôn luôn phá giới, phạm giới, tức là phá đạo đức của mình, phá đạo đức của mình tức là làm khổ mình, khổ người và làm khổ chúng sanh, cho nên phần đông tu sĩ Phật Giáo hiện giờ không hiểu đạo đức của Đạo Phật, họ chỉ hiểu đạo đức của Đạo Phật là một thứ đạo đức mê tín mà Phật Giáo Đại Thừa dựng lên.

Giới thứ ba mươi bảy: ĂN CƠM CHẲNG ĐẶNG HÁ MIỆNG TO

Vị tỳ kheo khi thọ thực không được há miệng to để bỏ cơm vào. Hành động há miệng to bỏ cơm vào là hành dộng quá thô lỗ của kẻ phàm phu tục tử, không phải của người có giáo dục đạo đức. Người tu sĩ đệ tử của Phật cần nên tránh xa hành động thô tháo này, nó thô lỗ và xem rất dị kỳ khi há miệng to bỏ cơm vào. Cho nên Phật chế giới này là để ngăn chận hành động ăn uống quá thô tháo của một số tỳ kheo còn tâm tham ăn, chưa chịu xả bỏ xa lìa, nhìn thấy thực phẩm đồ ăn là đã muốn bốc hốt ăn liền, làm như đã nhịn đói hai ba ngày.

Vị tỳ kheo phải tập làm chủ thắng tâm mình, đừng để tật nào tánh nấy theo kiểu phàm ăn của thế tục thì rất là khó coi, và nhất là tu sĩ lại càng khó coi hơn.

Hành động phi oai nghi tế hạnh như vậy sẽ làm mất phạm hạnh của vị tỳ kheo. Người đời nhìn thấy họ sẽ xem thường các vị tỳ kheo, không những riêng một người mà chung cho tất cả các vị khác, “một người làm xấu cả bọn mang nhơ”.

Người há miệng to ăn uống như vậy không phải tư cách của người có đạo đức. Như trong kinh giới đã dạy, “ăn cơm chẳng đặng há miệng to”. Đây là một hành động đạo đức đối với mình, tự mình làm xấu cho mình khiến mọi người khinh che mình, phải nói hành động này là hành động thiếu đạo đức đối với bản thân.

Vậy quý vị tỳ kheo Tăng và tỳ kheo Ni cùng tất cả cư sĩ nam nữ và mọi người phải giữ gìn giới hạnh này, để mình có đạo đức đối với mình, đừng để bị mọi người ở đời chê bai.

Giới thứ ba mươi tám: KHÔNG ĐẶNG NGẬM CƠM NÓI CHUYỆN

Vị tỳ kheo trong khi thọ thực, miệng đang nhai cơm thì không được nói chuyện, phải im lặng mà ăn, phải giữ gìn trang nghiêm, thanh tịnh trong giờ thọ thực, phải nghiêm tịnh giữ chánh niệm trong khi đang ăn. Có giữ gìn oai nghi tế hạnh trong ăn uống như vậy thì mới xứng đáng là vị đệ tử của Đức Phật.

Cơm còn nhai trong miệng mà nói chuyện, đó là thói quen của người thế tục và của ngoại đạo, chớ oai nghi tế hạnh của một vị đệ tử Đức Phật thì không bao giờ có vi phạm như vậy. Nếu đang nhai cơm mà nói chuyện thì không phải tu sĩ Đạo Phật, đó là tu sĩ ngoại đạo, giới luật này đã xác định như vậy. Vị tỳ kheo nào vi phạm thì tất cả tín đồ xem đó là tu sĩ ngoại đạo mang danh Phật Giáo.

Nếu khi đang ăn, có vị Thượng tọa kêu thì chỉ thoát ra tiếng “dạ” đừng nên nói gì nhiều.

Khi đang ăn, có người đem thêm đồ ăn, thấy vừa đủ ăn, thì chỉ cần ra dấu ngăn lại chớ không nên nói: “Thôi đủ rồi, không dùng nữa”, chỉ bấy nhiêu lời còn không nói, huống là nói chuyện tào lao, chuyện phiếm, chuyện ngoài đường trong bữa ăn sao?

Các vị tỳ kheo cần nên nhớ kỹ, đừng để vi phạm mà người đời khinh chê Phật Pháp.

Ăn cơm mà nói chuyện, không đúng tư cách đạo đức của người tu sĩ đệ tử của Đức Phật, người ở ngoài đời có giáo dục đạo đức, ăn cơm người ta còn không nói chuyện, huống là chúng ta, những tu sĩ tỳ kheo Tăng và tỳ kheo Ni ăn uống lại nói chuyện sao? Chúng ta phải giữ gìn nghiêm chỉnh không được vi phạm giới này.

Giới luật này xem thì dễ, nhưng thói quen, tật nói chuyện trong bữa ăn đã nhiễm lâu đời thành một thói quen, xem vậy chớ không dễ giữ gìn được cần phải cố gắng hết sức mới có giữ được, chớ nên khinh thường.

Giới thứ ba mươi chín: CHẲNG ĐẶNG VẮT CƠM NẮM XA THẨY VÀO MIỆNG

Người Ấn Độ hay dùng tay bốc cơm ăn, do đó mới có vắt cơm để cách xa thẩy vào miệng. Vị tỳ kheo khi ăn uống không được nắm thực phẩm ném vào miệng mà phải nhẹ nhàng bỏ vào miệng một cách khéo léo, gọn ghẽ, đó là theo phong tục người Ấn Độ, còn người Việt Nam thì không được ăn như vậy, mà phải bằng muỗng hoặc đũa. Phong tục Ấn Độ bốc ăn còn rất gần với loài thú vật như: khỉ, vượn, v.v...

Xưa, trong thời Đức Phật còn sống trong các bộ lạc, con người chưa phát minh ra muỗng, đũa, nĩa, dao, v.v... nên thường dùng tay và răng như loài thú vật bốc ăn hoặc cắn xé, v.v...

Nếu bảo rằng dân tộc Ấn Độ ăn bốc còn tất cả các dân tộc khác thì không ăn bốc? Như chúng tôi đã dạy ở trên, con người chỉ là một loài động vật như muôn ngàn loài động vật khác, nhờ có phát minh đủ mọi phương diện nên tiến hóa dần ra khỏi loài động vật, đến ngày nay mới có những hành động của con người thật là người. Hiện giờ con người trên hành tinh này toàn bộ còn ăn bốc cả, chưa phải thật sạch.

Tại sao chúng tôi dám quả quyết và xác định như vậy?

Xin thưa cùng quý vị nên lưu ý, khi ăn cái bánh hoặc trái cây, cục kẹo quý vị đều dùng tay cầm bốc ăn, vậy mà quý vị cho rằng giới luật của Đức Phật chế ra là lỗi thời trong thời đại khoa học văn minh này.

Giới luật của Đức Phật chế ra từ xưa đến giờ, theo chúng tôi nghĩ không có giới nào lỗi thời cả, chỉ có con người của chúng ta là còn lỗi thời và lạc hậu. Vì còn lỗi thời và lạc hậu nên có những hành động thiếu đạo đức, thường làm khổ cho nhau, đó là chúng ta còn mang bản chất của loài thú vật, còn có những hành động của loài thú vật là còn lỗi thời và lạc hậu.

Như vậy giới luật dạy cách thức ăn bốc này có lỗi thời không?

Theo chúng tôi thiết nghĩ không bao giờ có giới luật nào của Đức Phật chế ra mà lỗi thời cả, chỉ có các Tổ cho giới luật của Phật lỗi thời là vì các Tổ còn mê tín, lạc hậu và lỗi thời.

Giới luật nào của Đức Phật cũng dạy những điều đạo đức cho con người để không còn mê tín, lạc hậu và thoát ra khỏi kiếp loài cầm thú, chuyển hóa trở thành những con người tốt đối xử với nhau có đạo đức hơn và không làm khổ cho nhau, thường đem lại sự an vui, hạnh phúc trên hành tinh này.

Vậy khi chúng ta cầm bốc một cái bánh, cục kẹo bỏ vào miệng ăn đều phải nhẹ nhàng, từ tốn và vén khéo có tư cách trong ăn uống, nếu không tập luyện và trau dồi những hành động đạo đức này thì chúng ta ăn uống không khác gì con thú vật.

Trong thời Đức Phật còn tại thế Ngài đã dạy cho các đệ tử cách thức bốc ăn uống phải nhẹ nhàng bỏ vào miệng, không được để thực phẩm ở xa ném vào, ở xa ném vào miệng trông rất thô lỗ giống như trẻ con ném “lỗ đáo”.

Sử dụng muỗng, đũa khi ăn cũng phải khéo léo gọn gàng và nhẹ nhàng, không được thô tháo.

Cách thức ném thực phẩm vào miệng để ăn đó là làm trò của loài khỉ, vượn, đó cũng là những trò chơi của trẻ con vừa ăn uống vừa chơi giỡn với nhau, chứ người lớn không ai làm như vậy cả.

Người tu sĩ Đạo Phật không thể ăn uống đùa chơi như vậy được, vì những hành động đó sẽ làm mất oai nghi tế hạnh ăn uống của vị tỳ kheo đệ tử Phật. Hành động đó là một hành động trẻ con, giới luật này nhắm vào dạy những chú Sa Di tuổi còn trẻ thơ.

Người tu sĩ khi ăn uống làm như vậy chẳng khác nào như chuyên gia xiếc làm trò cho thiên hạ xem mà mọi người chẳng ca ngợi khen tặng, trái lại còn cười chê và bất kính Phật, Pháp, Tăng. Cho những vị tỳ kheo là bọn tu sĩ Phật Giáo ăn uống như trẻ con.

Do đó, mỗi mỗi hành động của người tu sĩ (vị tỳ kheo tăng và vị tỳ kheo ni), không những riêng ăn uống mà còn tất cả những hành động khác phải hết sức cẩn thận và ý tứ như trong giới luật của Đức Phật đã dạy.

Nếu không cẩn thận và ý tứ người tu sĩ sẽ bị mọi người xem thường và chẳng còn cung kính như bậc Thánh Tăng. Bởi vậy làm Thánh Tăng rất khó, những hành động phải đúng bậc Thánh mới được gọi là Thánh, sơ hở một chút là thiếu đức hạnh liền, thiếu đức hạnh làm Người, làm Thánh thì còn ai xem ra gì.

Giới thứ bốn mươi: ĂN CƠM KHÔNG ĐƯỢC RƠI ĐỔ

Vị tỳ kheo khi thọ thực không được để cơm và thực phẩm rơi rớt, ăn uống phải vén khéo, gọn gàng, không được bừa bãi cơm và thực phẩm tung tóe làm chỗ ăn trông bẩn thỉu và mất vệ sinh.

Khi ăn trái cây hoặc bánh không nên cầm nguyên trái cây hoặc nguyên cái bánh, cùng miếng mứt cắn một phần hoặc một nửa mà ăn, cần phải bẻ hoặc cắt nhỏ cho vừa miệng rồi mới dùng đũa, muỗng múc hoặc gắp mà ăn. Những hành động làm như vậy, tức là tư cách ăn uống của con người vừa giữ gìn vệ sinh và cũng vừa giữ được tư cách ăn uống trang nhã lịch sự. Hầu hết hiện giờ mọi người khi ăn bánh, mứt, trái cây, v.v... đều dùng tay cầm và răng cắn ngang ăn, giống như một con thú vật đang ăn, trông rất thô lỗ và không vệ sinh.

Tất cả các loại bánh và trái cây như: bánh tráng, bánh tét, bánh ít, dưa gang, dưa hấu, cam, quít, bưởi, bôm, lê, chuối, v.v... đều phải bẻ hoặc cắt nhỏ ra, rồi dùng muỗng, nĩa, đũa mới ăn, thì trông rất là lịch sự và thanh nhã của những người có đạo đức.

Tu sĩ, nhất là những vị tỳ kheo Tăng và tỳ kheo Ni thì không được cắn ngang mà ăn. Cần phải giữ hạnh này không được vi phạm. Vì vi phạm oai nghi tế hạnh giới luật này là vị tu sĩ thiếu giáo dục đức hạnh của Đạo Phật, là kẻ phạm giới, là những người không xứng đáng trong Đạo Phật.

Ăn uống phải vén khéo không được để rơi rớt, vì rơi rớt trông nơi chỗ ăn bẩn thỉu giống như chỗ ăn của thú vật. Muốn thoát ra bản chất của loài thú vật thì sự ăn uống phải được vén khéo và vệ sinh, không được ăn uống theo kiểu ăn lấy no.

Đức Phật dạy các vị tỳ kheo Tăng và Ni ăn uống không được rơi rớt, để giữ đức hạnh trang nhã, thanh lịch, xứng đáng trở thành những đệ tử của Đức Phật, những bậc Thánh Tăng và Thánh Ni.

Tỳ kheo Tăng và tỳ kheo Ni là những người quyết tâm đi tìm con đường giải thoát của Đạo Phật, thì không lý nào những đạo đức giải thoát mà Đức Phật đã dạy lại không chấp nhận thực hiện và giữ gìn nghiêm túc để được tâm hồn giải thoát hay sao?

Giới luật của Đức Phật là một đạo đức giải thoát, là một pháp môn tu tạp, trau dồi thân, tâm để làm chủ bốn sự khổ đau của kiếp người, nếu Tăng, Ni không giữ gìn giới luật nghiêm túc và không lấy giới luật tu tập và trau dồi thân tâm thì chẳng bao giờ có giải thoát, dù có ngồi thiền, niệm chú, tụng kinh, niệm Phật đến trăm kiếp cũng không làm chủ sanh, già, bịnh, chết được.

Giới thứ bốn mươi mốt: CHẲNG ĐẶNG ĂN BÚNG MÁ

Vị tỳ kheo khi ăn uống không được cố ăn cho đầy miệng, cho hai má bùng ra giống in như khỉ đột ăn, không nên cơm ăn trong miệng còn mà lại và thêm, phải nhai nuốt cho hết rồi mới và miếng khác.

Ăn uống ngốn ngấu đầy miệng và vội vàng thì đó không phải là đức hạnh của người tu sĩ, mà là người thế gian thiếu giáo dục đạo đức về ăn uống, thường những người ở ngoài đời có giáo dục đạo đức còn không ăn uống như vậy, huống là chúng ta, những tu sĩ Phật Giáo mà còn vi phạm giới luật dạy về ăn uống như vậy được sao?

Người tu sĩ phải có đạo đức hơn người ngoài đời, cớ sao lại còn vi phạm những điều vô đạo đức thông thường như vậy, thì làm sao xứng đáng là người gương hạnh đạo đức cho tín đồ. Ăn uống như khỉ đột thì sao gọi là người tu, người tu mà làm trò hề cho người xem thì thật là sỉ nhục.

Trong cuộc đời tu hành của chúng tôi, chúng tôi có gặp một vị tỳ kheo Tăng ôm đầu gối, giả làm cây đờn cò kéo “ò, e” khiến cho thiên hạ cười “vỡ bụng”, hay là cười người tu sĩ Phật Giáo tu hành “đời chẳng ra đời, đạo chẳng ra đạo”.

Bởi giới luật không nghiêm túc nên mới sản xuất những loại tu sĩ ca hát như vậy, thật là trái với giới luật của Đức Phật đã dạy, khiến cho Phật Pháp càng ngày càng suy đồi, chánh pháp càng ngày càng mất, chỉ còn lại một thứ giáo pháp tà ngoại, phi đạo đức của Đại Thừa Giáo và Thiền Tông.

Nếu vị tỳ kheo đệ tử của Đức Phật tìm cầu sự giải thoát thì cần nên tránh xa những hành động ăn uống phi phạm hạnh, phi đạo đức như vậy, nó làm mất oai nghi tế hạnh của người tu sĩ Đạo Phật và giết chết con đường tu giải thoát của vị ấy.

Hỡi các vị tỳ kheo Tăng và các vị tỳ kheo Ni! Các vị có tin một trăm giới chúng học này tội nhẹ hay không? Điều này chúng ta tự xét, khi chúng ta phạm vào những giới luật này thì Phật Pháp có suy đồi không? có bị mọi người khinh chê Phật Giáo không? Nếu có tức là tội rất nặng. Vả lại, những hành động của giới luật này dạy toàn là đạo đức thiện của một người có giáo dục trong những gia đình Phật Giáo.

Chúng ta là những người tu tập làm theo hạnh của Thánh Hiền, cớ sao lại còn sai phạm những lỗi lầm này? Những lời Phật dạy năm xưa còn ghi khắc mãi trong tâm của những bậc chân tu, thạc đức, đến giờ này thì không còn nữa, và cũng không biết đi tìm nơi đâu ra một bậc chơn tu giới đức của Đạo Phật. Thật là khó khăn vô cùng trong giai đoạn hiện tại của Phật Giáo ngày nay.

Thà không làm vị tỳ kheo, mà đã làm vị tỳ kheo thì phải hết sức giữ gìn những giới luật đạo đức trong một trăm giới chúng học này để vừa làm tốt đạo, đẹp đời.

Giới thứ bốn mươi hai: CHẲNG ĐẶNG NHAI CƠM CÓ TIẾNG

Vị tỳ kheo khi thọ thực không được nhai cơm hoặc thực phẩm phát ra tiếng, không được nhai lạp xạp, không được nuốt ọt ọt, không được húp cháo, canh phát ra tiếng rột rột.

Trong khi ăn uống, người tu sĩ đệ tử của Đức Phật phải ăn nhẹ nhàng, khoan thai, thì làm sao phát ra tiếng kêu, cũng như ăn canh húp mỗi lần từng muổng một thì không bao giờ có tiếng kêu được, chỉ có những người ăn uống vội vàng lật đật mới biến ra hành động thiếu đạo đức như vậy.

Vì ăn vội, ăn vàng, nên tạo ra tiếng kêu. Hành động ăn uống như vậy là hành động thiếu đạo đức đối với mình, để cho người khác khinh chê, xem mình là một bọn háu ăn thiếu giáo dục, kẻ chẳng ra gì.

Đối với người tu sĩ Đạo Phật, cuộc sống thường là vô sự, tâm hồn luôn thanh thản, nên không có điều gì mà phải vội vàng ăn uống hấp tấp, vì thế khi ăn uống thong thả tuần tự nhai rất kỹ, và trong khi nhai chẳng để phát ra tiếng động, vì ăn uống phát ra tiếng động giống như một con thú đang ăn. Chúng ta là những con người, ăn uống cần nên tránh và cố giữ gìn không để cho tiếng động phát ra, như vậy mới thật là con người.

Giới bốn mươi hai này quý vị phải giữ gìn nghiêm chỉnh, và tập luyện khi ăn uống không được phát ra tiếng động, ăn uống phát ra tiếng động là không đúng tư cách của một vị tỳ kheo, cần nên thận trọng để tránh người đời khinh chê.

Người ăn uống phát ra tiếng động “lạp xạp” giống như loài heo ăn, chó uống nước, đó là bản chất loài thú vật còn trong người đó, nếu chúng ta có trường hợp ăn uống như vậy thì phải cố khắc phục những hành động sai trái này để thoát kiếp loài thú.

Giới thứ bốn mươi ba: CHẲNG ĐẶNG NHAI CƠM LUA HÚP LỚN TIẾNG

Vị tỳ kheo khi thọ thực không được lua húp lớn tiếng, trong khi ăn uống phải nhỏ nhẹ, thong thả, không được vội vàng, lua húp rột rẹt.

Cách thức ăn uống lua húp là lối ăn uống của kẻ phàm phu tục tử, của những kẻ có nhiều công việc, của những người có tánh vội vàng, hấp tấp, không phải là kẻ vô sự. Chúng ta là những vị tu sĩ Phật Giáo, là những người vô sự có đâu lại ăn uống vội vàng như vậy.

Vả lại chúng ta, những tu sĩ của Đạo Phật ngày ăn có một bữa thì sự ăn uống phải thong thả, nhẹ nhàng, khoan thai, ăn phải nhai kỹ và từ tốn thì làm sao có lua húp rột rẹt. Nếu những vị tỳ kheo nào quen tánh ăn lua húp thì hãy tập ăn từ tốn trở lại để đúng oai nghi tế hạnh của người tu sĩ đệ tử Đức Phật, tránh khỏi những sự khinh chê của người đời.

Ăn uống lua húp là một hành động thiếu đạo đức làm người, vì ăn uống cách thức như vậy là cách thức ăn uống của một con thú vật, chứ không phải là con người.

Giới luật Phật đã dạy là để xây dựng con người có một đạo đức hẳn hòi, từ cách thức ăn uống đến những oai nghi tế hạnh khác đối với mình và đối với mọi người, cũng như đối với các loài vật khác, giới luật dạy chỗ nào, đâu đâu cũng đều có ích lợi rõ ràng và cụ thể, cho nên giới luật của Đạo Phật chúng ta không được quyền bỏ một giới nào cả, đừng bắt chước các Tổ bỏ các giới gọi là không quan trọng và lỗi thời. Giới luật của Đức Phật là đạo đức làm người làm Thánh Nhân thì không bao giờ thiếu quan trọng và lỗi thời được, giới nào cũng chỉ dạy cho chúng ta có những hành động đạo đức làm người làm Thánh rất rõ ràng và cụ thể, để thoát ra bản chất của loài cầm thú, nên tất cả những con người trên hành tinh này dều phải học giới luật của Phật, nó mang đến cho loài người một đạo đức nhân bản không làm khổ mình khổ người. Do đó cuộc sống con người mới có an vui, hạnh phúc chân thật. Giới luật của Đức Phật không phải là một pháp luật nên không lỗi thời, thì cần gì phải sửa tới sửa lui hoặc loại bỏ ra.

Nếu ai thực hiện giới luật đạo đức này chắc chắn người ấy sẽ có được một cuộc sống thanh thản, an lạc và hạnh phúc.

Giới thứ bốn mươi bốn: CHẲNG ĐẶNG LE LƯỠI LIẾM THỨC ĂN

Vị tỳ kheo khi ăn uống chẳng được le lưỡi liếm thức ăn còn dính trong chén, bát, đũa, nĩa, v.v...

Liếm thức ăn trong chén, bát, tô, đũa, nĩa, muỗng, v.v... như vậy thì có khác nào như trẻ con, ăn uống như vậy không phải là người lớn, ngoài đời người thế tục còn không ăn uống như vậy, huống chúng ta là những tu sĩ đệ tử của Đức Phật thì lại càng không nên có những hành động liếm đó.

Khi tay dính sữa, mật, đường, dầu cũng như chén, bát, đũa, nĩa, v.v... thì không được le lưỡi liếm, hoặc mút ngón tay hoặc le lưỡi liếm, hai bên mép môi, hành động làm như vậy rất khó coi giống như một con chó hoặc một con mèo đang ăn.

Vị tỳ kheo cần phải giữ gìn oai nghi tế hạnh này đừng để vi phạm, vì vi phạm giới luật này được xem là mang lớp người mà cách thức sống ăn uống là một con thú vật.

Giới này hầu hết mọi người đều vi phạm không ít thì nhiều, do đó mọi người cần nên giữ gìn nghiêm chỉnh không được để vi phạm, vì vi phạm vào hành động này, con người không thoát ra bản chất loài thú vật là ở chỗ ăn uống le lưỡi liếm. Người còn le lưỡi liếm là hành động chưa có đạo đức của con người, cần nên phải chừa bỏ. Không nên vì chút ít thực phẩm dính trong bát, đũa, nĩa, tay, v.v... mà le lưỡi liếm, để trở thành một con thú vật thì có tốt đẹp gì đâu?

Giới luật Phật dạy những hành động đạo đức làm người để vượt thoát ra khỏi hành động không đạo đức của loài thú vật. Vậy chúng ta là con người phải sửa sai những hành động không đúng này.

Làm người phải sống cho đúng những hành động làm người, thú vật là phải sống đúng hành động của loài thú vật. Vì thế giới luật đạo đức của Đạo Phật đã dạy từng hành động để làm Người và làm Thánh Nhân, tránh xa những hành động làm loài thú vật.

Trong đạo Phật có bốn quả:

1- Tu đà hoàn.

2- Tư đà hàm.

3- A na hàm.

4- A la hán.

Quả là kết quả của sự tu tập, như quả “tu đà hoàn”, ai đã đạt được quả tu đà hoàn là được nhập vào dòng Thánh, có nghĩa là hành động hằng ngày của chúng ta sống đúng những hành động đạo đức của các bậc Thánh. Do những hành động sống đúng đạo đức đó, đó là kết quả được nhận vào dòng Thánh, chứ không phải nhập vào thiền này thiền nọ mà chứng quả Tu Đà Hoàn. Thế mà, các vị tỳ kheo Tăng và tỳ kheo Ni thời nay, có ai được nhận nhập vào dòng Thánh đâu? Vì giới luật đã vi phạm.

Chỉ vì họ không có những hành động đạo đức của Thánh Nhân. Muốn nhận xét một người tu chứng quả Tu Đà Hoàn cũng không phải khó khăn lắm, chỉ cần nhìn thấy đời sống của họ qua hành động đạo đức trong giới luật Phật đã dạy, nếu hành động của họ phạm giới phá giới, tức là còn hành động của loài thú vật thì không thể nào là những hành động đạo đức của con người và Thánh Nhân được.

Loài thú vật thì phải có những hành động của loài thú vật, không thể hành động thú vật là hành động con người được, con người không học đạo đức Thánh Nhân thì không thể nào sống có những hành động đạo đức của Thánh Nhân được, ngược lại những bậc Thánh Nhân thường sống trong những hành động đạo đức của con người và có những hành động đạo đức hơn con người nữa, như vậy mới được gọi là Thánh Nhân.

Ngoài những hành động giới luật của Đức Phật dạy đạo đức làm người, làm Thánh Nhân, nếu sống không đúng giới luật của Đức Phật thì không thể gọi là người có đạo đức làm người và làm Thánh Nhân được.

Ví dụ: Một người bình thường không thể ăn ngày một bữa được, không thể không ngủ được, không thể sống trầm lặng độc cư được, không thể sống vô sự được, không thể ly dục ly ác pháp được, không thể tịnh chỉ mộng tưởng được, không thể tịnh chỉ hơi thở được, không thể biết được nhiều đời nhiều kiếp của mình được, không thể thấy xa ngàn dặm được, không thể diệt mầm tái sanh luân hồi được. Tất cả những hành động này là những hành động đạo đức của bậc Thánh Nhân, chỉ có những bậc Thánh Nhân sẽ làm được tất cả những đức hạnh đã kể trên không có khó khăn gì.

Những hành động như trên đây đã kể ra, đó là những giới luật của Đức Phật đã dạy về đạo đức làm Thánh Nhân. Thế mà tu sĩ Phật Giáo thời nay lại phạm giới, phá giới, sống trong những hành động còn là súc sanh thú vật thì làm sao gọi là Thánh Nhân được? Thì làm sao gọi là nhập lưu được (Tu Đà Hoàn)?

Những pháp môn giới luật tu tập để làm Thánh Nhân thì tu sĩ thời nay không tu tập, lại tu tập các pháp làm chúng sanh, và còn tệ hơn nữa là làm ác quỷ để lừa đảo người, bằng mọi hình thức đủ loại gian xảo, chỉ có chiếc áo cà sa của Phật Giáo và chiếc đầu cạo trọc mà thôi.

Giới thứ bốn mươi lăm: CHẲNG ĐẶNG RẨY TAY KHI ĂN CƠM

Vị tỳ kheo khi thọ thực không nên rẩy tay. Trong cơm lỡ có cỏ, kiến, trùng, sâu, bọ thì nên lượm bắt bỏ, để nhẹ ra ngoài, không nên dùng tay búng rẩy.

Ví như cơm hoặc thực phẩm có dính tay thì không được rẩy mà phải đi rửa tay cho thật sạch rồi mới vào ăn cơm.

Không được dùng đũa, muỗng, nĩa, khều, vứt những thực phẩm thiu thúi mà phải dùng dao cắt gọt, để những chỗ thiu thúi có nơi, chỗ rồi đem bỏ vào chỗ chứa rác hay thùng rác, chớ không được búng rẩy và bỏ bừa bãi không đúng chỗ, làm mất vệ sinh chung, gây ảnh hưởng môi trường ô nhiễm.

Vị tỳ kheo đệ tử của Đức Phật phải sáng suốt cố gắng giữ gìn oai nghi tế hạnh này, không được để vi phạm giới luật này, vì vi phạm luật này sẽ ăn ở dơ bẩn, biến mình thành con thú vật sống không vệ sinh.

Ăn uống búng rẩy là hành động của loài gà, vịt, chim chóc chớ không phải là hành động của con người.

Ăn uống búng rẩy làm mất vệ sinh nơi chỗ ăn uống, dơ bẩn, làm người những hành động này cần nên tránh, chỗ ăn, chỗ ở phải được giữ gìn vệ sinh sạch sẽ, không được bỏ bừa bãi bẩn thỉu giấy, lá, vỏ trái cây, bọc nilon và đồ ăn thừa, v.v...

Đây là một hành động hết sức vệ sinh trong khi ăn uống, không được làm bẩn thỉu chỗ ăn uống, đối với Đạo Phật đây là một hành động đạo đức vệ sinh của con người, mà mọi người cần phải thực hành nghiêm chỉnh trong khi ăn uống không được rẩy tay hoặc rẩy đũa, muỗng, v.v...

Người tu sĩ đệ tử của Đức Phật thì cần phải giữ gìn giới luật này hơn nữa để xứng đáng là đệ tử của Phật, xứng đáng là những bậc Thánh Tăng, Thánh Ni.

Giới thứ bốn mươi sáu: CHẲNG ĐẶNG BỐC CƠM RƠI MÀ ĂN

Vị tỳ kheo khi thọ thực không được để cơm đổ tháo, rủi rớt một vài hạt cơm thì không tội, nhưng không được bốc cơm rơi rớt đó mà ăn, hành động đó sẽ làm mất oai nghi tế hạnh của vị tỳ kheo. Nếu ăn uống rủi ro rơi rớt thì gom lại cho có chỗ có nơi, cũng như vỏ trái cây, khi ăn xong phải gom lại một chỗ để bỏ vào thùng rác, giữ vệ sinh chung cho mọi người trong đó có mình, không được tung rẩy khắp nơi, khiến cho môi trường sống càng thêm ô nhiễm, sanh ra nhiều bịnh tật khổ đau.

Giới luật của Đức Phật đã dạy, một người tu sĩ không những giữ vệ sinh cho mình mà còn giữ vệ sinh chung cho mọi người khác, đó là hành động đạo đức thiết thực cụ thể lợi ích cho mình, cho người.

Trong bữa ăn dùng tay hoặc đũa rẩy cơm hoặc thực phẩm dính là một hành động không lịch sự, thiếu vệ sinh cần nên bỏ không được tái phạm, đó là phạm vào oai nghi tế hạnh của một vị tỳ kheo đệ tử của Đức Phật.

Cách đây 2542 năm, Đức Phật đã chế giới luật này, chứng tỏ Ngài đã thấu suốt mọi hành động lịch sự và vệ sinh trong môi trường sống chung của loài người, mà mọi người cần phải giữ vệ sinh và bảo vệ nó để đem lại sự sống an lành cho loài người trên hành tinh này, tức là giải thoát.

Ngày nay đến thời đại khoa học hiện đại, kỹ nghệ tiến triển như thế này, thì người ta mới phát giác ra được môi trường sống của loài người đang bị ô nhiễm nặng, cần phải được bảo vệ thì hơi quá muộn màng.

Những trận thiên tai, thủy họa, động đất đổ trên đầu của loài người gây bao nhiêu sự chết chóc thảm thương, không phải tự con người đã làm ra sao? Những nạn phá rừng và những nhà máy công kỹ nghệ đã thải ra biết bao nhiêu chất khí độc hại đã làm cho bầu khí quyển ô nhiễm và thay đổi thời tiết mưa gió bất hòa.

Nếu theo giới luật đạo đức vệ sinh của Đức Phật đã dạy thì mọi người giữ gìn không hề vi phạm thì cách đây hơn hai mươi lăm thế kỷ cho đến ngày nay sự vệ sinh và bảo vệ môi trường sống đã tốt đẹp biết bao nhiêu. Làm gì có thời tiết bất an, mưa không thuận, gió không hòa, sức khoẻ con người đâu có như ngày nay.

Khi biên soạn bộ giới luật này, chúng tôi thấy giới luật của Đức Phật sao dạy đạo đức tuyệt vời, đem lại từng chút hành động cho con người một đời sống hạnh phúc chơn thật, thật sự an vui mà không thể có ai phủ nhận được. Đó không phải sự giải thoát của Đạo Phật sao? Thế mà con người đã bỏ quên đạo đức này, nhất là các vị tỳ kheo Tăng và tỳ kheo Ni đã quá xem thường giới luật đạo đức của Đức Phật, và đã ném nó vào một xó kẹt, dường như họ học để cho biết, chớ chẳng bao giờ nghĩ nó là đạo đức của con người và Thánh Nhân, vì thế chẳng bao giờ những tu sĩ này giữ gìn nghiêm túc và sống đúng với nó, nên cuộc đời tu hành của họ chẳng có giải thoát chút nào, chỉ uổng công mà thôi.

Giới thứ bốn mươi bảy: CHẲNG ĐẶNG TAY DƠ BƯNG BÁT ĐỒ ĂN

Vị tỳ kheo, phàm khi ăn uống, phải rửa tay cho thật sạch rồi mới cầm bát, đũa và thực phẩm mà ăn uống.

Nếu tay dính bụi bặm, mồ hôi mà thọ thực thì không sạch sẽ, và sẽ làm mất vệ sinh cơ thể. Để tay dơ bẩn như vậy mà ăn uống thì rất là bẩn thỉu, dễ sanh bịnh tật mà có bịnh tật là có sự khổ đau. Đừng bắt chước Tế Điên Hòa Thượng, đó là một câu chuyện huyền thoại thêm bớt của Đại Thừa, mục đích câu chuyện này là để đã phá giới luật và phạm hạnh của người tu sĩ Đạo Phật, tức là có ý đồ diệt Phật giáo.

Tế Điên Hòa Thượng là một tác phẩm tiểu thuyết của Đại Thừa Giáo, mục tiêu của nó ra đời nhắm vào phá tận gốc giới luật đức hạnh của Đạo Phật, để các vị tỳ kheo Phật Giáo Đại Thừa sống phạm giới, phá giới mà không ai dám chỉ trích, phê phán.

Các tu sĩ Phật Giáo Đại Thừa dựa theo gương hạnh đó sống tự tại vô ngại chạy theo dục lạc thế gian, mà người thế gian (tín đồ Phật Giáo) chẳng ai dám chê trách được, vì những hành động đó là hành động của vị “Phật sống Tế Điên Hòa Thượng”.

Ăn uống bẩn thỉu thiếu vệ sinh trong thời đó mà Đức Phật còn răn dạy đệ tử của mình như vậy, thì trong thời đại của chúng ta, chúng ta phải thấy giới luật của Đức Phật có một giá trị đạo đức rất cao, vượt không gian và thời gian, đến thời đại chúng ta mà vẫn còn giá trị tuyệt vời, nền khoa học hiện đại phải chấp nhận mà không dám phủ nhận những gì Đức Phật đã dạy.

Người ta cứ nghĩ tưởng rằng, đạo đức là phải một cái gì cao siêu tuyệt vời như : nhẫn nhục của “Quan Âm Thị Kính”, hiếu hạnh như “Thập Nhị Tứ Hiếu” của Nho giáo.

Từ lâu, giới sĩ phu tri thức chấp nhận đạo đức của con người là phải giữ gìn tam cang, ngũ thường, nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, tam tùng, tứ đức, công, dung, ngôn, hạnh và còn luôn luôn phải tỏ ra mình là người quân tử, tức là chứng tỏ mình phải hơn mọi người trong cách đối xử thế. Những đạo đức này dạy làm anh hùng cá nhân để được sử sanh ghi chép mãi muôn đời.

Ngược lại, đạo đức của Đạo Phật thì không phải vậy, càng học giới luật, càng trau dồi thân tâm bằng giới luật của Đức Phật, càng thấy mình hằng ngày có thêm nhiều đức hạnh tốt đẹp và cuộc chung sống với mọi người rất bình đẳng, thương yêu đùm bọc lẫn nhau, luôn luôn đem lại cho mình cho người những niềm vui chan hòa, tạo cảnh sống tâm hồn thanh thản và an lạc cho nhau, không bao giờ làm khổ mình khổ người.

Cứ sống đúng giới luật của Đức Phật, giữ gìn không cho vi phạm một giới luật nào cả, thì thân tâm càng lúc càng thanh tịnh, tâm càng lúc càng ly dục, ly ác pháp thì lại càng thấy rõ ràng, khiến cho thân tâm an lạc, vô sự, lúc nào tâm cũng định vào thân nên thân tâm tràn đầy hỷ lạc và an ổn.

Chỉ có giới luật là pháp môn duy nhất thiền định căn bản của Đạo Phật, nếu ai không tu giới luật thì chẳng bao giờ nhập được các chánh định, ngoài giới luật ra thì không thể có pháp môn nào giúp cho người tu hành quét sạch lậu hoặc và thực hiện được tam minh.

Càng tu giới luật, hằng ngày càng thấy có kết quả giải thoát rất cụ thể, rõ ràng, vừa xây dựng thân tâm có đạo đức, vừa giúp chúng ta nhập được các loại chánh định.

Giới luật” thật là một pháp môn tuyệt vời trên bước đường tu hành tìm cầu sự giải thoát.

Giới thứ bốn mươi tám: CHẲNG ĐẶNG LẤY NƯỚC TRÁNG BÁT ĐỔ TRONG NHÀ CƯ SĨ

Vị tỳ kheo khi thọ thực xong không được lấy nước tráng bát đổ bậy bạ dưới đất, vì nước tráng bát có lộn bựa cơm và thực phẩm nát nhỏ, đổ bậy bạ sẽ làm mất vệ sinh, tạo môi trường sống ô nhiễm.

Khi thọ cơm xong, vị tỳ kheo tráng bát và rửa bát phải hỏi người cư sĩ chủ nhà chỗ đổ nước này, để không làm ô uế nhà người.

Giới này dạy cách thức giữ vệ sinh chung, dù bất cứ ở nơi đâu cũng phải giữ gìn sạch sẽ từ miếng nước tráng bát cho đến hạt cơm rơi hoặc thực phẩm đổ hoặc vỏ trái cây đều phải gom lại bỏ có nơi, có chốn, không được quăng bỏ bậy bạ. Đến nước tráng bát mà Đức Phật còn dạy phải đổ có nơi chốn để giữ vệ sinh. Nếu nước tráng bát hoặc nước rửa chén bát đổ mọt chỗ lâu ngày bốc lên mùi hôi thúi khó chịu làm bầu không khí uế trược.

Thời đại Đức Phật, Ngài đã giữ vệ sinh sạch sẽ hơn thời đại của chúng ta rất nhiều. Hiện giờ chỉ có những nước văn minh, trình độ dân trí cao mới giữ vệ sinh và môi trường sạch sẽ, còn những nước chậm tiến lạc hậu như nước chúng ta (Việt Nam) thì việc giữ vệ sinh chỉ là một sự bắt buộc.

Dân tộc Việt Nam cần phải học đạo đức của Phật Giáo nhiều hơn nữa, để giữ gìn vệ sinh chung, làm cho môi trường sống không còn ô nhiễm nữa. Nhìn chung hiện giờ không có một tôn giáo nào hoặc một nhà hiền triết nào dạy về đạo đức vệ sinh cho con người. Chỉ còn đạo đức giới luật của Đức Phật mới có giáo dục con người giữ gìn vệ sinh theo sự văn minh và tiến bộ của khoa học hiện đại.

Nhờ những giới luật dạy mà chúng ta biết sự giữ gìn vệ sinh chung và môi trường sống không ô nhiễm trong thời Đức Phật là những hành động oai nghi tế hạnh đạo đức và đạo hạnh của những vị tỳ kheo rất tuyệt vời.

Trong thời Đức Phật, ông Xá Lợi Phất là người giữ gìn vệ sinh gương mẫu cho tất cả chúng tỳ kheo Tăng.

Càng học giới luật Phật chúng ta càng thấm thía, những đức hạnh làm người mà Đức Phật đã dạy rất chu đáo, không có một chi tiết về đạo đức giới luật nào mà Ngài không có dạy cho chúng ta. Xét cho cùng, từ xưa đến giờ trên thế gian này có rất nhiều tôn giáo, và mỗi tôn giáo đều có một đạo đức, nhưng chúng ta thử so sánh thì không có một đạo đức nào hơn được đạo đức của Phật Giáo.

Một vị tỳ kheo không học và không tu giới luật là một thiệt thòi rất lớn cho đời tu hành của họ. Con người trên hành tinh này mà không học đạo đức của Đạo Phật cũng là một thiệt thòi cho sự văn minh tiến bộ của loài người, vì chỉ có sự văn minh tiến bộ mà có kèm theo đạo đức của Đạo Phật thì mới toàn diện, mới đưa con người đến chỗ an vui hạnh phúc chân thật.

Còn hiện giờ văn minh tiến bộ trên thế giới này chưa toàn diện, chỉ được ở góc độ phát triển vật chất, phục vụ đời sống con người rất đầy đủ tiện nghi, nhưng lại thiếu khuyết ở góc độ tinh thần.

Ví như, ở các nước Tây Phương, đạo đức giữ vệ sinh rất tốt, người dân có ý thức nhưng trái lại đạo đức về ăn mặc thì quá hở hang khiêu dâm gợi dục, đó là hình thức của loài thú vật chớ không phải là con người.

Cho nên đạo đức trong nền văn minh tiến bộ của Tây Phương chưa hẳn toàn diện, ngược lại đạo đức ở Đông Phương, nhất là đạo đức của Phật Giáo trong giới luật thật là toàn diện.

Nếu đem nền văn minh khoa học của Tây Phương hợp lại với đạo đức của Đông Phương thì thế giới mới toàn diện, đời sống con người mới hưởng trọn đầy đủ hạnh phúc vừa vật chất, vừa tinh thần.

GIỚI LUẬT LÀ ÁNH SÁNG ĐẠO ĐỨC

Giới luật là ánh sáng đạo đức soi đường cho chúng ta đi tìm chân lý, nếu ai muốn tìm chân lý mà không nương vào ngọn đèn giới luật thì chẳng bao giờ thấy được chân lý.

CHƯƠNG V: ĐẠI TIỂU TIỆN PHẢI ĐÚNG CÁCH

Có 6 giới

(Giới thứ 49, 50, 51, 74, 75, 76)

Giới thứ bốn mươi chín: CHẲNG ĐẶNG ĐẠI TIỂU TIỆN, HỈ, KHẠC, NHỔ TRÊN CỎ TƯƠI

Vị tỳ kheo khi đại, tiểu tiện, hỉ, khạc, nhổ trên cỏ xanh tươi thì phạm tội đọa.

Hành động đại, tiểu tiện, hỉ, khạc, nhổ đồ bất tịnh trên lối đi, cũng như trên cỏ xanh tươi là làm mất vệ sinh, ô nhiễm môi trường sống. Khiến cho mọi người đi qua lại gờm nhớp, trông bẩn thỉu vô cùng, những chất bẩn này có những loại vi trùng độc hại sẽ mang đến những bịnh truyền nhiễm rất nguy hiễm cho người khác. Nếu chúng ta đại tiểu tiện hoặc hỉ, khạc, nhổ đờm nhớt trên cỏ tươi cũng như trên lối đi, đó là chúng ta đã làm khổ mọi người, làm khổ mọi người tức là thiếu đạo đức làm người.

Bởi, một hành động vô ý thức không giữ gìn vệ sinh chung cho mình cho người là người vô đạo đức, người vô đạo đức là người làm khổ mình khổ người, Đạo Phật không chấp nhận những loại người này.

Người thế tục có học thức và có giáo dục đạo đức họ còn luôn luôn giữ gìn giữ vệ sinh chung, không phóng uế, khạc, hỉ, nhổ bừa bãi, huống là chúng ta, những tu sĩ đệ tử của Đức Phật, chúng ta lại phạm vào những giới luật đức hạnh vệ sinh của Đức Phật dạy hay sao?

Chúng ta cần phải giữ vệ sinh chung hơn người ngoài đời nữa, không được làm nhơ nhớp môi trường sống, mà lời dạy trong giới luật của Đức Phật còn rõ ràng từ ngàn xưa đến nay. Thế mà các vị tỳ kheo Tăng và tỳ kheo Ni luôn luôn xem thường những lời dạy này, chỉ vì quý vị chịu ảnh hưởng của tà giáo ngoại đạo Bà La Môn, phạm giới, phá giới, cho rằng ai giữ gìn giới luật nghiêm túc là “chấp giới”.

Vì đạo đức không làm khổ mình khổ người, không những chúng ta giữ gìn vệ sinh môi trường sống mà còn phải làm gương cho người khác giữ vệ sinh, nghĩa là chúng ta thấy tất cả những vật gì làm ô uế môi trường sống chung thì ta phải lượm gom lại bỏ vào thùng rác công cộng.

Hành động giữ vệ sinh chung cho môi trường sống là một oai nghi tế hạnh của người tu sĩ đệ tử Đức Phật; giữ gìn vệ sinh chung là một hành động đạo đức của con người đối với nhau trong xã hội; giữ gìn vệ sinh chung là một hành động đạo đức không làm khổ mình khổ người đối với cuộc sống chung của loài người.

