Pháp Âm - 1998 -2000

Pháp Âm - 1998 - GIỚI LUẬT 01 - GIỚI LUẬT LÀ PHÁP MÔN QUAN TRỌNG

GIỚI LUẬT 01 - GIỚI LUẬT LÀ PHÁP MÔN QUAN TRỌNG

GIỚI LUẬT 01 - GIỚI LUẬT LÀ PHÁP MÔN QUAN TRỌNG

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian:

Thời lượng: [1:54:11]

1. TAM VÔ LẬU HỌC

Trưởng lão: Trả lời sự tu tập của mấy con, thì Thầy trả lời về cái phần mà hỏi về giới luật. Thì trong cái phần này nó rất là quan trọng mà hầu hết là mọi người tu sĩ cũng như cư sĩ cũng không có quan tâm về vấn đề tu về giới luật. Đây là trong cái tập mà vấn đạo kỳ này rất là nhiều, nhưng mà mỗi câu hỏi nó đều có một cái ý nghĩa rất là sâu sắc, từ cô Diệu Quang cho đến Minh Tông.

Sau này các con sẽ nghe trả lời về những cái câu hỏi của thầy Minh Tông, mà thầy tu những cái định do từ cái chỗ ức chế tâm, cho đến khi mà thầy phá âm thanh, rồi thầy gặp trường hợp cái hành thọ, rồi như thế nào tất cả những cái khó khăn trên bước đường mà nhập định thì được Thầy trả lời rất là kỹ lưỡng. Và bây giờ thì Thầy trả lời cô Diệu Quang hỏi về giới luật, đây là câu hỏi của cô.

Diệu Quang: Kính bạch Thầy! Tại sao tu sĩ Phật giáo hiện giờ không giữ gìn giới luật, sống phi giới luật, sống bẻ vụn giới luật, như vậy con đường tu của họ sẽ đi về đâu? Và có ích lợi gì cho kiếp sống tu hành của họ? Người tu sĩ giữ gìn giới luật nghiêm túc sống đúng phạm hạnh thiểu dục tri túc, phòng hộ sáu căn đầy đủ con đường tu của họ sẽ đi về đâu? Và có ích lợi gì cho kiếp sống của họ? Cúi mong Thầy chỉ dạy cho chúng con được rõ.

(01:44) Trưởng lão: Như Thầy đã dạy, Giới luật là một pháp môn tu hành của đạo Phật chứ không phải là pháp luật của một quốc gia. Cho nên các bộ Giới luật do các Tổ biên soạn thành một bộ Pháp luật của Phật giáo hơn là một pháp môn tu tập để được vô lậu.

Pháp môn Giới luật ghép cùng pháp môn Định luật và pháp môn Tuệ luật gọi chung có tên là Tam vô lậu học. Nghĩa là trong cái pháp môn mà để cho chúng ta tu tập thì chúng ta biết rằng cái vấn đề giới luật rất là quan trọng, mà hầu hết là khi chúng ta tu hành, chúng ta quyết tâm đi tìm về cái sự vô lậu để làm chủ sự sống chết, chấm dứt cái sự luân hồi của mình, thì con đường mà Thiền định của đạo Phật bắt đầu đi vào từ cái giới luật để chúng ta ly dục ly ác pháp. Nhưng mà chúng ta không biết cho nên chúng ta bị lầm lạc, do đó chúng ta tu ức chế tâm. Hầu hết là chúng ta cứ nghĩ rằng mình cố gắng mình nhiếp tâm trong một cái hơi thở hoặc là trong một câu niệm Phật hoặc là cố gắng giữ tâm đừng cho niệm thiện niệm ác để mà thực hiện cho được cái tâm mà không vọng tưởng, thì cái đó là Thiền định.

Nhưng ngược lại thì đạo Phật thì không phải là cái điều đó, mà chính Thiền định của đạo Phật là cái tâm không còn tham, sân, si, mạn, nghi nữa, cái tâm mà không còn thất kiết sử nữa, cái đó là cái Định của Phật, chứ không phải là cái chỗ hết vọng tưởng là Định. Cho nên sau này thì các con sẽ đọc lại cái tập vấn đạo mà cái tập 5, thì sắp sửa Thầy sẽ cho in ra và các con sẽ thấy rõ được cái điều mà chúng ta tu tập.

Cho nên hầu hết tới bây giờ, như các con cũng biết rằng có nhiều người tu rất lâu do cái pháp ức chế tâm, từ cái pháp Tri vọng cho đến cái hơi thở, mà về đây Thầy dạy mà lúc trước đó, thì đương nhiên đó là toàn là cái pháp ức chế tâm, chứ không phải là pháp xả tâm. Nhưng vì nếu mà dạy mà ngay liền xả tâm thì tới bây giờ mà người ta vẫn còn chưa tin Thầy cái lời nói đó.

Cho nên mọi người, tuy rằng cô Út thì trực tiếp dạy xả tâm còn Thầy thì giữ cái mực kêu là dung hòa không có dám nói thẳng ra, thế mà các con thì bán tín bán nghi cho nên không có thấy. Vì vậy mà đến cuối cùng thì những cái điều kiện mà rút tỉa từ kinh nghiệm bản thân tu, thì như cô Minh Cảnh…​

(04:31) Tất cả những người mà nhiếp tâm hết vọng tưởng rồi, thì trong 30 phút hoặc 1 giờ, đều biết được cái điều này rất rõ qua kinh nghiệm. Cho đến thậm chí như bây giờ chính Minh Tông bây giờ cũng vẫn thấy…​

Trước kia thì Thầy nhắc khéo thôi chứ Thầy cũng không dám nói thẳng, nói thẳng sợ người ta không đủ niềm tin ở mình. Vì tất cả các pháp khác đều do cái từ ức chế tâm mà đi vào, mà bây giờ thì Thầy lại nói xả tâm, thì chắc người ta sẽ thấy Thầy nó xa lạ, nó không có gần gũi với những cái pháp môn hiện hành người ta đang tu.

Do những cái điều mà xảy ra để cho chúng ta rút tỉa từng kinh nghiệm, chúng ta mới trực nhận ra được là khi tu tập những cái pháp mà ức chế tâm thì nó không đạt đến cái chỗ mà làm chủ sự sống chết, mà nó lạc vào những cái tưởng. Cho nên cái thế giới siêu hình nó cũng từ cái tưởng của các tôn giáo, cũng như Phật giáo Đại thừa, Thiền tông mà đã xây dựng nó, là do chúng ta bị ức chế tâm mà chúng ta thấy được cái thế giới siêu hình đó.

Cho nên cái bài mà kinh của Phật dạy trong kinh Nguyên thủy, pháp môn căn bản thì đức Phật nói: “Tất cả đều là Tưởng tri chứ không phải là Tuệ tri”. Tất cả những cái 33 cõi Trời thì đức Phật cũng xác định đó là cái thế giới của tưởng, chứ không phải là cái thế giới của thật.

Thậm chí như cái thế giới hữu hình của chúng ta hiện giờ mà chúng ta có thân nè, có cây cỏ, có nhà cửa nè, có ăn, uống, có tất cả những loài vật xung quanh chúng ta, thì với cái đôi mắt của đức Phật thì đức Phật cũng nói đó là cái thế giới duyên hợp. Mà thế giới duyên hợp thì chúng ta đừng có chấp lầm nó mà trở thành một cái thế giới thật, trở thành thế giới thật thì đó là một cái thế giới tưởng của chúng ta. Cho nên ngay cả cái thế giới hữu hình mà chúng ta đang sống thì Phật cũng xem nó là cái thế giới tưởng.

Còn cái thế giới mà vô hình là cái thế giới gọi là linh hồn, Thần thức, thì cái thế giới đó lại là càng tưởng tri hơn nữa, nó là cái bóng dáng của cái thế giới hữu hình này. Cái thế giới hữu hình đã không thật, thì cái thế giới mà siêu hình đó làm sao có thật được?

Cho nên từ đó, thì đức Phật biết rằng trên con đường tu mà ức chế tâm nó sẽ rơi vào trong những cái trạng thái rất là sai lạc. Do cái thời đức Phật mà đi tu thì đức Phật cũng thọ dụng những cái pháp của các ngoại đạo dạy. Như ức chế thân thì như các con cũng đã biết đó, thì đức Phật là khổ hạnh đến cái mức độ mà ức chế cái thân của mình từ cái ăn uống rất là ức chế, thậm chí như một ngày bảy hạt mè để rồi cái thân không có còn đứng dậy nổi, mà phải nằm dài. Đó là ức chế cái thân.

Rồi về cái pháp môn mà tu tập, các con sẽ đọc tới cái chỗ mà Minh Tông hỏi Thầy về ức chế tâm thì như thế nào? Thầy sẽ đọc lại những cái bài kinh để rồi các con sẽ thấy cái ức chế tâm và ức chế thân. Ức chế thân thì gọi là khổ hạnh. Còn ức chế tâm, thì đức Phật dùng cái hơi thở ức chế đến cái mức độ mà hơi thở nó không còn thở nữa, mà cũng chẳng đạt được đến đâu mấy con. Cho nên ở đây nó tịnh chỉ hơi thở, chứ không phải là làm cho hơi thở nín thở. Cho nên các con hiểu nhiều khi các con hiểu sai.

Cũng như các con hiểu rằng phá âm thanh không có nghĩa là làm chúng ta trở thành điếc, làm chúng ta không còn nghe âm thanh nữa, mà cái danh từ dùng để phá âm thanh tức là chúng ta ở trong một cái trạng thái lắng trong nào đó của tâm hồn của chúng ta, để rồi âm thanh nó không tác động được vào trong nơi đó, nơi thanh tịnh đó. Đó là cái lối tu của chúng ta.

(07:58) Cho nên ở đây, hầu hết là các con sống các con thấy giới luật của Phật rất là nghiêm chỉnh. Mà chúng ta muốn đạt được một cái gì đi nữa, thì cũng từ cái giới luật đó mà chúng ta mới đạt được, nó là cái pháp môn rất căn bản. Pháp môn Giới luật này nó được ghép chung với cái Định và cái Tuệ thì gọi là Tam vô lậu học. Cho nên gọi là cái pháp môn Định luật và cái pháp môn Tuệ luật ghép với cái pháp môn Giới luật, thì Giới - Định - Tuệ.

Giới - Định - Tuệ thì nó trở thành một cái pháp môn chung là Tam vô lậu học. Ba cái pháp này nó trở thành vô lậu. Nó làm chúng ta hết đau khổ. Tam vô lậu học là ba pháp môn tu tập không còn lậu hoặc, tức là ba pháp môn tu tập sẽ chấm dứt đau khổ của kiếp người, hay nói cách khác là làm chủ Sanh - Già - Bệnh - Chết.

Ba pháp môn ấy chỉ có Giới luật là pháp môn quan trọng nhất và tu tập khó nhất trên đường tìm cầu sự giải thoát của đạo Phật. Bởi thế người nào tu hành mà không giữ gìn giới luật, không tu giới luật, không sống đúng giới luật thì có tu suốt đời cũng chẳng tới đâu. Chỉ còn tu danh, tu lợi, tu tưởng mà thôi chẳng bao giờ có giải thoát.

Đó, thì các con thấy nó rất là quan trọng như vậy. Suốt cái đời mà tu hành của Thầy ở trong thất, Thầy rất là giữ gìn giới luật rất là đúng cách. Nhưng mà tu sai pháp, vì ức chế tâm biết vọng liền buông để hoàn toàn hết vọng. Nhưng lại rơi vào các trạng thái tưởng mà không có lối ra, không có biết ra. Cho nên cuối cùng thì từ cái giới luật thanh tịnh đó, phải đi vào một cái pháp hướng để mà nhắc tâm tự nó để mà nó làm chủ, chứ không phải ức chế nữa.

Cho nên khi mà đạt được, thì Thầy thấy cái pháp hướng Như Lý Tác Ý, cái pháp hướng rất là tuyệt vời. Nhưng mà đem áp dụng vào cái pháp hướng này cho tất cả mọi người, thì như trường hợp như thầy Thiện Thuận, khi tâm hết vọng tưởng thì áp dụng nó lại thành bị cái pháp hướng do tưởng, mà làm rối loạn cơ thể, hình thức là bị tẩu hỏa nhập ma.

Thầy Minh Tông thì nhờ cái pháp hướng mà vượt qua những cái cơn đau thử thách của cơ thể qua ý thức của mình và vượt qua những cái trạng thái của tưởng, nhưng lại rồi sử dụng không đúng pháp hướng. Tức là pháp hướng phải sử dụng lúc nào, tâm lúc nào mà sử dụng pháp hướng nó mới có hiệu quả. Mặc dù nó rất hiệu quả, cho nên khi một cái người dùng pháp hướng mà có hiệu quả, mà cái hiệu quả đó mà không đúng lúc dùng thì cơ thể sẽ bị bệnh tật và tai họa rất lớn.

Cho nên rút tỉa từng kinh nghiệm đó, Thầy và thầy Minh Tông có bàn ra cái vấn đề này rất rõ. Là sau khi những cái Thọ hành đã khởi sự tấn công, tấn công là do dùng pháp hướng sai, nó làm cho cơ thể bị bệnh tật. Do nhờ ở gần bên Thầy nên kịp thời chặn đứng lại được những cái Thọ hành đó. Nếu mà xa Thầy thì kể như là dùng pháp hướng và cái sự mà ức chế tâm thì rất là tai hại. Cho nên những cái trang sau của cái tập vấn đạo năm này, thì các con sẽ có rút tỉa được những kinh nghiệm rất là đặc biệt của con đường tu này. Cái pháp hướng nó có một cái lực, cái lực rất là vĩ đại mà cái bài vấn đạo về Như Lý Tác Ý, về cái pháp ám thị thì Thầy sẽ nói kỹ.

2. BA ĐỨC VÀ BA HẠNH NÒNG CỐT CỦA NGƯỜI TU SĨ PHẬT GIÁO

(11:30) Ở đây thì chúng ta đi vào cái pháp đầu tiên, mà hầu hết là các con theo Thầy tu rất lâu nhưng mà không có giữ gìn trọn vẹn cái giới luật. Không phải là giới của Tỳ kheo, mà là giới của sự tu tập để được giải thoát. Giới của sự tu tập để được giải thoát là cái giới gì? Nó đơn giản, nó ít giới, chứ nó không phải nhiều:

Ăn; Ngủ; Độc cư. Đó là cái giới của những người tu giải thoát.

Nhẫn nhục; Tùy thuận; Bằng lòng. Đó là cái giới của những người tu giải thoát.

Đó là cái pháp môn, cách thức sống để mà tu được giải thoát mà gọi là Giới. Các con hiểu?! Chứ không phải là 250 giới, hay là 348 giới, hay hoặc là Thập Giới Sa Di, hay hoặc là Ngũ Giới của cư sĩ, hay hoặc là Thập Thiện. Nó không phải là những cái giới đó đâu. Mà là những cái giới của chúng ta để mà tu tập, sống: "Ăn, Ngủ, Độc cư và Nhẫn nhục, Tùy thuận, Bằng lòng".

Nó chỉ có mấy giới vỏn vẹn mà các con hầu hết là sống không đúng. Cho nên từ cái chỗ không đúng đó mà nó đưa các con đi đến cái chỗ rất là nhiều cái sự việc bất an để cho mình không xả tâm, không ly dục ly ác pháp được. Nghĩa là thay vì các con phải sống đúng cách của nó là độc cư tiếp duyên nhau mà không hề nói chuyện với nhau, đó là độc cư. Nghĩa là sống chung bên nhau mà không có nói chuyện.

Như Thầy đem câu chuyện như ba anh em tôn giả: Ông A Na Luật, ông Kim Tôn Giả và ông Hiếp Tôn Giả. Ba vị này sống chung nhau, mà trong một cái nhà chứ không phải là mỗi người ở một cái nhà đâu. Nhưng mà suốt 3 năm người ta không có một tiếng nói với nhau. Còn mình thì hở ra thì mình nói chuyện, hở ra thì mình nói chuyện, đó là mình sống không đúng cách rồi.

Cho nên mình chẳng có chuyện gì, mình là người vô sự, là người xả tâm, người quyết tìm con đường giải thoát, thì tiếng nói của chúng ta là phải tịnh chỉ. Tịnh chỉ để mà chúng ta nhập Sơ thiền. Cho nên muốn vào Sơ thiền thì phải tịnh chỉ ngôn ngữ. Thế mà ngôn ngữ chúng ta cứ phát ra mãi thì làm sao mà chúng ta tu cho tới nơi?

Mà tu không tới nơi thì các con cứ nghĩ rằng, nếu mà còn Thầy thì cái đức của Thầy thì các con sẽ ăn không hết. Còn nếu không còn Thầy thì thử hỏi ai cúng dường cho mấy con? Nhiều khi các con tu không tới nơi, tới chốn mà vả lại là chiếc áo của người cư sĩ nữa. Còn tu sĩ thì các con biết sao mà họ còn sống được không? Là vì họ có cái mỏ và cái chuông. Cho nên vì vậy đó, thì khi mà họ tu không chứng, thì đi dần từ cái chỗ Thiền định, họ phải đi dần qua cái Tịnh độ. Để rồi họ đi cúng bái, tụng niệm, cầu an, cầu siêu, đi làm đám ma chay, từ đó Phật tử mới cúng dường họ sống.

(14:05) Đó! Thì các con thấy các con đi tu, các con cũng thấy cái sự tu tập của mình nó rất quan trọng. Thứ nhất là mình phải nỗ lực tu như thế nào để được giải thoát. Thứ hai là mình làm sao để cho cái cuộc sống mà khi mà Thầy ra đi rồi các con còn đủ cái niềm tin đối với những người khác, để tạo cái duyên tốt cho người khác thì người ta mới quý trọng và kính mến mình. Do như vậy, thì các con biết rằng, không lẽ sau khi Thầy tịch rồi thì các con sẽ sống như thế nào đây? Phải làm gì? Vì vậy mà cô Út cô cũng lo, băn khoăn trên cái nỗi lo lắng.

Bởi vì các con đã từ bỏ hết cái đời sống ngoài thế gian, không còn làm lụng một cái gì để sống, mà quyết tâm theo tu giải thoát. Nhưng mà các con không giữ gìn những cái Giới hạnh cho nghiêm túc, thì làm sao các con được giải thoát được? Bởi vì chính cái đó là những cái mà quan trọng nhất cho đời tu hành của mình, để cho mình giải thoát được cái tâm của mình hoàn toàn, muốn làm chủ sanh, già, bệnh, chết hồi nào cũng dễ dàng. Và nó đủ Thần lực để chúng ta có thể làm được những chuyện phi thường mà người đời không thể lường được.

(15:20) Còn bây giờ các con thấy trải qua một thời gian theo Thầy rất lâu, ba bốn năm trời, nhìn lại thì tâm nào cũng còn tật nấy, chưa phải là hoàn toàn là xả hết. Cho nên chúng ta khi không tu thôi, đã quyết tu thì chúng ta phải tu cho tới nơi tới chốn, phải tu như thế nào đúng. Mà những lời Thầy dạy hầu như các con cũng đã nghe rất nhiều, nghe rất nhiều, thế mà các con cũng không giữ trọn.

Đây, những cái pháp này chúng ta cố gắng mà chúng ta giữ, để rồi chúng ta thực hiện các cái pháp mà để chúng ta xa lìa, xa lìa cái tâm đau khổ của chúng ta, tâm tham, sân, si, tâm ác pháp của chúng ta, làm cho chúng ta không còn đau khổ nữa.

(16:04) Như ở đây, từ cái ngày mà cô Minh Cảnh về đây tu tập, như cô Huệ Ân về đây thì sức khỏe còn rất tốt. Nhưng mà đến hôm nay thì cái cơ thể vô thường, cái sức khỏe nó lần nó hoại diệt. Cơ thể nó càng ngày nó yếu nó đi xuống. Nó có thể dễ dàng trong một giây phút nào đó mà chúng ta sẽ bỏ cái thân này. Nhưng mà hiện giờ chúng ta xét lại, chúng ta thấy mình có làm chủ được gì? Hay là trước những cơn bệnh tật đau khổ đấy rồi chúng ta cũng sẽ rên la trên giường bệnh? Cũng thấy đau nhức, cũng khổ sở? Rồi cũng chết? Rồi cũng chẳng biết mình đi về đâu? Khi cái thân này tự nó đưa đến sự hoại diệt đó, mà không phải sự làm chủ của mình.

Trải qua thời gian cũng rất là dài, như cô Minh Cảnh nhập thất sống một mình rất lâu. Cho đến giờ này mà con đường tu nó sẽ đi về đâu đây? Phải đặt ra câu hỏi. Mà tại sao lời Thầy dạy lại không làm đúng? Làm đúng như thế nào? Phải sống độc cư, phải sống ăn, sống ngủ như thế nào? phải tu như thế nào vừa với sức của mình?

(17:24) Thứ nhất, Thầy đã nói điều quan trọng thứ nhất là muốn nhập được Sơ thiền để ly dục ly ác pháp, để làm chủ cái tâm của mình không còn tham, sân, si giận hờn, phiền não, đau khổ nữa. Thì tịnh chỉ ngôn ngữ là điều thứ nhất. Tịnh chỉ ngôn ngữ mới nhập được Sơ thiền. Mà điều thứ nhất là tịnh chỉ ngôn ngữ, tức là không nói chuyện.

Mà chúng ta nói chuyện là nói chuyện làm gì? Có gì đâu mà phải nói. Chuyện thiên hạ mặc ai mình chẳng để ý, chẳng biết. Như có cái gì mà liên hệ với mình, thì người khác nói, thì mình thấy cái điều kiện đó quan trọng vì cái cuộc sống chung thì mình trả lời. Mà vì cái chuyện mà nó không quan trọng, mà hỏi về đạo thì mình cũng chưa có gì để làm sao dám dạy ai, cho nên mình từ chối. Tôi chẳng biết!

Mà hỏi về đời thì tôi là người lánh đời thì tôi chẳng hiểu đời. Thì dù mình có hiểu biết đời cho mấy đi nữa, mà khi mình vào đây tu hành thì cuộc đời mình xả rồi, thì người ta hỏi chuyện đời thì đừng nhắc lại cái điều mà mình đã biết trong cuộc đời của mình. Vì đời là đau khổ có gì đâu mà phải tỏ ra những kinh nghiệm hiểu biết đó. Cho nên xả xuống, đừng nói chuyện đời, tức là chuyện phiếm đó.

Mà cũng đừng nói chuyện đạo, vì đạo mình cũng chẳng tới đâu, cho nên chẳng nói mà chỉ giữ gìn. Chỉ có điều kiện là người khác cần mình giúp đỡ họ quét sân hoặc là khiên một giỏ rác nặng hay hoặc là khiên một cây củi hay hoặc là giúp một cái gì đó thì vui vẻ bằng lòng giúp đỡ họ liền. Nghĩa là trong hiện tại cái chuyện gì giúp người khác được liền thì mình giúp liền. Mà trong khi giúp đó, thì khi người ta nhờ: "Cô Minh Cảnh hãy giúp giùm cái giỏ rác này giùm tôi". Thì tức là mình đến mình giúp liền. Hay là cô Minh Cảnh nhờ một người khác: "Bây giờ em nhờ chị giúp cho em một cái xô nước vì cái xô này nặng quá, em xách không nổi". Thì người khác lại giúp mình rồi cũng không nói chuyện.

Thì như vậy mình nói, chứ không phải là mình câm. Vì mình thấy cái chuyện mình làm không nổi nhờ người khác, tức là phải nói chứ không thể làm thinh được. Mà nói rồi thì cái chuyện đó là cái chuyện cần thiết cho đời sống của mình cho nên mình nói. Còn cái chuyện tào lao, cái chuyện không đúng thì mình không nói.

(19:40) Do như vậy thì các con thấy từ ngày mà theo Thầy tu cho tới bây giờ, về cái hạnh độc cư thì các con thấy chưa có ai mà làm đúng trọn vẹn. Người mà khá nhất, được trọn vẹn nhất đó là Thầy Minh Tông, nhưng vẫn còn bị một vài lỗi nhỏ là vì gia đình chứ còn không tiếp duyên với quý thầy, không tiếp duyên với một người nào cả. Chỉ có gia đình, tình cảm gia đình đến, nhiều khi đòi hỏi ở cái chỗ hiểu biết để tiếp duyên. Do đó, mỗi lần mà tiếp duyên như vậy đều thấy có sự động rất lớn. Còn các con thì hằng ngày tiếp duyên, cho nên các con không thấy. Đó là những cái điều sai.

Vậy mà khi đã tịnh chỉ ngôn ngữ như vậy rồi, mà tu hành dùng pháp hướng hoặc là tu hành ức chế tâm, nó còn đi còn trật đường, còn sai! Còn huống hồ là chúng ta luôn luôn không giữ gìn cái giới, thì như vậy thì chúng ta nó còn sai biết bao nhiêu đường.

3. GIỚI LUẬT LÀ PHÁP MÔN RẤT QUAN TRỌNG TRÊN CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT

Cho nên đối với đạo Phật nó không khó, mà nó rất khó! Nó rất khó là vì chúng ta giữ gìn giới luật không đúng. Bởi thế người tu hành mà không giữ gìn giới luật, không tu giới luật, không sống đúng giới luật thì có tu suốt đời cũng chẳng tới đâu. Chỉ còn tu danh, tu lợi, tu tưởng mà thôi, chẳng bao giờ có giải thoát. Nếu không tu giới luật mà tu định thì Thiền định đó là tà thiền, tà định.

Đó! Bằng chứng như các con cũng thấy rằng giới luật không nghiêm chỉnh, mà bây giờ các con nhiếp tâm không vọng tưởng, thì các con sẽ rơi trong các trạng thái tưởng như thế nào không? Đó là tà thiền, tà định.

Tới bây giờ các con có thấy người nào mà làm chủ sự sống chết được chưa? Và làm chủ được cái tâm của mình còn phiền não giận hờn, còn ác pháp trong đó chưa? Cho nên mặc dù nhiếp tâm hết vọng tưởng, nhưng các con cũng chưa thấy hết được, cho nên cũng chưa làm chủ được.

(21:35) Nếu không tu Giới mà tu Tuệ, thì tuệ đó là kiến giải, tưởng giải, là nhai lại đờm dãi của người xưa, thêm râu ria, vẽ rắn thêm chân. Nghĩa là các con bây giờ đem ra lý luận bằng cách này cách kia, thì cũng vay mượn của kinh sách, vay mượn lời của Hòa thượng, vay mượn lời của Thầy để mà nói ra, thì không phải đó là nhai lại đờm dãi của người khác sao? Các con thấy không?

Bây giờ các con có nói cái gì? Các con có nói cái của các con đâu? Các con nói cái của Thầy, cái kinh nghiệm của Thầy, nói những cái Thầy nói chứ các con cũng chả biết cái đó là như thế nào. Cho nên những cái đó là cái mà Thầy dùng đờm dãi.

Nghĩa là cái chất nhơ bẩn đó, đừng có nhai lại! Mà hãy nhai những cái gì mà của mình sạch sẽ, chứ đừng có nhai lại cái đó. Mặc dù đó là lời Phật nói, đó là Tổ nói, đó là Thầy nói, nhưng Thầy vẫn xem đó là cái đờm dãi, cái chất dơ bẩn. Từ xưa đến giờ các Tổ chỉ lập đi lập lại lối mòn của nhau, chỉ dùng từ hiện đại cho lạ tai mà thôi. Chứ lối mòn vẫn là lối mòn, không thể nào lối mòn là đường cái được.

(22:36) Đó, đường cái! Thí dụ bây giờ các con thấy Thầy nói nó không có đi vào cái con đường của các Tổ, mà dạy không có lặp lại cái ý của các Tổ. Cho nên Thầy không có nhai lại đờm dãi của người. Thầy hiểu qua cái chỗ tu hành của Thầy. Thầy biết cái sai của các Tổ, Thầy biết cái đúng của cái sự làm chủ sanh tử, Thầy nói rất rõ ra. Thì cái đúng này, thì lật kinh điển của Phật ra, thì người ta đọc người ta thấy rất đúng, không có sai.

Cho nên gần đây, thầy Chơn Trí về đây, thì Thầy cho Chơn Trí mượn cái tập Trung bộ kinh tập 1. Do đó những cái bài kinh mà Chơn Trí được Thầy chỉ cho đọc. Thì lúc bây giờ Chơn Trí đọc thấy quả đúng là Thầy dạy như thế nào, thì Phật dạy như thế nấy, không có khác. Đó là những cái điều mà Thầy dạy qua kinh nghiệm của Thầy. Nhưng mà trong kinh điển của Phật còn ghi lại. Thầy không nhai lại cái lời, cái ý của Phật, mà Thầy nói cái kinh nghiệm của Thầy tu, mà thật nó không sai!

Như trên Thầy đã dạy, giới luật là pháp môn quan trọng nhất trong Tam vô lậu học. Ba pháp môn Định học nè, rồi Tuệ học nè, mà cái Giới học là quan trọng, rất là quan trọng. Đó thì bằng chứng các con theo Thầy, từ nào tới giờ, nhiếp tâm hết vọng tưởng, thì các con lần lượt các con thấy hết vọng tưởng. Nhưng mà cái giới luật, mà để cho các con trọn vẹn, cho đạt được, thì các con xét coi có đứa nào mà đã giữ gìn giới luật trọn vẹn đâu?

(24:01) Vì muốn thoát ra sự đau khổ của kiếp người, đức Phật dạy: “Vì hạnh phúc, vì lòng thương tưởng đệ tử, những việc ấy ta đã làm xong”. Nghĩa là cái giới luật của Phật, Phật nói, đức Phật đã làm xong được, cho nên đức Phật thấy rằng con người tu tập được cái giới luật, chứ không phải là khó khăn lắm. Thế mà đức Phật mới thương các đệ tử của mình, thương người mà đức Phật mới dạy, mới nhắc lại: “Vì lòng thương tưởng ta dạy các ngươi”. Một bài kinh mà đức Phật đã khéo nhắc nhở cho các vị Tỳ kheo tu tập giới luật, vì giới luật rất quan trọng trên đường cầu giải thoát.

Bài kinh ước nguyện Trung bộ tập 1 trang 79 Phật dạy: “Này các Thầy Tỳ kheo, hãy sống đầy đủ giới hạnh, đầy đủ giới bổn, sống phòng hộ với sự phòng hộ của giới bổn, đầy đủ oai nghi chánh hạnh thấy sự nguy hiểm trong các lỗi nhỏ nhặt, chơn chánh lãnh thọ và học tập các giới”.

4. MỤC ĐÍCH TU TẬP CHÁNH NIỆM TĨNH GIÁC LÀ ĐỂ XẢ TÂM CHỨ KHÔNG PHẢI ỨC CHẾ TÂM

(24:57) Trong cái thời gian Chơn Trí ở gần bên Thầy trong một tháng, nữa tháng mấy ở gần đây, thì Thầy chỉ nhắc mỗi lần một hành động nào đó, mà con thấy được cái sai của con, không đúng giới luật của Phật, thì đó là đều con tỉnh giác, con tỉnh thức. Chứ không phải con tập tỉnh thức, con đi kinh hành con biết đi kinh hành. Để cho con áp dụng vào cái chỗ biết cái sai, cái đúng của con, chứ không phải là con đi kinh hành biết đi kinh hành, mà không biết cái lỗi cái sai của con, thì như vậy không có nghĩa là con tỉnh thức, mà con bị ức chế tâm trong sự đi kinh hành. Các con nhớ kỹ! Các con hiểu chỗ đó chứ?

Nghĩa là bây giờ các con đi kinh hành các con biết từng bước đi kinh hành cho 1 tiếng, 2 tiếng đồng hồ mà tỉnh thức, tỉnh thức biết cái đi kinh hành đó, mà đối với cái tâm của các con ham muốn cái này, khởi ra ác pháp cái kia mà các con không biết thì cái đó các con cũng chưa phải là tỉnh thức. Mà vì cái tỉnh thức đó do các con ức chế tâm buộc tâm con phải tập trung gom lại bước đi để biết bước đi chứ không phải tỉnh thức.

Đó thì cái quan trọng là cái ở chỗ này. Khi mà tập tỉnh thức như vậy, để rồi nó còn ở chỗ nào? Ở chỗ cái tâm niệm của mình nó khởi ra cái niệm này niệm kia, nó ham muốn, nó tranh hơn thua hoặc là nó ganh tị hoặc là nó hiềm khích, thì đó là những cái tâm niệm khởi lên mà mình biết được cái đó để cho mình xả cái tâm, mình kịp thời mình ngăn chặn cái tâm. Thì mình ngăn chặn cái tâm thì lúc bây giờ thì đó là mình tỉnh thức. Mình tỉnh thức, tĩnh giác.

Còn cái mà tĩnh giác mà đi kinh hành biết mình đi kinh hành, hít vô mình biết hít vô, thở ra mình biết thở ra mà không hiểu được cái tâm của mình đang ở trong cái gì, cái ác pháp gì hoặc là cái lòng ham muốn gì, mình không biết nó, cho nên cái tỉnh thức đó gọi là ức chế tâm tỉnh thức, chứ không phải là tỉnh thức. Cho nên xê xích một chút xíu là chúng ta đã biết mình, do mình tu ức chế tâm, mà do mình không tu ức chế tâm.

Và khi một người biết được cái tâm niệm của mình nó đang ở trong ác pháp, trong thiện pháp. Thì lúc bây giờ biết nó ở ác pháp thì tâm liền xả, nó không còn bị dính mắc nữa và nó không còn bị phiền não đau khổ nữa, thì đó là cái chỗ tu của đạo Phật gọi là xả tâm diệt ngã, chứ không phải chỗ ức chế tâm. Mà chỗ xả tâm diệt ngã đó nó làm cho tâm chúng ta thanh tịnh, nó không còn giận hờn phiền não đau khổ nữa, thì cái tâm đó gọi là tâm Thiền định. Chứ không phải cái tâm hết vọng tưởng mà Thiền định, hay hoặc là cái tâm tỉnh thức mà biết đi kinh hành biết hơi thở ra vô là Thiền định. Cho nên cái tu sai là cái chỗ sai đó của các con.

Bởi vậy đức Phật dạy Chánh Niệm Tĩnh Giác. Khi mà tĩnh giác thì phải ở trong cái Chánh Niệm. Tức là tỉnh thức ở trong cái niệm chơn chánh làm cho cái tâm của chúng ta không có giận hờn phiền não, tức là ly dục ly ác pháp đó. Thì các con hiểu được như vậy mới biết được con đường của đạo Phật là Thiền định xả tâm để cho cái tâm thanh tịnh. Chứ không phải mình tu tập để tỉnh thức để đi đến sự tĩnh lặng ở trong cái trạng thái hết vọng tưởng, thì cái điều đó là cái điều của thiền của ngoại đạo, của Đại thừa, của Thiền Đông Độ, chứ không phải là của thiền của đạo Phật.

Vì đạo Phật nhắm vào cái chỗ làm chủ sanh, già, bệnh, chết. Thì cái sanh là cái đời sống của chúng ta, thì do cái chỗ tu tập của chúng ta để cho đạt được cái tâm không còn phiền não đau khổ nữa. Đó là cái tâm Thiền định. Và từ cái tâm Thiền định đó, các con sẽ có đủ cái đạo lực, cái đạo lực đó các con dùng cái pháp hướng mà điều khiển, sai khiến để chúng ta nhập các định Như Ý Túc, như ý muốn của mình.

Nghĩa là mình muốn nhập như thế nào thì nó nghe theo như thế nấy, tức là cái tâm thanh tịnh đó. Cho nên vì vậy muốn có Định thì phải có cái sự xả ly cái tâm thì nó mới có Định. Xả ly cái tham, sân, si phiền não, chứ không phải xả cái niệm vọng tưởng. Mà cái tâm tham, sân, si phiền não nó còn mãi thì làm sao mà có Định được.

Cho nên ở đây chúng ta thấy khi mà xả ly được cái tâm như vậy thì chúng ta đã làm chủ được cái cuộc sống của chúng ta, tức là làm chủ sanh, cái đời sống của mình. Cho nên mình không còn phiền não giận hờn, không còn lậu hoặc ở trong đó nữa. Đó thì các con thấy ngay từ cái chỗ xả ly là chúng ta đã làm chủ được một cái làm chủ của chúng ta rồi. Và khi làm chủ được cái đó rồi thì bắt đầu chúng ta mới làm chủ được cái thân của chúng ta.

5. MUỐN NHIẾP PHỤC TÂM HAM MUỐN, KHIẾP ĐẢM THÌ PHẢI TU TẬP GIỚI LUẬT VÀ BỐN PHÁP ĐỊNH

(29:20) (tắt tiếng)…​ Cầu khẩn như vậy.

Còn bên mà Nguyên Thủy thì họ dạy mình chỉ sống đúng giới luật là nó sẽ tai qua nạn khỏi, tất cả những cái điều mà xảy đến cho mình đều là được an ổn hết.

Kinh sách Đại thừa, lối dạy tu tập đều cầu tha lực Tam Bảo gia hộ, cho đến những ước nguyện cho mình, cho người đều dựa vào tha lực. Còn ngược lại kinh sách Nguyên Thủy dạy tự lực muốn lợi mình, lợi người thì người ấy phải tự mình tận lực sống đúng giới hạnh. Nói một cách khác là phải sống đúng thiện pháp, không được sống trong ác pháp. Nói chung Phật dạy con người muốn có cuộc sống an vui hạnh phúc thì phải có đầy đủ đạo đức không làm khổ mình, khổ người thì được toại nguyện.

