VẤN ĐẠO 10
ĐỊNH NIỆM HƠI THỞ BỔ TRỢ CÁC
PHÁP TU KHÁC
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Sư Tuệ Tĩnh và sư Phước Nhẫn
Thời lượng: [45:43]
Thời gian: 2002
Tên cũ: 05B-TinhThucVaDNHTBoTroChoCacPhapTuKhac
Pháp âm: https://thuvienchonnhu.net/audios/van-dao-10-dinh-niem-hoi-tho-bo-tro-cac-phap-tu-khac.mp3
(00:00) Không có cái vô ký quên đi cái hành động mình đang làm công việc đó. Thì cái Định Niệm Hơi Thở mà chúng ta hướng về cái hơi thở, hướng tâm về hơi thở để cũng là nhắc. Tức là cái pháp hướng này là pháp hướng nhắc tâm, để cho nó tỉnh thức ở trong cái hơi thở. Cái tâm chúng ta tỉnh thức mãi mà nó không bị mê hay hoặc là không bị có một cái niệm khác xen vô.
Cho nên thí dụ như, mình tu về tỉnh thức cái hơi thở của mình, thì cái pháp hướng, các thầy cũng nhớ rằng mình nhắc. Thí dụ như mình hít thở, năm mười hơi thở thì mình nhớ: “Tôi thở vô, tôi biết tôi thở vô, tôi thở ra, tôi biết tôi thở ra”. Tức là mình nhắc để cho mình biết mình thở vô, thở ra, thì đó là mình tập tỉnh thức. Tỉnh thức.
(0:39) Còn trái lại, cái Định Niệm Hơi Thở thì nó cũng bắt đầu từ cái tỉnh thức đó, nhưng nó còn có những cái khác nữa, chứ không phải có bấy nhiêu đó không. Cho nên ở đây, Thầy muốn nhắc lại về cái Định Niệm Hơi Thở là tại vì nó là một cái pháp môn trợ cho tất cả các pháp môn khác. Như Thầy có nói, nó là một cái trợ động từ, nó cũng giống như một cái trợ động từ của pháp ngữ, để mà chia tất cả những cái động từ khác.
Thì hôm nay, thì chúng ta thấy rằng trong cái hơi thở, cái Định Niệm Hơi Thở là cái Định Hơi Thở đó, nó là cái pháp để mà giúp chúng ta tu hành các pháp khác. Cho nên mới đầu thì chúng ta học, chúng ta thấy, chúng ta chỉ hướng có: “Hơi thở vô tôi biết tôi thở vô, hơi thở ra tôi biết tôi thở ra”. Đó là mình nhắc, rồi mình thở năm, mười hơi thở mình lại nhắc một lần.
Thì như vậy, nó giúp cho mình tỉnh thức ở trong ba mươi phút hay là một giờ khi mình tu tập. Để cho mình tỉnh thức đó để mà ngăn chặn, nó ngăn chặn cái mục đích của cái tỉnh thức đó không phải nó đem lại cái kết quả của cái hơi thở đó mà chúng ta nhập thiền, nhập định gì cả. Mà nó ngăn chặn được cả ác pháp không sanh khởi ở trong tâm của chúng ta như tham, sân, si, ham muốn cái này, thương nhớ cái kia, giận hờn cái nọ.
Cái mục đích của nó sẽ đạt được, là ngay chúng ta giữ gìn được cái tâm, ở trong cái hơi thở, thì chúng ta biết rằng tâm chúng ta không khởi ra niệm ác, không có thương, ghét, giận, hờn ai hết. Vì nó mắc tỉnh thức ở trong cái hành động của hơi thở, cho nên nó đâu có sanh được pháp nào.
Cho nên ngay liền chúng ta thấy có sự giải thoát, nó không còn một cái tâm niệm làm chúng ta buồn khổ, hay là thương ghét hay là giận hờn ai nữa, nó không có ác pháp. Đó là chúng ta đã đạt, Nhờ cái Định Niệm Hơi Thở như vậy, mà chúng ta đã đạt được cái cứu cánh, cái cứu cánh là cái giải thoát. Cái mục đích mà chúng ta thực hiện trong cái pháp tu đó. Cho nên ngay liền thì chúng ta thấy có sự giải thoát thật sự.
(2:28) Thì cái sự giải thoát thật sự đó, nó giúp cho chúng ta một cái kết quả rõ ràng và cụ thể, là khi trong cái giờ phút tu thì chúng ta cũng thấy, mà sau cái giờ phút tu chúng ta bắt đầu đi vào những cái hành động như đi, đứng, nằm, ngồi. Tất cả những cái hành động mà ngoại thân đó, chúng ta không tu cái Định Niệm Hơi Thở nữa, thì chúng ta cũng đang giữ cái tâm của mình không có cái niệm khởi, do đó ngày này qua ngày khác thì chúng ta hoàn toàn là không có ác pháp.
Đó là cái mà chúng ta vừa cái Định Niệm Hơi Thở mà cũng vừa với cái Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, nó ngăn chặn được các pháp ác không sanh khởi trong tâm chúng ta. Và khi nào mà lỡ nó có sanh một cái pháp gì đó thì chúng ta đoạn dứt liền bằng cái Định Vô Lậu, như các con và cũng như các thầy cũng biết.
Bây giờ, Thầy kế tiếp cái bài Định Niệm Hơi Thở để chúng ta biết nó không phải tu có bao nhiêu đó, để mà đạt được cái niệm ác mà thôi, tăng trưởng cái niệm thiện mà thôi. Nó còn có những cái đặc biệt của nó để nó tự thân của nó cũng có giải quyết cho cái giải thoát của cái Thân-Thọ-Tâm-Pháp của chúng ta.
Bởi vì, ngoài cái Thân-Thọ-Tâm-Pháp, Tứ Niệm Xứ này, bốn cái nơi mà để chúng ta tu tập tức là bốn cái lãnh vực mà để tu tập, thì chúng ta đều đặt các pháp trên đó mà tu tập. Tu tập cho tất cả cái bốn cái chỗ này nó trở thành tốt đẹp và nó trở thành thanh tịnh. Chứ không phải là Tứ Niệm Xứ là có một cái gì mà có cái pháp để làm cho một cái khác thanh tịnh, không phải. Tứ Niệm Xứ là chỉ bốn cái chỗ để chúng ta đặt các pháp trên đó mà chúng ta thực hiện cho nó thanh tịnh, bốn cái chỗ đó thanh tịnh.
(04:07) Bây giờ nói về cái Định Niệm Hơi Thở. Cái bài tập thứ nhất về Định Niệm Hơi Thở, nó có từng bài tập thứ nhất, bài tập thứ hai, bài tập thứ ba, chứ nó không phải có một cái bài mà: “Hơi thở ra tôi biết tôi thở ra” mà: “Hơi thở vô tôi biết tôi thở vô” đâu. Đó là cái Chánh Niệm Tỉnh Thức của cái hơi thở đầu tiên chúng ta tu.
(4:26) Cho nên ở đây đầu tiên thì đức Phật có khuyên như thế này nè, một người mới tu tập cái Định Niệm Hơi Thở, thì cái vị đó phải đi đến một khu rừng. Khu rừng là cái nơi vắng vẻ, cái nơi không có người ta đến. Hay đi đến một cái gốc cây, một cái gốc cây ở cái nơi nào mà có cái gốc cây hoặc này kia, để cho mình ngồi ở bên gốc cây đó mình tu tập.
Tức là cái cây có cái gốc, thì cái cây nó có cái tàn nó mát mẻ, cho nên mình ngồi dưới gốc cây đó mình tu. Hay đi đến chỗ một cái nhà trống, chỗ nhà trống tức là cái nhà mà không có ai hết, họ bỏ trống rỗng đó. Chúng ta sẽ vào những cái nơi vắng vẻ đó, cái nơi yên tịnh đó mà chúng ta tu tập, tu tập cái Định Niệm Hơi Thở.