Người ta không ngờ Đạo Phật lại dạy về những hành động đạo đức giữ vệ sinh môi trường sống tuyệt vời như vậy; người ta cũng không ngờ những hành động đạo đức vệ sinh giữ gìn môi trường sống trong sạch lại là phạm hạnh của Đạo Phật.

Tuy những hành động đơn giản như vậy, nhưng chính những hành động như vậy mới thật sự là đạo đức của con người.

Giới thứ năm mươi: CHẲNG ĐẶNG ĐẠI TIỂU TIỆN, HỈ, KHẠC, NHỔ TRONG NƯỚC

Vị tỳ kheo khi đi đại, tiểu tiện hoặc khạc, nhổ không được đại, tiểu tiện hoặc khạc, nhổ trong nước như: nước sông, suối, hồ, ao, mương, rạch, v.v.. nói chung là tất cả các loại nước, không được đại tiểu tiện và khạc nhổ bậy bạ trong đó. Nước sẽ hòa tan và cuốn đi những loại ô uế bất tịnh đó, gây nên môi trường ô nhiễm, khiến cho mọi người ăn uống dễ bị nhiễm lây bịnh tật truyền nhiễm khổ sở. Vì vậy người tu sĩ Đạo Phật phải có ý thức hành động giữ gìn vệ sinh chung không được đụng đâu khạc nhổ đó hoặc đại tiểu tiện một cách bừa bãi sẽ làm mất giá trị của người tu sĩ Đạo Phật.

Hành dộng khạc nhổ, đại tiểu tiện không đúng chỗ đã khiến cho người đời khinh chê và xem thường người tu sĩ Đạo Phật. Nếu người tu sĩ phạm vào giới này thì oai nghi tế hạnh cũng sẽ không còn nữa.

Hành động đại, tiểu tiện hoặc khạc nhổ trong nước là hành động của kẻ thiếu giáo dục đạo đức về vệ sinh chung. Do đó những ai mới bước chân vào Đạo Phật đều phải học một trăm giới chúng học này, dù là cư sĩ. Đây là những giới luật dạy đầu tiên của Đức Phật cho bốn chúng đệ tử của mình.

Sau khi biên soạn giới luật, theo chúng tôi thiết nghĩ, một trăm giới chúng học này rất là quan trọng đối với con người, vì nó là đạo đức lợi ích thiết thực cho đời sống của con người. Từ cách thức hành động đạo đức đối xử lịch sự của con người chung sống nhau trong một xã hội, và từ cách thức hành động đạo đức vệ sinh đem lại một môi trường sống trong sạch và thanh tịnh, mang đầy sự an lạc và hạnh phúc cho mọi người. Một trăm giới luật này nói lên bằng những hành động đạo đức vô giai cấp của Đạo Phật rõ ràng và cụ thể.

Những ai đã thấy sự lợi ích của nó rất lớn đối với đời sống của con người đều phải chấp nhận đạo đức của Đạo Phật là một đạo đức nhân bản tuyệt vời, luôn luôn chấp hành nghiêm chỉnh một trăm giới chúng học này không bao giờ sai trái phạm phải dù một lỗi nhỏ, người ấy sẽ được gọi là người có giáo dục đạo đức, người ấy sẽ là một vị tỳ kheo có đầy đủ phạm hạnh đáng cung kính, tôn trọng và cúng dường.

 

Giới thứ năm mươi mốt: CHẲNG ĐẶNG ĐỨNG ĐẠI TIỂU TIỆN

Vị tỳ kheo khi đại tiểu tiện phải có chỗ nơi kín đáo, không được đụng đâu bạ đó đại tiểu tiện. Khi tiểu tiện phải ngồi không được đứng như loài thú vật.

Tại sao vậy?

Vì oai nghi tế hạnh của người tu sĩ phải giữ gìn thân mình kín đáo. Nếu người thế tục đứng tiểu tiện còn trông thấy rất là thô lỗ và khó coi huống là người tu sĩ mặc y áo nhà tu thì trông dị kỳ biết chừng nào.

Những người phá giới cho giới luật này lỗi thời, là vì Đức Phật ngày xưa mặc chăn không có mặc quần như ngày nay nên tiểu tiện phải ngồi. Đây là những lý luận phá giới luật của Phật, chỉ vì họ không hiểu ý của Phật chế giới này. Người ta xem giới luật này không phải là hành động đạo đức của con người, nếu hiểu như vậy là hiểu sai, hành động này là hành động đạo đức của con người để vượt thoát ra khỏi loài thú vật. Vì loài thú vật con vật nào cũng đứng tiểu tiện, chỉ có con người biết kín đáo, biết xấu hổ, biết đứng tiểu tiện là thô lỗ, nên mới ngồi mà tiểu tiện, chứ không phải do y áo mà ngồi. Con người mà đứng tiểu tiện thì chẳng khác nào là một con thú vật mang hình người.

Ngồi tiểu tiện là hành động đạo đức lịch sự, kín đáo, không thô lỗ của con người, ngược lại những hành động này là con người vô đạo đức. Để xác định con người và con thú khác nhau là ở chỗ như trên đã nói, con người biết kín đáo, biết xấu hổ, biết lịch sự, không thô lỗ và biết giữ vệ sinh, còn con thú thì không biết.

Giới luật của Đức Phật đã dạy về đạo đức con người rất rõ ràng. Để thấy rõ con người cũng là một loài động vật như bao nhiêu loài động vật khác, con người có hành động đạo đức mới gọi là con người. Nếu con người không có hành động đạo đức thì không hơn không kém chỉ là một con vật mà thôi.

Thời đại chúng ta có những cầu xí giội rất là vệ sinh và kín đáo, nhưng quý thầy phải lưu ý, dù đi đại hay đi tiểu đều phải giữ gìn được kín thân, đừng bảo rằng đi tiểu dễ dàng, đụng đâu tiểu đó, thì không đúng tư cách của người tu sĩ, đừng bắt chước những người cư sĩ đứng tiểu tiện, trông thật là khó coi và thô lỗ, không có vẻ kín đáo lịch sự chút nào, như ở trên đã dạy, đó là hành động của một con vật, chớ chẳng phải con người.

Người tu sĩ đệ tử của Đức Phật phải biết oai nghi tế hạnh của mình, phải giữ gìn thân kín đáo, không được bày da hở thịt, không được ngồi đâu bạ đó tiểu tiện một cách bừa bãi thiếu vệ sinh, gây mùi hôi thúi khó chịu cho những người khác, nhất là khạc nhổ đàm nhớt, phải có chỗ có nơi kín đáo, không được đụng đâu khạc nhổ đó.

Đối với những người thế tục chưa có học đạo đức của Đức Phật nên có những hành động thiếu đạo đức vệ sinh và lịch sự. Phần đông người nam thường hay đứng tiểu tiện và đụng đâu tiểu tiện đo, được xem là những người vô đạo đức, mặc dù trình độ học thức của họ khá cao nhưng đạo đức của họ vẫn còn thấp kém và lạc hậu, chưa theo kịp đà văn minh tiến hóa của thời đại khoa học, kĩ nghệ hiện đại hóa.

Người tu sĩ Đạo Phật cần phải khắc phục những hành động sai phạm này, để tỏ ra mình là người có đạo đức và còn làm gương sáng cho tín đồ soi, để mọi người giữ vệ sinh chung cho môi trường sống được trong sạch và thanh khiết, nhờ mọi người có đạo đức biết giữ vệ sinh và lịch sự thì mới mang đến hạnh phúc an vui và sức khỏe cho mọi người và cho mình.

Giới thứ bảy mươi bốn: KHÔNG NÊN ĐẠI TIỂU TIỆN PHÍA DƯỚI GIẢNG ĐƯỜNG

Phàm đại tiểu tiện phải cách xa giảng đường, giảng đường là nơi chư Tăng thường tập trung nghe pháp. Tiểu tiện hay đại tiện đều phải vào phòng vệ sinh kín đáo, không được đụng đâu đại tiểu tiện đó. Đại tiểu tiện như vậy làm mất vệ sinh và mất vẻ đẹp của con người, huống là một tu sĩ đệ tử của Đức Phật.

Đừng bắt chước người ngoài đời đụng đâu tiểu tiện đó, nhất là phái nam đứng tiểu tiện một cách thô lỗ hết sức, không còn chỗ nào chê, con người mà làm y như con thú vật, “đứng đại tiểu tiện”.

Từ con thú vật chúng ta có những hành động đạo đức hơn con thú, nên vượt thoát ra khỏi loài thú vật, do vậy mới được chấp nhận là con người; cũng từ một con người chúng ta có những hành động đạo đức hơn con người nữa, vượt thoát ra khỏi con người có đạo đức mới được mọi người chấp nhận là Thánh Nhân.

Những hành động đạo đức tuy đơn sơ trong cuộc sống hằng ngày, nhưng nó nói lên được bản tính đạo đức của con người thật là người, nếu chúng ta không học, không hiểu, không hành động thân, miệng, ý của mình bằng những đạo đức, thì vô tình những hành động vô đạo đức ấy sẽ khiến cho chúng ta trở lại đời sống thú vật mà chúng ta không hề hay biết, cứ ngỡ mình là con người.

Con nguời phải biết giữ vệ sinh, hành động không giữ vệ sinh không phải là con người, vì hành động giữ vệ sinh là hành động đạo đức mà xưa kia Đức Phật đã từng chỉ dạy cho đệ tử của mình, nhưng đến giờ này các hàng đệ tử của mình quá xem thường những đạo đức này, chẳng còn ai để ý đến giới luật đạo đức này nữa.

Đến chùa nào cũng vậy, bề mặt thì lau quét sạch sẽ, nhưng bề sau thì không có giữ vệ sinh chút nào cả, rác rến, bọc nilon và giấy vụn tung tóe, bừa bãi bẩn thỉu vô cùng, thật là giới luật của Đức Phật dạy còn đó mà có người đệ tử nào chịu áp dụng vào đời sống tu tập của mình đâu. Vì thế từ đời sống thế gian đến đời sống các chùa không khác nhau, toàn là bề mặt, còn bề trái là một đống rác bẩn thỉu.

Giới thứ bảy mươi lăm: KHÔNG NÊN ĐẠI TIỂU TIỆN PHÍA TRƯỚC GIẢNG ĐƯỜNG

Giảng đường là nơi chư Tăng thường tập họp tại đó để nghe Phật thuyết pháp, nên tất cả tu sĩ Tăng, Ni và cư sĩ đều phải tôn kính và giữ gìn thanh tịnh, trong sạch nơi đó, không được làm hôi thúi bẩn thỉu, nhất là không được đại tiểu tiện trước giảng đường.

Giới này dạy tất cả bốn giới đệ tử của Đức Phật phải có hành động tôn kính pháp bảo, vì có pháp bảo chúng ta tu hành mới đến nơi đến chốn, mới được giải thoát hoàn toàn.

Người có đạo đức vệ sinh và lễ độ biết tôn trọng và cung kính pháp bảo thì không bao giờ tiêu tiểu, khạc, nhổ bậy bạ xung quanh giảng đường; người có đạo đức biết giữ vệ sinh chung và lễ độ thì cũng không bao giời tiêu tiểu, khạc, nhổ bậy bạ trên đất, mặc dù nơi đó không phải là giảng đường. Đó là một thứ đạo đức làm người rất ích lợi cho cuộc sống con người trên hành tinh này mà mọi người cần phải học.

Pháp của Phật là một pháp vô giá, nó mang đến cho loài người một đạo đức nhân bản: “Không làm khổ mình khổ người”. Nếu ai thực hiện, sống đúng như pháp đã dạy, người ấy sẽ có một đạo đức tuyệt vời; một tâm hồn thanh thản và an lạc; một hảnh phúc không thể nghĩ lường.

Xưa đức Thế Tôn khi Ngài tu chứng đạo giải thoát, Ngài quỳ xuống, cung kính đảnh lễ pháp bảo và nói: “Với pháp này ta đã chơn chánh giác ngộ, chứng giải thoát, ta hãy cung kính, đảnh lễ và sống y chỉ pháp ấy, pháp ấy là thầy ta”. Cho nên trong giới luật Phật dạy phải cung kính pháp, “Giới luật và giáo pháp của ta là thầy của các vị tỳ kheo Tăng và tỳ kheo Ni”.

Vậy tất cả các tu sĩ đệ tử Đức Phật, phải luôn luôn tôn kính pháp bảo, không được tiêu tiểu tiện hoặc khạc nhổ đàm nhớt làm bất tịnh hôi thúi nơi nghe thuyết giảng và nơi lưu giữ kinh sách lời dạy của Đức Phật.

Giới thứ bảy mươi sáu: KHÔNG NÊN ĐẠI TIỂU TIỆN XUNG QUANH GIẢNG ĐƯỜNG

Giảng đường là nơi tập hợp để tu tập và nghe pháp, vì thế không nên đại tiểu tiện xung quanh, mùi hôi thúi bay vào sẽ làm không khí nơi đó bất tịnh, khiến cho mọi người khó chịu.

Hành động đại tiểu tiện như vậy, tức là hành động thiếu đạo đức vệ sinh và lịch sự đối với mọi người, và còn chứng tỏ lòng không tôn kính pháp bảo, không tôn kính pháp bảo tức là không tôn kính Phật, không tôn kính Phật tức là không tôn kính Tăng. Không tôn kính ba ngôi tam bảo tức là ngoại đạo phàm phu, chẳng biết gì về đạo đức, về sự giải thoát, về sự đau khổ của cuộc đời. Họ là những kẻ vô minh, sống trong địa ngục mà chẳng biết địa ngục, chỉ chạy theo ảo giác và tưởng tri của các pháp mê tín, dị đoan, say mê danh lợi mà chẳng biết mình đang say mê danh lợi. Những kẻ như vậy là những kẻ u tối vô minh và vô đạo đức.

CHƯƠNG VI: THUYẾT PHÁP ĐÚNG ĐỐI TƯỢNG

Có 7 giới

(Từ giới thứ 52 đến giới thứ 58)

 

Giới thứ năm mươi hai: CHẲNG ĐẶNG NÓI PHÁP CHO NGƯỜI ĂN MẶC LÔI THÔI HOẶC MẶC ÁO TRÁI

Vị tỳ kheo phải hiểu pháp của Phật là bửu pháp, pháp đưa người qua biển khổ luân hồi sanh tử, giúp cho loài người thoát kiếp trầm luân đầy đọa khổ đau, nên nó quý báu vô cùng, nó là một thứ pháp môn vô giá, không có một vật gì quý báu trên đời này đem ra so sánh với nó được. Vì thế pháp của Đức Phật không phải đụng đâu đem ra thuyết giảng đó, chỗ nào có người thành tâm cầu khẩn tha thiết với tâm nhiệt huyết cầu pháp giải thoát và hết lòng cung kính muốn nghe, thì chúng ta mới vì họ mà nói pháp, còn những người không có lòng kính trọng pháp bảo ấy, thì chúng ta không nên thuyết pháp cho họ nghe, dù họ có bỏ tiền vàng, bạc đống như núi cúng dường cho chúng ta, nhất định chúng ta cũng chẳng thuyết, dù họ là bậc vua chúa có đầy đủ uy quyền bắt ép chúng ta thuyết pháp, nhưng họ không có lòng tôn kính và thiết tha cầu pháp, thì chúng ta cũng chẳng sợ uy quyền gì của họ mà nói pháp cho họ nghe, thà họ có giết chúng ta chết chớ chúng ta không hề thuyết pháp, dù một bài kệ ngắn nhất cũng chẳng thuyết cho những kẻ không tôn trọng cung kính pháp bảo.

Phật Pháp hiện thời không phải vậy, họ bày bán khắp nơi, cho đến bên hè phố, trên lề đường cũng thấy đủ loại kinh sách. Họ thuyết giảng lung tung, tổ chức chỗ này đến chỗ kia, nhưng người thực hành thì chẳng đi đến đâu cả, chỉ là một trò lừa đảo khéo lý luận mà thôi.

Pháp của Đức Phật bây giờ là pháp của ngoại đạo Bà La Môn, Lão Giáo và những điều mê tín của dân gian được chuyển hoá, nên quý vị đụng đâu thuyết giảng đó, để cầu danh, cầu lợi và cầu Chùa to Phật lớn.

Người ta chỉ cần có tiền muốn nghe pháp chơi cho biết, cứ bỏ tiền ra mua băng cassette, đĩa CD ngoài hè phố, lề đường là về nghe đủ loại kinh Đại Thừa và Thiền Tông, không có bài kinh nào là không có.

Người tu sĩ thời nay tham danh đắm lợi, khi có nhà giàu sang, quyền thế chỉ cần ra lịnh thì họ mau mau cất bước đi thuyết giảng, hoặc sai bảo họ làm những điều phạm giới, không đúng tư cách tu hành của một người tu sĩ Đạo Phật, họ vẫn cũng cúi đầu làm theo.

Pháp môn quý báu tu hành giải thoát mà bán đầy cả chợ, ở hè phố, bên vệ đường thì còn gì là pháp môn quý báu, chỉ có những thứ pháp môn chẳng ra gì, tu chẳng tới đâu cả, nên đua nhau viết lý luận theo tưởng giải của mình chứ chưa hề có kinh nghiệm tu hành bao giờ, cứ loanh quanh lập đi lập lại những đờm dãi của người xưa với một số danh từ mới mẻ, để lường bịp lường gạt người vì danh, vì lợi hay ít nhất cũng vì cuộc sống nhàn nhã “ngồi trong mát ăn bát vàng”.

Pháp môn của Đức Phật dạy thì không phải là thứ pháp môn trên đầu môi chót lưỡi, mà là một thứ pháp môn làm chủ sanh, già bịnh, chết và chấm dứt luân hồi rất cụ thể và rõ ràng, nếu ai sống đúng tu tập đúng lời dạy của Ngài thì có kết quả làm chủ ngay liền từng chút theo sự buông xả các ác pháp. Pháp môn của Đức Phật là pháp đi ngược lại dòng đời, nên chỉ có những người đầy nhiệt tâm, thiết tha tìm cầu sự giải thoát của cuộc đời thì mới buông xả các pháp thế gian dễ dàng, còn ngược lại những người đời thì không muốn bỏ mà đạo lại muốn thêm thì tu chẳng có kết quả gì, chỉ uổng phí một đời chẳng tu đến đâu cả.

Bởi pháp của Phật có một giá trị rất cao như vậy, nếu những người thiếu lòng cung kính thì đừng bao giờ thuyết cho họ nghe, dù có thuyết cho họ nghe cũng chẳng ích lợi gì cho họ và còn tạo thêm tội lỗi.

Trong phần giới luật Đức Phật dạy về thuyết pháp phải biết đúng người, đúng chỗ và đúng lúc rất kỹ lưỡng. Nếu ai là những giảng sư phải lưu ý những giới luật này, không khéo sẽ làm mất uy tín của Phật Pháp. Pháp môn quý báu không được thuyết cho những đối tượng không có lòng tôn trọng và cung kính, nhất là khi thuyết pháp không được thuyết pháp nơi không xứng đáng.

 

Giới thứ năm mươi ba: CHẲNG ĐẶNG NÓI PHÁP CHO NGƯỜI LẤY Y ÁO QUẤN CỔ NGỒI NGHE

Vị tỳ kheo thuyết pháp nên lưu ý, người ở trần, mặc quần đùi, áo tay ngắn, áo quấn cổ ngồi nghe pháp là những người không có tâm cung kính và tôn trọng pháp bảo. Trong số người ngồi nghe pháp chỉ có một người bất kính pháp như vậy thì nhất định không nên vì những người khác mà thuyết pháp cho họ nghe.

Xưa Đức Thế Tôn còn tại thế, chỉ có một vị tỳ kheo phạm giới không thanh tịnh đang ngồi chung trong chúng nghe thuyết pháp, Đức Phật Ngài nhất quyết không thuyết giảng pháp, nếu thầy tỳ kheo phạm giới còn có mặt ở đó, dù là đêm đã tàn canh.

Thầy Tỳ Kheo phạm giới là thầy Tỳ Kheo không có lòng tôn trọng và cung kính pháp bảo. Do đó Đức Phật không thuyết pháp, mặc dù trong hội chúng có rất nhiều thầy Tỳ Kheo thanh tịnh giới, hết lòng cung kính và tôn trọng pháp bảo, chẳng hề vi phạm một lời dạy nào của Đức Phật, đang chờ đợi nghe pháp, thế mà Đức Phật không thuyết.

Đức Phật biết rất rõ pháp của mình là pháp môn quý báu, nên khi có người bất kỉnh chẳng ra gì, thì không bao giờ thuyết cho nghe, chừng nào những kẻ ấy ra khỏi nơi thuyết giảng thì mới giảng nói.

Bây giờ các giảng sư vì danh, vì lợi nên đụng đâu thuyết giảng đó chẳng chọn người chọn chỗ cho đúng.

Thuyết pháp cho những hạng người có tâm tha thiết, tìm cầu sự giải thoát sanh, lão bịnh, tử và chấm dứt luân hồi thì nên thuyết và trợ giúp cho họ tu hành, còn những hạng người mê danh, đắm lợi chưa buông bỏ được thì chúng ta không nên vì họ mà thuyết pháp và cũng không nên đem Pháp Phật bán rẻ cho những hạng người này, nó chẳng ích lợi gì mà họ lại xem thường pháp bảo.

Giới thứ năm mười bốn: KHÔNG NÊN VÌ NGƯỜI CHE ĐẦU NÓI PHÁP CHO NGHE

Vị tỳ kheo khi thuyết pháp cần lưu ý: có những người đến nghe thuyết pháp ngồi che dù, che lọng, đội nón, đội mu, v.v... là những người không có lòng cung kính tôn trọng pháp bảo, họ là những người ỷ lại vào sự giàu sang, quyền tước như vua chúa, quan quân, nhà giàu, những người ngoại đạo và các vị Tổ sư Phật Giáo Đại Thừa xem thường pháp bảo của Đức Phật, họ cho Giáo pháp của Đức Phật là giáo pháp Thanh Văn Nhị Thừa Ngoại Đạo. Đối với những hạng người này, chúng ta không nên thuyết pháp cho họ nghe, vì có thuyết pháp cũng chẳng mang đến lợi ích gì cho họ, mà còn tạo cho họ thêm tội lỗi. Họ là những người mang đầy kiến chấp Đại Thừa và Thiền Đông độ, nên khi nghe pháp xong họ tìm mọi cách phỉ báng Phật Pháp và còn ngạo mạn chống trái.

Dù cho pháp hội có cả ngàn người cung kính tôn trọng pháp bảo cầu mong được nghe pháp, mà chỉ có một người ngã mạn khinh bỉ Phật Pháp thì chúng ta nhất định cũng không thuyết pháp, chỉ khi nào họ chịu lột bỏ lọng, dù, nón, mũ, v.v... thì ta mới thuyết pháp cho nghe.

Xưa Đức Phật chỉ có một tỳ kheo phạm giới tức là không cung kính pháp bảo mà Ngài quyết định chẳng thuyết pháp, mặc dù tất cả chúng tỳ kheo đang chờ đợi nghe pháp từ canh này đến canh kia, thì đủ biết Đức Phật đã quý trọng pháp bảo như thế nào?

Thời đại của chúng ta Phật Giáo đã bị dìm mất, chỉ còn lại tà pháp của ngoại đạo nên người người không ai quý trọng Pháp Bảo. Họ đọc kinh sách như đọc một cuốn sách triết học, nên chẳng có ích lợi gì cho đời sống của họ.

Pháp của Đức Phật là pháp quý báu vô cùng, người nào biết tôn trọng và cung kính thường tu tập và thực hành đúng lời dạy của Ngài, đừng hành sai thì có kết quả ngay liền, thấy sự giải thoát ở trong tâm rất rõ ràng và cụ thể, còn các pháp môn của ngoại đạo tu hành không biết bao nhiêu đời kiếp mà chẳng thấy giải thoát, cuối cùng đành phải ném bỏ mà thôi.

Vì thế, chúng ta không nên đem pháp của Phật bán rẻ cho những người chẳng ra gì. Một pháp sư khi thuyết giảng phải biết được từng tâm của mọi người đến nghe pháp rồi mới giảng pháp, chứ không được giảng pháp bừa bãi, giảng pháp không ý thức được điều này tức là phỉ báng Phật Pháp.

 

Giới thứ năm mươi lăm: KHÔNG NÊN VÌ NGƯỜI BỊT ĐẦU NÓI PHÁP CHO NGHE

Vị tỳ kheo khi bước lên pháp tọa, quan sát toàn trong chúng hội, nếu thấy có người đầu đội khăn, nón, mũ, v.v... mà không chịu lột bỏ xuống thì nhất định không thuyết pháp. Vì pháp bảo của Phật là pháp môn giúp cho loài người thoát ra biển khổ, sông mê, làm chủ sự sống chết, chấm dứt luân hồi tái sanh, nên không có vật gì trên thế gian quý bằng.

Thế mà, có kẻ ngã mạn không cung kính pháp môn giải thoát như vậy, đi nghe thuyết pháp như người đi nghe hát cải lương, đi nghe thuyết pháp như đi giải trí thư giãn. Đối với những kẻ như vậy thì không được ban pháp cho họ nghe, nếu cần thì nên mời họ ra khỏi pháp đường, bằng không thì vị pháp sư xin rời khỏi pháp tòa ra về.

Đối với pháp của Đức Phật, người giảng sư phải ngay thẳng, phải cương quyết, phải mạnh dạng và gan dạ để bảo vệ Phật Pháp, chứ không được nịnh bợ người có tiền, có quyền thế, v.v...

Thời nay, vì danh lợi người ta bán rẻ Phật Pháp bằng mọi hình thức, chứ không phải phổ biến Giáo Pháp của Đức Phật.

Phần đông người ta chạy theo xu hướng thời thế để tạo danh, tạo lợi mà quên đi đức hạnh giới luật của người tu, nên vô tình đã dìm mất giáo pháp giải thoát của Đức Phật, biến Phật Giáo thành một thứ tà giáo ngoại đạo.

Giới này nhắc nhở những giảng sư thuyết giảng Giáo Lý của Đạo Phật, thì giảng như thế nào có ích lợi cho người nghe. Nếu giảng cho những người bịt khăn, đội mũ, nón, v.v... nghe thì chẳng ích lợi mà còn hại cho họ thêm, biến họ trở thành những người vô đạo đức cung kính và tôn trọng.

Thà chỉ thẳng vào mặt và cho họ một bài học đạo đức biết lễ độ, cung kính và tôn trọng như thế nào, thì chỉ có đuổi thẳng họ ra khỏi pháp đường, như ông Mục Kiền Liên đã lôi cổ vị Tăng phạm giới. Có như vậy mới chấn hưng Phật Giáo, nếu không vậy thì bọn tà sư ngoại đạo đội lớp tu sĩ Phật Giáo phá giới, phạm giới để diệt Phật Giáo.

Giới thứ năm mười sáu: KHÔNG NÊN VÌ NGƯỜI CHỐNG NẠNH NÓI PHÁP CHO NGHE

Vị tỳ kheo trước khi thuyết pháp phải quan sát, nếu thấy có người chống nạnh một tay hoặc hai tay, hoặc ngồi tréo chân hoặc ngồi duỗi chân hoặc chân gác lên bàn, v.v... nếu trong hội chúng có những kẻ hành động thiếu giáo dục đạo đức như vậy thì chúng ta không nên nói pháp cho họ nghe.

Dù chúng ta có thương xót số đông người kia mà thuyết pháp, thì toàn bộ chúng nghe pháp trong hội này sẽ bắt chước với nhau, rồi có những hành động thiếu đạo đức lễ độ, cung kính và tôn trọng như nhau. Cho nên không thuyết pháp là dạy đạo đức cho toàn mọi người phải biết tôn trọng và cung kính Phật Pháp. Bằng ngược lại thuyết giảng pháp suông cho họ nghe là đã dạy họ vô đạo đức, còn muốn cho họ có đạo đức thì phải dạy họ một bài học đạo đức thực tế cụ thể có giá trị bằng cách không giảng như trên đã dạy, hơn là một bài thuyết giảng suông về đạo đức.

Nếu chúng ta không cứng rắn và cương quyết trước số đông kia mà thuyết pháp thì chẳng mang lại ích lợi gì cho những người này, mà còn khiến cho họ sau này trở thành những người xem thường Phật Pháp, coi Phật Pháp chẳng ra gì.

Bởi làm giảng sư dạy giới luật là phải dạy đạo đức thực tế, bằng hành động sống của giảng sư, bằng bài pháp sống động, chớ không phải là lời dạy nói suông, dạy đạo đức tức là dạy sửa những lỗi lầm; dạy bỏ những thói hư tật xấu, để trở thành những người tốt của xã hội; để trở thành những người tu sĩ có tâm hồn thanh tịnh; để trở thành là những vị tỳ kheo ly dục ly ác pháp; để tâm hồn được giải thoát hoàn toàn; để nhập các định, làm chủ sự sống chết và chấm dứt luân hồi.

Giới thứ năm mười bảy: KHÔNG NÊN VÌ NGƯỜI MANG GIÀY NÓI PHÁP CHO NGHE

Mang giày, ngày xưa có nghĩa là những người giàu sang, làm quan chức lớn nên đôi giày luôn luôn ở trong chân, không bao giờ muốn cởi bỏ ra, mang giày còn có nghĩa là tỏ vẻ “ta đây”, đó là cách thức phô trương bản ngã, biểu lộ ra hành động không cung kính, tôn trọng và cầu pháp, ngang nhiên mang giày ngồi nghe pháp, chứ không phải có ý tìm cầu sự giải thoát của pháp bảo, đó là một hành động thiếu giáo dục đạo đức của những con người chỉ biết tiền và địa vị. Những hạng người này đối với Pháp Phật thì không bao giờ được nghe. Vì hành động vô đạo đức của họ, xem Phật Pháp như pháp môn của ngoại đạo.

Họ là những người chẳng biết (vô minh) Pháp Phật là một pháp môn cao quý nhất, không lấy vật gì trong thế gian mà so sánh được.

Pháp cao quý như thế nào?

Ngay từ khi bắt đầu tu tập, nó đã mang lại sự giải thoát nơi thân tâm của hành giả, sự giải thoát cụ thể, thực tế và rất rõ ràng, không phải có sự chờ đợi, mà ngay liền khi quyết tâm tu tập là đã có kết quả. Vì đời người là khổ, khổ muôn mặt. Thế mà pháp ấy lại giúp cho mọi người thoát khổ trong cuộc sống hằng ngày đầy phiền não và bất toại nguyện, nên nó quý báu và vô giá là như vậy.

Pháp quý báu và vô giá như vậy mà người đến nghe pháp thiếu lòng cung kính, tôn trọng và thiếu sự thiết tha cầu pháp, thì thử hỏi pháp cao quý đó, còn có gì quý báu nữa không? Chúng ta có nên bán rẻ cho những hạng người này hay không?

Dù họ là vua chúa, quan to và các bậc trưởng giả giàu sang tột đỉnh mà họ không có hành động cung kính và tôn trọng pháp bảo, thì chúng ta cũng không được thuyết pháp cho ho nghẹ, dù họ có cúng dường xây cất bao nhiêu chùa tháp mà thiếu lòng cung kính, tôn trọng và thành tâm cầu pháp thì chẳng bao giờ được nghe một lời pháp nào cả.

Hành động mang giày ngồi nghe pháp là chứng tỏ hành động không có lòng cung kính và cầu pháp. Vì thế trong giới chúng học này Đức Phật cấm các vị tỳ kheo đối với những người thiếu lòng cung kính, tôn trọng pháp bảo thì không nên thuyết pháp cho họ nghe.

Vị tỳ kheo vì danh, vì lợi mà đem pháp bảo của Phật ra thuyết giảng cho những người chẳng ra gì, thì đó là một hành động bán rẻ Phật Pháp, bán rẻ Phật Pháp sẽ bị tội rất nặng, vì khiến cho mọi người ngày càng xem thường Phật Giáo.

Vậy tất cả những giảng sư phải học những giới luật này cho kỹ càng để tránh những lỗi lầm là giảng pháp của Đức Phật không đúng cách đã không ích lợi cho người mà còn thêm tội lỗi cho mình.

Giới thứ năm mười tám: KHÔNG NÊN VÌ NGƯỜI MANG GUỐC NÓI PHÁP CHO NGHE

Giới này cũng giống như giới mang giày, như trong luật Tăng Kỳ nói: “Nếu tỳ kheo vì xây tháp, cất chùa, vì việc nhà ở, cơm ăn, áo mặc của chúng tăng nên phải đi đến nhà vua hoặc đến chỗ ông trưởng giả chủ đất, những người ấy bảo: Bạch Ngài, xin Ngài nói pháp cho chúng tôi nghe, nhưng không nên bảo chúng tôi lột bỏ guốc hoặc lột bỏ giày”.

Trong luật này dạy: “Nếu sợ họ sanh tâm nghi kỵ không cúng dường nhà ở, cơm ăn, tứ sự cho chúng tăng, vì thế chúng ta xem xét kế bên đó có người tịnh nhân nào thì nên khởi ý nói pháp cho tịnh nhân nghe, nhân đó mà thuyết giảng cho nhà vua và các vị chủ đất, trưởng giả nghe thì không tội”.

Ở đây, chúng ta đọc bộ Tăng Kỳ luật đã thấy dạy có một điều dối trá và xảo quyệt. Vì lý do cất chùa, xây tháp và cúng dường tứ sự hoặc đất đai để chư Tăng trụ ở của vua và các nhà giàu có, trưởng giả, nên phải thuyết pháp cho họ nghe dù họ mang giày guốc, muốn không có tội là giảng sư phải mượn cớ giảng pháp cho tịnh nhân nghe.

Đó là một lối lý luận của người xưa để che đậy tâm danh lợi, lấy cớ những người này lo cho đời sống của chúng Tăng, có chỗ ăn chỗ ở. Theo trong bộ luật Tăng Kỳ thì vị giảng sư có hai tội rất lớn:

1- Thứ nhất dạy đạo đức mà phi đạo đức.

2- Thứ hai dạy cách nói dối, xảo trá không đúng đạo đức làm người.

Những người buôn Phật bán Pháp mới dám đem pháp bảo của Phật ra mặc cả với sự cúng dường như vậy, thật là to gan, xem Địa Ngục như không có. Đọc kỹ lại những bộ luật này thật là đau lòng cho Phật Pháp, vì danh lợi cá nhân mà người ta quên đi sự lợi ích chung cho loài người, đó là: “Đạo đức không làm khổ mình khổ người”.

Người giàu có hay vua quan khi có lòng cung kính pháp bảo của Phật thì họ mới thành tâm cúng dường tứ sự cho chư Tăng như vậy, chứ lý đâu họ thiếu lòng cung kính, tôn trọng pháp bảo mà lại cúng dường? Bộ Luật Tăng Kỳ dạy không có lý, đó là người sau bịa ra để chạy theo danh lợi thế gian, ngõ hầu để được lòng những người giàu có và vua quan xây chùa to Phật lớn.

Ngày xưa Đức Phật không có chùa to Phật lớn nên không đem pháp bán rẻ, còn thời nay vì Chùa to Phật lớn nên đối với những người bất kỉnh chỉ có tiền cúng dường nhiều thì được nghe pháp, được thỉnh pháp đầy đủ, còn những người nghèo dù có lòng cung kính và cầu pháp bảo thì cũng chẳng được bố thí pháp chút nào.

Trong luật Tăng Kỳ còn dạy chúng ta dối trá: Khi thuyết pháp cho vua chúa và những nhà giàu sang mang giày guốc nghe, thì nhìn xem có người tịnh nhân nào cũng đang ngồi nghe pháp thì bảo là thuyết pháp cho tịnh nhân đó nghe, nhờ nói như vậy là không có tội. Luật mà còn dạy chúng ta nói điều dối trá thì còn gì là giới luật.

Thật ra người xưa đã soạn ra và viết giới luật, tự luận bằng cách này, bằng cách khác để che dấu các tâm danh lợi của thế gian, thật đáng thương và cũng đáng trách, vì vô minh chạy theo dục lạc thế gian mà làm một việc sai Phật Pháp, khiến cho người nghe pháp đạo đức mà lại không đạo đức, thành tội ác tày trời, vì thế đã biết bao nhiêu thế hệ người tu theo Đạo Phật, đọc những kinh sách dạy những điều dối trá phá giới, phạm giới khiến cho đường tu tập đã mất lối đi.

Kinh sách Đại Thừa phần nhiều khéo lý luận che đậy những hành động chạy theo tâm dục vọng thế gian, mà không ai biết được để phê phán, do thế nên muôn đời ngàn đời tu hành chỉ còn là hình thức, chẳng bao giờ có sự giải thoát chơn thật, chỉ lấy vải thưa che mắt con người, chứ không thể che mắt những bậc Thánh Nhân được.

Tiếp nối sự thừa kế của các Tổ Sư, những vị tỳ kheo trong thời đại bây giờ chỉ còn tu miệng, tu danh, tu lợi, tu tiền, tu bạc, tu chùa to, Phật lớn, tu xe cộ, tivi, đầu máy, cassette, quạt máy, tủ lạnh, v.v... nên đạo chẳng ra đạo, đời chẳng ra đời.

Tóm lại, tất cả một trăm giới chúng học, chỉ là một chặn đường đầu tiên đức hạnh làm người của Đạo Phật mà mỗi con người trên hành tinh này cần phải học tập để mang lại cho nhau một cuộc sống chung có ý nghĩa cao đẹp, nó không riêng cho bốn giới đệ tử của Đức Phật.

Người tu hành theo Đạo Phật mà không tu tập giới luật, tức là không tu tập đạo đức thì dù có tu muôn ngàn kiếp cũng chẳng đến đâu, chỉ uổng cho một đời tu hành mà thôi.

 

HẾT TẬP I

 

MỤC LỤC

MỤC LỤC

Thay lời tựa 5

I- Chương một: Ăn mặc tề chỉnh 53

1- Giới thứ nhất 54

2- Giới thứ hai 58

3- Giới thứ ba 62

4- Giới thứ tư 63

5- Giới thứ năm 65

6- Giới thứ sáu 67

II- Chương hai: Đi vào làng phải nghiêm trang 70

1- Giới thứ bảy 71

2- Giới thứ tám 74

3- Giới thứ chín 76

4- Giới thứ mười 78

5- Giới thứ mười một 80

6- Giới thứ mười hai 83

7- Giới thứ mười ba 85

8- Giới thứ mười bốn 88

9- Giới thứ mười lăm 90

10- Giới thứ mười sáu 93

11- Giới thứ mười bảy 97

III- Chương ba: Ngồi, đứng phải đúng cách 101

1- Giới thứ mười tám 102

2- Giới thứ mười chín 108

3- Giới thứ hai mươi 110

3- Giới thứ hai mươi mốt 113

4- Giới thứ hai mươi hai 115

5- Giới thứ hai mươi ba 117

6- Giới thứ hai mười bốn 120

7- Giới thư hai mươi lăm 121

IV- Chương bốn: Ăn uống phải nghiêm trang 124

1- Giới thứ hai mươi sáu 125

2- Giới thứ hai mươi bảy 127

3- Giới thư hai mươi tám 129

4- Giới thứ hai mươi chín 131

5- Giới thứ ba mươi 133

6- Giới thứ ba mươi mốt 135

7- Giới thứ ba mươi hai 137

8- Giới thứ ba mươi ba 139

9- Giới thứ ba mươi bốn 141

10- Giới thứ ba mươi lăm 142

11- Giới thứ ba mươi sáu 145

12- Giới thứ ba mươi bày 147

13- Giới thứ ba mươi tám 148

14- Giới thứ ba mươi chín 150

15- Giới thứ bốn mươi 153

16- Giới thứ bốn mươi mốt 155

17- Giới thứ bốn mươi hai 157

18- Giới thứ bốn mươi ba 159

19- Giới thứ bốn mươi bốn 160

20- Giới thứ bốn mươi lăm 164

21- Giới thứ bốn mươi sáu 165

22- Giới thứ bốn mươi bảy 168

23- Giới thứ bốn mươi tám 170

V- Chương năm: Đi tiểu tiện phải đúng cách 175

1- Giới thứ bốn mươi chín 176

2- Giới thứ năm mươi 178

3- Giới thứ năm mươi mốt 180

4- Giới thứ bảy mươi bốn 182

5- Giới thứ bảy mươi lăm 184

6- Giới thứ bảy mươi sáu 186

VI- Chương sáu: Thuyết pháp đúng đối tượng 187

1- Giới thứ năm mươi hai 188

2- Giới thứ năm mươi ba 191

3- Giới thứ năm mươi bốn 192

4- Giới thứ năm mươi lăm 194

5- Giới thứ năm mươi sáu 196

6- Giới thứ năm mươi bảy 197

7- Giới thứ năm mươi tám 199

 

Mục lục 203

 

HẾT TẬP I


Xin quý vị đọc tiếp “Tập II Giới Đức Làm Người” sẽ rõ đường lối tu tập của Đạo Phật, lấy đạo đức nhân quả làm nền tảng, hướng dẫn mọi người đi đến giải thoát hoàn toàn sanh, già, bịnh, chết, chấm dứt luận hồi.

 


PHẬT TỬ XIN ẤN TỐNG KINH

GIỚI ĐỨC LÀM NGƯỜI - TẬP I”


GIỚI ĐỨC LÀM NGƯỜI - TẬP I

Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC

.....................................................

NHÀ XUẤT BẢO TÔN GIÁO

53 Tràng Thi - Hoàn Kiếm - Hà Nội

ĐT: (04) 37822845 - Fax: (04) 37822841

Chịu trách nhiệm xuất bản:

Nguyễn Công Oánh

Biên tập: Trần Xuân Lý

Bìa & Trình bày: ……………….….…………………….……….

Sửa bản in: ……………………..……………………………

Đối tác liên kết:

TU VIỆN CHƠN NHƯ

Điệnthoại: 0979-520-554

(066) 3880178 - 3892911

Email: chonnhu2@gmail.com


Số lượng in: 3.000 bản, khổ: 13 x 20,5 cm

In tại……………………………………………………………………………………………………….

....................................................................................