Đọc qua bài kinh Pháp Môn Căn Bản ta thấy rõ Phật giáo không dẫm lại lối mòn của các tôn giáo khác. Tự mình vạch ra một lối đi độc đáo, tự lực cụ thể không mơ hồ, chính xác để giải quyết kiếp sống con người thoát ra cảnh khổ, tạo thế gian thành thiên đàng.

Để chiến thắng sự ưa thích dục lạc thế gian, sự không ưa thích, sự bất toại nguyện và sự khiếp đảm sợ hãi, Phật dạy: "Này các Thầy Tỳ kheo nếu Tỳ kheo có ước nguyện mong rằng ta nhiếp phục lạc và bất lạc chứ không phải lạc và bất lạc nhiếp phục ta." Mình vì nó mà mình bị nó nhiếp phục, mình sợ liền. Còn trái lại một người mà giữ giới luật thì không có để cho nó nhiếp phục mình, mà mình nhiếp phục nó.

Cũng như giờ ăn miếng ngon, cái bắt đầu mình nhớ, mình thèm nữa, thì bị cái lạc đó nó nhiếp phục mình. Bây giờ cái đau nhức cái đầu hay hoặc nhức cái chân, cái mình bị nó nhiếp phục mình liền, cái mình sợ, cái mình bắt đầu mình ăn uống, mình ăn phi thời, mình không dám giữ gìn đúng cái giới luật. Hoặc là bây giờ cái giờ mình tu, mà nghe nó mỏi mệt, nghe nó nhức đầu, cái bắt đầu thôi đi nằm đi. Thì trong lúc đó mình bị cái thọ khổ đó nó nhiếp phục mình, làm cho mình sợ hãi mình bỏ cuộc. Trái lại mình phải nhiếp phục nó, chứ không để cho nó nhiếp phục mình.

Ở đây đức Phật nói chúng ta muốn nhiếp phục được cái đó, cái lạc và cái bất lạc này nó khởi lên thì chúng ta phải tu tập giới luật, thì giới luật nó sẽ giúp chúng ta sẽ nhiếp phục được cái lạc và bất lạc đó: “Mong rằng ta sống luôn luôn nhiếp phục lạc và bất lạc được khởi lên, mong rằng ta nhiếp phục khiếp đảm và sợ hãi chứ không phải khiếp đảm và sợ hãi nhiếp phục ta”.

Ví dụ như con Chỉnh nó sống một mình, nó sợ ma, thì đó là cái sự sợ hãi, cái sự sợ ma đó nhiếp phục nó, chứ không phải là nó nhiếp phục cái sự sợ hãi. Còn bây giờ mình sống, bây giờ bỏ mình ở khu ở đằng sau có một mình, mà mình không sợ ai, tức là mình nhiếp phục sự sợ hãi. Bỏ mình trong rừng trong núi một mình, mình nhiếp phục, mình không sợ hãi, sợ cọp, sợ rắn độc, sợ thú dữ, sợ ma, sợ đủ loại, sợ một mình chết rồi không ai biết, sợ bệnh đau rồi không ai giúp đỡ, sợ không cơm ăn áo mặc, đói lạnh, mình sợ đủ thứ. Thì đó gọi là cái sợ nó nhiếp phục mình. Còn trái lại mình tu tập mình biết, thì mình nhiếp phục cái sợ đó, cho nên mình làm chủ lại nó.

Mà muốn được như vậy thì tức là cái người đó phải giữ gìn giới luật. Không có giữ gìn giới luật thì không có nhiếp phục được: “Tỳ kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật, kiên trì nội tâm tịch tĩnh, không gián đoạn Thiền định”. Tức là tỉnh thức. “Thành tựu quán hạnh vô lậu, thích sống tại các trụ xứ không tịch, độc cư”. Nghĩa là luôn luôn chúng ta phải sống ăn, ngủ, độc cư, nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng. Sống đúng những cái giới luật như vậy, thì chúng ta sẽ khắc phục được những cái sự mà khiếp đảm đó. Còn nếu không thì chúng ta sẽ không khắc phục được.

Chẳng hạn bây giờ chúng ta ở trong cái cảnh này, chị em này kia quay quần nhau, lao tác với nhau thì chúng ta thấy như vầy nó bất an quá, đi tìm một cảnh nào mà cho an, đó là chúng ta bị cái lạc nó nhiếp phục. Cái lạc thích chỗ yên tịnh, cho mình tu một mình. Đó là mình bị nó nhiếp phục mà mình không hay biết, mình tưởng đó là mình đi tìm cái cảnh giới để cho mình yên ổn tu hành. Nhưng sự thật ra nó đâu phải. Mình ở đây, trong khi mình sống chung với mọi người mà mình giữ gìn được cảnh giới yên tu hành của mình là chỉ có độc cư. Ai làm công việc thì mình giúp với nhau mình làm mà không nói một tiếng nào đó, thì nó là cái cảnh yên tĩnh để cho mình tu. Chứ không phải có cảnh yên tĩnh ngoài cái cảnh nào khác hơn hết được.

(33:55) Lời dạy trên đây rất cụ thể: *"Muốn nhiếp phục tâm ham muốn, tâm sợ hãi thì chỉ có Giới luật và Bốn pháp định. Định Chánh Niệm Tĩnh Giác, Định Niệm Hơi Thở. Không gián đoạn Thiền định, nội tâm định tĩnh Định Sáng Suốt, thành tựu quán hạnh Định Vô Lậu. Thích sống tại các trụ xứ không tịch, độc cư."* Nghĩa là mình thích sống tại cái trụ xứ. Bây giờ ở đây mình thích sống cái độc cư, thì mình tạo cái tư thế, cái cách sống của mình độc cư, mình trầm lặng. Thì nó là có độc cư. Chứ không phải nghe nói thích sống độc cư tại trụ xứ không tịch, thì mình đi tìm cái nơi nào đó để mà nó được độc cư không tịch.

Ví dụ như Thầy Chơn Trí đi vào khu Giếng chén ở có một mình trong đó, tưởng là cái khu không tịch. Nhưng mà không ngờ, lại là nó không tịch, vì ở đó nó đủ các thứ, nó làm cho tâm mình động, chứ không phải là không tịch. Rồi mình ở một mình mình, thì cái tâm nó khởi lên, nào là muốn ăn cái này, muốn ăn cái kia, rồi lại nhớ nghĩ cái này kia, thì như vậy là có không tịch không? Đâu có không tịch! Còn mình sống ở đây, hoàn toàn như thế này, mà mình khắc phục được cái tâm mình nó khởi lên cái niệm gì, nó chướng, nó trái hoặc là bất toại nguyện, hoặc là nó có những cái điều kiện làm cho mình ham thích này nọ kia. Thì lúc bây giờ đó mình khắc phục nó, mình làm cho nó trở về với sự không tịch. Thì đó là mình đã sống ở trong cái trụ xứ không tịch. Tức là độc cư.

6. Ý NGHĨA CỦA BÀI KINH ƯỚC NGUYỆN

(35:22) Trong bài kinh Ước Nguyện đức Phật dạy nhập Bốn Thánh Định rất rõ ràng và dễ dàng, không có khó khăn. Vì muốn nhập Bốn Thánh Định này không khó khăn, không có ức chế tâm như các nhà học giả kiến giải dạy ra. Chỉ cần sống đúng giới hạnh và tu tập các pháp Tứ Chánh Cần, Tứ Niệm Xứ để xả tâm cho thật sạch không còn tham, sân, si, mạng, nghi nữa.

Đây các con nghe lời của đức Phật dạy mà khi chúng ta nhập Bốn Thiền Định. Mà hầu hết là các con từ lâu tới giờ cố gắng để mà nhập cho được Tứ thiền để tịnh chỉ hơi thở chứ gì, để phá âm thanh chứ gì. Nhưng mà tới giờ này thì chưa có ai làm được là tại vì các con tu không đúng: “Này các Thầy Tỳ kheo, nếu các Thầy Tỳ kheo có ước nguyện, mong rằng tùy theo ý muốn không có khó khăn, không có mệt nhọc, không có phí sức ta chứng được Bốn thiền thuộc Tăng thượng tâm”. Tức là thuộc về định cao quý nhất: Hiện tại lạc trú. “Tỳ kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật, kiên trì nội tâm”. Nghĩa là phải giữ gìn giới luật rất là kiên trì. Nghĩa là lúc nào cũng không có để mà vi phạm giới luật thì cái người đó mới thực hiện Bốn thiền nó rất dễ dàng không có khó khăn.

Như Thầy đã nói khi cái tâm thanh tịnh là cái tâm không còn tham, sân, si. Thì cái tâm đó nó mới có thể thực hiện Bốn thiền một cách dễ dàng. Nghĩa là bảo nó nhập tịnh chỉ hơi thở là ngay đó nó tịnh chỉ liền, bảo nó tỉnh thức phá ly 18 cái loại hỷ không còn mộng mị chiêm bao nữa, thì nó tỉnh thức suốt đêm mà nó không có mệt nhọc không có khổ sở.

Các con biết rằng khi mà tu tập tỉnh thức để phá cái chiêm bao đó thì cái người đó tỉnh thức không có ngủ. Mà không ngủ thì cơ thể họ bắt đầu bệnh. Trường hợp đó là cái trường hợp Minh Tông ở đây nè. Khi nghe Thầy nói muốn nhập Tứ thiền thì phải ly 18 cái loại hỷ tưởng. Mà ly 18 loại hỷ tưởng thì nó sẽ không ngủ. Cho nên nó tập không ngủ để cho không có chiêm bao chứ gì. Nhưng mà tập được không ngủ rồi, dùng pháp hướng tập nó không ngủ thì cơ thể nó phát bệnh. Coi như người mà mất ngủ thì phải bệnh. Từ đó nó phải tập luyện làm sao mà cho cái thân nó ngủ trở lại. Bây giờ nó mất ngủ nó không chịu ngủ, nó cứ tỉnh hoài nó không chịu ngủ, thì bắt đầu cơ thể nó mệt nhọc. Ngồi thiền nó ngồi hết muốn nổi và đi kinh hành nó đi hết muốn nổi nữa, nó mệt nhọc nó làm cơ thể uể oải. Cho nên nó thấy nguy hiểm rồi, bắt đầu từ đó nó phải tập ngủ trở lại.

Hồi đó tập cho nó tỉnh thức, tập ngủ trở lại thì nó chiêm bao lung tung, nó đủ thứ chiêm bao hết. Thì các con thấy nguy hiểm ghê gớm chưa. Nó trải qua biết bao nhiêu những cái điều mà khi mà ngồi mà rớt ở trong những cái trạng thái bị ngủ, mà Thầy nhắc đi nhắc lại Thầy bảo tỉnh thức xả tâm chứ không phải là tỉnh thức mà để lặng vô trong đó mà ngủ. Nhưng mà cuối cùng thì mọi người để đến khi mà nhắc đi nhắc lại cho thời gian nó dài rồi mới rút tỉa được kinh nghiệm từ bản thân của mình thấy cái đó là sai rồi mới chịu bỏ. Chứ còn hồi Thầy nhắc thì ít có ai nghe.

(38:30) “Tỳ kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật, kiên trì nội tâm tịch tĩnh, sáng suốt định”. Tức là giữ cái tâm sáng suốt, mình thanh thản hằng ngày đó. “Không gián đoạn Thiền Định”. Nghĩa là luôn luôn giữ cái tâm đó, tức là Thân Hành Niệm nội và ngoại, tức là hơi thở và đi kinh hành. “Thành tựu quán hạnh”. Tức là Định Vô Lậu xả tâm. Thích sống tại các trụ xứ không tịch”. Tức là tạo cái trụ xứ không tịch để cho mình sống ở trong cái trụ xứ đó. "Nếu người nào muốn tu tập Thiền định đạo Phật, nhập Bốn thiền làm chủ sanh, già, bệnh, chết thì không có khó khăn chỉ cần thành tựu viên mãn giới luật." Tức là sống đúng giới luật.

Xét ra từ khi đức Phật nhập diệt đến giờ không có ai mà nhập được Bốn thiền, chỉ vì không thành tựu viên mãn giới luật. Nếu đã có người nào viên mãn được giới luật, sống đầy đủ chánh hạnh thì Phật pháp đâu bị ngoại đạo biến thể như thế này, để trở thành một tôn giáo hỗn tạp mang đủ thứ pháp môn, 84.000 ngàn pháp môn. Còn mang những danh từ ngã mạn, cống cao Đại thừa, Tối thượng thừa.

Như trên Phật đã dạy trong bài kinh Ước nguyện: "Từ đức hạnh làm người sống không làm khổ mình, khổ chúng sanh để đem lại sự giải thoát cho nhau trên hành tinh này. Thì hãy sống đầy đủ Giới hạnh, đầy đủ Giới bổn, sống phòng hộ sáu căn với sự phòng hộ của Giới bổn. Đầy đủ uy nghi, chánh hạnh thấy sự nguy hiểm trong các lỗi nhỏ nhặt, chơn chánh lãnh thọ và tu học các giới học. Thì được toại nguyện, mãn nguyện làm người có đạo đức đầy đủ." Đây là giới của người cư sĩ.

Nếu muốn thành tựu những đức hạnh của bậc Thánh nhân và thực hiện Thiền định làm chủ sự sống chết của bậc chơn nhân mà người đời thường hay ưa thích tu Thiền định. Nhưng không biết Thiền định nào đúng sai, cứ nghe Thiền định là cứ tu. Nhắm mắt tu đùa tu không suy nghĩ. Đã mất công sức tu hành, lại còn mất tiền mất của, bỏ đời sống thế gian, bỏ vợ, bỏ con, bỏ cha, bỏ mẹ, bỏ thân bằng quyến thuộc v.v…​ Chỉ vì muốn làm bậc Thánh nhân nhưng lại tu sai. Thánh nhân đâu không thấy, giải thoát đâu không thấy, ngẫm lại mà đau lòng bị lừa đảo mà không dám nói ra, ngậm miệng tự an ủi mình phải tu nhiều kiếp. "Kiếp này chưa xong thì kiếp khác tu nữa. Phật Thích Ca xưa còn tu vô lượng kiếp mới thành Phật." Câu này là câu an ủi nhất của những người tu lạc, tu tà pháp, họ nuôi hy vọng ảo huyền để mà hy vọng.

(41:10) Như trong bài kinh ước nguyện Phật dạy: “Tùy theo ý muốn không có khó khăn, không có mệt nhọc, không có phí sức, tu chứng được Bốn thiền thuộc Tăng thượng tâm hiện tại lạc trú”. Ở đây đức Phật nói những cái Thiền định đó tu tập nó không có khó khăn gì hết, nó không có mệt nhọc gì hết. Nhưng chúng ta phải biết là vì chúng ta chỉ có cần giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh mà thôi. Để rồi chúng ta xả tâm ly dục ly ác pháp, thì cái Bốn thiền định mà làm chủ sự sống chết này nó không có khó.

Cho nên chúng ta tu Bốn thiền định này khó phá âm thanh nè, phá thọ nè, rồi tịnh chỉ hơi thở nè chúng ta thấy sao mà khó quá! Khó vô cùng khó! Mà mệt nhọc quá, đêm nào cũng thức dậy ngồi thiền lim dim suốt đêm. Khuya dậy thức dậy tu tập, thế mà tới giờ này không nhập được trong bốn cái loại thiền này. Rất khó! Mà xưa đức Phật thì tu quá dễ, rất dễ. Không có khó!

Thì tại sao? Tại vì chúng ta giới luật mà không có giữ trọn, chứ đâu có gì. Giữ trọn giới luật, sống đúng những hạnh để xả ly tâm tham, sân, si, phiền não của mình thì cái gì lại không đạt được! Đó! Thì cái Thiền định gì mà không có làm chủ được. Thì các con thấy trong cái vấn đề tu nó không phải lâu. Mà tại vì các con không có chịu bỏ cái tâm của mình. Tại sao kỳ vậy?

(42:30) Như vậy Thiền định tu tập đâu có khó khăn. Thế mà người tu thiền thời nay lại tu quá khó khăn. Tu mãi từ hai ba chục năm nhưng không thành tựu. Các tổ như ngài Đại An 12 năm, ngài Diệu Cao Phong 30 năm mà chỉ triệt ngộ những công án mà thôi, còn làm chủ sanh tử thì chẳng biết gì, tâm sân hận vẫn còn cao ngút. Giải thoát đâu không thấy, làm chủ sanh, già, bệnh, chết đâu không thấy. Chỉ thấy được mồm mép bén nhạy, đối đáp như gió thổi cơ phong. Còn một số người nữa lại tu vào các loại thiền khác xuất hồn, khí công, Yoga, Mật tông, luyện bùa, niệm chú, bắt ấn v.v…​ Biến dần tu sĩ này thành, thay vì tu giải thoát họ lại làm Thầy trị bệnh trừ tà ếm quỷ hoặc tập luyện dưỡng sinh. Tức là Thiền định biến thái thành phương pháp ngừa bệnh.

Các con thấy bây giờ người ta tập dưỡng sinh là cái lối phương pháp tu Thiền chứ gì. Mà chính trong lúc đó những cái phương pháp này là những cái phương pháp Thiền ức chế tâm. Cho nên dần dần nó không có đạt được cái ước vọng của họ, mong rằng họ sẽ làm chủ sự sanh, già, bệnh, chết chứ gì, họ làm chủ được cái tâm tham, sân, si họ chứ gì. Nhưng mà tập luyện riết không có làm chủ được, thì bắt đầu bây giờ nó biến thái nó đẻ ra những cái hành động để mà dưỡng sinh, để mà tập cho mình ngừa bệnh đừng có xảy ra những cái bệnh tật khổ sở. Đó bây giờ biến Thiền nó trở thành là dưỡng sinh. Chứ đâu phải tự dưng mà khi không mà người ta đẻ ra dưỡng sinh đâu. Người ta tu Thiền mãi nó không được người ta đẻ nó ra dưỡng sinh.

Thiền định thời nay biến dần thành phương pháp ngừa bệnh dưỡng sinh chứ đâu còn là Thiền định làm chủ sự sống chết. Nhìn sự tu hành của Phật giáo hiện giờ ta rất buồn cười. Thiền định của Phật thì không tu mà lại tu thiền của ngoại đạo. Chỉ vì Thiền ngoại đạo không có giới luật nghiêm túc. Đời sống theo dục lạc dễ dàng, ăn uống ngủ nghỉ phi thời. Do đó tu mãi mà chẳng kết quả thì chạy sang các pháp môn khác, vừa tu Thiền vừa Niệm Phật như các tổ Vĩnh Minh, Vân Thê, Từ Vân.

Thì các tổ như các con biết như tổ Vĩnh Minh ngài nói vừa tu Thiền mà vừa tu Tịnh độ thì như cọp mọc sừng, 10 người đạt được 10 người. Nhưng mà cuối cùng các con thấy có người nào mà họ làm chủ sanh tử luân hồi chưa? Cũng chẳng có gì. Mà lời của tổ Vĩnh Minh nói ngày đó vẫn còn. Cho nên tổ Vân Thê nè, tổ Từ Vân nè đã biết bao nhiêu là ca ngợi về cái pháp môn Tịnh độ. Rồi cuối cùng thì để lại cho chúng ta những ngôi chùa Tịnh độ rất là ê chề. Một vị Thầy thì đi đám tụng niệm ê a, ăn thịt cá, uống rượu say sưa, vất mã đủ loại đủ cách. Làm cho chúng ta thấy một Phật giáo đau lòng vô cùng.

(45:25) Trong chùa thì hầu hết là Thầy không biết chứ chung quanh đây khi mà đi họp thì nghe Thầy chánh tri sự ở tỉnh, Thầy nói quý thầy trừ ra có Thầy Thông Lạc, Thầy Mật Hạnh với sư Minh Bửu là không có vợ con thôi. Còn bao nhiêu quý thầy đây, người nào cũng có vợ con hết. Ổng nói như vậy để làm gì? Bởi vì bây giờ người ta biết ổng là làm lớn như vậy mà ổng có vợ con, mà bây giờ có nhiều người không biết quý thầy kia có vợ con hay không? Cho nên ổng lôi ra hết cả đám với nhau, chung một đám vậy thì ổng đâu có mắc cỡ, đâu có xấu. Mà trừ ra có mấy người ít như vậy thì đâu có bằng cái số của mấy ổng. Cho nên do đó ổng lôi ra như vậy thì các con thấy. Từ lâu tới giờ Thầy đâu có ngờ trong cái cuộc họp như vậy, nhìn ông nào mặt ông nào cũng có vợ con hết, Thầy mới "Trời! Như vậy là toàn bộ hết như vậy sao?"

Đó! Đó là những cái điều kiện mà làm cho mình thấy nó đi từ cái thoái pháp, từ cái Thiền tông. Con thấy cái Tịnh độ tông nó đâu có trước Thiền đâu. Cho nên Thiền nó đi qua Trung Hoa rồi sau đó thì ngài Huệ Viễn mới thành lập cái Liên Trì Thư Xã. Trong cái thế kỷ thứ 18 thì ngài mới thành lập cái Liên Trì Thư Xã mới sớ giải những cái kinh Đại thừa mà thuộc về Tịnh độ, để mà đưa ra cái pháp môn Tịnh độ. Từ đó, từ cái chỗ tu Thiền mà nó không có kết quả, cho nên các ngài mới chạy qua Tịnh độ. Thì trong đó có những ngài mà xương minh Tịnh độ nhất là ngài Vĩnh Minh, ngài Vân Thê, ngài Từ Vân.

Đó! Thì các con thấy cuối cùng Tịnh độ đi dần dần đến. Ban đầu thì nhiếp tâm để cầu vãng sanh, niệm Phật để đi đến Thiền định chứ gì. Rồi sau Thiền định nó không được, nhiếp tâm nó hết vọng tưởng mà nó chẳng tới đâu. Do đó bây giờ mới cầu vãng sanh, để mà mong cho mình lên cõi Cực Lạc mà tiếp tục tu nữa để giải thoát. Chứ ở thế gian này tu chắc không nổi rồi. Do đó cuối cùng thì đưa đi đến cái chỗ mà chúng ta thấy các chùa thì ông thầy trở thành đi tụng niệm cúng bái làm chuyện mê tín. Rồi có vợ, có con sinh hoạt sống như một cái gia đình thế gian.

(47:26) Mới đầu thì người ta vừa tu Thiền mà vừa tu Tịnh độ. Rồi lần lượt người ta bỏ luôn hẳn Thiền. Bỏ luôn hẳn Thiền thì chúng ta cũng biết có rất nhiều người bỏ luôn Thiền mà chỉ tu Tịnh dộ không. Có người thì chuyển sang Tịnh độ hẳn, chuyên ròng niệm Phật cầu vãng sanh Cực Lạc. Như các tổ Tông Bổn, như tổ Khánh Anh, Thiện Hoa, Thiện Hòa. Cho nên khi mà Hòa thượng Thanh Từ mà đi sang qua Thiền thì coi như là Hòa thượng Thiện Hoa là Thầy của Hòa thượng cũng không bằng lòng lắm. Không có bằng lòng, nhưng mà đệ tử nó muốn sao nó muốn chứ còn Hòa thượng không có bằng lòng.

Đó! Từ cái Thiền định người ta đi về Tịnh độ. Bây giờ người ta không có chấp nhận cái Thiền định nữa. Và có một cái số người thì tu mãi không có thấy ở Tịnh độ như thế nào, mà lại phạm giới phá giới quá là triệt để như vậy. Cho nên có một số người triển khai trở lại để chấn hưng Phật pháp tốt trở lại. Một vị tu sĩ không có vợ con cho nên mới phát triển Thiền tông trở lại. Rồi Thiền tông tu mãi ở đây thì một thời gian sau không có kết quả gì hết thì bắt đầu các vị Thiền sư như Hòa thượng, Thầy nói như Hòa thượng bây giờ thì người ta còn theo Hòa thượng nhưng mà cuối cùng khi Hòa thượng tịch rồi người ta thấy không tu ra gì hết, không làm chủ sanh tử, thì bắt đầu Phật tử người ta lơ dần người ta không đến chùa nữa. Thì bắt đầu quý thầy muốn sống như thế nào? Phải làm sao sống đây? Phải làm sao như thế nào?

(48:43) Tu không giải thoát làm sao người ta cúng dường mình? Cho nên bắt đầu xách mỏ đi tụng. Tụng rồi bắt đầu người ta mới cúng dường, mới có sống chứ còn không khéo ở trong chùa mình rồi bắt đầu đây rồi phải lao tác, phải cấy lúa, phải làm lụng, phải thế này thế khác để mà sống. Cho nên mới vào hồi nãy Thầy nói với các con nếu các con không tu Thầy tịch rồi thì ai mà cúng dường cho các con? Thì các con cũng phải làm những công việc để mà sống. Rồi từ đó các con nghĩ như thế nào?

Cho nên nếu mà các con không có chịu mà học mấy cái bài kinh tụng niệm cầu siêu, cầu an, đi làm đám ma thì chắc chắn là các con cũng phải ra đồng cày ruộng hoặc là cấy hoặc là trồng trỉa hoặc là buôn bán bằng cái này, bằng cái kia sống chứ làm sao bây giờ? Các con thấy cái nỗi khổ chưa? Đó! Còn nếu mà còn Thầy thì các con đâu có lo chi. Không có lo gì hết. Nghĩa là an tâm mà lo tu mà thôi. Mà không còn Thầy rồi thì các con có ngồi không mà tu được không?

Nhưng mà các con hôm nay thấy Thầy như thế nào? Già hay là còn trẻ? Bao lâu nữa? Cỡ cái tuổi đời của Thầy còn thêm bao lâu nữa? Mà trong khi Thầy phải làm công việc rất là nhiều. Đủ thứ việc để lại một cái giáo pháp cho đúng để làm lại những cái gì mà con người đang đòi hỏi, đang cần thiết có một cái đạo đức. Đạo đức nhân quả, đạo đức không làm khổ mình, khổ người, để đem lại sự an vui hạnh phúc cho loài người. Thì cái nhiệm vụ và trọng trách của Thầy đang làm rất nhiều cái điều này. Và đồng thời muốn mà duy trì được Phật pháp một cái đường lối sâu thì nhờ cái công lực của các con tu tập. Nếu các con tu tập thì đâu có gì mà khổ. Mà các con không có chịu xả ly cái tâm, cái tâm quá là nhỏ mọn, quá là phàm phu tục tử đó, bỏ xuống đi! Dẹp xuống đi!

Có cái gì đâu mà giận hờn, có gì đâu mà lại tạo cho mình bất an. Mình phải sống trầm lặng với trong cái hoàn cảnh của mình độc cư trọn vẹn. Để rồi nở một nụ cười sung sướng khi thấy tâm hồn mình không còn tham, sân, si, không còn ác pháp nữa. Bỏ xuống hết thì các con sẽ thấy đủ cái lực mà các con làm chủ sự sống chết. Chứ đâu có cái gì khác, đâu có cái tu tập gì khác. Chỉ cần dẹp cái tâm tham, sân, si phiền não các con xuống. Chỉ cần thấy là một ác pháp, là một cái sự đau khổ cuộc đời người, muôn đời muôn kiếp và tiếp tục những cái thói quen mà ác pháp này mà gọi là nghiệp lực nó tiếp tục tái sanh luân hồi trong những cái nghiệp lực này. Chỉ cần bỏ đi mà thôi!

(51:14) Cho nên ở đây cái bài kinh Ước Nguyện Phật dạy chúng ta chỉ có giới luật mà thôi, làm cái chuyện gì đi nữa cũng chỉ có giới luật mà thôi để đưa chúng ta đi đến cái cảnh giới giải thoát hoàn toàn làm chủ sự sống chết.

7. GIỚI LUẬT KHÔNG NGHIÊM CHỈNH THÌ CUỘC ĐỜI TU HÀNH KHÔNG BAO GIỜ GIẢI THOÁT

Thế mà giới luật chúng ta bị bẻ vụn mất đi rồi. Chúng ta bẻ vụn ra từng mảnh rồi chúng ta sống từng mảnh nhỏ. Thật sự ra thì các con cũng đã biết rằng Thầy nói bẻ vụn nhưng mà các con nói cái giới luật làm sao bẻ vụn?

Đây ví dụ như Phật cấm chúng ta cái giới luật không ăn phi thời. Người nào mà ăn uống phi thời sẽ phạm vào cái tội đọa địa ngục. Đức Phật muốn nói như vậy tức là tội Ba Dật Đề. Trong giới luật đã xác định người ăn phi thời là phạm vào cái tội Ba Dật Đề, tức là tội đọa địa ngục. Thế mà chúng ta lại bẻ vụn cái giới đó ra để làm cho chúng ta sống mà nó không có phạm tội.

Bẻ vụn như thế nào? Cho nên các nhà mà viết giới luật thì nói rằng: "Chư Thiên ăn buổi sáng, Phật ăn giờ ngọ, chúng sanh ăn sau giờ ngọ, ngạ quỷ ăn đêm nghe chén bát khua trong cổ phần lửa." Đó là cái giới luật mà các ngài đã bẻ vụn ra. Bẻ vụn cái giới ăn phi thời ra. Do vì vậy đó bây giờ các ngài ăn sáng là coi như là chư Thiên rồi. Đâu có đọa địa ngục được. Cho nên cái giới đó gọi là giới đọa địa ngục, mà bây giờ mình ăn theo kiểu tiên thì đâu có làm sao đọa. Trưa mình ăn buổi. Phật đâu có cấm uống cho nên chiều mình uống bột, uống sữa được như thường. Cho nên nó đâu có đọa, nó trật đi, làm cho cái giới nó bẻ vụn ra như vậy, làm cho cái giới nó không đúng cái lời của Phật dạy. Thì các ông coi như là không có tội và không có tội đối với cái tâm của các ông.

Nhưng mà các con nhớ rằng trên con đường tu của chúng ta nó có tội thật sự là vì chúng ta bẻ vụn cái giới đó ra để mà chúng ta coi như không có phạm. Nhưng mà chúng ta không có đạt được cái sự giải thoát làm chủ sanh tử. Do chúng ta chạy theo dục lạc của cái ăn. Các con thấy cái chỗ mà bẻ vụn giới chưa?

Một cái giới đó mà nó bẻ ra như vậy nó làm vụn cái giới đó ra, rồi nó sống nó không thấy tội. Thì đó là bẻ vụn ra. Mà ai làm cái này các con biết không? Các tổ của chúng ta chứ ai! Mà bây giờ nói đến các tổ thì chúng ta quá sợ hãi. Sợ mình nói tổ rồi mình phạm xuống địa ngục. Cho nên không ai dám nói. Từ đó cứ ngậm miệng mà chịu đựng và đồng thời thấy cũng thích. Sáng mình ăn, trưa mình ăn, chiều ăn thì cũng nghe ngon ngọt. Sướng gần chết mà có gì đâu! Còn giờ không ăn nghe nó thèm, nó khát. Ăn tới trưa mà dồn vô một bữa thì nghe nó đâu còn ngon ngào gì nữa đâu. Cho nên mấy ông này khôn thiệt. Chạy theo dục mà tạo cho người nào cũng thích như vậy. Cho nên bây giờ hàng tá tu sĩ chúng ta đều là chạy theo những cái giới đó hết. Bỏ cái giới của Phật, bẻ vụn cái giới đó ra thì họ chạy theo hết.

(53:48) Đó! Thì hôm nay tất cả những cái điều mà căn bản của sự tu tập Thiền định mà ở trong cái giới luật để chúng ta ly dục ly ác pháp. Mà đến giờ phút này Thầy nhắc nhở rất nhiều. Để cho các con thấy được, mà nỗ lực tu hành. Để đi đến cái chỗ rốt ráo. Thầy mong rằng trong 1 tháng, 2 tháng mà các con sống thanh thản, an vui không có một cái chuyện gì mà khởi trong tâm các con có một ác pháp làm cho các con phiền não đau khổ. Các con sống độc cư suốt ngày này qua ngày khác chẳng hề có một tiếng nói gì hết, chẳng biết cái chuyện gì của ai hết, thì mình là người vô sự rồi. Mà vô sự mà chuyện gì của ai mình cũng biết hết thì như vậy làm sao vô sự? Phải không các con? Đã quyết tu giải thoát mà tại sao còn dính mắc chi những chuyện phàm phu đó? Mà sống không đúng giới luật?

(54:37) Có người tu Tịnh độ lâu ngày chẳng thấy gì chuyển qua tu Thiền. Mình tu Tịnh độ riết rồi không có thấy kết quả vãng sanh được cái chuyển qua tu Thiền, chạy theo tu Thiền. Cũng có người tu Mật tông lâu ngày chuyển qua Thiền tông. Con người hiện giờ tu theo Phật giáo Đại thừa cứ theo ba pháp môn Thiền, Tịnh, Mật. Tức là Thiền tông, Tịnh độ tông, Mật tông chuyển qua, chuyển lại tu tập cứ thế tu tập cho đến bây giờ chẳng ai tu đến đâu. Cứ loanh quanh luẩn quẩn trong vòng luẩn quẩn loanh quanh. Có không các con cứ suy xét phải coi có không?

Cứ nhìn bây giờ Thiền, Tịnh, Mật nè thì có ai mà có thể nói làm chủ sanh tử không? Bây giờ ở trong cái đất nước của chúng ta nè, ba cái pháp môn này không có chùa Tịnh độ thì ít ra có chùa Thiền. Mà không có chùa thiền thì ít ra trong đó là chùa Mật tông. Thì tất cả những cái pháp môn mà tu loanh quanh luẩn quẩn này có cái chùa nào mà người nào làm chủ sanh tử không? Mà có cái chùa nào mà giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh không? Không bao giờ có hết.

(55:37) Các con cứ xét coi. Đâu phải Thiền tông mới xuất hiện một ngày, hai ngày. Từ cái ngày Hòa thượng mà triển khai tới giờ là hai mươi mấy năm, gần 30 năm trời rồi. Mà nhìn lại một số mà huynh đệ chúng ta tu hành, ai là người đã làm chủ sanh tử đâu? Hay là chỉ là nói ở miệng mà thôi? Rồi bây giờ Tịnh độ ai là người được vãng sanh Cực Lạc nè? Ai là người được ghi tên trên hoa sen ở trên Tây phương nè? Hay là chúng ta tưởng thôi? Nếu mà được như vậy thì anh hãy nắm tay tôi dẫn tôi lên trên đó coi thử coi có tên anh trên đó không. Nếu mà có dẫn tay tôi đi lên trên đó tôi xem thấy tui mới tin chứ. Còn anh nói dóc, nói tưởng của anh, thì chẳng hạn anh nằm chiêm bao anh nói, thì tui đâu có tin được.

Cho nên có nhiều người nói: "Tôi niệm Phật bây giờ tôi thấy tên tôi đã ghi ở trên đó rồi. Ông Xoài, ông Mít bây giờ có tên ở trên hoa sen rồi. Tôi mà chết đi thì cái hoa sen nó nở thành tòa sen tôi trèo lên trển tôi ngồi, tôi bay lên trời." Thì cho nên đó là cái tưởng của anh. Nếu mà có thật vậy anh nắm tay tôi dẫn lên trển đi, tôi xem rồi tôi về tôi mới tin. Chứ còn cái mà anh nói mơ nói hồ như vậy tôi không bao giờ tôi tin được.

Đó! Thì các con thấy trong cái vấn đề đó chúng ta là một cái người đâu phải mới tu đây. Hồi nhỏ Thầy 8 tuổi xuất gia tu tới bây giờ rồi. Rồi các con ít ra cũng hai ba chục năm trời nay rồi, chứ đâu phải là một cái người mới tu đây. Như mấy cháu này nè mới vô tu thôi không nói gì. Chứ còn như cô Minh Cảnh nè! Đó! Thì các con tu cũng rất lâu rồi! Thì các con cũng biết rồi! Xem đi thử coi có người nào mà làm chủ đâu?

Tịnh độ tông thì rơi vào sắc thinh tưởng, thấy cảnh giới Tây phương Phật Di Đà và Thánh chúng, thấy hoa sen, thấy tên họ được đăng ký trên hoa sen và thấy ánh sáng hào quang. Mật tông thì rơi vào tha tâm tưởng nên biết chuyện quá khứ vị lai khiến cho mọi người quá nể phục. Tất cả những sự việc đã xảy ra khiến cho người ta tưởng mình đã chứng đạo. Nên trong kinh pháp môn căn bản Phật dạy: “Tất cả kết quả đó đều là tưởng tri chứ không phải thực chứng là giải thoát liễu tri”. Ở trong kinh đức Phật cũng đã nhắc tất cả những cái điều đó là tưởng tri chứ không phải liễu tri.

(57:47) Bởi vậy một người tu tìm cầu sự giải thoát là phải sống đầy đủ giới hạnh, đầy đủ giới bổn, sống phòng hộ sáu căn với sự phòng hộ của giới bổn, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy sự nguy hiểm trong các lỗi nhỏ nhặt, chơn chánh lãnh thọ và tu học của các giới. Nếu mà một người mà không sống đầy đủ trong giới luật, không phòng hộ đầy đủ như vậy thì người đó không có giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh như vậy thì dù người đó có tu ngàn đời, dù tu Thiền định hay là tu Mật tông hay hoặc là tu Tịnh độ tông thì cũng chẳng đi đến đâu, phí uổng một đời tu hành của mình.