Thì trước tiên chúng ta muốn tu tập nó thì chúng ta đi chọn cái chỗ, cái chỗ mà vắng vẻ như vậy. Rồi bắt đầu chúng ta ngồi kiết già. Ở đây đức Phật không có dạy chúng ta ngồi bán già mà dạy chúng ta ngồi kiết già, nghĩa là phải tréo hai chân. Lưng thì thẳng lên, rồi đặt cái niệm hơi thở trước mặt của chúng ta. Nghĩa là như Thầy đã nói, cái Niệm Hơi Thở chúng ta mà đặt trước mặt, tức là cái tụ điểm. Cái tụ điểm chỗ đó, cái hơi thở ra và hơi thở vô.
Như vậy thì cái nhân trung của chúng ta là cái chỗ mà nó từ cái hơi thở hít vô thì nó cũng đi ngang qua đó, mà từ cái hơi thở thở ra nó cũng đi ngang qua đó. Cho nên lấy cái chỗ tụ điểm đó mà chúng ta làm cái chỗ để tâm chúng ta tập trung ở chỗ đó, để biết cái hơi thở ra và hơi thở vô.
Cho nên đặt niệm ở trước mặt của chúng ta, tức là ở trước cái mặt của chúng ta là cái nhân trung của chúng ta, đặt cái niệm chỗ đó đó. “Vị ấy Chánh Niệm”, Chánh Niệm đây là không phải là tà niệm, tức là cái Chánh Niệm ở đây là cái tập trung tâm của chúng ta đó, gọi là Chánh Niệm. Tức là mình đặt cái niệm hơi thở ngay tại cái chỗ tụ điểm, tức là mình chọn lựa cái chỗ nào đó thì mình mới đặt cái niệm hơi thở của mình, cho nó thở ra, thở vô ở đó.
Cho nên Phật nói: “Chánh Niệm hơi thở vô và Chánh Niệm hơi thở ra”. Nghĩa là mình đặt cái chỗ nào đó để cho cái hơi thở từ đó, nó xuất phát ra vô. Cho nên gọi là: “Chánh Niệm hơi thở vô, Chánh Niệm hơi thở ra”. Đó là cái thứ nhất để mà chúng ta biết chọn cái tụ điểm.
(6:34) Nếu mà tu tập không có chọn được tụ điểm, thì bây giờ chúng ta thở, thấy nó thở chỗ này, lát nữa chúng ta thấy thở chỗ kia, lát nữa chúng ta thấy từ ở ngoài này nó xa rồi nó đi vô hoặc là đi theo hơi thở, chạy theo đủ thứ cái chỗ, nơi. Cho nên nó không có lại tập trung được, cái tâm nó không có gom tập trung được. Cho nên, chúng ta phải đặt cho nó nằm yên một chỗ.
(06:55) Bây giờ cái bài tập thứ nhất. Khi mà chúng ta đã đặt niệm đúng chỗ rồi, tức là có tụ điểm rồi, hơi thở ra hơi thở vô tại chỗ đó rồi, thì bắt đầu chúng ta tập cái bài tập thứ nhất. Đây, quý thầy và các con hãy nghe cái bài tập thứ nhất về hơi thở. Mà từ lâu, thì Thầy cũng dạy hơi thở, Thầy cũng nhắc đi nhắc lại nhưng mà không có nói rõ ràng như hôm nay. Vì hôm nay là dạy về cái giới hành, sự tu tập nó làm cho chúng ta thanh tịnh ở trong giới. Thân tâm chúng ta thanh tịnh, không có phạm giới, nó làm cho chúng ta có đầy đủ đức hạnh giải thoát, làm cho mình không khổ mà người khác không khổ.
Thì cái hơi thở, bây giờ bài tập thứ nhất thì chúng ta tập như thế nào? Chúng ta ngồi ngay ngắn rồi, bây giờ chúng ta mới nhắc: “Thở vô dài, tôi biết tôi thở vô dài”. Bây giờ mình thở vô tức là hít vô đó, mà cái hơi thở của mình dài thì mình biết: “Tôi thở vô dài”.
Bây giờ, mình bắt đầu mình thở vô dài rồi, cái thứ hai thì mình phải thở ra. Bởi vì nó hai hơi thở nó mới vào một cái tức. Tức là một hơi thở, một trọn vẹn một hơi thở. Cho nên bây giờ hít vô rồi thì bắt đầu thở ra: “Thở ra dài, tôi biết tôi thở ra dài”. Đó, rõ ràng là mình nhắc, tức là nhắc cái tâm của mình.
Như hồi nãy đó: “Tôi thở vô, tôi biết tôi thở vô, tôi thở ra, tôi biết tôi thở ra”, đó là mình nhắc như vậy. Nhưng bây giờ thì lại về cái bài tập này, nó thuộc về Định Niệm Hơi Thở mà nó không phải trợ giúp cho Tứ Chánh Cần, mà nó tập luyện cho nó thuần thục. Để rồi mình dùng nó mà mình câu hữu với tất cả, tức là kết hợp với các pháp khác để mà tu tập.
(8:30) Cho nên cái bài tập thứ nhất của nó: “Hít vô dài (hay là thở vô dài) tôi biết tôi thở vô dài”. Tức là mình nương theo cái hơi thở rồi mình nói, mình hướng tâm mình nhắc ở trong đầu của mình cái câu này, rồi: “Thở ra dài, tôi biết tôi thở ra dài”. Đó, là hai cái câu này nó kết hợp lại nó làm một cái hơi thở của chúng ta, một hơi thở tức là hít vô thở ra.
Rồi kế đó mình thấy, bây giờ cái hơi thở của mình nó không có dài mà mình nói dài là trật, nó không đúng. Cho nên, mình thấy cái hơi thở mình nó ngắn, vậy cho nên bây giờ đó, mình mới sửa lại cho đúng theo cái hơi thở của mình.
Mà muốn sửa đúng cái hơi thở của mình, thì mình thấy nó ngắn, cho nên mình nói: “Thở vô ngắn, tôi biết tôi thở vô ngắn”. Cho nên thì, tức là đây là một hơi thở nè, mình hít vô thì mình nói: “Thở vô ngắn, tôi biết tôi thở vô ngắn”. Rồi bắt đầu bây giờ mình thở ra thì mình nói theo cái hơi thở mình đang ra: “Thở ra ngắn, tôi biết tôi thở ra ngắn”. Rõ ràng là nhắc cho mình, cái pháp hướng này nhắc cho mình biết cái hơi thở của mình.
Rồi trong khi mình nhắc như vậy, thì mình lại làm thinh, mình không nói nữa. Mà mình cứ thở ra thở vô để cho cái tâm mình nó biết, nó biết cái hơi thở ra vô ngắn như vậy. Rồi một lúc nữa mình lại nhắc: “Thở vô ngắn, tôi biết tôi thở vô ngắn, thở ra ngắn, tôi biết tôi thở ra ngắn”. Tức là mình nhắc theo đúng với cái hơi thở của mình.
Do đó thì, nó nhắc làm cho mình kéo dài được năm mười hơi thở nữa, mà không có một tạp niệm. Và đồng thời, nếu mà mình cứ để như vậy hoài, mình thở không nhắc nữa thì lát nó quên đi. Nó quên đi thì nó có những cái vọng tưởng, cái tạp niệm khác. Do vì vậy đó, mà mình phải nhắc lần nữa.
Mà mình tu tập như vậy ấy, cái bài tập thứ nhất này mình tu tập như vậy đó, không có nghĩa là tu tập tỉnh giác ở trong hơi thở, tỉnh thức ở trong hơi thở. Mà cái bài tập này vốn để cho mình luyện tập để điều hòa cái hơi thở của mình, để ổn định cái hơi thở mình. Để mình biết rõ nó dài, nó ngắn theo cái đặc tướng riêng của mình để mình tu tập cho nó không có mệt, không có khó khăn, không có khổ sở cho cái thân của mình. Đó là cái bài tập thứ nhất.