Số xuất bản: ………………..…...CXB…………....ngày………………….…

In xong và nộp lưu chiểu Quý III năm 2010

 

Giới Đức Làm Người Tập 2

LỜI NÓI ĐẦU

Những giới luật đầu tiên của Đạo Phật mà quý vị tỳ kheo tăng và tỳ kheo ni, cũng như quý vị nam, nữ cư sĩ cần phải tu học, đó là một trăm giới chúng học. Một trăm giới chúng  học không phải dành riêng cho tu sĩ (tăng, ni và cư sĩ), mà cho tất cả mọi người.
Vì một trăm giới chúng học là những hành động đạo đức của mọi người, ai ai cũng đều cần phải học tập cho thông suốt, để tu sửa những hành động sai quấy, lỗi lầm và tội lỗi của mình, vì trong chúng ta hiện giờ mỗi người, ai cũng còn mang nhiều bản chất  hung ác, gian xảo của loài  cầm thú.
Một trăm giới chúng học là một trăm oai nghi tế hạnh của một vị tu sĩ đệ tử Phật (tỳ kheo tăng và tỳ kheo ni). Nhưng đây chỉ  là nói riêng, còn nói chung một trăm giới chúng học là một trăm hành động đạo đức của mỗi con người, nó không riêng cho giới đệ tử Phật mà cho tất cả mọi người, có tôn giáo hay không có tôn giáo và bất cứ tín đồ tôn giáo nào cũng cần phải học. Vì đạo đức này, nó có lợi ích, thiết thực chung cho đời sống của mọi người trên hành tinh này.
Giới luật Phật gồm chung có: ngũ giới, thập thiện, thập giới sa di, sa di ni, 250 giới tỳ kheo tăng và 348 giới tỳ kheo ni. Tất cả giới luật này là để chỉ dạy những hành động đạo đức của con người từ phàm phu, bình thường đến bậc Thánh nhân, Hiền triết.
Bắt đầu tu sửa đều từ những hành động thô lỗ, hung ác, gian xảo, điêu ngoa, lừa đảo, xảo trá của loài động vật được xóa bỏ dần để biến thành những hành động đạo đức tốt đẹp hơn, cao quý hơn, tình nghĩa hơn, thương yêu hơn, hiền hòa và cao thượng hơn, v.v...
Tất cả giới luật của Đức Phật đã dạy những điều trên, nếu ai biết lấy đó làm tiêu chuẩn sửa sai những hành động thân, miệng, ý của mình, lần lần sẽ trở thành những hành động hiền lành, ôn tồn, hòa nhã, thương yêu và đầy lòng bác ái, từ bi, v.v... của những con người thực thụ là con người, mà người đời gọi đó là những hành động đạo đức nhân bản.
Những hành động đạo đức đó sẽ tiến dần lên những hành động cao thượng hơn mà người bình thường không thể sống và làm được, nên gọi đó là những hành động đạo đức của những bậc Hiền Thánh, của những bậc Chơn Tu, nó còn gọi là đạo đức Phạm Hạnh trong Phật Giáo.
Nó hoàn toàn không còn mang những bản chất và hành động hung ác  của loài cầm thú và ác quỷ nữa. Nhờ đó con người sống trong hạnh phúc, an vui, tâm hồn thanh thản và an lạc, v.v… mà loài người thường ước mong và mơ tưởng. Những ai đã thực hiện được những hành động đức hạnh này thì người ấy đang sống trong cảnh Thiên Đàng, Cực Lạc tại thế  gian.
Đạo Phật còn gọi những hành động đạo đức này là oai nghi tế hạnh, là phạm hạnh, là đạo đức giải thoát của người tu sĩ (tỳ kheo tăng và tỳ kheo ni). Nó chính là pháp môn tam vô lậu học: “GIỚI, ĐỊNH, TUỆ” mà Giới luật là pháp môn dạy đạo đức đầu tiên làm người của Đức Phật.
Hành động sống của con người thật là người thì không còn mang bản chất hung ác của loài cầm thú nữa, thì đó mới thật là hành động “đạo đức nhân quả không làm khổ mình khổ người”, còn ngược lại, làm khổ cho nhau là những hành động của loài cầm thú, không có đạo đức.
Con vật không có trí tuệ như con người, vì thế những hành động của loài vật thường xâu xé lẫn nhau vì miếng ăn, chỗ ở, vì ghen tuông, ganh tỵ, thù hận, v.v… Con người thì không lẽ như vậy được.
Đã không sanh ra làm người thì thôi, mà đã sinh ra làm người thì phải sống cho đúng tư cách đạo đức làm con người, chứ đừng sống như con thú vật, chỉ biết có đấu tranh vì miếng ăn, vì dục vọng, thì còn nghĩa lý gì là con người?
Bởi vậy, làm người phải có những hành động thật là con người, cho xứng đáng là con người, đừng sống theo kiểu nửa người nửa thú vật để biến sự sống trên hành tinh này thành cảnh địa ngục, luôn luôn tạo ra muôn vàn sự khổ đau cho nhau.
Tất cả giới luật của Đức Phật là những pháp môn dạy cho chúng ta tu tập, rèn luyện những hành động đạo đức làm người cho xứng đáng làm những con người, và còn tiến lên làm những bậc Thánh Hiền cho xứng đáng là những bậc Thánh Hiền. Chính vì vậy mà giới luật Phật giúp cho con người thoát kiếp làm loài thú vật.
Làm người chúng ta phải hiểu rằng: là một con vật thì phải có những hành động của một con vật; là một con người thì phải có những hành động của một con người. và hiểu biết như vậy mới gọi là người hiểu biết. Nếu không vậy mà gọi con người có sự hiểu biết thì không đúng.
Hiểu biết cái gì?
Hiểu biết những hành động đạo đức không làm khổ mình, khổ người. Còn ngược lại, có những người hiểu biết rất nhiều, có trình độ học thức rất cao, có bằng tiến sĩ, có sự thông hiểu Tam Tạng Kinh Điển mà vẫn thiếu đạo đức, thường mang tự ngã, xem mình là trên hết nên thường làm khổ mình khổ người, thường nói xấu người khác, đổ tội cho người khác khi mình làm sai, làm lỗi, nhất là rất hèn hạ khi làm lỗi mà không dám nhận lỗi.
 Sống còn tham ăn, tham ngủ như loài cầm thú thì những người ấy chưa được gọi là những người hiểu biết; những người ấy vẫn là những người còn vô minh mang đầy bản chất của loài thú vật.
Những hành động thân, miệng, ý không làm khổ mình khổ người là những hành động đạo đức mang đầy tính nhân bản. Cho nên hành động đạo đức không thể giống như những hành động của một con thú, hành động của một con thú không thể gọi là hành động đạo đức của một con người được, vì hành động của một con thú thường làm khổ cho nhau, giết hại lẫn nhau chỉ vì một miếng ăn rất nhỏ mọn, hèn hạ, đê tiện, v.v…
Thế mà, trong đời sống hằng ngày, chúng ta đã chứng kiến biết bao nhiêu hành động của con người thiếu đạo đức, tranh giành, chà đạp lên nhau và giày xéo lẫn nhau, chỉ vì miếng cơm, manh áo và những vật chất tầm thường, đã biến con người mất hết đạo đức và lương tri để trở thành những con thú vật mang hình người. Nhưng cũng có những con thú vật lại có những hành động đạo đức, không khác gì con người, đó là những con người còn mang lớp thú; nhưng cũng có những con người có những hành động như con thú, thiếu đạo đức, gian tham, xảo quyệt, lừa đảo, hung dữ, ganh tỵ ,tật đố, sân hận, thù hằn ,ích kỷ, hẹp hòi, v.v... đó là con thú mang lớp người
Một con vật nhờ có bộ lông, nhưng lại sống hở han, không kín đáo, bày da, bày thịt, gợi dâm gợi dục, không biết xấu hổ, nên gọi là con vật. còn con người thì khác, biết xấu hổ, biết anh em chị em, biết cha mẹ ông bà, biết mặc quần áo cho kín đáo thân, không bày da bày thịt, không khiêu gợi dâm dục, những hành động như vậy là hành động đạo đức của con người, còn ngược lại là những hành động của loài thú vật.
Con người thoát ra bản chất loài thú vật là ở chỗ có những hành động đạo đức biết xấu hổ. biết giữ gìn kín đáo, biết luân thường đạo lý.
Nhìn con người và con thú khác nhau là ở chỗ có những hành động đạo đức hay không đạo đức, biết xấu hổ hay không biết xấu hổ mà thôi, không phải nhìn ở hình tướng bên ngoài của con người mà đánh giá trị họ được, mà hãy nhìn những hành động thiện ác là biết ngay người hay thú, Thánh Nhân hay loài ác quỷ.
Bởi vậy, những hành động đạo đức là những hành động thoát ra khỏi bản chất loài cầm thú và ác quỷ. Nếu con người không có học đạo đức thì không biết đạo đức, nên dễ có những hành động vô tình của mình mà đã trở thành những hành động của một con thú vật  hay là ác quỷ.
Có những người học đạo đức nhưng không thực hiện đạo đức, sống hành động theo dục vọng như một con thú vật, những loại người này được xem là ác quỷ, chứ không phải loài cầm thú nữa.
Thời nay, người phụ nữ ăn mặc hở hang bày da, bày thịt, khiêu dâm, gợi dục giống như loài cầm thú chẳng khác nào. Nhất là gần đây, người Đông Phương chịu ảnh hưởng của người Tây Phương về cách thức ăn mặc hở hang. Người Tây Phương họ sống theo vật chất dục vọng nên thiếu đạo đức không như người Đông Phương của chúng ta.
Thấy lối sống và hành động của con người hiện giờ, biết là đạo đức của con người đang xuống dốc, và đang trở về đời sống của loài thú vật.
Người ta lo sản xuất vật chất và thực phẩm để phục vụ đời sống con người rất đầy đủ và tiện nghi, nhưng người ta lại quên xây dựng một nền đạo đức nhân bản cho con người. Vì thế, con người không thoát ra khỏi bản chất của loài cầm thú và ác quỷ mà còn trở lại bản chất của loài cầm thú và ác quỷ hơn nữa, nên hành động hằng ngày của mọi người đối xử với nhau rất  là thú vật, gần như không còn có đạo đức chút xíu nào cả. Ngoài mặt làm ra vẻ đạo đức, còn bên trong tâm của họ toàn là con thú vật, và ác quỷ.
Lật lại những trang kinh giới luật mà Đức Phật đã dạy cách đây 2543 năm về đạo đức làm người, làm Thánh nhân. Thời đó người ta xem những lời dạy này là một kho tàng đạo đức vô giá, một bằng chứng cụ thể là mười ba năm đầu khi Đạo Phật xuất hiện trên hành tinh này, lúc ấy chúng tỳ kheo giữ gìn giới luật nghiêm túc, không hề vi phạm một lỗi nhỏ, rất xứng đáng là những bậc Thánh Tăng và Thánh Ni, còn bây giờ những lời dạy này đối với chúng ta quá tầm thường, chẳng mấy ai quan tâm đến nó, nhất là tín đồ Phật Giáo, giới tu sĩ tỳ kheo tăng và tỳ kheo ni, đã quên đi và còn có ý khinh rẻ những pháp bảo đạo đức này, họ xem thường pháp môn giới luật và chỉ  quý trọng pháp môn thiền định. Nhưng thiền định có lợi ích gì cho bản thân họ và cho những người khác đâu, bằng chứng quý vị đã thấy rất rõ ràng, có những người ngồi thiền hai ba tiếng đồng hồ hoặc một hai ngày mà chẳng có ích lợi gì cho mọi người và xã hội, trong cuộc sống hằng ngày họ đều vi phạm giới luật, giới luật vi phạm tức là đạo đức không có, đạo đức không có thì mặt người mà lòng thú, họ có đủ mánh khóe, lừa đảo, lường gạt người khác bằng những thủ đoạn, gian xảo, ngoài phủ những lớp áo đạo đức giả khéo che,  khéo đậy với những danh từ “Bồ Tát  Đạo”, hành “Bồ Tát Hạnh” để ngồi trong mát ăn bát vàng.
Giới luật Phật là những hành động đạo đức chơn thật của con người không làm khổ cho nhau; là thước đo để chúng ta nhận xét biết được mọi con người, họ là con người hay là thú vật; họ là người tu thật hay là tu giả; họ là Thánh nhân hay là Ác quỷ.
Vì thế, chúng ta tu theo Đạo Phật không phải cầu thiền định; không phải cầu thần thông phép tắc hoặc cầu chết đi được sanh về Niết Bàn, Cực Lạc, hoặc cầu danh, cầu lợi, hoặc cầu cơm ăn áo mặc, hoặc cầu chùa to Phật lớn, hoặc cầu làm chức Hòa Thượng, Thượng Tọa, Viện Trưởng , Viện Chủ, v.v...
Chúng ta đến với Đạo Phật cũng không phải cầu kiến tánh thành  Phật, Thánh, Tiên, Hiền Nhân, Quân Tử, v.v...
Chúng ta đến với Đạo Phật chỉ  cầu tu tập trau dồi sửa tâm tánh của mình có những hành động đạo đức không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh, để chúng ta thoát ra khỏi những hành động của loài cầm thú và ác quỷ.
Đến với Đạo Phật nếu được vậy chúng ta đã mãn nguyện lắm rồi. Chúng ta không dám ước nguyện  một  điều gì ngoài tầm sức của mình; không dám mơ tưởng những gì cao siêu huyền bí; và cũng không dám mơ tưởng làm Bồ Tát độ hết chúng sanh, vì độ hết chúng sanh sức của chúng ta không kham nổi, chỉ tùy duyên mà thôi, ai có duyên với mình thì độ không duyên thì thôi, chúng ta chẳng dám ước vọng, vì ước vọng như Phật và Bồ Tát của Đại Thừa sẽ không thực hiện được, thiếu thực tế và còn mơ hồ, trừu tượng, khiến cho chúng sanh nghi ngờ, mất niềm tin với Đạo Phật.
Một trăm giới chúng học là những oai nghi tế hạnh đạo đức đầu tiên mà chúng ta cần phải học và sống cho đúng, tuy nó đơn giản nhưng nó đem lại lợi ích rất lớn cho mình, cho người, thiết thực và cụ thể.
Chúng ta cũng ước mong sao cho tất cả mọi người trên thế gian này đều được tu học đạo đức như chúng ta để hưởng được một mùa xuân vĩnh cửu.
Một trăm giới chúng học là một trăm hành động đạo đức dạy làm người để thoát ra khỏi bản chất loài thú vật như trên chúng ta đã nói, chúng ta ước mong rằng tất cả những người có mặt trên hành tinh này đều có đủ duyên may gặp pháp bảo này, để cứu mình sống trong cuộc đời mà không làm khổ mình, khổ người, thì đó là chơn hạnh phúc của kiếp làm người.
Tóm lại, làm con người phải học đạo đức, nếu không học đạo đức thì không thể xứng đáng làm con người. Con người không học đạo đức lần lần nhiễm ác pháp trở thành những con thú hung dữ, và còn hơn nữa là loài ác quỷ. Cho nên, dù trong hoàn cảnh nào chúng ta cũng phải cố gắng học đạo đức làm người. Không nên xem thường đạo đức, vì đạo đức sẽ xác định cho chúng ta biết là con người, con thú vật hay là ác quỷ.
Muốn thoát ra khỏi bản chất loài cầm thú không gì hơn chúng ta phải thực hiện đạo đức nhân quả làm người, không nên làm khổ mình khổ người và luôn luôn còn phải biết thương yêu nhau, tha thứ cho nhau những lỗi lầm của nhau, và còn biết đùm bọc lẫn nhau trong những lúc  gặp hoạn nạn, tai ương, những lúc tối lửa tắt đèn, cùng những lúc trên đường tu hành gian nan khó khổ, để cùng nhau chia xẻ ngọt bùi, cay đắng, v.v…
Sau cùng, chúng tôi xin các bậc cao minh đức rộng, khi đọc có thấy những gì còn sơ sót trong đây và góp thêm ý với chúng tôi, để hoàn thành một tập sách dạy giới luật đạo đức làm người, làm Thánh nhân có giá trị hơn. thân ái chào quý vị.

Kính ghi
Trưởng Lão Thích Thông Lạc
(Ngày 29-8-1999)





 

CHƯƠNG VII: THUYẾT PHÁP PHẢI ĐÚNG NƠI CHỖ

Có 14 giới

(Giới thứ 59, 77, từ giới thứ 86 đến giới thứ 92, từ giới thứ 96 đến giới thứ 100)

 

 

 

Giới thứ năm mươi chín: KHÔNG NÊN VÌ NGƯỜI ĐI XE KIỆU NÓI PHÁP

Vị tỳ kheo khi đi trên xe hoặc kiệu với những người khác không được nói pháp cho họ nghe. Vì nơi đó không phải chỗ nói pháp. Thế mà thời nay, có nhiều người lợi dụng đi trên xe đông người, do duyên nói chuyện phiếm, rồi sẵn đó nói pháp, để khoe khoang mình là người thông pháp Phật, pháp Thiền, mình là người hay, là người giỏi về Phật Pháp và về Thiền Định. Đó là tính chất thể hiện bản ngã.

Trên xe cộ, người ta đã chứng kiến một số cư sĩ và tu sĩ tranh luận Thiền, Giáo hơn thua bằng cách đem hết sở học về Thiền và Giáo lý của Phật ra tranh luận dữ dội. Bởi vậy, giới thứ năm mươi chín này Phật cấm không được vì người đang đi trên xe hoặc kiệu nói pháp, đó là nơi không đúng chỗ thuyết pháp, nơi không thanh tịnh.

Hành động thuyết pháp hoặc tranh luận trên xe là hành động thiếu đạo đức cung kính và tôn trọng pháp bảo, đó là một hành động háo danh và nuôi dưỡng bản ngã. Người trí thấy người nói pháp trên xe cộ là biết ngay liền, đó là những kẻ thiếu giáo dục đạo đức, những kẻ thông thái rởm, chỉ nhai lại đờm dãi của kẻ khác, là con chim học nói tiếng người. Phần đông số người này là những con mọt sách và chỉ đi nghe thuyết giảng của các nhà học giả rồi huênh hoang nói pháp Thiền, Giáo, làm trò cho thiên hạ nghe, xem mà chẳng có đồng xu nào cả.

Mong rằng các vị tỳ kheo tăng cũng như các vị tỳ kheo ni phải giữ gìn tất cả những giới luật này cho nghiêm chỉnh, để bảo vệ pháp bảo của Phật mãi còn một giá trị quý báu và cao cả.

Nhờ có giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh, quý thầy tỳ kheo tăng và tỳ kheo ni mói có những hành động đạo đức xứng đáng là đệ tử của Đức Phật; xứng đáng làm gương sáng cho tín đồ soi và nương theo. Điều lợi ích nhất cho quý vị tăng, ni và cư sĩ đã giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh thì tâm của quý vị sẽ được thanh thản, an lạc và vô sự, tức là tâm quý vị ly dục ly ác pháp, nên Đức Phật dạy: “Ta nói nghiêm trì giới luật, tức là ly dục ly ác pháp”; tâm ly dục ly ác pháp tức là tâm nhập Sơ Thiền, một loại thiền định đầu tiên của Đạo Phật trong Tứ Thánh Định.

Đạo đức làm một vị giảng sư thì phải biết tôn trọng và cung kính pháp bảo, đức hạnh cung kính và tôn trọng pháp bảo không phải để pháp bảo trên bàn thờ lạy lễ hằng ngày mà là hành động cung kính và tôn trọng. Đừng cung kính và tôn trọng theo kiểu Thường Bất Khinh Bồ Tát trong kinh Pháp Hoa, đó là sự cung kính của các nhà Đại Thừa tưởng giải ra, chứ Đức Phật dạy cung kính và tôn trọng trong giới luật rất cụ thể rõ ràng trong mỗi hành động nhân quả thiện ác, có dịp chúng tôi sẽ nói đến. còn hiện giờ ở giới luật này dạy cung kính và tôn trọng không phải cung kính và tôn trọng một cách ngu si như kinh Pháp Hoa đã dạy, để cho mọi người lấn lướt chà đạp, mà chính đức hạnh cung kính và tôn trọng là nói pháp phải đúng nơi, đúng chỗ, đúng người; nói pháp không đúng nơi đúng chỗ, đúng người là thiếu lòng cung kính và tôn trọng pháp bảo.

Người nói pháp không đúng nơi, đúng chỗ, đúng người khiến cho người khác nghe pháp khinh chê Phật pháp, thì người nói pháp phải bị tội đọa.

Vậy tăng ni hãy ghi nhớ lời nhắn nhủ này, cố gắng giữ gìn oai nghi tế hạnh cho nghiêm chỉnh, không được thuyết pháp bừa bãi.

Giới thứ bảy mươi bảy: KHÔNG NÊN ĐEM LỜI GIẢNG NÓI CỦA PHẬT VÀO CHỖ ĐẠI TIỂU TIỆN

Lời giảng dạy của Phật là pháp bảo, nhờ có pháp bảo chúng ta mới biết được đường lối tu hành đi đến giải thoát, khiến cho cuộc đời không còn đau khổ nữa. Vì thế chúng ta phải tôn trọng và cung kính những lời dạy quý báu này, không nên đem những lời dạy quý báu vàng ngọc này vào những nơi đại tiểu tiện bất tịnh và những nơi hôi thúi, uế trược khác. Nếu chúng ta không cung kính, tôn trọng pháp bảo, đem những lời dạy này vào những nơi bất tịnh thì sẽ khiến cho chúng ta mất duyên với chánh pháp, và từ đó chúng ta dễ bị lạc vào tà pháp của ngoại đạo, dù cho có công tu hành cũng chẳng cứu mình thoát khỏi kiếp sống trầm luân và đầy đau khổ. Tu để mà cho có tu, chứ thật sự chẳng ích lợi gì cho bản thân của mình và cho ai cả, đó là tu sĩ đời nay, vì thiếu lòng cung kính và tôn trọng pháp bảo, nên chẳng gặp chánh pháp của Phật mà lại gặp tà pháp ngoại đạo rồi cứ ngỡ tưởng là pháp môn của Đức Phật. Hiện giờ hầu hết tu sĩ đều tu theo giáo pháp của Bà La Môn, nhưng lại nghĩ rằng mình tu theo giáo pháp chơn chánh của Phật.

Từ giới 60 đến giới 85 trong 100 giới chúng học, thường trong các bộ luật của các Tổ viết soạn đều dùng danh từ “Tháp Phật và tượng Phật”, đó là một điều bịa đặt để chế thêm giới luật của các Tổ sau này, vô tình các Tổ đã để lộ sự thêm bớt của mình cho những người đời sau biết sự gian xảo đó.

Giới luật được đặt ra là do Phật chế, chứ không phải do các Tổ chế. Phật chưa tịch làm sao có tháp Phật và tượng Phật được? Đó là những giới luật của những người sau này chế ra.

Nếu Phật chế ra giới luật như vậy thì chứng tỏ Phật còn mang bản ngã danh lợi cá nhân của mình rất lớn giống như vua chúa, thì làm sao được gọi là bậc giải thoát, bậc A La Hán như trong các bộ luật ghi: “Tháp Phật tượng Phật thì không ai được làm và đem những vật bất tịnh vào”. Cấm như vậy không đúng tinh thần “vô ngã” của đạo Phật. Trừ khi Phật tịch các Tổ chế giới cấm như vậy là đúng, vì đó là lòng cung kính của các Tổ đối với Phật.

Lòng tôn trọng và cung kính ấy phải được để cho người khác tự tỏ lòng tôn kính, chứ lý đâu lại chế giới luật bắt buộc mọi người tôn kính mình như vậy. Đó là cái sai của các Tổ, khi soạn viết giới luật Phật, giống như các vị đế vương.

Để thấy rõ giới luật Phật không còn mang tính chất Nguyên Thủy. Các Tổ biên soạn giới luật Phật thêm bớt rất nhiều, nhưng dù sao giới luật vẫn là đạo đức của tu sĩ, nên thêm cho hợp lý thì rất tốt đối với tu sĩ, thêm mà không hợp lý làm mất giá trị giới luật đạo đức của Phật, là một điều tội lỗi rất lớn. Nhất là bẻ vụn giới luật hoặc bỏ mất, khiến cho người sau không biết đâu mà tìm kiếm.

Giới này Phật dạy chúng ta phải tỏ lòng cung kính và tôn trọng pháp bảo. Người có lòng cung kính và tôn trọng pháp bảo thì mới có lòng cung kính và tôn trọng người khác.

Lòng cung kính và tôn trọng người khác là một đạo đức của con người đối xử với nhau. Loài vật không thể nào có sự cung kính và tôn trọng lẫn nhau như vậy được, chúng chỉ có lòng sợ hãi trước các con thú lớn, mạnh và hung ác.

Con người khác hơn loài vật là ở chỗ biết cung kính và tôn trọng lẫn nhau, nếu con người không có lòng cung kính và tôn trọng lẫn nhau thì có khác nào là loài cầm thú, mạnh thì hiếp yếu, lớn thì hiếp nhỏ.

Cho nên, trong giới luật Phật dạy chúng ta rất nhiều về đức cung kính và tôn trọng. Đức cung kính và tôn trọng pháp bảo tức là dạy chúng ta biết cung kính và tôn trọng người khác như trên đã dạy. Cung kính và tôn trọng người khác tức là cung kính và tôn trọng mình.

Tại sao cung kính và tôn trọng pháp bảo lại là cung kính và tôn trọng người khác; tôn trọng và cung kính người khác lại là cung kính và tôn trọng mình?

Đạo đức của Đức Phật dạy chúng ta không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh. Nếu không làm khổ mình khổ người và khổ chúng sanh thì chúng ta phải có lòng cung kính và tôn trọng sự sống lẫn nhau. Nếu có lòng cung kính và tôn trọng sự sống lẫn nhau thì không ai làm khổ ai, tức là mọi người đã sống trong đạo đức của Đạo Phật. Có sống trong đạo đức của Đạo Phật thì mới thấy cuộc sống của con người trên hành tinh này là cảnh giới Thiên Đàng, Cực Lạc.

Chỉ vì chúng ta không có lòng cung kính và tôn trọng lẫn nhau nên đã tự làm khổ cho nhau, đôi khi vì tranh chấp những việc chẳng ra gì lại còn giết hại nhau mà chẳng chút lòng thương xót. Đối với những loài vật khác, chúng ta thường xem chúng là những thực phẩm của chúng ta ăn, nên giết hại và ăn thịt chúng, ăn với sự ưa thích, không có lòng đau thương xót xa trước sự kêu la, gào thét trong đau khổ và sự sống chết của chúng. Đó là bản năng hung ác của loài thú vật còn tồn động trong người của chúng ta chưa bỏ được. Chúng ta chỉ còn biết ăn ngon miệng, ăn cho mập cho béo, để rồi thọ lấy những bịnh tật khổ đau bất tận.

Nhờ có pháp bảo dạy chúng ta vừa biết cung kính và tôn trọng pháp bảo lại cũng vừa biết cung kính và tôn trọng người khác, có đức cung kính và tôn trọng người khác thì mới không làm khổ mình, khổ người, khổ chúng sanh như trên đã dạy; không làm khổ mình khổ người và khổ chúng sanh thì tâm hồn chúng ta mới thanh thản, an lạc và giải thoát; tâm hồn có thanh thản, an lạc và giải thoát thì tâm mới vô lậu như kinh Phật đã dạy.

Cho nên giới luật Phật dạy chúng ta giải thoát vô lậu, gọi là giới vô lậu. Giới vô lậu tức là giới luật dạy chúng ta đạo đức làm người, có đạo đức làm người mới vượt thoát khỏi bản chất của loài cầm thú, thì lúc bây giờ tâm hồn chúng ta mới bất đọng trước các pháp và trước các cảm thọ. Đó là mục đích của Đạo Phật “Bất động tâm định”. Một loại thiền định chỉ Đạo Phật mới có mà thôi.

Con người chỉ cần vượt thoát ra khỏi bản chất hung ác, gian xảo, lừa đảo của loài cầm thú thì thế gian này sẽ là cảnh Thiên Đàng. Muốn được vậy chúng ta cần phải học đạo đức nhân quả, có học đạo đức nhân quả mới có những hành động không làm khổ mình khổ người, không giết hại và không ăn thịt chúng sanh.

Muốn tách lìa bản chất cầm thú trong chúng ta, thì chúng ta hãy cố gắng học tập và thường hằng trau dồi đạo đức nhân quả không làm khổ mình khổ người, thì trước tiên chúng ta phải thọ Tam Quy, Ngũ giới tức là tu học giới luật Phật. Vì trong giới luật Phật dạy chúng ta toàn là những hành động đạo đức giải thoát cho mình, cho người, luôn sống trong thiện pháp và xa lìa các ác pháp.

Biết cung kính, biết tôn trọng là một đức hạnh diệt ngã xả tâm, ly dục ly ác pháp rất hữu hiệu và tuyệt vời, tạo cho chúng ta có một tâm hồn cao thượng. Đức cung kính và tôn trọng cũng là một trong muôn ngàn hành động đức hạnh cao quý của Đạo Phật mà chúng ta cần phải bắt đầu học ngay từ bây giờ, để kịp thời cứu mình thoát khỏi cảnh trầm luân đau khổ của kiếp làm người, và cũng có thể chấm dứt luân hồi, sanh tử trong kiếp sau.

Giới thứ tám mươi sáu: KHÔNG NÊN NÓI PHÁP CHO NGƯỜI NGỒI MÀ MÌNH ĐỨNG, TRỪ KHI NGƯỜI NGHE ĐANG BỆNH

Đây là giới dạy người thuyết pháp (Pháp sư) phải cung kính và tôn trọng pháp bảo, tức là khi thuyết pháp cho người khác nghe, người nói pháp phải biết địa vị của mình đang ở vị trí nào? Và vị trí có đúng nói pháp hay không?

Nếu đúng chỗ thì nói pháp, không đúng chỗ thì thôi, không được vì danh, vì lợi mà đem pháp bảo của Phật để biến trở thành một món hàng buôn bán và trao đổi sự sống với nhau, thì những người đó không đúng là pháp sư. Người thuyết pháp đụng đâu nói pháp đó là người không có đức cung kính và tôn trọng pháp bảo; người không có đức cung kính và tôn trọng pháp bảo là người không biết tôn trọng và cung kính người khác; người không biết cung kính tôn trọng người khác là người không cung kính tôn trọng mình; mình đã không cung kính tôn trọng mình thì còn ai là người cung kính tôn trọng mình được?

Ở đây Đức Phật dạy, người làm thầy thuyết pháp cho người khác nghe, trước tiên mình phải tỏ lòng cung kính và tôn trọng pháp bảo. Phải tỏ lòng cung kính pháp bảo như thế nào?

Quý Phật tử có bao giờ đi nghe một buổi thuyết trình về đề tài khoa học, văn học, sử học, mỹ thuật, âm nhạc, hội họa, kiến trúc, v.v... chưa?

Người thuyết trình viên đứng trên bậc thuyết trình, còn tất cả mọi người nghe đều ngồi. Đối với những đề tài khoa học, văn học, sử học, âm nhạc, mỹ thuật, hội họa, kiến trúc, v.v... thì người thuyết trình đứng và người nghe ngồi là đúng. Tại sao vậy?

Vì những đề tài thuyết trình ở trên không phải là những đề tài thuyết trình về đạo đức. Nếu thuyết trình về đạo đức thì thuyết trình viên đứng là không đúng tư cách đạo đức. Vì đạo đức dạy người nghe phải có lòng cung kính và tôn trọng lời dạy đạo đức và người nói về đạo đức.

Vì thế, người dạy đạo đức phải ngồi trên ghế cao và thuyết trình về đạo đức, còn người nghe thì phải ngồi ghế thấp hơn. Đó là đúng tư cách đạo đức cung kính và tôn trọng lẫn nhau trong nền đạo đức nhân bản của Đạo Phật.

Quý Phật tử có bao giờ vào một lớp học chưa?

Ông thầy giáo đứng trước bảng đen giảng bài cho học sinh, còn tất cả học sinh đều ngồi lắng nghe. Nếu dạy về đạo đức như ông thầy giáo thì không đúng tư cách dạy đạo đức, chính hành động đứng giảng về đạo đức là đã không đúng tư cách đạo đức, thì còn dạy đạo đức cho ai được? Đám học trò ngồi nghe đạo đức mà thầy mình đứng giảng đạo đức thì cũng không đúng tư cách người học trò học đạo đức. Nếu dạy đạo đức mà dạy như vậy thì thầy lẫn học trò chẳng có đạo đức gì cả. Cho nên, hiện giờ trong các trường học từ Sơ cấp đến Đại học đều có dạy đạo đức, nhưng dạy đạo đức đó chỉ là hình thức cho có đạo đức mà thôi, chứ thật ra không phải dạy học đạo đức để sống đúng đạo đức làm người như vậy được. Còn dạy tất cả những môn học khác như: toán, văn, sử, địa, lý, hóa, v.v... thì đứng dạy như vậy rất đúng.

Trong giới luật Phật đã dạy đạo đức rất rõ ràng: “Không nên nói pháp cho người ngồi nghe mà người thuyết pháp lại đứng”.

Hành động đứng thuyết pháp về đạo đức cho người khác nghe là giảng sư thiếu giáo dục đức hạnh về đức cung kính và tôn trọng pháp bảo. Nếu giảng sư không có đức cung kính và tôn trọng pháp bảo thì dạy người nghe pháp về đạo đức cũng sẽ không có đức hạnh cung kính và tôn trọng, vì thầy làm sống như thế nào thì trò cũng như thế nấy.

Cho nên, người giảng pháp đứng, người nghe pháp lại ngồi và ung dung ngồi nghe pháp đó cũng là hành động của hai thầy trò đều thiếu đạo đức cung kính và tôn trọng như nhau. Do đó suy ra chúng ta biết đức hạnh về sự cung kính và tôn trọng có hai phương diện hành động cao đẹp nhất của con người là đức hạnh tôn trọng và cung kính lời dạy của Đức Phật và vị thầy dạy đạo đức.

Người giảng sư đứng thuyết pháp cho mọi người khác ngồi nghe. Đó là người giảng sư thiếu đạo đức và vô minh, không biết hành động đứng thuyết pháp sẽ mang đến tai hại vô đạo đức cho người nghe pháp như thế nào?

Khi một người dạy đạo đức mà không đúng tư cách đạo đức làm thầy thì có năm điều khiến cho người học đạo đức không áp dụng đạo đức vào cuộc sống, lại trở thành người vô đạo đức:

1- Khiến họ thiếu đức hạnh tôn trọng và cung kính pháp bảo.

2- Khiến họ mất duyên với chánh Phật Pháp.

3- Khiến họ thiếu lòng cung kính và tôn trọng bậc thầy dạy đạo đức cho mình.

4- Khiến họ thiếu lòng cung kính và tôn trọng mọi người.

5- Khiến họ thiếu lòng cung kính và tôn trọng mình.

Nếu những người ỷ có chức tước, quyền thế, giàu sang, bắt buộc giảng sư đứng thuyết pháp còn mình ngồi nghe pháp, những kẻ ỷ quyền thế thiếu giáo dục đạo đức cung kính và tôn trọng như vậy, thì người giảng sư cần phải cho họ một bài học về đạo đức, đừng vì quyền thế giàu sang của họ mà sợ hãi rồi phá đạo đức và bán rẻ giáo pháp của Phật. Đối với những hạng người này mà thuyết giảng cho họ nghe thì không xứng đáng là giảng sư, chỉ là một người hèn nhác trước thế lực và tiền bạc.

Thà người giảng sư chịu chết trước uy quyền thế lực của kẻ thiếu đạo đức, chứ nhất định không bán rẻ đạo đức Phật pháp, không bán rẻ lương tâm của mình mà phải giữ cao khí tiết đức hạnh cung kính và tôn trọng của người đệ tử Phật.

Nếu giảng sư vì pháp, vì chúng tăng đi đến nhà vua, chủ đất (đại Thí chủ) để giảng pháp, nhưng nhà vua hoặc chủ đất bắt buộc giảng sư đứng thuyết, còn mình thì ngồi nghe như thầy giáo giảng bài cho học trò, thì giảng sư thà chết trước thế lực uy quyền của họ hoặc dời chúng tăng đi chỗ khác, chứ không thuyết pháp cho những kẻ quá khinh mạn pháp bảo của Phật như vậy. Có được như vậy là giảng sư đã cho họ một bài học đạo đức giá trị. Giảng sư như vậy mới chính là đệ tử của Đức Phật.

Những kẻ này là những kẻ thiếu đạo đức cung kính và tôn trọng. Còn giảng sư vì danh, vì lợi, thì đừng bịt mắt tín đồ bằng những danh từ lừa đảo: “Vì chúng tăng, vì phật pháp”, mà phải đứng thuyết pháp cho những người này ngồi nghe. Giảng sư như vậy thì không đúng là giảng sư dạy đạo đức. Những giảng sư này vì nhà giàu, vì vua chúa nói pháp không đúng nơi, đúng chỗ là những người buôn Phật bán pháp, chứ không phải là đệ tử của đức Phật, họ là những kẻ không xứng đáng đem pháp bảo của Phật hoằng hóa chúng sanh. Đó là những giảng sư hèn hạ tồi tệ, không xứng đáng làm thầy Trời, Người, và cũng không xứng đáng làm gương đạo đức cho hàng tín đồ Phật Giáo soi. Họ là những con sâu làm rầu nồi canh, là những con bọ chét trong lông sư tử, là những tên lừa đảo có sách vở.

Giới thứ tám mươi bảy: KHÔNG NÊN NÓI PHÁP CHO NGƯỜI NẰM MÌNH NGỒI, TRỪ KHI NGƯỜI NGHE PHÁP BỊ BỆNH

Người giảng sư khi bước lên pháp tọa, phải quan sát tất cả mọi người đang ngồi nghe pháp, nếu thấy có người nằm nghe pháp thì nhất định giảng sư không thuyết pháp, dù có hàng trăm ngàn người ngồi nghe mà chỉ có một người nằm thì giảng sư cũng chẳng thuyết pháp.

Tại sao vậy?

Ở nơi giảng pháp, nhất là pháp dạy đạo đức của Đức Phật thì đừng bảo rằng: “Thiểu số phải tùng đa số”. Không lẽ vì một người mà ta bỏ bao nhiêu người đang ngồi chờ đợi để nghe pháp hay sao?

Ở đây là nơi dạy đạo đức, chứ không phải nơi bầu cử, nên không thể nói thiểu số và đa số, mà chỉ thẳng vào đạo đức của con người để giáo dục mọi người cho có đạo đức. Nếu vì số đông ta thuyết giảng pháp đạo đức cho mọi người nghe thì mọi người sẽ bắt chước số ít kia mà trở thành những con người thiếu đạo đức.

Đức cung kính và tôn trọng pháp bảo là một đức hạnh rất cần thiết cho cuộc sống của con người, vì có cung kính và tôn trọng pháp bảo chúng ta mới học được đạo đức làm người từ trong pháp bảo ấy đã dạy.

Từ đức hạnh cung kính và tôn trọng pháp bảo chúng ta mới học được đức hạnh cung kính và tôn trọng mọi người khác, có cung kính và tôn trọng mọi người khác chính là ta đã cung kính và tôn trọng ta. Có cung kính và tôn trọng người khác tức là không làm khổ người khác; có cung kính và tôn trọng mình tức là không làm khổ mình, như trên đã dạy.

Người sanh ra ở đời mà không làm khổ mình khổ người là người có hạnh phúc nhất trần gian. Muốn được vậy thì mọi người phải học và tu tập đầy đủ đức hạnh cung kính và tôn trọng mình và người khác.

Bởi, người không có đức hạnh cung kính tôn trọng pháp bảo của Đức Phật, tức là không có lòng cung kính và tôn trọng luật nhân quả thường hay làm khổ mình khổ người, thường hay làm khổ mình khổ người là người không có lòng cung kính và tôn trọng mình và người khác, người ấy cũng giống như một loài cầm thú thông minh mà thôi.

Những hành động nằm nghe pháp là những hành động của người vô giáo dục đạo đức, thường sống trong bản ngã tự tôn tự đại, cứ nghĩ rằng mình là trên hết.

Người thuyết pháp vô tình mà thuyết pháp cho người nằm nghe pháp là giảng sư thiếu đạo đức, là giảng sư của ngoại đạo.

Pháp Phật là một pháp môn dạy đạo đức làm người, từ sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Làm người mà không làm khổ mình khổ người là người có một đạo đức tuyệt vời. Một đạo đức giúp cho con người vượt ra khỏi bản chất của loài cầm thú, không còn hung dữ và gian ác nữa; một đạo đức giúp cho con người vượt thoát mọi sự khổ đau của kiếp làm người và còn chấm dứt được sự tái sanh luân hồi; một đạo đức dạy cho con người làm những bậc Thánh nhân.

Một đạo đức vô cùng cao quý như vậy, thế mà không tôn trọng và cung kính thì làm sao có lợi ích cho đời sống của mình. Có cung kính và có tôn trọng pháp bảo thì mới có áp dụng vào đời sống hằng ngày của mình, ngăn chận và diệt được ác pháp trong tâm, nhờ thế cuộc sống mới thanh thản, an vui và hạnh phúc.

Giảng sư mà thiếu tư cách cung kính và tôn trọng pháp bảo là những giảng sư vì danh vì lợi, dù cho giảng sư đó có thông suốt Tam Tạng Thánh Điển cũng vẫn là người buôn Phật bán pháp mà thôi.

Người không có đạo đức mà giảng kinh sách Phật là phản lại đạo đức của Đạo Phật, vì hành vi của người ấy không có đạo đức khiến cho người khác nghe Phật Pháp cũng không có đạo đức. Đạo đức tôn trọng và cung kính, mà mọi người không áp dụng vaò đời sống của mình được thì tự chuốc lấy sự khổ đau cho mình mà lại còn làm cho người khác khổ đau nữa.

Biết cung kính và biết tôn trọng mọi người thì mọi người mới cung kính và tôn trọng mình. Hành động đạo đức cung kính và tôn trọng như vậy mới gọi là con người có đạo đức, nếu không có hành động đạo đức như vậy thì con người chỉ chuốc lấy một đời sống đau khổ, sầu muộn mà thôi.

Tóm lại, người nghe pháp và người thuyết pháp phải có lòng cung kính và tôn trọng, không phải chỉ riêng có pháp bảo mà còn phải cung kính và tôn trọng lẫn nhau. Như thế mới có thể hiện được giới đức, giới hạnh của Đạo Phật.

Giới thứ tám mươi tám: KHÔNG NÊN THUYẾT PHÁP CHO NGƯỜI NGỒI GIỮA, NGƯỜI THUYẾT PHÁP NGỒI MỘT BÊN

Pháp tòa là một cái ghế cao đặt ngay giữa pháp hội, phi tòa là một cái ghế nhỏ hơn để một bên. Pháp tòa là chỗ dành cho pháp sư ngồi để thuyết pháp, phi tòa là chỗ ngồi của người nghe pháp.

Giới này Đức Phật dạy người nghe pháp cũng như người thuyết pháp phải biết tôn trọng và cung kính không những pháp bảo mà còn phải cung kính và tôn trọng lẫn nhau cũng giống như giới trên đã dạy.

Ngồi giữa tòa nghe pháp, để người thuyết pháp ngồi một bên là người vô lễ vô đạo đức, không cung kính tôn trọng pháp bảo và pháp sư, xem lời Phật dạy như lời nói vu vơ thường tình, xem giảng sư như đào kép hát cải lương.

Vua quan hoặc nhà giàu mời giảng sư về nhà thuyết pháp, ỷ mình quyền tước, giàu sang, đặt pháp tọa thấp hơn chỗ mình ngồi. Do đó khi giảng sư đến nhà nên lưu ý, nhìn thấy pháp tọa không trang nghiêm, đặt nơi không xứng đáng, thì không nên thuyết pháp, xin phép lui về.

Những người đến với Phật pháp mà còn có những hành động ngã mạn, tự kiêu, tự đắc, tự cho mình hay giỏi, tự cho mình giàu sang phú quý, có quyền, có tước, có địa vị là hơn hết, họ nghĩ rằng chỉ có tiền là trên hết, muốn gì cũng được, nhưng đối với người có đạo đức thì họ sẽ thất vọng, tiền bạc và quyền tước không thể mua được những người có đạo đức.

Thời nay cũng như ngày xưa, kẻ giàu sang thường được ưu tiên nghe pháp và kinh sách lại được đọc đầy đủ, ngược lại, người nghèo khó muốn nghe pháp cũng phải khó khăn mới được nghe và kinh sách cũng không được đọc đầy đủ lắm.

Tóm lại ở đời, trong cuộc sống hằng ngày, có phước báo hay không phước báo là do ở những hành động nhân quả thiện hay ác. Nếu sanh ra làm người có đầy đủ phước báo thì hãy cố gắng làm thiện hơn nữa để tạo phước báo thêm, trong việc làm thiện tạo phước báo thêm thì đức hạnh cung kính và tôn trọng pháp bảo cũng như đức hạnh cung kính và tôn trọng mọi người là một việc làm thiện phước báo rất lớn. Phước báo đó là phước báo vô lậu, không thể lấy phước báo hữu lậu so sánh được.

Biết cung kính và tôn trọng pháp bảo tức là phải biết cung kính và tôn trọng mọi người; biết cung kính và tôn trọng mọi người là biết diệt ngã xả tâm; biết diệt ngã xả tâm là biết ly dục ly ác pháp; biết ly dục ly ác pháp là biết giữ tâm thanh thản, an lạc và vô sự; biết giữ tâm thanh thản, an lạc và vô sự là biết sống có đầy đủ đạo đức không làm khổ mình khổ người.

Từ một đức hạnh biết tôn trọng và cung kính dẫn tâm đến giải thoát hoàn toàn. Như vậy, một trăm giới luật chúng học mà Đức Phật đã dạy chúng ta đức hạnh cung kính và tôn trọng thật là hữu ích cho chúng ta rất nhiều, từ đạo đức làm người đưa đến bước đường nhập thiền định: “Ly dục ly ác pháp nhập Sơ Thiền”. Những giới luật này còn giúp chúng ta sống đúng phạm hạnh, đạo đức nhân quả và đạo hạnh của người tu sĩ Phật Giáo (tỳ kheo tăng và tỳ kheo ni), hưởng phước vô lậu và quả giải thoát hoàn toàn.

Bởi đức hạnh cung kính và tôn trọng rất cần thiết cho những người tu theo đạo giải thoát. Nếu người tu theo đạo giải thoát mà không tu tập trau dồi hành động thân khẩu ý toàn thiện thì không thể nào thực hiện được đạo giải thoát. Muốn được toàn thiện thì đức hạnh cung kính và tôn trọng không thể thiếu được, cho nên giới luật của Đức Phật thường nhắc đi nhắc lại mãi về đức hạnh cung kính và tôn trọng này.

Giới thứ tám mươi chín: KHÔNG NÊN THUYẾT PHÁP CHO NGƯỜI NGHE PHÁP NGỒI TÒA CAO MÀ NGƯỜI THUYẾT NGỒI TÒA THẤP

Đây cũng là một giới luật chỉ dạy đức hạnh cung kính và tôn trọng, nếu người không biết cung kính và tôn trọng còn mang tánh chất kiêu căng, tự cao, tự đại, thì chúng ta có thuyết pháp cho họ nghe cũng chẳng ích lợi gì cho họ, họ nghe pháp như nghe ca hát mà thôi.

Pháp sư không có lòng cung kính và tôn trọng pháp bảo mới đem pháp bảo của Phật giảng cho những người này nghe thì chẳng ích lợi gì cho cả hai. Bởi vì, người thuyết pháp và người nghe pháp đều là những người không có đạo đức biết cung kính và tôn trọng. Người nghe và người thuyết pháp như vậy thì cả hai đều phạm tội bất kỉnh pháp.

Đức cung kính và tôn trọng rất cần thiết cho con người sống chung nhau trong một xã hội, một đất nước, một hành tinh. Vì có cung kính và tôn trọng người khác thì ít khi làm khổ người, mà không làm khổ người tức là không làm khổ mình; không làm khổ mình tức là cung kính và tôn trọng mình; cung kính và tôn trọng mình tức là cung kính và tôn trọng người khác. Có cung kính và tôn trọng người khác tức là thương yêu mình; có thương yêu mình thì không làm khổ mình; không làm khổ mình tức là không làm khổ người, không làm khổ người tức là thương người. Thương người không có nghĩa là đem của cải tài sản cho người (bố thí), bố thí chưa hẳn là thương người, mà còn làm cho người khác nghèo khổ hơn. Cho nên chỉ có lòng chân thật cung kính và tôn trọng người thì mới thương người thật sự, bằng ngược lại chỉ là thương người ngoài đầu môi chót lưỡi mà thôi.