8. KHÁC NHAU GIỮA THẦN THÔNG CỦA NGOẠI ĐẠO VÀ PHẬT GIÁO

Rồi cuối cùng thì họ sao? Họ cũng chạy theo danh lợi buôn Phật bán pháp bằng hình thức mê tín này, bằng hình thức mê tín khác mà sống. Sống trong cách thức lừa đảo tín đồ để ngồi trong mát ăn bát vàng. Nghĩa là mình nói khéo: "Ờ! Bây giờ phải cầu kinh như vậy, phải vẽ cho họ, phải trai Tăng cúng dường như thế này, thế này, để cầu cho vong linh người đó như thế này thế khác." Mình có biết được cái vong linh đó có thoát sanh hay là chết? Hay hoặc là đi về đâu? Mình đâu có biết! Nhưng mà mình bày vẽ cho người ta đủ cách, để rồi mình làm cái đó rồi mình ăn tiền người ta bằng cách này, bằng cách khác. Không phải đó là cách thức lừa đảo người ta sao? Không phải là cách thức đó bán Phật bán pháp sao? Để cho mình ngồi trong mát mình ăn bát vàng.

Thay vì mình phải ra đồng mình cày cấy, mình làm lụng cái này kia mới có tiền ăn. Còn bây giờ mình bày vẽ cho người ta, người ta bỏ tiền ra: "Bây giờ phải đốt tiền vàng mã nè, phải dán kho nè, phải dán xe honda, tủ lạnh nè, gửi xuống cho bà con của mấy bà chết ở dưới có mà xài chứ ở dưới bây giờ khổ lắm, không có ai sản xuất được cái thứ đó." Thành thử rồi bày đặt như vậy bây giờ người ta dán đồ mã đủ loại đủ thứ hết. Mà làm sao cái đồ giấy đó mà xài cái gì? Thế mà chúng ta cũng tin theo mấy cái miệng của ông Thầy. Nói mấy ông Thầy chắc là Thần Thánh, nói đâu có đó. Cho nên tu riết rồi chúng ta sẽ bị gạt gẫm mà không biết.

(59:45) Thần thông của ngoại đạo dù cho tưởng tu tập như Yoga, Mật Tông, khí công, nội công v.v…​ Vừa rồi các con nghe báo công an mà cô Út có đem tờ báo. Thì trong cái chuyến đi mà về Phước Hải thì Minh Tâm có nói chuyện với Thầy:

Là cái ông đó tự dưng ổng có tới cái ngày nào đó, ổng có vợ con rồi, ổng bảo vợ ổng: "Thôi đi lấy người khác đi, ổng bây giờ không thể sống chung vợ con được". Mà ổng đang ăn mặn đồ vậy, bắt đầu ổng ăn chay. Ổng ăn chay rồi tự cái thần lực của ổng trong đó nó phát hiện ra, rồi ổng trị bệnh người ta. Cho nên nó có những cái đặc biệt công an đến cái gia đình đó. Từ công an ở cái vùng đó, rồi công an ở thành phố ra, mới đăng lên trên báo công an.

Những cái hành động của ông ta làm rất là đặc biệt. Ví dụ như ổng chỉ thổi một hơi thì cái người bệnh đó họ ngã xuống họ té họ mê man tàn tịch, họ không biết gì hết. Lấy cái tay của cái người bệnh đó mà dộng ở dưới đá, dưới gạch, dưới ván đùng đùng vậy mà cái người bệnh không có giật mình, không có tỉnh lại, không có biết gì hết. Mà khi mà ông hà một hơi thổi trong mặt cái người đó thì người đó tỉnh lại. Thì hỏi người đó có đâu có nghe đâu gì không? Thì người đó nói không có đau gì hết, không biết gì hết. Mà hỏi cái bàn tay chỗ này có ê không? Thì nó hơi ê ê chỗ đó. Mà cái ông đó ổng đi ở trên cái thân của người khác ổng dậm đùng đùng ở trên thân của người ta mà không có sao hết. Cách thức mà công an nó diễn tả như vậy.

Nhưng mà Minh Tâm nói bây giờ hết rồi. Ông đó chỉ có một thời gian thôi. Ổng chỉ ước ao rằng ổng làm cái điều này. Nghĩa là ổng phải dùng cái lực của ổng đó, ổng đẩy cái khối cỡ 20kg hay 50kg từ cái chỗ này ổng xê dịch lại chỗ kia, bay lại chỗ kia được. Thì cái chuyện mà ổng nói để mà ổng làm cái chuyện đó thì ổng chưa làm. Nhưng bây giờ hoàn toàn là ổng không còn làm được gì hết, không còn trị bệnh được ai hết, không còn hà hơi thổi ai mà mê man bất tỉnh nữa hết. Nghĩa là hoàn toàn là coi như là biến mất, cái thần thông của ổng biến mất rồi. Thì trong một cái bài vấn đáp, tức là một cái bài vấn đạo hỏi, thì Thầy có nói rằng đó là những cái tưởng. Khi mà cái phước nó đến thì cái người đó không có làm ác, chứ còn nếu mà cỡ làm ác thì cái ông này vẫn là khi mà cái phước nó hết rồi, thì ông sẽ đi ở tù.

Cho nên có một số ngoại đạo tu về Mật tông luyện có những cái Thần thông biết chuyện quá khứ vị lai. Như ở trên Đà lạt chẳng hạn, như Giáo chủ sương mù ở Đà lạt. Thì ông này ổng biết chuyện quá khứ. Công an đến bao vây cái chùa ổng thì ổng biết ngày mai hay ngày mốt có công an đến xét chùa ổng biết liền. Nhưng mà tới chừng mà ổng phạm vào những cái tâm mà danh lợi, dâm dục, ổng rớt vào trong đó thì cái thần thông nó mất đi. Cho nên công an đến bao vây bắt ông ta thì bắt quả tang ngay tại trận. Cho nên từ đó mà đem về điều tra ổng, thì vì vậy mà trên báo chí công an đăng cái ông Giáo chủ sương mù này làm cho chúng ta thấy cái gia đình Phật giáo chúng ta có nhiều cái rất là tệ. Đó là thuộc về Mật tông đó các con.

(1:02:37) Cho nên cái tưởng mà khi mà còn trong sạch thanh tịnh đó thì nó có cái thần thông. Nhưng mà khi mà cái tưởng đó nó đã bị ô nhiễm đi, vì cái tâm dục họ không ly mà cho nên họ bị ô nhiễm ở trên sắc dục, trên nữ sắc, cho nên họ sa ngã. Rồi họ sa ngã thì họ sẽ sa vào cái lưới pháp luật của Nhà nước của công an, rồi họ sẽ bị bắt. Đó là những cái điều kiện mà xảy ra và đồng thời cái người mà thanh niên ở ngoài trung này mà có những cái thần thông như vậy do đó ông ta chỉ trị bệnh không lấy tiền của ai hết. Ông chỉ ước ao rằng Nhà nước nếu mà công an hoặc là Nhà nước mà vì một cái điều kiện gì ông dùng thần thông này mà nếu mà ông chỉ ước ao rằng những nhà hảo tâm, những người giàu giúp ổng chừng 3 tỷ bạc ông làm việc từ thiện mà thôi. Nhưng mà ông chưa có được 3 tỷ bạc thì cái thần thông ông đã mất rồi, không còn nữa.

Đó! Thì các con thấy đừng có đi trên con đường mà sai lệch của Mật tông. Nó dùng những cái thần thông tưởng để rồi chúng ta phạm vào một cái danh lợi nào đó thì những cái thần thông đó chẳng còn và nó đưa đến chúng ta sẽ vào cái sự sa đọa trong danh lợi và sắc đẹp. Mà tâm dục chưa diệt do tưởng tu tập nên có thần thông, mà tâm dục chưa diệt ác pháp chưa trừ nên dễ sa ngã trong nữ sắc danh và lợi v.v…​ Do sa ngã nữ sắc danh lợi nên thần thông mất dần.

(1:04:07) Ở đây Thầy nhắc lại đó các con thấy không? Ở đây thì thần thông của ngoại đạo do dùng tưởng mà tu tập. Nhất là những cái phương pháp Yoga. Yoga nó cũng luyện khi mà dìm ở trong đất, dìm trong nước, chôn sống nó, nó không có chết. Đi ở trên lửa nó không có nóng. Đó là những cái phương pháp nó luyện về tưởng. Mà nó biểu diễn người ta thấy rất là thần thông. Mật Tông thì các con biết nó luyện tập nó biết chuyện quá khứ vị lai. Còn khí công như cái ông hồi nãy mà Thầy nói đó là khí công. Còn nội công là những cái người mà người ta luyện nội công đó trọng công đó. Người ta biểu diễn đó như một cái đống đá vầy người ta dùng cái tay người ta chặt xuống đá nó bể ra hay gạch nó bể ra, đó là trọng công hay là nội công.

Tất cả những cái sự luyện tập như vậy để biểu diễn cái tâm danh của mình. Cho nên từ đó khi mà tạo nên cái thế danh nó có rồi thì bắt đầu từ đó những cái pháp, cái thần thông đó lần lượt nó sẽ bị mất đi, nó không còn đối với người đó nữa. Cho nên họ biểu diễn một lần, hai lần rồi dần sau đó thì mình thấy vắng bóng không thấy ông ta nữa, là lúc bấy giờ ông ta đã mất đi.

Thì các con cũng biết rằng trong phim nó có những cái người mà người ta biểu diễn. Vạn lý trường thành như vậy họ chỉ đi qua vạn lý trường thành như thế này thì thấy nó qua bên kia, thì họ đi xuyên qua đá, qua vách đá một cách dễ dàng. Họ bay lơ lửng ở trên không cho chúng ta xem. Nhưng mà chỉ có một thời gian rồi họ không làm được nữa. Cho nên họ biểu diễn có một lúc mà thôi. Đó là những cái người mà luyện về Mật tông, tu tập về Khí công, tu tập về Yoga và Nội công thì họ sẽ có thần thông. Nhưng mà khi mà có danh rồi thì họ bị sa ngã liền. Họ dễ sa ngã trong danh lợi và sắc đẹp. Cho nên từ đó họ mất những cái thần thông đó.

(1:05:48) Do sa ngã nữ sắc danh lợi nên thần thông mất dần. Vì vậy có nhiều vị Giáo chủ mới xuống núi danh sắc đầy đủ uy nghi chánh hạnh khiến cho mọi người ai cũng kính nể. Lại có thần thông kêu mây hú gió, sai binh khiển tướng, tàng hình biến hóa, đi trên nước lửa, ngồi trên hư không như chim bay, đi xuyên qua vách đá, chui xuống đất như đi trong hư không v.v…​ Những hành động này đã khiến cho mọi người kính trọng đem dâng của cải tài sản và ngay cả sắc đẹp. Tâm dục chưa trừ nên thấy của cải tài sản ham thích nên lần lần sa ngã và thần thông tiêu mất. Cho nên thỉnh thoảng báo chí công an phát giác ra đăng tin vị Giáo chủ này, vị Giáo chủ kia, ông Đạo nọ, ông Đạo kia làm chuyện lừa đảo tín đồ nhẹ dạ.

(01:06:38) Ngược lại Thần thông của đạo Phật không do tu tưởng mà có. Chỉ ly dục ly ác pháp, diệt ngã xả tâm đoạn dứt tâm tham, sân, si mạn nghi cùng diệt sạch thất kiết sử. Do tu tập đoạn dứt những điều này mà tâm được thanh tịnh. Muốn có tâm được thanh tịnh thì phải tu tập giới luật sống đúng giới hạnh. Do đó thần thông của đạo Phật là thần thông vô dục, vô ác pháp.

Nhờ giới luật mà diệt trừ được dục và ác pháp nên trong kinh ước nguyện Phật dạy: "Nếu Tỳ kheo có ước nguyện mong rằng ta chứng được các loại thần thông, một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân hiện ra một thân, ta hiện hình tất cả các loài vật, biến hình đi ngang qua vách qua thành, qua núi đá như đi ngang qua hư không, ta độn thổ trồi lên ngay qua đất liền như trong nước, ta đi trên nước không chìm như đi trên đất liền, ta ngồi kiết già đi trên hư không như chim bay với bàn tay ta chạm và rờ mặt trời, mặt trăng. Những vật có đại oai lực, đại thần lực như vậy ta có thể. Thân ta có thần thông bay đến phạm thiên". Đó là đức Phật nói nếu mà chúng ta muốn mà có thần thông như vậy thì phải giới luật, phải ly dục ly ác pháp thì chúng ta sẽ đạt được thần thông.

Nhưng mà các con thấy một người mà có thần thông như Phật ly dục ly ác pháp rồi. Thì có danh lợi, tiền tài, sắc đẹp có cám dỗ họ được không? Đâu làm sao cám dỗ được. Còn những người mà tập luyện như vậy, không có đúng giới luật cho nên vì vậy mà làm sao ly dục ly ác pháp được. Mà không ly dục ly ác pháp được thì do đó tâm dục nó còn, mà khi có những thần thông thì danh với lợi và sắc đẹp của phụ nữ sẽ dễ cám dỗ cho những vị này sa ngã. Và sa ngã thì mất dần và đi ở tù.

“Muốn được vậy Tỳ kheo hãy sống đầy đủ giới hạnh, đầy đủ giới bổn, sống phòng hộ sáu căn với sự phòng hộ của giới bổn. Đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy sự nguy hiểm trong các lỗi nhỏ nhặt. Chơn chánh lãnh thọ và tu học các giới học”.

(1:08:36) Đó! Thì các con thấy ở đây nó rất rõ là đức Phật muốn dạy chúng ta phải đi từ giới. Muốn có thần thông, muốn làm chủ sanh tử luân hồi, muốn hết vô lậu thì đều là do giới luật mà ra. Thế mà chúng ta cứ bẻ vụn giới luật. Chúng ta sống cứ chạy theo loanh quanh sự sống chết của thân này. Hở ra một chút, hở đau một chút là chúng ta đã phạm giới rồi. Không có chịu giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh. Thầy nói thiệt trong cái đời Thầy tu hành thà chết nhất định là không bao giờ phạm giới luật. Ai làm gì làm nhất định là không phạm là không phạm. Cho nên tu cho đến giờ này các con có thấy Thầy thị hiện thần thông mà biểu diễn cho các con xem bao giờ không? Không bao giờ mà Thầy làm cái chuyện mà mê man, mê mờ.

Có một lần Thầy về với Tâm Như một lần ngồi nói chuyện, nó nói như thế này: "Con gần như là con thấy Thầy là coi như là có đầy đủ thần thông, mà chưa hề mà thấy Thầy thị hiện thần thông. Còn Hòa thượng Thanh Từ thì Hòa thượng thị hiện Thần thông con thấy rất rõ ràng."

Đó! Thầy nói, thì các con so sánh. Thầy nói là đúng ở trong giáo pháp của Phật không sai một chút. Nhưng mà các con chưa từng mà thấy Thầy thể hiện thần thông. Không bao giờ mà đứng trước một cái cám dỗ nào làm cho Thầy xúc động để mà Thầy thị hiện thần thông.

Ví dụ như hôm đó như cháu Chỉnh nè ba nó đi vô đây kiếm nè, Thầy cũng không thấy ba nó khóc, nhưng mà nghe cô Út nói ba nó khóc, ba nó rất là khổ đau. Cho nên cô Út cổ động lòng, cổ mới đưa ba nó đi ra ngoài chùa thầy Thông Uyển, rồi đi ra ở ngoài chùa cô Diệu Hảo để dẫn ba nó đi tìm. Còn riêng đến nói với Thầy thì Thầy chỉ thấy đó là nhân quả mà thôi, chứ Thầy không có nói ra một lời nói nào. Hoàn toàn là Thầy không bao giờ mà có một cái chút nào mà Thầy thị hiện thần thông mà nói: "Bây giờ cháu Chỉnh nó ở chỗ này, ở chỗ khác, ở chỗ nọ." Không bao giờ mà Thầy mở miệng mà Thầy nói ra. Mặc dù nước mắt của họ mà có đổ ngập cả biển đi nữa. Thầy cũng chẳng bao giờ mà Thầy động lòng trước để mà thị hiện thần thông. Trừ ra có một cái điều kiện lớn lao nhất là vì chúng sanh, là vì Phật pháp như thế nào…​

(1:10:48) Thầy tu mà thôi, thì như vậy thì nó không có đúng. Mà phải có một hai người thì lúc bây giờ thì Thầy trò sẽ thị hiện, để rồi người ta nói không phải có một mình. Còn bây giờ người ta nhiều khi người ta phỉ báng Thầy người ta nói chỉ Thầy tu như vậy được chứ không ai tu được! Thì cái chuyện đó họ cũng làm cụt hết mọi người rồi.

Cho nên ở đây các con thấy từ ngày tới giờ Thầy nói rất đúng ở trong giáo pháp ly dục ly ác pháp sẽ có. Mà các con có tin hay không tin thì mặc ở các con. Nhưng mà ở đây là lời Phật nói các con có tin không? Còn nếu mà các con không tin, các con cứ tu ngang xương thì các con sẽ biết rằng cái nỗi khổ. Nếu mà đạt được thần thông thì các con lại nguy hiểm. Mà chưa đạt thần thông thì lại càng khổ sở hơn nữa.

Ví dụ như Mật Hạnh tu có được cái chuyện xảy ra cho nó biết được những cái trực giác như vậy. Thì đâu phải cái chỗ đó là cái chỗ hoàn tất được con đường đâu. Nhưng mà cuối cùng thì các con sẽ thấy khi mà cái tâm nó quay trở ra nó phóng dật ra rồi thì cái đó nó còn không? Nó đâu còn. Khi nó quay vô thì nó thanh tịnh nó được cái trực giác như vậy. Nhưng mà khi mà nó quay ra rồi thì cái trực giác nó mất đi rồi nó còn cái gì nữa. Nó có lợi ích không?

Cho nên khi mà chúng ta có được những cái giả mà không thực là do cái tâm dục chúng ta còn chúng ta chưa ly nó. Mục đích chúng ta ở đây là tu tập làm chủ, cái sống của chúng ta là chúng ta phải tâm chúng ta quay vào để mà ly dục ly ác pháp để không còn đau khổ nữa. Và đồng thời từ cái không đau khổ đó chúng ta đi đến cái chỗ làm chủ sự sống chết. Qua cái pháp hướng để cho nó điều khiển được cái sự sống chết của cái thân chúng ta. Chúng ta không còn sợ hãi trước cái sự sống chết của chúng ta nữa. Đó là cái mục đích chính của chúng ta. Còn cái chuyện mà điều khiển được sự sống chết của cái thân này thì thử hỏi điều khiển mà như là thần thông đó chúng ta điều khiển được không? Được chứ sao lại không được!

9. NHỮNG LỜI TÂM HUYẾT THẦY CĂN DẶN TĂNG NI, PHẬT TỬ

Khi mà một ngày nào mà Thầy thị tịch, Thầy tịch rồi thì các con mới thấy hỡi ôi! Mình tin Thầy nhưng mà chưa trọn vẹn cho nên không có nỗ lực thực hiện cuối cùng, bây giờ Thầy mất đi có những cái khó khăn thì biết làm sao bây giờ? Biết làm sao hỏi ai bây giờ?

Còn bây giờ Thầy còn đang có mặt ở đây thì những cái mà Thầy quyết định cho các con phải xả bỏ đi, bỏ hết đi rồi tới chừng đó có những cái khó khăn nữa thì còn có Thầy, Thầy chỉ dẫn tới. Còn bây giờ không chịu xả bỏ thì làm sao chỉ dẫn tới các con được cái gì nữa bây giờ? Các con hiểu?! Bởi vậy còn Thầy là còn những cái điều kiện có chỗ thưa hỏi. Nếu mà không có Thầy thử hỏi Minh Tông ngày hôm nay Minh Tông có khổ sở không? Có bệnh tật không? Có thể nói rằng mất mạng nữa là khác.

(1:13:24) Các con chưa biết đâu để rồi sau này lần lượt sẽ có những cuộc vấn đạo giữa Thầy với nó. Thầy sẽ trả lời những cái điều mà các con sẽ thấy rất là nguy hiểm chứ đâu phải thường. Các con tu thấp thì các con chưa thấy. Cho nên có Thầy là một cái điều rất là lợi lớn rất lớn. Mà không có Thầy là một cái điều rất tai hại. Bước xa thì vào Thiền định không phải đơn giản, sai một chút ức chế tâm là các con đã tự đổi cái mạng sống của mình rồi đó.

(1:13:54) Cô Cảnh…​

Mà cất cái thất tu học, tu ở dưới. Tưởng là mình về đó yên ổn mình nỗ lực tu, nhưng cuối cùng lại sanh bệnh. Nếu mà không có Thầy thì chạy về đâu mà hỏi đây. Rồi bây giờ thì chỉ còn có nước…​.

Các con thấy còn Thầy thì ăn ngủ hoặc là tất cả mọi cái các con đâu cần lo. Mà rồi không còn Thầy thì các con phải tự lo lấy cái đời sống của mình. Ăn như thế nào, rồi phải làm như thế nào để có mà sống. Còn Thầy che chở đủ mọi mặt. Còn Thầy tu sai một cái gì thì có Thầy nhắc nhở. Cần cái gì thì có Thầy. Nếu phỏng chừng như cô Minh Cảnh mà ở Long Thành mà bây giờ Thầy đã ẩn bóng, Thầy đi mất rồi không còn nữa, thì thử hỏi bây giờ biết hỏi ai bây giờ?! Khi mà gặp những cái lúc như thế này không còn biết hỏi ai để mà sửa cho đúng.

(1:14:48) Đó! Cho nên đó là những cái điều rất là tai hại, rất là nguy hiểm. Cho nên tuy rằng thay vì Thầy sẽ ẩn bóng, nhưng mà vì các con nếu mà các con bỏ đi hết. Ví dụ như cô Minh Cảnh đi rồi, rồi mấy đứa này cũng bỏ đi hết rồi, thì trong khi đó là Thầy thấy vừa đúng để cho mình đi. Vì họ đi rồi thì coi như là mình không còn trách nhiệm nữa. Mình dạy theo đó thì họ cứ như theo đó mà tu.

Thì sự thật ra nó đâu có phải như vậy, đơn giản như vậy đâu. Cho nên còn lại mấy đứa ở đây thôi, cho nên Thầy ở lại đây để mà cố gắng để mà giúp đỡ cho mấy đứa đi tới cuối cùng để đủ kinh nghiệm. Để sau khi mà có một người. Nhất là Thầy nói Minh Tông còn bám chặt theo Thầy làm sao Thầy bỏ nó được. Cho nên Thầy không thể nào mà bỏ nó được, vì bỏ nó, tức là tự nó sẽ đi đến vào cái chỗ chết chứ làm sao mà sống được. Cho nên không bỏ nó. Vì vậy mà các con còn cái duyên mà gặp Thầy. Chứ còn không khéo thì các con đã rời khỏi đây rồi…​

(1:15:56) Mà các con sống chưa đúng giới luật thì các con có thấy phá được không? Không phá được tức là các con tu tà thiền, tà định rồi đó. Các con thấy chưa?

Tại sao vậy? Tại vì lìa khỏi pháp môn căn bản của đạo Phật. Mà cái pháp môn căn bản đó là cái pháp môn Giới luật của Phật mà Phật gọi là pháp môn căn bản. Tức là Giới luật, một pháp môn đầu tiên của ba pháp môn vô lậu Giới- Định- Tuệ.

Bởi vậy nhìn tu sĩ Phật giáo mà biết Phật giáo suy hay thịnh, mất hay còn, không phải ở số đông tu sĩ Phật giáo. Không phải ở chỗ Phật giáo được chấp nhận là quốc giáo. Không phải giáo hội Phật giáo được tổ chức như một quốc gia, có các trường học từ sơ, trung và cao đẳng. Để tu sĩ học tập có cấp bằng cử nhân tiến sĩ v.v…​ Cũng không phải ở chỗ xây chùa to tháp lớn kiến trúc kiên cố vĩ đại. Mà ở chỗ tu sĩ phải sống đầy đủ giới hạnh, đầy đủ giới bổn. Sống phòng hộ sáu căn với sự phòng hộ của giới bổn, đầy đủ uy nghi chánh hạnh, thấy sự nguy hiểm trong các lỗi nhỏ nhặt. Nói tóm lại vị Tỳ kheo phải giữ gìn giới luật nghiêm túc thì Phật giáo mới còn và hưng thịnh. Còn chúng Tỳ kheo phá giới luật Phật giáo mất và không hưng thịnh.

Lời di chúc năm xưa của đức Phật còn vang mãi trong tai chúng ta: “Giới luật còn là Phật giáo còn, giới luật mất là Phật giáo mất”. Đó là cái lời di chúc của Phật khi mà Phật sắp mất mà đức Phật đã nói.

Hỡi quý vị Tăng Ni và Cư sĩ. Quý vị có muốn Phật giáo trường tồn với loài người trên hành tinh này chăng? Hay để cho Phật giáo suy tàn chìm mất trong lớp bụi mù dày đặc của tà pháp ngoại đạo đang phủ trùm che khắp?

Nếu muốn nó được trường tồn và hưng thịnh mãi mãi. Đem lại hạnh phúc an vui cho loài người không làm khổ mình, khổ người thì người cư sĩ đệ tử Phật tại gia hãy giữ gìn giới luật của người cư sĩ mà đức Phật đã dạy. Phải nghiêm túc khi đã thọ Tam Quy Ngũ Giới và Thập Thiện. Phải lấy nó phòng hộ cuộc sống của mình. Phải gìn giữ đầy đủ oai nghi chánh hạnh. Phải thấy sự nguy hiểm trong các lỗi nhỏ nhặt thì Phật giáo sẽ còn với quý vị và với loài người.

Còn Tăng Ni đệ tử xuất gia của đức Phật, nếu muốn Phật giáo được trường tồn làm ngọn đuốc sáng soi đường cho mọi người trên quả địa cầu này đi tìm chân lý giải thoát, thoát khỏi kiếp khổ đau của loài người và cũng chính bản thân của quý vị. Quý vị có muốn làm chủ bốn sự khổ đau sanh, lão, bệnh, tử đang tấn công quý vị hằng giây, hằng phút? Nếu quý vị lơ đễnh rồi thì ôi thôi! Uổng một kiếp người!

Nếu muốn làm chủ bốn sự đau khổ này thì quý vị đã thọ Cụ túc giới, phải nghiêm chỉnh sống đầy đủ giới hạnh, đầy đủ giới bổn, không bẻ vụn giới luật như các tổ đã làm. Mà quý vị đang chịu ảnh hưởng rất nặng. Quý vị phải sống phòng hộ sáu căn với sự phòng hộ của giới bổn, phải đầy đủ uy nghi chánh hạnh, thấy nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt, chơn chánh lãnh thọ và học tu các giới.

Thì đó! Thì các con thấy trong cái sự tu tập ở đây là cái bài cuối cùng về giới luật. Đó là cái lời nhắc và muốn Phật pháp sống thì phải làm như vậy không thể nào khác hơn và muốn cứu mình ra khỏi sự đau khổ của kiếp người thì không phải ngoài pháp môn giới luật mà làm chủ được, mà ở trong pháp môn giới luật.

Đó! Thì muốn tu tập được như vậy thì các con phải cố gắng và cố gắng hơn để mà thực hiện cho được sự làm chủ, sự làm chủ của kiếp người. Mà hầu hết là từ khi mà Thầy dạy về giới luật cho đến nay thì hầu như Thầy thấy các con quá thờ ơ với những cái lời dạy và quá thờ ơ với sự xả tâm. Phải cố gắng xả đi đừng có giữ nó làm gì trong tâm của chúng ta để mà khổ. Mọi cái duyên sự gì bên ngoài thì chắc chắn là nhân quả thì của ai thì người ta phải chịu lấy, chúng ta có nghe được mà giúp đỡ họ thì cứ lấy giới luật mà nhắc nhở họ mà thôi. Được hay không được là do ở quyền của họ còn mình hãy cứu mình. Chứ còn nếu mình không cứu mình thì ai cứu mình cho được.

(1:20:38) Cho nên ở đây Thầy khuyên các con bây giờ còn lại không có mấy người Thầy cũng không có muốn nhận thêm. Vì trong một cái số tu sĩ ở ngoài Biên Hòa mà các cô cũng như là các Thầy muốn về đây ở tu. Nhưng mà Thầy không chấp nhận là vì cái người mới quá biết đâu chừng giới luật người ta không thể nào sống được. Người ta ham thì như vậy trong một, hai ngày, nhưng mà lâu rồi người ta sẽ chểnh mảng và coi thường giới luật. Vì chúng ta đã sống ở đây quá nhiều người rồi chúng ta biết rồi. Bây giờ có muốn nhận họ thêm thì cũng chỉ qua là làm cực thêm mấy con mà thôi. Rồi lại cực Thầy thêm chứ cũng không gì hơn. Cho nên khéo léo từ chối không để làm mích lòng thôi. Chứ con đường của Phật pháp quá khó. Khó tại vì giới luật. Khó tại vì đức hạnh của chúng ta. Phải xả tâm ly dục ly ác pháp. Cho nên cái con đường này rất khó không phải dễ!

Nếu là Thiền định của Đông độ, của Đại thừa, của Tịnh Độ, của Mật tông thì chắc chắn không khó bởi vì đời sống chạy theo những dục lạc thế gian. Ăn ngủ phi thời thì chắc chắn là không khó rồi. Còn đời sống của chúng ta khó quá là vì ăn ngủ không được phi thời, sống trầm lặng một mình. Còn cái kia thì vui chơi nói chuyện này kia nọ đủ thứ. Cho nên làm sao mà họ theo được. Vì vậy mà Thầy chỉ mong làm sao chúng ta chỉ một, hai người là cũng đủ nói lên được Phật pháp rồi. Chứ còn trông nhiều người thì không thể nào hy vọng được hết.

Đó! Thì hôm nay ở đây thì các con còn lại mấy người. Thì các con phải ráng mà nỗ lực. Đứa nào có quyết tâm thì giải thoát cho chính bản thân mình và cũng là sự sáng lại ngọn đèn của Phật pháp. Còn lại không được mấy đứa nhưng mà còn cố bám theo Thầy. Chứ Thầy định khi mà Thầy tuyên bố ẩn bóng rồi. Thì chắc chắn lần lượt thì các con sẽ rút lui. Vì đối với cô Út thì các con biết rằng cổ không từ, không tha một người nào. Cổ mong rằng đặp cho được, xả cho được tâm của mấy con mà thôi. Cho nên chắc các con là Thầy nghĩ rằng sau những cái cuộc mà ẩn bóng của Thầy thì chắc các con không còn ở đây nữa. Nhưng mà cuối cùng thì các con cũng còn được năm ba đứa mà ở lại đây. Cho nên vì vậy mà Thầy tiếp tục Thầy ghi lại cái điều đúng sai của Phật pháp để mong ngày sau có những cái tài liệu làm cảnh giác cho người sau.

Nếu người ta tu không được thì người ta cũng thấy cái đúng của Phật pháp và cái sai của Phật pháp. Chứ không khéo người ta cũng cho đó là của Phật pháp hết thì đau lòng cho đức Phật. Pháp của Phật đâu có giống như pháp của người ta. Thế mà bây giờ cái gì cũng là của Phật hết thì rất đau lòng. Lên đồng nhập cốt cũng hô Phật. Rồi bói khoa đồ cũng là Phật. Rồi làm Thầy trị bệnh cũng hô Phật. Cái gì cũng của ông Phật hết. Làm những chuyện mê tín cũng Phật cái gì cũng là Phật. Đau lòng như vậy cho nên nhân cái dịp còn ở lại thế gian trong một vài phút vạch ra cho hết những cái sai lệch của đạo Phật. Để giúp cho người sau người ta biết được Phật giáo cho nó rõ ràng hơn và chính xác hơn là cái bộ kinh Nguyên Thủy mà Hòa thượng Minh Châu đã dịch.

Thì hôm nay các con là những người mà có đủ phước duyên. Chứ hầu hết là nhìn chung các tu sĩ hiện giờ các con thấy họ có thể nào theo mình tu được không. Mà họ có biết được cái đúng cái sai đâu. Kinh sách của Thầy thì các con thấy họ đọc chỉ có một cái số. Hàng triệu người, thì Thầy nói rằng ở trên đầu ngón tay chúng ta đếm mười người chưa có đọc được đủ đến mười người nữa, huống hồ là phải nói rằng cái số đông.

Bởi vì vừa rồi thì các con biết rằng kinh sách của Thầy in ra, nó đâu có dễ dàng đâu, nó đâu có dễ đâu. Nếu mà in ra được thì nó lại còn có những khó khăn. Người ta có quyền người ta tịch thu nó được. Cho nên tất cả những cái pháp này nó không đơn giản đâu. Vì vậy mà cái phước của chúng sanh mà để đọc những cái lời kinh, lời dạy của Thầy, thì nó không phải là nhiều đâu.

Cho nên nếu mà nó nhiều thì chắc chắn là chúng sanh có phước lớn. Còn nó không nhiều chúng sanh đang thiếu phước, cho nên nó chẳng biết Phật giáo là gì, chẳng biết Phật giáo là ở góc độ nào. Cho nên nó chưa có thông suốt được Phật giáo. Còn các con là những người có phước biết được con đường tu đúng và sai. Không phải là ở lời nói của Thầy mà ở sự suy ngẫm của các con.

Suy ngẫm như thế nào? Hai mươi mấy năm trời nay thì Thiền tông từ khi Hòa thượng trấn hưng lại phải nói rằng người ta tích cực tu Thiền rất nhiều. Nhưng mà hiện giờ thì bàn tay chúng ta đếm lại cái người mà đạt được có cái ngón tay nào không? Hay là chỉ là lý thuyết suông?

(1:25:34) Nếu mà Thiền tông thì phải nói là làm chủ sự sanh tử với chấm dứt sự luân hồi chứ! Mới đúng chứ! Chứ đâu phải Thiền tông là cái lời nói suông, nói miệng không. Nhưng có ai mà nhập định bảy tám ngày, một tháng, hai tháng làm chủ được sự sống chết này chưa? Chưa nè! Quý thầy lớn có nè, quý thầy nhỏ có nè. Các vị đệ tử Hòa thượng tu 10 năm, 20 năm bây giờ có người chết. Các con thấy như các vị huynh đệ của Thầy có người bây giờ đã chết rồi nhưng họ có làm chủ được không? Họ cũng theo Hòa thượng tu rất lâu. Đến khi chết họ bệnh đau cũng khổ sở rồi họ chết. Có người nào làm chủ không?

Đây bắt đầu bây giờ các con hỏi cô Minh Cảnh nè biết thầy Thiện Pháp không? Thầy làm trụ trì Thường Chiếu trước kia đó. Thầy chết đi Thầy có làm chủ không? Bây giờ tới giai đoạn của Thầy Phước Hảo nè Thầy cũng sắp sửa nè. Thầy cũng già yếu rồi đó. Bây giờ ai về đó hỏi thầy, thầy có làm chủ được sự sống chết chưa nè?

Đó! Thì tất cả những cái này có phải trong suốt cái thời gian quý thầy nhập thất tu hành chứ đâu phải quý thầy lơ mơ đâu. Nhưng mà cuối cùng bây giờ có được gì không? Thì sau khi mà Hòa thượng tịch rồi thì các Thầy này phải sống như thế nào đây? Các Thầy phải trở về Tịnh độ thôi. Chỉ có Tịnh độ mới sống được thôi.

Thì hôm nay thì bây giờ các con mà không tu được, thì ngày mai này cái chùa này Thầy có dạy các con tụng niệm không? Người ta còn có tụng niệm nè. Mặc dù là Hòa thượng dạy Thiền nhưng mà người ta còn tụng niệm, người ta tụng Bát nhã người ta đi cầu an, cầu siêu được. Còn các con có tụng niệm gì đâu được đâu. Cuối cùng thì các con đi đến chùa người ta Phật tử đến mời các con tụng niệm.

Như Thầy Từ Minh chẳng hạn. Các con thấy ở ngoài miền Bắc người ta đến mời Thầy đi tụng niệm. Thì Thầy cũng làm lúa, chứ Thầy có dạy tụng niệm đâu, cho nên Thầy cũng xách mõ. Gõ mõ thì không đúng cách phải không? Hồi hướng thì cũng không đúng. Cho nên Phật tử mới nói dường như Thầy là người mới tụng niệm đầu tiên. Mà đúng vậy! Đầu tiên tụng niệm, thuở giờ có tụng niệm bao giờ đâu. Chuông chẳng biết đánh sao nữa chứ đừng nói.

Thầy ở đây dạy các con đúng theo Phật là không có tụng niệm, không có đi Tịnh độ. Cho nên ở đây chuông mõ này kia Thầy dẹp sạch, không có tụng niệm kiểu đó. Cuối cùng bây giờ các con ra làm sao mà đi đám ma người ta mà sống nè. Phải không? Bây giờ không lẻ đi làm sao bây giờ? Đâu có biết. Bây giờ nếu mà muốn vậy các con phải đến mấy chùa Tịnh độ mà học một khóa lại đi. Rồi mới về gõ mõ, gõ chuông tụng niệm. Bây giờ như cô Lan đó biết tụng niệm đó. Làm kênh kênh đi ăn thịt thây ma được đó. Chứ còn các con đi ăn thịt thây ma họ không cho ăn đâu. Họ còn nói: "Thầy bộ mới tụng niệm lần đầu tiên" Phải không? Các con hiểu chưa?