(10:35) Và cũng vì cái chỗ tu tập này, nó làm cho mình quen đi với cái hơi thở. Mình mới, coi vậy chứ nó không quen đâu. Và đồng thời khi mình nhắc tới nhắc lui, đồng thời vừa thở mình vừa nhắc, thì nó cũng phải khéo léo mình mới nhận ra được, cái hơi thở mình ngắn hay là hơi thở mình dài. Hay hoặc cái sức mình thở dài mình chịu đựng nổi mà nó không mệt, thì do đó mình tùy theo chỗ cái hơi thở đó mà mình rèn luyện. Và cái mà đầu tiên để cho chúng ta thấy rằng ở chỗ này, nó không phải là cái Chánh Niệm Tỉnh Giác, Tỉnh Giác của trong hơi thở. Mà cái chỗ này, nó là cái Định Diệt Tầm Giữ Tứ.
Cái bài tập thứ nhất này là cái định tu tập như vậy, nương vào cái hơi thở mà tu tập như vậy, để cho nó không có những cái niệm vọng tưởng xen vô. Thì cái định mà không có những cái vọng tưởng xen vô, thì cái chỗ mà tập luyện cái bài tập thứ nhất này, thì chúng ta tập luyện cái Định Diệt Tầm Giữ Tứ. Đó nó không phải là cái định này là cái Định Niệm Hơi Thở mà dùng cái hơi thở để chúng ta tu tập cái Định Diệt Tầm Giữ Tứ.
Có hiểu như vậy thì mới thấy được cái vấn đề mà đức Phật dạy chúng ta từng bước một, tu tập từng chút, từng cách thức tu tập, chứ không phải là, ào vô cái ngồi đó hít thở, hít thở cho hết vọng tưởng. Thì cái chuyện đó thật sự ra chúng ta chưa biết cách tu tập, và cái người chánh niệm..
Cho nên qua những cái bài mà đức Phật dạy chúng ta tu tập, thật là cơ bản… Định (12:01) nào là… Cái loại Định nào để cho chúng ta biết. Cho nên cái bài tập thứ nhất của Định Niệm Hơi Thở, thì nó là cái bài tập để chúng ta tu tập cái Định Diệt Tầm Giữ Tứ, đó nó có cái tên, cái tên định của nó là Định Diệt Tầm Giữ Tứ.
Mà khi mà nói, bây giờ tôi tu cái Định Diệt Tầm Giữ Tứ ở trên thân quán thân, tu về hành tướng nội, mà tu có Định Diệt Tầm Giữ Tứ thì lúc bấy giờ quý thầy biết là cái định gì rồi, phải không? Tức là mình phải biết cách thức mình tu cái gì rồi. Tức là cái Định Niệm Hơi Thở trong cái bài tập thứ nhất của nó. Lấy trong cái bài tập thứ nhất của cái Định Niệm Hơi Thở thì chúng ta biết đó là cái Định Diệt Tầm Giữ Tứ.
(12:37) Nó có như vậy chúng ta mới biết được cái pháp của Phật, nó rất là tỉ mỉ để cho chúng ta luyện tập từng chút một. Chứ khi không mà nhảy vô, mà để tu mà hết vọng tưởng liền, thì thật sự ra thì các thầy phải tu mất cái thời gian rất lớn để mà ức chế tâm của mình. Còn cái này Phật dạy chúng ta tu tập (12:54) thử coi, kết quả dữ lắm á, chứ không phải là không đâu. Thầy thấy đây là trải qua, trước kia Thầy cũng chưa biết cái đường lối này đâu. Nhưng mà sau khi mà tu tập xong rồi, nhìn lại cái lời của đức Phật dạy, thật là có đủ kinh nghiệm, chứ không phải là không có kinh nghiệm. Kinh nghiệm rất kinh nghiệm.
Từ cái chỗ mà hướng tâm, nhắc từng câu như vậy để cho cái tâm nó không có tạp niệm xen vô. Cho đến khi mà kéo dài ba mươi phút hay một giờ mà không có một cái vọng tưởng nào xen vô. Thật sự ra thì Thầy thấy không có cái pháp nào hơn là cái pháp này. Mặc dù là quý thầy có sổ tức đi nữa đến từng hơi thở, cho đến cả trăm hơi thở nhưng vọng tưởng vẫn xen vô. Còn cái này chúng ta tu, chúng ta sẽ thấy một cái sức của chúng ta, tức là tùy theo cái đặc tướng của chúng ta mà chúng ta sẽ nỗ lực tu thì không có tạp
(13:38) Ở đây tới cái bài tập thứ hai, ở đây cái bài tập thứ nhất thì Thầy đã xác định cho quý thầy biết là cái định đó là cái Định Diệt Tầm Giữ Tứ đó. Bây giờ tới cái bài tập thứ hai, bài tập thứ hai cũng nương vào cái hơi thở mà tu tập.
Cho nên ở đây thì đức Phật hướng tâm, nhắc như thế nào trước: “Cảm giác toàn thân tôi sẽ thở vô”, hít vô tôi biết nè: “Cảm giác toàn thân tôi sẽ thở vô, cảm giác toàn thân tôi sẽ thở ra”, tức là cái hướng tâm theo. Nghĩa là bây giờ đó, khi mình tu tập cái Định Diệt Tầm Giữ Tứ nó đã không có tầm nữa rồi, thì tức là nó sẽ có một sự an ổn.
Mà cái sự an ổn đó, thì tức là cái gì mà an ổn đó cho cái thân này? Thì cái cảm giác, cái cảm giác toàn thân, chúng ta thấy nó có cái sự an ổn đó. Cho nên cái cảm giác toàn thân tôi biết, bởi vì lúc bấy giờ nó tỉnh thức. Do cái chỗ mà không có cái tạp niệm xen vô, thì cái cảm giác mình toàn thân mình thấy rất rõ. Nó xảy ra cái gì mình thấy rất rõ, nó an lạc, nó không an lạc biết rất rõ, nó rất là kỹ lưỡng.
(14:48) Cho nên ở đây đầu tiên vô, cái bài pháp thứ hai này, thì đức Phật dạy: “Cảm giác toàn thân tôi sẽ thở vô, cảm giác toàn thân tôi sẽ thở ra”, thì nó cũng nương theo hơi thở. Và khi mình nhắc như vậy, mình lại thở năm, mười hơi thở, thì cái cảm giác đối với thân của mình nó vẫn còn bàng bạc ở trong cái thân của mình, chứ chưa phải mất đâu. Cho nên lúc bấy giờ, mất cái cảm giác đó, mà cái bài tập thứ hai này nó làm cho cái tâm của chúng ta, nó có một cái trạng thái rất là an ổn, nó có một cái trạng thái rất là an ổn.
Từ đó, chúng ta tiếp tục, chúng ta tu cái hơi thở này. Cái hơi thở mà cảm giác toàn thân này, chúng ta tu. Tu cho đến một lúc, thì chúng ta lại thuần thục. Thuần thục thì nó lại thấy rõ ràng một cái sự an tịnh của thân hành của mình. Nghĩa là cái hơi thở ra vô mà nó có cái an tịnh ở trong đó.
Cho nên lúc bấy giờ, chúng ta cảm thấy có một cái sự an tịnh thật sự, tức là cảm giác toàn thân chúng ta thấy có sự an tịnh. Vì vậy, vào cuộc đầu thì chúng ta nói: “An tịnh thân hành tôi sẽ thở vô, an tịnh thân hành tôi sẽ thở ra”. Bây giờ mình có cái cảm giác của sự an tịnh của cái thân của mình, mà thân hành là cái động dụng của cái hơi thở chúng ta ra vô mà chúng ta thấy rất là an ổn, mà rất là thanh tịnh.
Cho nên mình nhắc cái câu đó, mình hướng tâm để cho cái trạng thái đó nó được an trú. Cho nên Phật dạy như thế nào? “Thiện xảo an trú trong Định”, Thiện xảo là mình phải khéo léo. Mà khi nó có cái đó rồi thì mình nhắc cái đó đó, nó sẽ kéo dài cái đó ra. Mình nhắc cái trạng thái đó, nó sẽ kéo dài ra.
Thí dụ bây giờ mình có sự an tịnh rồi, mình nhắc: “An tịnh thân hành, tôi sẽ thở vô”, thở vô tức là mình nương vào hơi thở. Nhưng mà cái cảm giác mà an tịnh đó là nó làm cho cái tâm của mình ở trong cái trạng thái để cho nó thích thú, để cho nó ham tu, để cho nó thoái mái dễ chịu. Mình nương hơi thở mà mình thấy không có sự an tịnh, không có sự thoái mái dễ chịu, thì mình tu mình lười biếng lắm. Nhưng mà ở đây mình thấy, toàn thân an tịnh rồi, qua cái hành động của nội thân của mình, mình nghe nó rất an ổn.