Ở đời, người ta đã lầm tưởng rằng mình đã thương mình, nhưng sự thật, mọi người, chính họ họ cũng không thương họ chút nào cả, chính vì vậy họ cũng chẳng biết cung kính và tôn trọng họ, nên hễ có xảy ra một việc gì, chuyện không ra gì, họ cũng đã tự làm khổ họ. Cho nên họ đã không thương họ thì làm sao họ thương ai được.

Trong thời Đức Phật còn tại thế, có một nhà vua nói với hoàng hậu: “Trẫm yêu thương khanh nhất, hơn là trẫm yêu thương trẫm”.

Bà Hoàng Hậu trả lời: “Bệ hạ nói không thật, nếu bệ hạ yêu thương thần thiếp sao bệ hạ lại muốn giết thần thiếp khi thần thiếp lấy một ông quan khác?”

Bởi, giáo pháp của Đức Phật dạy chúng ta cung kính và tôn trọng lẫn nhau là để không làm khổ mình khổ người, tức là biết thương mình thương người; biết thương mình thương người là chúng ta đã xây dựng một xã hội an vui hạnh phúc cho nhau, biến cảnh thế gian thành Thiên Đàng, Cực Lạc.

Muốn nghe pháp dạy đạo đức làm người của Đức Phật mà ngồi trên ghế cao hơn người thuyết pháp, còn ngược lại người thuyết pháp thì lại ngồi ghế thấp hơn. Và như vậy có phải là cung kính và tôn trọng giảng sư và pháp bảo không?

Nếu không cung kính và tôn trọng pháp bảo thì đừng mời giảng sư và cũng đừng nên nghe pháp, vì có nghe pháp cũng chẳng ích lợi gì cho mình.

Pháp bảo của Đức Phật là một pháp môn dạy đạo đức nhắm vào diệt ngã xả tâm ly dục ly ác pháp, đập phá tất cả những người còn mang tánh tự cao tự đại của loài thú vật và ác quỷ. Cho nên, đối với những người còn mang bản chất hiu hiu tự đắc thì không nên nghe pháp của Phật.

Những người còn mang bản chất tự cao, tự đại là những người đang thiếu giáo dục đạo đức cung kính và tôn trọng đối với mình và người khác.

Thiếu đức cung kính và tôn trọng lẫn nhau, thì người đó dù có sang trọng như Thạch Sùng, quyền uy như vua chúa, thì mọi người cũng vẫn không kính trọng. Chính bản ngã tự tôn tự đại đã làm mất đạo đức làm người của họ, thì dù họ giàu sang và quyền uy đến đâu thì họ cũng chỉ là kẻ thiếu đạo đức, mà chính sự thiếu giáo dục đạo đức đó nên họ là những người chịu khổ đau nhiều nhất trong cuộc sống hiện tại và mai sau.

Con người có thoát ra khỏi bản chất của loài cầm thú là nhờ có đạo đức, nếu không có đạo đức thì con người chỉ là một con thú vật thông minh, gian ác và hung dữ mà thôi.

Giới luật của Phật dạy chúng ta cung kính và tôn trọng pháp bảo, trong pháp bảo Phật dạy chúng ta sống không làm khổ mình khổ người và khổ chúng sanh, tức là dạy chúng ta biết cung kính tôn trọng lẫn nhau, nhờ có cung kính tôn trọng lẫn nhau thì cuộc sống mới an vui hạnh phúc và tâm hồn của mọi người mới thanh thản an lạc, giải thoát như trên đã dạy.

Người thuyết pháp là bậc thầy mà ngồi ghế thấp, còn người nghe pháp là học trò mà ngồi ghế cao, thì thử hỏi còn gì là đạo đức tôn ti trật tự cung kính tôn trọng lẫn nhau. Giới luật đạo đức không cho phép con người sống không có tôn ti trật tự, chỉ có những người vô đạo đức mới sống như vậy.

Giới luật Phật dạy: “Cấm không được thuyết pháp cho người nghe pháp ngồi ghế cao”. Lời dạy tuy đơn giản, nhưng ngầm chứa một hành động đạo đức cao vòi vọi, tuyệt vời: “Cung kính và tôn trọng”.

Trên đời, nếu chúng ta biết cung kính và tôn trọng tất cả mọi người không phân biệt giai cấp sang, hèn, có học hay vô học, có uy quyền hay không uy quyền thì thế gian này là cảnh Thiên Đàng. Chỉ vì tất cả mọi người không biết cung kính và tôn trọng lẫn nhau nên cảnh thế gian này là Địa Ngục.

Chỉ khi nào con người có tâm tha thiết tìm cầu sự giải thoát, người ấy phải biết hạ mình sát đất với lòng chân thành cầu xin pháp bảo đạo đức làm người: “Không làm khổ mình khổ người”, thì lúc bây giờ chúng ta mới giảng, nói pháp đạo đức giải thoát cho người này nghe. Người có tâm tha thiết như vậy thì liền khi nghe pháp xong được pháp nhãn thanh tịnh, còn những người tỏ thái độ ngạo mạn, thiếu đạo đức thì chẳng bao giờ được nghe chánh pháp của Phật, hầu hết đều nghe tà pháp, dù có nghe đúng chánh pháp nhưng họ lại hiểu sai lệch, biến chánh pháp thành tà pháp. Đó là trường hợp hiện giờ, mọi người (tín đồ Phật giáo) đang dẫm lại lối mòn này, lối mòn của Đại Thừa Giáo.

Thường giảng sư tà pháp đụng đâu thuyết giảng đó, không đúng nơi, đúng chỗ và không đúng đối tượng, họ chỉ vì danh và lợi mà thôi. Cho nên họ thuyết rất nhiều, mà chỉ mua vui giải trí cho thiên hạ, chứ tu hành chẳng đi đến đâu cả.

Phật pháp là giáo pháp cứu người ra biển khổ, người giảng sư phải có đầy đủ đức cung kính và tôn trọng thì mới xứng đáng là người giảng pháp của Phật Giáo. Nếu không như vậy, thì họ đã chôn vùi lời dạy quý báu của Đức Phật và muôn kiếp nghìn đời khó mà tìm ra lời dạy ấy. Bằng chứng ngày nay, kinh sách thì quá nhiều mà thứ kinh sách thật của Phật thì tìm rất khó, dù có tìm ra nhưng cũng chẳng biết bài kinh nào của Phật thật và bài kinh nào giả mạo. Do kinh sách người đời sau soạn viết ra mạo nhận là Phật thuyết quá nhiều, nên con đường tu hành của Đạo Phật đã mất dấu, khó mà người đời sau tìm ra manh mối được.

Giới thứ chín mươi: KHÔNG NÊN THUYẾT PHÁP CHO NGƯỜI ĐI TRƯỚC TA ĐI SAU

Pháp bảo của Phật là pháp môn giúp con người trau dồi thân tâm toàn thiện, để thoát vòng tục lụy đầy khổ đau và mãi mãi luân hồi trong sáu nẻo vô cùng, vô tận, để trở thành những con người có đạo đức thoát khỏi bản năng loài cầm thú và tiến dần lên để trở thành những bậc Thánh Hiền. Vì thế, khi đi ngoài đường không được nói pháp, nhất là người nghe pháp lại đi trước, còn người nói pháp lại đi sau, đó là hành động người nghe pháp và người nói pháp đều thiếu đức cung kính và tôn trọng pháp bảo của Đức Phật.

Phật cấm các vị tỳ kheo khi đi ngoài đường còn không được nói chuyện phiếm, huống là nói pháp. Giới thứ chín mươi này, đức Phật lại cấm nói pháp cho người đi trước nghe. Giới này có hai nghĩa:

1- Trên đường đi không phải nơi nói pháp, thì không được phép nói.

2- Đi sau người không được nói pháp, cho người đi trước nghe.

Hành động đang đi trên đường mà nói pháp là hành động thiếu giáo dục đức hạnh cung kính và tôn trọng pháp bảo, người nghe pháp mà nghe pháp không đúng chỗ cũng là người thiếu đạo đức. Giới luật Phật cấm đi đường hoặc đi vào làng không được nói chuyện, nhưng người ta tự nghĩ rằng theo giới luật Phật dạy: Chỉ có cấm không được nói chuyện phiếm, còn nói pháp thì Phật không cấm, nên mới có trường hợp xảy ra nói pháp ngoài đường, nhưng đến giới thứ chín mươi này thì rõ ràng Phật lại cấm nói pháp ngoài đường, và nhất là nói pháp cho người nghe đi trước người nói pháp đi sau.

Mỗi hành động đạo đức vi tế nhỏ nhặt này, nếu chúng ta không chịu khó học tập để hiểu biết thì dễ bị sai lầm. Và khi đã sai lầm thì tự mình đã phá oai nghi tế hạnh đạo đức của mình. Nếu người tu sĩ (tăng và ni) không có đạo đức thì không thể làm gương cho ai hết, mà còn làm cho người ta phỉ báng Phật Pháp, khinh chê Đạo Phật.

Đức Phật biết rất rõ tâm lý con người, một khi đã kiến chấp pháp nào vừa ý ưng bụng thì đụng đâu đem ra giảng nói đó, thuyết giảng một cách bừa bãi, không đúng nơi, đúng chỗ, đúng người, nói bằng ưa thích, nói đến đổi khan cả cổ họng mà vẫn còn thích nói. Đó là những người đã bị ma pháp tưởng ám ảnh.

Trong thất kiết sử có kiến kiết sử, kiến kiết sử là một sự hiểu biết chuyên đề cố chấp, chuyên đề đó trở thành một sở trường hiểu biết của họ, nên bị kiến kiết sử đó sai khiến thích nói, gặp ai cũng nói về chuyện đề đó. Phần đông những kẻ này lạc vào thiền tưởng.

Thiền Đông Độ và kinh sách Đại Thừa đã dạy người ta những kiến kiết sử này, do đó ai đã am tường nó thì rất thích tranh luận Thiền Giáo, khiến cho người tu sĩ mất hết oai nghi tế hạnh đạo đức, thường tranh luận hơn thua, nói xấu người khác.

Giới thứ chín mươi mốt: KHÔNG NÊN NÓI PHÁP KHI ĐI KINH HÀNH, NHẤT LÀ NGƯỜI NGHE ĐI CHỖ CAO, NGƯỜI THUYẾT ĐI CHỖ THẤP

Đi kinh hành nói chuyện với nhau thì không đúng cách đi kinh hành, vì đi kinh hành phải trụ tâm nơi bước đi. Đi kinh hành nói pháp, luận pháp thì tâm trí ở đâu tập trung nơi bước đi cho được. Hành động tu hành như vậy là tu sai, không đúng pháp đi kinh hành.

Đi kinh hành là tập trung ý tứ vào thân hành niệm, có đâu khởi niệm nói chuyện được, nếu đi kinh hành khởi niệm nói chuyện tức là đi kinh hành sai pháp (không đúng pháp đi kinh hành).

Giới này chúng ta phải hiểu ý nghĩa của Phật dạy, khi đang tu hành thì không được hỏi và nói pháp, nhất là trong lúc đang tu tập đi kinh hành, cũng như trong thời gian tu tập các pháp môn khác cũng không được nói chuyện, cho nên pháp độc cư của Phật dạy là bí quyết thành công trong việc tu hành thiền định.

Gần đây chúng tôi đem pháp môn độc cư này dạy cho mọi người tu tập nhưng chẳng mấy ai tin tưởng, nên mọi người đều phá pháp môn này, vì vậy cuối cùng chẳng có người nào nhập được Bốn Thánh Định.

Nếu không thực hiện pháp “độc cư”, thì Sơ Thiền là một loại thiền đầu tiên của Đạo Phật cũng không nhập được, huống là nói đến nhập Bốn Thánh Định của Phật. Vậy mà thường có nhiều người tự khoe mình đã nhập Sơ Thiền, nhưng họ nghĩ như thế nào là nhập Sơ Thiền, khi mà họ còn ăn uống phi thời, còn thích chùa to Phật lớn, và còn thích sống trong một ngôi nhà sang đẹp, đầy đủ tiện nghi vật chất thế gian.

Lại nữa, còn có một số người tự xưng nhập Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền và Tứ Thiền, nhưng xét lại đời sống của họ hoàn toàn phi phạm hạnh, tham, sân, si còn đủ. Đời sống chưa thực hiện thiểu dục tri túc, ba y một bát, thì làm gì nhập được Bốn Thánh Định này.

Người có đức hạnh cung kính và tôn trọng lúc nghe pháp phải biết nhường chỗ cho người thuyết pháp ở chỗ ngồi cao hơn mình, còn không làm được như vậy thì người trí hiểu biết sẽ khinh chê cả hai.

Giới này đặc biệt lưu ý là đi kinh hành, tức là đang tu mà nói chuyện hoặc nói pháp thì cả hai người đều thiếu giáo dục đạo đức cung kính và tôn trọng sự tu hành. Người nói pháp hay nói chuyện phiếm cần phải lưu ý có năm điều phi đạo đức:

1- Thiếu đạo đức cung kính và tôn trọng pháp bảo.

2- Thiếu đạo đức cung kính và tôn trọng lúc đang tu hành của mình, của người.

3- Thiếu đạo đức cung kính tôn trọng lẫn nhau.

4- Thiếu đạo đức cung kính và tôn trọng thời gian quý báu tu hành của mình của người khác.

5- Thiếu sự hiểu biết về hành pháp và thuyết pháp.

Hành pháp và thuyết pháp là hai điều kiện khác nhau; hành pháp là làm hoặc sống đúng theo lý của giáo pháp đã dạy, để tập luyện trau dồi thân tâm; còn thuyết pháp chỉ là lời nói, lý luận suông mà thôi.

Hành pháp thì có lợi ích thiết thực, đi đến diệt ngã xả tâm ly dục ly ác pháp, đầy đủ đạo đức nhân quả không làm khổ mình khổ người, sống một đời sống thanh thản, an lạc và vô sự.

Thuyết pháp dần dần đi đến nuôi lớn ngã mạn, kiêu căng tự đắc, cố chấp dính mắc chạy theo tâm ham muốn danh lợi thế gian và chìm đắm trong dục lạc vật chất, nhưng tâm họ khéo lý luận để che đậy, lừa dối lại chính họ mà trong kinh Đại Thừa thường có những lý luận lừa đảo này.

Tuy rằng giới này dạy cho giảng sư biết cách cung kính và tôn trọng pháp bảo khi thuyết pháp, để khiến cho người nghe pháp cũng phải biết cung kính và tôn trọng pháp bảo như nhau.

Nếu người nghe pháp biết tôn trọng và cung kính pháp bảo, và vâng làm những gì pháp bảo đã dạy thì mới có lợi ích thiết thực cho đời sống của họ.

Người tu tập và học đạo theo Phật Giáo thì phải học đức hạnh cung kính và tôn trọng, trước tiên là cung kính và tôn trọng pháp bảo, sau là cung kính và tôn trọng mọi người khác, lúc nào cũng không được xem thường và khinh rẽ ai hết, dù người đó ở trong giai cấp nào, hoặc bất hạnh, tàn tật, đui mù, dốt nát, ngu đần, v.v... đều phải cung kính và tôn trọng như tôn trọng và cung kính pháp bảo vậy, thì mới gọi là người có đạo đức nhân quả giải thoát.

Tóm lại, giới này còn có một nghĩa lý đạo đức thâm sâu, đó là Đức Phật đã dạy về đức hạnh “độc cư”, khi đang tu hành không được thuyết pháp, luận đạo và nói chuyện phiếm với nhau.

Giới thứ chín mươi hai: KHÔNG NÊN NÓI PHÁP CHO NGƯỜI ĐI GIỮA ĐƯỜNG, NGƯỜI THUYẾT PHÁP ĐI BÊN LỀ ĐƯỜNG

Phật dạy: Khi hai người đi song song nhau ngoài đường không được nói pháp, vì nói pháp như vậy không đúng chỗ, đúng nơi và đúng tư cách. Thuyết pháp như vậy là người thiếu giáo dục đức hạnh cung kính và tôn trọng, nói thẳng là người không có đạo đức.

Hai người đi ngoài đường nói chuyện với nhau còn thiếu tư cách đạo đức làm người, huống là nói pháp. Nói pháp ngoài đường như vậy là người thiếu đức hạnh cung kính và tôn trọng pháp bảo của Phật như các giới trên đã dạy.

Tại sao vậy ?

Vì Giới Luật và Giáo Pháp của Đức Phật đều dạy và xây dựng con người có một đạo đức nhân bản “không làm khổ mình khổ người”. Do dạy con người không làm khổ mình khổ người là một giáo pháp rất quý, vô giá, không thể lấy vật gì trên thế gian này so sánh và quý báu hơn được, thế mà nói pháp ngoài đường thì còn giá trị gì gọi là pháp bảo.

Nghiên cứu và đọc kinh sách của Đạo Phật mà không thấy được nền đạo đức nhân bản của Đạo Phật thì người nghiên cứu ấy không thể hiểu biết cội gốc tu hành của Đạo Phật, thì làm sao theo Đạo Phật tu hành đến nơi đến chốn cho được, và làm sao cho viên mãn hoàn toàn cuộc cách mạng đòi lại quyền làm chủ sanh tử luân hồi.

Hiện giờ người ta hiểu Đạo Phật qua ống kính màu của Đại Thừa, cho nên họ tìm hiểu những điều cao siêu, huyền bí, thần thông, ảo ảnh, trừu tượng, mơ hồ, mê tín, dị đoan, v.v... Hầu hết những người này họ không hiểu Phật Giáo Nguyên Thủy hoặc có hiểu cũng chỉ hiểu một cách nông cạn theo kiểu kiến giải của Đại Thừa. Họ chỉ xu hướng theo kinh sách Đại Thừa dạy sao biết vậy, và tin theo lời của các Sư Tổ Đại Thừa và Thiền Tông.

Toàn bộ kinh sách Nguyên Thủy tuy có dạy chúng ta những điều cao siêu huyền bí, nhưng nó không phải là mục đích chính của Đạo Phật, mà mục đích chính của Đạo Phật là dạy chúng ta áp dụng và thực hiện đời sống đạo đức trong các Thiện Pháp, tức là luôn luôn lúc nào cũng ngăn chận và diệt trừ các ác pháp, để thực hiện toàn diện đạo đức nhân quả làm người.

Tính chất thiện pháp là gì?

Tính chất thiện pháp là một nền đạo đức nhân quả thiện, chẳng làm khổ mình khổ người mà Đức Phật đã triển khai thành một pháp hành để thực hiện Thiền định, đó là “Tứ Chánh Cần”, cũng chính từ gốc pháp môn này mới làm chủ sự sanh tử, luân hồi.

Trong đời sống hằng ngày của con người và của các tôn giáo hiện giờ đang có mặt trên hành tinh này đều sẵn có một đạo đức, nhưng đạo đức ấy chưa được toàn diện. Vì những đạo đức ấy còn làm khổ mình khổ người.

Cho nên tất cả đạo đức hiện có mặt trên quả đất này đều là đạo đức anh hùng cá nhân, đạo đức giai cấp, đạo đức quân tử, đạo đức trí thức (sĩ phu) v.v.. chứ không phải đạo đức bình đẳng, vô giai cấp như đạo đức của Đạo Phật.

Chỉ riêng có Đạo Phật mới có một nền đạo đức nhân bản bình đẳng, công bằng và công lý, không phân biệt giai cấp. Mỗi con người hiện có mặt trên hành tinh này, nếu muốn không còn khổ đau phiền toái, bất toại nguyện nữa thì hãy trau dồi xây dựng cho mình mỗi mỗi hành động thân, miệng, ý đều là toàn thiện, thì sẽ không làm khổ mình, khổ người nữa. Đó là một thứ đạo đức tuyệt vời biến cảnh thế gian thành cõi Cực Lạc, Thiên Đàng.

Vì thế, hành động tôn trọng và cung kính pháp bảo tức là cung kính và tôn trọng mọi người mà giới luật Phật đã nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Nếu có cung kính, tôn trọng pháp bảo và mọi người thì không nên thuyết pháp bừa bãi.

Thuyết pháp bừa bãi không đúng chỗ, đúng nơi, đúng đối tượng là xem rẻ pháp bảo, xem rẻ pháp bảo là xem rẻ mọi người, mà xem rẻ mọi người thì sẽ làm khổ đau cho mình và làm khổ đau cho người khác. Làm khổ mình làm khổ người là người thiếu đạo đức, người thiếu đạo đức mà giảng pháp Phật là người bán pháp, mượn pháp Phật kinh doanh làm giàu trên mồ hôi nước mắt của tín đồ.

Thuyết giảng pháp ngoài đường đức Phật còn không chấp nhận, huống là thuyết pháp cho người nghe đi giữa đường, còn người thuyết pháp lại đi trong lề đường. Thuyết pháp như vậy, người hiểu biết sẽ khinh Phật Giáo và sẽ khinh chê người thuyết pháp không đúng tư cách, không đúng đối tượng và không đúng chỗ, nơi, đó là người thiếu giáo dục đạo đức.

Người thuyết pháp và người nghe pháp không đúng chỗ, đúng nơi tức là thiếu sự tôn trọng và cung kính giáo pháp của Đức Phật; thiếu sự cung kính tôn trọng giáo pháp của Phật là những người thiếu giáo dục đạo đức nhân bản của Đạo Phật. Những tu sĩ đạo Phật mà thiếu đạo đức, tức là những tu sĩ phạm giới phá giới, đó là những tu sĩ của Bà La Môn, chứ không phải là những tỳ kheo tăng và những tỳ kheo ni của Phật giáo.

Cho nên, chúng ta không tu theo Đạo Phật thì thôi, mà đã tu theo Đạo Phật thì hãy cố gắng rèn luyện tu tập đạo đức nhân quả, khiến cho chúng ta có những hành động thân, miệng, ý toàn thiện, nhờ đó chúng ta sống một đời sống an lạc và hạnh phúc, giải thoát hoàn toàn không còn khổ đau nữa. Muốn được vậy thì giới luật cần phải giữ gìn nghiêm túc.

Giới thứ chín mươi sáu: KHÔNG NÊN NÓI PHÁP CHO NGƯỜI CẦM GẬY KHÔNG CUNG KÍNH PHÁP BẢO

Người cầm gậy có mục đích là để bảo vệ sự nguy hiểm gặp thú dữ, nhưng đối với đạo Phật gậy gộc, dao, kiếm là loại vũ khí làm đau khổ và đoản mạng chúng sanh, chứng tỏ người ấy còn tâm hung ác. Người còn tâm hung ác mà muốn nghe pháp của Phật thì không thể được, hãy bỏ gậy gộc, dao, kiếm, tức là bỏ tâm hung ác, rồi mới được nghe pháp, bằng không bỏ tâm hung ác thì không thể nào có đủ duyên để nghe pháp được, dù có nghe nhưng lòng chưa soạn sẵn chỗ thiện, thì có nghe cũng chẳng ích lợi gì. Pháp Phật là pháp thiện, người còn tánh hung ác, dữ tợn thì không nên nghe pháp của Phật.

Tại sao vậy?

Tại vì pháp Phật sẽ dạy ngược lại với tâm ác của người đó, cho nên người đó nghe pháp lại còn thêm tức giận hơn và khổ tâm hơn vì có hai tư tưởng thiện ác sẽ đấu tranh nhau trong một con người.

Muốn nghe pháp Phật thì phải xả bỏ lòng hung ác, xả bỏ lòng hung ác là phải xả bỏ gậy, gộc, đao, kiếm như trên đã dạy. Người mà bỏ gậy gộc, dao, kiếm là người muốn quay về thiện pháp, người ấy đáng được nghe chánh pháp của Phật. Bỏ gậy, gộc, dao, kiếm, tức là tạo duyên nghe pháp, tạo duyên nghe pháp tức là tạo duyên làm thiện, sống thiện.

Người cầm gậy là người thiếu đức hạnh từ bi; thiếu đức hạnh từ bi là thiếu lòng thương yêu chúng sanh; thiếu lòng thương yêu chúng sanh tức là thiếu lòng thương yêu chính bản thân mình.

Đạo đức của đạo Phật xác định rất rõ ràng, người có thương xót khắp muôn loài chúng sanh là người có đức từ bi với mình; có đức từ bi với mình tức là có lòng thương yêu mình và mọi người.

Bởi, thương yêu chúng sanh, tức là thương yêu mình, không làm khổ chúng sanh tức là không làm khổ mình. Người ăn thịt chúng sanh là người làm khổ mình mà tự mình không hay biết.

Đạo đức từ bi là một đạo đức nhân quả, vì luật nhân quả có thiện và có ác, mà đạo từ bi của Đức Phật là đạo toàn thiện. Muốn sống được đạo toàn thiện thì phải ngăn ác diệt ác, mà ngăn ác diệt ác tức là thực hiện đạo từ bi; thực hiện đạo từ bi tức là thực hiện “Tứ Chánh Cần”.

Đạo từ bi tức là đức hạnh làm người; đức hạnh làm người là đức hạnh không làm khổ mình khổ người; không làm khổ mình khổ người là người đã giải thoát khỏi kiếp đời đầy đau khổ của chính mình.

Cho nên đối với người cầm gậy gộc, dao, kiếm, v.v... chúng ta không nên giảng pháp cho họ nghe, vì có giảng pháp cho họ nghe, đã không giúp họ giải thoát mà còn làm cho họ bực tức hơn và tạo điều ác hơn nữa. Nếu họ có tâm thành muốn nghe pháp thì họ phải bỏ gậy;

bỏ gậy tức là họ thể hiện lòng từ bi, chứ không phải bỏ chiếc gậy bên ngoài mà hãy bỏ chiếc gậy trong tâm của họ. Được như vậy lúc bây giờ chúng ta mới thuyết pháp cho họ nghe, khi nghe xong họ liền được tuệ nhãn thanh tịnh.

Hiện giờ có nhiều người nghe pháp Phật mà gạy ác trong tâm của họ vẫn chưa bỏ, nên họ chẳng được tuệ nhãn thanh tịnh và họ đang sống trong một tâm đầy tham vọng, chạy đông chạy tây để tìm con đường giải thoát bằng cửa ngõ Thiền Định, Mật Tông, Tịnh Độ Tông, v.v... nhưng cuối cùng những cửa ngõ này là ngõ cụt, nên chẳng ai thực hiện được sự giải thoát hoàn toàn.

Do không được tuệ nhãn thanh tịnh, nên đạo đức từ bi họ không thể hiện được trong đời sống, tâm họ không ly dục ly ác pháp và diệt ngã xả tâm, nên cuộc sống của họ đau khổ lại càng đau khổ hơn. Cho nên giới luật dạy đạo đức này đối với người còn tâm ác thì không thể nhiếp phục họ được, vì thế không nên thuyết giảng thiện pháp cho họ nghe, vì có nghe cũng chẳng có ích lợi gì cho họ và còn biến giảng sư trở thành đào kép hát cho họ nghe để giải trí, mua vui, chớ không có ích lợi gì.

Người muốn nghe Phật pháp phải từ bỏ tánh hung ác ,từ bỏ tánh hung ác tức là từ bỏ gậy, gộc, dao, kiếm, giáo, mác, v.v... thì mới xứng đáng là người nghe pháp của Đức Phật. Đó là một xác quyết chắc chắn như vậy, nếu nghe pháp Phật thì phải dọn sẵn tâm thiện để đón nhận đạo đức từ bi. Chính đạo đức từ bi mới dẫn dắt họ đến thiền định làm chủ sanh, già, bịnh, chết và chấm dứt luân hồi.

Giới thứ chín mươi bảy: KHÔNG NÊN THUYẾT PHÁP CHO NGƯỜI CẦM KIẾM

Những người cầm gươm, kiếm, giáo, mác là những quân nhân, giặc cướp, những người này khi lâm trận đều phải giết người như nhau. Nhưng nếu đem thiện pháp giảng cho những người này nghe ở một góc độ thụ động của Phật Giáo Đại Thừa thì họ sẽ không hiểu Phật giáo là một tôn giáo tự lực cứu mình, họ sẽ hiểu và lầm chấp Phật Giáo tha lực, bằng sự gia hộ, cứu độ của Phật và Bồ Tát như trong các kinh Đại Thừa đã dạy. Trường hợp giống như vua Lương Võ Đế rất sùng Phật giáo, kiến lập 72 kiểng chùa, mà lại hiểu giáo lý thiện thụ động của Phật Giáo Đại Thừa nên để giặc cướp nước, giết chết trong lúc vua quan lo tụng kinh cầu chư Phật và Bồ Tát gia hộ, cứu khổ cứu nạn đuổi giặc, thật là một việc làm ngu si, chỉ có Phật Giáo Đại Thừa mới chỉ dạy cách sống tiêu cực và phi đạo đức, cầu tha lực như vậy, thật là đau lòng cho những ai tin tưởng vào giáo pháp Đại Thừa sẽ đi đến chỗ diệt vong, như vua quan nhà Lương.

Hiện giờ người ta đắm mê Giáo Pháp Đại Thừa và Tối Thượng Thừa đang lý luận siêu tuyệt, thế mà mọi người bỏ công bỏ sức tu hành suốt cả đời người mà chẳng đến đâu cả, hiện giờ có nhiều người đang dở chết dở sống nhìn lại quảng đời tu hành của mình thật là đau khổ dường nào! Và còn biết than thở cùng ai, khi thân già yếu, bịnh tật đổ ra, nay đau mai ốm, sự chết như chỉ mành treo chuông mà chẳng biết cách nào làm chủ bây giờ, chỉ còn sống chịu trong cảnh Địa Ngục này mà thôi.

Đạo Phật là đạo tự lực cứu mình trong Thiện Pháp, nhưng khi quê hương đất nước bị giặc ngoại xâm, mọi người đều phải đứng lên chiến đấu để bảo vệ đất nước quê hương. Trong lúc đó ta cầm gươm, đao, giáo, mác giết giặc không có tội lỗi gì cả.

Tại sao vậy?

Tại vì kẻ xâm lăng cướp nước chúng ta, bắt buộc mọi người dân bản xứ phải làm nô lệ cho chúng và chúng còn muốn giết người dân nào thì mặc tình giết như giết một con thú vật, chẳng chút lòng thương hại.

Ta bảo vệ đất nước, giết kẻ xâm lăng, chận đứng bàn tay đẫm máu hung ác của chúng, do đó chúng ta giết người mà không có tội lỗi gì cả.

Phật dạy chúng ta sống trong đạo đức nhân quả, đạo đức nhân quả thì phải có công bằng và công lý, kẻ xâm lăng cướp nước người là không công bằng công lý, chúng đi ngược lại đạo đức nhân quả làm khổ mình làm khổ người khác, đó là một hành động bất công, gian ác.

Chúng ta có quyền chận đứng bàn tay hung ác của kẻ xâm lăng cướp nước người, bằng mọi cách để đem lại sự công bằng công lý cho con người trên hành tinh này.

Trong một trăm giới luật chúng học từ giới 97, 98, 99, đều dạy giống như nhau, đối với người hung ác chưa buông xả gậy, gộc, gươm, dao, giáo, mác, kiếm, cung, v.v... thì không nên nói pháp cho họ nghe.

Nếu thuyết pháp của Phật cho những người hung ác này nghe sẽ làm nghịch tai trái ý, đã không ích lợi cho họ mà còn làm cho họ thêm phẩn nộ như trên đã dạy. Bởi vậy, người thuyết pháp phải sáng suốt nhận định đúng đối tượng, đúng nơi, đúng chỗ mới thuyết, bằng không đúng thì thôi, ai cạy răng cũng chẳng bao giờ nói, dù là một lời cũng không nói.

Hiểu cho đúng nghĩa của giới cấm này, thì người nghe pháp phải buông gậy, gộc, gươm, kiếm, giáo, mác xuống, có nghĩa là người nghe pháp phải thực hiện lòng từ bi, chứ không có nghĩa buông gậy, gộc, gươm, kiếm, giáo, suông như trên đã dạy.

Ở đây chúng ta phải hiểu, không phải không thuyết giảng cho những người cầm vũ khí nghe pháp, nhưng người cầm vũ khí muốn nghe pháp thì phải bỏ vũ khí, không được mang vủ khí theo vào giảng đường nghe pháp, sau khi nghe pháp xong thì tự do mang cũ khí lại. Đó là hành động chứng tỏ người có thiện chí nghe pháp xả bỏ tâm ác.

Người thuyết giảng pháp Phật khi có người nghe pháp mang vũ khí thì xin họ bỏ vũ khí bên ngoài rồi vào nghe pháp. Đừng thấy họ mang vũ khí mà run sợ, họ bảo giảng pháp là cứ giảng cho họ nghe là không tốt, là tai hại cho người nghe, vì dù họ có nghe pháp nhưng họ chẳng sửa tâm tánh.

Tại sao vậy?

Vì nếu ta quá sợ hãi mà thuyết giảng pháp cho họ nghe thì họ sẽ mất đức hạnh cung kính và tôn trọng pháp bảo, tức là mất lòng cung kính tôn trọng người khác, nếu họ chẳng chịu bỏ vũ khí thì chúng ta không thuyết giảng, dù họ có giết chúng ta chết, chúng ta cũng vui lòng không hề sợ hãi mà giảng pháp cho những người không biết phục thiện.

Người giảng sư thuyết pháp không có nghĩa là giảng pháp bằng những lời nói suông mà còn phải dạy đạo đức cho họ bằng những hành động đạo đức sống của mình. Con người có đức hạnh cung kính và tôn trọng pháp bảo và giảng sư, thì mới có sự cung kính và tôn trọng người khác, có sự cung kính và tôn trọng người khác thì mới diệt ngã xả tâm ly dục ly ác pháp; có diệt ngã xả tâm ly dục ly ác pháp thì mới không làm khổ mình khổ người.

Người không có đức hạnh tôn trọng và cung kính người khác thì chẳng bao giờ diệt ngã xả tâm ly dục ly ác pháp được, Cho nên chỉ có đức hạnh cung kính và tôn trọng thì tâm ngã mạn mới diệt sạch. Do tâm ngã mạn diệt sạch thì tâm hồn mới được giải thoát, an vui và hạnh phúc.

Giới thứ chín mươi tám: NGƯỜI CẦM GIÁO KHÔNG NÊN THUYẾT PHÁP CHO NGHE

Giới này Phật dạy cũng như những giới trên, không nên thuyết pháp cho người chưa buông bỏ gươm, đao, giáo, mác, v.v...

Người giảng sư đụng đâu giảng đó không nhận biết khi mình giảng pháp có đem lại sự lợi ích thiết thực cho người nghe pháp hay không? Để biến họ trở thành những người tốt, có đạo đức, hay chỉ là làm một người nghệ sĩ biết hát cho người nghe mua vui giải trí trong khi họ làm việc bằng trí óc hoặc bằng tay chân quá mỏi mệt.

Nếu một giảng sư đụng đâu giảng đó cũng giống như một đào kép hát mà thôi, chỉ mua vui giải trí cho thính giả. Phật Pháp không thể thuyết giảng như vậy được. Nếu người muốn nghe pháp thì phải tỏ lòng cung kính và tôn trọng pháp bảo, mà đã có lòng tôn trọng và cung kính pháp bảo thì phải bỏ tâm hung ác, dữ tợn để hướng về Phật pháp, nghe những lời lành mà Phật đã dạy. Để nương theo những lời lành đó, sửa đổi tâm tánh và các hành động sai quấy thiếu đạo đức thường làm khổ mình khổ người, để trở nên những con người có đạo đức và có giáo dục đức hạnh hơn.

Người giảng sư thiếu cung kính và tôn trọng pháp bảo là người giảng sư bừa bãi thiếu đạo đức, thiếu đức hạnh làm giảng sư thì giảng pháp chẳng ích lợi gì cho ai cả, mà hành động giảng pháp như vậy là phi pháp; giảng pháp như vậy càng làm thêm tội lỗi đối với Phật pháp.

Người giảng sư không giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh là người giảng sư không có đạo đức, không có đạo đức tức là vị tỳ kheo phá giới, phạm giới, là người không xứng đáng giảng pháp của Phật.

Người giảng sư thiếu giới hạnh và giới đức mà giảng pháp của Phật là người nói láo lường gạt tín đồ, nói được mà sống không đúng lời Phật dạy thì đó là tội đại vọng ngữ, mà các giảng sư thời nay đều phạm tội này.

Giảng sư là người phải làm gương sáng cho tín đồ soi chứ không phải chỉ có lời nói suông theo chữ nghĩa trong kinh sách, nên làm giảng sư phải sống đúng giới luật nghiêm chỉnh và đức hạnh phải rõ ràng.

Một giảng sư còn trang điểm làm đẹp đẽ sang trọng, còn nằm giường cao rộng lớn, còn ăn uống phi thời, còn cất giữ tiền bạc, còn có của cải tài sản riêng tư, còn có chùa to Phật lớn, còn có xe gắn máy, ô tô đẹp sang như nhà giàu có, mà dạy người đừng trang điểm, đừng nằm giường cao rộng lớn, đừng ăn uống phi thời, đừng cất giữ tiền bạc, xả bỏ của cải tài sản, xe cộ, thì thử hỏi lời nói của giảng sư có đi đôi đúng với hành động sống hay không?

Nếu lời nói và hành động không đi đôi là giảng sư đã tự không cung kính và tôn trọng pháp bảo, mà không cung kính và tôn trọng pháp bảo tức là vị giảng sư không cung kính và tôn trọng mình, chính mình không cung kính và tôn trọng mình thì còn ai là người cung kính và tôn trọng mình được nữa?

Cho nên, người giảng sư phải biết tôn trọng và cung kính mình thì lời nói và hành động phải đi đôi (tri hành hợp nhất), thì trước tiên giảng sư phải biết tôn trọng cung kính pháp bảo, biết tôn trọng cung kính pháp bảo là phải biết sống đúng pháp, đúng giới luật của Phật đã dạy, phải nghiêm trì giới luật không được vi phạm, nếu phạm một giới luật nhỏ nhặt thì cũng không xứng đáng là vị giảng sư.

Sống đúng pháp, đúng giới luật của Phật thì không bao giờ thuyết giảng lung tung, bừa bãi, không đúng nơi, đúng chỗ, đúng người. Đó chính là giảng sư chân chánh của Đạo Phật.

Khi thuyết giảng người giảng sư biết chỗ nào đúng và chỗ nào không đúng để giảng pháp; đối tượng nào giảng pháp và đối tượng nào không nên giảng pháp. Đó là đức hạnh của người giảng sư cần phải có, khi bước lên pháp tòa.

Khi người mang gươm, giáo, dao, gậy đến nghe pháp thì chắc chắn không bao giờ được nghe pháp. Vì giới luật Phật đã dạy kẻ nghe pháp phải bỏ gậy, gộc, dao, mác, gươm, đao, súng, đạn, v.v... như trên đã dạy. Có bỏ gươm, đao, gậy, gộc, v.v... để thực hiện lòng từ bi thì mới được nghe pháp trọn vẹn, nghe pháp với lòng lành mới chính là nghe pháp Phật, lòng lành tức là đạo đức làm người của Đạo Phật.

Trong các giới luật này Đức Phật đã dạy đức cung kính và tôn trọng gồm có ba cách cung kính và tôn trọng:

1- Cung kính và tôn trọng pháp.

2- Cung kính và tôn trọng người.

3- Cung kính và tôn trọng mình.

Nhờ pháp bảo dạy chúng ta tu tập và rèn luyện mỗi hành động thân, miệng, ý đều thể hiện đức cung kính và tôn trọng đối với mọi người, mọi chúng sanh và với chúng ta nữa, nhờ đó tâm chúng ta được giải thoát không còn làm khổ mình khổ người.

Giới thứ chín mươi chín: NGƯỜI CẦM DAO KHÔNG NÊN THUYẾT PHÁP CHO NGHE

Giới này cũng giống như giới trên đã dạy về đức hạnh cung kính và tôn trọng. Đối với những người hung ác chưa buông bỏ gậy, gộc, gươm, dao, giáo, mác, v.v... thì không nên nói pháp cho nghe.

Để kết luận những giới luật dạy những đức hạnh cung kính và tôn trọng của những người đang cầm gậy, gộc, kiếm, gươm, đao, giáo, mác, v.v... Giới luật này không phải cấm quân nhân chiến sĩ cầm gươm, đao, giáo, mác, kiếm, cung, súng, đạn, v.v... để chiến đấu chống ngoại xâm, bảo vệ quê hương tổ quốc. Giới luật này dạy các ngài phải có lòng cung kính và tôn trọng đạo đức làm người. Trong đạo đức làm người, đức tôn trọng và cung kính mọi người là một đức hạnh cao quý, mà loài cầm thú không thể nào có được, chỉ có loài người nhờ có trí tuệ thông minh hơn mọi loài nên mới học tập trau dồi đức hạnh cung kính và tôn trọng.

Có tôn trọng và cung kính mọi người, mọi loài cầm thú, nhờ đó chính chúng ta mới biết lấy đạo đức đối xử với đạo đức, vì thế cuộc sống của chúng ta mới có thanh thản an lạc và hạnh phúc, xã hội mới có trật tự an ninh, đất nước mới có thanh bình thịnh trị. Còn đối với những kẻ xâm lăng cướp nước người, thì chúng ta vẫn cung kính và tôn trọng chúng, nhưng chúng không biết tôn trọng và cung kính chúng ta thì chúng ta phải lấy gươm, đao, súng, đạn, v.v... đối xử với chúng, chứ không phải cung kính và tôn trọng bằng một hành động hèn nhát, quỳ phục, đầu hàng. Giới luật Phật không có dạy chúng ta hèn hạ như vậy, vì Đạo Phật là đạo tự lực, nên luôn luôn lúc nào cũng tự lực cứu mình, không nhờ ai cả. Sống trong đạo đức không làm khổ mình khổ người, nhưng kẻ nào làm khổ người khác tức là làm ác thì chúng ta phải tự lực vươn lên cứu mình cứu người, tức là cứu nước, không khuất phục trước kẻ xâm lăng hung ác, bằng mọi giá, không phải tiêu cực như kiểu Đại Thừa dạy, ngồi đó gõ mõ tụng kinh cầu chư Phật và chư Bồ Tát gia hộ cho quốc thái dân an. Đối với giặc ngoại xâm thì việc làm đó là khiếp nhược, hèn hạ và sẽ bị mất nước, làm nô lệ cho giặc. Đối với nền kinh tế mà ngồi đó gõ mõ tụng kinh cầu chư Phật, chư Bồ Tát gia hộ cho mưa thuận gió hòa, cho cơm ăn áo mặc đầy đủ và giàu sang như mọi người thì đó là kẻ lười biếng, kẻ ăn bám của xã hội, chờ cho người khác bố thí, thật là hèn hạ chẳng xứng đáng làm người có đạo đức của Đạo Phật.

Đạo đức của Đạo Phật là đạo đức nhân quả tự lực, tức là tự mình cứu mình bằng những hành động “thiện”. Thiện ở đây phải hiểu là “trí tuệ thiện” chứ không phải “ngu si thiện”.

Những kẻ ngoại xâm cướp nước người khác là những kẻ không có đạo đức tôn trọng và cung kính sự sống của loài người, chúng chỉ còn biết lấy gươm, đao, giáo, mác, súng, đạn, v.v... để uy hiếp và bắt buộc kẻ khác làm nô lệ chúng.

Vì thế, đối với những hành động của kẻ hung ác này, chúng ta cũng sẵn sàng lấy gươm, đao giáo, mác, súng, đạn, v.v... đối lại với những kẻ thiếu đức hạnh tôn trọng và cung kính người khác, sẵn sàng cho chúng một bài học đạo đức làm người, phải biết tôn trọng và cung kính mình; phải biết tôn trọng và cung kính người khác. Có tôn trọng, có cung kính mình và người khác thì mới có đạo đức, bằng không có đạo đức chúng chỉ là một loài cầm thú ác độc, chớ không phải là con người. Con người phải có đạo đức, phải biết cung kính và tôn trọng lẫn nhau. Chỉ có loài cầm thú mới không biết tôn trọng và cung kính lẫn nhau, ỷ mạnh ăn hiếp yếu, thì chúng ta sẵn sàng chiến đấu, nhất định là không đầu hàng kẻ hung ác.

Cho nên, chúng ta cầm gươm, đao, giáo, mác, súng, đạn, v.v... đứng lên diệt kẻ ác, không có tội lỗi gì, vì luật nhân quả dạy chúng ta rất thiện, thiện trong công bằng và công lý, kẻ làm ác không công bằng công lý phải đền tội.

Luật nhân quả không dạy chúng ta đầu hàng trước kẻ ác, mà dạy chúng ta phải chiến đấu tận cùng để nói lên đâu thiện đâu ác, đâu chánh đâu tà, bằng chứng cuộc cách mạng trường kỳ kháng chiến của dân tộc Việt Nam đuổi kẻ ác xâm lăng.

Bởi vậy, đạo đức của Đạo Phật dạy chúng ta làm con người phải cho ra con người, đừng có làm nửa thú nửa người mà tạo cảnh khổ đau cho nhau.

Hiện giờ trên hành tinh này, loài người còn thiếu một đạo đức làm người, nếu đạo đức làm người đã có, thì mọi người phải biết cung kính và tôn trọng lẫn nhau. Nếu đã có một đạo đức cung kính và tôn trọng lẫn nhau thì làm sao trên thế giới này còn có chiến tranh? Nếu có đạo đức cung kính và tôn trọng lẫn nhau thì làm sao còn có xương máu con người chết thành sông thành núi một cách vô lý như thế này?