(1:28:06) Đó! Như Chơn Trí nó tụng niệm được đó, nhưng mà nó nói tôi cũng không muốn làm kênh kênh ăn thịt đám ma mà thịt người chết mà. Cho nên vì vậy mà ráng mà nỗ lực tu. Cho nên vì vậy các con thấy xét đi, xét nghĩ kỹ lại thì đó là một cái thứ nhất. Các con không thể mà biến các con thành Tịnh độ được. Thầy không chấp nhận điều đó, cho nên không dạy các con những điều đó.

Thầy từ ở trong cái gia đình Tịnh độ ra, tức là Thầy cũng biết tụng niệm rồi, nhưng mà chưa hề Thầy dạy ai về tụng niệm. Rồi bây giờ Thầy dạy các con tu mà các con tu không xong thì các con làm cái gì giờ? Rồi đến cái nghề nghiệp sống Thầy cũng chẳng có dạy các con cái nghề nào sống. Thầy nói nhìn cái đám mà các con trồng ngoài đó tới bây giờ chưa có cây nào mà nên hồn, nên vía nào hết. Phải không? Các con thấy có cái trái nào ăn đâu. Mà bây giờ Thầy giao cho Mật Hạnh rồi Thầy chỉ cho Mật Hạnh làm thì các con thấy nữa nè thơm nó ra thơm nè cái gì nó ra cái nấy. Mà nếu mà giao các con thì ba cái đống rác đó đổ riết rồi chắc nó cũng không ra cái gì hết. Thật sự ra nó không ra gì.

Cho nên xét đi, xét lại cô Út cổ lo là vậy. Biết là khi Thầy chết hay hoặc là Thầy đi đâu Thầy ẩn bóng rồi, thì bắt đầu bây giờ mình ở đây sống sao đây? Phải không? Các con hiểu điều đó. Cho nên cái khó khăn là cái chỗ này. Phải ráng tu để cứu mình. Và đồng thời cũng làm ánh sáng cho người khác soi. Và vì vậy mà cái uy tín của các con là tự các con đã thắp sáng lên. Thì chừng đó các con ngồi đó mà các con không phải cần mà người ta đem cúng dường các con đâu, các con muốn ăn cái gì nó có cái nấy. Cái đạo lực của các con, các con còn sống, các con muốn một bữa cơm chay, Thầy nói như thế này, cỡ thứ bây giờ Thầy vào trong rừng trong núi, Thầy ở một mình đó, Thầy chẳng cần củ khoai gì hết. Thầy muốn ăn cơm chay, muốn ăn hủ tiếu, muốn ăn đồ xào đồ gì, Thầy bảo: "Đem dưng đây Thầy một mâm đi". Là cái nó đem vô. Thầy ngồi đó Thầy ăn đả thôi. Phải không các con? Thầy biểu: "Dọn đi". Thì nó biến mất à. Không có sướng hay sao? Tu hành đến cái mức độ vậy không sướng sao? Cho nên đâu có cần gì!

Ví dụ như bây giờ Thầy muốn đi đâu, đâu cần phải đi xe hơi xe cộ gì! Thầy bảo: "Bay đi cái chỗ đó đi". Cái thân nó bay riết tới cái chỗ đó nó đáp xuống à! Ra lệnh nó đi mà! Thì cái chuyện tu hành chúng ta nói đùa chơi như vậy. Nhưng mà sự thật ra nó tự tại như vậy! Nếu mà tự tại trong sanh tử thì phải tự tại được cái gì chứ! Chứ đâu phải.

Cho nên bây giờ tu không xong thì cơm không biết làm sao đây mà có cơm ăn. Còn tu xong rồi thì muốn ăn cổ bàn bây giờ, nhà hàng nó có cái thứ gì mình muốn ăn cái thứ gì cũng có. Đó là cách thức muốn nói như vậy để biết rằng cái đạo lực của chúng ta tu đến mức độ đó. Mà tại sao chúng ta biết được như vậy mà chúng ta không thực hiện cho được?

Mà chỉ có chút xíu à! Thầy nói bỏ cái tâm tham, sân, si đi! Dẹp nó qua một bên đi! Ai chửi mình như cục đất vậy! Thử coi các con được không? Thầy nói các con mà cái tâm mà không có phiền não nữa rồi, các con bảo nó bay trên mây xanh là nó bay cho mà coi!

(1:30:58) Đó! Cho nên đó là những cái điều rất là tai hại, rất là nguy hiểm. Cho nên tuy rằng thay vì Thầy sẽ ẩn bóng nhưng mà vì các con nếu mà các con bỏ đi hết. Nó ví dụ như cô Minh Cảnh đi rồi. Rồi mấy đứa này cũng bỏ đi hết rồi. Thì trong khi đó là Thầy thấy vừa đúng để cho mình đi. Vì họ đi rồi thì coi như là mình không còn trách nhiệm nữa rồi. Mình dạy theo đó thì họ cứ tu theo đó mà thôi đủ rồi.

Thì sự thật ra nó đâu có phải như vậy, đơn giản như vậy đâu. Cho nên còn lại mấy đứa đây thôi. Cho nên Thầy ở lại đây để mà cố gắng để mà giúp đỡ cho mấy đứa đi đến cuối cùng để đủ kinh nghiệm. Để sau khi mà có một người nhất là Thầy nói Minh Tông còn bám chặt theo Thầy làm sao Thầy bỏ nó được. Cho nên Thầy không thể nào mà bỏ nó được, vì bỏ nó tức là tự nó sẽ đi đến vào cái chỗ chết chứ làm sao mà sống được, cho nên không bỏ nó. Vì vậy mà các con còn cái duyên mà gặp Thầy. Chứ còn không khéo thì các con đã rời khỏi đây rồi thì coi như đương nhiên là đứa nào có chỗ ở thì nấy lo cơm ăn áo mặc rồi thì đâu còn gì mà Thầy phải lo.

Đó! Thì hôm nay thì các con thấy đó có những cái khó khăn. Mà những cái khó khăn đó là Thầy biết các con đã theo Thầy, tức là Thầy có một trách nhiệm. Trách nhiệm phải hướng dẫn các con tới nơi tới chốn. Mà các con không ráng thì làm sao Thầy dẫn tới. Con đường nó còn khó chứ đâu phải dễ.

Hãy buông xuống đi! Các con hãy xa lìa nó đi! Giới luật của Phật đã dạy như vậy rồi thì chúng ta phải ráng cố gắng mà xa lìa cái tâm chúng ta. Giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh. Thầy nhắc đi, nhắc lại sự độc cư các con rất nhiều. Các con hỏi một điều gì quan trọng là hỏi. Ai hỏi một điều gì không quan trọng thì tìm cách mà lửng lờ mà trả lời: "Điều đó hỏi cô Út hoặc là hỏi Thầy, em không biết". Thì từ chối khéo léo. Bởi vì luôn luôn mình phải cảnh giác tất cả mọi mặt. Không có nên tiếp duyên, không có nên nói chuyện đời, không có nói chuyện này, chuyện kia, không có nói chuyện ở ngoài. Vì cuộc đời của mình ở ngoài người ta không có cứu mình được đâu. Người ta không có nuôi mình được đâu. Mà chỉ mình cứu mình.

Các con chưa có thấy cái nỗi khắc khoải của cô Út. Cô Út thì cổ cũng lo xa lắm, cổ nói: "Bây giờ, nếu mà một mai mà Thầy đi đâu rồi, Thầy ẩn bóng đâu rồi, thì tụi con phải tự túc sống, phải làm thế này, phải làm thế khác. Chứ không lẽ mà Thầy sống đây hoài. Hoặc là Thầy nói Thầy ẩn bóng mà Thầy cứ ở đây hoài thì cũng không được. Mà Thầy đi thì tụi con làm sao sống? Cho nên do vì vậy nó là một cái nỗi khổ. Cho nên con mới định cách thức này, cách thức khác. Nhưng mà đâu phải giải quyết một ngày một giờ mà được". Đó là cái nỗi lo của cô Út là như vậy! Thì cổ nghĩ rằng bây giờ Thầy còn sống, mai mốt Thầy sống đây rồi Thầy chết chứ đâu phải Thầy cứ sống hoài được. Không lẽ là Thầy lột da Thầy sống hoài.

Cho nên hôm nay cái bài học kinh Ước nguyện là để nhắc cho các con cái bước đầu tiên của đạo Phật là cái giới luật nghiêm chỉnh sống đúng trầm lặng độc cư. Sống ăn ngày một bữa chết bỏ nhất định là không phi thời. Chết là chết trong giới luật, không thể nào chết phạm giới.

Mà bài kinh Thừa Tự Pháp Chứ Không Thừa Tự Thực Phẩm. Cái bài kinh Thừa Tự Pháp đức Phật đã vẽ ra cho chúng ta thấy hai vị Tỳ kheo vượt qua sa mạc để đến thăm Phật. Thì một người vì đói khát mà chịu chết giữ đúng giới luật. Một người thì sợ chết mà để sống để mà tiếp tục tu, thì cuối cùng người này cũng chẳng có ra gì. Mà người đã sống đúng giới luật chết để rồi thành tựu được cái sự tu tập của mình. Có bấy nhiêu đó mà thôi.

(1:34:55) Cho nên ở đây thí dụ như Thầy, trong cái tập của cô Huệ Ân, Thầy khuyên là: "Con sắp sửa tuổi đời nó mòn mỏi rồi, nó không còn nữa. Hãy xả hết đi! Đừng nghĩ gì nữa hết! Luôn luôn giữ tâm thanh thản, sống trong Định Sáng Suốt. Luôn luôn lúc nào cũng vô sự chẳng biết gì bên ngoài. Coi như là trách nhiệm làm mẹ đối với mấy con cũng đã đủ lắm rồi không còn gì hết. Đưa cho chúng nó lớn khôn, như con trai thì có vợ có con rồi. Còn con gái thì đi tu hành rồi, không còn có lo lắng gì nữa hết. Coi như là gánh nặng mình đã buông xuống hết rồi. Chỉ còn hiện giờ là cứu lấy mình mà thôi. Cho nên giữ tâm hồn thanh thản, an lạc. Đừng để tâm bận bịu một cái gì bên ngoài nữa hết. Thì tới chừng mà con bỏ thân này thì con rất là an ổn, an nhiên chứ không còn khổ đau. Còn có những cái thân nó hoại diệt, nó bệnh đau chỗ này, chỗ kia thì chúng ta đã có pháp hướng, thành tâm, tin tưởng, nỗ lực ra lệnh triệt để mà cái bài kinh Như Lý Tác Ý mà cô Út đã hỏi tại sao Thầy dạy Như Lý Tác Ý"

Là một phương pháp ám thị mà Phật thì dạy Như Lý Tác Ý, vậy có nghĩa lý gì mà Thầy nhắc đi nhắc lại rất nhiều. Do đó Thầy sẽ trả lời sau này thì các con sẽ đọc các con sẽ hiểu được cái pháp Như Lý Tác Ý. Nó rất là hiệu nghiệm và công năng của nó rất lớn đối với cái sự tu tập của mỗi chúng ta. Biết sử dụng nó, thì chúng ta thoát ra cảnh khổ.

(1:36:34) Như vừa rồi Thầy nói như thế này. Vì trên chuyến xe đi ra ngoài Phước Hải ra ngoài Long Hải, thì Minh Tâm hỏi Thầy: "Tại sao cái tay của Thầy lại bó như vậy?"

Thầy nói: "Thầy chặt sắt phụ với Mật Hạnh. Thì cây sắt nó chĩa vào nó làm gây ra một vết thương"

Thì nó nói như thế này: "Một người mà làm chủ nhân quả chắc chắn là Thầy sẽ biết cái sự kiện mà xảy ra cho cái thân Thầy thì Thầy tránh, chứ Thầy đâu có để cho nó bị thương như vậy. Tại sao Thầy để cho nó bị thương?"

À! Đây cũng là một cái câu hỏi mà để cho thấy được một cái người mà tu chứng làm chủ được nhân quả. Làm chủ được nhân quả các con! làm chủ được nhân quả! Nghĩa là nhân quả đến với mình mình làm chủ được nó, chứ không có nghĩa là mình chặn nhân quả. Nghĩa là mình biết nhân quả cái giờ phút đó. Bởi vì Thầy sinh ra mang cái thân này là thân nhân quả. Mà nhân quả thì nó có cái ngày đó, giờ đó nó phải xảy ra, nó không phải ngẫu nhiên đâu. Nó xảy ra tai nạn, nó xảy ra một vết thương nhỏ. Nó đạp một cây gai, hay đạp rết rắn, hay hoặc là đạp một cái lông sâu để nó trở thành một cái bệnh tật làm cho mình khổ đau phải trả cái nhân quả đó. Thì cái này không ai chạy khỏi hết. Nghĩa là dù là chư Phật nhưng đối với cái thân này cũng không thể tránh khỏi. Nhưng mà làm chủ được cái nhân quả đó.

Bây giờ cái quả đó nó đến với Thầy thì một cái người mà không làm chủ nhân quả biết đau nhức khổ sở. Còn trái lại với Thầy, Thầy làm chủ nhân quả và Thầy đã có cái pháp hướng nữa. Cho nên cái vết thương nó làm đau nhức thì Thầy ra lệnh. “Cái Thọ vô thường hãy đi rời khỏi cái thân này không được đau nhức nữa”. Do đó Thầy giữ cái trạng thái yên lặng trong tâm của Thầy thanh thản thì một lúc sau cái vết thương không còn nghe đau đớn nữa. Gọi là làm chủ nhân quả, chứ không có nghĩa là chặn đứng nhân quả. Vì cái thân nhân quả là cái thân nó phải thọ lấy những cái bệnh tật, tai nạn, cái gì nó xảy ra cho nó đã nó sắp xếp sẵn rồi. Không thể chặn cái nhân quả đó được. Mà nó xảy đến mình có làm chủ được nó hay không? Đó! Mình làm chủ được nó hay không?

Bây giờ cái thân của Thầy nè nó phải tới giờ phút đó nó chết nè, mà bây giờ Thầy làm chủ được cái nhân quả cho nên tới giờ phút nó chết Thầy làm chủ được ở trong cái chỗ chết của nó. Mà bây giờ phút nó chưa có chết Thầy muốn chết trước Thầy cũng làm chủ được nó. Đó là cái chỗ làm chủ được cái sự sống chết của nó. Còn bây giờ cái vết thương, nó làm cái vết mà bây giờ Thầy chưa có xảy ra tai nạn gì hết. Nhưng mà Thầy biết rằng ngày mai này nó sẽ có tai nạn đến Thầy. Mà Thầy trốn tránh Thầy không phải, không đúng!

Bởi vì cái thân của Thầy là thân nhân quả, nó phải trả cái nhân quả đó. Mà tránh cái nhân quả sao được. Nhưng mà Thầy phải sống ở trong cái nhân quả đó. Tức là nó xảy ra cái tai nạn đó. Rồi từ cái tai nạn đó Thầy mới làm chủ cái tai nạn đó cho nên tâm Thầy nó bất động, nó không còn khổ đau trong cái tai nạn đó. Cho nên gọi là làm chủ nhân quả chứ không phải trốn nhân quả. Còn bây giờ Thầy biết ngày mai nè Thầy bị xe đụng nè, nhất định là ngày mai Thầy ở trong chùa Thầy không đi, để cho xe đừng đụng Thầy, tức là Thầy trốn nhân quả chứ không phải là trả, không phải là làm chủ nhân quả. Gọi là trốn tránh né nhân quả. Các con hiểu?

(1:39:46) Ở đây Phật nói làm chủ nhân quả. Làm chủ sự sống chết tức là làm chủ nhân quả. Mà làm chủ nhân quả thì trước những cái nhân quả của nó chúng ta làm chủ, chứ không phải trốn nhân quả. Còn chúng ta tránh né gọi là tránh né nhân quả. Cho nên Thầy giải thích như vậy thì nó hiểu rõ ràng.

Do đó Thầy mới nói thêm, khi một cái vết thương như vậy. Đây là một cái tâm mà, sự thật ra nó từ cái vết thương này nó sẽ xảy đến cho mình cái tâm niệm. Thì trong khi nó xảy ra như vậy rồi, Thầy băng bó cái vết thương rồi. Thì đêm đó Thầy nằm ở trên cái tảng đá Thầy ngủ, khuya Thầy thức dậy Thầy nghe sao cơ thể của mình sao nó mỏi mệt. Nó mọi lần nó không có, mà nay dậy thì nghe nó khó chịu như thế này. Mà nghe nó bị sốt. À! Thầy mới nghĩ trong đầu Thầy mới nghĩ như thế này: "Như vậy là thanh sắt này nó có vi trùng của phong đòn gánh, cho nên nó bị cái vết thương này mà nó làm cho mình cảm sốt đây. Thì như vậy là bị phong đòn gánh rồi". Thầy mới nói: "Phong gì phong, mặc mày tao có pháp hướng thì tao sẽ đuổi phong đòn gánh đi ra khỏi đây".

Cho nên Thầy mới ngồi kiết già Thầy mới hướng tâm Thầy nhắc: “Cái vết thương này là do giả, do nhân quả mà nó tạo ra, cho nên ở đây mày phải lui ra khỏi đây, phong gì cũng không thể thắng được cái tâm tao, tao không có sợ”.

Do đó Thầy hướng tâm Thầy nhắc như vậy: “Phải hoàn toàn là cái sốt này, cái cảm nóng lạnh này phải lui ra đi, không được ở đây nữa”. Thầy bắt đầu Thầy ngồi Thầy nương vào hơi thở, Thầy biết ra nhẹ nhàng ra vô. Bắt đầu cái hơi thở Thầy nhẹ nhẹ, nó lặng dần, lặng dần. Một lúc sau Thầy thấy không có còn mà nóng lạnh, không có còn mà đau nhức, không có còn gì hết. Hoàn toàn là tự nhiên.

Chứ theo mà các con hoảng hồn, sáng là đi chích thuốc rồi, phải không? chích thuốc ngừa phong đòn gánh rồi. Còn Thầy thì tự nhiên, do cái pháp hướng của mình đẩy lui tất cả những cái gì mà cái tâm nó bị dao động là đẩy lui lại, nó làm cho chúng ta an ổn trở lại liền tức khắc, tâm hồn thanh thản. Và bây giờ cái vết thương thì sắp lành rồi. Mà chỉ trong ba bốn hôm nay chứ không có lâu. Thì các con thấy cái vết thương này nó sắp lành rồi đâu còn gì nữa. Cho nên vì vậy mà đâu có thể nói rằng bị phong đòn gánh được. Chứ còn nếu mà người khác thì nghĩ rằng đó là cái thanh sắt thì chắc chắn là nó bị phong đòn gánh.

(1:42:01) Đó! Thì ở đây Thầy muốn nhắc nó như vậy để cho các con thấy là cái pháp hướng của chúng ta có hiệu quả. Cũng như bây giờ cái thân của cô Huệ Ân nó già thì nó phải suy yếu . Thì nó phải nay nó bệnh tật này, mai bệnh tật kia. Nó đau nhức chỗ này, nó đau nhức chỗ kia, để nó hoại diệt chứ có gì đâu. Một cái nhà mà nó sắp sửa nó hoại diệt thì nó bao giờ nó cũng mục nát rồi nó mới sập xuống được. Chứ còn nó cứng như vầy làm sao mà nó sập được. Thì cái thân của mình nó muốn đổ vỡ, nó muốn sập thì nó cũng phải mục nát ở trong đó rồi nó mới đổ. Mà nó mục nát thì tức là nó phải đau nhức chứ? Nó đau nhức thì cái nhân quả của cái thân nó hoại diệt nó vô thường như vậy. Thì mình trốn sau khỏi nó. Cho nên mình có pháp hướng mình làm chủ. Mình chỉ cần giữ cái tâm mình thanh thản tự nhiên, không sợ hãi, không lo lắng cái sự chết sống, không sợ hãi cái sự đau nhức. Mà mình dùng pháp hướng nhắc thì tức là cái bệnh của mình nó sẽ mất đi và mình sống lại với cái trạng thái bình thường thanh thản, không đau, không nhức, không thọ gì. Mặc dù cái cơ thể này nó đang hoại diệt chứ không phải là thiếu hoại diệt.

Đó! Thì các con thấy cái pháp hướng của chúng ta là cái pháp làm chủ được cái thọ, được cái thân, được cái sự sống chết của chúng ta rất là rõ ràng cụ thể. Mà nếu mà các con đừng sợ hãi, đừng để tâm dao động thì pháp hướng rất hiệu quả. Còn các con có sự sợ hãi, có tâm dao động, một chút sợ nó chết, sợ này kia, lo nó phải uống thuốc, rồi phải phá giới, phải ăn thêm thì các con sẽ không bao giờ mà có hiệu quả ở trên pháp hướng đó đâu. Nó mất thanh tịnh rồi thì nó không có còn hiệu quả, nó không còn vi diệu nữa được. Còn cái người mà người ta giữ gìn đúng giới hạnh thì nó vi diệu, nó hiệu quả, nó giúp chúng ta thấy an ổn được cái cuộc sống chúng ta không ai mà động chạm.

Cho nên các con sẽ đọc tới cái pháp Như Lý Tác Ý. Mà khi mình bị người khác chửi mà chúng ta dùng nó mà chúng ta đến nỗi mà đức Phật dạy như thế này. Khi mà chúng ta quán xét từng cái hành động nó mà chúng ta chưa xả ra được, chúng ta quán nó là ác pháp, thiện pháp cũng xả chưa được, thì chúng ta đè nó lên nóc họng. Nghĩa là răng cắn chặt lại, lưỡi đè lên nóc họng, chúng ta dùng pháp hướng ra lệnh nó, thì cái tâm sân tâm, cái tâm phiền não chúng ta sẽ xuống liền. Nghĩa là chúng ta ra lệnh nó bằng cách là chúng ta cắn chặt răng lại, chuyển hết cái thân lực của chúng ta để mà dùng cái pháp hướng Như Lý Tác Ý ra. Thì cái tâm sân của mình bắt đầu nó sẽ đoạn dứt liền tức khắc, nó không giận hờn phiền não nữa, nó không còn kéo dài nữa. Đó là cái lối phương pháp để dùng pháp hướng.

(1:44:38) Cho nên bây giờ cái thân chúng ta đang đau nhức. Mà bây giờ nó nhức quá chúng ta chịu không nổi. Bây giờ cắn chặt răng lại, lưỡi đẩy lên nóc họng nè, tập trung tâm mình gom lại, dùng cái pháp hướng: “Cái thọ phải lui đi, không có được ở đây nữa”. Hoàn toàn trong khi tâm chúng ta ra lệnh, mà thân của chúng ta thì cắn chặt răng lại, coi như là gom hết cái sức thân của mình lại trong cái lưỡi và cái hàm răng của chúng ta. Thì do đó chúng ta ra lệnh cái đau đó nó sẽ lui đi, không còn đau nữa. Đó là cái lời trong kinh Phật dạy mà của cái bài kinh mà các con sẽ đọc sau này thì các con biết. Cái gì đức Phật cũng căn dặn dạy chúng ta rất kĩ.

(1:45:20) Qua bài kinh Ước Nguyện, đối với đạo Phật, ta ước muốn những gì để đạt được kết quả theo ý muốn của mình, thì đều phải thực hiện tu tập và sống đúng giới luật. Đó là một nền tảng vững chắc của đạo Phật. Nếu ai bỏ nền tảng vững chắc này tu tập dù tu đúng Thiền Định của đạo Phật thì cũng trở thành tà thiền, tà định. Nghĩa là bây giờ mình có tu mình cách thức mà Phật dạy đúng như vậy mà mình bỏ giới luật thì mình cũng sẽ, những cái Thiền định đó cũng sẽ là tà thiền, tà định. Chẳng hạn bây giờ các con thấy Thầy bảo các con hướng tâm nhắc phá âm thanh nè: "Nhĩ căn, nhĩ thức, quay vô không có được nghe". Đó là đúng pháp rồi đó.

(1:46:00) Nó đi còn hơn máy bay nữa. Phải không? Các con bảo, bây giờ đi ra miền Bắc, tức thì bây giờ ở miền Bắc. Thì ngay đây cái thân đây mất, nó ra ngoài đó, tới ngoài đó rồi. Đâu có như Chơn Trí mà đi hai ba bữa mới tới ngoài. Các con thấy không? Nó nhanh như vậy đó. Nó quyền lực như vậy đó. Các con chưa tin đâu. Tới chừng nào mà các con làm được rồi, "trời ơi! Thầy nói hồi đó mà tôi không tin, cho nên tôi tu quá chậm." Các con thấy không? Không phải là Thầy gợi cái tâm ham muốn thần thông các con đâu. Mà cái đạo lực, cái quyền lực của người tu là như vậy.

Mà có chút xíu à! Thầy nói có chút xíu à! Cái tâm tham, sân, si bỏ xuống hết đi, bỏ xuống sạch đi. Đừng có ham, đừng có thắc mắc, đừng có rầy rà, đừng có cái chuyện lặt vặt của các con nhỏ, cái chuyện không ra gì hết mà cứ ôm ấp hoài trong lòng. Sao không bắt chước Thầy bỏ hết đi. Ai nói gì cũng như cục đất vậy có được không? Có bao nhiêu đó thôi, Thầy bảo các con bao nhiêu. Có cần gì tu, bỏ xuống cái khỏi cần tu gì hết, nó sướng gần chết. Rồi muốn đi đâu nó cũng tự tại hết. Đó thật sự ra thì như vậy đó, các con cứ làm đi.

Bởi vậy Thầy nói, cuối cùng Thầy nói có một chút sao lại tụi nó bỏ không được kỳ vậy? Có một chút à, tham, sân, si có một chút thôi, mà bỏ xuống bỏ không được. Mà bỏ xuống nè, bệnh đau không có nè, khổ đau không có. Bởi vì mình bảo nó bỏ được, thì bảo cái gì nó cũng bỏ được hết. Đó bằng chứng như cái tay Thầy nè, Thầy bảo nó không nhức, không đau, thì nó không nhức, không đau gì hết.

Đó! Thì bằng chứng các con thấy cái pháp mà nó có hiệu quả, thì nó có chút chút các con cũng thấy có hiệu quả rồi, nhưng mà nó chưa sâu, nó chưa bằng cái lực như Thầy. Các con có bệnh đau nè, các con làm cho cái tâm mình vững vàng, đừng có dao động cái chút nó hết à. Thì đó các con thấy nó hiệu quả như vậy. Đây là cái hiệu quả nhỏ nhỏ thôi. Nếu mà các con bỏ sạch cái tâm của các con rồi thì cái hiệu quả nó như thế nào các con biết không?

Bây giờ bảo ông trời sụp nó sụp xuống à, chứ nó không dám cải mà nó nằm đó đâu. Bảo đất này tan nát nó phải tan nát hết nó chết hết cả đám với nhau đó, nó không dám cãi mình nữa. Nhưng mà mình đâu có làm chuyện ác như vậy. Làm chuyện như vậy nó sụp xuống nó chết thiên hạ sao. Cho nên Thầy ví dụ như vậy đó, mình không có làm ác như vậy. Nhưng mà mình bảo sao nó nghe vậy. Bảo trái đất này nó tan tành là nó tan tành. Cái lực của mình nó vĩ đại như vậy, nó siêu việt như vậy đó. Mà sao các con không có, chấp chi mà nhỏ mọn cái tâm tham, sân, si mà cứ ôm hoài trong bụng. Thầy mà biết nó nằm ở chỗ nào, Thầy mổ ra, Thầy lôi nó ra liền, ném ở ngoài đồng, đem Thầy chôn ở ngoài cái đám mả kia kìa. Bởi vì cái tâm đó không biết nó ở chỗ nào mà móc nó ra, chứ còn Thầy biết Thầy móc Thầy ném nó đi cho rồi. Để làm chi mà chịu cực khổ.

10. THẦY NHẮC LẠI CÁCH THỨC TU XẢ TÂM

(1:48:30) Bây giờ thì nó cũng hết giờ rồi. Bây giờ thì thật sự ra thì Thầy nhắc lại. Trong khi mà tại sao mà các con ngồi đây mà Thầy kiểm tra từ 30 phút hay hoặc là thường thường thì 30 phút thì các con ngồi thẳng thớm ngay ngắn. Tại vì các con quá sợ Thầy cho nên các con ngồi ngay ngắn. Còn ngồi một mình các con ẹo qua, ẹo lại là tại vì các con tự tại, tự do quá rồi không ngán ai hết. Cho nên theo thân của mình sao thì mình ngồi vậy. Cho nên ở đây đó các con thấy lúc nào các con muốn mà ngồi cho ngay ngắn thì các con cứ nói: "Thầy đứng đằng sau lưng đó, coi chừng đó!" Thì như vậy thì may ra cái lưng của mấy con mới thẳng và tâm nó mới chơn chánh. Và đồng thời thì các con nhớ rằng trong cái vấn đề Thầy dạy nó không phải ở chỗ các con ngồi nhiều, mà tập tỉnh thức. Tỉnh thức trong cái sự tỉnh thức đó xả tâm trong cái sự tỉnh thức đó, để mà ly, để mà dùng cái pháp hướng.

Ví dụ như bây giờ các con ngồi hít thở nè. Thì chỉ trong vòng 10 hơi thở hay 5 hơi thở nó yên lặng, nó không có một tạp niệm, thất niệm thì các con hướng: “Quán ly tham tôi biết tôi ly tham”. Phải không? “Quán ly tham tôi biết tôi hít vô, quán ly tham tôi biết tôi thở ra”. Các con nhắc như vậy, câu hữu như vậy để cho nó ly cái tâm tham, sân, si của mình ra. Rồi hằng ngày các con quán như vậy để cho nhắc nhở cái tâm của mình cho nó định tỉnh ở trên cái sự tham, sân, si cho nó biết, thì nó có cái sự tham, sân, si đó để cho mình nhận ra, mình thấy "Ờ! Tâm này là tâm tham, tâm này là ác pháp." Mà khi các con biết nó là tâm tham ác pháp thì con xả xuống. Các con hiểu chưa?

(1:50:02) Bây giờ đó nó không chịu xả xuống thì bắt đầu các con mới sử dụng nó quán nó nhân quả thì nó xả xuống. Mà nó không chịu xả xuống thì các con quán cái hành, cái hành của cái niệm nhân quả đó, cái hành của cái tâm tham, sân, si đó. Các con đi tuần tự những cái hành của nó. Thì chẳng hạn cái hành nó như thế nào. Bây giờ các con quán, hồi nãy có một chuyện sự, hồi nãy nó xảy ra, nó phát khởi như thế nào? Rồi bắt đầu cái hành đó nó đi dần dần, nó ngầm ngầm ở trong tâm mình như thế nào? Nó chậm chậm lại dần như thế nào? Bây giờ nó còn ở trong dạng gì? Thì mình hướng tâm từ từ.

Ví dụ như bây giờ Thầy nói nhắc ví dụ: Một người đang chạy, họ đang chạy vùn vụt như vầy. Thì họ biết, họ suy nghĩ trong đầu họ, họ biết họ đang chạy. Cho nên họ ra lệnh: "Bây giờ đi chậm, không có được chạy." Thì bắt đầu họ ra lệnh bảo "đi chậm", thì cái người đó họ đi chậm lại. Rồi bắt đầu bây giờ họ đi chậm, rồi thì họ biết, họ suy nghĩ đi chậm, họ bảo: "Bây giờ không có đi chậm nữa, mà phải đứng lại", thì cái người này họ đứng lại. Bởi vì mình ra lệnh mình bảo từ từ dùng pháp hướng mình đứng lại. Rồi bắt đầu bây giờ nó đứng lại rồi, thì bắt đầu cái người này biết mình đã đứng lại rồi. Do đó bây giờ đó là quán, quán xét các hành. Các hành của cái tâm tham của mình. Mà cái hình ảnh thì giống như là Thầy nói cái hành của một cái người chạy đi. Bây giờ đứng rồi. Nó đứng rồi thì mình biết cái tâm mình nó đứng rồi thì do đó mình mới quán. "Bây giờ đó ngồi xuống." Mình ra lệnh nó ngồi, bây giờ mình biết nó đứng rồi, mình bảo nó "ngồi xuống." Thì bắt đầu bây giờ nó ngồi. Thì bắt đầu mình ngồi xuống chứ gì? Mình ra lệnh cái mình ngồi xuống. Mình ngồi xuống rồi thì bây giờ mình biết nó đang ngồi rồi. Thì do đó bây giờ mình bảo nó "nằm xuống". Thì bắt đầu mình ra lệnh nó nằm xuống thì nằm xuống tức là nó xả. Các con hiểu không?

Đó là quán các hành để mà xả cái tâm tham, sân, si của mình. Mà bây giờ nó không được nữa. Bây giờ nó không được nữa, nó vậy, mà nó không được nữa. Nó không xả cái tâm tham, sân, si. Nó còn tức ở trong này nè. Do đó mình cắn nóc họng cho cứng, mình ra lệnh: "Phải buông xả đi!" Thì nó sẽ buông xả. Phải không? Nó năm cách thức! Mà Thầy có nói là năm cách thức ly dục ly ác pháp mà. Các con nhớ cái bài này chưa? Phải không?

(1:52:10) Cho nên khi mà chúng ta cắn chặt hàm răng, để cái lưỡi lên nóc họng, hướng tâm ra lệnh Như Lý Tác Ý: “Phải xả xuống! Không có được giận hờn nữa. Không có được phiền não nữa. Chuyện tầm thường mà không chịu bỏ. Mày Chết!” Ra lệnh nó vậy, cái bắt đầu nó nhẹ xuống nó hết. Nó có năm cái phương pháp để mà chúng ta ly dục ly ác pháp. Bây giờ nó xả như vậy là hằng ngày mình tập tỉnh thức như thế nào? Mình ngồi mình thở mình nhớ mình nhắc nó.

Rồi mình đi kinh hành. Đi kinh hành có hai cách. Cách thứ nhất là đi kinh hành tập trung. Tập trung là mình để tay mình trước ngực hay hoặc mình khoanh tay, hay hoặc là mình chấp tay sau lưng của mình. Vừa đi vừa nhìn dưới bàn chân mình tỉnh thức. Rồi đi chừng 10 bước hay 5 bước mình lại nhắc: “Quán ly tham tôi biết tôi đang đi kinh hành, quán ly tham tôi biết tôi đi kinh hành”. Mình cứ mình nhắc như vậy thì mình đi vậy nó tỉnh thức để mà nó ly tham, ly sân, ly si mình ra. Đó là cái thứ nhất.

Cái thứ hai bây giờ nó mệt nhọc mà thấy nó không được, mình thư giãn nó ra. Thì bắt đầu bây giờ mình vừa đi, mình thư giãn: “Tất cả các tâm cơ này đều phải thư giãn xuống, buông xuống! Buông xuống hết! buông xuống! thanh thản”. Thì mình vừa đi mình vừa biết mà vừa buông, mình không có tập trung như vậy nữa. Đi chút khoảng độ chừng năm mười bước thì mình nhắc. “Tinh thần, tư tưởng, cái thân, các cơ đều buông xuống, xả xuống thư giãn hết”. Mình nhắc như nó như vậy một lát nó thoải mái, nó dễ chịu.

Còn về cái phần mà xả hồi nãy dùng pháp hướng để mà xả thư giãn nữa. Nếu mà bây giờ nó dụng hết sức của mình mà đuổi ra không được rồi, thì bắt đầu đó mình thư giãn. Mình dùng cái pháp hướng mình thư giãn: “Bây giờ tâm tham, sân, si này nè các cơ buông xuống! Thả xuống thư giãn”. Rồi bắt đầu mình nằm dài ra mình hướng tâm mình xả xuống, thư giãn. Mình thư giãn một lúc cái nó không có sân nữa. Đó là cách thức, cách thức để mà dùng pháp hướng để mà xả nó bằng cách thư giãn.

Cho nên nó có những cái pháp để mà chúng ta thư giãn. Chứ không phải là nói bây giờ tôi quán cái nhân quả rồi cái ngay đó nó xả cái tâm tôi. Nó chưa! Có cái nó chưa chịu xả đâu, nó chưa có hết sân đâu. Bây giờ đó mình tiếp tục những cái pháp lần lượt đó mình xả. Xả riết tới cái pháp thư giãn là mình thư giãn buông hết.

HẾT BĂNG

Pháp Âm - 1998 - GIỚI LUẬT 02-Ý THỨC-TÂM LINH

1998-GIỚI LUẬT 2-Ý THỨC-TÂM LINH

GIỚI LUẬT 2

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Thời gian: 1998

1- LỜI NÓI ĐẦU ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT - TẬP 5

(0:03) Trưởng lão: Hôm nay thì tiếp tục cái buổi kiểm tra về cái phần mấy con, trả lời cho cô Diệu Thành và cô Cảnh cô có hỏi một số câu hỏi. Trước khi trả lời, Thầy sẽ kiểm tra, thì Thầy sẽ đọc lại cái lời nói đầu trong cái tập Đường về xứ Phật - tập năm. Thầy soạn và đã viết ra cái lời nói đầu của cuốn sách. Bắt đầu cái lời nói đầu.

“Từ nay về sau trong cái phần vấn đạo để trả lời mọi câu hỏi, chúng tôi sẽ giải đáp một bài pháp chỉ thẳng những pháp nào của đạo Phật và những pháp nào không phải của đạo Phật. Bằng cách chứng minh cụ thể, xác thực qua những bài kinh Nguyên Thủy của đạo Phật để quý vị tránh khỏi bị tà giáo ngoại đạo mạo danh Phật giáo.