Cho nên ở đây: “An tịnh thân hành, tôi sẽ thở vô”, thở vô là cái hành động của cái thân nội thân, “An tịnh thân hành, tôi sẽ thở ra”. Thì bây giờ đó, mình thấy cái sự an tịnh nó đã được có rồi, có rồi nó làm cho mình thấy thích thú. Rồi bắt đầu mình thấy, bây giờ cỡ mình không nhắc nó nữa nó vẫn còn có, nó vẫn còn có. Cho nên cái tu tập của mình nó vẫn còn có liên tục, chứ nó không có mất.
(17:16) Thì trong cái bài tập thứ hai này, thì chúng ta thấy đây là cái thân, cảm giác toàn thân, rồi cảm giác thân hành, an tịnh thân hành hai cái này nó thuộc về thân. Cho nên bây giờ đó, khi mà cái bài tập thứ hai này, mà nó đã được cái sự an tịnh, thì an tịnh nó sẽ có một cái cảm giác của nó. Một cái cảm giác của nó như thế nào? Cái cảm giác vui mừng, lâng lâng ở trong lòng của mình.
(15:42) Cho nên ở đây, qua cái phần mà kế của cái an tịnh này, thì đức Phật dạy: “Cảm giác hỷ thọ tôi sẽ thở vô, cảm giác hỷ thọ tôi sẽ thở ra”. Nghĩa là bây giờ, mình thấy có cái niềm vui. Cái niềm vui là do cái sự an tịnh này, nó thấy mình có những cái sự tu tập của cái Định Niệm Hơi Thở. Cái Định Diệt Tầm Giữ Tứ này nó mang lại cho mình có cái niềm vui, có sự an tịnh, có sự cảm giác toàn thân. Có sự an tịnh, rồi có một cái niềm vui nho nhỏ trong tâm hồn của mình, trong hơi thở ra và hơi thở vô của mình. Khi mà nó có cái niềm vui đó rồi, thì cái thân của mình nghe nó nhẹ nhàng, khinh an vô cùng lận.
Cho nên, tiếp tới thì đức Phật cũng nương theo hơi thở để mà lắng nghe được cái trạng thái an ổn, khinh an của cái thân của mình. Cho nên đức Phật dạy, mình cũng nương hơi thở chứ đâu có lìa hơi thở được. Lìa hơi thở thì coi chừng nó sẽ lôi vào chỗ xúc, lạc, hỷ, tưởng mất đi. Cho nên cứ ôm chặt hơi thở mà nhắc những cái đó, để cho nó, cái trạng thái do cái định mà nó xuất hiện, do cái định mà nó sanh ra mà nó không bị mất. Cho nên: “Cảm giác lạc thọ tôi sẽ thở vô, cảm giác lạc thọ tôi sẽ thở ra”.
Hồi nãy hỷ, hỷ là cái niềm vui, cái niềm mà nó có được cái sự an ổn thân tâm của mình, qua những cái hành của thân, qua những cái cảm giác của toàn thân. Bây giờ cái hỷ đó, nó đã làm cho mình vui. Làm mình vui thì mình thấy rằng cái thân của mình, bây giờ nó an lạc, nó nhẹ nhàng, nó phơi phới. Cái thọ lạc nó đi đến, nó làm cho chúng ta thấy quá là khinh an ở trong cái thân và tâm của chúng ta.
(19:23) Cho nên ở đây khi mà có cái trạng thái đó rồi, thì lúc bấy giờ chúng ta cũng nương vào hơi thở. Thỉnh thoảng chúng ta lại nhắc, nhắc nó một câu: “Cảm giác lạc thọ tôi sẽ thở vô, cảm giác lạc thọ tôi sẽ thở ra”. Và đây là, các thầy cũng như các con nếu mà học thuộc lòng cái này, thuộc lòng cái này khi nó có đến thì chúng ta hướng ra, bởi vì nó thuộc lòng.
Còn khi mà nó có đến rồi, chúng ta quên không biết làm sao đây, nói làm sao đây? Thầy có dạy rồi mà mình không biết, mình nói như thế nào đây? Lúc đó, cứ nhớ chữ lạc, chữ hỷ rồi không biết nói sao, quên chữ cảm giác hay hoặc là quên chữ an tịnh mất đi rồi. Cho nên mình không biết sao mà cấu kết được cái pháp hướng. Do vì vậy đó, mà các con và các thầy ghi chép lại cái câu này.
Câu này từ trong kinh đức Phật đã chọn để cho các đệ tử của Người thực hiện, cho nên chúng ta cũng nên ghi chép. Nhưng mà chúng ta có thể, chúng ta viết những cái câu pháp hướng khác, tùy theo cái đặc tướng của chúng ta mà nó phù hợp hơn là những câu này của Phật dạy. Nhiều khi chúng ta dẫm lại cái pháp hướng của Phật, nó không trúng cái đặc tướng của chúng ta, nó làm cho chúng ta khó chịu.
Thí dụ như câu này nó dài quá, bắt buộc mình phải thở chậm quá, cho nên nương theo hơi thở, mình nói hơi. Mình hướng tâm vừa thở mà vừa nói, mình phải ráng mình thở cho thiệt chậm đặng cho nó hết câu nói chứ gì. Do đó, hết câu nói nó mệt muốn đứt hơi mình. Vì vậy mà an lạc không thấy, hỷ thọ không thấy, khinh an không thấy mà thấy mệt, mà thấy khổ sở, đó là mình tu sai.
Cho nên do vì vậy mà cái đặc tướng của cái hơi thở của mình nó dài, thì mình tạo cái câu dài hơn để mình nhắc nhở. Mà cái thân của mình nó có cái đặc tướng thở cái hơi thở ngắn, mà mình thở chậm mà dài để cho nó mình hướng tâm cho hết cái câu theo hơi thở của mình. Thì lúc bấy giờ mình sẽ, hoàn toàn là mình sẽ thấy khó chịu. Cho nên nó tùy theo hơi thở ngắn, hơi thở dài, rồi mình chế biến cái câu này, nó nói theo cái hơi thở ngắn của nó, nó nhanh chóng hơn.
(21:23) Thí dụ như nói: “An tịnh thân hành”, thì mình chỉ bỏ chữ “thân hành” đi, thì mình nói: “An tịnh tôi sẽ thở vô, an tịnh tôi sẽ thở ra”, tức là mình biết cái gì an tịnh, cái thân của mình chứ gì? Thì mình bỏ bớt đi, thì nó làm cho nó vừa với cái hơi thở vô và hơi thở ra của mình. Đó là khi mà tu hành, thì mình còn phải khéo léo để trạch pháp, chọn lấy một cái câu, nó vừa hợp với cái khả năng riêng biệt của mình.
(21:50) Bây giờ cái phần kế nữa, thì chúng ta đã tu tới: “Cảm giác lạc thọ tôi sẽ thở vô, cảm giác lạc thọ tôi sẽ thở ra”. “Cảm giác tâm hành”, bây giờ tới về phần tâm rồi, hồi nãy là phần thân, rồi phần thọ. Bây giờ về tới phần tâm: “Cảm giác tâm hành tôi sẽ thở vô, cảm giác tâm hành tôi sẽ thở ra”. Thì hồi nãy thân cũng cảm giác, rồi tâm cũng cảm giác. Bây giờ cái tâm nó cảm giác, tâm khác à.
Các con cũng như các thầy nên lưu ý về cái phần thân và phần tâm. Nó hai cái, nó tuy rằng, nó một cái danh từ gọi vậy chứ cái tâm nó khác, mà cái thân nó khác. Rồi bây giờ cái tâm của mình, cái tâm nó hành của mình mà mình thấy nó an ổn thì cho nên mình thở hơi thở mình cũng nương vào: “An tịnh tâm hành tôi sẽ thở vô, an tịnh tâm hành tôi sẽ thở ra”.