Chiến tranh thế giới đã chứng minh cho chúng ta thấy con người đang thiếu đạo đức thật sự. Con người đang mang lớp người mà bản chất là của loài cầm thú, cho nên luôn luôn chà đạp lên nhau, giết hại lẫn nhau vì miếng ăn, manh áo, vì kinh tế, vì ý thức hệ và vì tôn giáo, v.v...

Khắp thế giới không nước này chiến tranh thì nước kia, chứng tỏ con người còn mang lớp cầm thú nặng nề, chưa cởi bỏ, lòng hung ác còn đầy dẫy, vì thế luôn tạo ra tội ác tràn ngập đầy trời.

Đạo phật ra đời nhằm triển khai cho loài người một nền đạo đức giải thoát khiến cho con người không còn đau khổ; không còn mạnh hiếp yếu; không còn lớn hiếp nhỏ, để đem lại sự hòa bình cho toàn thể thế giới; để đem lại cho con người một cuộc sống như cõi Thiên Đàng. Thế mà cách đây 2543 năm, nền đạo đức ấy đã bị dìm mất bởi tâm tham vọng của Đại Thừa Giáo, đã khiến cho con người ngày nay càng khổ đau chồng chất lên đau khổ, chỉ vì tâm tham vọng ấy nên đã bỏ mất một đạo đức quý báu tuyệt vời.

Bởi vậy, đức cung kính và tôn trọng rất cần thiết cho con người, nên cần phải tu tập và trau dồi sửa lại những gì còn sai sót, tội lỗi không đúng đạo đức làm người, để con người sống cho ra thật con người và còn vượt thoát khỏi bản năng của loài cầm thú hung ác.

Nếu không có lòng cung kính và tôn trọng pháp bảo thì làm sao có lòng cung kính và tôn trọng mọi người. Vì thế, người thuyết giảng trước tiên phải biết cung kính pháp bảo để hướng dẫn những người khác biết cung kính và tôn trọng, có cung kính và tôn trọng pháp bảo thì mới có cung kính và tôn trọng mọi người, có cung kính và tôn trọng mọi người, tức là cung kính và tôn trọng mình như trên đã dạy; có cung kính, tôn trọng người và cung kính, tôn trọng mình thì mới không làm khổ mình khổ người.

Đó là giới luật của Phật dạy chúng ta đức hạnh cung kính và tôn trọng để làm người cho xứng là con người; làm con người xứng đáng là con người thì không làm khổ mình khổ người, muốn được vậy chỉ có đức hạnh cung kính và tôn trọng là đức hạnh thứ nhất. Nhưng về mặt tu tập thiền định thì đức hạnh cung kính và tôn trọng giúp cho chúng ta ly dục ly ác pháp một cách dễ dàng. Ly dục ly ác pháp chính là mục đích của giới luật để đạt được thiền định của Đạo Phật, làm chủ sự sống, chết, bịnh tật và luân hồi.

Người có đạo đức nhân quả giải thoát thì mới ly dục ly ác pháp được, nhưng đức hạnh cung kính và tôn trọng là một trong những hành động đạo đức nhân quả, muốn có đạo đức nhân quả thì phải học và tu tập theo đức hạnh trong giới luật của Phật đã dạy. Do đó ta mới thấu rõ là pháp môn giới luật của Phật là pháp môn vô lậu thật sự. Nếu ai không tu giới luật mà bảo rằng vô lậu giải thoát thì không bao giờ có được, đó chỉ là lời lừa đảo tín đồ mà thôi.

Cho nên, giáo lý Đại Thừa phần nhiều dạy người tu sĩ phá và xem thường giới luật. Vì thế tu sĩ (tỳ kheo tăng và tỳ kheo ni) hiện giờ đều phạm giới và phá giới, sống không đúng giới hạnh, hành không đúng giới đức, nên thời này khó mà tìm một vị tỳ kheo giới luật thanh tịnh.

Kinh sách giới luật thì không thiếu gì, nhưng tu sĩ thì rất xem thường giới luật, tức là xem thường những hành động đạo đức tu hành của chính mình. Vì thế, tìm một vị tu sĩ nghiêm trì giới luật rất khó trong thời đại hiện nay.

Giới thứ một trăm: NGƯỜI CẦM DÙ KHÔNG NÊN NÓI PHÁP CHO NGHE

Người vào nhà còn che dù, đội nón thì không nên thuyết pháp cho những người này nghe, họ là những người không có lòng cung kính và tôn trọng pháp bảo.

Trong một trăm giới chúng học, đức hạnh cung kính và tôn trọng đã chiếm rất nhiều giới luật dạy về đức hạnh này. Chính vì nhờ có cung kính và tôn trọng pháp bảo thì chúng ta mới có lòng cung kính và tôn trọng mọi người, có cung kính và tôn trọng mọi người thì tâm ta mới được giải thoát. Đó chính là dùng đức hạnh cung kính và tôn trọng để đạt được mục đích của Đạo Phật. Đức cung kính và tôn trọng là một đức hạnh cao thượng mà con người ít ai làm được. Phần nhiều chỉ vì tự ngã của họ đã che lấp đức hạnh cung kính và tôn trọng, nên họ chỉ biết có mình là trên hết, thường mong muốn ai cũng cung kính và tôn trọng mình, xem mình như Thánh, Tiên, Phật, v.v... Cũng chính vì tự ngã nên ít ai chịu thấy cái sai quấy, cái lỗi lầm của mình, luôn luôn lúc nào cũng chỉ thấy cái sai quấy của người khác. Chính vì vậy mà con người phải chịu khổ đau suốt đời.

Biết cung kính và tôn trọng người khác thì đừng nhìn vào việc làm của người khác, mà hãy nhìn vào việc làm của mình, để mình tu sửa, trau dồi thân tâm và quyết tâm khắc phục những lỗi lầm sai trái mà làm người không ai tránh khỏi những lỗi lầm đó.

Hiện giờ thân tâm mình còn những thói quen của loài cầm thú, nên không thể nào không lỗi lầm. Vì thế hằng ngày thường quán xét, tư duy trong mỗi mỗi hành động của mình để cố gắng khắc phục sửa sai, thì mới mong có ngày sống đúng đạo đức làm người.

Trên bước đường tu tập theo Phật Giáo, Đức Phật đã từng răn nhắc chúng ta: “Biết chuyện mình đừng biết chuyện người”. Nếu một người muốn thực hiện đạo đức làm người thì phải tâm niệm lời dạy này cho thấm nhuần tận tâm can, thì mới mong sống đúng đạo đức nhân quả không làm khổ mình khổ người.

Người đời chỉ vì biết chuyện người mà không biết chuyện mình, nên từ đó lòng cung kính và tôn trọng mất đi. Lòng cung kính và tôn trọng mất đi thì tâm ta khó diệt ngã, khó xa lìa lòng ham muốn, khó ly dục ly ác pháp. Do không diệt ngã xả tâm ly dục ly ác pháp, nên cuộc đời thọ biết bao nhiêu sự đau khổ, chính vì vậy mà đạo đức làm người sống không trọn vẹn.

Cung kính và tôn trọng là đức hạnh giúp ta giải thoát khỏi khổ đau của kiếp làm người. Cung kính và tôn trọng giúp ta phát khởi lòng từ bi, nếu thiếu đức cung kính và tôn trọng thì tâm từ bi của chúng ta khó phát triển; tâm từ bi của chúng ta không phát triển thì không có cách thức nào và phương pháp nào đối phó với tâm tham, sân, si, phiền não của chúng ta được. Do đó diệt ngã, xả tâm ly dục ly ác pháp để thực hiện thiền định thì chỉ là một giấc mơ mà thôi.

Tăng, ni và quý Phật tử hãy lấy giới luật Phật tu tập, xây dựng cho mình thành một con người có đạo đức, có đầy đủ lòng cung kính, khiêm hạ và tôn trọng tất cả mọi người, mọi loài chúng sanh, thì con đường giải thoát của Đạo Phật sẽ hiện tiền trước mắt mọi người không mấy khó khăn. Cho nên một tu sĩ Đạo Phật (tăng, ni) mà không giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh thì những tu sĩ đó là những người thiếu đạo đức, không thể nào tu tập giải thoát được. Bởi vậy, nhìn các vị tỳ kheo tăng và tỳ kheo ni tu hành chân, giả đều biết dễ dàng qua hành động sống đạo đức giới luật, chứ không phải ở chỗ thuyết giảng hay, lý luận giỏi, hoặc có thần thông, phép tắc lạ hoặc có bùa chú linh thiêng, hoặc ngồi thiền nhập định giỏi, mà hãy nhìn họ sống có đúng giới đức, giới hạnh hay không, thì đủ đánh giá trị chân, giả sự tu hành của họ.

Nếu giới đức, giới hạnh đầy đủ thì những vị tu sĩ ấy là bậc chân tu giải thoát của Đạo Phật. Còn những người nào giới đức, giới hạnh không có, thì đó là tà sư ngoại đạo, quý Phật tử và tăng, ni hãy tránh xa không khéo sẽ bị họ lừa đảo.

Cho nên, người đội dù, đội nón và đội khăn, v.v... khi bước vào nhà mà không lấy xuống là những người vô lễ thiếu giáo dục đạo đức, cũng như khi ngồi nghe pháp mà dù, nón, khăn không lột xuống tức là người vô giáo dục đức hạnh cung kính và tôn trọng, những người như vậy không nên thuyết pháp cho họ nghe.

Trước khi nghe pháp những người này phải được dạy pháp cung kính và tôn trọng pháp bảo và còn phải biết cung kính mọi người, nếu không được dạy như vậy thì giảng sư không nên thuyết pháp cho họ nghe. Vì Pháp Phật là những giáo pháp cao quý và vô giá, giúp cho con người có đầy đủ đạo đức, đạo hạnh vượt thoát biển khổ, sông mê của kiếp sống làm người.

CHƯƠNG VIII: KÍNH TRỌNG NƠI THUYẾT PHÁP

Có 21 giới

(Từ giới thứ 61 đến giới thứ 73, từ giới thứ 78 đến giới thứ 85)

Giới thứ sáu mươi mốt: KHÔNG NÊN DẤU CỦA CẢI TRONG THÁP PHẬT

Giới này xin sửa lại chữ Tháp Phật bằng chữ giảng đường, cho đúng nghĩa của thời đức Phật còn tại thế. Nơi giảng đường là nơi có nhiều người ra vào đông đúc, của cải tài sản để trong đó lỡ mất, nghi nan người này, người nọ thành ra tội lỗi và tạo bất an trong chúng. Vị tỳ kheo đệ tử Phật phải ý tứ, cẩn thận về việc này. Vả lại, trong giảng đường phải để trống trải khoảng khoát, khi mọi người đến nghe pháp đều được thoái mái, dễ chịu, còn nếu đút nhét, chôn giấu đồ đạc trong giảng đường, khiến cho giảng đường đầy bụi bậm, khó quét dọn, ô tập chuột gián muỗi mòng núp ẩn, làm dơ bẩn, bất tịnh chỗ nghe pháp của mọi người.

Pháp Phật là pháp dạy chúng ta diệt ngã xả tâm ly dục ly ác pháp, cho nên trong giới luật Phật cấm không cho trang điểm, đeo vòng hoa, và không được cất giữ vàng, bạc, ngọc, ngà, châu, báu, hoặc dùng những thứ này để trang sức làm đẹp, làm sang, v.v...

Thời đức Phật còn tại thế, có một nữ cư sĩ đến nghe Phật thuyết pháp, khi vào tịnh xá thì bà nhận ra mình đang đeo một xâu chuổi ngọc. Bà liền cởi ra đưa cho đứa hầu đem bỏ trong hốc cây, rồi mới vào nghe pháp.

Người nghe pháp còn không được đeo vòng vàng, chuổi ngọc vào giảng đường, huống là đem của báu giấu đút trong giảng đường thì không đúng tư cách của nguời tu sĩ Đạo Phật. Tu sĩ Đạo Phật chỉ còn ba y một bát, chứ đâu có của cải riêng tư, thì làm sao có của cải gọi là đút giấu trong giảng đường. Giới này do Tổ đặt ra, vì tu sĩ trong thời của các Tổ đều có của cải riêng tư, ngược lại tu sĩ trong thời Đức Phật sống thiểu dục tri túc, ba y áo một bát, chỉ vừa đủ mặc trong người có đâu dư thừa ra ngoài mà đút giấu.

Đức hạnh của người tu sĩ Đạo Phật là đức buông xả, xả sạch chỉ còn ba y một bát mà thôi. Thế mà tu sĩ còn có của cải tài sản đem đút giấu trong giảng đường thì đó là một điều phạm giới luật vào tội xả đọa (Ni Tát Kỳ Ba Dật Đề). Nếu vị tỳ kheo còn có của cải tài sản riêng tư thì tu theo Đạo Phật để làm gì? Đã không giải thoát mà còn làm mang tiếng không tốt cho Phật Giáo.

Còn có của cải tài sản, nếu có tu theo giáo pháp của Phật thì cũng chẳng tu đúng theo lời dạy của Ngài. Đã không tu đúng lời dạy của Ngài, thì làm gì có giải thoát được? Chỉ phí một cuộc đời tu hành và mất công sức vô ích mà thôi.

Đức hạnh buông xả chẳng có, thì đi tu chỉ là hình thức để rồi lấy tôn giáo kinh doanh buôn Phật bán pháp, làm danh làm lợi. Cho nên ngoài đời người ta làm danh làm lợi rất khó, chỉ có kinh doanh tôn giáo là dễ làm giàu nhất, họ chỉ tạo hình thức khéo tu hành bề ngoài để lừa đảo tín đồ Phật Giáo dễ dàng. Thời này họ tu tiền, tu bạc, tu danh, tu lợi, tu chùa to, Phật lớn, tu xe cộ, ti vi, tủ lạnh, đầu máy cassett, vidéo, máy điều hòa không khí, v.v...

Như trên chúng tôi đã xác định, giới này không phải của Phật chế ra, nhưng nó cũng có lợi ích, vì nói đến người tu sĩ còn có của cải tài sản, thì không đúng là tu sĩ Phật Giáo. Nói đến tu sĩ Phật Giáo tức là nói đến đức hạnh buông xả của người tu sĩ tỳ kheo tăng và tỳ kheo ni.

Nếu người tu sĩ Phật Giáo không lập đức hạnh buông xả thì đừng nên đi tu, và có đi tu cũng chẳng lợi ích gì cho mình cho người khác, mà còn làm mang tiếng cho Phật Giáo như trên chúng tôi đã dạy.

Còn của cải tài sản tức là còn tâm tham, sân, si; còn có tâm tham, sân, si thì cũng giống như người thế tục ở ngoài đời thì đi tu làm gì? Đi tu để làm cho người khác phỉ báng Phật Pháp thì càng thêm tội.

Đức hạnh buông xả của cải tài sản là đức hạnh Thánh Tăng, người phàm phu thường tình bỏ của cải tài sản không được thì làm sao gọi là Thánh Tăng được? Chỉ có những bậc Thánh Tăng mới sống trọn đức hạnh buông xả của cải tài sản nên không có chùa to, Phật lớn, không có một đồng bạc dính túi. Người ấy mới gọi là bậc Thánh Tăng.

Muốn làm ông Tăng giải thoát mà còn có của cải tài sản thì làm sao làm ông Tăng giải thoát cho được? Người còn có của cải tài sản, sống như một ông vua, một người nhà giàu có thì đó là ông tăng giả.

Bởi do đức hạnh mới đánh giá trị được vị tu sĩ Đạo Phật, đó là một sự chính đáng chơn thật nói lên đựợc giá trị của Đạo Phật, nếu không như vậy thì chúng ta đâu biết ai tu thật, ai tu giả. Đạo Phật nhờ có giới luật mới đánh giá trị được người tu, nếu không có giới luật đức hạnh thì biết đâu căn cứ vào chơn, giả của một vị tu sĩ Phật Giáo.

Nếu căn cứ vào thần thông, biết chuyện quá khứ vị lai của mọi người, tàng hình biến hóa, đi trên nước lửa, đi xuyên qua núi đá như đi trong hư không, ngồi xếp bằng bay trên trời như chim, v.v... thì đó không phải là giá trị tu hành chân thật của người tu sĩ Đạo Phật. Giá trị tu hành chơn thật của Đạo Phật không phải căn cứ vào thần thông phép tắc, mà căn cứ vào đức hạnh giới luật của người tu.

Lại nữa, giá trị người tu sĩ của Đạo Phật không căn cứ vào sự học thuật có cấp bằng này cấp bằng nọ, cũng không phải ở chỗ Chùa to, Phật lớn, giàu sang có của cải nhiều, mà cũng không phải ở chỗ thuyết giảng, dịch, viết kinh sách nhiều, mà ở chỗ sống đúng đạo đức Phạm hạnh của người tu sĩ.

Cho nên người ngồi thiền nhập định, chết để lại nhục thân, hoặc có thần thông phép tắc, tâm linh biến hoá làm những điều siêu việt hơn người, đấy không phải là mục đích của Đạo Phật mà là của ngoại đạo tà giáo làm những điều kỳ đặc, những cái lạ mắt để lừa đảo, lường gạt những người còn mê muội, ngu si.

Chính mục đích của đạo Phật là “bất động tâm trước các pháp”, tức là đạo đức giải thoát không làm khổ mình khổ người; tức là phạm hạnh của người tu sĩ tỳ kheo tăng và tỳ kheo ni.

Hầu hết giới luật Phật đều dạy đức hạnh cho con người, dù tu sĩ hay cư sĩ đều phải có đạo đức. Khi người tu sĩ Đạo Phật xuất xử một hành động gì đều phải đúng đạo đức và đạo lý nhân quả.

Muốn ly dục ly ác pháp để nhập được các thiền định của Đạo Phật thì phải đi qua cửa ngõ giới luật, nếu tu sĩ nào không qua cửa ngõ giới luật mà nhập định thì thiền định đó là tà thiền, tà định. Cho nên giới luật Phật xác định được thiền định nào là tà thiền tà định và thiền định nào là chánh thiền chánh định, một cách cụ thể và rõ ràng.

Bởi giới luật xác định được đức hạnh của người tu sĩ chơn chánh. Cho nên giới luật là pháp môn đầu tiên của đạo Phật dạy đức hạnh cho tu sĩ. Nhờ có đức hạnh tâm người tu sĩ mới ly dục ly ác pháp được. Từ đó mới nhập được các định và tam minh.

Người tu sĩ Đạo Phật không có tài sản của cải thì cần gì phải có giới luật thứ sáu mươi mốt này để chế ra. Giới luật này chế ra là vì những người tu sĩ sau thời đại Đức Phật, trong thời của các Tổ và trong thời đại của chúng ta bây giờ, tu sĩ đều có của cải tài sản riêng tư nên mới chế ra giới luật này. Nhưng giới luật này chúng ta phải hiểu, nó có một giá trị rất lớn đối với con đường tu của Đạo Phật, nếu muốn tìm cầu sự giải thoát thì phải giữ gìn giới này nghiêm túc: “Không có của cải riêng tư”, chỉ có ba y một bát mà thôi.

Giới thứ sáu mươi hai: KHÔNG NÊN MANG GIÀY VÀO THÁP PHẬT

Giới này cũng xin thay chữ Tháp Phật bằng chữ giảng đường, cho phù hợp lúc đức Phật còn tại thế, xem như Đức Phật đã chế giới luật này.

Mang giày đi vào trong giảng đường là người thiếu đạo đức cung kính và tôn trọng nơi giảng dạy pháp bảo, chứng tỏ người ấy thiếu tư cách lịch sự và thiếu sự giáo dục đạo đức cung kính và tôn trọng, dù đó là bậc vua chúa, quan to, chức trọng hoặc giàu sang tột đỉnh cũng vậy.

Mang giày đi vào giảng đường là người tỏ ra bản ngã, kiêu căng, tự đắc khinh thị người khác, dù người đó có học thức bao nhiêu, có cấp bằng cao bao nhiêu cũng chỉ được xem là người thiếu đạo đức lịch sự làm người, họ là những con người có trình độ học thức nhưng tâm hồn không có đạo đức tôn trọng và cung kính pháp bảo và mọi người, thì đó cũng chỉ là loài cầm thú thông minh mà thôi.

Đạo đức cung kính và tôn trọng của Đạo Phật chỉ thẳng thừng cho chúng ta thấy đâu là con người thật và đâu là con thú mang lớp người. Người nghênh ngang tự đắc cũng giống như một con thú dữ, ỷ sức mạnh, ỷ to con, nghênh ngang chẳng biết cung kính tôn trọng ai hết.

Người có đức hạnh cung kính và tôn trọng người khác mới thật là con người. Người không biết cung kính và tôn trọng ai hết không phải là con người mà là một con thú vật. Đạo đức của Đạo Phật đã xác định điều đó rất rõ ràng.

Hành động mang giày đi vào giảng đường, nơi thuyết pháp của Đức Phật là một nơi tôn nghiêm trang trọng của tín đồ Phật Giáo, nếu kẻ nào không ý thức, chỉ một hành động vô lễ, thiếu đạo đức lịch sự, cung kính và tôn trọng, thì theo Đạo Phật cho đó là những người thiếu giáo dục đạo đức làm người, họ cần phải học tập đạo đức nhiều hơn nữa.

Con người sanh ra hơn loài cầm thú là nhờ có đạo đức, nếu không có đạo đức con người chỉ là một con thú thông minh mà thôi. Nhờ có sự giáo dục học tập về đạo đức làm người thì con người mới lần lần tiến lên và thoát ra khỏi bản chất của loài cầm thú, để trở thành những con người tốt trong xã hội.

Bởi, đạo đức rất cần thiết cho loài người trên hành tinh này, và nhất là rất cần thiết cho thời đại khoa học hiện đại hoá cuộc sống của con người hiện giờ. Chiến tranh trên thế giới còn hay chấm dứt đều do con người có đạo đức hay không có đạo đức mà thôi.

Từ những hành động kiêu căng, tự đắc, khinh mạn, mà không được sửa chữa thì bản năng hung ác sẽ tiến triển dễ dàng, và đi đến chỗ tàn sát giết hại sanh linh không những loài cầm thú, mà ngay cả con người họ giết nhau chẳng gớm tay.

Khoa học và kinh tế càng tiến triển nâng cao đời sống con người, vật chất và tiện nghi đầy đủ thì nguy cơ hiểm họa cho loài người, nếu không có đạo đức quân bình khoa học và kinh tế thì sẽ đi đến diệt vong. Bằng chứng khoa học càng ngày càng phát triển thì chiến tranh thế giới càng giết hại người ghê gớm hơn.

Cho nên đạo đức nhân quả không làm khổ mình khổ người rất cần thiết trong giai đoạn khoa học hiện đại hóa đời sống con người, mọi con người phải được học tập và tu sửa tánh tình thì mới mong thế giới này không bị tiêu diệt, và các nước trên hành tinh này mới có ngày chấm dứt chiến tranh, hòa bình thế giới thật sự mới có.

Muốn học đạo đức nhân quả không làm khổ mình khổ người thì ngay từ bây giờ chúng ta hãy học tập đức hạnh cung kính và tôn trọng lẫn nhau. Muốn học đức hạnh cung kính và tôn trọng lẫn nhau thì ta phải biết tôn trọng và cung kính pháp bảo của Phật, tức là những lời dạy đạo đức của Đức Phật. Có cung kính và tôn trọng những lời dạy đạo đức của Đạo Phật thì mới có tâm từ bi như trên đã dạy; có tâm từ bi chúng ta mới biết thương yêu lẫn nhau; có thương yêu lẫn nhau chúng ta mới xả trừ ác pháp tham, sân, si; có xả trừ ác pháp chúng ta mới ly dục ly ác pháp; có ly dục ly ác pháp chúng ta mới nhập Sơ Thiền; có nhập Sơ Thiền ta mới thấy tâm hồn giải thoát với một trạng thái thanh thản và vô sự. Nếu con người sống với tâm hồn thanh thản, vô sự thì các nước trên thế giới mới mong có hòa bình thật sự.

Tóm lại, đức hạnh cung kính và tôn trọng là những hành động đạo đức cao thượng và cao quý nhất của loài người, mà mọi người cần phải học tập và trau dồi để dần dần tiến lên bước đường giải thoát cao hơn và sâu hơn của Đạo Phật.

Giới thứ sáu mươi ba: KHÔNG NÊN XÁCH DÉP ĐI VÀO GIẢNG ĐƯỜNG

Giày, dép, guốc là vật dùng để mang đi dưới chân, nên thường dày đạp lên đất bẩn nhơ, phân, phẩn hoặc những đồ bất tịnh khác.

Xách giày, dép, guốc vào giảng đường là nơi thuyết pháp của Phật, đó là hành động thiếu lòng tôn trọng và cung kính Phật và pháp bảo. Những người có hành động thiếu đạo đức như vậy là những người thiếu lòng tha thiết cầu pháp bảo, chỉ đi nghe pháp như người đi nghe hát giải trí hoặc nghe chơi cho biết mà thôi, chứ chẳng có ý nghĩa lợi ích cho cuộc sống của họ, và họ học tập trau dồi những hành động đạo đức làm người, để đối xử nhau cho được tốt đẹp hơn.

Xin nhắc lại, pháp bảo của Phật là pháp thiện, pháp thiẹn là pháp dạy chúng ta học tập và tu sửa những lỗi lầm cho đúng đạo đức nhân quả, người có học và tu tập đạo đức nhân quả thì thường sống trong thiện pháp nên không làm khổ mình khổ người. Nếu ở đời người ta có cuộc sống không làm khổ mình khổ người là người đang sống trong hành động đạo đức nhân quả; người biết sống trong hành động đạo đức nhân quả là người đang sống trong cảnh giới Cực Lạc, Thiên Đàng, chứ đứng lầm tưởng có cõi Cực Lạc, Thiên Đàng thật sự trong thế giới siêu hình, đó là sự lừa đảo của Đại Thừa Bà La Môn Giáo. Cõi Cực Lạc, Thiên Đàng chỉ ở nơi thiện pháp mà có, có tại trong thế gian này, chứ không có ở chỗ nào khác cả.

Nếu chúng ta sống trong thiện pháp, tức chúng ta là những người có đầy đủ đạo đức nhân quả, thì cảnh giới Thiên Đàng Cực Lạc tại đó.

Hành động xách dép, giày đi vào giảng đường là hành động thiếu đạo đức tôn trọng và cung kính. Trong thiện pháp mà thiếu sự cung kính và tôn trọng thì làm sao gọi là thiện pháp được. Đây xin nhắc lại, nếu không có đức hạnh tôn trọng và cung kính người khác thì làm sao chúng ta có lòng thương yêu ai? Người không có lòng thương yêu người khác thì chính họ cũng không có đức hạnh cung kính tôn trọng họ, họ không cung kính tôn trọng họ tức là họ không thương họ, họ không thương họ tức là họ sẽ làm khổ họ, họ sẽ làm khổ họ tức là họ sẽ làm khổ người khác. Người mà làm khổ mình khổ người khác là người không có đạo đức nhân quả. Người không có đạo đức nhân quả thì có khác nào là một con thú vật.

Tóm lại, người xách giày dép đi vào giảng đường là người thiếu đạo đức cung kính và tôn trọng. Thiếu đạo đức cung kính và tôn trọng là những hành động làm khổ mình khổ người, tạo cảnh thế gian thành cảnh địa ngục, cuộc sống con người chỉ còn là một chuổi ngày dài đau khổ bất tận.

Giới thứ sáu mươi bốn: KHÔNG NÊN MANG GIÀY DÉP ĐI NHIỄU QUANH GIẢNG ĐƯỜNG

Đi nhiễu xung quanh giảng đường bên trái hoặc bên mặt. Đi nhiễu quanh có hai ý:

1- Một là con đường đi chung quanh giảng đường.

2- Hai là đi quanh giảng đường để tỏ lòng cung kính, nơi thuyết giảng pháp của Đức Phật.

Đi nhiễu quanh có 2 cách:

1- Đi vòng quanh bên hữu, tức là đi vòng quanh về phía bên tay mặt, đi như vậy là tốt, đúng cách đi nhiễu quanh.

2- Đi vòng quanh bên tả, tức là đi vòng quanh về phía bên tay trái, đi như vậy là xấu, sai, không tốt, không đúng cách.

Thường đi nhiễu quanh là phải đi ba vòng, để tiêu biểu chỉ cho ba ngôi Tam Bảo, theo giáo pháp tưởng giải của Đại Thừa có nghĩa là đi như vậy trừ tam độc (tham, sân, si), tịnh tam nghiệp (thân, miệng, ý), diệt tam ác đạo (súc sanh, ngạ quỷ và địa ngục). Điều đó chỉ là một sự tưởng tượng của Đại Thừa Giáo mà thôi, chúng tôi đã từng sống đúng giới luật, không hề sai phạm một lỗi nhỏ, thế mà trừ tam độc, tịnh tam nghiệp còn gian nan khó khăn hết sức, ngày ngày còn phải rèn luyện pháp như lý tác ý để tạo thành một đạo lực giải thoát mới diệt sạch tam độc, tịnh tam nghiệp mới nổi, chứ đâu phải đi như vậy là trừ tam độc, tịnh tam nghiệp được, đó là xảo ngôn lừa đảo của Đại Thừa Giáo.

Còn nói về sự cung kính và tôn trọng đối với mọi người, gồm có 9 pháp kỉnh:

1- Đồng thời thăm hỏi, nghĩa là khi chúng ta hỏi thăm sức khỏe hoặc hỏi thăm về công ăn việc làm, hỏi thăm về con cái trong gia đình của người khác, đó là sự cung kính và tôn trọng người thứ nhất.

2- Cúi đầu bái kỉnh, nghĩa là chúng ta gặp người khác dù người trưởng thượng hay là những người bằng chúng ta hoặc trẻ con nhỏ hơn ta, ta đều cúi đầu bái kỉnh đó là sự cung kính và tôn trọng người khác thứ hai.

3- Dở tay xá, nghĩa là đưa tay vẫy chào khi ở xa, nếu đối diện nhau bắt tay nhau như người Âu Mỹ (Bonjour) đó là sự cung kính và tôn trọng chào hỏi lẫn nhau thứ ba.

4- Chấp tay xá ngay, nghĩa là người gặp nhau chấp hai tay lại xá nhau theo người Ấn Độ và tín đồ Phật Giáo gặp nhau chấp tay xá đó là sự cung kính và tôn trọng lẫn nhau thứ tư.

5- Co đầu gối nhún, nghĩa là khi hai người gặp nhau họ co đầu gối nhún ba cái, đó là cách thức chào nhau như chúng ta chấp tay xá vậy. Đây là sự cung kính và tôn trọng lẫn nhau của những dân tộc bộ lạc thiểu số ở miền rừng núi thứ năm.

6- Quỳ dài, nghĩa là khi vào đền thờ Thần đối với người tín đồ, họ quỳ gối xuống, hai tay buông thỏng theo thân mình, gọi là quỳ dài. Đó là sự cung kính và tôn trọng Thần linh của tín đồ ngoại đạo thứ sáu.

7- Hai tay chấp lại đầu gối quỳ xuống đó là sự cung kính và tôn trọng của tín đồ Phật giáo thứ bảy.

8- Ngũ luân đều co, có nghĩa là đầu, hai tay và hai chân đều co lại đó là sự lễ Phật, cách thức cung kính và tôn trọng của Phật Giáo thứ tám.

9- Nằm sát đất có nghĩa là đầu, hai tay và hai chân nằm sát đất không nhút nhít, hành động đó tức là tỏ lòng rất cung kính và tôn trọng mà còn có nghĩa là sợ hãi thứ chín.

Để tỏ lòng cung kính và tôn trọng pháp bảo nên không được mang giày đi nhiễu quanh giảng đường, vì mang giầy, guốc, dép đi nhiễu quanh là thiếu lòng tôn trọng và cung kính pháp bảo.

Muốn đi nhiễu quanh giảng đường tháp bảo để tỏ lòng cung kính và tôn trọng pháp bảo thì nên cởi giày, dép, guốc, đi chân trần. Đó là cách thức để tỏ lòng cung kính và tôn trọng tốt nhất, nhưng phải hiểu những hành động cởi giày dép đi nhiễu quanh là hành động đạo đức cung kính và tôn trọng của mọi người không riêng tín đồ Phật Giáo.

Vị tỳ kheo cần phải thọ giới này để thực hiện làm gương sáng cho tín đồ, để họ biết cách cung kính và tôn trọng pháp bảo, và cũng biết cung kính và tôn trọng mọi người.

Từ những hành động đi, đứng, nói, nín, người có đạo đức thì luôn luôn thể hiện qua các hành động đó nhẹ nhàng, lịch sự, ôn tồn, nhã nhặn, lễ độ, không có hỗn xược, xấc láo, nghịch ngợm, ngang tàng, bướng bỉnh, chửi thề, phách lối, v.v...

Đức hạnh cung kính và tôn trọng giúp ta đối xử với mọi người có những hành động nhẹ nhàng, êm ái, ôn tồn, nhã nhặn, từ tốn, v.v... khiến cho mình và mọi người cũng đều được vui hòa, an lạc, thương mến và quý trọng nhau hơn.

Bởi vậy chúng ta cần nên học đức hạnh cung kính và tôn trọng, đó là hành động cần thiết nhất cho cuộc sống làm người, đem lại hạnh phúc cho nhau, giữ gìn trật tự an ninh xã hội và tạo ra cảnh hoà bình thế giới.

Giới thứ sáu mươi lăm: KHÔNG NÊN MANG HIA ĐI VÀO GIẢNG ĐƯỜNG

Vị tỳ kheo cần phải giữ oai nghi tế hạnh, luôn luôn tỏ lòng cung kính và tôn trọng pháp bảo, không được mang hia, giày, dép, guốc đi vào giảng đường, nơi Đức Phật đã từng thuyết pháp. Giới luật đã cấm như vậy thì vị tỳ kheo tăng và tỳ kheo ni cần phải giữ gìn nghiêm túc để làm gương tốt cho hàng cư sĩ bắt chước.

Với đạo Phật, đức hạnh cung kính và tôn trọng không những dành riêng pháp bảo như các giới trên đã dạy mà còn đối với tất cả mọi người, mọi loài chúng sanh, đều phải có sự tôn trọng cung kính bình đẳng như nhau, dù cho con kiến, côn trùng là loài vật nhỏ mọn, nhưng chúng vẫn có sự sống như chúng ta thì chúng ta phải có sự cung kính và tôn trọng sự sống ấy như nhau, không được giết hại một cách vô cớ.

Vì chúng ta lúc nào cũng cung kính và tôn trọng sự sống của mình thì không lẽ nào lại không có lòng cung kính và tôn trọng sự sống của người khác và loài vật khác sao?

Ở đời con người thường cung kính và tôn trọng sự sống của mình mà lại chà đạp lên sự sống của người khác, loài vật khác, bằng chứng cuộc sống chúng ta hiện giờ là vậy, nếu không có pháp luật nhà nước bảo vệ thì cuộc sống của con người sẽ tan nát, nếu ai đã từng đọc báo Công An thì sẽ rõ.

Loài thú vật không có đức hạnh tôn trọng và cung kính nên chấp vào cuộc sống của chúng, vì thế chúng giết hại và ăn thịt lẫn nhau, chà đạp lên nhau để mà sống. Còn loài người chúng ta có trí thông minh, hiểu biết phân biệt phải trái, trắng đen, tốt xấu, thiện ác, biết sửa đổi, biết cải hối, biết lỗi lầm và biết tu sửa lại thân tâm.

Con người cũng chỉ là một loài động vật như bao nhiêu loài động vật khác, nhưng con người, vì còn biết sửa sai, biết tôn trọng và cung kính cái đúng, cái phải; biết xa lìa cái xấu, từ bỏ cái ác; biết nhận cái tốt, cái thiện, nên con người luôn luôn trau dồi tu sửa thân tâm, thực hiện hành động đạo đức không làm khổ mình khổ người, nhờ đó con người mới vượt thoát ra khỏi loài cầm thú.

Vì thế trong cuộc sống, đạo đức rất cần thiết cho con người, nó giúp cho đời sống con người có ba điều lợi ích, thiết thực, cụ thể hoàn toàn giải thoát:

1- Thoát ra khỏi bản năng thú vật.

2- Biết sống không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh.

3- Đem lại cuộc sống cho loài người và loài vật một sự sống an lành, thanh bình cho nhau.

Nếu một người có tâm tha thiết tìm cầu sự bình an cho mình, cho người và cho muôn vật thì đức hạnh cung kính và tôn trọng rất cần thiết và quan trọng đối với họ, nó mang đến cho họ một cuộc sống của con người và của loài động vật trên hành tinh này một sự sống bình an yên lành vô cùng to lớn.

Là con người ai ai cũng phải tu tập, rèn luyện và trau dồi đạo đức để cho mình xứng đáng là con người hơn loài thú vật.

Giới thứ sáu mươi sáu: KHÔNG NÊN CẦM HIA VÀO TRONG GIẢNG ĐƯỜNG

Vị tỳ kheo phải giữ gìn oai nghi tế hạnh, nhất là đức hạnh cung kính và tôn trọng không những cung kính tôn trọng pháp bảo của Phật mà còn phải cung kính và tôn trọng tất cả mọi người, mọi loài chúng sanh. Cung kính tôn trọng như vậy tức là cung kính tôn trọng Phật, Pháp, Tăng. Có như vậy vị tỳ kheo mới xứng đáng là đệ tử của Phật, là vị thầy của Trời, Người, là gương hạnh tốt của tín đồ Phật Giáo.

Tuy không mang hia đi vào trong giảng đường, nhưng xách đi vào giảng đường cũng là một hành động thiếu đức cung kính và tôn trọng pháp và người, vì hia mang đi dưới đất dẫm đạp lên những đồ bất tịnh, xách đi vào giảng đường làm ô uế nơi nghe pháp, nơi mà chúng tăng và tất cả cư sĩ đến câu hội nghe lời dạy của Đức Phật. Cho nên khi đến chùa, tu viện, tịnh xá, tịnh thất, v.v... cần phải tỏ lòng cung kính và tôn trọng nơi tôn nghiêm tu hành, nơi pháp âm của Phật còn vang rền trong không gian, đem lại một nền đạo đức nhân bản lợi ích cho nhân loại.

Vì thế đến những nơi đó chúng ta phải hết sức cẩn thận, không được mang giày, dép, guốc, hia cũng như xách đi vào giảng đường, mà phải cởi bỏ bên ngoài, rồi đi chân trần vào thì mới gọi là có lòng tôn trọng và cung kính pháp bảo, nơi tu hành, nơi tôn kính của mọi tín đồ Phật Giáo.

Có những người hiểu một cách cạn cợt không nên mang hia, giày, dép, guốc vào chùa am, thất, giảng đường, nhưng lại xách vào cho đó là không sao. Hiểu như vậy không đúng tư cách đạo đức, là vì sợ mất giày dép mà quên đi đức hạnh của con người. Ở đời người ta xem đồ vật hơn đạo đức nên người ta đã đánh mất đi đạo đức, chỉ vì mất đi đạo đức nên mới có người tham lam lấy trộm của nhau. Nếu mọi người ai cũng giữ gìn đạo đức thì của bỏ ngoài sân cũng không mất, nhà không cần đóng cửa. Cho nên đạo đức rất cần thiết cho cuộc sống của con người, thì đức hạnh cung kính và tôn trọng là một hành động đạo đức mà chúng ta và mọi người đều phải học và trau dồi đức hạnh đó.

Có nhiều người hiểu sai, tưởng là mình cung kính và tôn trọng trong lòng thì cần gì phải biểu lộ bên ngoài. Nếu nói rằng cung kính và tôn trọng trong lòng thì lấy gì chứng minh cho sự cung kính và tôn trọng đó, hành động cung kính và tôn trọng là biểu hiện cụ thể đạo đức cung kính và tôn trọng của người ấy qua hành động. Chính vì đức hạnh cung kính và tôn trọng đã giúp cho người ấy không còn khổ đau phiền toái, bất toại nguyện trong lòng, luôn luôn lúc nào tâm hồn cũng thanh thản và an lạc.

Sự cung kính tôn trọng phải thực hiện qua hành động thân, miệng, ý của mình, chứ không thể dùng lời nói suông mà có được, phải luôn siêng năng, tập luyện, trau dồi thân tâm hằng ngày, và còn phải học hỏi đạo đức nhân quả thì mới có thể thể hiện những hành động đức hạnh cung kính và tôn trọng đó đối với mọi người đúng như pháp.

Thường sự cung kính và tôn trọng phải tỏ ra hành động nơi thân, miệng thì mới chính là lòng cung kính và tôn trọng thật sự. Hành động không cung kính tôn trọng mà bảo rằng có lòng cung kính và tôn trọng thì không đúng, đó chỉ là lời nói lừa đảo người khác mà thôi.

Cung kính và tôn trọng là những đức hạnh giúp chúng ta thoát ra khỏi ác pháp, khiến đời sống chúng ta được an vui thanh thản và vô sự; đức hạnh cung kính và tôn trọng giúp con người luôn luôn giữ gìn môi trường sống và bảo vệ sự sống của nhau, không hề giết hại và ăn thịt lẫn nhau.

Nếu con người thật sự không ăn thịt chúng sanh, biết tôn trọng và cung kính sự sống của nhau thì con người và loài cầm thú sẽ là bạn thân nhau, và từ đó môi trường sống trên hành tinh này sẽ có mưa thuận gió hòa, không bao giờ có thiên tai dịch họa; không bao giờ có cảnh màn trời chiếu đất; không bao giờ có cảnh bất hạnh bịnh tật tai ương và thế giới không bao giờ có chiến tranh.

Giới thứ sáu mươi bảy: KHÔNG NÊN THỌ THỰC TRONG GIẢNG ĐƯỜNG

Vị tỳ kheo thọ thực bất kỳ nơi đâu, ăn xong đều phải dọn dẹp sạch sẽ, không được quăng bỏ lá, vỏ trái cây, thực phẩm khắp chỗ ăn. Cần phải giữ vệ sinh chung nhất là chỗ ăn uống phải được vén khéo, sạch sẽ và rất vệ sinh, luôn tạo môi trường sống chung không ô nhiễm, bẩn thỉu để tránh mọi thứ bịnh tật truyền nhiễm gây ra và tạo nên mọi thứ khổ đau cho người khác.

Giới này dạy về phần đạo đức vệ sinh, mọi người cần phải được học tạp để sửa sai những lỗi lầm mà từ trước đến nay đã không được học, nên gây ra bao nhiêu thứ bịnh tật đau khổ cho mọi người và trong đó có mình.

Tỳ kheo tăng, tỳ kheo ni và cư sĩ không được thọ thực trong giảng đường, vì nơi đó là nơi nghe pháp phải được giữ gìn trong sạch và thanh tịnh, để mọi người đến đó nghe diệu lý và thâm nhập thiện pháp, nhờ đó mới diệt trừ các ác pháp khiến cho tâm hồn mọi người bất động trước mọi hoàn cảnh, mọi sự việc và các đối tượng. Nhờ được vậy cuộc sống mới được thanh thản, an lạc và vô sự. Vì thế, nơi thuyết pháp không phải là nơi nhà ăn, vậy tất cả mọi người không được vào nơi đó ăn uống mà phải tỏ lòng tôn trọng và cung kính, nhất là tăng, ni phải làm gương.

Người ăn uống không đúng chỗ, đúng nơi là người thiếu giáo dục tư cách đạo đức trong ăn uống. Ở đời người ta xem thường về tư cách đạo đức ăn uống, nên đụng đâu ăn đó, bất kể dơ sạch; bất kể nơi chốn; bất kể lịch sự; bất kể mọi người, v.v...

Ăn uống chỉ biết có ăn uống cho no bụng mà thôi, chẳng cần đạo đức gì cả, người ăn uống như vậy chẳng khác nào là một con thú vật. Là con người không thể ăn uống như vậy được, mà phải ăn uống có đạo đức trong ăn uống.

Cho nên ăn uống phải có nơi, có chốn, chứ không phải đụng đâu ăn uống đó. Ăn uống như vậy là người chưa từng học đạo đức của đạo Phật.

Một tỳ kheo tăng và một tỳ kheo ni ăn uống ngồi quán lều, ở vỉa hè, đầu phố xá, tại ngã tư đường có đông đúc người qua, kẻ lại mà ngồi ăn uống tự nhiên như người đời, đó là những tu sĩ thiếu học tập đạo đức của giới luật Phật, nên thiếu tất cả oai nghi tế hạnh về ăn uống, và vì vậy những người tu sĩ này được xem là những người đội lốt tu sĩ (tỳ kheo tăng và tỳ kheo ni) để lừa đảo tín đồ Phật Giáo.

Vị tỳ kheo tăng và tỳ kheo ni ăn quán, ngồi tiệm là những vị tỳ kheo thiếu tư cách phạm hạnh của những bậc chân tu. Cho nên người tu hành phải biết, ăn quán ngồi tiệm là những kẻ thế tục, chứ người tu sĩ Đạo Phật thì không thể ăn uống như vậy được, mà phải có nơi, có chỗ, đúng giờ, đúng giấc, không được ăn uống phi thời. Đấy là đạo hạnh của người tu sĩ, bậc tu hành chân chánh.