Ngoài đời, trên thương trường, có biết bao nhiêu mặt hàng giả, mạo danh bằng bao bì, nhãn hiệu nhưng bên trong toàn là đồ dỏm. Trong tôn giáo cũng thế, chắc chắn phải có pháp môn giả. Tại sao chúng ta biết như vậy? Vì trải qua nhiều thời gian năm tháng. Trước kia, chúng ta chỉ nghe các bậc Tôn túc thuật lại sự tu chứng đắc của các Tổ, mà không trực tiếp thấy. Còn hiện giờ, chúng ta thấy biết rất rõ. Với thời gian hơn thế kỷ nay, thầy tổ chúng ta từ người này đến người khác qua đời, viên tịch, không để lại cho chúng ta một niềm tin sâu trước Phật pháp. Khi còn sống, các Ngài thuyết pháp rất hay: Nào là các pháp như mộng, như huyễn; Nào là sáu trần như hoa đốm giữa hư không; Nào là chết biết ngày, biết giờ, biết khắc, biết được tánh linh; Nào là làm chủ sự sống chết. Nhưng đến giờ phút cuối cùng chúng ta chỉ thấy một hình ảnh đau thương, nằm trên giường bệnh, mệt nhọc, khổ sở, đau đớn, trăn trở và có lúc lại mê man chẳng biết gì cả trước khi viên tịch. Thầy Tổ chúng ta, họ đều là những bậc chơn tu, tinh cần, siêng năng, thức khuya dậy sớm, xâu chuỗi không rời tay, lúc nào cũng thấy ngồi thiền, niệm Phật, công phu, bái sám. Không thời nào không có mặt. Trừ khi làm Phật sự và bệnh đau.

(02:56) Từ lúc bé, tám tuổi chúng tôi được vào chùa tu học với các thầy tổ. Đến ở chùa nào cũng mang dòng phái Thiền tông Lâm tế, Tào động, Liễu quán, Thái thượng.v.v. Nhưng không thấy thầy Tổ tu thiền mà lại thấy tu Tịnh độ. Sau những năm tháng theo thầy tu học, lòng tin tưởng pháp môn Tịnh độ, noi theo gương hạnh của thầy tu tập nuôi hy vọng niệm Phật cầu vãng sanh về Cực Lạc Tây Phương. Bỗng dưng làn gió Thiền tông thổi đến, kinh sách thiền rộ nở như hoa mùa xuân. Nào là Pháp Bảo Đàn kinh, Thủ Lăng Nghiêm kinh, Kim Cang kinh. Nào là nguồn thiền luận Tối Thượng Thừa. Sáu cửa vào động thiếu thất thiền ngữ.v.v.

Càng đọc những kinh sách này chúng tôi càng say mê và tưởng mình như được của báu. Chúng tôi được theo tu học thiền lớp học đầu tiên tại Tu viện Chơn Không, do Hòa thượng Thích Thanh Từ đảm trách. Sau ba tháng an cư tu học ở đó, chúng tôi liền rời khỏi Tu viện về và về Trảng Bàng thuộc tỉnh Tây Ninh nhập thất tu tập suốt chín năm trời, chuyên cần tu tập pháp môn Tri vọng. Thấy các pháp như mộng, như huyễn. Thấy lục trần như hoa đốm giữa hư không. Gần chín năm mài miệt tu hành, chúng tôi ngộ tất cả công án Thiền tông. Ngồi thiền không vọng tưởng; Trạng thái tâm hồn yên lặng như hòa mình trong vũ trụ. Lúc bây giờ chúng tôi tỉnh thức rất rõ. Nhưng xét lại không biết cách nào làm chủ sự sống chết. Tâm mình cũng vẫn còn phiền não, tham, sân, si. Biết rằng gặp những việc bất toại nguyện thì thấy các pháp như mộng, như huyễn, như hoa đốm giữa hư không. Dù biết vậy nhưng tâm vẫn còn phiền não, chưa thật sạch, phải đợi có thời gian. Đối với các pháp Đại thừa. Từ Tịnh độ, Mật tông đến Thiền tông. Sự tu tập đối với chúng tôi gần như mất hy vọng. Vì chính Ông thân của chúng tôi là một tu sĩ Mật tông. Chú thực của ông có nhiều thần lực lạ kỳ, nhưng lại để trị bệnh, bói toán như một phù thủy. Bùa chú tuy linh hiển nhưng tôi không thấy nó làm chủ sự sống chết, tự tại, an vui trong cuộc sống. Mà chỉ làm chuyện lợi danh như các nghề khác trong thế gian. Tôi tư duy suy nghĩ và khắc khoải, trong lòng nghĩ đến mình tu hành đến giờ này đời chẳng ra đời, đạo chẳng ra đạo. Nếu bây giờ tôi trở ra đời thì quá muộn màng. Tuổi đã bốn mươi bốn rồi còn gì nữa? Ở trong đạo thì biết pháp nào tu cho đến nơi đến chốn?

(06:06) “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm! Độ hết chúng sanh thì thành Phật”. Những điều kinh sách đã dạy tôi điều siêng năng, tinh cần, tinh tấn tu hành không dám biếng trễ. Thế mà xét lại tâm mình chưa được làm chủ. Cuộc sống còn nhiều bất toại nguyện. Tâm vẫn còn tham muốn: danh lợi, ăn ngủ còn thích, thấy nữ sắt còn muốn nhìn. Gần suốt chín năm trời sự tu hành dường như tránh né các pháp thế gian. Chẳng niệm thiện, niệm ác, thấy các pháp như mộng như huyễn, thấy sáu trần như hoa đốm giữa hư không. Chúng tôi đã thực hiện những câu này đã nằm lòng. Hễ có các pháp đến thì những câu này xuất hiện nhanh chóng đuổi chúng đi, một lúc nó tan biến. Đuổi mãi chúng thời gian gần chín năm mà tâm chúng tôi vẫn chưa an, cảm thấy như tôi là kẻ trốn chạy các pháp, tránh né sáu trần. Và cuối cùng, xét lại các pháp này tu không thể giải thoát được. Không biết giờ này các bạn đồng tu của tôi tu hành ra sao?

Riêng tôi lúc này năm 1980, tôi rất ngao ngán với số phận làm thầy tu. Một hình ảnh đen tối đến với tôi: Tôi tự nghĩ hay mình tìm nơi đâu trong rừng hoang vắng rồi tự tử cho xong đời, kiếp đời tu sĩ. Nhưng một hình ảnh hiện lên trong tôi một người mẹ già yếu đuối, lưng còm, hằng ngày nấu cơm bưng vào thất giúp tôi sống tu hành. Nhờ hình ảnh ấy, nếu không có mẹ tôi, chắc tôi không thể sống vì con đường giải thoát của đạo Phật đã trở thành mây khói. Trong lúc tâm hồn tôi chán nản, trước mặt là bước đường cùng. Bỗng nhiên tôi nhớ đến…​

(08:00) Càng nhìn chúng tôi càng thấy rõ ác ý của các nhà Bà-la-môn đã dùng danh từ Tiểu thừa để gán vào những lời dạy thực sự Nguyên Thủy của đức Phật, và khiến cho các Phật tử không dám đọc, không dám học, không dám tu những pháp môn ấy. Càng nhìn càng thấy rõ dụng tâm hiểm…​

Mặt trời bao giờ cũng là mặt trời. Nhớ đến đây tôi vô tình nhìn được kinh Nguyên Thủy Pali được dấu kín để trên tủ sách.

Bắt đầu tôi nghiên cứu lại bộ kinh sách này. Sống và tu tập đúng theo lời dạy của đức Phật: Giới, Định, Tuệ. Theo lộ trình Tam vô lậu học; Sống đúng giới hạnh; Lấy giới luật phòng hộ sáu căn; Đời sống thiểu dục ít muốn biết đủ; Luôn theo pháp Định Tư Cụ ngăn ác, diệt ác, sanh thiện, tăng trưởng thiện. Nhờ đó kết quả tâm hồn thanh thản, an lạc. Tâm thường quay vô, không phóng dật, biết rõ những hoạt động trong nội thân tâm. Luôn không để ý sáu trần, nên thấy rõ thân tâm có một sự sống giải thoát an lạc, vô sự. Càng giữ gìn giới luật, càng tu tập Tứ chánh cần. Thì kết quả thân tâm giải thoát rất rõ ràng và cụ thể. Càng tu lại càng ham thích. Tự tâm siêng năng và tinh tấn không cần cố gắng. Nhờ sự nghiên cứu và tu tập này tôi rất am tường thông hiểu kinh sách Nguyên Thủy và có kinh nghiệm.

(09:48) Vì vừa nghiên cứu lý thuyết vừa thực hành lời dạy của đức Phật nên từng bài kinh, từng câu, từng chữ trong tạng kinh Pali này. Cho dù phần kinh sách Đại thừa và Thiền đông độ tôi đã bỏ công tu tập chín năm trời, nên những trạng thái ức chế tâm, tu tập các pháp hành của Thiền đông độ và Đại thừa tôi đều biết rất rõ. Vì vậy khi được hỏi điều gì đến những trạng thái định có liên quan đến Phật giáo dù ở bộ kinh nào Đại thừa, Thiền tông và Nguyên Thủy, tùy cơ đối đáp để làm sáng tỏ lại Phật giáo. Còn nếu không có ai hỏi thì thôi đối với tôi ai tu sao cũng được. Có giải thoát hay không giải thoát là quý vị được nhờ và chịu lấy. Chuyện Phật pháp không phải chuyện riêng của tôi mà của chung của mọi người. Tôi trả lời đây vì duyên của quý vị hỏi chớ không phải tự tôi đặt ra câu hỏi để trả lời nhằm có mục đích chống báng ngoại đạo Đại thừa và Thiền tông. Mặc dù tôi biết Đại thừa đã truyền vào đất nước Việt Nam đầu thế kỷ thứ III cuối thế kỷ thứ II và Thiền tông thì vào thế kỷ thứ V thành một truyền thống dân tộc của đất nước này, muốn xóa nó không phải là một chuyện dễ làm. Nhưng tôi nghĩ đến số phận những người tu như tôi nên tôi nói. Ai có tin thì tin không tin thì thôi. Tu hành có được thì quý vị nhờ, không được thì quý vị chịu. Giải thoát của quý vị đâu có liên quan gì đến tôi. Câu trả lời vì sự bắt buộc ở câu hỏi của quý vị, nếu không trả lời tôi phụ lòng quý vị. Mà trả lời cho quý vị thì phải nói thẳng nói đúng nói cái sai không đúng của đạo Phật; Nói cái sai tu hành sanh bệnh tật điên khùng; Nói cái sai để quý vị không bị lừa đảo bởi những pháp môn mê tín, phi đạo đức, lừa gạt để làm tiền, làm danh, xưng danh tôn giáo. Do nói cái sai để quý vị không uổng phí một đời tu hành, thì quý vị lại cho rằng tôi bài bác các Tổ, tôi chống, trái kinh sách Đại thừa. Thưa quý vị, tôi chống, trái để làm gì? Khi tôi cũng là một nạn nhân của các pháp môn này! Tôi nói ra vì quý vị, quý vị có hiểu chăng?

(12:27) Tôi là chiếc xe đã lọt hố, muốn cho các xe sau đừng lọt hố nữa, nên cảm thông những câu hỏi của quý vị mà tôi trả lời. Biết như thế nào tôi nói như thế nấy. Đúng sai quý vị còn suy nghĩ. Khi tôi trả lời chỉ mong quý vị suy ngẫm kỹ lời tôi nói và lời kinh Nguyên Thủy dạy. Có tương ưng, có phù hợp, có đúng nghĩa hay không. Đúng thì quý vị tin tôi, bằng không đúng thì quý vị đừng tin và cũng đừng cười chê vì tôi cũng chỉ là con người như quý vị.

Tôi cũng là một trong người phàm phu như quý vị. Nhờ sống đúng giới hạnh và giới đức tu tập đúng các pháp Phật đã dạy. Từ đó tôi sống đạo đức nhân quả không làm khổ mình, khổ người. Hằng tu tập tỉnh thức trong mọi oai nghi, tế hạnh. Cả niệm hơi thở tôi điều hướng tâm ly tham, sân, si và ái dục. Nhờ thế tôi thấy được tâm mình giải thoát. Đó cũng là mãn nguyện lắm rồi. Vì đã không làm khổ mình, khổ người tôi thấy rất rõ là tâm tôi đã ly dục, ly ác pháp. Ly dục, ly ác pháp tức là tôi đã làm chủ được sự sống của tôi. Làm chủ cuộc sống tức là làm chủ được sanh như trong kinh Phật đã dạy: “sanh là một trong bốn cái khổ của kiếp người”. Tôi trở về với pháp môn Nguyên Thủy tu tập chỉ trong vòng sáu tháng làm chủ được tâm không còn thấy các pháp như mộng, như huyễn sáu trần như hoa đốm giữa hư không.

Nhờ tu tập có kinh nghiệm và nghiên cứu toàn bộ kinh Nguyên Thủy nên lập trường trả lời của chúng tôi đều dựa vào đó. Dựng lại Phật giáo trong lúc giáo pháp của Phật bị dìm mất ít có người biết đến. Vì vậy, chúng tôi trả lời quý vị không ngoài lời Phật dạy, tin hay không tin đó là quyền của quý vị. Tôi thì nói thẳng nói thật mà thôi, chớ không có tâm phỉ báng ai hết. Xin thưa quý vị, chúng tôi biết rằng lời thật mất lòng. Nhưng vì bị hỏi chúng tôi phải nói toạc móng heo để cho một số người không bị tà giáo, ngoại đạo lừa đảo và những người đang tu hành không lầm lạc pháp môn của ngoại đạo tu dở chết dở sống, đời chẳng ra đời, đạo chẳng ra đạo giống như tôi tu hành lúc năm 1980. Tôi cảm thông với những người tu sĩ ấy có nhiệt tâm quyết tìm đường giải thoát trong đạo Phật. Chúng tôi chỉ ước mong những câu trả lời của chúng tôi sẽ làm sáng tỏ những gì của đạo Phật, đang bị che mờ bởi giáo pháp của Bà-la-môn.

(15:31) Với thanh ý của chúng tôi không muốn chống trái ai hết, ai có duyên tu pháp nào cũng được. Nhưng có tu được giải thoát thì dạy người, bằng tu chưa có kết quả thì đừng dùng lý thuyết suông lừa đảo, gạt người gây mê tín dị đoan, khiến cho mọi người khổ sở phí hết kiếp người. Và cũng đừng vì quyền, lợi ích nhỏ mọn mà gán cho các pháp môn đó là của Phật giáo thì tôi rất đau lòng. Vì Phật giáo không có các pháp môn tưởng đó, mê tín, trừu tượng, mơ hồ. Buộc lòng chúng tôi phải nói thẳng để cho người đời sau đừng lầm lạc đáng thương. Chúng tôi tu hành theo Phật giáo đã bị lầm lạc pháp môn của ngoại đạo nhiều khi chúng tôi muốn chết hơn là sống. Vì sống làm gì đời chẳng ra đời đạo chẳng ra đạo. Sống bằng ba tất lưỡi gạt người bỏ cha, bỏ mẹ, bỏ gia đình, vợ con. bỏ cả thân bằng quyến thuộc. Bỏ cả của cải, tài sản, sự nghiệp, nhà cửa để đi tu mong tìm đường giải thoát thân tâm mình. Chớ đâu phải để thành tên lừa đảo có sách vở.

Vì cảm thông nỗi khổ đau của những người đồng bệnh nên tôi nói thẳng chẳng hề sợ hãi trước thế lực quyền uy của kẻ khác. Dù tôi có ra sao và như thế nào tôi cũng vui mừng vì đã nói một sự thật có lợi ích cho muôn người, không phải vì cá nhân của mình. Tôi trả lời thẳng vì tín đồ Phật giáo khắp năm châu, bốn biển đang hướng về Phật giáo chơn chánh. Tôi trả lời thẳng vì đạo đức của đạo Phật đã bị đánh mất bởi giáo pháp của ngoại đạo, Đại thừa. Thay vào một đạo đức mê tín làm cho nhân loại mất đi một nền đạo đức sống thực. Một nguồn hạnh phúc an vui của mọi người. Tôi trả lời thẳng chỉ vì con người trên hành tinh này đang cần một nền đạo đức nhân bản, không làm khổ mình khổ người.

Trên cuộc đời này duy chỉ đạo Phật mới có nên đạo đức công lý và công bằng mà thôi. Tôi nói thẳng vì lợi ích chung cho con người trên hành tinh này dù ai có nghĩ sao về tôi, cho tôi là điên khùng, dốt nát, không thông suốt kinh sách Phật giáo. Không hiểu giới luật Phật là gì, nói bậy bạ không trúng vào đâu. Tôi vui lòng chấp nhận cả. Nhưng xin mọi người hãy theo đúng giáo pháp Nguyên Thủy của đức Phật mà tu tập và sửa những gì sai để xây dựng cho mình một tâm hồn thấm nhuần nhân quả của đạo Phật, không làm khổ mình khổ người, thì tôi đã mãn nguyện lắm rồi. Trải qua thời gian tu tập tôi biết rất rõ con đường nào tu tập đi đến kết quả làm chủ sanh, già, bệnh, chết của đạo Phật. Con đường ấy không phải để cho những người tu hành phạm giới, bẻ vụn giới, phá giới như các vị Tỳ kheo của Phật giáo Đại thừa, Thiền đông độ và Phật giáo Nam tông. Phạm giới, phá giới, bẻ vụn giới sống không đúng giới đức giới hạnh đời sống không thiểu dục tri túc, không lấy giới bổn phòng hộ sáu căn. Ăn uống ngủ nghỉ phi thời, không sống độc cư. Dù họ có tu trăm ngàn kiếp vẫn không đến đâu. Chỉ uổng cho một đời tu mà thôi!

(19:08) Trả lời những câu hỏi của quý vị, nói thẳng sẽ đụng chạm rất nhiều. Mong quý vị vui lòng tha thứ cho và quý vị hãy suy ngẫm những lời chúng tôi nói nếu sai xin quý vị bỏ qua cho, còn đúng xin cầu chúc quý vị may mắn gặp Thiện hữu tri thức có kinh nghiệm hướng dẫn tu tập đến nơi đến chốn. Tu hành giải thoát làm chủ thân tâm không phải việc dễ làm. Nếu tu tập một mình giống như người đi biển không có la bàn, vào rừng không có người hướng đạo. Nếu chúng tôi có trả lời điều chi sai sót xin các bậc Cao minh, Chơn tu, Thạc đức chỉ giáo chúng tôi thành kính tri ân. Kính ghi! ”

(19:52) Trên đây là cái lời tựa của cái tập năm của Đường về xứ Phật, Thầy đã ghi và đã đánh vi tính trong file. Rồi sau sẽ thu nhỏ lại thành trang sách. Đây là cái phần hôm nay Thầy nói để cho các con biết rằng trong cái cuộc đời tu tập của Thầy rất là vất vả, vì pháp môn không nắm vững. Còn hôm nay, có Thầy dạy, có kinh nghiệm của Thầy, cái gì sai có Thầy sửa, nhắc đi nhắc lại nhiều lần, các con không giữ đúng. Nhất là Thầy đã từng tuyên bố với các con bí quyết thành công của thiền định là độc cư. Các con không có giữ được trọn vẹn cho nên trên cái con đường tu hành còn bấp bênh, còn xa. Cuối cùng chỉ còn một mình Thầy.

Thậm chí như các con nhớ rằng năm 1991, cái hạ năm đó xong Thầy vào thất. Lúc bây giờ đó thì số người đã tu thì quyết định là khép chặt giới luật không có cho sống ba bữa, một ngày một bữa và độc cư. Thì chỉ chọn lại một số rất ít, bao nhiêu điều rút lui hết. Do đó trong những ngày đó thì Thầy cố gắng Thầy hướng dẫn cho Mật Hạnh tu trọn vẹn trong suốt ba năm mà Thầy nhập thất. Cái kết quả rất tốt là vì giữ gìn cái độc cư trọn vẹn như vậy, cho nên tâm quay vào, không cần phải ngồi thiền nhập định nhiều, không cần phải nhiếp hơi thở cho hết vọng tưởng. Mà tới chừng tâm quay vào thì nó không còn có vọng tưởng.

Đó là cái kết quả thật sự mà Thầy đã biết được con đường đi theo kinh Nguyên Thủy trong sáu tháng cuối cùng của năm 90 thì Thầy đã thấy kết quả như vậy. Và Thầy cố gắng chỉ tập trung hướng dẫn cho mình Mật Hạnh. Thì cuối cùng thì Mật Hạnh cũng đạt được cái kết quả như vậy và rất tốt. Đầu tiên thì khắc phục cho nó phá được hôn trầm. Sống độc cư phá hôn trầm. Phá hôn trầm thì Thầy bắt nó ngồi với Thầy rồi Thầy điều khiển cho nó suốt đêm để cho nó phá cho được cái hôn trầm. Từ đó giờ giấc nghiêm chỉnh, giờ nào ra giờ nấy không có bê trễ nữa. Rồi bắt buộc sống độc cư không được tiếp duyên. Cho nên tâm tuôn trào, từ tuôn trào chuyện này đến chuyện khác cuối cùng thì không còn tuôn trào nữa. Cho nên tâm quay vào không phóng dật ra ngoài. Do đó lúc bây giờ nó thấy thiền định rất tốt.

Thì các con thấy rằng cái kinh nghiệm tu hành của Thầy và cố gắng hướng dẫn cho Mật Hạnh. Mật Hạnh là một cái người u tối nhất, khó khăn nhất không có như cái người khác có học thức giỏi, hiểu biết nhiều nó chỉ dốt nát như ông Bàn Đặc. Do đó, chỉ có sự cố gắng sống cho đúng thật đúng là có kết quả. Mà chẳng có một cái bệnh đau nào mà xảy ra cho nó hết chỉ có một cái bệnh tưởng của nó mà thôi. Nhưng vì nó không nghe lời Thầy cho nên nó phá độc cư mà đi ra, cho nên vì vậy mà cái thời gian nó còn kéo dài, còn nếu mà nó đừng phá độc cư, đừng có sợ hãi của cái bệnh tưởng chắc chắn nó đã thành tựu lâu lắm rồi. Nghĩa là làm chủ được sự sống chết lâu lắm rồi, chớ không phải mới bây giờ.

Thì hôm nay thì các con thấy trên cái bước đường tu tập, cái gì mà Thầy dạy các con giữ đúng đó, các con nhanh; các con giữ không đúng, các con lâu. Chẳng hạn Thầy bảo các con, như tai sao Cô Út không có dạy các con ngồi, nhưng mà Thầy thì Thầy tùy thuận ở các con nhiều hơn. Không nên gán ép người khác, từ từ bẻ dần. Cô Út thì đập phá để cho xả tâm được mà thôi. Riêng Thầy thì nhẹ nhàng an ủi. Sợ e đập phá mạnh thì làm cho các con rối tâm không có tu tập được. Giúp cho các con được vui vẻ theo cái ý muốn của mình. Lần lượt rồi bẻ dần lái dần. Cho đến khi mà các con đi vào cái quỹ đạo của (không nghe rõ).

Cũng như các con biết như Minh Tông theo Thầy tu học nay là bốn năm rồi. Cũng như các con đã theo Thầy, thì bên nữ các con đã theo Thầy kể như là ai cũng là bốn năm rồi. Nhưng mà tại sao các con không có kết quả được? Thì bằng chứng là các con thiếu độc cư. Nhưng mà tại sao Minh Tông lại có độc cư mà không có kết quả? Độc cư chưa trọn vẹn đó là cái thứ nhất. Cái thứ hai đó thì nó có độc cư hơn các người khác, nhưng vì nó đã tu từ Tịnh Độ rồi đến Mật Tông rồi sau khi Thiền tông đến hơi thở Thầy dạy thì nó có sức ức chế tâm rất là vĩ đại.

Hít thở nương vào hơi thở hay hoặc niệm Phật từ một ngàn hai ngàn câu cho đến một ngàn hai ngàn hơi thở không có một niệm vọng tưởng xen vào. Khi mà sổ tức như vậy thì các con biết ức chế tâm đến cái mức. Và cái sự gom tâm của nó thì các con không có thể nào lường được cái sự gom tâm. Nhưng mà cuối cùng thì các con biết tại sao không kết quả không? Tại vì cái tâm không xả! Cho nên đến gần bước vào Tứ Thiền thì đứng lại. Bởi vì đi tới nữa để mà để mà dừng hơi thở mà dùng pháp hướng đó thì nó sẽ dừng hơi thở mà trong cái pháp hướng để điều khiển thì nhắc nó để mà dừng hơi thở đó thì cái cơ thể sẽ bị bệnh tật liền tức khắc.

Cho nên nó có bị thời gian bị ra máu, bị ra máu là do bị ức chế hơi thở. Do tâm và cũng là do cơ ức chế gần như là nín coi như là nín thở đó, không thở đó thì tai hại rất lớn. Mà may là phát giác kịp chứ không khéo thì sẽ thành bệnh rất nặng, không thể lường được. Mà Thầy gọi là Thọ hành hay là Hành thọ. Nghĩa là mình tu hành mình tạo ra cái thọ đó chớ không phải là từ cái thân mình có cái bệnh đó. Gọi là Hành thọ. Do cái Hành thọ một phần đó thì nếu mà cái người mà không có dụng cơ mà ức chế đó, mà cái Hành thọ xảy ra thì đó là Tưởng thọ.

Còn cái người do các cơ mà ức chế, cũng như bây giờ nói Tịnh Chỉ Hơi Thở thì các con lại hiểu lầm, hiểu lầm cái danh từ Tịnh Chỉ như Thầy đã nhắc Tịnh Chỉ là nó Thanh tịnh cái hơi thở rồi từng tự nó chỉ nó ngưng. Chớ không phải chúng ta ức chế nó tập thở chậm nhẹ chậm nhẹ lần lần rồi ngưng hơi thở tự mình nín hơi thở lại. Thì cái đó là cái sai nó không phải Tịnh Chỉ mà nó là Đình chỉ hơi thở. Thì cái đó là cái sai của các con tu tập.

(27:05) Cho nên chúng ta muốn mau mà thành chậm. Chúng ta phải biết là cái tâm thanh tịnh là cái tâm không tham, sân, si. Thì nó là tịnh. Mà khi tịnh thì nó mới chỉ được hơi thở. Nó mới ngưng được hơi thở. Tức là cái hơi thở nó phải theo cái thân thanh tịnh mà nó mới thanh tịnh được cái hơi thở. Nó thanh tịnh được cái hơi thở thì nó mới chỉ được cái hơi thở. Còn nếu không thanh tịnh thì không chỉ được hơi thở. Cho nên không thể nào mà nhập vào Tứ thiền.

Cho nên Minh Tông hỏi Thầy như trong kinh Phật dạy đó thì xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh nhập Tứ thiền chứ Phật đâu có dạy Tịnh Chỉ Hơi Thở mà nhập Tứ thiền. Đó thì rõ ràng là trong những cái bài kinh phần nhiều thì Phật nói xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh nhập Tứ thiền. Nhưng các con nên nhớ rằng có một bài kinh Phật dạy đó trong thân chúng ta có ba hành. Thân hành, khẩu hành và ý hành. Khẩu hành là tầm tứ. Mà thân hành là hơi thở. Ý hành là thọ tưởng. Do đó một cái người mà nhập Nhị thiền đó, thì Tịnh Chỉ tầm tứ tức là Tịnh Chỉ khẩu hành. Mà nhập Tứ thiền thì Tịnh Chỉ thân hành, thân hành tức là hơi thở.

Cho nên trong cái bài kinh nhập tức xuất tức đó. Ở trong kinh Trung Bộ mà cái bài kinh Nhập tức xuất tức thì Phật dạy: hơi thở tức là thân. Cho nên do vì vậy mà khi hơi thở mà dừng thì thân dừng mà tâm dừng, mà tâm dừng thì cái thức nó dừng nó đâu còn biết. Cho nên ở đây chúng ta muốn biết được tại sao nhập Tứ thiền mà lại cái thức, vậy cái thức nào mà còn? mà cái thức nào lại dừng? Đó là cách thức mà Thầy sẽ giảng dạy trong những cái buổi vấn đạo những lời hỏi của các con.

Đó thì hôm nay chúng ta thấy được cái điều kiện do các con tu sai mà ức chế. Như Thầy không có kiểm tra các con chớ sự thật ra các con biết khi mà chúng ta ngồi như thế này, kiết già xong rồi bắt đầu chúng ta ngồi chúng ta hít thở đó để mà gom tâm thì các con biết như thế nào hay cái vai các con gồng lên liền tức khắc. Nếu mà các con không có chịu thư giãn xả xuống như thế này thì các con sẽ bị gồng. Sẽ bị gồng hai cái vai và thấy nó gom nó tập chung nhưng mà bị gồng bị dừng cơ mà gom tâm ở hai cái vai rất là cảm giác rất rõ ràng. Cho nên khi chúng ta gom lại một hơi thở chậm rồi bắt đầu thở hơi thở bình thường đó thì chúng ta nương vào hơi thở bình thường thì chúng ta hướng tâm chúng ta nhắc, các cơ trong thân phải xả xuống, buông xuống thư giãn. Thì lúc bây giờ các con nhắc thả xuống thì các con nghe cái vai các con buông xuống cái vầy thì các con nghe nó nhẹ nhàng chứ nó không còn gồng nữa. Đó là cách thức chúng ta thư giãn lại cho cơ thể nó thư giãn hoàn toàn không bị ức chế các cơ mà gom tâm mà chúng ta tu tập bằng cách xả tâm. Cho nên vì vậy mà khi nương vào hơi thở thì chúng ta thường theo pháp như lý tác ý mà quán “quán ly tham tôi biết tôi đang thở vô, quán ly tham tôi biết tôi đang thở ra”. Thì như vậy rõ ràng là chúng ta nương vào cái tỉnh thức của hơi thở để mà chúng ta xả cái tâm, khắc phục tham ưu như trong Tứ Niệm Xứ đã dạy. Chứ còn nếu mà chúng ta cứ ngồi để mà lặng lẽ không có niệm vọng tưởng biết hơi thở ra biết hơi thở vô, rồi chúng ta hướng tâm nhắc: “hơi thở phải mất đi để tầm tứ diệt, nhập Nhị thiền” thì một lúc hơi thở chúng ta sẽ xả bỏ không chú ý hơi thở nữa. Thì lúc bây giờ chúng ta không thấy hơi thở thì chỉ có một trạng thái an lạc của định sanh hỷ lạc của Nhị thiền. Tức là của diệt tầm tứ. Thường thường là các con sẽ thấy thích thú ở trạng thái này rất nhiều. Nhưng đó là cái sai không đúng.

2- Ý THỨC

Bây giờ để tiếp tục trả lời câu hỏi của Cô Diệp Thành tức là Cô Minh Cảnh hỏi:

(Trưởng lão đọc câu hỏi)

(30:58) Kính mong Thầy từ bi chỉ dạy cho con được rõ: “Nhà khoa học cho rằng thân con người nhờ bộ não điều khiển hoạt động, một em bé lấy đồ chơi ra chơi rồi sắp xếp trở lại, khoa học cho đó là bộ não điều khiển chứ em bé không biết gì”.

Đáp: Bộ não của con người là ý căn. Cái bộ não của chúng ta là ý căn. Nhưng cũng có những kinh sách cho rằng cái ý căn đó là trái tim của chúng ta thì đó là sai. Bởi vì tất cả những cái sự hoạt động trong thên của chúng ta điều do thần kinh và tất cả những cái phần ở trên óc của chúng ta thì đó là cái ý căn của chúng ta. Bộ não của con người là ý căn. Ý căn hoạt động sinh ra Ý thức. Nghĩa là khi mà cái bộ não chúng ta nó hoạt động thì ngay đó là cái ý thức. Cho nên chúng ta thấy cái nhãn thức, cái nhãn căn là con mắt chúng ta đó. Ngay trong khi cái nhãn căn nó hoạt động thì nó tiếp xúc với một cái vật thì ngay đó nó có cái Nhãn thức liền. Chớ không phải cái ý thức nó nhảy đến để mà làm việc với cái nhãn căn đâu. Mà ở tại con mắt chúng ta nó có cái nhãn thức. Ở lỗ tai chúng ta nè có cái âm thanh tác động vào nè thì tác động vào cái nhĩ căn của chúng ta nguyên cái nhĩ thức nó phân biệt tiếng đó là tiếng gió, tiếng chó sủa, tiếng người đi, tiếng xe chạy nó phân biệt được đó là cái nhĩ thức của chúng ta nó phân biệt. Chớ không phải là Ý thức nó làm việc chỗ đó đâu. Ý thức nó làm việc ở chỗ bộ óc của nó là Ý căn của nó mà thôi. Các con hiểu vậy cho nên ở đây chúng ta mới có sáu cái thức đó Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, Ý thức. Còn sáu cái căn là Nhãn căn, Nhĩ căn, Tỷ căn, Thiệt căn, Thân căn, Ý căn. Nó đó là những cái phần của cái căn của nó. Khoa học bảo rằng bộ não điều khiển chớ em bé không biết là sai! Nghĩa là lúc bây giờ em bé, tuy rằng nó bé nó không nói ra nhưng mà nó có sự biết khi mà cái bộ não nó hoạt động thì ngay đó nó có cái biết của nó chớ không phải. Cho nên nó biết mở cái hộp đồ chơi ra nó chơi. Sau đó nó biết sắp xếp trở lại. Đó là một đứa bé thông minh. Còn một đứa bé mà không thông minh đó, thì nó mở ra nó chơi nó quăng bừa bãi rồi bắt đầu nó nằm xuống ngủ chứ nó không sắp xếp lại tức là đứa bé không thông minh. Cho nên các Nhà khoa học cho rằng một bộ não mà đặc sệt thì thông minh một bộ não nhão và lỏng lẽo trong đó thì người ít thông minh. Thì cũng đúng bởi vì nó đặc nó phải nhiều, nó có phần nhiều những cái tế bào não trong đó nhiều tức là nó hoạt động nó phải thông minh hơn một cái người mà cái tế bào não ít. Bộ não là Ý căn hoạt động sinh ra ý thức tức là em bé biết việc làm của em bé chớ không phải không biết.

(33:47) Cái ý thức tức là sự hiểu biết của con người. Nhưng ý thức chỉ là cái biết của thân chớ không phải cái biết của tưởng, của tâm. Cái biết của tưởng là khi chúng ta nằm ngủ chiêm bao. Cái biết của tâm là khi chúng ta nhập định. Chúng ta phải phân biệt bởi vì trong cái bộ não chúng ta nó có, nó chia ra làm nhiều cái tế bào não. Cái phần mà tế bào não mà làm việc cho cái ý thức đó, cho cái ý thức chúng ta hiện giờ biết trong cái ý thức mà có sự hiểu biết hữu hạn này đó. Thì cái phần mà tế bào não đó nó hoạt động. Như bây giờ chúng ta đang sống có cái phần tế bào não nó hoạt động. Còn một số tế bào não hoàn toàn không hoạt động, nó đang nằm đó. Cho nên khi mà cái số tế bào não mà hoạt động, cái ý thức chúng ta ban ngày đó. Khi chúng ta ngủ thì cái số tế bào não đó nó cũng nghĩ. Nó nhường lại cho cái số tế bào não khác làm việc thì trong lúc đó chúng ta chiêm bao. Đó là mà Thầy gọi là tưởng thức. Mà khi mà tất cả các tế bào não của tưởng thức và của ý thức đó nó ngưng hoàn toàn nó không làm việc, nó ngưng nghĩ đó. Thì cái tế bào của tâm thức chúng ta mới trỗi dậy làm việc. Do đó mà chúng ta gọi là trí tuệ Tam Minh hay là tâm thức của chúng ta khi chúng ta nhập định. Ba cái biết này đều do bộ não hoạt động. Nghĩa là ba cái biết từ cái ý thức biết này, tưởng thức biết này và cái tâm thức này đều là do bộ não của chúng ta hoạt động. Nếu bộ não chúng ta hủy diệt, hoại diệt thì ba cái thức này không còn.

Khi thân hoạt động bình thường như mọi người thì một số tế bào não bộ làm việc còn các tế bào não bộ khác thì ngưng nghĩ. Khi chúng ta ngủ các tế bào não làm việc bình thường ngưng nghĩ nhường lại cho các tế bào não khác hoạt động tạo thành giấc mộng. Trong giấc mộng chúng ta cũng nghe thấy biết rõ ràng, cái nghe thấy biết đó gọi là tưởng thức. Nó không phải nghe bằng lỗ tai, cũng không phải thấy bằng con mắt nữa. Mà nó nghe thấy bằng tưởng thức. Cho nên trong chiêm bao các con cũng nghe cũng thấy, cũng nói chuyện, cũng này kia, cũng vui cười, cũng sợ hãi, cũng như là mình sống ở trong cái cuộc sống ban ngày của mình như vậy. Khi chúng ta nhập định số tế bào não làm việc lúc bình thường cũng như lúc chiêm bao đều ngưng nghĩ, nhường lại cho nhóm tế bào não tâm thức làm việc. Do đó ta nhập định tịnh chỉ hơi thở mà không chết.