Thì bây giờ đó, mình đã thấy cái sự an tịnh của tâm của mình như thế nào. Thì mình biết cái tâm mình nó rất an tịnh như thế nào, thì mình rõ để mình hướng theo hơi thở. Để mình an trú ở trong cái an tịnh đó, nó kéo dài ra. Tức là nhờ mà hướng như vậy, nó sẽ kéo dài cái trạng thái an tịnh đó. Còn nếu mình không hướng, thì nó một lúc thì nó lại mất đi, nó không còn có nữa.
Bây giờ đó, khi mà cái tâm của mình nó có sự an tịnh như vậy đó, thì mình có cái sự tỉnh thức đối với cái tâm rất là rõ ràng và cụ thể lắm. Cho nên cái cảm giác về tâm thì mình thấy rất rõ tâm mình như thế nào. Còn bây giờ nhiều khi cái thân của mình nó có những cái thọ. Cái cảm thọ, mát, lạnh, nóng đồ thì mình biết. Nhưng mà đối về cái tâm thì mình thấy, mình không biết cái tâm cảm giác như thế nào? Như thế nào thì mình không biết.
(23:38) Nhưng mà, khi mình tu thì từ đó nó có cái sức tỉnh, thì mình thấy cái cảm giác về cái tâm của mình nó sao? Nó không giống như cái thân đâu. “Cảm giác về tâm tôi sẽ thở vô, cảm giác về tâm tôi sẽ thở ra”. Và khi mà mình tu tập tới cái hơi thở tới chỗ này rồi, thì mình thấy cái thân tâm của mình nó rất là an ổn, nó rất là khinh an, nó rất là nhẹ nhàng.
Cho nên lúc bấy giờ, luôn luôn lúc nào mình cũng vui vẻ, mình cũng thích thú ở trong cái sự tu tập. Cho nên cái bài tập kế này về cái Định Niệm Hơi Thở, thì quý thầy cũng nên nhớ rằng, khi mà nó đạt được những cái kết quả về tâm như vậy rồi, thì cái tâm vui mừng của mình, tức là cái tâm hân hoan nó sẽ thể hiện, lúc nào nó cũng vui vẻ. Cho nên người ta chửi mình không biết giận là tại vì mình vui, quá vui rồi, cho nên mình không biết giận ai hết. Người ta nói mình (24:30) chó trâu mình thấy mình cũng vui nữa, không có buồn nữa.
Cho nên hầu hết là mình tu, tại vì mình tu không đúng cách. Cho nên do vì vậy mà mình cố mình dùng cái Định Vô Lậu, mình cố mình hướng tâm, mình xả nó. Nhưng mà mình nhớ rằng mình tu tập đúng cách rồi, tự nhiên cái tâm nó vui. Nó vui rồi mình cũng dễ tha thứ mọi người nữa. Mình vui quá mà đâu có còn giận ai nữa. Cho nên khi nghe người ta chửi mình cũng không biết giận nữa, vì cái tâm mình hân hoan.
Cho nên ở đây, cũng nương vào cái hơi thở mà tu tập cái tâm: “Với tâm hân hoan tôi sẽ thở vô, với tâm hân hoan tôi sẽ thở ra”, nó rõ ràng, mình nhắc. Ở đây nó có phần: “Có tâm hân hoan” nhắc, thì rất là cụ thể. Mà không có tâm hân hoan nhắc, thì mình tu một lúc sau thì lại có hiện ra tướng hân hoan của cái tâm của mình. Cái gì cũng vậy, mình cố gắng, mình tu tập thì đầu nó chưa có nhưng mà sau nó lại có. Thì khi mà cái tâm hân hoan mình nó đã có rồi, thì cái sức định tĩnh nó, nó sẽ làm cho chúng ta biết rõ ràng hơi thở.
(25:34) Còn đằng này, quý thầy tu thiền định, quý thầy ngồi khi mà có cái trạng thái mà hỷ lạc, an ổn cho quý thầy, thì lần lần cái tỉnh thức đó lại mờ mờ mờ mờ, nó lần lần lần, nó theo cái sự sai sai của hỷ lạc đó, nó làm riết cái tâm của quý vị nó mất, nhiều khi nó vô ký nó không biết nữa. Nó thích, nó thích cái an lạc, nó thích khinh an lắm. Nhưng mà nó cứ ôm chặt theo cái đó, thì nó đi riết cái nó lạc mất.
Còn cái này đó, càng lúc nó lại càng tỉnh táo lên, nó càng rõ ràng lên. Cái sự hân hoan, cái sự an tịnh của tâm của mình như thế nào? Nó càng biết rõ. Càng lúc nó tỉnh táo, nó càng nhiều sức tỉnh táo hơn. Cho nên lúc bấy giờ do cái sức tỉnh táo đó thì chúng ta cũng nương vào hơi thở để mà an trú cái sức tỉnh táo đó kéo dài trong cái thời gian mà chúng ta tu tập thiền định.
“Với tâm định tĩnh”, bây giờ nó có tỉnh thức rồi, cho nên mình mới nhắc: “Với tâm định tĩnh tôi sẽ thở vô, với tâm định tĩnh tôi sẽ thở ra”. Nhưng mà mình tu một thời gian mà mình thấy cái tâm mình nó không định tĩnh, nó luôn luôn nó mờ mịt, nó muốn buồn ngủ, nó muốn hôn trầm gì đủ thứ, làm sao nó cũng không có tỉnh táo, mình nhắc: “Với tâm định tĩnh tôi sẽ thở vô, với tâm định tĩnh tôi sẽ thở ra”. Mình nhắc một hơi thì mình nhìn lại, mình thấy nó định tĩnh, một hơi nó sáng suốt ra.
Rồi bây giờ trong cái hoàn cảnh của mình, nó có những cái đối tượng. Khi mình ngồi mình xếp chân lại để mình tu cái tâm không tầm tứ đó, diệt tầm giữ tứ đó, mà mình tu thì cái sự việc đó nó làm cái tâm của mình nó bận rộn, nó suy tư, nó lo lắng. Thì bây giờ mình làm sao để cho nó hết suy tư lo lắng đây, để cho mình ngồi lại mình tu cho được? Nhiều khi nó có chuyện gì, rồi bắt đầu mình ngồi vô cái mình lo lắng. Mình ngồi đó mình nhiếp tâm không được, nó cứ nghĩ ngợi cái này kia. Rồi lớp nhất là cái sợ hãi, nó làm cho mình không có yên tâm chút nào mà ngồi đó mà nhiếp tâm nổi hết. Cho nên vì vậy, mình phải nhắc cái tâm của mình: “Với tâm giải thoát tôi sẽ thở vô, với tâm giải thoát tôi sẽ thở ra”.
(27:38) Thí dụ như, vừa lúc nãy có người chửi mắng mình, bây giờ mình ngồi lại nghe nó tức tối quá. Mà nó không có được giải thoát như vậy, thì nó làm sao nó yên mà mình tu? Cho nên mình phải dùng câu pháp hướng này. Nghĩa là nó đang giận hờn tức bực ai đó, uống thuốc không hết rồi chết đi, mình sẽ mất mẹ mất cha mình đi, buồn quá. Cho nên cái tâm nó làm cho mình bồn chồn, lo sợ đủ cách. Thì ngay đó mình phải nhắc: “Với tâm giải thoát tôi sẽ thở vô, với tâm giải thoát tôi sẽ thở ra”. Mình nhắc một hơi, thì cái tâm nó bắt đầu nó an trú, nó không có còn sợ hãi, bồn chồn nữa, nó không còn lo lắng nữa.
Tùy theo mỗi cái đặc tướng, mỗi cái hoàn cảnh của mình nó xảy ra một cái gì, thì mình dùng cái câu pháp hướng đó để nhắc, để dẹp cái đó xuống đi. Để đem lại cái sự bình tĩnh, định tĩnh cho cái thân tâm của mình.