Vị tỳ kheo đến tiệm cơm xin cơm, nếu không xin thì phải nhờ người cư sĩ mua cơm và thực phẩm cúng dường cho, khi nhận cơm xong không được ngồi tại quán tiệm mà ăn, phải đi tránh nơi khác, đến nơi yên tịnh thanh vắng, rồi ngồi xuống xếp bằng nghiêm chỉnh, đặt bình bát cơm trước mặt, thầm ước nguyện giữ gìn đức hạnh giải thoát để xứng đáng thọ bữa cơm này, rồi mới nghiêm trang thọ thực.

Ăn uống của người tu sĩ phải biểu lộ một hành động nghiêm trang, đầy đủ đạo đức tỏ lòng cung kính và tôn trọng công ơn của mọi người, mới làm ra có được bữa cơm này, để nuôi mạng sống tu hành của mình. Nhờ công ơn khó khổ của mọi người vị tỳ kheo mới nuôi dưỡng mạng sống tu hành của mình tới nơi tới chốn. Do đó, lúc ăn uống người tu sĩ luôn luôn phải tỏ lòng cung kính và biết ơn sâu xa trong mỗi bữa ăn. Vì thế, bữa ăn của người tu sĩ không được ngồi quán, ngồi tiệm ăn uống, mà phải ngồi những nơi xứng hợp để tỏ lòng cung kính và tôn trọng ấy, với thâm ơn sâu dầy khó quên đối với mọi người. Ngồi trong quán trong lều ăn uống, nơi đó bất tịnh kẻ ra, người vào, ồn náo làm sao chúng ta thể hiện được lòng biết ơn sâu xa ấy.

Giảng đường cũng không phải là nơi thọ thực của tỳ kheo tăng và tỳ kheo ni, vì thế, khi vào ăn uống nơi như vậy, sẽ không xứng hợp đúng chỗ ăn uống, làm mất oai nghi tế hạnh đạo đức ăn uống của người tu sĩ. Khiến cho những người am hiểu giới luật Phật sẽ không chấp nhận những tu sĩ ăn uống không biết chỗ nơi và sẽ đánh giá trị, xem thường giới tu sĩ thiếu đạo đức. Người am tường Phật Giáo sẽ không chấp nhận những tu sĩ này là đệ tử Phật.

Con thú vật đụng đâu ăn đó, không biết chỗ biết nơi: chỗ đúng, chỗ sai, chỗ dơ, chỗ sạch, chỉ có biết ăn mà thôi. Con người không thể ăn uống như vậy được. Con người ngồi lều, ngồi quán, ngồi vỉa hè, mọi chỗ đụng đâu ngồi đó ăn uống thì cũng giống như một con thú vật không có đạo đức về ăn uống.

Bởi, con người mà không học đạo đức thì chẳng khác nào là một con thú vật, con thú vật mà học đạo đức thì chẳng khác nào là con người và còn hơn con người nữa.

Vị tỳ kheo tăng và tỳ kheo ni là bậc thầy của Trời Người, là Thánh Tăng và Thánh Ni cớ sao lại ăn uống phi thời, không đúng chỗ, đúng nơi, đụng đâu ăn uống đó, ăn uống như vậy là là bậc thầy, là bậc Thánh Tăng, Thánh Ni sao được? Đạo đức làm người còn chưa xong, huống là ăn uống như vậy mà lại muốn làm Thầy Người Trời thì làm sao được?

Là tu sĩ (tỳ kheo tăng và tỳ kheo ni) luôn luôn phải chấp hành đúng oai nghi tế hạnh đạo đức của giới luật về ăn uống thì mới xứng đáng là Thầy Trời Người.

Tu sĩ Phật giáo hiện không biết xấu hổ với mọi người. Người ta gọi mình là Thầy, là Đại Đức, là Thượng Tọa, là Hòa Thượng, mà đức hạnh chẳng ra gì, giới luật vi phạm và phá sạch, không có giới nào là không phạm, đời sống không đúng phạm hạnh của người tu. Vậy mà đương nhiên nhận làm Thầy Trời Người không biết xấu hổ, thật đáng tủi nhục cho kiếp làm tu sĩ Phật giáo hiện nay.

Miệng nói giới luật mà không sống đúng giới luật, giới luật nào cũng đều có vi phạm, ngoài hình tướng tỏ ra khéo che đậy, nhưng bên trong sống như người thế tục, không còn xót một giới nào là không vi phạm. Thật đáng xấu hổ với tín đồ biết dường nào!

Giới thứ sáu mươi tám: KHÔNG NÊN KHIÊNG TỬ THI ĐI NGANG QUA GIẢNG ĐƯỜNG

Tử thi là thây người chết, thây người chết bất tịnh, hôi thúi, uế trược, v.v... Tất cả thân tứ đại của con người và của loài vật khi chết đều tan rã. Đất, nước, gió, lửa đều trả về đất, nước, gió, lửa, chẳng còn gì là của chúng ta nữa. Vĩnh biệt ngàn thu khi ba tấc hơi dừng, nhưng cái gì còn lại? linh hồn, thần thức, Phật tánh ư!

Không! Không! Hoàn toàn không còn có cái gì cả. Khi chết đi chỉ còn một cái thây ma hôi thúi, bất tịnh mà thôi. Vậy người ta nghĩ, khi người chết cái gì còn lại đi luân hồi và tái sanh ở kiếp sau?

Cái còn lại đi luân hồi và tái sanh ở kiếp sau đó là những hành động nhân quả thiện, ác tạo thành thói quen, thói quen ấy gọi là nghiệp lực, cái nhiệp lực đó còn mãi và tiếp tục đi luân hồi tái sanh để thọ lấy thân sau và chịu những nhân quả khổ, vui của những hành động đã làm ở thân trước.

Có người cho rằng chết là hết, không còn gì cả, nghĩ như vậy tức là chấp đoạn, chấp đoạn tức là sai; lại có người cho rằng chết là thân tứ đại hoại diệt, chứ còn có một vật vô hình bất biến, đó là linh hồn (ngoại đạo), thần thức (Đại Thừa), Phật tánh (Thiền Tông), Bản thể vạn hữu (Bà La Môn). Đây là những tư tưởng chấp thường cũng là sai. Đạo Phật không chấp đoạn mà cũng không chấp thường, vì thấu suốt lý nhân quả thấy được hành động thiện ác của mỗi người tạo thành nghiệp lực, do nghiệp lực đó tiếp tục mãi mãi tái sanh luân hồi. Cho nên chẳng có ai đi tái sanh luân hồi và cũng chẳng có ai chịu khổ, hưởng vui, chỉ có nghiệp lực nhân quả thiện ác khổ vui là như vậy mà thôi. Người đời lầm chấp cho rằng có ngã nên ngã đó chịu khổ hưởng vui, bị tù, bị tội, v.v...

Chết là hết một kiếp người nhân quả, thân tứ đại đem thiêu đốt bỏ, để giữ gìn vệ sinh chung cho môi trường sống trong sạch, để những người còn sống tránh khỏi những bịnh tật tai ương.

Giảng đường là nơi thuyết pháp thanh tịnh, dù cho Hòa Thượng, Thượng Toạ chết đều cũng không được khiêng đi ngang qua giảng đường. Dù bất cứ người nào chết cũng vậy, phải được giữ gìn vệ sinh chung nơi chỗ đông người.

Có nhiều chùa, khi có người chết họ đặt áo quan tại giảng đường để làm lễ, lẽ ra phải được đặt thây người chết tại nhà Niết Bàn hơn là bất cứ nơi đâu. Vì nơi đó là nơi dành riêng để làm lễ ma chay trước khi an táng.

Nếu đặt áo quan trong chùa nơi thờ Phật, nơi giảng đường, với việc làm này thật là thiếu đức hạnh cung kính và tôn trọng Phật Pháp, người ta chỉ biết tình cảm thương yêu đối với những người thân mà quên đi đạo đức làm người. Bởi sự cung kính và tôn trọng phải đúng nơi, đúng chỗ, đúng tư cách, nếu làm sai không đúng cách thức như trong giới luật đã dạy thì họ là người thiếu giáo dục đạo đức của Phật Giáo, làm mất vệ sinh, môi trường ô nhiễm.

Chỗ đáng cung kính và tôn trọng thì phải hết lòng cung kính và tôn trọng, nếu không cung kính và tôn trọng, thì tỏ ra là người thiếu đạo đức; còn chỗ không đáng cung kính và tôn trọng thì lại cung kính và tôn trọng, nếu cung kính và tôn trọng như vậy thì cũng là người thiếu đạo đức.

Bởi sự cung kính và tôn trọng là một đức hạnh hết sức quan trọng đối với đời sống của con người, người thiếu đức hạnh cung kính và tôn trọng tạo ra biết bao nhiêu sự đau khổ cho muôn vạn người.

Ví dụ: một vị tỳ kheo phạm giới, phá giới, ăn uống phi thời, không giữ gìn vệ sinh đi, đứng, nằm, ngồi chẳng có oai nghi tế hạnh, chẳng biết cung kính và tôn trọng, chỉ biết có niệm bùa, đọc chú, tu tập rèn luyện để đạt được thần thông hoặc ngồi thiền nhiều giờ để có hình thức tu hành, hoặc thuyết giảng lý luận theo kiểu tưởng giải xảo quyệt khôn quỉ như người ngoài đời, hoặc viết lách soạn dịch kinh sách theo kiến giải của mình khiến cho người đời sau tu hành chẳng đến đâu, vì hiện tình mọi người đang sống trong vô minh thì làm sao thấu được sự đúng sai trong kinh sách đó, đó là một điều tai hại và nguy hiểm hết sức cho người đời sau, những hành động như trên đã kể, đó là hành động thiếu đạo đức, giết người bằng sự mê tín, bằng thần thông, bằng lý luận, v.v...

Đức cung kính, tôn trọng và giữ vệ sinh chung, nếu một người chẳng giữ gìn được là người thiếu đạo đức, là người ngu si tự mình làm khổ mình khổ người mà không biết. Cho nên, người có đức hạnh cung kính, tôn trọng và giữ gìn vệ sinh chung cho đúng người, đúng nơi, đúng chỗ và đúng lúc, thì người đó là người có đạo đức, là người thông minh, là người khôn ngoan.

Tại sao vậy?

Tại vì giữ gìn vệ sinh chung tạo cho môi trường sống không ô nhiễm, khiến cho mình và mọi người ít bịnh tật, ít khổ đau. Nhờ sống trong bầu không khí trong lành, nên tâm hồn thoái mái dễ chịu, cũng vậy đức hạnh cung kính và tôn trọng người khác khiến cho mình không sanh tâm tham lam, giận dữ, không thù hận, oán ghét và người khác cũng vậy, vì thế mọi người không ai làm khổ ai hết, sống một đời sống vui hòa, hạnh phúc.

Một trăm giới chúng học phần nhiều trong các giới luật, Đức Phật đã dạy đức hạnh cung kính, tôn trọng và đức hạnh giữ gìn vệ sinh bằng những hành động đúng lúc, đúng nơi, đúng chỗ và đúng tư cách của một người có đạo đức nhân quả, để đem lại một đời sống an vui hạnh phúc cho nhau. Thật là những bài pháp có giá trị rất lớn trong thời đại của chúng ta hiện giờ.

Đức hạnh cung kính, tôn trọng và vệ sinh là một đức hạnh rất cần thiết cho những người tu sĩ đạo Phật, làm gương sáng cho tín đồ và mọi người không tôn giáo. Thế mà có những tu sĩ giới hạnh chưa nghiêm túc và tu hành chẳng ra gì mà đã dùng những danh từ thô lỗ của người đời, gọi quý thầy và quý sư cô, quý cư sĩ bằng những từ: thằng, nó, con, hắn, y, v.v... Những danh tư xưng hô đó, vị tỳ kheo tăng và tỳ kheo ni không nên dùng, vì dùng những danh từ xưng hô đó đi ngược lại đạo đức cung kính và tôn trọng của Đạo Phật. Đạo Phật là đạo vô ngã mà còn dùng những danh từ đó gọi nhau, chứng tỏ các thầy còn mang bản ngã to lớn, giống như kẻ thế tục phách lối, thô lỗ, tục tằn, v.v...

Đạo đức cung kính và tôn trọng không cho phép quý Thầy dùng những danh từ thô lỗ đó. Nếu quý thầy dùng những danh từ đó, quý thầy là những người thiếu giáo dục đạo đức trong nhà Phật. Người hiểu biết đức hạnh giới luật của Đạo Phật sẽ đánh giá trị quý thầy quý sư cô là những người thiếu đạo đức, sống phá và phạm giới luật Phật, không biết cách xưng hô.

Người học Phật mà xem thường giới luật Phật là những người không có đạo đức, mà đã không có đạo đức thì người ấy chỉ là một loài thú vật mà thôi. Vì loài thú vật không bao giờ có đạo đức, đạo đức chỉ dành cho Trời, Người và những bậc Thánh Hiền.

Chúng ta là những tu sĩ Phật giáo, là thầy của Trời Người, là bậc Thánh Tăng, thế mà chúng ta lại thiếu đạo đức không bằng người thế tục thì chúng ta có xứng đáng làm thầy Trời Người và Thánh Tăng hay không? Chúng ta là tu sĩ không biết xấu hổ khi phạm giới, phá giới tức là thiếu đạo đức, thế mà chúng ta lại nghênh ngang, hiu hiu tự đắc, xem ta như là thầy Trời Người, là Thánh Tăng, thì quý thầy có cảm thấy mình như thế nào? Có xấu hổ hay không? Có còn nhìn thấy mặt tín đồ được hay không? Có dám tự xưng mình là thấy Trời Người được hay không? Khi mà đời sống của quý thầy không đúng giới luật.

Thiếu đức hạnh làm một vị Thầy thì tốt hơn nên làm người thế tục, để không mang tọi lỗi với chư Phật và với mọi người.

Đức hạnh tôn trọng, cung kính và vệ sinh của một tỳ kheo tăng và tỳ kheo ni rất cần thiết cho đời sống tu hành giải thoát của quý vị. Nếu thiếu những đức hạnh đó tức là quý vị phạm giới, phá giới, khinh thường giới luật, thì đời tu hành của quý vị chỉ là con số “không”, nếu có tu hành cũng hoài công vô ích mà thôi, chẳng ích lợi gì cho quý vị và cho người khác.

Giới thứ sáu mươi chín: KHÔNG NÊN CHÔN TỬ THI GẦN BÊN GIẢNG ĐƯỜNG

Giảng đường là nơi hằng ngày chư tăng, ni và cư sĩ tụ tập đến nghe pháp, nên không được chôn tử thi gần, dù là tử thi của Hoà Thượng, Thượng Tọa, Trưởng Lão viên tịch cũng không được chôn gần, vì tử thi vẫn là vật uế trược, bất tịnh, khiến cho môi trường sống chung của con người còn sống không được trong sạch và có thể truyền nhiễm những bịnh tật nan y cho người khác.

Phàm thầy tỳ kheo tăng cũng như tỳ kheo ni khi qua đời phải y theo lời Phật dạy và có thể dựa theo phong tục của mỗi nước gồm có 5 phép chôn:

1- Hỏa táng.

2- Địa táng.

3- Thủy táng.

4- Lâm táng.

5- Điểu táng.

Thầy tỳ kheo khi tịch cần phải làm lễ hỏa táng. Trong thời Đức Phật còn tại thế, ông Ubali bạch với Phật: “Ở trong thân này có tám vạn vi trùng thì làm sao dám đốt ?”

Phật dạy: “Người sống thì các vi trùng này đều sống, người chết thì các vi trùng này đều chết. Nếu thân tỳ kheo có bị bịnh ghẻ khi chết, muốn thiêu đốt thì phải quán không trùng rồi mới nên thiêu đốt”.

Thầy tỳ kheo khi tịch các vật sở hữu như: y, bát, không nên quăng bỏ, trong chúng phải đồng chia ra. Khi thiêu đốt, không nên để thây trần truồng, phải lấy y mặc vào kín đáo, đừng lấy y tốt làm phí của đàn na thí chủ, nhưng cũng đừng mặc y áo quá rách nát, phải dùng y phục vừa, không cũ quá, không quá mới, mặc trước khi chôn hoặc thiêu đốt.

Xưa đức Phật đã biết sự uế trược, bất tịnh của thây người chết, làm ảnh hưởng đến môi trường sống chung của con người, nên Ngài cấm không cho chôn cất gần giảng đường tức là gần nơi có nhà người ở đông đúc.

Hành động chôn cất bừa bãi gần nhà có người ở đông đúc là hành động thiếu đạo đức vệ sinh, làm cho người còn sống phải chịu mùi hôi thúi và có thể bị bịnh tật truyền nhiễm. An táng người chết thiếu ý thức đó là tạo cho người còn sống trong một môi trường ô nhiễm, những người có những hành động này là những người không có đạo đức vệ sinh. Đạo đức nhân quả dạy chúng ta không làm khổ mình khổ người, cớ sao chúng ta lại đem thây ma chôn gần chỗ người ở đông đúc; chôn gần giảng đường tức là làm khổ mọi người; làm khổ mọi người là người thiếu đạo đức nhân quả.

Người có học đạo đức nhân quả không cho phép chúng ta làm khổ kẻ khác, dù là một con chuột, một con gà con, một con vịt con, v.v... chết, chúng ta cũng không được bỏ bậy hoặc ném vào nhà người khác hoặc ném vào lùm cây, dòng nước, v.v... Hành động làm như vậy là làm cho mọi người chịu hôi thúi khó thở. Hành động đó là những hành động thiếu giáo dục đạo đức vệ sinh làm khổ người làm khổ mình.

Ở đời có lắm kẻ lấy những đồ uế trược, dơ bẩn ném vào nhà người khác, làm cho nhà người khác dơ bần, uế trược hôi thúi, đó là một hành động ích kỷ, nhỏ mọn hẹp hòi, thiếu giáo dục đạo đức vệ sinh đối xử với những người khác. Đó là hành động của loài thú vật hèn hạ, chứ không phải là hành động đạo đức của một người, con người mà có những hàng động như vậy là chẳng phải con người.

Những giới luật cấm không cho chôn tử thi gần giảng đường chúng ta nên suy rộng ra và hiểu được ý Phật dạy: Không nên làm môi trường sống ô nhiễm, vì làm môi trường sống ô nhiễm tức là phạm giới, người phạm một trăm giới chúng học là người thiếu đức hạnh làm người; người thiếu đức hạnh làm người là người không xứng đáng làm đệ tử của Phật như trên chúng tôi đã từng nhắc đi nhắc lại nhiều lần.

Tử thi là một vật bất tịnh, hôi thúi và còn biết bao nhiêu vật bất tịnh khác hôi thúi nữa như: nước rữa bát, thực phẩm ăn còn thừa, những rác rến, vỏ trái cây, rau cải, v.v... đều là những vật bất tịnh làm môi trường sống ô nhiễm, khiến cho mọi người sống trong môi trường đó dễ sanh bịnh tật và khi có bịnh tật thì rất là đau khổ.

Người xả rác, đụng đâu ném đó, làm cho môi trường sống dễ ô nhiễm, đối với Đạo Phật những người này là những người thiếu đạo đức vệ sinh làm người, những người như vậy Đức Phật không chấp nhận làm đệ tử của mình. Sống bừa bãi, thiếu vệ sinh, không tắm giặt, khiến cho cơ thể dễ sanh bịnh tật, đó là tự mình làm khổ lấy mình, như trong kinh Trung Bộ tập 2, bài kinh số 51 Kandaraka Phật dạy: “Thật như vậy này Pessa! Thật như vậy này Pessa! Này Pessa, rối ren thay như loài người! Cởi mở thay như loài thú vật! Này Pessa, có bốn hạng người này có mặt ở trên đời. Thế nào là bốn? Ở đây này Pessa, có người tự hành khổ mình, chuyên tâm tự hành khổ mình, vừa hành khổ người, chuyên tâm hành khổ người…”. Người sống thiếu đức hạnh vệ sinh là người sống tự làm khổ mình, khổ người như lời Đức Phật đã dạy trên. Nếu chúng ta muốn làm đệ tử Phật thì phải sống có đạo đức vệ sinh, phải sống sạch sẽ có ngăn nắp, phải siêng năng tắm giặt để không làm khổ mình, khổ người.

Đạo đức vệ sinh của phật là một đạo đức nhân quả lợi ích thiết thực, cụ thể cho kiếp sống của con người, vì thế mọi người ai ai cũng phải học tập, tu sửa thân tâm, để không còn có hành động thiếu đạo đức vệ sinh và không còn làm khổ mình khổ người. Nhờ có những hành động đạo đức đó mà con người sống trong bầu không khí thanh khiết, trong sạch và thanh tịnh.

Giới thứ bảy mươi: KHÔNG NÊN THIÊU TỬ THI DƯỚI GIẢNG ĐƯỜNG

Như chúng ta đã học, có năm cách an táng. Theo đạo Phật chỉ hỏa táng là vệ sinh nhất, còn 4 sự an táng kia không hợp vệ sinh chút nào, do đó khi đức Phật nhập diệt thi thể Ngài đều được đem trà tỳ (thiêu đốt).

Con người khi chết xong, thân thể là một vật bất tịnh, uế trược, hôi thúi cần phải được đem thiêu đốt mới bảo vệ được môi trường sống trong sạch, không bị ô nhiễm. Nhờ sống trong môi trường thanh khiết nên mọi người ít bịnh tật, ít khổ đau.

Trong kinh Phật dạy: Thầy tỳ kheo khi qua đời, xem xét nếu biết thầy đó chết thật, liền ngay đó đem đến chỗ thiêu, chẳng được để lâu ngày, bèn lấy lửa đốt liền (trà tỳ). Khi thiêu đốt không nên để thây ma trần truồng mà thiêu, phải lấy y xấu mặc vào, đừng lấy y tốt, nhưng đừng mặc đồ quá cũ rách nát như trên đã dạy.

Đọc đoạn kinh giới này chúng ta thấy Đạo Phật tẩm liệm thi người chết quá giản dị, đến đỗi không có hàng rương, quan tài, không có vải tẩm liệm, không có chiếu chăn hoặc đồ liệm, chỉ đơn giản mặc một bộ quần áo sạch sẽ đừng rách nát, quá cũ, nhưng cũng không được tốt quá, rồi đem để trên đống củi khô thiêu đốt. Thật là đơn giản vô cùng và rất hợp vệ sinh, nhưng lại khi thiêu đốt không được để gần giảng đường, vì chỗ đó có đông người ra vào, hoặc nơi có người ở đông đúc, mùi thiêu đốt thây người chết cũng làm cho người khác khó chịu và có thể sanh bịnh tật. Vì thế Đức Phật cấm không cho thiêu đốt tử thi gần giảng đường tức là gần chỗ đông người; gần chỗ đông người khiến cho mọi người khó chịu, mà đã khiến cho mọi người khó chịu tức là làm khổ người khác, làm khổ người khác tức là người thiếu đạo đức nhân quả. Những điều này chúng ta cần phải học, cần phải suy nghĩ nhiều hơn, sống đúng lời dạy này, để xứng đáng là đệ tử của Đức Phật không làm khổ ai hết.

Ở đây chúng ta thường chịu ảnh hưởng mai táng trong sách Văn Công Thọ Mai của Trang Tử. Cách thức mai táng theo kiểu phong kiến vua chúa, nào là đại liệm, tiểu liệm, khi có người chết có tiền, tẩm liệm theo kiểu nhà giàu, không tiền tẩm liệm theo kiểu nhà nghèo, nào là áo thùng; nào là dây rươm mũ bạc; nào là gậy tang, v.v... tẩm liệm mai táng một cách rất rườm rà và phiền phức, hao tốn quá nhiều tiền của mà chẳng ích lợi gì với cái thây người chết hôi thúi, bất tịnh, uế trược, v.v...

Ngược lại cách thức mai táng của Đạo Phật rất thực tế, cụ thể, ít hao tốn. Vì Đạo Phật có cái nhìn thực tế hơn, thân người là vô thường bất tịnh, hôi thúi, v.v... chẳng có gì đáng cho chúng ta mến tiếc, nhớ thương. Khi thân này còn sống, nó là một ngục tù đau khổ, là một ổ bịnh tật khiến cho sự khổ đau bất tận của kiếp làm người.

Bởi, đối với Đạo Phật thân người là vật bất tịnh không đáng cho người tu sĩ Phật Giáo quan tâm, chết là bỏ liền, ném xa, thiêu đốt bỏ, nó là một vật mang nhiều nghiệp khổ, một ổ bịnh tật, mang thân này như mang một cái cùm của tội nhân. Người tu sĩ Phật giáo xem thân này không phải của ta, không phải là ta, không phải bản ngã của ta, trong khi còn sống họ thường quán xét thấu suốt cội nguồn khổ đau của thân người, nên khi thân này hoại diệt họ chẳng mến tiếc, chẳng yêu thích thương khóc, chỉ lúc thân còn sống, dùng nó để chúng ta tu tập, rèn luyện đạo lực để diệt trừ nghiệp lực của đời người, nên cần bỏ được lúc nào là chúng ta bỏ ngay, bỏ ngay không còn tiếc rẻ gì cả.

Mang thân người là mang cái khổ, chắc ai cũng từng mang thân này và cũng đều biết cái khổ của nó, không ai có thân mà bảo rằng không khổ bao giờ.

Cho nên khi thân này hoại diệt cần đem thiêu đốt để giữ môi trường sống cho người khác được trong sạch, sống được an lành ít khổ đau bịnh tật hơn. Còn nếu muốn đem chôn, như tục lệ ở đất nước Việt Nam thì không được chôn gần chỗ đông người đang sống, nhất là nơi giảng đường, nơi tăng, ni và cư sĩ tụ họp nghe pháp thì lại càng không được chôn và thiêu gần đó.

Phải tránh xa các nơi như: Chùa, am, thất, tu viện, tịnh xá, niệm Phật đường, các Thiền đường, thiền viện, thiền thất, chợ búa, khu vui chơi giải trí, khu ăn uống, khu nhà ở tập thể, trường học, cư xá, v.v...

Người học giới luật đạo đức vệ sinh thì phải lưu ý những giới luật dạy trên đây, không được vi phạm, phải thực hiện đúng như lời Phật đã chỉ dạy, để không phụ công ơn của Người và góp phần chung nhau tạo được một môi trường sống trong sạch và tốt đẹp hơn.

Giới thứ bảy mươi mốt: KHÔNG NÊN THIÊU TỬ THI TRƯỚC GIẢNG ĐƯỜNG

Trong tất cả các giới của một trăm giới chúng học, thì những giới dạy về đức hạnh vệ sinh của Đạo Phật đáng cho chúng ta lưu ý. Nhất là Đức Phật đã nhắc nhở đệ tử của mình phải giữ vệ sinh môi trường sống trong sạch, không được để làm ô nhiễm, không được để rác rến hôi thúi bẩn thỉu, chỗ nào có đệ tử Phật ở, là chỗ đó phải được sạch sẽ, vệ sinh. Tuy trong cuộc sống thiểu dục tri túc rất đơn giản nhưng phải giữ vệ sinh tối đa, không được sống như ổ chuột, không được ăn ở bẩn thỉu. Không những giữ gìn vệ sinh trong thân mình mà còn phải giữ gìn vệ sinh chung cho môi trường sống của mọi người, rác rến, lá, hoặc vỏ trái cây đều được chôn lấp kỹ lưỡng.

Trong thời đại của chúng ta có nhiều vật phế thải làm môi trường sống dễ bị ô nhiễm, bất tịnh, khiến cho con người sống sanh ra nhiều thứ bịnh nan y, không thuốc trị. Nếu trong thời đại này con người không học đạo đức vệ sinh thì sự khổ đau của con người sẽ tăng lên gấp trăm ngàn lần hơn ngày xưa. Ngày xưa con người sống vật chất không đầy đủ như bây giờ, nhưng môi trường sống trong sạch hơn nhiều.

Giới thứ bảy mươi mốt cũng dạy chúng ta về đức hạnh vệ sinh giữ gìn môi trường sống chung, không được để những vật bất tịnh hôi thúi, nhất là không được chôn tử thi ở gần nơi mọi người tập họp nghe kinh pháp, hoặc nơi có người ở đông đảo.

Đức hạnh vệ sinh chỉ có con người mới thực hiện được, vì con người nhờ có trí tuệ hiểu biết, còn loài thú vật không thể nào thực hiện được. Nếu con ngưới ăn ở không vệ sinh thì chẳng khác nào là một con thú vật, cho nên đức hạnh vệ sinh cũng xác định được con người hay con thú. Vì thế, chúng ta muốn làm người thì phải sống đúng đạo đức vệ sinh.

Chúng ta có thấy một con mèo khi đi cầu xong chúng moi đất lấp lại, chừng nào cảm thấy không còn mùi hôi thúi nữa thì chúng mới bỏ đi. Một con mèo mà còn biết giữ vệ sinh huống là một con người như chúng ta, nếu chúng ta không giữ vệ sinh thì chúng ta còn thua một con mèo.

Con vật còn biết giữ vệ sinh huống là con người. Con người không biết giữ vệ sinh, đụng đâu ném đó, xả rác, làm cho môi trường sống ô nhiễm, hôi thúi, khó chịu, v.v... đó là con người thua con vật.

Cho nên giới này Đức Phật dạy: Không được làm hôi thúi môi trường sống, nhất là thiêu xác người chết mùi khét và hôi thúi bốc lên khiến một vùng ô nhiễm bất tịnh, làm cho mọi người khổ sở, khó chịu, đó là hành động thiếu đạo đức vệ sinh nhân quả, làm khổ mình khổ người. Chúng ta là những tu sĩ của Đạo Phật phải luôn luôn nghiêm trì những giới luật này để làm gương cho tín đồ và mọi người.

Giới thứ bảy mươi hai: KHÔNG NÊN THIÊU TỬ THI XUNG QUANH GIẢNG ĐƯỜNG

Giới này cũng giống như hai giới trên, không được thiêu tử thi trước, sau và xung quanh giảng đường làm ô nhiễm, hôi thúi, bất tịnh nơi giảng đường nghe pháp tu học của tăng, ni và cư sĩ.

Học về giới luật Phật, phần nhiều đức hạnh về vệ sinh Đức Phật thường nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần khiến cho chúng ta phải chú ý và phải ý tứ rất nhiều về đức hạnh vệ sinh.

Vệ sinh là một điều cần thiết cho đời sống con người. Ăn ở thiếu vệ sinh sẽ sanh ra bịnh tật dễ dàng, đưa đến tai họa rất khổ đau.

Hiện giờ trên thế giới nước nào giữ vệ sinh môi trường sống được trong sạch là nhờ có một đội cảnh sát trừng phạt lập biên bản những người dân thiếu vệ sinh, làm ô nhiễm môi trường sống, thì nước ấy mới được sạch sẽ, nhưng đó là một sự bắt buộc, chứ không phải là con người ý thức được đạo đức vệ sinh của mình.

Theo chúng tôi thiết nghĩ, muốn giữ vệ sinh chung cho môi trường sống của một đất nước nói riêng, của thế giới nói chung, thì trước tiên phải được giáo dục cho mỗi người dân ý thức được đạo đức vệ sinh có lợi như thế nào? Và không có đạo đức giữ vệ sinh thì có hại như thế nào? Nếu chỉ dùng một đội cảnh sát biết phạt vạ rất nặng cho những người dân nào không giữ vệ sinh, thì mới mong mọi người sẽ giữ được vệ sinh môi trường sống chung, như vậy việc làm này còn một sự thiếu khuyết rất lớn, cần phải được bổ túc thêm, tức là phải được thêm phần giáo dục cho mọi người dân tự ý thức được đạo đức vệ sinh có lợi ích rất lớn cho mình và cho mọi người. Nhà nước chỉ cần giúp cho mọi người dân học tập về đạo đức vệ sinh, thì đội cảnh sát sẽ đỡ trừng phạt họ rất nhiều.

Đạo đức của một người biết giữ vệ sinh chung là đạo đức cao thượng và ích lợi nhất cho xã hội loài người. Đó là một thứ đạo đức nhân bản không làm khổ mình, khổ người, mà Đức Phật đã đề xuất dạy người cách đây 2543 năm, mãi cho đến thời đại khoa học hiện đại hóa của chúng ta mới được nhắc đến.

Tại sao vậy?

Tại vì làm mất vệ sinh, ô nhiễm môi trường sống sinh ra nhiều bịnh tật, khiến sự tử vong biết bao nhiêu người phải chịu.

Ví dụ: một người bịnh bị lao phổi, khạc đờm nhổ trên lối đi, khi đờm khô, loại vi trùng lao ở trong đó bay trong không khí, người khác hít vào, do đó bị truyền nhiễm bịnh lao, nếu vi trùng lao đó đã kháng thuốc, thì người bịnh nhân chỉ còn chờ chết mà không thuốc trị. Đó là chúng ta thiếu đạo đức vệ sinh làm khổ và giết hại người khác bằng sự thiếu hiểu biết về đạo đức nhân quả.

Khi ta ném một con vật chết như chuột, mèo, rắn, v.v... chúng để lại một mùi hôi thúi, ai đi ngang qua cũng lấy làm khó chịu, phải ngửi mùi hôi thúi đó, đó là một việc làm ô nhiễm môi trường, việc làm đó không có đạo đức vệ sinh đã làm khổ mình khổ người khác. Vì vậy chúng ta cần phải học và giữ gìn đạo đức vệ sinh để không làm khổ mình khổ người.

Cho nên, trong giới luật Đức Phật dạy không được thiêu tử thi xung quanh giảng đường, nếu thiêu tử thi xung quanh giảng đường thì mùi hôi thúi sẽ làm cho mọi người khó chịu, đó là chúng ta đã đánh mất đạo đức nhân bản không làm khổ mình khổ người. Người giữ vệ sinh là người giữ gìn đạo đức tốt đẹp cho mình, tạo cảnh giới an vui cho mình cho người cùng sống; tạo bầu không khí trong lành cho mình cho người cùng nhau thọ hưởng.

Muốn được vậy, hằng ngày chúng ta luôn giữ gìn đạo đức vệ sinh môi trường sống, dù bất cứ chỗ nào chúng ta cũng thực hiện cho bằng được, ai làm nhơ bẩn nhưng riêng chúng ta quyết tâm không làm nhơ bẩn. Hành động quyết tâm đó là một gương sáng đạo đức vệ sinh cho mọi người soi.

Giới thứ bảy mươi ba: KHÔNG NÊN ĐEM Y, GIƯỜNG NẰM CỦA NGƯỜI CHẾT ĐI NGANG QUA GIẢNG ĐƯỜNG, TRỪ KHI ĐÃ GIẶT SẠCH

Giường chõng hoặc y phục của người chết đều là vật bất tịnh, đôi khi người chết bị bịnh truyền nhiễm nên không được mang vật bất tịnh và nguy hiểm đó đến nơi có chư tăng, chư ni và cư sĩ thường tập họp nghe pháp.

Để tránh sự nguy hiểm và giữ vệ sinh môi trường sống chung được trong sạch, bất nhiễm ô, thì chúng ta không nên đem những đồ vật dụng của người chết vào nơi chỗ có đông người. Đó là chúng ta đã biết giữ vệ sinh chung cho mọi người; đó cũng là một hành động sống đúng đời sống đạo đức vệ sinh không làm khổ mình khổ người mà trong kinh sách Phật đã từng chỉ dạy chúng ta rất cặn kẽ.

Xưa Đức Phật chế các giới này để dạy chúng tăng, ni và cư sĩ giữ gìn vệ sinh chung cho môi trường sống của con người được trong sạch, thanh tịnh để giảm thiểu sự bịnh tật và khổ đau, thế mà có mấy ai đã lưu ý đến lời dạy này. Lời dạy rất thực tế và cụ thể đem lại sự giải thoát an lành thật sự cho mọi người. Người ta ai cũng biết Đạo Phật là đạo giải thoát, nhưng hành động sống để giải thoát thì chẳng mấy ai biết. Người ta hiểu Phật giáo giải thoát ở một góc độ khác, một góc độ mơ hồ, trừu tượng, ảo giác, bằng cách mê tín, dị đoan, luôn luôn lúc nào cũng chuyên cần cúng bái, tụng niệm, cầu an, cầu siêu, ngồi thiền, niệm chú, v.v... hằng ngày đêm để được chư Phật, chư Bồ Tát gia hộ bịnh tật tiêu trừ, tai qua nạn khỏi, thì đó là giải thoát của những người còn lạc hậu, chưa hiểu Phật Giáo.

Có người hỏi Đức Phật: “Tại sao Đức Phật mặc y phấn tảo, tức là thứ vải lượm của tử thi, đó là thứ vải dơ bẩn nhất, mà Đức Phật lại chấp nhận, còn cớ sao lại cấm không cho mang y phục và giường chõng của người chết đi ngang qua giảng đường?

Y phấn tảo có mười món:

1- Y vải trâu nhai.

2- Y vải chuột cắn.

3- Y vải bị cháy nám.

4- Y vải đàn bà có kinh nguyệt.

5- Y vải đàn bà sanh.

6- Y vải trong miếu thần, lâu ngày người ta thay vải mới.

7- Y vải chim tha, gió thổi bay rớt trong đồng mả.

8- Y vải cầu nguyện.

9- Y vải lên ngôi vua (khi nhà vua thọ đăng quang lên ngôi bỏ những vải và y cũ) .

10- Y vải vãng hườn (vải đi đưa tống đám tang đem về).

Vải tử thi là thứ vải vô chủ, được quyền lấy, còn vải trong đền thờ có chủ, khi người ta cho thì mới được lấy, không cho thì không được lấy.

Tất cả những vải này trước khi may thành y đều phải được giặt và khử trùng sạch sẽ.

Cho nên, giới thứ bảy mươi ba dạy: khi giường, chõng, y, áo của người chết đều phải được giặt sạch sẽ thì mang đi chỗ nào Đức Phật cũng không cấm, vì đã làm sạch sẽ, tiệt trùng, không còn truyền nhiễm, bẩn thỉu, hôi thúi, v.v...

Hành động thiếu đạo đức vệ sinh làm ô uế, nhơ bẩn, hôi thúi môi trường sống, khiến cho mọi người khác khó chịu, khổ sở, v.v.. đó là hành động thiếu đạo đức vệ sinh làm người, chúng ta không riêng người học Phật mà tất cả mọi người cần nên tránh.

Con người biết sạch dơ, thơm tho, hôi thúi, lành mạnh, bịnh tật truyền nhiễm, lây lan, đau khổ và an vui, v.v... thì phải biết giữ gìn đạo đức vệ sinh để tránh sự khổ đau, truyền nhiễm, khó chịu cho mình và cho người khác. Người nào thực hiện được như vậy là người có đạo đức nhân quả, biết đem lại sự an vui cho mình cho người; biết đem lại nguồn sống lành mạnh cho nhau; biết đem lại lòng thương yêu chân thật cho mình cho mọi loài, đó là biết xây dựng cõi thế gian thành cõi Thiên Đàng, Cực Lạc.

Giữ gìn đạo đức vệ sinh chung là một đức hạnh cung kính và tôn trọng mọi người, chứ không phải xá, lạy người là cung kính và tôn trọng. Từ chỗ biết cung kính pháp bảo, chúng ta mới biết cung kính và tôn trọng sự sống của mọi người, mọi loài chúng sanh, nhờ có cung kính và tôn trọng sự sống của tất cả chúng sanh, chúng ta mới không tham lam trộm cắp lấy của không cho của người khác; mới không giết hại người và loài vật; mới không ăn thịt chúng sanh. Nhờ có đạo đức chúng ta mới biết xa lìa lòng ham muốn ích kỷ, nhỏ mọn và các ác pháp; biết lìa xa lòng ham muốn ích kỷ nhỏ mọn và các ác pháp thì chúng ta mới ly dục ly ác pháp, tức là chúng ta đã thể hiện từ đạo đức vệ sinh đến đạo đức tôn trọng và cung kính, gom lại những đức hạnh này, chính là để thực hiện lòng từ, bi, hỷ, xả của mình mà Đức Phật đã dạy trong kinh “Tứ Vô Lượng Tâm”. Nhờ biết cách thức tu tập đạo đức Tứ Vô Lượng Tâm như vậy chúng ta đã nhập Sơ Thiền một cách dễ dàng không mấy khó khăn.

Nhập Sơ Thiền tức là tâm chúng ta không phóng dật; tâm không phóng dật tức là tâm giải thoát; tâm giải thoát tức là tâm đoạn lìa sanh y; tâm đoạn lìa sanh y tức là tâm có minh; tâm có minh thì ưu bi sầu khổ bệnh tật và chết đều chấm dứt. Bây giờ thế giới đau khổ tiêu diệt và thế giới an vui, hạnh phúc hiện tiền với mọi người trên hành tinh này.

Bởi từ giới luật chúng ta đã thông hiểu, nó là một đạo đức giải thoát không làm khổ mình khổ người; nó là pháp môn đầu tiên của Đạo Phật để thực hiện mục đích đạo đức làm người và làm Thánh Nhân; nó là phương tiện để nhắm thẳng vào mục tiêu của Đạo Phật mà chúng ta, những tu sĩ Đạo Phật, phải thành tựu viên mãn Đạo giải thoát; nó chính là phương cách để thực hiện mục đích giải thoát của Đạo Phật là “Bất động tâm định”.

Giới thứ bảy mươi tám: KHÔNG NÊN XỈA RĂNG TRÊN GIẢNG ĐƯỜNG

Miệng dùng để ăn, để nói, nhưng nó cũng là nơi bất tịnh thường bốc mùi hôi thúi, vì nó thường tiếp nhận thực phẩm, khi thực phẩm dính ở kẽ răng sinh ra mùi hôi khó chịu, nếu không xúc miệng và xỉa răng thì sẽ sanh ra bất tịnh, khiến cho mọi người xung quanh tiếp duyên với mình lấy làm khó chịu.

Vì cung kính, tôn trọng pháp bảo và mọi người, nên ở nơi giảng đường người tu sĩ Phật Giáo không được xỉa răng, vì xỉa răng sẽ làm mùi hôi trong miệng bay vào nơi thuyết pháp, khiến bầu không khí nơi đó không trong sạch, bất tịnh nơi mà mọi người tập trung đông đảo để nghe pháp.

Vấn đề xỉa răng là một vấn đề phụ, nhưng đạo đức vệ sinh và phép lịch sự về vệ sinh mới là vấn đề chính. Về vấn đề vệ sinh không cho phép chúng ta làm tất cả hành động mất vệ sinh ở chỗ đông người. Cho nên việc vệ sinh đúng cách là phải ở nơi kín đáo, dù là việc xỉa răng cũng phải vào phòng tắm hoặc phòng riêng hoặc thất riêng của mình, không được ở chỗ đông người, nơi công cộng.

Làm vệ sinh miệng tức là xúc miệng, xỉa răng thì phải có nơi, có chốn của nó, không được đụng đâu xỉa răng hay xúc miệng ở đó, vì miệng là nơi bất tịnh như trên đã nói.

Thường người ta giữ vệ sinh miệng không đúng nơi, đúng chỗ, ngồi trong bàn ăn khi ăn xong người ta lấy tăm xỉa răng tại bàn ăn, giữa đám đông người, làm vệ sinh miệng như vậy là thiếu đạo đức về phép lịch sự vệ sinh, trông cử chỉ xỉa răng quá thô lỗ, có người khi xỉa răng lại còn phun cặn bả thực phẩm hoặc cơm trong miệng, trông rất là bẩn thỉu nơi ăn uống, nơi tiếp khách; có người lấy tay che miệng để xỉa răng nhưng trông cũng không đẹp mắt lắm, vì đã làm mất vệ sinh nơi ăn, chỗ uống và chỗ đông người. Đối với Đạo Phật, người xỉa răng nơi trang trọng tôn nghiêm thuyết pháp, nơi thờ Phật, nơi bàn ăn, nơi tiếp khách, là người làm mất vẽ thẩm mỹ, vì làm vệ sinh miệng không đúng chỗ, người ta trông thấy đánh giá trị người này thiếu đức hạnh lịch sự về vệ sinh.

Giới cấm xỉa răng nơi giảng đường, chúng ta nên suy rộng ra thì mới thấy ý nghĩa của giới luật này. Nó dạy cho người đệ tử của Phật về đức hạnh cung kính, tôn trọng, lịch sự và vệ sinh làm người. Vì làm người phải học những đức hạnh này để đối xử với nhau không làm khổ mình khổ người, thì mới là con người, còn ngược lại là thú vật.

Nếu không tu theo Đạo Phật thì thôi, mà đã tu theo Đạo phật thì tất cả những giới luật dạy về đạo đức làm người, làm Thánh Nhân thì chúng ta hãy cố gắng rèn luyện, trau dồi, tu tập, để ngày ngày chúng ta tìm thấy sự giải thoát thực tế, cụ thể trong kiếp sống làm người.

Giới thứ bảy mươi chín: KHÔNG NÊN XỈA RĂNG DƯỚI GIẢNG ĐƯỜNG

Giới này cũng giống như giới bảy mươi tám. Nó có khác là ở phía trước giảng đường. Dù ở phía nào chúng ta cũng không nên xỉa răng, vì xỉa răng ở gần giảng đường như vậy là không tốt, thiếu vệ sinh nơi tập trung nghe pháp của mọi người, như bài giới luật ở trên đã dạy. Đức hạnh vệ sinh là một đức hạnh làm người cao quý nhất, giúp cho môi trường sống thanh tịnh, trong sạch mà mọi người đang sống. Người sống có đạo đức biết giữ gìn vệ sinh là người có đức hạnh không gây hậu quả bịnh tật cho bao nhiêu người khác; người có đức hạnh vệ sinh là người tốt trong xã hội không làm khổ cho ai; người có đức hạnh vệ sinh là người sống sạch sẽ và ngăn nắp không những cho mình và cho người khác, nên tục ngữ có câu: “Đói cho sạch rách cho thơm”, đó là lời dạy về đức hạnh vệ sinh của ông cha chúng ta từ xa xưa còn truyền lại để nhắc nhở con cháu sau này phải sống có đạo đức vệ sinh.