Nhờ cái chỗ mà chúng ta đánh thức cái nhóm tế bào này nó trỗi dậy làm việc do đó nó không cần khí oxy. Cho nên chúng ta tịnh chỉ hơi thở mà chúng ta không chết. Còn bây giờ các con đang ở trong cái ý thức này, mà các con lại muốn cho hơi thở tịnh chỉ cơ thể các con đang cần cái khi oxy để nuôi sống nó, thì lúc bây giờ các con nín thở thì coi chừng các con chết. Như trường hợp của một bác sĩ mà Thầy có nhắc. Ở ngoài Quy Nhơn mà Minh Tâm có nói là chú Phòng vào đây nghe Thầy nói về cái hơi thở thì chú về ngoài đó chú cũng dạy người ta nín thở cái kiểu hiểu lầm gọi là tịnh chỉ hơi thở, thì chú về ngoải gọi là đình chỉ hơi thở, nín hơi thở. Rồi ông bác sĩ ổng cũng nghe theo ổng tu rồi ổng cũng nín thở rồi ổng chết luôn. Đó là một cái trường hợp rất là oan uổng.

Bởi vậy cái gì tu, cho nên cái lời tựa hồi nãy trong cái cuốn tập 5 - Đường về xứ Phật đó thì Thầy đã nhắc, cái gì mình tu mình biết được chính xác mình làm chủ được sanh tử thì mình dạy người ta. Mà không biết thì đừng có dạy bằng cái lý thuyết suông như vậy khi mình tu chưa tới. Mình tu chưa có làm được mình dạy như vậy mình gạt người ta, rồi bao nhiêu người đi theo mình tưởng là đúng, nhưng cuối cùng mình cũng chưa xong mà người khác cũng chưa xong. Bây giờ nó mới là chết trùm với nhau cả đám.

(37:46) Tóm lại ý căn tức là não bộ rất quan trọng cho cuộc sống của con người. Mà người tu hành sử dụng nó được lại càng quan trọng hơn nhiều. Nghĩa là chúng ta tu hành sử dụng cái não bộ chúng ta đó, chứ không phải là cái gì khác. Gọi là hướng tâm về Tam Minh Túc Mạng Minh, Thiên Nhãn Minh, Lậu Tận Minh đều là do não bộ của chúng ta đánh thức cho nó hoạt động vậy chớ không có gì hết. Đây là cái lời tựa của cái câu hỏi này đó Thầy đặt nó gọi là ý thức.

3- TÂM LINH

(38:16) Bây giờ đến một câu hỏi thứ hai của Cô Diệu Thành. Cô hỏi thì Thầy đặt cái câu hỏi của Cô có cái tên riêng của nó gọi là Tâm Linh.

(Trưởng lão đọc câu hỏi) Hỏi: Khoa học chưa tìm ra Tâm Linh vi diệu của con người, chỉ biết con người do bộ não điều khiển và còn biết một số tế bào não chưa làm việc có phải vậy không thưa Thầy?

Đó là qua cái ý của cô Diệu Thành hỏi Thầy đó thì Thầy tóm lược lại cái câu hỏi của cô để cho nó rõ ràng cái ý để mà trả lời, cho nên cái tên của cái câu trả lời này tên là Tâm Linh. Bởi vì bây giờ những câu hỏi và đáp đều trở thành cái bài học và cái bài kinh để mà chúng ta hiểu biết cho nó rõ ràng cụ thể.

Đáp: Đúng vậy! Nếu khoa học tìm cách đánh thức số tế bào não chưa hoạt động để được hoạt động thì sẽ thấy được Tâm linh vi diệu của con người hoạt động siêu việt. Nghĩa là các nhà khoa học bây giờ nó không có làm sao mà đánh thức cái số tế bào não đang nghỉ ngơi, đang nằm nghỉ đó, đang không hoạt động đó. Nó chưa có cách thức nào đánh thức được. Cho nên nó chưa có tìm thấy được Tâm linh. Chúng ta nhờ tu thiền định cho nên chúng ta đánh thức cái số tế bào não đó. Chúng ta làm chủ được sinh tử, chúng ta làm chủ được sự sống chết do cái chỗ mà chúng ta đánh thức cái số tế bào não đang nghỉ ngơi đó. Nói tâm linh nhưng thực sự ra nó chẳng linh hiển gì cả. Chỉ vì nó hoạt động ở trí vô hạn.

Nghĩa là bây giờ mình đánh thức cái số tế bào não đó nó hoạt động ở chỗ cái trí vô hạn của chúng ta. Bởi vì cái sự hiểu biết vô hạn cho nên chúng ta thấy cái linh hiển chứ nó không có linh hiển gì hết. Nên nó không có không gian và thời gian chi phối, nó không bị không gian và thời gian, không gian là nó không bị ngăn cách, cách sông cách núi, cách một khoảng dài nó không bị ngăn cách. Cho nên khi mà chúng ta đánh thức được cái trí vô hạn thì nó không còn bị không gian và thời gian. Cho nên cái thời gian quá khứ nó không còn là quá khứ nữa. Nó không chi phối chúng ta. Đó cũng là do tế bào não hoạt động điều khiển, chứ chúng ta có hay giỏi gì đâu. Cũng do cái bộ óc của chúng ta mà thôi. Hiện giờ tế bào não hoạt động trong trí hữu hạn. Nghĩa là bây giờ chúng ta đang sống đó thì cái số tế bào não mà chúng ta đang hoạt động thì nó nằm ở trong cái trí hữu hạn, nó có hạn. Cho nên nó bị cái ảnh hưởng của không gian và thời gian. Cho nên khi mà không gian thì nó trải dài quá chúng ta không thấy được và nó bị ngăn sông cách núi thì chúng ta không thấy được. Và cái thời gian thì nó chia cắt, nó có hiện tại, quá khứ và vị lai. Mà chúng ta gọi là ý thức. Nghĩa là khi mà chúng ta cái tế bào não hoạt động trong cái trí hữu hạn chúng ta thì đó là ý thức.

(41:10) Ý thức là sự hiểu biết bị hạn lượng trong không gian và thời gian. Nên con người sống không nhìn rõ sự vật và các pháp nên lầm chấp. Bởi vì chúng ta sống trong cái ý thức cái trí mà hữu hạn này đó nó bị hạn lượng của không gian và thời gian cho nên chúng ta nhìn các pháp nhìn sự vật đó thì chúng ta lầm tưởng là thật. Như bây giờ ta nhìn thấy cái bàn, cái nhà cửa này mình cho thật. Thấy người này, người kia ngồi mình cho thật. Chứ thật đó là mình tưởng chứ không phải thật.

Cho nên ở cái bài kinh mà pháp môn căn bản Phật nói: Con người sống ở trong cái thế giới tưởng mà tưởng tri chứ không phải liễu tri mà cái gì con người hiện giờ đang sống ở trong cái trí thức hữu hạn này đó thì hoàn toàn là phải nói sống tưởng, sống tưởng chứ không có. Cho nên cái thế giới siêu hình cũng là cái thế giới tưởng của các người chứ không phải có thật cái thế giới siêu hình. Vì chính các người sống trong trí hữu hạn thì các người chỉ còn dùng tưởng để mà hiểu mà thôi. Bởi vì bàn ghế, nhà cửa nó là do duyên hợp mà có. Thế mà chúng ta thấy cái bàn này là thật. Rồi thấy ngay cả cái thân này đó, chúng ta thấy có người này chết người kia chết thì chúng ta cho cái thân này nó giả đi, thì chúng ta nghĩ rằng ở trong cái thân này có cái biết cái linh hồn, cái thần thức nó còn nó thường hằng hay hoặc cái Phật tánh ở trong đó nó thường hằng. Đó là chúng ta tưởng ra thôi. Cái gì chúng ta không thực tế thì chúng ta lại tưởng nó ra thôi. Cho nên cả cái thân này đó hiện bây giờ đức Phật nói nó là vô thường nó là ngũ duyên hợp lại, nó là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành ,Thức hợp lại mà thành cái thân này. Nó không có một cái gì thật, thế mà hở một chút là chúng ta có giận, có hờn phiền não. Cái gì của ta đâu mà chúng ta giận? Thế mà ai động chạm đến mình cái gì cứ nghe nó phiền não, nghe nó buồn bã. May là theo tu với Thầy, chứ không theo tu với Thầy rồi các con thấy sự giận hờn đó như thế nào. Rồi hở một chút gì hơi hơi đau cái ngón chân hà, đi vấp cục gạch, cục đá thôi hà mà ổng thiếu điều ông muốn đi nằm nhà thương nữa. Sợ cái ngã chúng ta nó chết hay sao. Có cái gì là cái ngã chúng ta đâu?

Cho nên ở đây thật sự ra các con đã lầm tưởng, sống trong cái tưởng. Rồi chó đó là cái thân của mình, cái ngã rồi quý nó, rồi mến nó. Sự thật Phật đã nói nó là cái thân bất tịnh hôi thối, bẩn thỉu do tứ đại mà tạo thành. Nó không phải là cái gì của mình cả. Thế mà hằng ngày Thầy bảo các con tu tập các con quán vô ngã. Ví dụ như bây giờ “quán vô ngã tôi biết tôi hít vô, quán vô ngã tôi biết tôi thở ra”. Vô ngã là cái gì? Là thân của chúng ta là các pháp vô ngã. Đó thì các con đã học đạo, đã nghe như vậy mà hở chút gì cái nghe rên la. Ôi thôi nó nhức cái vai này quá trời. Cái gì nhức? Có cái gì đâu nhức. Cái thọ là nó nhức. Chứ ai mà nhức. Vì vậy mà chúng ta hiểu biết tâm không dao động thì nó sẽ không có đau khổ. Mà tâm dao động thì cái đau khổ nó lại thành đau khổ nhiều. Cho nên các con thấy như Thầy ho Thầy có cần gì nó đâu. Mặc nó, nó thọ là nó ho, nó ho nó có chết Thầy bao giờ đâu mà sợ. Bởi chết là chết lâu đời rồi. Đâu tới bây giờ. Cho nên đối với Thầy không quan trọng vấn đề gì hết. Thậm chí như Thầy thấy nó không quan trọng tức là nó không có đau không nhức, chứ cở đau nhức đó thì tức là mình sẽ dùng pháp hướng ra lệnh nó sẽ tịnh chỉ được tức khắc liền. Có cần gì. Bởi vì mang cái thân này là mang cái thân nghiệp nhân quả.

(44:30) Có một lần Thầy trả lời với Minh Tâm. Minh Tâm hỏi một người tu hành đó còn bị nhân quả hay không? Theo như là Bách tượng giả hồ câu chuyện như vậy. Thì nó thấy một lần Thầy bị cây sắt sóc trong cái tay thì nó nghĩ rằng một người tu hành biết được những chuyện xảy ra thì làm gì để cho cây sắt mà chóng mà ấy trong tay mình như vậy. Cái ý nó muốn nói như vậy. Thì Thầy mới nói như thế này: Đã mang thân nhân quả thì cái sự việc xảy ra trong nhân quả thì chúng ta đều phải chấp nhận nhân quả chứ không thể nào gọi là tránh né nhân quả, trốn tránh né nhân quả. Nhưng có làm chủ được cái tai họa, cái tai nạn xảy ra ở trong cái vết thương đó không. Có sợ hãi không. Nếu mà chúng ta sợ hãi chúng ta biết rằng một lát nữa là mình chặt cái cây sắt đó nó sẽ chóng trong tay mình nó sẽ thành vết thương đó, thì mình không chặt thì nó đâu có chớ gì. Thì nó sẽ đó là tránh né. Tức là mình sợ cái vết thương. Mình sợ cái quả. Thì nó không phải. Người tu sĩ đạo Phật mang thân này là thân nhân quả. Thì phải có trường hợp mà phải xảy ra những cái vết thương, hoặc là những cái bệnh đau ở trong cơ thể này đó là một dĩ nhiên của thân nhân quả. Nhưng chúng ta có làm chủ được nó không? Nếu làm chủ được nó thì chúng ta chẳng có dao động tâm, chẳng có hề sợ hãi, chẳng có đi nhà thương, chẳng có sợ gì cả. Chết thì bỏ nó có gì của mình đâu mình tiếc. Tứ đại nó chết thì trả nó về đất, nước, gió, lửa. Có gì đâu của mình mà mình giữ. Các con thấy đó là cái thấm nhuần được cái lý của đạo là tâm hồn chúng ta giải thoát.

Thì cái nhân quả mà chúng ta chết. Bây giờ cỡ đau sơ sơ nó chết nó cũng dễ dàng. Đó cái thân của chúng ta nó rất giòn bở. Còn nếu mà không chết bây giờ chúng ta đau cái gì nó cũng không chết hết. Như cô Diệu Thành nếu mà con đã chết bao nhiêu lần bệnh đau nó đã chết lâu rồi. Nó không chết thì bây giờ nó có chết gì đâu. Nhưng mà hồi nào tới giờ hể hơi nhức xương, rung xương là lo chạy bay đi xuống thành phố để mà đi bác sĩ. Thì thử hỏi cái đó là cái mình sợ hãi. Chấp cái thân của mình chứ gì. Cái hành động đó là hành động chấp ngã. Cho nên vì vậy mà từng đó cái tâm bị dao động, dao động trước các đối tượng, dao động trước các pháp.

Do cái chỗ mà trí hữu hạn của chúng ta cái ý thức của chúng ta đang sống và hiểu biết đó nó đều là tưởng tri chứ không phải là liễu tri. Do cái tưởng tri đó mà chúng ta lầm chấp các pháp. Như Thầy đã nói sống với tưởng tri cho thế giới hữu hình và vô hình là có thật. Vì thế mới đắm đuối chạy theo cái bóng giả tạo này cho là đúng sai, phải trái, tốt xấu, sanh ra ham thích, dính mắc rồi giận hờn, thương ghét, đau khổ, phiền não. Cũng chỉ vì tưởng tri cái thế giới này có thật, con người này có cái vĩnh hằng, linh hồn, Phật tánh. Sanh ra chấp ngã vĩ đại làm cái gì cũng tích lũy cho nó, thậm chí tu hành cũng cho nó. Nghĩa là bây giờ các con tu hành cũng cho cái ngã của các con chớ đâu phải cho người khác. Các con hiểu điều đó. Cho nên nếu mà cho người khác thì người ta chửi mình mình đừng có giận. Tại vì mình tu hành người ta chửi mình mà mình giận mình nói người ta thì làm người ta khổ. Tức là mình đâu phải tu cho người ta. Mình tu cho mình. Cho nên ở đây Thầy nói thậm chí tu hành cũng chỉ tu cho cái ngã của mình. Do mình tu cho cái ngã của mình cho nên mình không giải thoát. Vì vậy đó mà mình, tự mình đã làm khổ lấy mình. Mà làm khổ lấy người làm sao gọi là tu giải thoát. Các con hiểu được cái câu này thì chắc chắn là các con biết rằng, cái câu mà Thầy nói: “Không làm khổ mình, khổ người” nó mang đầy đủ tính chất giải thoát của con người trong đó có sự làm chủ sanh, già, bệnh, chết. Nếu các con hiểu được câu đó thì các con sẽ thấy xả bỏ được tâm mình thì các con sẽ thấy giải thoát rất là cụ thể. Làm chủ được lúc nào muốn sống chết lúc nào. Các con không cần tập ngồi thiền mà chỉ cần ra lệnh muốn nó mấy ngày thì nó sẽ làm y như mấy ngày.

(48:32) Thầy nhớ năm 1991, sau cái mùa an cư kiết hạ đó. Mùng một tháng tám Thầy vào thất với một số quý thầy còn ở lại đây. Quyết sống giới luật ngày một bữa. Và đồng thời trong thời gian ấy được rảnh rang nhiều hơn. Thầy nhập thất bắt đầu từ bảy ngày không ăn không uống suốt bảy ngày. Nhập thất như thế nào mà biết bảy ngày ra mà bảy ngày vào. Chỉ có ra lệnh hướng tâm nhắc khi mà ngồi thiền, hướng tâm nhắc. Bây giờ đó tâm phải tịnh chỉ hơi thở bảy ngày đêm nhập tứ thiền bảy ngày đêm đúng giờ này ngày thứ bảy phải xuất định. Thì trong khi đó tâm từ từ lặn mất dần không còn biết gì nữa hết cuối cùng ở trong một trạng thái của tứ thiền, thì lúc bây giờ đúng tới bảy ngày. Chúng ta không có thấy cái thời gian ở trong đó là bảy ngày, mà tới chừng đó tự động thì chúng ta lại thấy nó bung ra tức là hơi thở bắt đầu thở trở lại. Nghĩa là cái thức tới đó nó sẽ biết được cái hơi thở của nó và đồng thời nó hướng tâm lần lượt xả lần ra. Thì đứng vậy đi bình thường không có tê không nhức không đau gì hết chứ không phải. Và đồng thời trong thời gian đó Thầy sẽ ngồi suốt chỉ có được mười lăm ngày. Còn hoàn toàn dự định trong ba tháng trong cái mùa hạ đó, trong ba năm đó thì Thầy định Thầy ngồi ba tháng chưa dám ngồi một năm.

Tại sao vậy? Tại vì không có thời gian hướng dẫn chúng. Nếu mà không có ai tức là Thầy sẽ ngồi nhiều. Nhưng mà vì có mọi thầy tu hành, sợ người ta tu sai mình nhập định thì có những cái gì thì làm sao giải quyết được cho họ. Rồi sao đó Thầy kèm cho mật hạnh tu tập cho nên không còn thời gian nữa. Do vì vậy mà những năm đó Thầy chỉ nhập được khoảng thời gian bảy ngày cho đến mười lăm ngày thay vì một tháng nhưng mà không dám ở lâu trong một tháng. Khi mà tăng lên một tháng thì nhìn trước nhìn sau không có ai chăm sóc cho chúng. Cho nên đành phải mười lăm ngày rồi tiếp tục hướng dẫn chúng đi theo con đường của mình. Khi Thầy tu tập mà nhập cái thời gian mà nhập định đó thì Thầy nhập suốt hai tháng, hai tháng định. Mà người ta đồn thì Thầy nhập ba tháng chứ thật ra Thầy nhập có hai tháng, trong khi Thầy cũng vào định rồi cũng nhắc tâm của mình rồi vào định trong khi mà tu tập về pháp môn của Phật. Thì các con thấy rằng trong cái sự tu tập nó cái sự làm chủ rất rõ ràng cụ thể, chứ không phải tập ngồi từng giờ từng phút tăng lên, rồi bỏ cái ngồi lại không được. Còn đằng này đâu có gì đâu, rất dễ. Khi nào muốn ngồi thì bảo nó tịnh chỉ ngưng thì còn thấy đau thấy nhức cái gì đâu. Đã hơi thở Phật đã nói: Hơi thở là thân, là thọ, là tâm, là pháp mà hơi thở ngưng…​

(51:31) Nhưng mà chất chứa tham, sân, si chất chứa nó. Chất chứa những điều ác điều thiện ở trong đó. Thì bây giờ đó từ cái chỗ mà chúng ta có cái thức, kế nữa bắt đầu chúng ta tiếp tục như chúng ta có cái thân thứ hai. Bây giờ bỏ cái thân này cái thức này nó mất đi cho nên nó còn cái nghiệp nó đi đầu thai. Tiếp tục tái sanh do cái khối, khối nghiệp thiện ác đó mà Thầy nói là nhân quả tái sanh luân hồi đó. Thì cái khối đó nó đi tái sanh, mà khi nó đi tái sanh thì nó có cái thức chớ không phải. Nó mang cái thức đi theo. Cho nên gọi là A-lái-da thức, cái thức đó cái A-lại-da thức thì nó không đúng. Mà nó là cái nghiệp lực cái kho nó đúng. Bởi vì nó chứa chất, chất chứa những cái ham thích, cái ác, cái thiện của nó nó thành một cái nơi mà chất chứa thành một cái thùng, thành một cái nhà kho chưa đó, cái đó nó thành cái khối. Thì cái khối đó bây giờ chúng ta sanh lên một kiếp nữa thì chúng ta chất chứa thêm do cái thức mới của chúng ta chất chứa thêm những cái này. Từ cái kho này nó mới thúc đẩy cho chúng ta chạy theo những cái thức mới đó, nó ham thích theo vì cái kho này nó đã tích trữ cái tham, cái sân, cái si của nó sẵn rồi. Bây giờ nó có cái thức, thay vì nó không có cái kho mà tham, sân, si này thì cái thức kia nó không có tham, sân, si. Giờ cái kho này nó lại cái tham, sân, si nó lại mạnh hơn nó nhanh hơn cho nên khi mà cái này đi tái sanh luân hồi nó mang cái thân mới thì nó có cái thức mới của nó ở trong cái thân ngũ uẩn mới. Chớ không thể nào mà cái thức này đi vào trong cái thân ngũ uẩn mới có thêm một cái thức nữa được. Phải hiểu như vậy. Theo kinh Nguyên Thủy nghiệp lực không có thức tức là không có cái biết. Do sự vô minh theo lực của nghiệp đi tái sanh chớ không có cái thức đi tái sanh. Các nhà duy thức học chỉ tưởng ra mà thôi. Tưởng ra cái thức mà thôi. Nên có người giữ kho và cái kho đi tái sanh Mạc-na thức và A-lai-da thức tái sanh. Sự thật trong kinh Nguyên Thủy dạy không có thức nào đi tái sanh luân hồi. Chỉ có nghiệp thiện ác đi tái sanh luân hồi mà thôi. Nghiệp thiện ác tức là nhân quả thiện ác. Đó thì nghiệp thiện ác tức là cái kho chứa chứ không có cái gì. Tức là mình huân vô thành cái khối nghiệp. Khối nghiệp đó nó có cái lực rất mạnh, cho nên khi mà chúng ta chết rồi nó tùy duyên tương ưng với cái nơi nào hợp với cái nhân quả đó thì nó đến đó nó làm con cái của cái nhân quả, của cái nhân quả kia mà tiếp tục có cái thân mới.

4- TU SAI HAY TU ĐÚNG

(54:07) Ở câu kế nữa cô Diệu thành hỏi tu sai hay tu đúng.

(Trưởng lão đọc câu hỏi) Hỏi: Cứ theo lời Thầy dạy con tu như vậy thời gian sao Thầy bảo rằng con tu sai, con hơi buồn.

Đáp: Đúng như lời Thầy dạy thì các con chỉ tu đúng được một nữa còn một nữa thì tu chưa đúng. Nghĩa là các con xét lại cái lời Thầy dạy, nếu mà các con tu đúng đó thì giờ này các con không còn lận đận ở trên sự tu tập nữa. Tại vì các con không giữ đúng theo lời Thầy dạy cho nên các con sẽ còn lận đận, còn lận đận trên cái bước đường tu tập. Nếu mà các con nghe lời Thầy dạy mà giữ gìn cho đúng thì thời gian rất ngắn. Thầy nói rằng đức Phật nói ở trong kinh cũng như Thầy nói, Thầy nói sáu tháng các con sẽ làm xong. Còn đức Phật nói sáng chúng ta nghe chiều đã giải thoát rồi. Đó là cái tối thiểu ở trong đức Phật. Đức Phật nói từ khi mà nghe pháp mà tu tập đó thì cái người lâu nhất là bảy năm, rồi bảy tháng, rồi bảy ngày, rồi sáng nghe chiều giải thoát. Đó thì cái người mà nhanh nhất sáng nghe chiều giải thoát. Rồi bảy tháng, rồi bảy ngày. Cái người mà chậm hơn cái người sáng nghe chiều giải thoát thì bảy ngày. Mà người chậm hơn nữa chậm hơn bảy ngày là bảy tháng. Mà cái người mà bảy tháng đó chậm hơn nữa thì nó là bảy năm. Thì cái số bảy năm đó là cái số tối đa. Mà cái số sáng nghe chiều giải thoát đó là cái số tối thiểu, cái thời gian tối thiểu. Mà khi nghe Thầy nói rồi mà các con cứ mãi cố chấp ở trong lòng, ôm cái tham, sân, si làm gì. Nó có cái gì đâu là của mình đâu mà tham mà giận mà hờn mà đau khổ. Nhắc đi nhắc lại mãi để mà xả cái tâm mà các con cũng xả chưa sạch. Thì Thầy cũng không biết làm sao cho nó hết được. Bởi vì mỗi người đều đi cho mình chứ không thể nào mà đi cho các con được. Nếu mà cở đi được đó Thầy đi giùm cho các con, đi giùm cho. Cho nên các con không có còn giận hờn. Trái lại đó Thầy đi không có được thấy mà thấy mỗi lần mà cô Út la hét thấy tụi nó sao đi không có nỗi vậy, phải chi mình đi được đi giùm, này đi không có được giùm. Cho nên cái tu sao tu giùm không có được. Chớ phải tu được thì Thầy tu giùm cho các con. Thầy ráng Thầy tu. Bây giờ ở đây là mấy đứa nè chín người nè Thầy tu giùm cho mỗi người Thầy tu một ngày cho thử coi nó hết không. Chắc chắn là nếu mà Thầy tu giùm được đó thì trong vòng chừng ba bữa là mấy con sẽ hết sạch không còn tham, sân, si nữa. Ngặt tu không được cho nên Thầy chỉ được giải thoát cho mình mà không có được cho mấy con. Các con cũng biết rằng sống gần bên Thầy các con cũng biết rằng có những phong ba bão táp chớ, chớ đâu phải không. Nhưng mà Thầy có hề hấn gì đối với Thầy đâu. Các con thấy đó tại sao các con không bắt chước Thầy? Thế mà các con lại âm thầm đau khổ rồi có khi buồn giận rồi có khi nói ra lời nói trách móc đồ đủ thứ hết. Tại sao vậy?

(57:20) Đó là những cái sai! Cho nên ở đây Thầy muốn nhắc để cho các con biết rằng con đường tu đó thì không thể ai đi cho ai được. Chớ cở mà đi được chắc Phật đi giùm cho chúng sanh để giải thoát hết rồi. Chớ không cần tới Thầy nữa. Cho nên các con nghe những cái nỗi mà đau đớn, những cái nỗi khắc khoải trong lòng khi mà tu không được. Thì Thầy biết các con cũng vậy, tâm trạng của các con cũng vậy. Nhiều khi dở khóc dở cười trong cuộc đời tu hành chớ đâu phải thường. Đã lỡ tu rồi thà là mình ở ngoài đời, mình không biết gì Phật pháp hết. Ba cái Phật pháp này nhiều khi nó ghẹo gan mình tức thật. Ham tu mà vô tu thì tu không được rồi đi ra, ra cũng không được. Nó dính đó nó kẹt. Nó khổ sở. Đi ra thì sợ người ta cười, người ta chê rồi thế này thế khác. Mà tu thì không biết pháp nào mà tu cho được. Trời ơi nó khổ sở. Mà trong lúc đó các con còn được Thầy chỉ dẫn như vậy chứ còn ngày xưa Thầy bơ vơ, nghĩa là dở chết dở sống chớ không phải. Mà may là được hồi đó được nghe những cái lời hòa thượng Minh Châu dạy ở trong kinh Nguyên Thủy. Rồi được đọc ở trong kinh sách Nguyên Thủy, trực nhớ như vậy. Chứ còn không đó thì như quý thầy bây giờ chưa có được mà học về kình Nguyên Thủy. Chưa có được mà nghiên cứu kinh sách. Kinh Nguyên Thủy đó chớ mà thật sự ra các con kỳ lắm các con lại đọc cái cuốn kinh Nguyên Thủy nghe cái bài kinh nó nhạo đi nhạo lại lát các con thôi quăng cuốn sách đọc nghe không khoái chút nào hết. Có không? Các con cứ nghĩ có không? Thầy nói có không?

Nhưng mà sự thật ra một cái ý thâm sâu ở trong đó ghê gớm. Mà đọc rồi các con sẽ chán chứ không phải đâu. Cho nên được nghe, được đọc rồi mới may mắn cho cái đời tu hành của mình. Mới thấy được cái đường lối của Phật. Chứ còn không khéo chắc là dễ chết lắm. Nghĩa là nói chung nếu mà Thầy chỉ thêm chừng vài tháng nữa thì mẹ Thầy qua phần, thì chắc chắn Thầy cũng bỏ Thầy tìm cái chết cho nó yên cái thân chớ còn, may là tìm được cái pháp, rồi tu được, làm chủ được cái sự sống chết của mình. Rồi ra thất rồi mẹ Thầy mất. Chớ cở kéo dài thêm chừng một năm nữa thì mẹ Thầy mất trước khi Thầy xong, thì chắc chắn mà chưa có được gì thì Thầy là con người gan dạ nhất các con. Thầy lên trên hòn sơn ở một mình Thầy không sợ mà. Thầy là con người có thể nói là sống chết Thầy coi thường lắm. Thầy có thể là hủy hoại cái đời sống của mình rất dễ. Cho nên trong cái lúc nó khắc khoải nó đường cùng rồi. Nó không có muốn sống nó không có muốn ham thích gì nữa. Đó là những cái mà Thầy đã viết cái tâm trạng của mình ở trong cái lời nói đầu của cái cuốn Đường Về Xứ Phật tập năm. Sau này các con sẽ nghe những cái câu trả lời của Thầy ở trong tập này nó thành ra những cái bài pháp. Nó không như là những cái câu trả lời trước kia nữa. Như nãy giờ các con thấy mỗi một câu hỏi đó các con cái bài pháp ngắn để mà trả lời các con.

(01:00:22) Ở đây cô Diệu Thành hỏi Thầy tu đúng, tu sai hay tu đúng. Thật sự ra thì Thầy xác định các con chỉ tu được phân nữa cái lời dạy của Thầy. Còn Phân nữa các con chưa đúng, tu chưa đúng. Thứ nhất là cái hoàn cảnh nó chưa phù hợp. Mà nó có phù hợp đi nữa các con tu cũng chịu không nỗi. Bởi vì Thầy biết độc cư nó không phải là chuyện dễ. Chuyện của bậc thánh rồi. Chớ không phải là chuyện của phàm phu làm. Các con sống còn tới còn lui còn lao động còn này kia, các con còn chịu nổi chớ mà khép mình các con ngồi trong thất tu không thì ráng lắm thì một tháng, cao lắm là ba tháng rồi thì các con cũng phải đi một vòng rồi mới trở về ngồi mới được. Chớ còn các con ngồi không được. Không có thể nào mà khép chặt ba năm mà chặt ở trong đó. Các con thấy thầy Chơn Trí không. Vô trong này chừng trong một tháng là đi về Hà Nội chứ còn ở nữa thì chịu không nỗi. Rồi về Hà Nội đi tới đi lui vậy chớ cờn ở lì một chỗ cũng chịu không nỗi đâu. Thầy nói đâu có phải chuyện dễ đâu, rất khó các con. Đó là những cái khó khăn của độc cư. Nhưng mà chính độc cư là bí quyết của thành công. Tâm nó quay vô nó không phóng dật. Nó tạo cho chúng ta một cái định rất là có một cái lực rất là vĩ đại. Thầy bảo các con ăn ngủ và độc cư cho nghiêm chỉnh thì các con lại không sống đúng. Ăn ngủ thì còn tạm được. Độc cư thì không trọn. Cứ sống phóng tâm hết chuyện này đến chuyện khác. Dạy xả tâm ly dục, ly ác pháp thì các con lại ngồi thiền nhiếp tâm ức chế tâm. Như vậy có tu theo đúng lời dạy của Thầy hay không?!?

Cô Út đập phá để xả tâm thì lại hờn giận oán trách nói xấu khiến cho cô Út bất mãn không muốn dạy ai nữa. Nghĩa là trước cô Út rất là mạnh bạo đập nhưng bây giờ coi như là cô Út mười phần cô Út chỉ còn nhẹ nhẹ mấy con chỉ còn chừng khoảng năm, ba chứ chưa phải như lúc trước đâu, lúc trước mấy đứa chịu không nỗi đâu. Chỉ có người mà xả tâm. Lúc trước các con biết cứ mỗi lần bị đập là có Thầy đến an ủi liền. Nghĩa là có Thầy đến trong cái buổi học liền. Như mấy đứa tụi nó ở đây biết như cô Diệu Thành cũng biết. Ví dụ như cô Út đập rồi thì ngay đó thì buổi sau thì có cái buổi học thì Thầy giảng Thầy dạy Thầy an ủi cho thấy tinh thần nó trở lại bình thường. Chớ còn nếu mà cở như bây giờ Thầy bỏ phế như thế này mà đập đó thì lúc mà các con mới chân ướt chân ráo vào mà đập chừng vài lần như lúc trước cô Út kể như các con bay cũng như là bồ câu vậy chớ không còn mà đáp được.

(01:03:00) Còn về cái phần mà cô Diệu Thành hỏi về Ý thức phân biệt và tỉnh giác. Thì đây Thầy chưa có trả lời nhưng mà Thầy sẽ mượn những cái câu của cô Diệu Thành sẽ ghi lại trả lời chung cho sau này thành một cái bài pháp cho người ta hiểu thêm. Bởi vì cái sự hiểu của các con là phần nhiều là Thầy nói bởi vì cái trí của các con hiện giờ là cái trí hữu hạn cho nên không thể nào hiểu được ở cái trí vô hạn được. Cho nên nó thường là hiểu bằng cái tưởng của mình hiểu mà thôi. Cho nên ở đây cô muốn hỏi cái ý căn tức là não bộ cộng với cái thức bởi vì cái ý căn, ý căn là muốn chỉ cho cái nơi phần vật chất của nó, phần vật chất làm việc của nó là cái ý căn. Còn cái ý thức đó thì khi mà làm việc của cái não bộ thì cái ý thức nó phải có ngay trong đó rồi, chớ không phải là cái ý thức với cái ý căn đó hai cái nó tách rời ra không có. Cũng như cái lỗ tai của chúng ta nghe thì nó nghe thì nó là cái nhĩ , nhĩ thức nó ngay liên ở đó nó có rồi. Chớ không phải là cái nhĩ thức ở ngoài kia rồi nó hợp với cái lỗ tai chúng ta là cái nhĩ căn hai cái nó hợp lại rồi nó mới làm việc không phải, đừng hiểu vậy. Nó cái nhĩ thức, cũng như cái ý thức và cái ý căn đó nó chỉ là một chớ không phải hai. Nhưng một cái phần chỉ vật chất và một cái phần chỉ về tinh thần. Các con hiểu vậy. Nó là một chớ không phải hai. Do vì vậy mà chúng ta ở đây thì con lại hiểu qua cái tưởng, tưởng là nó có hai cho nên nó cộng với cái thức rồi để kiểm soát nó sanh ra nó điều khiển mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình không phải. Đối với cái thân của nó là cái ý thức đó nó chỉ điều khiển ở chỗ cái ý thức mà thôi. Cũng như bây giờ chúng ta ngồi đây mà chúng ta điều khiển cái ý thức của chúng ta, chúng ta tác ý ra: “Quán ly tham tôi biết tôi hít vô nè, quán ly tham tôi biết tôi thở ra”. Đó là ý thức chúng ta điều khiển pháp hướng gọi là ý thức. Còn bây giờ đó cái vọng tưởng khởi lên ở trong đầu của chúng ta đó thì cái đó là cái ý, cái tưởng thức của chúng ta khởi lên rồi cái ý thức của chúng ta mới nó phân biệt, phân biệt cái tưỏng của chúng ta đó là cái gì. Chẳng hạn bây giờ chúng ta nhớ lại cái điều gì. Nhớ cha nhớ mẹ hay nhớ anh chị em mình ở nơi quê hoặc ở chùa bạn bè gì mình đó. Thì cái niệm đó nó khởi ra cái niệm đó gọi là vọng tưởng hay là tưởng thức, Các con hiểu? Cái niệm đó khởi ra cái tưởng như vậy thì bắt đầu cái ý thức chúng ta mới quan sát lại cái niệm đó để rồi mới tìm hiểu cái niệm đó. Thì cái ý thức của chúng ta nó làm việc để chúng ta biết được cái niệm đó là thiện ác để mà chúng ta xả nó ra.