Mới đầu, bởi vì cái tu tập này nó rất khéo léo, cái tâm của mình nó chưa được định tĩnh. Ngồi lại thì chuyện này đến chuyện kia nó lăng xăng ở trong đầu, thì mình nhắc: “Với tâm định tĩnh tôi sẽ thở vô, với tâm định tĩnh tôi sẽ thở ra”. Rồi mình thở năm, ba hơi thở mình lại nhắc nó, để cho nó định tĩnh. Cho nên nó định tĩnh được rồi, bắt đầu nó không có còn mà rối nữa ở trong đó, nó không loạn tưởng nữa ở trong đó.
Còn bây giờ cái hoàn cảnh của mình nó không giải thoát, mình ngồi lại thì tâm mình nó lăng xăng, lộn xộn nó khó quán, cho nên mình nhắc tâm mình phải giải thoát, làm cho nó giải thoát. Cho nên nhắc riết một hơi cái nó xả những cái điều mà lăng xăng ở trong đầu nó, những cái lo lắng, suy tư, những cái sợ hãi của nó. Xả nó được rồi chúng ta bắt đầu thấy, mình an tịnh ở trong cái hơi thở. Cho nên cái lúc bây giờ, tâm của mình an tịnh hay là thân của mình an tịnh. Thì khi mình thấy nó an tịnh rồi, mình mới kéo dài cái trạng thái đó ra thì mình nhắc: “An tịnh tâm hành tôi sẽ thở vô, an tịnh tâm hành tôi sẽ thở ra”.
Chứ không phải các thầy nghĩ rằng mình không phải là mình sắp xếp từ bài một cho đến bài hai như thế này rồi, mình mới tu tuần tự, thứ tự như vậy, không phải đâu. Ở đây, nó lộn xộn đủ thứ tùy theo cái tâm của mình, lúc bấy giờ nó ở trạng thái nào thì mình phải dùng cái câu pháp hướng đó ở trạng thái đó.
Hoặc là mình đang muốn được ở trạng thái đó, cái tâm ước muốn mình được an ở trong cái trạng thái đó. Mà cái trạng thái đó bây giờ nó đang buồn khổ, thì mình nhắc cái trạng thái mình ước muốn để cho nó hân hoan, để cho nó vui vẻ. Thì mình nhắc một hơi, mình nương theo hơi thở. Thì một lúc, thì nó sẽ đạt được cái kết quả của cái pháp hướng. Các thầy, các con nhớ được không?
(29:56) Nhớ như vậy thì chúng ta mới biết rằng, ở đây không thể nào mà sắp thứ tự là chúng ta phải tu cái pháp bài thứ nhất, bài thứ hai, bài thứ ba đâu. Mà ở đây những cái câu này, nó tùy theo những cái trạng thái khi bắt đầu từ cái chỗ: “Cảm giác toàn thân tôi sẽ thở vô, cảm giác toàn thân tôi sẽ thở ra”. Tùy theo mọi cái hoàn cảnh mà chúng ta sử dụng câu đó trước, hay hoặc là câu kia sau, chứ không phải là có một thứ lớp.
Còn nhất định là chúng ta, mới đầu chúng ta tu tập cái bài thứ nhất về Định Niệm Hơi Thở, để mà chúng ta biết cái hơi thở, Chánh Niệm ở trong hơi thở dài, hơi thở ngắn của chúng ta. Khi mà chúng ta nói dài trước thì chúng ta biết rằng mình theo không có kịp, hơi mệt. Cho nên vì vậy mình mới thở ngắn. Mình thở ngắn thì tức là nó vừa với sức của mình, thì mình hướng câu hướng đó, hoặc nhanh hơn, hoặc là chậm hơn một chút để cho nó vừa với cái đặc tướng hơi thở của mình. Vì vậy mà cái bài tập thứ nhất, thì các con sẽ đạt được những cái kết quả đầu tiên, tức là Diệt Tầm Giữ Tứ, đó là cái Định Diệt Tầm.
Bài tập thứ hai là tùy theo những cảm giác thân tâm của mình, mà có thể hướng tâm an tịnh trước, Hoặc hướng tâm hỷ trước, hoặc hướng tâm lạc trước, hoặc hướng tâm cảm giác tâm hành trước hay hoặc là thân hành trước. Tùy theo, nó ở trạng thái nào thì chúng ta sử dụng cái pháp hướng đó ở cái trạng thái nấy.
Cho đến cái câu mà: “Với tâm giải thoát tôi sẽ thở vô, với tâm giải thoát tôi sẽ thở ra”. Thì cái câu mà tâm giải thoát thở vô thở ra này, thì rõ ràng là nó sẽ áp dụng đầu hay hoặc là áp dụng đuôi, tùy theo cái chỗ đó. Bây giờ tới cuối cùng mình, với tâm định tĩnh, với tâm hân hoan, với cảm giác về tâm, rồi cảm giác an tịnh tâm hành, tất cả mọi cái. Khi mà nó cuối cùng, nó thấy được cái sự giải thoát của nó thì mình lại nhắc, lại nhắc. Nghĩa là ở trạng thái tâm nào thì chúng ta phải tu cái pháp hướng đó ở trạng thái nấy.
(31:43) Bây giờ tới cái phần mà số sáu này thì chúng ta thấy rằng cái phần này là cái phần mà chúng ta tu tập để xả cái tâm, để ly cái tâm của mình tham-sân-si. Nó cũng là cái phần để mà chuẩn bị cho cái sự thần thục, để mà thực hiện cái Định Vô Lậu làm cho Tâm Tham-Sân-Si của chúng ta sạch. Và cũng là một cái pháp trợ giúp thêm cho cái Tứ Chánh Cần để thực hiện được các thiện pháp cho trọn vẹn.
Bây giờ ở đây, câu thứ nhất của nó đó, cũng nương vào cái hơi thở mà tu tập cái pháp này: “Quán vô thường tôi sẽ thở vô, quán vô thường tôi sẽ thở ra”, Tại sao vô thường? Vì đây là mình tu các pháp mà, các pháp đều vô thường, thân chúng ta vô thường, tâm chúng ta vô thường, thọ chúng ta vô thường, tất cả mọi cái đều vô thường.
(32:32) Chúng ta đã hiểu như vậy, cho nên chúng ta ở đây, chúng ta tu rất dễ dàng. Là vì chúng ta chỉ cần: “Quán vô thường tôi sẽ thở vô, quán vô thường tôi sẽ thở ra”. Đó, thì như vậy là rõ ràng là mình thấy vạn pháp đều là vô thường. Không có một cái vật gì mà nó thường hằng hết mà nó phải thay đổi. Nó thay đổi hết, bữa nay nó vầy, ngày mai nó khác.
Cái bàn này trước kia nó mới, bây giờ nó cũ, rồi nó gảy, nó sắp hư thì đó gọi là vô thường. Cho nên thân này hồi nhỏ nó khác bây giờ nó già nó yếu, nó không còn mạnh khỏe nữa thì nó là vô thường. Cho nên mình chỉ cần nhắc: “Quán vô thường tôi sẽ thở vô, quán vô thường tôi sẽ thở ra”. Đó là cái pháp tu, tu để nhắc cho mình biết vạn pháp đều vô thường.
Để không khéo rồi mình thấy, “A! Cái bàn này đẹp quá”, Nhưng nó đẹp có một thời gian của nó trong hiện tại này, chứ ngày mai ngày mốt nó sẽ cũ. Cũ rồi, nó sẽ bị mục nát đi, nó đâu có còn thường nữa. Cho nên do mình biết nó vô thường, vì vậy cái đẹp của nó, nó không quyến rũ mình được. Cho nên không tham nữa.
Bây giờ, mình biết rõ là cái tâm của mình nó còn tham, tham ăn, tham ngủ, còn tham ái. Tức là còn thương, còn giận hờn, ghét cái người này, người kia cho nên nó còn tham. Vì vậy đó mình cũng nương vào cái hơi thở, cái Định Niệm Hơi Thở này để mình tu, để mình ly tham. Mình xả nó ra, mình làm cho nó rời ra, nó không còn dính ở trong cái lòng ham muốn của mình nữa.
Cho nên ở đây, thì Phật dạy: “Quán ly tham tôi sẽ thở vô, quán ly tham tôi sẽ thở ra”. Nghĩa là mình hít vô đó, thì mình hướng tâm theo cái hơi thở vô của mình, thì mình nói: “Quán ly tham tôi sẽ thở vô”. Rồi bây giờ cái hơi thở của mình đi ra nè, thì mình cũng nói: “Quán ly tham tôi sẽ thở ra”.