Vì thế, người xỉa răng mà không ý tứ, không biết nơi, chỗ kín đáo, xỉa răng giữa chỗ đông người, giữa nơi chỗ lưu trử pháp bảo, giữa nơi chỗ nói pháp, giữa nơi chỗ tôn kính thờ phụng Tổ tiên, chư Phật, v.v... là người không có đạo đức. Người ta nghĩ rằng mùi hôi thúi trong miệng bay vào trong không khí có thấm vào đâu vì không ai nghe mùi hôi thúi cả, nhưng chúng ta phải biết nó vẫn làm bầu không khí ô nhiễm trong khi mọi người đang hít thở xung quanh. Một hạt muối bỏ vào một lu nước to, chúng ta không thấy mùi mặn nhưng trong nước vẫn có chất muối. Môi trường sống bị ô nhiễm, nếu chúng ta không giữ gìn đạo đức vệ sinh, tuy rằng không nghe mùi hôi thúi, nhưng bầu không khí vẫn ô nhiễm và mọi người sẽ dễ bị bịnh tật, tuy không thấy hôi thúi, nhưng sẽ là một tai họa thật sự cho con người.

Một chuyện nhỏ như xỉa răng mà không giữ gìn ý tứ đạo đức vệ sinh thì những việc lớn làm mất vệ sinh khác như: khạc, nhổ, đờm dãi, tiêu tiểu và xả rác thì sẽ không từ bỏ chỗ nào cả. Chúng ta sẽ trở thành những con thú vật bẩn thỉu.

Hành động đạo đức nhỏ như việc giữ gìn vệ sinh xỉa răng mà không ngăn chận được thì những hành động đạo đức vệ sinh lớn hơn làm sao ngăn chận được dễ dàng.

Trong giới luật, Phật đã từng dạy: “Đừng xem thường những lỗi nhỏ nhặt, nó sẽ thành những lỗi lớn”, nếu ta không biết giữ gìn, ngăn chận và sửa sai những lỗi lầm nhỏ nhặt ấy, chính là chúng ta đã tự làm khổ mình khổ người. Nếu lỗi nhỏ nhặt mà không sửa được, thì lỗi lớn hơn làm sao sửa được và nếu lâu ngày không sửa lỗi được thì sẽ đưa đến tai họa bất an cho mình và cho người khác.

Cho nên, việc vệ sinh xỉa răng tuy nhỏ mọn mà giữ gìn không được thì việc vệ sinh lớn làm sao giữ được? Muốn giữ được thì đừng xem những việc làm thiếu vệ sinh nhỏ nhặt như: Ném rác ra đường, nơi công cộng, hoặc khạc, nhổ ngoài đường, hè phố trong nước hồ, ao, sông, rạch, hoặc ném rác qua nhà người khác, hoặc ném rác vào những nơi công cộng, hoặc ném rác vào những bụi cây, lùm cây, lề đường. Cách thức làm như vậy đều là hành động thiếu đạo đức vệ sinh, làm bẩn môi trường sống chung của nhau. Hiện giờ đi đến đâu chúng ta đều trông thấy giấy, bọc ni lông, lon, rác rến dơ bẩn bỏ khắp cùng, nhất là hai bên lề đường, chỗ nào có đông người ở thì lại càng dơ bẩn hơn, nhìn khắp cùng từ nông thôn đến thành phố, không có chỗ nào giữ vệ sinh được sạch sẽ.

Giới thứ tám mươi: KHÔNG NÊN XỈA RĂNG XUNG QUANH GIẢNG ĐƯỜNG

Phàm xỉa răng ở chỗ khuất, chứ không được ở chỗ đông người, đó là oai nghi tế hạnh của một vị tỳ kheo tăng, tỳ kheo ni và các cư sĩ; đó là đạo đức lịch sự mà mọi người đều phải thực hiện để giữ gìn vệ sinh chung.

Nếu con người không giữ đức hạnh vệ sinh thì chẳng khác nào là con thú vật. Chúng ta là những người muốn thoát ra khỏi bản chất loài thú vật thì phải học đạo đức làm người, đạo đức vệ sinh, đạo đức lịch sự, đạo đức cung kính, đó là những thứ đạo đức rất cần thiết cho cuộc sống của mọi người vì đạo đức này không làm ô uế và nhơ bẩn môi trường sống chung của tất cả chúng sanh trên hành tinh này, không riêng cho loài người mà tất cả loài động vật.

Dù có che miệng xỉa răng đi nữa, cũng chỉ là một hành động thiếu đạo đức, mùi hôi trong miệng sẽ bay ra khiến mọi người xung quanh khó chịu, thấy cử chỉ xỉa răng trong bàn ăn là đã thấy biết thiếu đức hạnh đạo đức lịch sự và vệ sinh.

Ở đây, chúng ta cần phải học và thực hiện đức hạnh vệ sinh thì trước tiên chúng ta phải học đạo đức tôn trọng và cung kính pháp bảo, tức là những lời vàng ngọc của Phật như trên đã dạy. Nhờ có học như vậy, từ đức hạnh cung kính, tôn trọng đến đức hạnh lịch sự và vệ sinh, chúng ta mới giữ gìn môi trường sống trong sạch không những xung quanh nơi giảng đường mà mọi người thường đến nghe pháp, mà cả một bầu không khí trên hành tinh này được thanh tịnh, trong sạch và an lành.

Xỉa răng trước mặt mọi người là một hành động thiếu đạo đức lịch sự và vệ sinh, chúng ta cần phải ghi nhớ và luôn luôn lúc nào cũng trau dồi sửa sai những lỗi lầm này, để xứng đáng làm người, làm đệ tử của Phật.

Giới thứ tám mươi mốt: KHÔNG NÊN HỈ KHẠC DƯỚI GIẢNG ĐƯỜNG

Nước mũi, đờm và nước miếng tuy ở trong miệng, mũi của chúng ta, nhưng lại rất bất tịnh, khi hỉ, khạc, nhổ ra ngoài, mũi hôi thúi của nó cũng làm cho mọi người khó chịu, khi nghe tiếng hỉ, khạc, nhổ khiến chúng ta rất là ghê tởm, nên khi khạc, hỉ, nhổ phải có nơi, có chỗ kín đáo, không được hỉ, khạc, nhổ trước mặt mọi người, đó là một hành động thiếu đạo đức cung kính, lịch sự và vệ sinh.

Giảng đường là nơi tập trung đông người để nghe pháp, nếu chúng ta hỉ, khạc, nhổ phía dưới giảng đường là một việc làm hết sức mất vệ sinh, khiến cho môi trường sống chung ô nhiễm. Trong nước mũi, đờm, nước miếng của chúng ta có rất nhiều vi trùng, khi khô bốc lên thành bụi, bụi ấy có vi trùng các bịnh truyền nhiễm xâm nhập vào cơ thể người khác bằng đường hô hấp, gây ra nhiều thứ bịnh nan y, khiến cho mọi người đau khổ. Từ hành động thiếu đạo đức vệ sinh đưa đến hành động thiếu đạo đức nhân quả làm khổ mình khổ người.

Cho nên hành động thiếu đạo đức vệ sinh và hành động thiếu đạo đức nhân quả chỉ là một; hành động đạo đức thiếu vệ sinh được xem là hành động ác trong đạo đức nhân quả, nó luôn luôn được loại trừ. Những điều này chúng ta cần phải học cho kỹ, để thấu suốt lý đạo đức nhân quả mà không còn lầm lạc.

Đức Phật dạy không được hỉ, khạc, nhổ dưới giảng đường có nghĩa không được hỉ, khạc, nhổ phía dưới chỗ đông người. Hỉ, khạc nhổ như vậy làm mất vệ sinh chung khiến mọi người bị lây bịnh truyền nhiễm, tức là mình đã gieo nhân ác gây đau khổ cho người.

Hiện giờ mọi người vô tình sống thiếu đạo đức vệ sinh, đã gây nên biết bao nhiêu sự hao tiền, tốn của và đau khổ cho người khác, nhưng chẳng hề có ai lưu ý và quan tâm đến để hiểu biết bao nỗi thống khổ của kiếp làm người. Bao nỗi thống khổ này tạo ra chính là con người, phần nhiều không học và không hiểu đạo đức, nên do ăn ở thiếu đức hạnh vệ sinh.

Giới thứ tám mươi hai: KHÔNG NÊN HỈ KHẠC TRƯỚC GIẢNG ĐƯỜNG

Khạc, hỉ, nhổ bừa bãi là những hành động thiếu đạo đức vệ sinh làm mất lịch sự của con người, gây môi trường ô nhiễm xung quanh. Người lịch sự không bao giờ có những hành động thiếu đạo đức như vậy, khi khạc, hỉ, nhổ rất dè dặt, cẩn thận và ý tứ có nơi, có chỗ hẳn hòi.

Vì muốn giữ vệ sinh chung cho mình và cho mọi người, nên khi khạc, hỉ, nhổ phải có nơi, có chỗ kín đáo và tránh truyền nhiễm bịnh cho người khác. Vì lợi ích chung, nói đến khạc, hỉ, nhổ, người tu sĩ Phật giáo phải dè dặt, cẩn thận không được đụng đâu, bạ đó khạc, hỉ, nhổ ngoài đường, bên hè phố, sông, rạch, hồ, ao, nơi có đông người ở, v.v... phải tránh xa những nơi đó khi muốn khạc, hỉ, nhổ.

Khạc, hỉ, nhổ là một hành động mà có hai việc xảy ra cần phải cẩn thận, không khéo léo sẽ trở thành người mất đạo đức vệ sinh và lịch sự.

1- Không giữ gìn hỉ, khạc, nhổ bậy bạ sẽ trở thành người thiếu đức hạnh vệ sinh.

2- Không khéo léo giữ gìn hỉ, khạc, nhổ bậy bạ sẽ trở thành người thiếu đạo đức lịch sự.

Là con người cần phải có những hành động lịch sự đối xử với nhau một cách rất thành thật, đừng khéo lịch sự bên ngoài mặt mà bên trong đầy thủ đoạn và đầy lòng nham hiễm, đó là những hành động lịch sự giả dối thiếu đạo đức. Có nhiều cách lịch sự giả dối như sau:

1- Giữ gìn những hành động vệ sinh trước mặt mọi người khi hỷ, khạc, nhổ chỗ kín đáo, khiến cho mọi người không ghê tởm, nhưng khi không có ai thì hỉ, khạc, nhổ bừa bãi, đó là đạo đức vệ sinh giả.

2- Không đúng mà dùng lời khen tặng nịnh bợ là một hành động lịch sự nhưng thiếu đạo đức chân thật.

3- Dùng lời nói xấu ác kẻ khác là hành động thiếu đạo đức lịch sự mà còn là hành động ác.

Từ hành động khạc, hỉ, nhổ trước giảng đường, ta suy rộng ra để thấy được những điều Đức Phật đã dạy: “Đạo Đức và Lịch Sự”.

Con người thời đại hiện đại hóa cuộc sống mà chúng ta gọi là văn minh. Kể ra thời đại chúng ta là thời đại khoa học hiện đại thì lẽ ra đạo đức của chúng ta phải hơn đạo đức trong thời Đức Phật. Thế mà đạo đức của chúng ta hiện giờ không bằng đạo đức của thời Đức Phật ngày xưa.

Đến bây giờ thời đại văn minh, khoa học tiến triển, chúng ta mới nhận thấy được thảm họa môi truờng sống ô nhiễm, nên toàn thế giới người ta kêu gọi con người trên hành tinh này hãy giữ gìn vệ sinh môi trường sống, thì rõ ràng giới luật của Phật ngày xưa đã dạy đạo đức vệ sinh môi trường sống vượt không gian và thời gian, đến bây giờ còn phù hợp và đúng lúc để quân bình đạo đức và khoa học, khiến cho loài người không bị hủy diệt bởi nền kinh tế khoa học hiện đại.

Giới thứ tám mươi ba: KHÔNG NÊN HỈ, KHẠC, NHỔ XUNG QUANH GIẢNG ĐƯỜNG

Hán ngữ; chữ “thế” chỉ cho cái nhớt ở trong lỗ mũi; chữ “thé” chỉ cho đàm ở trong miệng; chữ “để”, chỉ cho nước mắt trong con mắt.

Những loại nước này là những loại nước bất tịnh trong thân, khi bài tiết ra ngoài tỏa ra mùi hôi thúi. Vì lòng tôn trọng và cung kính pháp bảo ta không nên hỉ, khạc, nhổ gần nơi giảng đường.

Giới này dạy về đức hạnh vệ sinh như các giới khác ở trên, nhưng ở đây chỉ sự vệ sinh tổng quát hơn, danh từ “xung quanh” giảng đường là chỉ cho nơi tập họp nhiều người, nghĩa là chỗ nào có đông người thì không được hỉ, khạc, nhổ. Giống như các giới trên đã dạy, chỗ nào đông người mà hỉ, khạc, nhổ là một hành động thiếu đạo đức lịch sự thứ nhất; chỗ nào đông người mà hỉ, khạc, nhổ là thiếu đạo đức vệ sinh thứ hai. Tất cả những hành động trên đây đều do thiếu lòng cung kính và tôn trọng mọi người mà ra.

Một giới luật mà dạy chúng ta rất nhiều đức hạnh làm người, nếu chúng ta thực hiện như trong giới luật đã dạy thì chúng ta là những người có đạo đức, có đạo đức thì chúng ta mới thoát khỏi những bản chất của loài cầm thú. Loài cầm thú không thể nào có những hành động lịch sự, vệ sinh, cung kính và tôn trọng lẫn nhau như chúng ta được. Cho nên muốn ra khỏi bản chất loài cầm thú chúng ta nên cố gắng giữ gìn những đức hạnh này, để chúng ta là con người xứng đáng thật là con người. Làm con người có đạo đức mới xứng đáng làm con người, con người có đạo đức làm người rồi mới tiến lên tu học đạo đức làm bậc Thánh Nhân. Con người thiếu đạo đức mà muốn làm Thánh, Phật, Tiên thì làm sao được? Con người không đạo đức thì chỉ có làm Quỷ Vương, Ma Vương, Quỷ La Sát và ác thú mà thôi.

Nói đến Thánh, Phật, Tiên là phải nói đến đạo đức và đức hạnh, chứ không phải nói đến Thánh, Phật, Tiên là nói đến thần thông phép tắc siêu việt, cũng không phải nói đến sở học có cấp bằng cao, và cũng không phải nói đến thiền định sâu mầu, ngồi thiền nhập định đôi ba ngày.

Người đời thường lầm tưởng kẻ nào có thần thông phép tắc, ngồi thiền nhập định năm bảy ngày, hoặc một, hai tháng là Phật, Thánh, Tiên, người ta quên rằng Phật, Thánh, Tiên ngoài thần thông phép tắc siêu việt, ngồi thiền nhập định năm bảy ngày, một tháng hoặc 2, 3 tháng, còn có những hành động đạo đức, đức hạnh hơn cả Trời, Người. Nhưng thần thông phép tắc không phải là những điều đáng cho chúng ta quan tâm, nó chỉ là trò ảo thuật của bọn Ma Vương thường dùng để lừa đảo và lường gạt mọi người.

Dưới đây là một câu chuyện mà các nhà Đại Thừa dùng để nhiếp phục và lừa đảo người theo tôn giáo của mình bằng thần thông.

Trong kinh sách Đại Thừa có một câu chuyện tiền thân Đức Phật. Khi Ngài đang ngồi thiền dưới cội cây, có một nhà vua đi săn và đuổi theo một con nai, con nai chạy núp sau lưng Đức Phật. Nhà vua đuổi đến hỏi: “Ông ngồi tu hành ở đây có thấy con nai chạy ngang qua không?”

Đức Phật làm thinh, nhà vua hỏi ba lần mà không thấy Đức Phật trả lời, nên tức giận nhà vua chặt hai cánh tay và khoét mắt Đức Phật. Khi hành động tàng bạo và hung ác xong, nhà vua hả cơn giận mới hỏi Đức Phật: “Tôi đã chặt tay và khoét mắt ông, ông có giận hờn, thù ghét tôi không?” Đức Phật đáp: “Tôi chẳng có thù oán, giận hờn nhà vua, nếu tôi có giận hờn, thù oán nhà vua thì mắt, tay của tôi sẽ không dính liền lại được nữa, còn nếu không giận hờn, thù oán thì mắt tay tôi sẽ liền lại như xưa”. Ngay khi lời nói của Đức Phật xong thì mắt tay của Ngài đều liền lại như không bị thương tích gì cả. Lúc bây giờ nhà vua quá kinh sợ, quỳ phục dưới chân Phật xin sám hối.

Đó là một hành động nhiếp phục người theo giáo pháp mình bằng thần thông. Nhà vua chỉ bái phục Đức Phật ở thần thông chớ không bái phục ở đức hạnh của Ngài.

Nhiếp phục người khác bằng thần thông là vô đạo đức, cũng như người mạnh dùng sức để uy hiếp người yếu, người yếu khuất phục nhưng trong lòng không chân thật khuất phục.

Luận về đạo đức như câu chuyện trên, hành động làm thinh của Đức Phật là một hành động thiếu đạo đức mà còn có vẻ ngạo mạn, khinh rẻ người khác, ỷ mình có thần thông. Không trả lời người khác tức là không có đạo đức, vô lễ đối với người khác, cũng chính vô lễ đối với mình. Đạo đức làm người không cho phép chúng ta vô lễ như vậy.

Còn bảo rằng cần phải dùng thần thông để nhiếp phục nhà vua thì thần thông chỉ là một trò ảo thuật làm cho người ta khiếp sợ hơn là dạy người ta trở nên một người tốt, một người có đạo đức. Nhiều khi dùng thần thông dạy người ta những điều làm ác như câu chuyện trên, Đức Phật đã dạy nhà vua làm điều ác (chặt tay khoét mắt).

Cho nên câu chuyện Đức Phật và nhà vua ở trên tu hạnh nhẫn nhục, tu hạnh nhẫn nhục như vậy tức là nhẫn nhục phi đạo đức, nhẫn nhục tạo cho người khác làm điều ác (chặt tay khoét mắt). Đạo đức nhân quả của Đức Phật không chấp nhận sự nhẫn nhục đó, nhẫn nhục đó làm khổ mình khổ người, không đúng giới luật đức hạnh và đạo đức nhân quả của Đức Phật.

Giới thứ tám mươi bốn: KHÔNG NÊN NGỒI NGAY CHÂN TRƯỚC GIẢNG ĐƯỜNG

Nơi nghe pháp là nơi tôn nghiêm và cũng là nơi đông người qua lại, nên đi, đứng, nằm, ngồi phải nghiêm chỉnh, phải đi, đứng, ngồi, nằm đúng cách, không thể ngồi duỗi chân trước giảng đường, ngồi như thế làm mất vẻ oai nghi tế hạnh của người tu sĩ, ngồi như vậy người ta sẽ đánh giá trị vị tỳ kheo thô tháo, thiếu đức hạnh tư cách ngồi, người có đạo đức không thể ngồi như vậy, người thông suốt đạo đức giới luật Phật sẽ đánh giá tư cách ngồi kiểu duỗi chân và tréo chân là cách ngồi phách lối, làm tàng như bọn côn đồ, mất dạy.

Giới luật này Phật dạy đạo đức về tư cách ngồi cho đúng cách của một người có đạo đức. Người có đạo đức là người phải có tư cách từ đi, đứng, nằm, ngồi cho đến cách ăn uống đều phải đúng tư cách đạo đức của một con người, nếu không như vậy là người thiếu giáo dục đạo đức. Ở đời người ta dễ nhận xét qua cách thức hành động đi, đứng, nằm, ngồi mà đánh giá trị người có đạo đức hay không có. Cho nên làm người chúng ta hãy giữ gìn bốn oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi nghiêm trang, tề chỉnh để người hiểu biết đạo đức không chê được.

Ngồi duỗi chân trước điện thờ Phật, nơi bàn thờ Tổ, Tiên, Ông, Bà, nơi giảng đường, nơi Tháp Phật, đều là không đúng tư cách đạo đức làm người, ngồi duỗi chân trước chỗ đông người thì cũng không đúng tư cách, ngồi duỗi chân chỉ được ở riêng trong thất của mình khi thư giãn lúc hành thiền, hoặc làm những công việc mệt nhọc.

Tư cách đạo đức làm người chỉ có học tập và còn phải trau dồi mỗi hành động cho thành thói quen, nếu không rèn luyện, trau dồi cho thuần thục thì bản chất lóc nhóc của loài cầm thú vẫn còn trong ta sẽ bộc hiện một cách dễ dàng.

Ở đời người ta luôn huân thêm những hành động thiếu đạo đức, mà Đức Phật gọi đó là những hành động ác pháp. Chính vì những hành động ác pháp đó mà chúng ta đã tự làm khổ mình khổ người. Và cũng chính những hành động ác đó là những hành động thiếu đạo đức, thiếu tư cách làm người, nên thường mang đến tai ương, hoạn họa, bất hạnh, bất toại nguyện cho chúng ta, mà suốt đời phải gánh chịu những hậu quả do chính mình tạo ra.

Cho nên trong kinh giới, Phật thường nhắc đi nhắc lại mãi những hành động đạo đức cung kính, tôn trọng, lễ độ, lịch sự, vệ sinh và những tư cách đi, đứng, nằm, ngồi nghiêm trang, tề chỉnh của một con người có đạo đức.

Giới này dạy về tư cách ngồi cho đúng tư cách của một người tu sĩ có đạo hạnh, xứng đáng là đệ tử của Đức Phật. Vậy Tăng, Ni và quý cư sĩ hãy trau dồi tu tạp, rèn luyện thân tâm để không phụ lòng Đức Phật và làm gương sáng cho tín đồ soi.

Giới thứ tám mươi lăm: KHÔNG NÊN ĐỂ PHÁP BẢO Ở PHÒNG HẠ, MÌNH Ở PHÒNG THƯỢNG

THƯỢNG PHÒNG CÓ HAI THỨ:

1- Chỗ ở cao sang gọi là bậc thượng, tầng thượng.

2- Chỗ ở tốt đẹp gọi là bậc thượng, chỗ sang trọng.

HẠ PHÒNG CÓ HAI THỨ:

1- Chỗ ở thấp hèn gọi là bậc hạ, tầng hạ, tầng trệt.

2- Chỗ ở thô xấu gọi là bậc hạ, chỗ ở tồi tệ, bẩn thỉu, ổ chuột.

Giới này cũng dạy chúng ta biết tỏ lòng cung kính và tôn trọng pháp bảo, tức là những lời Phật dạy, cần phải để nơi tốt đẹp, sang trọng không được để nơi thấp hèn thô xấu.

Theo giới này suy ra chúng ta biết giới này không đúng là Đức Phật chế, vì thời Đức Phật không có kết tập kinh sách thì làm sao có kinh sách để ở thượng phòng, hạ phòng. Giới này do các Tổ biên soạn chế ra ,vì lúc bấy giờ thời các Tổ đã có kinh sách, nên các Tổ phải chế thêm để tăng, ni và cư sĩ tôn trọng và cung kính pháp bảo của Phật cũng như kinh sách của các Tổ viết soạn.

Các Tổ chế ra giới luật này dạy chúng ta tỏ lòng cung kính và tôn trọng pháp bảo, đó là một đức hạnh cần phải có không riêng cho tu sĩ tăng và ni, mà cho tất cả những người cư sĩ đều phải học cung kính và tôn trọng pháp bảo. Như các giới trên đã dạy; có cung kính và tôn trọng pháp bảo thì mới có cung kính và tôn trọng mọi người; có cung kính và tôn trọng mọi người thì mới không làm khổ mình khổ người; có không làm khổ mình khổ người tức là có đạo đức nhân quả; có đạo đức nhân quả thì mới giữ gìn giới luật Phật nghiêm chỉnh; có giữ gìn giới luật Phật nghiêm chỉnh thì mới xứng đáng là đệ tử của Đức Phật.

Kinh sách là lời dạy quý báu của Phật, vậy mà có nhiều người đọc kinh sách của Phật lại quăng ném vào những chỗ không xứng đáng, ném vào kệ tủ đựng nhiều thứ linh tinh hoặc ném trong một cái kệ đựng đầy những vật bất tịnh, nhơ bẩn không thanh khiết.

Tại chùa Thanh Sơn ở Động Hương Đài, bộ kinh Trung Bộ và bộ giới luật Như Thích được ném trong một đáy kệ đựng hương rất bẩn thỉu, còn bộ kinh Trung Bộ thì bìa kinh nhăn nhíu, bẩn thỉu, thật ra người ta xem kinh sách Phật chẳng khác nào như những sách tiểu thuyết xã hội tình cảm ngoài đời, kinh sách Phật giống như những cuốn sách giải trí mua vui trong những lúc nhàn rỗi.

Người biết cung kính và tôn trọng lời dạy của Đức Phật thì kinh sách phải được đặt trong tủ ngay ngắn và trang nghiêm sạch sẽ, kinh sách phải được chọn nơi xứng đáng, chỗ tốt đẹp và sang trọng nhất trong nhà để giữ gìn và bảo quản, có như vậy mới gọi là tôn trọng và cung kính lời dạy của Đức Phật.

Có cung kính tôn trọng lời Phật dạy thì mới gieo duyên với Phật Pháp, bằng không gieo như vậy, kinh sách Phật sẽ mai một, và duyên với Phật Pháp sẽ không bao giờ gặp chánh pháp của Phật, thường sanh ra làm người nhiều đời kiếp luôn gặp tà pháp ngoại đạo, thì mãi mãi phải chịu trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi và không bao giờ thoát khổ. Bởi do lòng không cung kính và tôn trọng pháp bảo nên mới gặp tà pháp như vậy, tu mãi mà chẳng ra gì.

Có cung kính và tôn trọng Pháp bảo tức là gieo duyên với Phật Pháp, nếu đời này chúng ta tu chưa xong và sẽ tiếp tục đến đời sau đều gặp lại chánh pháp của Phật, cho đến khi nào tu xong, tức là làm chủ sanh tử và luân hồi không còn tái sanh lại đời này nữa thì mới thôi. Từ kiếp này sang kiếp khác không bao giờ lạc vào tà pháp.

Tăng, ni và cư sĩ phải cung kính và tôn trọng Pháp bảo. Vì lời Phật đã kết tập thành kinh sách, nhất là bốn bộ kinh Nguyên Thủy Nikaya, quý vị phải giữ gìn cẩn thận và giữ gìn kỹ lưỡng, để nơi cao ráo, đừng đút nhét dưới gầm giường, đừng nằm ngủ trên kinh sách mà mất duyên với Phật Pháp hãy đặt kinh sách nơi cung kính cao và tốt đẹp .

Lòng cung kính và tôn trọng kinh sách bao nhiêu thì duyên Phật Pháp sẽ đến với chúng ta tốt đẹp nhiều bấy nhiêu.

Trên đường tu tập giải thoát theo Phật Giáo không có khó khăn và mệt nhọc, chỉ vì chúng ta thiếu đạo đức làm người, làm Thánh Nhân, nên sự tu hành mới khó khăn và mệt nhọc nhất là tu sai pháp.

Bởi vậy, giới luật là đạo đức giải thoát, nếu ai không tu tập theo lộ trình này mà tìm đường giải thoát thì đó là mơ mộng mà thôi. Người không tu đạo đức giới luật mà tu thiền định thì đó là thiền tà giáo ngoại đạo, chứ chẳng phải thiền định của Đạo Phật. Dù cho tu muôn kiếp chẳng bao giờ tìm thấy sự giải thoát được. Cho nên quý vị tu sĩ cũng như cư sĩ phải nhớ kỹ tam vô lậu học: “GIỚI, ĐỊNH, TUỆ” là pháp môn duy nhất của Đạo Phật. Ngoài giới, định, tuệ không còn có pháp môn nào tu hành giải thoát, làm chủ sanh, già, bịnh, chết được.

CHƯƠNG IX: ĐI ĐƯỜNG ĐÚNG PHÁP

Có 2 giới

(Giới thứ 93 và giới thứ 95)

Giới thứ chín mươi ba: KHÔNG NÊN NẮM TAY ĐI NGOÀI ĐƯỜNG

Trên đường đi, hai Thầy tỳ kheo không được nắm tay đi song song, đi như vậy giống như người ngoài đời, làm cản trở sự đi lại của người khác, dù có bạn bè, thâm tình, thân mến cũng không nên vừa đi song song vừa nói chuyện với nhau, đó là hành động đi đường không đúng đạo đức tư cách làm người.

Đi ngoài đường hai người đi song song nhau có thể dễ dàng gây tai nạn giao thông, cản trở sự đi lại của những người khác, không những làm khổ cho mình mà còn làm khổ cho nhiều người khác nữa.

Đi ngoài đường người nào đi trước là đi trước, và người đi sau thì phải đi sau, không được vượt qua mặt, không được đi song song hoặc vừa đi vừa nắm tay nhau, đi như vậy làm cản trở sự lưu thông người qua kẻ lại, có khi gây ra tai nạn làm ùn tắc cả một đoạn đường. Người làm cản trở sự lưu thông là người thiếu đạo đức nhân quả, thường làm khổ mình và khổ bao nhiêu người khác.

Đạo đức nhân quả không cho phép chúng ta đi song song nhau trên đường, đi như vậy dễ gây ra tai nạn lưu thông, làm ùn tắc đường đi khiến cho mọi người và cũng chính mình chịu khổ đau. Đối với đạo đức nhân quả của Đạo Phật, kẻ nào làm một hành động khiến cho người khác khó chịu, khổ nhọc, đau đớn, bịnh tật hoặc gây ra tai nạn làm bị thương tích gẫy tay, gẫy chân, v.v... cũng như có những kẻ nào nói hoặc làm một hành động thiếu lịch sự, thô lỗ, khiến cho người khác bất mãn, tức giận, khó chịu, đó cũng là người thiếu đạo đức làm người.

Bởi, một hành động không có đạo đức, khi trên đường lưu thông bị ùn tắc mà cứ chen lấn tiến lên, gây ra ùn tắc lại còn ùn tắc hơn, đó là những người thiếu giáo dục đạo đức, tự làm khổ mình và khổ người, nhất là những người cảnh sát giữ gìn trật tự lưu thông lại phải quá vất vả và khổ nhọc, để giải tỏa những người vô đạo đức cứ chen lấn làm cho càng lúc càng nghẽn lối đi hơn.

Người đi đường hay vượt qua mặt nhau bằng xe hay đi bộ, và đi không đúng luật lệ giao thông, thường gây ra tai nạn làm chết người, làm cản trở sự lưu thông, đó là những người vô đạo đức. Người vô đạo đức giống như một bầy bò đi trên đường, chen lấn làm ùn tắc một đoạn đường khiến cho không ai đi qua lại được, rất là khổ sở, chỉ còn nhờ người chăn bò dùng roi gậy đánh vẹt chúng qua một bên. Người đi đường mà không có đạo đức về lưu thông để cảnh sát giao thông đuổi dẹp thì có khác chi đàn bò kia.

Lái xe hoặc đi bộ không đúng luật đi đường thường gây tạo ra án mạng lưu thông, đem đến cho mình khổ người khác khổ, đó là người vô đạo đức.

Đối với đạo đức của Đạo Phật, người đi đường hoặc lái xe phải chấp hành nghiêm chỉnh luật giao thông đường bộ cũng như đường thủy, không được đi sai luật, vì đi sai luật là người vô đạo đức sẽ làm khổ mình khổ người.

Người ta soạn thảo ra luật giao thông, nhưng người ta không dạy đạo đức giao thông, thì dù có một đội cảnh sát ngày đêm canh gác mọi trục lộ giao thông, nhưng người ta vẫn đi trái phép giao thông như thường.

Nếu không giáo dục đạo đức lưu thông, thì dù có dùng mọi biện pháp phạt vạ, người ta vẫn phạm luật lệ giao thông, như thường bằng chứng hiện giờ trên các đường phố trong đô thành và mọi thị xã, v.v...

Cho nên giới luật Phật dạy cách thức đi đường phải nghiêm trang tề chỉnh, không được đi song song, vượt qua mặt, hoặc chen lấn khi đường bị ùn tắc, đó là một đạo đức giao thông mà người đệ tử của Đức Phật phải nghiêm chỉnh thi hành không được vi phạm, để xứng đáng làm người và không phụ lời dạy bảo của Ngài.

Giới thứ chín mươi lăm: KHÔNG NÊN TÚI ĐỰNG BÁT XỎ ĐẦU GẬY QUẢY TRÊN VAI ĐI

Người tu sĩ Đạo Phật là người học tập, tu sửa rèn luyện đạo hạnh buông xả tất cả, chỉ còn ba y một bát và một vài vật dụng cần thiết cho đời sống du tăng khất sĩ, nên lúc nào cũng phải gọn gàng, bát và đồ vật dụng cần thiết đều phải đặt trọn trong túi bát, ngoài vấn y thượng phủ kín, nên trông rất gọn gàng, không bề bộn, thì có của cải đâu lại quảy xách, mang, v.v...

Người tu sĩ đi đâu cũng mang xách quá nhiều là không đúng đạo hạnh của một vị tỳ kheo Đạo Phật. Đồ đạc quá nhiều không đúng đức hạnh buông xả, đi đâu cũng làm vướng bận nhọc nhằn khổ sở, sao gọi là giải thoát? Đời sống của một du tăng khất sĩ bị trói buộc bởi những đồ vật (hữu tham kiết sử), thì du tăng khất sĩ làm chi cho mệt, thà làm trụ thế tăng như các vị tỳ kheo Đại Thừa, dính mắc thì cho dính mắc luôn, để thực hiện một nghề sống trao đổi bằng cách cúng bái, tụng, niệm, thuyết giảng, làm bùa, niệm chú trị bịnh, v.v...

Người đời đi đâu thì quảy mang cồng kềnh trên vai, người tu sĩ chỉ mang một túi đựng bát, y và đồ vật dụng hằng ngày như kim chỉ, tọa cụ, bột giặt, dầu gió ngừa nắng mưa, v.v...

Túi đựng bát mà xỏ đầu gậy mang đi thì trông giống như người thế tục, cho nên hình ảnh một tu sĩ quảy bát đi, trông mất vẻ đạo hạnh, khiến người hiểu biết khinh chê.

Đời sống một vị tỳ kheo đệ tử Phật, phải thiểu dục tri túc nên rất gọn gàng, giản dị, đơn thuần, khi ở cũng như khi đi. Đời sống thiểu dục, tri túc chỉ có ba y, một bát mà thôi, đó là đời sống của những bậc Thánh Tăng. Đời sống của những bậc Thánh Tăng không thể người phàm phu thường tình mà sống được; đời sống buông xả; đời sống không dính mắc; đời sống ly dục ly ác pháp; đời sống như vậy mới gọi là đời sống đạo hạnh của bậc chơn tu giải thoát.

Lấy gậy xỏ túi bát mang đi là một hành động không đúng đạo hạnh của người tu sĩ Đạo Phật, cần nên tu sửa trở lại cho đúng. Nếu buông xả được thì buông xả cho thật sạch, để thực hiện cho đúng đời sống của một vị tỳ kheo đệ tử Phật, bằng không buông xả được thì nên sống đời sống cư sĩ còn tốt hơn, chứ đừng làm hình tướng tu sĩ mà có của cải tài sản quá nhiều, thì không thể nào gọi đó là tu sĩ Đạo Phật.

CHƯƠNG X: KHÔNG NÊN TRÈO CÂY

Có 2 giới

(Giới thứ 60 và giới thứ 94)

Giới thứ sáu mươi: KHÔNG NÊN NGỦ NGHỈ TRONG GIẢNG ĐƯỜNG, TRỪ NGƯỜI GIỮ GÌN

Người tu sĩ Đạo Phật, tuy sống không nhà cửa, không nơi chỗ, nhưng ngủ nghỉ phải biết nơi, biết chốn, chỗ nào ngủ nghỉ được và chỗ nào không ngủ nghỉ được.

Những chỗ không ngủ nghỉ được là Đền thờ, Nhà thờ, Thánh thất, Thiền đường, Giảng đường, Tháp Phật, Điện thờ Phật, Thánh, Tiên, Thần, v.v... và nhà tiếp khách.

Mặc dù, Đình, Miếu thờ các vị Thần, các bà Chúa, những chỗ đó là chỗ tôn nghiêm thờ phụng của người dân địa phương còn mê tín. Chúng ta là những tu sĩ Phật Giáo được Đức Phật dạy và xác định cho biết không có thế giới siêu hình, bằng những chứng minh cụ thể, nhờ đó chúng ta không còn sống trong mê tín, trừu tượng, ảo giác, v.v... Tuy không tin Thần, Ma, Quỷ và thế giới siêu hình, nhưng chúng ta không được quyền xô dẹp sự mê tín của người khác hoặc trèo lên nơi thờ tự của họ nằm ngủ một cách ngang bướng, hành động như vậy chạm vào lòng tín ngưỡng của người khác, khiến cho họ tức giận và căm ghét, thù oán Đạo Phật.

Phá Táo Đọa là tên của một vị thiền sư Đông Độ, Ngài phá sự mê tín của dân gian tại địa phương đó bằng cách bịa đặt ra câu chuyện huyền thoại, để nâng cao giá trị Thiền Tông lên: “Sau khi đập phá nơi thờ tự của một vị thần linh đang được mọi người dân trong vùng đó tín ngưỡng, thường dâng hương, cúng bái, tấp nập. Khi bị phá cốt tượng thì vị thần đó đến tạ ơn, vì nhờ Thiền Sư mới được đi tái sanh”.

Vì những câu chuyện huyền thoại đập phá sự mê tín dân gian, nên có một số tu sĩ Phật Giáo Đại Thừa, có những hàng động ngang nhiên vào các đền thờ Thần hoặc bà Chúa, trèo lên bệ thờ nằm ngủ nghỉ, đó là những hành động vô đạo đức.

Ví dụ: Như chúng ta là những tín đồ Phật Giáo, nếu có người ngang nhiên trèo lên bàn thờ Phật nằm ngủ thì chúng ta đối xử như thế nào? Chúng ta có tức giận không? Chúng ta có lôi người đó xuống đập không? Xưa vua Lưu Ly còn bé trèo lên chỗ Phật thuyết giảng ngồi chơi còn bị giòng họ Thích Ca lôi xuống cho một trận nên thân, và cũng từ đó trở thành một hận thù diệt giòng họ Thích.

Bởi, làm cho người khác căm tức, thù oán, tức giận, hờn ghét, v.v... nhất là người có quyền thế thì lại tai hại cho mình như giòng họ Thích Ca. Chỗ tín ngưỡng của họ chúng ta không nên ngủ nghỉ nơi đó, vì ngủ nghỉ nơi đó sẽ làm mất sự tôn nghiêm thờ tự; làm mất sự tôn nghiêm thờ tự của người khác là người thiếu đạo đức, làm cho người khác tạo ra ác nghiệp.

Giới luật Phật dạy chúng ta không được ngủ nghỉ trong giảng đường, nơi giảng dạy đạo đức và giáo pháp, nơi tôn nghiêm pháp âm của Phật luôn vang dậy nơi đó, nơi cung kính và tôn trọng của các đệ tử Phật.

Chúng ta biết cung kính và tôn trọng nơi giảng đường tôn nghiêm của chúng ta thì tại sao ta lại không cung kính nơi thờ tự của các tín ngưỡng khác, nếu như vậy chúng ta chưa phải là người học đạo đức của đạo Phật. Cho nên học đạo đức của Đạo Phật là phải thể hiện hành động đạo đức cung kính và tôn trọng đối với tất cả mọi tín ngưỡng.

Biết cung kính và tôn trọng mọi tín ngưỡng, nhưng không có nghĩa là chấp nhận, chấp nhận những cái đúng và không chấp nhận những cái sai. Cái sai đưa đến cho con người chịu mọi khổ đau thì phải nói ra cho rõ để mọi người tránh xa; cái lừa đảo, gian xảo, lường gạt phải nói thật ra chỉ thẳng để mọi người không bị kẻ khác lừa đảo, lường gạt, v.v...

Nói thẳng, nói thật cũng là đạo đức làm người; nói thẳng, nói thật không có nghĩa là ghét người; nói thẳng, nói thật, nói đúng đạo đức nhân quả, chứ không nói xuyên tạc, nói xấu, nói xéo cá nhân người nào hết thì mới là đạo đức. Xưa Đức Phật nói thẳng, nói thật sáu mươi hai luận thuyết của ngoại đạo là không đúng thiện pháp đạo đức nhân quả, thường lừa đảo và lường gạt những người để sống tạo danh, tạo lợi bằng mọi thủ thuật, luận thuyết khéo léo, khôn ngoan, quỷ quyệt, v.v... đã làm cho một ngàn thế giới chấn động.

Giới thứ chín mươi bốn: KHÔNG NÊN TRÈO CÂY QUÁ ĐẦU, TRỪ KHI CÓ NHÂN DUYÊN

Người tu sĩ Phật Giáo leo trèo làm mất vẻ oai nghi tế hạnh; làm mất vẻ trầm lặng; làm mất dáng điềm đạm, nhẹ nhàng khoan thai, vv...

Trong giới này Phật cấm không được trèo cây, ở trên cây. Vậy mà có một vị thiền sư tên là Ô Sào làm thất trên cây, sống toạ thiền đều ở trên cây, mỗi lần lên xuống là phải trèo leo thật là một điều kỳ đặc của thiền tông.

Ngược lại, Đức Phật dạy lúc nào cũng phải ý tứ nhẹ nhàng, khoan thai không được leo trèo, nhảy nhót, lúc nào cũng phòng hộ sáu căn, giữ gìn oai nghi tế hạnh trầm lặng, chậm rãi, ung dung, tự tại, vv...

Tu sĩ mà trèo cây giống như loài khỉ vượn thì trông rất dị kỳ. Đức hạnh của người tu không cho phép người tu sĩ trèo cây không có thang.

Muốn trèo cây người tu sĩ cần phải bắc thang, nếu không có thang mà trèo cây thì giống như loài thú vật. Cho nên trèo leo không phải là hành động của người tu sĩ, người tu sĩ trèo cây hái những quả là không đúng tư cách, tại sao vậy?

Người tu sĩ chỉ có đi xin ăn, có đâu lại có cây trái mà phải trèo hái, nếu cây trái của chùa có thì thiếu gì người cư sĩ họ sẽ trèo hái. Hành động trèo cây hái trái là không đúng tư cách của người tu sĩ, nhất là tu sĩ Đạo Phật thì lại còn không nên trèo leo, cần nên tránh. Nếu đã chấp nhận là vị tỳ kheo thì không nên leo trèo, leo trèo người hiểu biết sẽ khinh chê người tu không đúng cách, nhất là phạm vào giới luật của Phật.

CHƯƠNG XI: BẢY PHÁP NGĂN CHẶN RẦY RÀ

LỜI GIỚI THIỆU

 

Đây là bảy pháp diệt trách, xưa các Tổ rút ra từ trong giới kinh để diệt trừ dứt khoát mọi việc xảy ra giữa chúng tăng:

Bảy pháp diệt trách này có công năng và mục đích giải quyết bốn cách rầy rà thường xảy trong chúng tăng như sau:

1- Lời nói rầy rà.

2- Tìm lỗi rầy rà.

3- Phạm tội rầy rà.

4- Việc rầy rà.

  • Sao gọi là lời nói rầy rà? Tỳ kheo với tỳ kheo tranh luận hơn thua sanh ra rầy rà, nói to tiếng với nhau (pháp, phi pháp).

  • Sao gọi là tìm tội rầy rà? Tỳ kheo này cùng tỳ kheo khác tìm tội gây ra ba sự việc:

1- Phá giới.

2- Phá chánh kiến.

3- Phá oai nghi. (thấy, nghe và nghi tội).

  • Sao gọi là phạm tội tướng rầy rà? Phạm tội tướng rầy rà có bảy thứ tội:

1- Ba la di.

2- Tăng tàng.

3- Ba dật đề.

4- Hối quá pháp.

5- Thâu lan giá.

6- Ác tác.

7- Ác thuyết.

  • Sao gọi là việc rầy rà? Việc rầy rà có hai:

1- Trong lời nói rầy rà kéo dài ra.

2- Trong việc tìm lỗi rầy rà, bươi móc ra.

Chú thích: Thân phạm gọi là ác tác; khẩu phạm gọi là ác thuyết.

Vậy bảy pháp ngăn chận rầy rà là gì? Bảy pháp ngăn chận rầy rà là bảy pháp ngăn chận để giải quyết sự tranh chấp của chúng tỳ kheo, phải như pháp, như luật, như lời Phật dạy, để diệt trừ lời tranh cãi đó. Việc tranh chấp gồm có bốn loại:

1- Ngôn trách.

2- Mích trách.

3- Phạm trách.

4- Sự trách.

Bốn sự tranh chấp này đã được dịch sang Việt ngữ từ trong Hán Tạng, để được mọi người Việt Nam nghiên cứu dễ dàng qua Việt ngữ.