Chớ không phải, còn cái âm thanh ở ngoài mà tác động vào lỗ tai chúng ta thì cái âm thanh đó nó là nó thanh trần, nó tác động vào thì lúc bây giờ cái lỗ tai chúng ta cái nhĩ căn đó là cái lỗ tai nó tiếp cái âm thanh đó. Thì cái nhĩ thức nó biết rằng cái đó là tiếng gì nó phân biệt được tiếng gì. Chớ không phải là cái ý thức nhảy xuống đó mới phân biệt. À mày nghe như vậy đó là tiếng con chó chứ không phải tiếng xe chạy, mày nói cái tiếng xe chạy con chó sủa mà nói tiếng xe chạy là trật. Cho nên cái ý thức không có lẽ nó ở chỗ cái ý căn của nó là cái bộ não đó nó chạy xuống nó báo dưới cái lỗ tai. Nó nói mày nghe như vậy màu trật, con chó sủa mà mày nói xe chạy thì không đúng. Hiểu không? Nó không phải như vậy. Mà tại nơi cái chỗ mà cái nhĩ căn đó thì nó có cái nhĩ thức, cái nhĩ thức nó phân biệt nó báo rằng đó là tiếng chó sủa chớ không phải là tiếng xe chạy. Con hiểu đây chưa? Chớ không phải cái ý thức nó chạy xuống đó nó điều khiển nó làm việc, không phải. Nhưng mà trong cái điều khiển đó là trên cái não bộ đó, nó có những cái tế bào, ở trong những cái tế bào đó nó có những cái thần kinh. Bây giờ cái âm thanh tác động vào, đụng vào cái thần kinh mà nhĩ căn của nó đó là cái lỗ tai. Cái thần kinh nó báo về trên óc thì cho nên ở trên óc nó mới nhận ra thì nó nhận ra bên cái tế bào mà chỗ nhĩ căn đó của nhĩ thức đó. Nó báo cho cái tế bào nhĩ thức đó biết rằng đó là tiếng con chó chứ không phải tiếng xe. Cho nên cái nhĩ thức nó biết. Chớ không phải báo qua cái tế bào của ý thức được. Cái phận sự nào nó, bởi gì nó nhiều cái loại tế bào, cũng như bây giờ một cái phần nào Thầy ví dụ:

Như một cái phần nào ở trong cái máy vi tính mình bấm một cái nút nó hiện ra một cái thực đơn tức là một số những cái điều kiện. Bây giờ mình muốn sử dụng một cái điều kiện gì, mình phải bấm cái nút để cho cái điều kiện đó nó hiện ra thì nó mới hiện ra cái đó. Thì cái tế bào và thần kinh ở trên đầu của chúng ta nó rất nhiều. Cho nên khi mà cái tiếng động đó nó đập vô cái nhĩ căn vì vậy cái thần kinh đó nó báo ở trên cái tế bào ma nhĩ thức đó, chớ không phải báo trên cái tế bào của ý thức. Con hiểu chưa? Bởi vì ở trên đó nó li chi cũng như là cái máy vi tính của chúng ta hiện giờ vậy. Mà cái máy vi tính mà người ta chế ra thì người ta cũng nghiên cứu qua cái bộ óc của con người, người ta chế ra thì cách thức nó như vậy. Cho nên ở đây thì nó không phải là do cái não bộ với ý thức mà điều khiển mắt, tay, mũi, miệng, thân, ý. Mà đức Phật nói nó có sáu cái thức nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức nó rõ ràng. Cho nên đối với thân chúng ta nó có một cái ý thức mà nó có sáu cái thức, chớ không phải là một. Còn đối với cái tưởng đó thì nó chỉ có một cái tưởng thức mà thôi chớ không có nhiều.

(01:08:58) Phần 2: Tỉnh giác trong mọi công việc làm. Tỉnh giác là cái ý thức tỉnh như hồi nãy Thầy nói. Bây giờ chúng ta hướng tâm chúng ta nhắc nè: “ Quán ly tham tôi biết tôi hít vô, quán ly tham tôi biết tôi thở ra”. Đó là ý thức chúng ta điều khiển pháp hướng. Cái ý thức, con hiểu không?

Bây giờ có một cái niệm, cái niệm khởi đó gọi là vọng tưởng. Tức là tưởng thức đó nó phát khởi ra cái niệm. Thì bắt đầu chúng ta dùng cái ý thức mà phân tích hay là quán xét cái niệm đó để chúng ta biết cái niệm nó thiện ác chúng ta xả ly. Thì cái đó gọi là ý thức con hiểu chưa? Đó thì tỉnh giác là sống ý thức. Cho nên chúng ta sống với ý thức chớ không phải chúng ta sống với tưởng thức. Hiểu chưa? Mà chúng ta sống trong cái ý thức thì chúng ta sống trong cái hành động tỉnh. Như bây giờ chúng ta biết hơi thở ra hơi thở vô đó là ý thức. Mà có một cái niệm khác khởi ra thì đó là tưởng thức. Cho nên gọi là vọng tưởng chớ ai gọi là vọng thức bao giờ. Phải không con hiểu không?

Gọi là vọng tưởng vì cái tưởng đó là cái tưởng thức nó hiện ra nó hồi tưởng lại những cái sự kiện xảy ra trong quá khứ. Đó, thì ở đây để phân biệt được như vậy để thấy được cái chỗ đúng chỗ sai. Cho nên khi mà chúng ta tu là chúng ta lấy cái ý thức chúng ta trở về với sự hiện tại mà chúng ta tu tập để làm cho cái sức tỉnh. Sức tỉnh thức này nó sẽ không có niệm thiện niệm ác thì nó đi vào cái sự tĩnh lặng. Nó đi vào tĩnh lặng đó thì nó biến vào một cái trạng thái của định tưởng. Nó biến vào cái trạng thái của định tưởng, thì khi mà nó thành cái định tưởng đó thì nó bắt đầu từ cái Không Vô Biên Xứ Tưởng cho đến Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ định. Cho nên nó là những cái định mà không có làm chủ sự sống chết.

Cho nên trong cái bài Tiêu Không thì đức Phật dạy: “ Khi một người mà nhập tới Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ định rồi thì phải trở về nhập cái định, cái định là Tứ thiền đó. Bốn cái định gọi là định Hữu sắc”. Cho nên khi mà tu tập cái định Vô sắc rồi thì chúng ta phải trở về cái định Bất Động Tâm Định. Thì trở về cái định Hữu sắc chớ không phải định Vô sắc được. Định Vô sắc không làm chủ sinh tử được. Trong cái bài kinh Tiểu Không thì Phật có giải thích cho chúng ta biết cách tu từ cái định Không Vô Biên Xứ Tưởng cho đến Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ định. Rồi phải muốn làm chủ sự sống chết đó thì phải vượt qua cái Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ định để mà nhập vào cái định mà Bất Động Tâm định giải thoát thì nó mới có Lậu hoặc nó mới diệt sạch. Thì cách thức đó khi mà chúng ta nhập các định tưởng thì chúng ta cũng trở về với cái định, cái định Hữu sắc. Chớ không thể nào mà cái định Vô sắc mà làm chủ được. Cho nên nói tuy rằng thấy cái định Vô sắc tưởng là nó cao nhưng sự thật đó là không cao. Bởi vì ngoại đạo đã là dạy đức Phật tu những cái định này nhưng mà cuối cùng thì đức Phật không có tu thấy kết quả được.

(01:11:57) Cho nên trong cái bài kinh Saccaka thì đức Phật có thuật lại trong cuộc đời tu của mình đức Phật đã tu về hơi thở đã nín thở, năm cái triệu chứng nín thở của đức Phật đã là đưa đến đức Phật mà sắp chết đó. Rồi sau đó đức Phật khổ hạnh ăn ít quá ít cho nên cuối cùng thì cơ thể đức Phật đi không nỗi, đứng dậy không nỗi. Do vì vậy mà sau đó thì nhờ cái người mà chăn dê họ đổ cho đức Phật sữa dê rồi đức Phật mới tỉnh dậy. Rồi sau đó đức Phật mới suy ngẫm cái lộ trình này, đã khổ hạnh đến mức độ như thế này, ức chế thân tâm đến cái độ như thế này mà không tìm được sự giải thoát cho chính bản thân mình. Thì đức Phật cũng rất là đau khổ ở trong lúc bây giờ tìm hết các pháp. Thì bây giờ chỉ có hai vị thầy mà cao nhất trong thời đại này là Ngài Alara-Kalama với Ngài Uất-đầu-lam-phất. Hai người thì đã dạy cho đức Phật đã nhập được những cái định tưởng này rất là cao. Thế mà cuối cùng thì không thấy giải thoát. Không còn cái vị thầy nào mà dạy cao hơn nữa.

Cho nên lúc bây giờ đức Phật mới thọ cái bát sữa dê mới tỉnh lại, tỉnh lại cái cơ thể rất yếu. Cho nên tỉnh lại suy ngẫm cái đạo lộ này không thể giải thoát được. Vậy thì cái đạo lộ nào mà đưa con người đi đến giải thoát này?

Rồi đức Phật mới hồi tưởng lại, nhớ lại trong lúc mình còn bé tám chín tuổi đi theo Vua cha trong cái buổi lễ hạ điền. Tức là Vua cha đi xuống ruộng cày trong cái buổi lễ mà cày ruộng đầu tiên để nông dân bắt đầu từ đó mà cày ruộng đó. Thì Vua cha cày ruộng thì đức Phật ngồi dưới cái cây mà Râm-pia, cây râm-pia tức là cây Diêm phù đề đó. Ngồi ở dưới đó mà đức Phật ly dục ly ác pháp nhập sơ thiền. Đức Phật mới nhớ lại hồi nhỏ mình đã có một cái trạng thái tu như vậy. Thì đức Phật mới nhớ lại, nhớ lại đức Phật mới nói đạo lộ này có thể nói rằng giải thoát. Nhưng mà sao lại còn dục? Bởi vì ly dục ly bất thiện pháp, do ly dục sanh hỷ lạc, cho nên còn cái hỷ lạc, đức Phật mới nói còn hỷ lạc làm sao mà giải thoát được. Nhưng đức Phật lại lập trở lại một lần nữa đức Phật nói ly dục, do ly dục sanh hỷ lạc. Do ly dục mới sanh hỷ lạc. Cái dục lạc này phải cho ly. Còn cái dục lạc kia là mình chạy theo dục lạc, nó có cái dục đó nữa. Còn cái này do ly dục mà nó có cái dục lạc. Thì cái này có lẽ đạo lộ này là giải thoát.

Đức Phật suy ngẫm như vậy. Nhưng đức Phật suy nghĩ đến cơ thể của mình bây giờ suy yếu quá đứng dậy không nổi thì làm sao tu nổi cái pháp môn này. Cho nên đức Phật mới nói thôi bây giờ ta trở lại đời sống ăn thô thực. Tức là ăn ngày một bữa, rồi ăn có đồ ăn đồ uống, đức Phật gọi là thô thực. Còn ăn mà ví dụ như ăn bảy hạt mè hoặc là ăn cháo đậu xanh đậu đen đò này kia mà ăn một muỗng một ngày ăn một muỗng vậy đó. Cho nên ăn ít quá cho nên vì vậy mà cơ thể đức Phật suy yếu. Và bây giờ suy yếu như vậy thì làm sao? Cho nên đức Phật mới xin mấy cái chú mà chăn dê, chăn bò mấy chú cúng dường cho đức Phật để đức Phật hồi tỉnh lại mà tu tập. Mấy chú đó sẵn sàng giúp đỡ cho đức Phật. Nên khi đức Phật ăn uống lại mạnh khỏe thì các vị tỳ kheo năm anh em Kiều Trần Như thấy đức Phật đã ăn uống như vậy, ăn uống trở lại như vậy. Thì do đó ông này hết khổ hạnh rồi, choi nên ông này không có chứng đạo được. Thôi mình bỏ đi không có chơi chung với ông này nữa.

Cho nên bây giờ còn một mình đức Phật, không có ai giúp đỡ cho mình chỉ nhờ mấy cái chú chăn bò chăn dê này giúp đỡ thôi. Sau đó đức Phật được khỏe rồi đức Phật mới ôm bình bát đi xin. Đi xin mới đi đến cội Bồ đề, từ ở cội Bồ đề đó đức Phật chọn lấy cái chỗ yên tịnh đó mà tu tập. Chỉ có một mình mình mà thôi. Cho nên đến cội Bồ đề đức Phật mới thầy là chỗ này là chỗ lý tưởng có thể ngồi đây tu và mình có thể dùng cái đạo lộ từ cái Sơ thiền này đi đến Tứ thiền từ nay có thể có lẽ là mình sẽ giải thoát được. Từ đó đức Phật mới đến chỗ đó mà chọn cái chỗ ngồi. Rồi chọn chỗ ngồi rồi, rồi mới cái số mà mấy chú chăn bò chăn trâu này đó mới giúp đỡ cho đức Phật. Đức Phật mới phát nguyện: “ Nếu ta không thành đạo, nguyện nát xương dưới cội Bồ đề chớ không đứng dậy”.

(01:16:20) Thì sau khi bình phục được sức khoẻ rồi đức Phật mới bắt đầu, bắt đầu tức là bốn mươi chín ngày dưới cội bồ đề. Trong bốn mươi chín ngày đó có bảy ngày liên tục đức Phật nhập từ Sơ thiền cho đến Tứ thiền rồi hướng tâm đến Tam Minh mà thành tựu đạo giải thoát.

Đó thì một cái bài kinh rất rõ ràng là đức Phật hồi tưởng lại cái đạo lộ trong lúc bé bảy tám tuổi phát giác ra được cái đường đi giải thoát. Và chúng ta bây giờ Thầy cũng từ cái chỗ mà quá là trên bước đường tu tập đường cùng của mình rồi cũng được Hòa thượng Minh Châu nói làm cho Thầy thức tỉnh. Chớ còn lúc bấy giờ thì rất là trách cái Đại thừa là cái pháp mà lớn vĩ đại mà tu không được thì Tiểu thừa mà tu ra cái thứ gì. Cho nên đâu có nghĩ tới cái đều đó. Nhưng mà khi nhớ cái lời của Hòa thượng Minh Châu đó nói rằng nó dìm đạo Phật, nói rằng nó đặt cái tên Tiểu thừa để mà làm cho cái đạo Phật này nó tiêu đi. Do cái nhớ lại những cái lời mà giảng dạy năm xưa của Hòa thượng Minh Châu đó thì làm Thầy tỉnh lại. Biết chừng đâu chừng cái đạo lộ này có thể đưa mình đến cái giải thoát chính chăng. Cho nên cũng là một cái trường hợp như đức Phật ngày xưa, nhưng mà đức Phật khác. Còn Thầy thì trở về với đạo Phật.

Cho nên cái cuộn băng mà Thầy gửi cho Hòa thượng Thanh Từ đó thì các con thấy Thầy đặt cái tên là “Trở về”. Có không các con? Đó thì “Phật Môn Bảo Huấn” là cái cuộn băng đầu. Còn cái “Trở về đạo Phật” là Thầy so sánh giữa Thiền Đông độ với Bốn thiền. Để cho Hòa thượng tỉnh thức được ở cái đường đi mà Thầy đã khoắc khoải trong nội tâm của Thầy rất lớn. Nhưng Hòa thượng không có hiểu được Thầy. Cho nên do vì vậy mà khi mà Hòa thượng viết trong cái cuốn mà “Ba vấn đề trọng đại trong đời tu hành của tôi” đó thì đức Phật có bài bát ở trong Bốn thiền là đức Phật đã tu nhập Bốn thiền. Nhập Sơ thiền do ly ngũ dục nhập được cái Sơ thiền thấy không có kết quả giải thoát cho nên đức Phật bỏ không có tu hành. Mà chính bài kinh Saccaka đức Phật đã hồi tưởng lại cái pháp môn đó. Rồi mình thực hiện để mà giải thoát. Cho đến bây giờ chúng ta cũng đi trở về con đường đó mà thấy được sự làm chủ. Và đồng thời chúng ta thấy cái đường lối mà đức Phật đã tu dạy lại mình thì cái pháp hướng tâm rất là tuyệt vời.

5- NHƯ LÝ TÁC Ý

(01:18:59) Và cái phần mà cô ở đây Thầy chưa có trả lời hết vì quá nhiều. Cho nên Thầy chỉ trả lời những cái quan trọng.

Cô Minh Cảnh hỏi Thầy về cái phần pháp hướng. Pháp hướng tâm ở chỗ mà đức Phật dùng đó là Như Lý Tác Ý. Các con thấy Như Lý Tác Ý. Còn ngoại đạo nó dùng pháp hướng tâm đó như các con thấy các nhà thôi miên. Vậy thì cái pháp hướng tâm của nó, nó sử dụng bằng tưởng chớ không phải bằng ý. Còn Phật dạy thì Như Lý Tác Ý. Cho nên do chỗ xả tâm của chúng ta vì vậy mà tâm tưởng chúng ta nó không còn tưởng dục. Cho nên nó mới thuộc về cái pháp Như Lý Tác Ý nó chơn chánh. Còn không khéo chúng ta không xả tâm mà chúng ta lại dùng cái pháp hướng nó cũng vi diệu, nó cũng có hiệu quả nhưng nó sẽ đưa chúng ta đi bậy. Nó làm chúng ta rối ren cơ thể, nó làm chúng ta muốn chết luôn không phải vừa. Hễ bảo nó nhắc nó cái bắt đầu nó làm theo. Nó làm theo rồi quýnh rồi cái chúng ta nhắc nó nó làm nữa. Nó làm riết rồi chúng ta lúc hơi chúng ta chỉ còn có nước mà chết thôi chứ còn không có còn.

Cho nên thầy Thiện Thuận về đây đó được Thầy dạy cho cái pháp hướng tâm thì ông đã nhập vào cái định tưởng, rồi thì ông ở trong định tưởng ông lại nhắc cái tâm của mình. Ôi thôi cái cơ thể ông sôi lụp bụp lên cũng như là cái nồi cơm sôi, ông hoảng hồn hoảng vía ông không biết làm sao. Cho nên trong lúc đó thì ông còn nước có la làng thôi chứ có gì. Nhờ la mà Thầy xả cho ông ấy. Đó thì các con thấy trong vấn đề dùng pháp hướng nó có tai hại chứ không phải không tai hại. Mà vì nó có hiệu quả chứ không phải không hiệu quả. Ở ngoài đời người ta gọi là pháp ám thị. Ám thị Tự kỷ ám thị. Trong đạo thì đức Phật dạy Như Lý Tác Ý. Chữ Như Lý Tác Ý thì các con biết Tác Ý là cái ý tứ của chúng ta chớ không phải tưởng. Còn nếu không khéo các con dùng tưởng các con sử dụng nó là tiêu. Cho nên ở đây chúng ta sử dụng để mà xả tâm chớ chưa đi vào định được. Khi nào mà xả tâm hết thì chúng ta dùng nó vào định rất dễ. Đó là những cái phần sau này nó sẽ trở thành những cái câu trả lời nó Thầy viết thành văn để cho nó thực tế và cụ thể những cái bài cho nó có cái giá trị sau này. Để giúp cho người ta tu tập. Cũng như trả lời Minh Tông về cái chỗ mà Tịnh Chỉ Hơi Thở với cái hiểu là đình chỉ hơi thở. Tất cả những cái này những cái nguy hiểm rất là nguy hiểm cho cái con đường tu tập theo đạo Phật.

6- LỜI RĂN NHẮC TU SINH

(01:21:37) Bây giờ thì còn những cái phần mà cô Diệu Thành hỏi Thầy đó lần lượt Thầy sẽ trả lời sau vì cái thời gian thì chúng ta cũng không còn có nhiều và hằng ngày thì chúng ta đến gặp thì chúng ta chỉ nói lý thuyết chứ còn cái thực hành thì không có. Cho nên Thầy chỉ muốn cái thì giờ mà gặp các con đó là chỉ dạy cái thực hành hơn là cái lý thuyết suông như thế này. Để ghi lại trong băng để nghe chơi cho nó vui hoặc là viết lại thành sách để cho nó vui chớ nó không có cái thực tế. Còn nếu mà nó cái thực tế thì chúng ta phải đi vào cái thực hành chẳng hạn nào như mỗi ngày mà các con được mà sự hướng dẫn thực hành thì chắc chắn là tiến bộ rất nhanh. Là vì Thầy thì cũng không có thì giờ các con thì cũng không có ai mà kèm để mà hướng dẫn. Cũng như bây giờ mình là người học trò mà được mời cái ông giáo ông đến ổng kèm cho mình học sinh ngữ hoặc toán, thì mình sẽ học giỏi hơn là mình đến nhà trường mình học rồi về đó cứ tự mình làm. Thì đứa nào thông minh thì nó mau đứa nào không thông minh thì nhiều khi nó làm trật nó không đúng. Thì tất cả những cái này là những cái sơ sót rất lớn.

Nhưng mà vì Thầy cũng mong các con đứa nào tu được đỡ giúp giùm Thầy biết bao nhiêu công việc. Vì các con biết hiện giờ đó với cái số thư mà gửi cho Thầy để trả lời đó coi như là gần hai ba chục bức thư mà Thầy mới trả lời được năm mười bức thôi, còn một số rất nhiều. Hỏi đủ thứ chuyện ở trong cái pháp Đại thừa rất nhiều thứ mê tín có, phi đạo đức có, rồi các pháp hành, tu hành cũng rất nhiều. Làm sao mà Thầy trả lời hết. Như cô Diệu Thành hỏi Thầy tu tập thì trong đó có những câu để mà trả lời, nhưng mà những cái câu đó nó cũng nhằm để giúp chúng ta đủ cái niềm tin và cũng giúp chúng ta con đường tu hành cho nó chững chạc hơn, cho nó rõ ràng hơn. Để bước đường đi chúng ta mau hơn. Mà các con nghe những cái gì mà Thầy dạy mà các con cố gắng mà xả được cái tâm luôn lúc nào cũng có một cái tâm hồn vui tươi và an lạc, thanh thản thì lúc bấy giờ mới thấy được cái đạo Phật là thực tế. Mọi cái nó đều là, mọi vật mọi sự kiện ở trên thế gian này đâu có gì mà quý nữa, mà ham mà thích nữa. Mà lại giận hờn phiền não mà phải suy tư lo lắng. Chúng ta chỉ còn có duy nhất là một con đường tu mà thôi.

(01:24:21) Tóm lại nếu các con thấy rằng cái sức tu hành, bởi vì Phật pháp là dành riêng cho những cái người, cái người có ý chí, có nghị lực, có quyết tâm quyết thành bậc thánh. Không phải là những pháp của Phật mà để dành cho những người phàm phu. Vì vậy mà từ cái hạnh sống cho đến những cái thiền định đều là những bậc thánh chớ không thể là bậc phàm phu. Cho nên đọc qua giới luật của Phật các con sẽ thấy đó là tất cả những cái hạnh thánh. Mà muốn làm thánh thì các con đừng có mang tính chất phàm phu ở trong người. Phải bỏ ra thì nó mới làm thánh được. Còn nếu mà thấy mình không thể bỏ cái bản chất phàm phu được thì các con đừng tu cực khổ rồi suốt cuộc đời cũng chẳng ra gì. Chúng ta hãy trở về mà lo lấy cuộc sống nó chưa có muộn với chiếc áo của cư sĩ như cô Thanh Tịnh nè cô Diệu Thành nè, cô Huệ Ân nè, cô Duyên Minh nè. Mấy con đã lỡ xuất gia rồi thì bây giờ dù muốn dù không thì các con cũng phải ráng đi theo con đường này thôi.

Còn riêng các con còn cư sĩ các con thấy rằng cái sức của mình quyết định là chỉ có một đời nay để mà thực hiện cho được cái đạo giải thoát. Nó không khó đâu. Thì các con sẽ bám cho chặt. Nghe lời Thầy dạy cho kỹ xả tâm đừng có giận hờn ai hết, ai nói gì nói, chuyện của ai mình đừng có để ý đến ai làm gì làm, miễn là mình sống làm sao cho tâm thanh thản, an ổn, an lạc không có để một cái gì trong tâm mình dính mắc hết. Thì rất nhanh trong cái thời gian ngắn thì các con sẽ phụ giúp Thầy được rất nhiều việc lợi ích rất lớn. Để Thầy rảnh rang mà Thầy viết cái đạo đức nhân quả. Cái đạo đức không làm khổ mình. Còn ngồi lại soạn cái này. Còn bây giờ ngồi đây mà trả lời ba cái vấn đạo này mãi chắc là mất thời giờ rất lớn không viết được không soạn được cái đạo đức, cái đạo đức rất quý của con người trong hiện tại.

Các con thấy mình không đủ sức thì các con nên trở về gia đình sớm chừng nào tốt chừng nấy, để làm gì? Để mình sống một cuộc sống người cư sĩ có đạo đức tốt hơn là tu sĩ, vì tu sĩ khó lắm không phải dễ. Mà chiếc áo cư sĩ của các con nó không có khó khăn gì, không ai cười. Bởi vì các con chưa có cạo đầu. Tôi chỉ là thực nhân đến để tập thử được thì tôi tiến tới tu mà thấy khó quá thì tôi lùi, có gì đâu. Nhưng mà lỡ các con đã cạo tóc rồi. Mà bây giờ để tóc trở lại thì người ta cười các con thế này thế khác thì các con hãy ráng cố gắng. Đó là cái bắt buộc các con phải gắng. Còn cái người cư sĩ như các cư sĩ các con thì nó không có, không có sợ hãi gì. Được thì tôi tiến tới. Đừng có lỡ dở dở chết dở sống như Thầy. Đời bây giờ ra thì cũng không được, mà đạo thì cũng không biết pháp nào mà tu. Còn bây giờ đời thì ra nó cũng muộn mà đạo thì nó khó lắm. Vì đời sống rất khó. Đời sống thánh mà. Ai chửi không giận mới là thánh chớ. Thánh gì mà một chút mình cũng rên cũng la. Như cô An tịnh chẳng hạn té một chút có chết đâu mà rên mà la. Đừng có sợ. Ôi thôi cái thân này thân uyển giả, cái thân này là thân tứ đại vô thường chết bỏ, nếu mà bỏ cái thân này thì tao có cái thân thánh, không phải sướng sao? Chấp chi cái thân này phải khổ sở về cái té cái đau nhức. Mặc đau nhức gì đau nhức cái thân này là thân bất tịnh. Thân này là cái thân, khi mà mình bị cái trường hợp vậy thân này là thân bất tịnh nè, thân này là thân đất nước gió lửa hợp lại nè, hợp thành nè có cái gì mà của mình đâu mà sợ. Chết sớm chừng nào tao thành thánh chừng nấy. bỏ cái thân này thì tao tiếp nhận cái thân mới. Cái thân thánh là thân thánh nào? Thân thánh là tâm bất động, tâm không dao động trước các thọ thì đó là thân thánh chứ thân thánh nào. Các con thấy rõ.

(01:28:37) Bởi vì giải thoát nó đâu có phải là các con hô phong hoán võ hoặc là các con ngồi thiền nhập định, nín hơi thở không thở là gọi là thánh. Đâu phải thánh cái chỗ đó. Thánh là cái chỗ không dao động tâm của mình. Thì cái thân thánh là cái thân không dao động.

Thì bây giờ cái thân này đâu phải thân thánh. Cho nên khi gặp trường hợp nào chúng ta xem thường nó, chết bỏ. Có ai ở trên đời này sanh ra có mang cái thân này không chết bao giờ đâu. Thì vừa nghe cái đám ma ở phía dưới, vừa kèn trống vừa ngưng thì chỉ có một đêm sáng hôm sau thì chiều thì lại nghe cái kèn trống, mấy ông thầy chùa tụng niệm ở đầu trên. Rồi đây không biết đầu trên xong rồi không biết đầu nào. Thì như vậy rõ ràng là mang cái thân này là đâu có người nào mà khỏi chết đâu. Thế mà chúng ta sợ là sợ cái gì? Mạng này chết là khỏe. Thầy cũng mong rằng bỏ cái thân tứ đại của Thầy đi thì Thầy có một cái thân thánh. Bởi vì tâm Thầy có dao động đâu không phải có cái thân thánh sao? Cái thân thánh nó sẵn sàng nó chờ, bỏ cái này thì nó tiếp nhận cái kia. Vậy mà mình tiếp nhận cái thân thánh lại không ham. Lại đi còn ham cái thân phàm phu này làm gì? Các con hiểu không?

Đó như bây giờ con thấy như cô Huệ Ân đó già yếu tám mươi tám mươi mấy tuổi rồi. Đi đứng nó không vững vàng, sức khỏe nó không nhiều. Quét một chút xíu là nghe mệt. Rồi nghe tức lói nữa nó khổ sở ghê gớm không. Vậy thì bỏ đại cái thân này đi để rồi chúng ta có cái thân thánh nó không đau không bệnh, không tật gì hết. Như vậy không phải sung sướng sao?!?

Cho nên ở đây theo Thầy thiết nghĩ các con hở chút nào đừng có lo gì. Ví dụ như ai có thấy hỏi. Bữa đó bị bệnh, bị đau, bị ho, bị gì đó. Thì nói sơ sơ mà có gì đâu. Thì ai có lòng tốt thì chạy mua thuốc, thì cũng vì tình, cái lòng tốt đó mình uống cho người ta vui chớ sự thật ra mình có cần thiết gì cái thân này. Các con hiểu chỗ đó không?

Cho nên đối với Thầy vì cái tình của cô Út phải chạy đi mua thuốc cho Thầy không lẽ bây giờ bỏ cái lòng, chớ Thầy đâu có bao giờ mà Thầy nói cô Út mua cho Thầy cái viên thuốc đó không. Không bao giờ Thầy bảo, cảm thọ mặc thọ kệ nó. Nhưng mà Thầy có chết chỗ nào đâu. Nợ thế gian nó còn mà làm gì chết. Lỡ nó chết nó cũng chết lâu rồi. Nhưng mà cái nghiệp nợ của mình nó còn thì mang cái thân này đi đến phút cuối cùng.

(01:31:04) Như cô Diệu Thành hỏi: Như Thầy không ngồi thiền nhập định rồi tới chừng chết rồi làm sao Thầy ngồi thiền nhập định được?

À như vậy rõ ràng là cô Diệu Thành cô Minh Cảnh không có hiểu thiền định. Tưởng là bây giờ ngồi thiền nhập định đừng có bỏ ngày nào hết chừng mình chết mình cũng ngồi mới được. Chớ còn mình bỏ mình không ngồi chắc chắn là mình ngồi lại nó đau nhức chân chịu sao cho nỗi. Chắc chắn là chết làm sao ngồi nỗi. Hiểu như vậy là sai!

Bởi vì cái đạo lực nó không phải ở chỗ ngồi thiền. Mà ở chỗ cái ý của chúng ta nè. Điều khiển nó. Bảo cái thân ngồi chết là nó chết. Bảo cái thân sống là nó sống. Cái chỗ đó là cái chỗ đạo lực của chúng ta rồi. Mà tu có cái đạo lực thì cần gì phải ngồi. Muốn ngồi mấy tháng thì nó ngồi, muốn ngồi mấy năm nó ngồi. Mà không muốn ngồi thì bây giờ không gì hết nó đâu có sao. Cho nên ở đây cần thiết ở chỗ đạo lực là chúng ta luyện được cái đạo lực. Chúng ta có pháp luyện, tức là chúng ta có pháp hướng Như Lý Tác Ý. Để tạo thành cái lực đó. Chúng ta ra lệnh nó. Thì bắt đầu các con thấy, tại sao các con hướng tâm nhắc nó có hiệu quả, nó không phải lực sao? Nếu nó không hiệu quả làm sao có lực?

Vậy thì cái lực này nó do tưởng hay hoặc là do ý thức của chúng ta? Nếu do ý thức thì chúng ta làm chủ theo ý của chúng ta. Mà do tưởng thì lúc chúng ta bảo được lúc chúng ta bảo không. Các con thấy rõ cái đạo lực của tưởng đó thì lúc nó được lúc nó không. Còn cái đạo lực của ý thức đó thì lúc nào cũng được. mà cái người đã làm chủ thì phải làm chủ lúc nào cũng được. Chớ đâu phải là làm chủ không được.

Còn riêng về phần cô Út thì cô Minh Cảnh không thấy cô Út ngồi thiền Thầy có khuyên cô Út cố gắng ngồi thiền, cô Út nói con tu mà xả được tâm thì con cũng an ổn rồi, chết sống thì mặc nó con chẳng cần lo, nó chết thì con chết mà nó sống thì con sống, khỏi cần lo gì hết. Nghĩa là con làm sao con sống ở đời con làm sao cho cái tâm mình cho tốt biết giúp người làm tất cả những cái việc gì cho mọi con vật, mọi cái con đều thương yêu như mọi cái, là con thấy con mãn nguyện con rồi. Còn cái làm chủ sanh tử con không có cần thiết cái điều đó. Tới chừng nó chết thì cái lòng tốt của con, con cũng sẽ được cái thân thánh như Thầy khỏi cần. Còn bây giờ Thầy có làm chủ thì Thầy cũng được như vậy thôi. Chứ Thầy có hơn con được đâu, bây giờ con ngồi thiền làm gì? Phải không? Con hiểu không? Bây giờ cái tâm con tốt thì tức là cái thân thánh của con nó sẵn rồi. Thì con cần gì mà phải làm chủ cái này. Tới chừng con chết thì con cũng có thân kia. Mà Thầy có làm chủ nó đi rồi Thầy cũng có cái thân kia chứ Thầy mang được cái thân khác nữa sao. Phải không? Cho nên tu chi cho mắc công. Ở đây mình xả cái tâm cho nó sạch thiệt sạch. Thì tức là mình biết được cái tâm thánh của mình rồi. Thì cái thân thánh mình sẽ có.

Cái luận của cô Út cái luận vậy thì Thầy đâu có cãi chỗ nào được. Các con thấy không? Cho nên cô đâu có cần phải làm chủ sinh tử đâu. Nhưng mà vì Thầy vì cái duyên Phật pháp, Phật đã làm chủ được cái sống chết thì Thầy cũng phải nói làm chủ chứ cái này đâu có cần gì. Chỉ có cái tâm của chúng ta mà thôi. Cho nên trong cái lời tựa này Thầy nói đạt được cái tâm là mãn nguyện rồi. Tâm không giận hờn phiền não ai hết. Tâm không tham ăn tham uống không tham tiền tham của. Thì cái tâm này là tâm thánh rồi. Mà tâm thánh rồi thì khỏe. Thì cái này quá dễ rồi các con nhận xét quá dễ rồi chứ có gì đâu. Chỉ cần cái mà người ta chửi mắng, mà người ta nói gì nói mình như cục đất là được rồi. Có bây nhiêu đó là các con đã thành thánh rồi. Thì cái thân thánh của các con nó sẽ ở bên đó. Bỏ cái thân này là các con sẽ nhập vào thân thánh. Thầy nói như vậy bây giờ các con có cần gì, các con chỉ biết cái tâm các con không dao động thì các con đã biết rằng đã ở trong cái thân thánh rồi chứ còn cái gì đâu. Nó là một cái chỗ giải thoát hoàn toàn các con. Chớ còn đòi hỏi ở cái gì nữa. Người ta nói gì nói mình không giận, không hờn không phiền não hết. Thì cái đó là thánh rồi, tâm thánh rồi mới được như vậy chứ còn phàm phu được như vậy sao.

(01:34:55) Đó, thì hôm nay nói hết để rồi trên cái bước đường tu tập để cho các con biết. Vậy thì bây giờ các con chia ra. Bây giờ đó đứa nào mà tu được nỗ lực tu, mà tu không được thì các con chuẩn bị sửa soạn mình về một cái đời sống cư sĩ hẳn hoi, Thầy sẽ gửi cho những cái bộ đạo đức giải thoát để mà sống cuộc đời sống có đạo đức. Còn những người nào quyết làm thánh. Thánh thì không phải khó mà cũng không phải dễ. Mà chỉ có quyết tâm thì sẽ làm thánh được. Bởi vì một ông thánh không thể nào mà sống như phàm phu được. Còn các con mà lỡ cạo tóc rồi thì các con chỉ còn con đường duy nhất là các con phải đi đến. Chớ các con lùi thì các con trở về mà để tóc lại thì người ta cười lắm đó. Thầy nói chịu không nỗi đâu tâm bởi vì tâm phàm phu các con không phải thánh. Người ta cười các con chỉ còn nước mà trốn đi xứ khác đó. Thầy nói như vậy…​..

(01:35:51) Cạo tóc để làm gì? Để các con còn nước đi tới chứ không đi lui. Còn Thầy ở đây rộng rãi có đường lui mà có đường tới. Cho nên Thầy nói tu được thì cứ tu mà không được thôi đừng ép. Bởi vì con đường này nó lỡ thì các con phải nỗ lực tới tận cùng. Thầy tin rằng ví dụ như bây giờ cô Huệ Ân bây giờ cô không làm chủ được sự sống chết đi mà cái tâm cô tâm thánh. Thì cô bỏ thân này cô sẽ ở trong thân thánh. Cô sẽ thành thánh. Không có chạy đường nào hết, không có trật đường nào. Nghĩa là cô không giận, không lo, không thương, không biết đứa nào. Cô thản nhiên khỏe thì xách cây chổi quét chơi, mệt thì ngồi nghĩ, đau nhức thì cô Út cho thuốc uống khỏi cần lo gì hết. Kệ mặc đau mặc tình nó làm gì làm. Không có lo gì hết. Chỉ các con đừng có lo giận hờn, phiền não, tham muốn cái gì hết. Xả hết tất cả hết thì đó là mình…​

Các con thấy dễ lắm có nhiêu đó thôi. Bây giờ ví dụ bây giờ nhìn chung coi đứa nào thánh mà đứa nào không thánh thì biết chớ. Nghĩa là tâm mấy con không còn giận hờn nữa thì thành thánh. Dễ dàng. Thì thánh đâu còn tham sân si, đâu còn giận hờn. Còn phàm phu thì còn giận hờn, tham sân si. Còn thích ăn thích uống, còn thích ngủ chứ còn thánh đâu có. Thì Thầy nói như vậy để cho các con biết. Ví dụ như bây giờ Thầy làm việc nhiều Thầy mệt nhọc. Thầy chỉ cần ngồi lại trong mười phút, một giờ đồng hồ là phục hồi cái sự mệt nhọc của cơ thể của Thầy. Để cho lấy lại sức khỏe làm việc tiếp tục tới. Cho nên cái tâm mà nó an ổn rồi. Như các con biết cô Út đâu có ngồi thiền cô gì đâu. Nhưng mà cái tâm mà xả được cô làm việc cái năng lực cô làm việc thấy cũng kinh lắm. Phải không các con thấy cái tâm xả thôi mà cái thân nó làm việc kinh lắm. Mà đối với cái thân cô Út các con biết cái thân kể như cái thân bệnh hoạn. Cái thân như rệp. Mà thế mà vẫn làm việc mạnh mẽ như thế. Chớ không phải là yếu nữa. Còn đối với Thầy coi vậy…​

(01:37:45) Cô ở trên Đà lạt rồi như mấy cô ở ngoài Biên hòa với ông thầy bữa đó có đến Thầy đó. Thấy già cả như vậy tu Tịnh độ rồi bây giờ muốn qua đây tu. Mà cũng giữ gìn giới luật vậy muốn nhận ông về để tu lắm nhưng mà sợ không biết ông làm nỗi không rồi Thầy phải gánh thêm một gánh nữa. Một người là mình thấy có một cái trách nhiệm. Như bây giờ mấy con bám theo Thầy, Thầy có trách nhiệm. nhưng mà nghe lời Thầy mấy con mà về Thầy hết trách nhiệm Thầy khỏe lắm. Nghĩa là coi như là Thầy có thể mà Thầy ngồi thiền nhập Diệt thọ tưởng định nhập một năm hai năm ba năm được không ở ngoài không lo. Bởi vì ngồi trong đó như gốc cây rồi thì một vài năm nó khỏe re rồi. Thì còn bây giờ mấy con mà như vậy Thầy không ngồi được đâu. Mặc dù Thầy nói Thầy ẩn bóng nhưng mà nó cũng là cái nỗi khắc khoải không thể nào bỏ mấy con ở ngoài này. Cho nên coi vậy chứ rồi nó cũng đang lo nhưng mà làm sao đừng có tiếp khách nhiều sợ mình tiếp mình nói người ta nghe nó ham tu rồi người ta theo rồi mình mang cái trách nhiệm quá nặng. Khó là khó chỗ đó. Cho nên cứ tìm cách từ chối từ chối tránh thôi chớ không ham.