Nghĩa là mình ly cái lòng tham, sân, si của mình thì tức là mình ly cái tham, thì mình nhắc cái ly tham đó. Thí dụ như bây giờ, mình quán đoạn diệt cái tham của mình, làm cho nó đừng có ham muốn, đừng có này kia. Bây giờ mình ly rồi, nhưng mà nó chưa có lìa, tức là chưa có đoạn được nó.
Cho nên mình bắt đầu, mình sẽ tiếp tục nương vào cái hơi thở. Mình tu một cái thời gian để ly cho được cái tham của mình. Mà bây giờ tiếp tục, thì mình thấy nó ly được nhiều rồi, thì do đó mình, trên bước đường tu tập về Định Niệm Hơi Thở thì mình phải quán thêm: “Quán đoạn diệt tham tôi sẽ thở vô, quán đoạn diệt tham tôi sẽ thở ra”.
Nghĩa là mình đoạn diệt cái lòng tham của mình để cho mình nương theo hơi thở, là mình nhấn mạnh để cho mình diệt nó đi, đừng có để cái (35:03) tâm của nó ở trong cái tâm của mình. Đó thì, như vậy là cách lối của đức Phật dùng cái pháp hướng rất nhiều để cho mình ly tham, đoạn diệt, để mình được giải thoát.
Bây giờ đó, nó nếu mà đoạn diệt được mà thôi, mà nó không có đoạn diệt được, mà nó cứ lầy nhầy hoài thì mình rằng cái pháp hướng này nó chưa đúng cách nó, nó còn dai quá. Mình ly, mình lìa ra rồi mà mình đoạn không có được. Nó cứ còn, thỉnh thoảng nó còn chen vô, nó còn tới lui. Cho nên mình hướng tâm, mình đoạn không được, mình thay đổi liền. Mình phải hướng như thế nào để cho đúng cách đây? Để cho rồi từng đó mình mới đoạn diệt nó được.
(35:38) Thì do đó mình phải: “Quán từ bỏ tham tôi sẽ thở vô, quán từ bỏ tham tôi sẽ thở ra”. Đó thì thấy như vậy thì, bây giờ đó mình đoạn diệt nó không được, sao nó không dứt? Cho nên mình từ bỏ nó trước đã. Hồi nãy mình ly nó ra, rồi bây giờ mình từ nó ra đi, mình từ bỏ nó nữa đi. Ly nó mà nó không có chịu ly cho thật ly đi, nó cứ còn bám bám theo mình hoài, bây giờ mình từ bỏ nó đi. Mình từ bỏ nó, thì mình nương vào hơi thở để mình hướng tâm mình nhắc, mình nhắc nó mình từ bỏ.
Như vậy thì, chúng ta sẽ thấy có một cái tâm tham, mà ở đây chúng ta đã tu ba cái giai đoạn quán ly tham, rồi quán đoạn diệt, và quán từ bỏ.
Bây giờ tới cái sân, cái tham rồi, thì bắt đầu mình có thể mình thêm chỗ tham, mình bỏ chữ tham mình thêm chữ sân: “Quán ly sân tôi sẽ thở vô, quán ly sân tôi sẽ thở ra”. Đó mình chỉ thêm, mình bỏ cái chữ tham đi, mình thêm chữ sân vô. Thì như vậy là làm cho mình không còn sân nữa chứ gì?
Rồi bắt đầu mình: “Quán đoạn diệt sân tôi sẽ thở vô, quán đoạn diệt sân tôi sẽ thở ra”, mình đoạn diệt cái sân đi, đừng có để cho nó còn nữa. Nhưng mà mình thấy sao nó cũng còn, cho nên mình phải quán từ bỏ, do đó mình: “Quán từ bỏ sân tôi sẽ thở vô, quán từ bỏ tham tôi sẽ thở ra”. Thấy như vậy, Tham-Sân-Si, tham, sân mình đã tu tập rồi, bây giờ trong cái Si.
Si là cái vô minh, mà đây chữ si của Phật muốn nói ở đây là cái chỗ ham ngủ. Si là thùy miên, vô ký, ham ngủ đó hay là hôn trầm. Cho nên chữ Si chỗ này không phải là chữ minh và chữ vô minh đâu. Nếu mình nói vô minh thì mình phải có một cái sức Định để mình vén được cái màn vô minh của nó.
Nhưng mà muốn vén được cái màn vô minh đó, thì trước tiên mình phải đậpcái hôn trầm, cái thùy miên, cái vô ký phải đập sạch nó. Nó không còn ham ngủ nữa, nó không còn ngồi đó mà ngủ gục nữa, thì nó sẽ minh được, nó sẽ sáng suốt, nó có trí tuệ.
(37:40) Muốn được như vậy thì mình phải nhắc: “Quán ly si”, ly si tức là ly cái buồn ngủ. Hay hoặc là: “Quán lìa xa cái tâm ngủ tôi sẽ thở vô, quán lìa xa cái tâm ngủ tôi sẽ thở ra”, mình lìa xa cái lòng tham ngủ của mình. Thì như vậy rõ ràng là mình lìa cái si.
Bây giờ mình dồn lại, nếu mà mình dùng ngắn thì: “Quán ly si (quán lìa cái si đi) tôi sẽ thở vô, quán ly si tôi sẽ thở ra”. Hay hoặc là tùy theo cái chỗ mình dùng chữ: “Quán ly vô minh tôi sẽ thở vô, quán ly vô minh tôi sẽ thở ra”. Chữ vô minh cũng là si, mà ngay chữ si thì mình cũng quán được. Mà ngay chữ ngủ, hôn trầm: “Quán ly hôn trầm tôi sẽ thở vô, quán ly hôn trầm tôi sẽ thở ra” Hay hoặc là: “Quán ly thùy miên tôi sẽ thở vô, quán ly thùy miên tôi sẽ thở ra”.
Mình chỉ có thay đổi những cái chữ đó mình dùng thì mình bị cái bệnh nào, bệnh tham của mình thì mình quán ly tham, đoạn diệt tham, từ bỏ tham. Mà nếu mình hay sân dễ, chuyện gì nó cũng dễ sân, thì mình lại dùng cái câu này nương vào hơi thở để nhắc, để lìa cái sân của mình.
Tùy theo mọi cái đặc tướng. Có nhiều người tham nhiều mà sân ít. Có nhiều người sân nhiều mà tham không có, có nhiều người thì ham ngủ nhiều mà sân cũng không có mà tham cũng không có, mà ham ngủ. Cho nên tất cả những cái này, do tùy theo những cái đặc tướng mà chúng ta có ba cái hành tướng, nhân tướng và đặc tướng. Do cái đặc tướng này mà chúng ta phải quán. Vì cái đặc tướng nào thì chúng ta đặt cái niệm đó ngay ở chỗ đó mà chúng ta quán ly nó, đoạn diệt nó và từ bỏ nó.
(39:20) Hôm nay về cái Định Niệm Hơi Thở là cái mục đích của nó để giúp cho chúng ta ly tham, ly sân, ly si. Mà nó đã ly tham đoạn diệt sân và từ bỏ sân, thì nó trợ duyên cho Tứ Chánh Cần, nó giúp cho Tứ Chánh Cần toàn ở trong thiện pháp. Nó trợ giúp mà không trợ giúp trực tiếp, mà đây là cái sự trợ giúp gián tiếp của cái Định Niệm Hơi Thở.
(39:42) Còn cái Định Niệm Hơi Thở mà Chánh Niệm Tỉnh Giác, nó trực tiếp để ngăn chặn các pháp ác không sanh. Các thầy thấy cái pháp mà gián tiếp rồi cái pháp mà trực tiếp. Thì mỗi một cái pháp nào nó cũng có cái sự trợ giúp ở trong đó, nhứt là cái Định Niệm Hơi Thở thì nó trợ giúp, nhưng mà trợ giúp bằng trực tiếp và trợ giúp bằng gián tiếp. Thì ở chỗ mà quán từ bỏ tham, sân, si này, nó là cái gián tiếp.