Bảy pháp diệt trách này, một vị trụ trì cần phải học tập, biết cho rõ ràng, để hướng dẫn mọi người đang tu hành dưới quyền lãnh đạo của mình, nếu có những sự việc rầy rà xảy ra, nhờ đó biết cách giải quyết và phân xử trong tập thể chúng tăng, để tạo cuộc sống tăng đoàn hòa hợp, khiến cho mọi người càng tin tưởng Phật Pháp hơn.

Nếu một vị trụ trì mà không thông bảy pháp ngăn chận này thì khó mà lãnh đạo tập thể chúng tăng được, và không bao giờ có sự hòa hợp trong tăng đoàn.

Bảy pháp này rất quan trọng cho tăng đoàn, nó có tầm vóc quyết định và xử lý chúng tăng có tu tập hay không tu tập được, có hòa hợp hay không hòa hợp, có đạo đức hay không có đạo đức đều là nhờ ở bảy pháp này.

Vậy những ai là người đang và sắp sửa lãnh chúng thì phải thông suốt bảy pháp này và còn phải giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh, nếu giới luật chưa nghiêm chỉnh mà lãnh chúng, thì coi chừng sẽ bất an trong chúng và điều khiển chúng không được.

Đừng tưởng lãnh chúng tu học là dễ dàng, mà phải có một kỷ luật rõ ràng sắc bén, kèm theo với sự cương quyết mạnh mẽ khi cần thiết, không được để tình cảm xen vào lúc áp dụng kỷ luật với những tu sĩ thiếu đạo đức và không cải hối những lỗi lầm.

Bởi làm một vị lãnh đạo chúng không đơn giản, nếu không thông và không sống đúng giới luật thì cũng khó điều khiển chúng tu học tốt, và trong chúng có nhiều điều phức tạp xảy ra khiến cho phật tử và người ngoài đời khinh chê Phật Pháp, đó là một điều tội lỗi hết sức. Vậy các vị làm trụ trì hãy đề cao cảnh giác để làm tốt Phật Giáo.

Kính ghi

Trưởng Lão Thích Thông Lạc

Ngày 16-9-1999

 

PHÁP THỨ 1: HIỆN TIỀN DIỆT TRÁCH

Pháp này giải quyết hiện tiền bằng giới luật. Sao gọi là hiện tiền?

Hiện tiền có nghĩa là đưa giới luật ra giữa hai bên để phán xét dứt rầy rà:

1- Pháp

2- Luật

3- Người

4- Tăng

5- Giới

- Sao gọi là pháp hiện tiền? Dẫn chứng giáo pháp và lời dạy của Đức Phật để dứt sự rầy rà.

- Sao gọi là giới luật hiện tiền? Dẫn chứng giới luật được thọ trì để dứt sự rầy rà.

- Sao gọi là người hiện tiền? Là hai bên tranh chấp chống đối nhau.

- Sao gọi là tăng hiện tiền? Là chúng tăng hòa hợp làm pháp yết ma dứt sự rầy rà. Tùy theo sự rầy rà mà sử dụng các pháp trên đây để giải quyết dứt trừ rầy rà.

Luận Ma Đắc Lặc Già dạy: có mười pháp vắng mặt được làm pháp yết ma:

1- Đậy bát.

2- Mở bát (bị người thế tục mắng chê trách tỳ kheo).

3- Học gia.

4- Xả học gia (đồng giải như trong pháp hối quá).

5- Sửa thất ở.

6- Đuổi sa di ác kiến.

7- Cuồng si (điên loạn trí).

8- Không lễ bái, không đến gần.

9- Không nói chuyện, không thưa hỏi.

10- Không cúng dường.

(Khi một tỳ kheo làm một sự sai quấy xúc não tỳ kheo ni, không bắt tội trị ngay trước mặt được, phải trị bằng cách:

1- Không đến gần, không lễ bái.

2- Không thưa hỏi.

3- Không cúng dường)

Pháp thứ nhất ngăn chận sự rầy rà mà trong giới luật này đã dạy ở trên, thì đây là pháp giải quyết sự rầy rà, chứ không phải là pháp ngăn chận sự rầy rà.

Trong giáo pháp của Đạo Phật có năm pháp ngăn chận sự rầy rà rất cụ thể và rõ ràng:

1- Pháp thứ nhất ngăn chận sự rầy rà là pháp “Tứ Chánh Cần” (ngăn ác diệt ác).

2- Pháp thứ hai ngăn chận sự rầy rà là “Giới luật”. Người giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh thì không bao giờ có sự rầy rà.

3- Pháp thứ ba ngăn chận sự rầy rà là “Đạo đức nhân quả” không làm khổ mình khổ người, thấy các pháp bằng thiện pháp, đừng thấy các pháp bằng ác pháp.

4- Pháp thứ tư ngăn chận sự rầy rà là pháp “Lục hòa”, pháp lục hòa gồm có:

  1. Thân hòa đồng trụ.

  2. Khẩu hòa vô tranh.

  3. Ý hòa đồng duyệt.

  4. Giới hòa đồng tu,

  5. Kiến hòa đồng giải.

  6. Lợi hòa đồng quân.

Pháp thứ năm ngăn chận sự rầy rà tốt nhất là pháp “Độc cư”. Độc cư là pháp sống trầm lặng, là pháp sống một mình không tiếp duyên với ai cả, nên không có sự rầy rà. Do sống độc cư không bao giờ có phe nhóm tranh luận hơn thua. Mọi người ai cũng biết bổn phận mình phải siêng năng tu tập để cứu mình thoát khỏi ác pháp, nên không có thì giờ ở không, lấy đâu có sự rầy rà.

Trên đây là năm pháp ngăn chận sự rầy rà trong hiện tại rất hữu hiệu. Người làm Viện chủ, Viện Trưởng, Trụ trì đều phải lấy năm pháp này học tập thông suốt và huấn luyện tăng, ni và cư sĩ để mang lại sự hòa hợp an vui trong chúng đệ tử Phật rất dễ dàng không có chướng ngại. Đó là kinh nghiệm bản thân của chúng tôi khi lãnh chúng.

PHÁP THỨ II: ỨC NIỆM DIỆT TRÁCH

Sao gọi là ức niệm tỳ ni? Nghĩa là pháp này không cử tội, cũng không được khiến vị tỳ kheo đó nhớ lại tội mình, vì sự tranh chấp đã được chấm dứt theo pháp phân giải, sau này nếu ai moi móc ra sẽ phạm tội đọa.

Ức niệm diệt có nghĩa là đừng nhớ lại những lỗi lầm của người khác, hãy bỏ qua, không nhớ lại, không bươi móc nhắc lại chuyện cũ.

Người bươi móc lại chuyện lỗi lầm của người khác là người xấu, là người thiếu đạo đức làm người không tốt.

Người bươi móc hay nhắc lại chuyện lỗi lầm của kẻ khác có mục đích nói xấu, bêu xấu người khác, làm cho mọi người đều biết cái xấu của kẻ kia, đó là người ác đức, người vô đạo đức. Đem chuyện xấu của người khác ra bêu rếu là người ác đức, người hèn hạ, người đê tiện.

Ngoài đời người nào moi móc chuyện xấu của kẻ khác là người xấu, người thiếu đạo đức làm người, người không hiểu đạo đức nhân quả, không học đạo đức nhân quả nên thường tạo khẩu nghiệp tội lỗi, bươi móc chuyện lỗi lầm của kẻ khác là một ác quỷ chớ không phải là con người.

Người mới tu theo Đạo Phật tuy là một cư sĩ, còn không nên bươi móc chuyện xấu của kẻ khác huống chúng ta là tu sĩ (tăng, ni), mà lại bươi móc những lỗi lầm đã qua của các vị tăng, ni khác sao? Nếu bươi móc như vậy thì làm sao chúng ta xứng đáng là đệ tử Phật.

Cho nên tăng ni là đệ tử xuất gia của Đức Phật thì phải luôn luôn giữ gìn đức hạnh của pháp ức niệm diệt trách này, để không bươi móc chuyện xấu của người khác mới xứng đáng là đệ tử của Phật.

Ở đây, là pháp dạy chúng ta không được bươi móc chuyện xấu của người khác để thực hiện những hành động đức hạnh cao quý của một vị tu sĩ.

Ức niệm diệt trách là một pháp môn dạy hành động khẩu nghiệp thiện, khiến cho mọi người cùng sống hòa hợp, an vui, thanh thản, tiến tu giải thoát.

Ức niệm diệt trách là một pháp môn dạy đạo đức về khẩu nghiệp cao quý làm người, để ngăn chận sự rầy rà xảy ra trong chúng tăng và chúng ni cũng như trong mọi tập thể khác.

Ức niệm diệt trách là một pháp môn dạy đạo đức giúp cho chúng tăng sống hòa hợp như nước với sữa, thường biết thương yêu nhau, trợ giúp nhau trong cảnh tu hành, cảm thông sự tu hành là khó.

Ức niệm diệt trách là một pháp môn dạy đạo đức về cách đối xử với mọi người tránh sự rầy rà, tạo nhiều thiện cảm, đem lại cho mọi người một cuộc sống an vui, thanh thản, một cuộc sống thánh thiện.

PHÁP THỨ III: BẤT SI DIỆT TRÁCH

Sao gọi là pháp tỳ ni bất si? Tỳ kheo phạm tội này đều không nên cử tội, cũng không nên làm pháp nhớ nghĩ, nếu việc rầy rà này đã giải quyết đúng như pháp dứt rồi, nếu ai còn bươi móc ra nữa thì phạm tội đọa như trên.

Bất si diệt trách có nghĩa là đừng nên ngu muội bươi móc lỗi lầm của kẻ khác và của mình ra, cái gì nó đã đi qua thì đừng nên nhắc lại nhớ nghĩ đến nó nữa, để tự làm khổ mình và khổ người mà chẳng ích lợi gì.

Bất si diệt trách là một pháp môn dạy đạo đức không ngu muội u mê đem bươi móc chuyện người này, người kia, hoặc nói xấu người này, người kia. Đó là sự ngu muội làm mất đạo đức của mình. Những kẻ ngu muội này đã tự làm khổ mình khổ người, tạo cho mình những nét nổi bật bất hạnh đau khổ.

Chỉ có những kẻ ngu si mới không nhận ra pháp bất si diệt trách; pháp bất si diệt trách là một pháp môn dạy chúng ta có đạo đức biết sống hòa hợp, không bao giờ tạo cảnh chia rẽ, ngang trái. Kẻ nào có ý đồ tạo cảnh chia rẽ là kẻ ngu si, tự tạo cho mình một cuộc sống bất an và còn làm cho tập thể tan nát.

Bất si diệt trách là pháp môn giúp chúng ta luôn luôn lúc nào cũng sống hòa hợp, đoàn kết, thân thương với mọi người, nó là một pháp môn cao quý nhất dùng để sống chung nhau trong mọi tập thể.

Người nào chẳng ngu si, thường hay ngăn chận sự rầy rà là những người khôn ngoan và có đạo đức nhất. Đạo đức trong việc đối xử với nhau, không tạo cảnh rầy rà. Cảnh rầy rà là cảnh Địa Ngục ở trần gian, nếu biết ngăn chận tức là mở cửa Thiên Đàng cùng sống. Cho nên đức hạnh ngăn chận sự rầy rà là đức hạnh khôn ngoan trong cuộc sống làm người.

Người nào luôn luôn tạo cảnh rầy rà là người bươi móc chuyện xấu tốt của người khác là người không được giáo dục đạo đức bất si diệt trách pháp, nên ở đâu cũng gây tạo ra cảnh chia rẽ, đó là là bọn Ma Vương, Ác Quy, chứ không phải là con người.

Người tu theo đạo Phật mà không học đạo đức bất si diệt trách là người chưa xứng đáng là đệ tử của Phật, dù là cư sĩ cũng nên học đạo đức ngăn chận sự rầy rà này, để tạo cảnh an vui hạnh phúc gia đình và xã hội.

PHÁP THỨ IV: TỰ NÓI DIỆT TRÁCH

Tự nói, nghĩa là tự mình phát lồ tội trạng để sám hối. Sao gọi là tự tri? Nghĩa là vị sám chủ nói: phải tự trách tâm mình, nên sanh nhàm chán xa lìa. Nếu việc tranh chấp đã dứt mà còn gợi lại bươi móc thì phạm tội đọa.

Để ngăn chận sự rầy rà đức Phật nói về pháp thứ tư. Tự nói diệt trách pháp là tự nói lỗi mình để cho sự rầy rà chấm dứt. Tự nói lỗi mình để cho sự rầy rà chấm dứt là một đức hạnh hòa hợp cao quý, giúp cho mọi người đoàn kết, thương yêu lẫn nhau trong đoàn thể.

Cho nên trong mọi tập thể nào, mọi người cũng cần phải học đức hạnh tự nói lỗi mình để ngăn chận sự chia rẽ bất hòa, không riêng cho tăng già (đoàn thể chúng tăng).

Đó là tinh thần đạo đức hòa hợp mà Đức Phật đã chỉ dạy cho tín đồ, không riêng cho tín đồ Phật giáo mà cho tất cả mọi người đều phải học, vì mọi người ai cũng sống trong một tập thể, dù nhỏ nhất là gia đình, lớn hơn một chút là xã hội, lớn hơn nữa là đất nước và thế giới.

Đức hạnh tự nói lỗi mình là một đạo đức đem lại sự hòa hợp an vui hạnh phúc cho mọi người, trong đó có mình. Vì thế mọi người cần phải học và tập luyện can đảm tự nói diệt trách pháp, để đem lại sự an vui hạnh phúc cho nhau.

Tự nói diệt trách pháp là một pháp môn dạy đạo đức cao quý tuyệt vời của con người đối với con người trong mọi gia đình, mọi tập thể, mọi xã hội, mọi đất nước và cả thế giới để đem lại sự an vui, thanh bình, đoàn kết, hòa hợp và đầy lòng thương yêu lẫn nhau, không phân biệt màu da, thứ tóc, không phân biệt chủng tộc, giai cấp. Có được như vậy thì cảnh thế gian này là Thiên Đàng, Cực Lạc, đâu cần phải tìm kiếm ở đâu xa.

PHÁP THỨ V: MÍCH TỘI DIỆT TRÁCH

Mích tội nghĩa là gì? Mích tội tướng có nghĩa là tội của tỳ kheo, trước kia đã được chúng tăng cử tội và tỳ kheo phạm tội cũng đã nhớ nghĩ thú tội rồi, nên sự tranh chấp đã dứt, sau này ai gợi lại đều phạm tội đọa (ba dật đề).

Mích tội diệt trách là một pháp môn dạy đạo đức làm người không được nhắc lại những lỗi lầm của người khác, khi việc đó đã được phán xét cử tội và đã thọ chịu sám hối lỗi lầm của mình xong.

Ở đời người ta thường hay nhắc đi nhắc lại chuyện cũ để tạo ra sự buồn khổ tức giận, phiền não, khiến cho mọi người bất an, lúc nào tâm hồn cũng không được thanh thản và an lạc.

Mích tội diệt trách là một đạo đức dạy làm người, vừa kín đáo về ngôn ngữ khiến để giữ gìn và bảo vệ tập thể, không cho người ngoài biết mọi việc xảy ra trong đoàn thể.

Người đã học được “mích tội diệt trách” là người vừa giữ được khẩu nghiệp thanh tịnh, nhưng cũng vừa giữ bí mật mọi việc, khiến cho người khác khó biết.

Người đã học được “mích tội diệt trách” là người có hành động đạo đức kín đáo, thầm lặng, khôn ngoan, không bao giờ bươi móc chuyện lỗi phải của người khác để đem đến sự bất an cho mình.

Người đã học được đạo đức “mích tội diệt trách” là người có một tâm hồn biết việc mình để sửa lỗi mình mà chẳng biết đến việc người, chẳng để ý đến việc người.

Vì biết đến việc người thì chẳng ích lợi gì cho mình mà còn khiến mình mất đạo đức làm người, trở thành người nhiều chuyện. Biết việc mình mà không biết việc người là người thông minh, khôn ngoan; là người có đầy đủ đạo đức làm người. Người biết việc của người khác là người nhiều chuyện, thường hay nói việc của người, là người không biết sống, là người thiếu đạo đức tự làm khổ mình, khổ người, là người ngu si nhất.

Người luôn luôn bươi móc chuyện của người khác là người thiếu giáo dục đạo đức làm người, thiếu học Phật pháp. Phật dạy: Biết việc mình chẳng nên biết việc người, biết việc mình để mình sửa sai những lỗi lầm của mình, còn biết việc của người đó là tâm phóng dật; tâm phóng dật là tâm ác pháp; tâm ác pháp là tâm đau khổ.

PHÁP THỨ VI: ĐA NHƠN NGỮ DIỆT TRÁCH

Nếu trong các thầy tỳ kheo hiện tiền có xảy ra việc rầy rà không giải quyết được, thì phải cần một vị tỳ kheo thông hiểu kinh luật bỏ thăm để dứt sự rầy rà. Người ấy thực hiện bầu cử bỏ thăm nhưng phải theo đúng như pháp “đa nhơn ngữ diệt trách”, tức là bầu cử bỏ thăm.

Trong cuộc rầy rà có năm hạng người không được bầu cử bỏ thăm:

1- Người thương.

2- Người giận.

3- Người sợ.

4- Người si.

5- Người không biết bỏ thăm cho ai, bỏ thăm rồi hay chưa.

Trên đây là năm hạng người không được bỏ thăm.

Dưới đây có ba cách bỏ thăm:

1- Bỏ thăm phải ở trước mặt mọi người.

2- Bỏ thăm phải được kín đáo không để cho người khác biết.

3- Kề tai nói nhỏ với người lãnh đạo về việc bỏ thăm.

Đa nhơn ngữ diệt trách là gì? Đa nhân ngữ diệt trách là cách thức bầu cử bỏ thăm lấy đa số để ngăn chận sự rầy rà, nhưng phải công bằng, bằng cách loại trừ năm hạng người đã kể ở trên không được bầu cử bỏ thăm. Ở đây có ba cách bầu cử bỏ thăm để nói lên sự công bằng trong những ý kiến trong sạch và đầy đủ đạo đức, không có lấy đa số để đè ép thiểu số. Đây là bầu lấy những ý kiến đa số trong tinh thần đạo đức, công bằng, để ngăn chận sự thiếu đoàn kết chia rẽ trong giáo đoàn Phật giáo.

Đa nhân ngữ diệt trách là một pháp môn bầu cử rất công bằng mà trong thời đức Phật đã đề ra. Khi bầu cử phải loại bỏ năm hạng người không được bỏ thăm. Như vậy trong thời đức Phật đã có những cuộc bầu cử trong công bằng mà hiện giờ chúng ta mới nhận ra ở thế kỷ bầu cử hiện tại của chúng ta.

Đọc qua “đa nhân ngữ diệt trách” chúng ta thấy được đạo đức bầu cử của Đạo Phật hết sức công bằng và bình đẳng, không thể có một xã hội hiện thời nào hơn được.

Đa nhơn ngữ diệt trách pháp là pháp môn dạy về đạo đức khi bầu cử phải như thế nào cho công bằng, và cho hợp lý với đạo đức làm người .

Học “đa nhân ngữ diệt trách” ta mới thấy được đạo đức của đạo Phật thật chu đáo mà không có một hành động đạo đức nào ở trên đời này mà Đức Phật bỏ xót.

Cho nên, đạo Phật dạy chúng ta đầy đủ những pháp môn tu hành làm chủ sự sống chết và chấm dứt luân hồi, nhưng còn trang bị cho chúng ta một đạo đức toàn thiện để biết cách đối xử với nhau, biến cảnh giới thế gian thành cảnh giới Thiên Đàng, Cực Lạc, v.v...

PHÁP THỨ VII: THẢO PHÚ ĐỊA DIỆT TRÁCH

Sao gọi là thảo phú địa diệt trách? Thảo phú địa nghĩa là không xưng nói danh tội, chủng tội, mà chỉ nói sám hối.

Nếu sự rầy rà đã diệt rồi, nếu ai sau này gợi lại phạm vào tội đọa (ba dật đề). Thảo phú địa có hai nghĩa:

1- Khi sự tranh chấp khởi lên, có một số đông người tranh chấp, và lôi cuốn theo cả chúng, xét về nguyên gốc của tội khó tìm ra manh mối, muốn để chấm dứt sự tranh chấp đó, Đức Phật cho phép theo kiểu trải cỏ che lấp, có nghĩa là khuyên lơn trong chúng nên bỏ đi để đem lại sự yên tĩnh tu hành là tốt hơn hết.

2- Có một vị thượng tọa đầy đủ đức hạnh trình bày lời nói hòa giải để dứt tranh chấp. Hai chúng phải đối diện nhau trải hết tâm can mà sám hối. Cả hai chúng đều lấy mục đích đức hạnh không làm khổ mình khổ người, để có sự hổ trợ hòa giải với nhau cho được tốt đẹp, lấy sự tu hành giải thoát làm chánh.

Sao gọi là pháp như cỏ che đất? Nghĩa là các thầy tỳ kheo tranh chấp với nhau vì hòa hợp đoàn kết, vì sự giải thoát thân tâm thanh thản và an lạc của nhau, vì ly dục, ly ác pháp, để tâm hồn được giải thoát có tầm, tứ, hỷ, lạc và nhất tâm.

Thảo phú địa diệt trách là pháp môn tùy thuận mọi hoàn cảnh, mọi đối tượng, mọi sự việc, nên không bao giờ có sự rầy rà xảy ra.

Tỳ Ni Mẫu Kinh nói: Nếu hai thầy tỳ kheo rầy rà, muốn trừ dứt tội đó thì hai người phải thành tâm đồng sám hối tội rầy rà, chứ đừng thấy mình phải mà người khác quấy, mà phải thấy có sự rầy rà do hai người gây tạo ra, nên phải tự mình cảm thấy xấu hổ đồng xin sám hối với nhau giống như cỏ phủ trên bùn, khiến cho mọi người đi qua khỏi lấm bùn, phải thành tâm hòa hợp sám hối phủ trên các ác pháp để được sanh các thiện pháp, sau rồi mới xin sám hối phạm tội.

Luật Nhiếp dạy: Nếu kia đây chia làm hai phe, cùng nhau so đo tranh chấp tri kiến của mình là đúng rồi ỷ thế cậy quyền sanh tâm khinh mạn với nhau. Lúc bấy giờ có một thầy tỳ kheo tài đức song toàn ở giữa hai phe được mọi chúng đều kính nể, đứng ra khuyên bảo dứt rầy rà cùng nhau phải sám tội, nói lời sám hối tội về tranh chấp. Mỗi bên đều lấy tâm khiêm hạ của mình, cung kính và tôn trọng lẫn nhau đừng chống đối nhau nữa, đó là dùng pháp như cỏ trải đất mà dứt trừ?

Nếu một thầy tỳ kheo nào có đủ hai mươi hai hạnh dưới đây là người xử đoán công minh và rất bình đẳng:

1- Sống giữ gìn nghiêm túc 250 giới.

2- Trí tuệ đa văn.

3- Phải hiểu thông tạng luận.

4- Phải hiểu thông tạng luật.

5- Không gây gổ tranh chấp với ai cả.

6- Cũng không kiên nể sự tranh chấp của ai hết.

7- Chuyện đáng quở trách thì quở trách, không tư vị.

8- Chuyện đáng dạy thì dạy, không vị tình kẻ nào cả.

9- Chuyện đáng diệt tẩn xuất thì diệt tẩn xuất, không tư vị.

10- Không thương bên này.

11- Không ghét bên kia.

12- Không sợ bên nọ.

13- Không si mê bên khác.

14- Không ăn đồ ẩm thực của phái bộ bên này.

15- Cũng chẳng thọ ẩm thực của phái bộ bên kia.

16- Không thọ y, bát, tọa cụ, ống kim và chỉ của phái bộ bên này.

17- Cũng chẳng thọ y, bát, tọa cụ, ống kim và chỉ của phái bộ bên kia.

18- Không cung cấp phái bộ bên này.

19- Cũng không cung cấp phái bộ bên kia.

20- Không ở chung với phái bộ bên này, cũng không cùng đi chung vào làng.

21- Cũng chẳng cùng chung ở với phái bộ bên kia và chẳng cùng đi chung vào làng.

22- Không hứa hẹn với bộ phái bên này và cũng chẳng đến bộ phái bên kia, đến sau thì ngồi sau, không chen lấn ngồi trước (không chấp trước địa vị).

Thảo phú địa diệt trách là một đức hạnh lấy cỏ che khuất để ngăn chận các nhân quả ác, xấu.

Thảo phú địa diệt trách là một pháp môn mang đầy đủ bản chất đạo đức của thân tâm từ, bi, hỷ, xả.

Nếu thiếu tâm từ, bì, hỷ, xả, thì không thành “thảo phú địa diệt trách”, thảo phú địa diệt trách chỉ còn là một cái tên suông, không có nghĩa lý gì cả.

Thảo phú địa diệt trách là một pháp môn rất cần thiết cho những người tu sĩ Đạo Phật (tỳ kheo tăng và tỳ kheo ni). Nếu ai đã học pháp thảo phú địa diệt trách thì dù ở bất cứ trong tập thể nào cũng đều được hòa hợp, đoàn kết và luôn luôn có những cuộc sống chung an vui và hạnh phúc.

Thảo phú địa diệt trách là một pháp môn mang đầy đủ bản chất đạo đức của đức hạnh tùy thuận, nhẫn nhục và bằng lòng trong mọi hoàn cảnh, mọi đối tượng, mọi sự việc, nếu nó không mang đầy đủ bản chất đạo đức đó thì “thảo phú địa” chỉ là một pháp môn mang danh từ hình thức rỗng tuếch, chẳng có nghĩa lý gì cả.

Tóm lại, bảy pháp ngăn chận sự rầy rà chia rẽ là bảy pháp dạy về đạo đức làm người rất cần cho sự sống chung trong những tạp thể như: gia đình, xã hội, giáo đoàn, tăng đoàn và tất cả mọi đoàn thể khác.

CHƯƠNG XII: BẢNG TÓM LƯỢC 250 GIỚI PATIMOKHA

TỔNG KẾT

Tóm lại hai trăm năm chục giới tỳ kheo tăng gồm có:

  1. Bốn pháp Ba La Di.

  2. Mười ba pháp tăng già bà thi sa (13 giới tăng tàng).

  3. Hai pháp bất định.

  4. Ba mươi pháp ni tát kỳ ba dật đề (30 giới xả đọa).

  5. Chín mươi pháp ba dật đề (90 giới đọa).

  6. Bốn pháp ba la đề xá ni.

  7. Một trăm pháp chúng học.

  8. Bảy pháp diệt trách (7 giới ngăn chận sự rầy rà).

Trên đây là tổng kết danh tội và chũng tội của từng giới, sau cùng thì nêu rõ và chỉ thẳng đức giới và hạnh giới làm người và đức giới, hạnh giới làm Thánh tăng để các vị tỳ kheo y cứ vào đó giữ gìn nghiêm túc không nên vi phạm và lấy đó cử tội phán quyết xét xử những vị tỳ kheo nào phạm giới, phân định rõ ràng, kết tội cụ thể để khuyến cáo, cảnh giác không để cho những kẻ sơ hữu học nào sau này khinh thường giới luật, phá phạm giới luật.

Vả lại giới luật là những pháp môn dạy đạo đức làm người, làm Thánh nhân rất cần thiết cho loài người để thoát ra khỏi bản chất loài cầm thú mà mỗi con người còn đang mang đầy thú tính hung ác và nham hiểm.

Muốn làm Thánh Tăng mà không học đạo đức giới luật, không sống đạo đức giới luật thì chẳng bao giờ làm Thánh Tăng được.

Nhìn một tu sĩ phạm giới, phá giới và bẻ vụn giới thì không thể nào gọi đó là Thánh Tăng được. Đó là bọn Ma Vương đội lốt tỳ kheo (tu sĩ Phật giáo) để làm hư hoại Phật pháp.

Cho nên, giới luật rất cần thiết cho những ai muốn làm người có đạo đức, cho những ai muốn làm bậc thánh hiền.

Giới luật cũng còn là một pháp môn dạy người tu tập trau dồi thân tâm để được giải thoát, đó là pháp môn vô lậu tuyệt vời của Đạo Phật.

Giới luật cũng còn là một pháp môn thiền định, do ly dục ly ác pháp nhập Sơ Thiền. Bởi vậy giới luật là một pháp môn có công năng rất lớn trong sự tu tập theo đạo Phật, để đạt được cứu cánh giải thoát đến chỗ rốt ráo chấm dứt luân hồi sanh tử.

Các vị tôn túc lãnh đạo giáo hội và các chùa phải lấy giới luật làm giềng mối vững chắc cho Phật Giáo để đào tạo tăng ni và cư sĩ có tài đức, tu tập hẳn hòi có đầy đủ oai nghi tế hạnh, không riêng cho tu sĩ mà những cư sĩ cũng phải có tài đức, tu tập hẳn hòi để được đầy đủ không hề sai sót. Có như vậy mới mong Phật giáo được trường tồn trong thế gian này, mới mong làm lợi ích cho con người, bằng một đạo đức nhân bản giải thoát không làm khổ mình khổ người. Nhờ thế cải biến đời sống con người trên hành tinh này thành cõi Thiên Đàng, Cực Lạc.

CHƯ PHẬT KHUYÊN TU GIỚI LUẬT

Tóm lược bộ kinh giới luật này bằng những bài kệ của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khuyên tu tập và giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh, để đạt được kết quả tâm vô lậu giải thoát.

Tất cả các pháp môn đều do giới mà đến. Pháp tam vô lậu học không tu thì Niết Bàn không có đường về. Giới Ba La Mộc Xoa Đề không giữ thì định, huệ không bao giờ nhận được, làm sao có thể vượt bộc lưu mà đến bờ giác ngộ.

Bởi người tu theo Đạo Phật mà xem thường giới luật, sống phóng dật, buông lung thì tu hành uổng công, làm sao tu đến chốn đến nơi được, chỉ uổng cho một đời tu hành chẳng ra gì và còn lãng phí cả một đời người chẳng làm lợi ích gì cho mình, cho người khác, vả lại còn trở thành một tên lừa đảo có sách vở.

Mỗi luật sư biên soạn các bộ giới luật xong, các Ngài đều có lời khuyên người sau khéo tu tập giới luật, sống đúng phạm hạnh, trước là thắp sáng ngọn đèn Phật pháp, sau là cứu mình ra khỏi ba đường khổ và sáu nẻo luân hồi.

NHỮNG BÀI KỆ KHUYÊN TU GIỚI LUẬT

NHẪN

Nhẫn; khổ hạnh bậc nhất

Niết Bàn: đạo tối thượng

Xuất gia: não hại người

Không xứng danh tỳ kheo

(Tứ Phần Luật Tỳ Kheo Ni Giới Bổn)

(Lược Ký trang 562)

 

GIỚI

Giới như người mắt sáng

Tránh khỏi lối hiểm nghèo

Bậc có trí trong đời

Dùng giới xa ác pháp

(Tứ Phần Luật Tỳ Kheo Ni Giới Bổn)

(Lược Ký trang 564)

 

GIỚI

Không báng bổ tật đố

Vâng hành các học giới

Ăn uống biết vừa đủ

Thường ưa chỗ nhàn tịnh

Tâm tịnh vui tinh tấn

Là lời chư Phật dạy

(Tứ Phần Luật Tỳ Kheo Ni Giới Bổn)

(Lược Ký trang 565)

GIỚI

Như ong đến tìm hoa

Không hại sắc và hương

Chỉ hút nhụy rồi đi

Vị tỳ kheo vào xóm

Không chống trái việc người

Người làm hay không làm

Chỉ xét hành vi mình

Đúng sai mình tự chữa

(Tứ Phần Luật Tỳ Kheo Ni Giới Bổn)

(Lược Ký trang 560)

 

GIỚI

Chớ để tâm buông lung

Hãy cần học thánh pháp

Như thế dứt ưu sầu

Tâm định nhập Niết Bàn

(Tứ Phần Luật Tỳ Kheo Ni giới bổn)

(Lược Ký trang 567)

 

GIỚI

Các pháp ác chớ làm

Vâng làm các pháp thiện

Tự lắng sạch tâm trí

Đây lời chư Phật dạy

(Tứ Phần Luật Tỳ Kheo Ni Giới Bổn)

(Lược Ký trang 567)

 

GIỚI

Khéo phòng hộ lời nói

Tâm trí tự lắng đọng

Thân không làm điều ác

Thực hành được như thế

Ba tịnh nghiệp đạo này

Là đạo Đấng Giác Ngộ

 

(Tứ Phần Luật Tỳ Kheo Ni Giới Bổn)

(Lược Ký trang 568)

 

 

HỘ GIỚI

Kẻ trí khéo hộ trì

Sẽ được ba điều vui

Danh thơm và an lạc

Sau khi chết thanh thản

Hãy quan sát điều này

Bậc trí siêng hộ giới

Giới tịnh sanh trí tuệ

Thành tựu đạo giải thoát

 

(Tứ Phần Luật Tỳ Kheo Ni Giới Bổn)

(Lược Ký trang 575)

 

 

 

KHUYẾN TU GIỚI

Như chư Phật quá khứ

Và chư Phật vị lai

Các Thế Tôn hiện tại

Đều chiến thắng khổ đau

Thảy đều tôn kính giới

Đây là thầy chư Phật

Nếu ai vì tự thân

Mong cầu nơi Phật Đạo

Hãy tôn trọng giới pháp

Đây lời chư Phật dạy

(Tứ Phần Luật Tỳ Kheo Ni Giới Bổn)

(Lược Ký trang 576)

 

KHUYẾN TU GIỚI

Các đấng Thế Tôn Phật

Diệt trừ mọi kiết sử

Thuyết bảy giới kinh này

Giải thoát các hệ phược

Các ngài đến niết bàn

Các hý luận vắng bặt

Các đệ tử tuân hành

Lời dạy đấng đại giác

Giới thánh hiền khen ngợi

Thảy đều nhập niết bàn

(Tứ Phần Luật Tỳ Kheo Ni Giới Bổn)

(Lược Ký trang 577)

 

GIỚI LÀ PHẬT TẠI THẾ

 

Thế tôn khi niết bàn

Vẫn khởi tâm đại bi

Họp các chúng tỳ kheo

Di giáo giới như vậy

Chớ nghĩ ta niết bàn

Không còn ai dẫn dắt

Kinh điển và giới luật

Những điều Ta dạy rõ

Hãy xem đó như Phật

Còn sống mãi thế gian

 

Dù ta nay niết bàn

Giới và kinh còn mãi

Thì Phật pháp thường còn

Do giữ gìn giới luật

Niết bàn được chứng nhập

Nếu không trì giới luật

Giới luật không nghiêm túc

Khác gì mặt trời lặn

Thế giới thành tối tăm

 

(Tứ Phần Luật Tỳ Kheo Ni Giới Bổn)

(Lược Ký trang 578)

 

 

CHƯƠNG XIII: GIỚI, ĐỊNH, TUỆ LÀ PHÁP MÔN GIẢI THOÁT ĐỆ NHÂT

TỨ THÁNH ĐỊNH

Biển pháp tuy rộng nhưng ba pháp này (giới định tuệ) thu hết ba đời chư Phật tùy căn cơ mà tu tập, lợi mình lợi người. Khi giới luật thanh tịnh thì cõi Sơ Thiền hiện bày có năm chi rõ ràng:

1- Tầm

2- Tứ

3- Hỷ

4- Lạc

5- Nhất tâm

Thiền định này do ly dục, ly ác pháp mà nhập được. Tâm do giới mà thanh tịnh, tâm thanh tịnh là nhờ tâm biết lìa lòng ham muốn và các ác pháp nên tâm có đủ lực đạo, do có đủ đạo lực nên tâm dẫn tâm tịnh chỉ khẩu hành, tức là diệt tầm tứ nhập Nhị Thiền, Nhị Thiền có bốn chi:

1- Nội tỉnh

2- Hỷ

3- Lạc

4- Nhất tâm

Hỷ lạc này do định sanh không phải do lìa lòng ham muốn mà có được, nhưng tâm không thanh tịnh thì chẳng bao giờ diệt tầm, tứ được, có nghĩa là không bao giờ nhập được Nhị Thiền.

Tâm do giới thanh tịnh nên có đủ đạo lực hướng tâm tịnh chỉ tưởng hành tức là lìa hỷ tưởng mà nhập Tam Thiền, Tam Thiền có năm chi hiện ra rõ ràng:

1- Xả

2- Niệm

3- Huệ

4- Lạc

5- Nhất tâm

Niệm hỷ lạc này do định mà có, không phải do ly dục như ở Sơ Thiền, nhưng thiếu tâm ly dục của sơ thiền thì niệm hỷ lạc của định này cũng chẳng có.

Tâm do giới thanh tịnh nên có đủ đạo lực hướng tâm tịnh chỉ thân hành, tức là tịnh chỉ hơi thở, nói như trong kinh là xả lạc, xả khổ (xả thọ) xả niệm thanh tịnh có 4 chi:

1- không khổ, không vui

2- Xả

3- Niệm

4- Nhất tâm

GIỚI, ĐỊNH, TUỆ

Giới, định và trí tuệ

Con đường hướng chánh giác

Ta tu tập hạnh ấy

Đạt được tối thắng tịnh

(Tương Ưng tập 1 trang 230)

Người tu sĩ đạo Phật (tỳ kheo tăng và tỳ kheo ni), không bỏ hiện tại và không chạy theo những gì bị thời gian chi phối. Các lòng ham muốn của chúng ta thường bị thời gian chi phối, nhiều khổ đau, nhiều phiền não, nhiều tai họa. Đời sống mọi người ở thế gian càng chịu nhiều đau khổ hơn nữa, là vì chạy theo thời gian quá khứ và vị lai, thường bỏ mất thời gian hiện tại. Còn pháp chúng ta tu hành theo đạo Phật thuộc về hiện tại, không bị thời gian chi phối, đến để mà thấy (chứng nghiệm), có khả năng hướng thượng (vượt thoát khổ đau), chỉ có người trí mới tự mình giác hiểu.

(Tương Ưng tập 1 trang 262)

NHẤT DẠ HIỀN

Quá khứ không truy tìm

Vị lai không ước vọng

Quá khứ đã qua rồi

Vị lai lại chưa đến

Chỉ có pháp hiện tại

Tuệ tri quán vô lậu”

Chú thích: pháp hiện tại là:

1- Chánh niệm tỉnh giác định

2- Định niệm hơi thở

3- Quán vô lậu hay là định vô lậu

Trong tương ưng kinh tập I trang 18 cũng dạy chúng ta tu tập với các định niệm hơi thở và định vô lậu.

Hiện tại an lạc định

Không tham việc đã qua

Không mong việc sắp tới

Sống ngay với hiện tại”

Đây là cách sống với hiện tại của Đức Phật khi còn tại thế, là một gương hạnh tu tập tỉnh thức trong hiện tại “an lạc định”, hay còn gọi là “bất động tâm định”, để thể hiện qua bài kệ “NHẤT DẠ HIỀN”.

Thế Tôn sau khi đã đi kinh hành ngoài trời một phần lớn của đêm, khi đêm đã gần màn. Ngài rửa chân bước vào tịnh xá và nằm xuống phía hông bên phải theo thế nằm của con sư tử, hai chân gác lên nhau, chánh niệm, tỉnh giác và nghỉ đến lúc thức dậy”.

(Tương Ưng tập I trang 238)

GIỚI LUẬT

Trong kinh Tương Ưng Đức Phật dạy: “Phải thường hằng sống trong giới luật, thì sẽ chấm dứt khổ đau và làm chủ sống chết”.

Luật

Ai sống trong giới luật

An trú không phóng dật

Đoạn tận cùng sống chết

Sẽ chấm dứt khổ đau

(Tương Ưng tập I trang 344)

Giới luật

Người tu hành giữ gìn giới luật nghiêm túc thì phải lưu ý đối xử với mọi người phải đúng giới luật, đúng các thiện pháp, tức là người không làm khổ mình khổ người.

Những ai bị phỉ báng

Trở lại phỉ báng người

Kẻ ấy làm khổ mình

Mà lại làm khổ người”

(Tương Ưng tập I trang 401)

KẺ CHIẾN THẮNG

Những ai bị phỉ báng

Không phỉ báng lại người

Người ấy đã thắng trận

Thắng mình và thắng người”

(Tương Ưng tập I trang 401)

KẺ THẮNG TRẬN

Kẻ ngu tưởng mình thắng

Khi nói lời ác ngữ

Ai biết chịu tham nhẫn

Kẻ ấy mới thắng trận”

(Tương Ưng tập I trang 401)

THOÁT TRẦN

Người trí trì giới luật

Tu tập tâm và tuệ

Nhiệt tâm và thận trọng

Tỳ kheo ấy thoát trần”

(Tương Ưng tập I trang 401)

BẬC GIẢI THOÁT

Ai sống ở đời này

Từ bỏ các phước báo

Đoạn trừ mọi ác pháp

Hành trì theo phạm hạnh

Sống đời sống chánh trí

Vị ấy bậc giải thoát”

(Tương Ưng tập I trang 401)

MỤC LỤC

MỤC LỤC

Lời nói đầu 5

I- CHƯƠNG VII: Thuyết pháp phải đúng nơi chỗ 24

1- Giới thứ năm mươi chín 25

2- Giới thứ bảy mươi bảy 27

3- Giới thứ tám mươi sáu 32

4- Giới thứ tám mươi bảy 37

5- Giới thứ tám mươi tám 41

6- Giới thứ tám mươi chín 43

7- Giới thứ chín mươi 48

8- Giới thứ chín mươi mốt 51

9- Giới thứ chín mươi hai 54

10- Giới thứ chín mươi sáu 58

11- Giới thứ chín mươi bảy 61

12- Giới thứ chín mươi tám 65

13- Giới thứ chín mươi chín 69

14- Giới thứ một trăm 74

II- CHƯƠNG VIII: Kính trọng nơi thuyết pháp 78

1- Giới thứ sáu mươi mốt 79

2- Giới thứ sáu mươi hai 84

3- Giới thứ sáu mươi ba 87

4- Giới thứ sáu mươi bốn 89

5- Giới thứ sáu mươi lăm 93

6- Giới thứ sáu mươi sáu 96

7- Giới thứ sáu mươi bảy 98

8- Giới thứ sáu mươi tám 102

9- Giới thứ sáu mươi chín 108

10- Giới thứ bảy mươi 112

11- Giới thứ bảy mươi mốt 115

12- Giới thứ bảy mươi hai 117

13- Giới thứ bảy mươi ba 120

14- Giới thứ bảy mươi tám 124

15- Giới thứ bảy mươi chín 126

16- Giới thứ tám mươi 129

17- Giới thứ tám mươi mốt 130

18- Giới thứ tám mươi hai 132

19- Giới thứ tám mươi ba 134

20- Giới thứ tám mươi bốn 137

21- Giới thứ tám mươi lăm 140

III- CHƯƠNG IX: Đi đường đúng pháp 144

1- Giới thứ chín mươi ba 145

2- Giới thứ chín mươi lăm 148

IV- CHƯƠNG X: Không nên trèo cây 150

1- Giới thứ sáu mươi 151

2- Giới thứ chín mươi bốn 154

V- CHƯƠNG XI: Bảy pháp ngăn chận sự rầy rà 156

1- Lời giới thiệu 157

2- Pháp thứ nhất 163

3- Pháp thứ hai 166

4- Pháp thứ ba 168

5- Pháp thứ tư 169

6- Pháp thứ năm 171

7- Pháp thứ sáu 173

8- Pháp thứ bảy 175

VI- Chương XII: Bảng tóm lược 250 giới Patimokha 179

1- Tổng kết 180

2- Chư Phật khuyên tu giới luật 182

3- Những kệ khuyên tu giới luật 183

VII- Chương XIII: Giới định, tuệ là pháp môn giải thoát đệ nhất 188

1- Tứ Thánh Định 189

2- Những kệ khuyên tu giới, định, tuệ 190

3- Mục lục 195

 

HẾT TẬP II

****


 

Xin mời quý vị tỳ kheo tăng, tỳ kheo ni và cư sĩ tiếp tục đọc Đường Về Xứ Phật tập IV, tập V và tập VI thì sẽ rõ thâm ý ác độc của Bà La Môn Giáo quyết tâm diệt sạch Phật Giáo trên hành tinh này.


PHẬT TỬ XIN ẤN TỐNG KINH

GIỚI ĐỨC LÀM NGƯỜI - TẬP II”

 


GIỚI ĐỨC LÀM NGƯỜI - TẬP II

Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC

.....................................................

NHÀ XUẤT BẢO TÔN GIÁO

53 Tràng Thi - Hoàn Kiếm - Hà Nội

ĐT: (04) 37822845 - Fax: (04) 37822841

Chịu trách nhiệm xuất bản:

Nguyễn Công Oánh

Biên tập: Trần Xuân Lý

Bìa & Trình bày: ……………….….…………………….……….

Sửa bản in: ……………………..……………………………

Đối tác liên kết:

TU VIỆN CHƠN NHƯ

Điệnthoại: 0979-520-554

(066) 3880178 - 3892911

Email: chonnhu.info@gmail.com


Số lượng in: 3.000 bản, khổ: 13 x 20,5 cm

In tại……………………………………………………………………………………………………….

....................................................................................

Số xuất bản: ………………..…...CXB…………....ngày………………….…

In xong và nộp lưu chiểu Quý III năm 2010