Còn như Thầy xin nhắc lại đó, cái phần thứ nhất là Chánh Niệm Tỉnh Giác định trong hơi thở. Còn cái kia là Chánh Niệm Tỉnh Giác định trong cái hành động, cái hành động của thân bên ngoài. Thì chúng ta thấy hai cái pháp này đều là cái pháp Chánh Niệm Tỉnh Giác cả hết. Nhưng mà tỉnh giác hơi thở và tỉnh giác trong hành động. Hai cái này nó thuộc về hành động nội và hành động ngoại mà thôi.
Còn cái Định Niệm Hơi Thở thì nó giúp cho chúng ta là tu cái Định Diệt Tầm Giữ Tứ đó là cái pháp đầu tiên của nó. Cái đó là những cái pháp mà nó trợ giúp gián tiếp, gián tiếp cho cái Tứ Chánh Cần làm cho các ác pháp sẽ bị đoạn diệt. Và nó giúp cho cái thân của chúng ta nó có những cái cảm giác làm cho chúng ta thấy an lạc, làm chúng ta thấy hân hoan, làm chúng ta thấy định tĩnh, làm chúng ta thấy giải thoát. Nó giúp cho chúng ta thực hiện trên con đường, càng tu càng thấy những kết quả thích thú ham tu hơn.
Đó là Định Niệm Hơi Thở, nó chưa có áp dụng vào những cái định như Tứ Thiền hay hoặc là cái định khác nữa. Nó áp dụng tất cả mọi cái loại định, thì cái Định Niệm Hơi Thở nó áp dụng rất nhiều. Thậm chí như Thất Giác Chi nó cũng áp dụng vào cái Định Niệm Thất Giác Chi nữa. Nhưng ở đây vì chưa dạy tới Thất Giác Chi cho nên Thầy không có giảng dạy.
Nhưng ở đây bây giờ, chúng ta sẽ thấy được cái kết quả của cái Định Niệm Hơi Thở này. Nó giúp cho cái thân và tâm của chúng ta thanh tịnh. Thanh tịnh tức là nó không còn tham, sân, si nữa tức là thanh tịnh, nó ly dục ly ác pháp cho nên nó thanh tịnh. Đây ở đây đức Phật khuyên chúng ta tu cái Định Niệm Hơi Thở. Cái Định Niệm Hơi Thở để cho nó đạt được cái sự thanh tịnh. Nếu mà chúng ta tu tập thì chúng ta sẽ đạt được cái kết quả thanh tịnh đó.
(41:54) “Tỳ kheo đi đến một khu rừng hay đi đến một gốc cây hay đi đến một căn nhà trống, ngồi kiết già lưng thẳng, đặt niệm trước mặt, vị ấy Chánh Niệm thở vô, Chánh Niệm thở ra”. Thì như vậy là nãy giờ thầy đã đọc lại cái Định Niệm Hơi Thở, cách thức tu.
Thì bây giờ, muốn cho cái thân và tâm và thọ của mình được thanh tịnh. Thân, Tâm, Thọ và các Pháp được thanh tịnh, tức là bốn chỗ này thanh tịnh đó, thì chúng ta thường xuyên mà tu tập như thầy đã giảng hồi nãy, thì nó sẽ như thế nào? Tu tập như vậy làm cho sung mãn. Làm cho sung mãn, tức là làm cho đầy đủ đó. Như vậy “Niệm hơi thở vô, hơi thở ra sẽ có quả lớn thì sẽ lợi ích rất lớn”. Nghĩa là nó có cái quả lớn để cho chúng ta. Vì nó đem đến cho chúng ta được một trạng thái thanh tịnh, chứ không phải không.
Thì đó là cái thứ nhất, và đồng thời cái quả như thế nào? Ở đây Phật cũng có dạy, như vậy là trước khi mà chúng ta đi tìm cái nơi yên tịnh để chúng ta tu hành đó, rồi chúng ta tịnh quán. Bây giờ, từ cái chỗ mà chúng ta quán cái hơi thở của chúng ta, như bắt đầu cảm giác toàn thân. Cái bài thứ nhất mà hơi thở dài, hơi thở ngắn thì đó là cái Định Diệt Tầm Giữ Tứ, (43:07) nó không quan trọng rồi. Đến cái bài thứ hai thì chúng ta cảm, từ cái chỗ mà cảm giác toàn thân, cho đến cái mà quán từ bỏ Tham-Sân-Si (43:16) của chúng ta đó. Từ bỏ đoạn diệt, rồi ly tham đồ đó, thì cho đến cái chỗ quán từ bỏ đó. Thì cái phần này nó sẽ giúp cho chúng ta có được những cái quả lớn của nó.
Niệm hơi thở vô, hơi thở ra sẽ được, mà tu tập làm như vậy cho sung mãn, thì chúng ta sẽ đạt được. Đạt được cái gì? Đạt được hai quả. Ngay ở trong hiện tại thì chúng ta có sự Chánh trí. Nó làm cho chúng ta sáng suốt, lúc nào nó cũng có sự hiểu biết, ai làm gì chúng ta cũng hiểu biết. Nếu mà người ta chửi mình, mình cũng vẫn hiểu biết. Mình hiểu biết, mà cái hiểu biết của chánh trí, nó làm cho chúng ta không có giận, giận cái người đó mà ghét cái người đó. Nó đạt được cái Chánh trí đó.
Nếu có cái quả thứ hai, thì ngay đó là chúng ta có được một cái quả, cái quả Bất Lai. Nghĩa là nó không có trở lui lại với cái đời sống phàm phu.
(44:11) Đây! Bây giờ Thầy nói ví dụ nè, như Mật Hạnh bây giờ đã tu tập như vậy. Khi bây giờ Mật Hạnh có ra đời, có thực hiện cái cuộc đời, Mật Hạnh cũng vẫn là một người tốt. Chứ không bao giờ mà có phạm những cái bậy bạ, cái tầm bậy như con người chưa tu. Nghĩa là không có ác pháp đối với nó. Nghĩa là ác pháp đến với nó, nó vẫn có một cái chánh trí, nó biết được liền.
Cho nên ở đây nó có hai cái quả. Cái quả hiện tại mà cái người tu mà cái tâm nó quay vô thì nó đạt được cái chánh trí, nó thấy được cái đúng cái sai. Nó không bao giờ nó bị cái đam mê của cái tà pháp bên ngoài làm cám dỗ nó. Nghĩa là nó không tiếp tục tu lại trên con đường tu nữa, nhưng mà nó vẫn có cái chánh trí.
Và nếu cái chánh trí đó, nó sẽ có cái quả, cái quả đó là cái quả Bất Lai. Nó không đưa cái con người trở về cái phàm phu tục tử của cái đời sống, của từ cái con người thô lỗ cho đến cái loài thú vật. Nó không đưa cái người đó trở về đó. Mà từ cái chỗ đó nó sẽ đưa trở về bậc Thánh. Bởi vì cái chánh trí đó, nó sẽ có cái kết quả nó trở về bậc Thánh, nếu nó đi tới. Còn nếu nó đứng lại đó thì nó vẫn chủ động được những cái xấu của thế gian, cái xấu của người thế gian, cái ác của người thế gian.
Để Thầy nói ở đây rồi, sau này thì các con sẽ tìm ở lại trong huynh đệ của các con. Các con sẽ thấy lời nói của Thầy là đúng, cũng là cái lời nói ở trong kinh sách của Phật. Đây là cái quả, cái quả của cái người mà tu tập, nó sẽ không mất cái quả giải thoát. Cái quả đức hạnh đó nó không mất, nó không làm mất cái quả đó.
Chẳng hạn bây giờ các con thấy tu mà chưa có làm chủ sanh tử, chưa có gì hết. Nhưng mà các con cũng sẽ được những cái quả, cái quả rất lớn. Mà cái quả đó nó đạt được cái chánh trí. Nó làm cho chúng ta vững vàng ở trong bước đường đời. Hơn là lúc kiếp trước mà chúng ta chưa tu nó có ác pháp, mà ác pháp trong lúc đó chúng ta không biết nó là…
HẾT BĂNG