HẾT BĂNG

Pháp Âm - 1998 - GIỚI LUẬT 03 - THIỀN XẢ TÂM

GIỚI LUẬT 03 - THIỀN XẢ TÂM

GIỚI LUẬT 03 - THIỀN XẢ TÂM

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Thời gian:

Thời lượng: [1:10:55]

Người nghe: Tu sinh

1- THIỀN XẢ TÂM

(00:01) Trưởng lão: Hôm nay, được cái duyên con về đây trong cái thời gian ngắn, 5, 6 ngày, 7, 8 ngày để rồi thưa hỏi về cách thức tu tập, trình bày cho Thầy nghe coi cái sự tu tập như thế nào để Thầy kiểm soát lại, hoặc là Thầy xem xét lại. Tu hành đúng thì nó mới có kết quả, mà tu hành không đúng thì nó sẽ đi lạc đường. Trong cái phần hiện giờ thì các cái pháp hành tu tập thì tất cả Tăng, Ni cũng như cư sĩ hiện giờ thì tu hành đã quen cái lối tu tập theo cái thiền định ức chế tâm mà không có lo xả tâm. Cho nên tu riết, tu mãi mà cho đến khi được cái tâm tĩnh lặng mà cái tâm xả nó không hết, tức là cái tâm tham - sân - si phiền não nó không hết, cho nên nó làm lệch cái con đường của Đạo Phật, nó không có đúng tính cách mà tu tập theo Đạo Phật.

Cho nên Đạo Phật chỉ tu tập tĩnh giác hay là tỉnh thức, để rồi nhân cái tâm tỉnh thức đó mà xả cái tâm của mình, tức là xả cái tham, sân, si phiền não làm cho cái đời sống của mình nó không còn đau khổ nữa, không còn giận hờn, phiền não. Chứ không phải đi vào trong cái sự tĩnh lặng, hoặc là trong cái sự im lặng không có vọng tưởng, để cái trạng thái đó để nói là gọi rằng định, rồi mới làm chủ được cái tâm tham - sân - si của mình. Cái đó không phải.

Chính vì cái sai đó mà từ bao nhiêu thế kỷ nay người ta theo tu con đường của Đạo Phật mà người ta không có làm chủ được cái sự sống chết của người ta là do cái chỗ sai đó đi vào cái thiền ức chế tâm. Cho nên hiện giờ thì nhờ cái công phu tu hành, Thầy đã tìm thấy được những cái pháp môn, nó có những cái bí quyết thành công ở trên cái sự giải thoát của Đạo Phật mà từ xưa đến giờ thì một số các bậc tôn túc đã triển khai cái giáo pháp mà đi nhầm vào những cái kinh sách phát triển của Đại Thừa, cho nên triển khai những cái pháp ức chế tâm mà không xả tâm.

(2:20) Cho nên hiện giờ thì cái duyên may trong cái thời đại này, Thầy đã đọc lại trong những kinh sách Nguyên Thủy, rồi cũng thực hiện cho cái bản thân của mình trong những cái nỗi niềm khắc khoải, sau cái thời gian tu tập quá dài 9, 10 năm trời. Nói 9, 10 năm trời đó là những cái năm mà nhập thất, còn cái khoảng thời gian từ 8 tuổi mà xuất gia cho đến 40 mấy năm trời, thì cái nỗi niềm khắc khoải trong lòng của một người tu sĩ mà quyết tâm theo Đạo Phật, cho đến giờ phút coi như hơn nửa đời người mà không tìm thấy được cái sự giải thoát, cho nên cái sự đau khổ nó dằn vặt rất lớn.

THẦY TÌM THẤY PHÁP XẢ TÂM

Do từ đó thì Thầy đã nỗ lực theo cái đường lối Nguyên Thủy. Cũng nhờ những cái kinh sách Nguyên Thủy mà Hòa thượng Minh Châu đã có công dịch lại, rồi tìm thấy được cái pháp Xả Tâm, từ đó thấy cái tâm mình nó được an hơn, và giải thoát được. Cho nên hiện giờ thì Thầy triển khai lại cái pháp Xả Tâm.

Mười bảy năm trời, mình đem cái pháp này ra mà giảng dạy, nhưng vì sợ đụng chạm với bậc Thầy tổ của mình cho nên coi như là Thầy gần hết cái đời người, năm nay là 60 mấy rồi. Thì năm rồi Thầy định là Thầy sẽ ẩn bóng, cho nên Thầy mới giảng cái giáo án, chứ còn cỡ mà chưa ẩn bóng thì chắc là Thầy không có giảng giáo án ra. Vậy mà năm nay thì coi như hoàn toàn chúng ta sẽ tập luyện ngay vào những cái chánh pháp mà Phật đã dạy, tức là đi vào cái sự xả tâm hơn là đi vào cái sự ức chế tâm.

(3:55) Vì trải qua 15, 16 năm trời mà Thầy tùy thuận, để rồi sửa dần cho quý thầy từ cái giới luật cho đến cái pháp ức chế tâm để sửa dần, sửa dần, nhưng mà quý thầy vẫn còn tin tưởng cái chỗ ức chế tâm mà không có chịu nghe lời Thầy, cho nên hiện giờ thì Thầy rất là mạnh dạn. Thà là mích lòng hơn là để cho bao nhiêu người người ta bỏ hết cuộc đời tu hành mà chẳng có nếm được cái mùi vị giải thoát chút nào thì rất là đáng tội, cho nên giờ phút cuối cùng này thì Thầy không có còn nương tay, cho nên Thầy nói thẳng, nói mạnh. Vì vậy ai có duyên thì nỗ lực mà tu đúng, mà không có duyên, còn tin theo Đại Thừa thì cứ theo Thiền ức chế tâm thì Thầy không có cản trở và Thầy cũng không có nói gì hết, nghĩa là ai có duyên thì tu sao cũng được.

Nhưng khi đã có tâm quyết theo Đường lối của Đạo Phật - Thiền Xả Tâm - thì những gì mà Thầy nói cố gắng mà ghi khắc để mà tu tập cho đúng, để xả tâm cho thật rốt ráo.

Vì cái lòng tin của mình tin thật sâu đối với Phật pháp, biết là con đường Thiền Xả Tâm trực tiếp ngay liền để xả cái tâm của mình cho hết tham, sân, si để cho hết đau khổ thì mình mới có nhiệt tâm, mới có xả được. Còn nếu mình bán tin, bán nghi, cho nên vừa tu ức chế tâm, rồi vừa xả tâm theo cái kiểu nửa tin, nửa không tin, do đó nó cũng chẳng đi đến đâu. Cho nên ở đây chúng ta phải tin chắc rằng chúng ta sẽ thực hiện con đường của Phật dạy xả tâm, thì sẽ đưa đi đến cái chỗ giải thoát hoàn toàn. Thì cái lòng tin như vậy chúng ta mới nhiệt tâm hằng ngày mà chúng ta dùng cái pháp hướng mà nhắc.

Chứ còn chúng ta không tin thì chúng ta ngồi yên lặng rồi chúng ta cứ lo ở trong cái trạng thái yên lặng mà không có hướng tâm để xả, thì cái thời gian đó nó làm cho chúng ta mất rất nhiều, nhiều cái thời gian. Vì chúng ta không xả, mà ngồi tìm cái an lạc, cái sự tĩnh lặng cái sự yên lặng, chứ không có lo xả cái tâm thì nó làm cho cái hướng của chúng ta nó lệch đi, rồi khi nào nó có những cái trường hợp, cái hoàn cảnh thì chúng ta mới chịu xả tâm thì cái đó là một cái sai.

TRÁNH NÉ CÁC PHÁP LÀ SAI

(6:14) Thầy xin nhắc lại một lần nữa, Thầy xin nhắc lại chung trong Chúng để thấy rất rõ:

Đương nhiên là trong những cái giờ phút mà từ lâu đến giờ mà chúng ta tu theo con đường Thiền Đông Độ, cũng như là thiền Đại Thừa, thì khi mà chúng ta ngồi, thì chúng ta lo chúng ta giữ cái tâm nó không vọng tưởng, tức là bằng cái pháp môn như Sổ Tức, Tùy Tức, hay hoặc là các pháp Tri Vọng hay là những pháp khác như Niệm Phật đều là cái mục đích giữ cái tâm không có niệm vọng tưởng cho đạt Nhất Tâm.

Thì do đó là cái loại thiền đó nó thường thường là nó không có xả tâm. Nó không xả tâm như vậy thì cái thời gian đó chúng ta sẽ bị mất đi, cái thời gian ngồi yên lặng đó nó sẽ mất đi, nó không có kết quả cho cái mục đích chính là chúng ta tu tập để làm chủ, nó lại đi vào một cái trạng thái tĩnh lặng, nó làm cho chúng ta mất cái thời gian.

Do vì vậy thì chúng ta quen đi, rồi chúng ta chấp nhận nó, rồi chúng ta tu tập ngày ngày, đêm đêm chúng ta ngồi thiền chúng ta tu tập ức chế cái tâm như vậy. Rồi hằng ngày thì chúng ta sống cũng bình thường, ăn uống cũng phi thời, cũng không đúng cách giới luật của người tu sĩ nữa, rồi cũng vui chơi, rồi cũng này kia nọ. Nhưng cái giờ thì chúng ta cũng ngồi thiền, cũng tu tập, cũng đủ cách, rồi sinh hoạt cũng bình thường.

Nhưng đến khi có hữu sự gì đó thì chúng ta lại quán, suy tư, rồi chúng ta nói là chúng ta xả tâm, nhưng sự thật khi có chuyện làm cho chúng ta buồn giận, phiền não hay tham muốn hay có sự gì lo lắng, thì chúng ta quán thấy các pháp đều là như mộng, như huyễn, nó không thật để chúng xả nó, để chúng ta đừng có phiền não, đừng có giận hờn. Đó là cái lối của Đại Thừa dạy chúng ta thấy các pháp “như mộng, như huyễn”.

(8:01) Nhưng mà trong khi có hữu sự, có chuyện thì chúng ta mới thấy nó là như mộng, như huyễn, nhưng mà khi mà nó không có chuyện gì, nó bình thường không có gì, tâm chúng ta buồn phiền não thì chúng ta ngồi thiền thì chúng ta lo ức chế vọng tưởng của chúng ta, vọng tưởng mà thôi. Đến khi có chuyện gì thì chúng ta lại thấy nó như mộng, như huyễn, hay là “xem sáu trần như hoa đốm giữa hư không”, thì đó là cách thức của các pháp mà từ lâu chúng ta đã tu, cho nên coi như là gặp cảnh, đối cảnh, gặp cảnh mà làm chúng ta đau khổ, phiền não thì chúng ta tránh né bằng cái pháp môn, thấy các pháp như mộng huyễn, thấy “sáu trần như hoa đốm giữa hư không”, cách thức như vậy gọi là chúng ta tránh né các pháp, chứ không phải xả.

Bởi vì, vốn khi mà tâm chúng ta bình thường thì ai cũng hiểu rằng trong tâm chúng ta còn giận hờn, tham muốn chứ chưa phải hết. Bởi vì mình là con người sinh ra thì mình mang theo con người của mình là cái tâm tham, sân, si phiền não ở trong đó rồi, cho nên chúng ta biết chắc chắn là chúng ta sẽ có tham, sân, si chứ không phải không. Vì vậy nó bình thường nó không tham, không sân, không si. Nhưng chúng ta cũng phải có cái pháp tu để xả nó, chứ không phải là chúng ta ngồi để mà cho hết vọng tưởng gọi là xả.

Nếu xả hết vọng tưởng rồi, mà sau này sao chúng ta còn tham, sân, si? Có nhiều người ngồi một tiếng, hai tiếng không vọng tưởng mà vẫn còn tham, sân, si, cái đó là không phải thiền xả tâm, mà là thiền ức chế tâm. Với những năm tháng và cái thời gian dài mà các bậc tôn túc, các vị tổ của chúng ta đã tu hành như vậy, họ đã từng niệm Phật, lần biết bao nhiêu sâu chuỗi để không tạp niệm xen vào trong câu niệm Phật, thế mà cũng không được xả tâm.

Hôm nay, chúng ta biết được con đường của Đạo Phật là từ kinh Nguyên Thủy, còn kinh A Hàm thì nó cũng là kinh Nguyên Thủy, nhưng mà vì các tổ chúng ta dịch viết ra, cho nên có nhiều thêm thắt rất lớn trong đó, làm cho nó lệch lạc cái ý của kinh Nguyên Thủy. Nhờ Hòa thượng Minh Châu dịch cái bộ kinh Nguyên Thủy từ các tu sĩ Nam Tông đem về đất nước Việt Nam chúng ta.

CÁCH THỨC XẢ TÂM

(10:09) Rồi đọc lại thì chúng ta thấy rõ ràng là bắt đầu vô tu tập thì tỉnh thức, từ tỉnh thức đó thì bắt đầu ở trong cái sự tỉnh thức đó, vừa tỉnh thức là từng một hơi thở, hai hơi thở, hay là vừa tỉnh thức trong những hành động của chúng ta thì ngay liền chúng ta đã có cái phương cách xả tâm liền, nhắc tâm, quán tâm, xả tâm liền. Chứ không có để tâm của mình trống rỗng, không có để tâm của mình yên lặng, không có để tâm của mình hoàn toàn tỉnh thức một cách là vắng lặng.

Cho nên do vì vậy mà chúng ta thấy được cái phương pháp của Phật dạy. Và đồng thời thì chúng ta tìm ra được cái pháp Như Lý Tác Ý, tức là pháp hướng tâm, dẫn tâm của mình để cho mình xả tâm, cách thức rất rõ ràng, cho nên luôn luôn kèm theo cái Như Lý Tác Ý để mà tác ý ra mà xả tâm, đó là chúng ta đã trở về với pháp môn của Đức Phật, chúng ta đã thấy được cái đường lối tu tập nó cụ thể và rõ ràng giúp cho tâm chúng ta giải thoát được, không còn giận hờn, tham muốn, phiền não hoặc là đau khổ, hay là nói chung là tất cả những cái sự đau khổ của tâm hồn của con người thì chúng ta lần lượt chúng ta sẽ xả hết, đó là cách thức tu như vậy.

CHÁNH NIỆM

Cho nên hằng ngày chúng ta ngồi tu chúng ta cũng xả trong 1 phút, Thầy nói đây là 1 phút ngồi vừa nhiếp hơi thở, vừa đi kinh hành, rồi vừa ăn cơm, đều là nương vào sức tỉnh thức của hành động đó mà phải xả tâm, chứ không phải ăn cơm biết ăn cơm, rồi cứ biết ăn cơm hoài mà không cần lo xả tâm thì nó cũng không đúng, bởi vì đó là chỉ tỉnh thức mà, chứ nó không có được ở trong Chánh Niệm.

Vì cái Chánh Niệm, tức là nhắc cho chúng ta xả cái tâm để trở về với cái chánh niệm, cái Chánh Niệm là cái niệm không có đau khổ, không có giận hờn, phiền não, cái đó gọi là Chánh Niệm. Chứ không phải là chúng ta ở trong cái niệm hơi thở gọi là chánh niệm, mà nương cái niệm hơi thở để xả cái tâm của chúng ta, làm cho cái tâm chúng ta trở về cái Chánh Niệm. Mà cái Chánh Niệm thì nó không phải tà niệm, cho nên nó thuộc về thiện pháp, không phải ác pháp. Vì ác pháp nó sẽ làm cho tâm chúng ta đau khổ, giận hờn, phiền não. Còn thiện pháp thì nó làm cho tâm chúng ta an lạc, thanh thản, hạnh phúc, giải thoát, đó là thiện pháp.

(12:08) Ở đây thì Thầy xin nhắc lại nó kỹ như vậy, cho nên được cái duyên mà về đây vì sau cái thời gian có trình cho Thầy qua một số vấn đạo, hỏi cách thức tu hành, rồi cũng biết nghe lời Thầy khuyên, sống hòa hợp với Chúng, tạo cái cách thức cho cái hoàn cảnh, để cho nó thuận tiện cùng mọi người cùng sống, cùng tu, cùng tập, không có làm chướng ngại tâm của nhau, thì cách thức đó là cách thức quyết tâm tu giải thoát. Còn nếu mình vì cá nhân của mình, mình muốn tìm theo cái sự ham thích của mình, mình muốn chạy theo cái sự yên lặng, cái sự mà mình lo cho cá nhân của mình thì cái đó nó không phải là con đường lối của Đạo Phật.

Đường lối của Đạo Phật vừa tu cho mình mà cũng vừa làm cho vui lòng người, mà chính làm cho vui lòng người tức là tùy thuận người, chính lúc đó là lúc mình tu rất nhiều xả tâm. Còn nếu mà mình cứ lo cái tâm của mình, mình thích cái gì mình làm theo nó, thì đó là mình nuôi dưỡng cái tâm tham đắm, cái sự ham thích. Mặc dù mình tham đắm cái sự tu, nhưng mà sự tu của mình nó vẫn là cái tham đắm chứ không phải không tham đắm, nhưng mà mình tùy thuận những người khác, để mà mình xả cái tâm mà ham thích mình đó.

Không phải là, thí dụ như mình thích ăn, thích ngủ hay hoặc là thích dục lạc, thích nhà lầu, xe hơi gọi là tham, mà mình cũng tham tu cũng là cái tham nữa, nghĩa là mình muốn tu cho mau, cho thành Phật đó là cũng tham nữa, bởi vì cái đó nó còn lòng tham, cho nên vì vậy mà mình tùy thuận, mình xả tâm để cho mình xả cái tham, dù cái tu đi nữa cũng là cái tham của mình, mình xả. Nhưng mà chính xả đó là tu. Chứ không phải cái chỗ mà mình quyết tâm mình tạo cho cái hoàn cảnh cho vừa ý mình để cho mình ngồi trong thất mình tu, hoặc là một cái hoàn cảnh nào ai cũng làm cho mình được yên ổn để mình tu, thì chắc chắn là cái điều đó là không phải xả tâm. Mà, chính mình muốn tạo cho mình một cái cảnh vừa ý thích của mình, tức là nó vừa với cái lòng ham muốn của mình để cho mình thỏa mãn sự ham muốn đó, mình thấy nó được an ổn ở trong cái sự thỏa mãn đó, mình cho đó là được giải thoát, được theo cái ý muốn của mình thì nó không phải.

2- ĐỨNG LẠI THÌ CHÌM XUỐNG, TIẾN TỚI THÌ TRÔI DẠT, CHỈ CÓ VƯỢT QUA

(14:17) Cái con người tu theo Đạo Phật phải đứng ở trên cái lập trường rất vững là phải vượt qua, cho nên cái câu kệ của Đức Phật ở trong kinh Trung Bộ, Phật nói dạy chúng ta: đứng lại thì chúng ta chìm xuống, nếu mà chúng ta đứng lại mà chúng ta không vượt qua, chúng ta không đi tới, thì chúng ta sẽ bị chìm xuống.

Thí dụ như bây giờ cuộc đời chúng ta nó sanh ra như vậy, thì chúng ta chấp nhận như vậy tức là chúng ta luôn luôn bị chìm xuống ở trong những cái lực của nó chứ chúng ta không có vượt ra được, thì càng lúc chúng ta càng khổ.

Như những người bây giờ không biết Phật pháp, không biết đường lối tu tập, họ chấp nhận cuộc đời của họ sanh ra như vậy rồi họ làm ăn như vậy, rồi họ chạy theo danh lợi như vậy, nghèo thì họ nỗ lực họ tìm mọi thủ đoạn, mọi gian hùng của họ để họ sống lên trên cái sự ăn, làm giàu của họ bằng cách gian xảo. Còn cái người giàu có thì họ cũng thỏa mãn ở trong sự giàu có và tích lũy thêm sự giàu có thì đó là họ đang “chìm xuống”.

Chúng ta hiểu biết Phật pháp thì chúng ta lại cố gắng, chúng ta lại nỗ lực chúng ta thực hiện những ý muốn để mà thực hiện những cái hoàn cảnh, để được vào nhập thất, để ngồi yên trong thất để có những người bưng cơm, vừa nước chúng ta tu hành thì cái đó chúng ta lại trôi dạt, nghĩa là tiến tới như vậy thì gọi là “trôi dạt”, cho nên cái đó cũng là cái sai của Đạo Phật.

Vì vậy mà Đức Phật nói: “Đứng lại thì chìm xuống, mà tiến tới thì trôi dạt, chỉ có mình vượt qua mình thôi”. Vượt qua là cái hoàn cảnh nào, chúng ta ở trong cái hoàn cảnh đó mà chúng ta vượt qua cái hoàn cảnh đó, chúng ta làm sao mình sống cho đúng đạo đức của Đạo Phật - không làm khổ mình, khổ người - tức là mình tùy thuận mọi cái. Nhưng mà mình bị lôi vào, tâm mình mình biết đó là ác pháp nhưng mà mình không để tâm mình bị lôi kéo vào ác pháp, mà mình rất tùy thuận với mọi hoàn cảnh để cùng nhau xây dựng bước đường tu tập, cho mình, cho người thì như vậy gọi là “vượt qua”.

(16:03) Cái bài kệ nó có mấy câu mà Phật nhắc đi nhắc lại rất nhiều ở trong kinh:

“Đứng lại thì chìm xuống. Đi tới thì trôi dạt. Chỉ có vượt qua mà thôi”.

Cho nên cái hoàn cảnh nào mà đến với chúng ta là cái nhân quả của nó đã đến, thì chúng ta đừng ham muốn theo cái muốn của mình, mà chúng ta phải vượt qua cái lòng ham muốn đó, thì chúng ta mới chiến thắng.

Thí dụ như bây giờ, trong cái hoàn cảnh của mình xảy ra, nó có những sự kiện làm cho mình lo, mình buồn, mình mới thấy tu như vậy không có được, nhưng mà chính cái chỗ đó là để xả cái tâm ở chỗ đó. Đó là cái tu, chứ không phải là cái ý muốn mình như vầy: nó được yên ổn mình ngồi thiền, mình nhiếp tâm hơi thở, mình đi kinh hành không ai động, thì cái đó nó là cái hoàn cảnh thuận để cho mình tu những cái đó thôi. Nhưng mà nó gặp những cái hoàn cảnh nghịch, nó làm cho mình không có ngồi tu được, nó làm cho mình đi kinh hành nó cũng không yên, mà vì vậy mà do đó mình tìm mọi cách để mình vượt qua được cái hoàn cảnh đó thì đó là mình tu, mà mình tu cái đó nó thực tế và cụ thể hơn, nó làm chủ được cái cuộc sống của mình hơn.

Cho nên ở đây cái mục đích của Đạo Phật là chúng ta nhắm vào cái nhân quả của chúng ta đang sống. Chúng ta sanh ra từ nhân quả, sống trong nhân quả. Hiện bây giờ chúng ta đang sống trong nhân quả, tùy cái nhân quả đó mà chúng ta tu tập chúng ta vượt qua nó, chứ không phải chúng ta trốn tránh né cái nhân quả, chúng ta hiểu như vậy thì chúng ta mới biết được con đường chúng ta tu hành mới là đúng cách.

Bây giờ về đây được Thầy giảng, Thầy nói để cho mà rõ cái cách thức trước cái hoàn cảnh nào thì chúng ta cũng thực hiện được cái sự tu tập giải thoát, mà chúng ta biết rõ từng tâm niệm của chúng ta, quán xét chúng ta xả, còn hay hết. Không phải vô trong thất ngồi thiền rồi đạt được trạng thái im lặng, rồi khởi những tưởng chúng ta được cái này, được cái kia, điều đó là một cái điều sai, chúng ta chẳng được gì hết đâu, tu hành chẳng có được cái gì hết mà chúng ta chỉ nghiệm lại thấy cái tâm của mình trước mọi hoàn cảnh nghịch cũng như thuận, nó luôn lúc nào cũng thanh thản, an lạc, nó không làm chúng ta phiền não đau khổ nữa thì đó là chúng ta nói mình được kết quả.

3- TU TẬP LÀM CHỦ TÂM TRƯỚC, RỒI LÀM CHỦ THÂN SAU

(18:12) Chứ sự thật ra thì chúng ta tìm lấy cái lối giải thoát cho chính bản tâm của mình, và từng cái chỗ giải quyết được cái tâm mình giải thoát rồi thì chúng ta mới giải thoát được cái thân. Bởi vì cái tâm mà không giải thoát được thì cái thân không giải thoát được.

Chúng ta mang cái thân, tâm của chúng ta đi vào trong cái nghiệp nhân quả này, hay hoặc nói một cách khác là từ ở trong nhân quả mà chúng ta sanh ra, thì mang cái thân nghiệp của nhân quả, thân tâm nghiệp của nhân quả. Do đó thì cái hướng, cái con đường của Đạo Phật thì nhắm để giải quyết cái tâm của chúng ta trước, rồi sau đó mới giải quyết được cái thân của chúng ta, tức là giải quyết được cái tâm nhân quả trước, rồi sau đó mới giải quyết được cái thân nhân quả của chúng ta sau thì chúng ta mới đi vào, chứ còn một lượt mà chúng ta giải quyết cả thân, và tâm thì chúng ta giải quyết một lượt không nổi.

Vì cái tâm của chúng ta nó có cái thọ của cái tâm, như bây giờ chúng ta buồn rầu, sợ hãi, lo lắng thì đó là cái thọ của cái tâm, vì vậy cho nên ở đây chúng ta muốn làm chủ được cái thọ của cái tâm thì chúng ta phải tu tập, phải không còn tham, sân, si phiền não, nó làm cho chúng ta không còn đau khổ, thì đây là phần đau khổ của cái tâm, mà Phật gọi là “ưu”. Ưu là phần đau khổ của cái tâm. Còn Phật gọi là cái “não” là phần đau khổ của cái thân. Cái “não” là phần đau khổ của cái thân, cho nên gọi là ưu, não. “Não” là cái chân nó nhức, cái đầu nó nhức, cái bụng nó nhức, cái tay nó đau, đó là não, nó làm cho cái thân của chúng ta đau khổ.

Còn cái tâm của chúng ta giận hờn, phiền não, lo lắng sợ hãi thì đó là đau khổ của cái tâm. Cho nên muốn tu tập để mà giải quyết, giải thoát được cái tâm thì đó là cái bước đầu, bước đầu tiên của Đạo Phật, sau đó, mới giải quyết được cái đau khổ của cái thân, chứ còn không thể nào mà chúng ta giải quyết cả hai cái thân và tâm một lượt để cho hết cái thọ của thân tâm được một lượt.

(20:09) Đó thì, hôm nay chúng ta biết được như vậy thì chúng ta biết rằng con đường mà chúng ta đang tu đây là mục đích chúng ta giải quyết cái khổ, cái đau khổ của cái tâm, làm sao cho tâm hết phiền não đau khổ. Do đó hàng ngày chúng ta mới nhắc: “Tâm như cục đất, đừng có phiền não, đừng có tham, sân, si, đừng có thương tiếc, đừng có hận thù, tất cả những cái đó là những cái đau khổ”. Thì nhớ mà nhắc như vậy, hằng ngày tu tập như vậy: “Quán ly tham tôi biết tôi hít vô, quán ly tham tôi biết tôi thở ra”, hoặc là chúng ta nhắc: “Quán ly tham tôi biết tôi đi kinh hành, quán ly tham tôi biết tôi đi kinh hành” thì như vậy là mình nhắc mình đang đi kinh hành. Hay hoặc là “Quán ly tham tôi biết tôi đang quét sân, quán ly tham tôi biết tôi đang quét sân”. Thì đó, mình nhắc mình đang quét sân để cho mình tỉnh thức ở trong hành động quét sân, mà mình xả cái tâm tham của mình ra, đó là cách thức tu như vậy. Cho nên chúng ta làm hằng ngày trong hành động không có nghĩa là làm cho chúng ta biết tất cả cái hành động, tỉnh thức ở trong hành động. Mà luôn để giữ cái trạng thái yên lặng, cái trạng thái tĩnh lặng ở trong cái hành động đó, thì tỉnh thức ở trong hành động đó, như vậy nó cũng chưa phải là cái pháp của Phật để xả tâm.

Bởi vì Phật dạy Thân Hành Niệm, chúng ta tu tập ở trong các hành động của thân để mà xả cái tâm, lấy cái hành động của thân để mà xả cái tâm, cho nên luôn luôn nương theo cái hành động của cái thân làm cho tâm nó tỉnh thức để mà nói nhắc nó xả. Nhớ như vậy thì chúng ta sẽ tu tập hàng ngày, hằng giờ, chúng ta lúc nào, nhớ được một chút tỉnh thức là chúng ta đã hướng tâm xả, nhớ một chút tỉnh thức là chúng ta xả. Hàng ngày chúng ta nhắc như vậy thì tâm chúng ta sẽ không còn tham - sân - si nữa, nó sẽ được giải thoát hoàn toàn.

Và từ đó tâm nó được yên ổn, nó giải thoát rồi thì nó thanh tịnh, nó không còn giận hờn, phiền não, nó không còn tham muốn. Thì bắt đầu các con sẽ dùng cái pháp hướng để mà nhắc nó, để mà tịnh chỉ các cái khổ đau của cái thân của các con, tức là cái ưu não của cái thân. Thì bây giờ cái thân đau thì mình nhắc làm cho cái thân nó không còn đau đớn nữa, tức là tu tập những loại thiền định làm chủ thân, có như vậy thôi chứ không có gì hết.

(22:13) Thì các con thấy trong bước đường tu tập nó rõ ràng như vậy đó, cách thức tu tập nó cũng pháp môn nó cụ thể như vậy chứ nó không phải là nó, coi như nó rất trực tiếp, nó không phải chúng ta tu tập một cách gián tiếp theo con đường thiền của Đại Thừa và Đông Độ. Bởi vì chúng ta ngồi giữ cái tâm không vọng tưởng im lặng như vầy, mà chúng ta mong chờ cho sau này nó sẽ không còn tham, sân, si phiền não và nó sẽ làm chủ được cái sự sống chết của chúng ta không còn đau nhức nữa thì cái chuyện đó là cái chuyện coi như là không có trực tiếp vào cái đối tượng đau khổ mà để tu cho nó hết, thì biết chừng nào mà chúng ta sẽ hết. Mà chắc chắn rằng vì cái thời gian đã chứng minh cho chúng ta biết rằng từ các bậc Tôn túc của chúng ta cho đến giờ thì người ta cũng thực hiện những cái con đường thiền này rất lâu đời, mà người ta cũng không tìm thấy được cái sự giải thoát.

Mà cũng chính Đức Phật đã thuật lại, trong các quá trình tu tập của Đức Phật thì Đức Phật cũng thực hiện những cái pháp thiền ức chế này, Đức Phật cũng không tìm thấy cái sự giải thoát ở trong đó nữa cho nên cuối cùng Đức Phật trở về với cái sự tư duy của mình để đi vào cái lộ trình Xả Tâm này mà Đức Phật đã được giải thoát.

Thì hôm nay chúng ta là những con người cũng gần giống như trong thời Đức Phật, có pháp của Phật mà không được triển khai, lại đi tu vào những cái pháp của ngoại đạo để rồi bắt đầu chúng ta bây giờ mới trở về với cái pháp của Phật. Tuy nó có muộn màng nhưng nó còn có đủ duyên là chúng ta trở về được cái chánh pháp của Phật để mà xả tâm. Vậy thì còn có cái sự cố gắng của chúng ta thôi, mau hay là lâu là do sự tu tập, do cái hoàn cảnh thuận tiện, không thuận tiện của mình thôi.

Nếu mà hoàn cảnh nghịch thì mình tu nhanh hơn, mình xả tâm mau hơn, hoàn cảnh thuận mình cứ ngồi lim dim ở trong thất thì mình tu lâu hơn, có vậy thôi chứ không có gì hết. Cái hoàn cảnh nghịch chuyện này đến chuyện kia nọ mà tâm mình luôn lúc nào cũng nỗ lực mình thực hiện xả cho nó đừng có đau khổ, đừng có phiền não, đừng có giận hờn thì nó nhanh lắm. Còn nếu mà trong cái hoàn cảnh thuận mình cứ ngồi mình tu lim dim lim dim mà mình không có cái đối tượng, mình biết cái tâm mình xả hay không? Mình đem hết cả hàng ngày, hàng giờ mình dùng cái pháp hướng mình xả. Nhưng cuối cùng mình chưa chắc đã là mình xả sạch.

Đó, thì hôm nay nhớ như vậy, thì những cái gì mà nãy giờ Thầy nói con hãy khắc ghi, và cũng là nhắc nhở chung cho các con.Vậy thì bây giờ coi như là đã nhớ kỹ cái pháp hành rồi, thì cố gắng mà thực hiện.

4- TU TẬP VỪA SỨC THEO ĐẶC TƯỚNG

(24:49) Còn bây giờ thì (con) về đây, thì trình bày cho Thầy nghe coi như thế nào? (Được rồi, con nói đi)

Cho nên những cái đó là những cái không có lợi, không có lợi cho mình. Vậy thì những cái nó có lợi cho mình là nó làm cho mình tỉnh táo, dậy thì nó dậy liền nó không có lười biếng nằm lại đó là nó hết si, nó bớt si. Còn tối mà nó chưa tới giờ đi ngủ mà nó ngủ trước thì tức là nó bị niệm si, nó làm cho mình ham ngủ. Do vì vậy mình biết, lần lượt từ cái tu tập tỉnh thức mình đi kinh hành, tu tập mọi hành động, rồi xả tâm, rồi từng cái tỉnh thức đó nó tăng dần thì cái niệm si nó cũng xả, cái niệm si nó xả thì niệm tham nó xả, niệm tham nó xả thì niệm sân nó xả, nó cứ mỗi cái nó đều xả, xả ra thì cái niệm si mình vẫn thấy trước, biết trước được.

Thí dụ như bây giờ cái niệm si mình hàng ngày mình tu tập tỉnh thức, rồi mình xả tâm, thì mình xả tâm tức là xả cái tâm si ở trong đó nữa. Cho nên thí dụ như bây giờ tối, bây giờ nó tới 10 giờ nó mới đi ngủ, mà nó tới đó nó mới ngủ, còn mình 9 giờ nó buồn ngủ nó muốn ngủ rồi thì đó là niệm si nó còn, nó chưa xả, cho nên vì vậy mình tiếp tục mình hướng tâm mình xả, mình tập theo cái sức của mình chứ không phải mình cố gắng mình ức chế nó.

Nhiều khi cái sức của chúng ta nó tới 9 giờ giờ nó muốn buồn ngủ rồi, mà mình ráng mình ức chế mình ráng mình chịu đựng để cho tới 10 giờ tức là ức chế nó đó. Cách thức tu tập các con thấy nó sơ suất một chút là chúng ta sẽ bị ức chế tâm rồi, cho nên chúng ta muốn mà cho nó đừng có ức chế tâm thì chúng ta phải lượng theo cái đặc tướng của mình.

Thí dụ như bây giờ cái sức của mình nó thức tới 9 giờ, thì mình thức 9 giờ mình tu tập thôi, rồi tới 9 giờ đó mình đi ngủ, chứ còn đừng thấy người ta tu 10 giờ rồi mình cũng ráng mình ức chế mình tu, tức là ức chế, tức là ép, ép tâm của mình, nó buồn ngủ nó gục tới, gục lui nó như thế này thế khác thì như vậy chẳng có ích lợi gì hết, bởi vì đó là ức chế tâm của mình, ráng để mà thức để mà chịu đựng, thì nó không ích lợi đâu. Cho nên vì vậy mà chúng ta tu để mà xả lần lần, lần lần, nó tỉnh lần nó đi lên, đó là cách thức chúng ta tu.

(26:58) Cũng như bây giờ chúng ta tu, chẳng hạn nào như các con nè, bây giờ mình ngồi trong khi mình tỉnh thức trong hơi thở này, nó chỉ có chừng 10 phút à, nó không có niệm vọng tưởng mà mình ráng mình ngồi 30 phút để ức chế nó để không vọng tưởng, thì cái sự ráng đó thì nó rất ảnh hưởng. Có nhiều người gom tâm, cắn răng gom tâm đừng có vọng tưởng, thì không ngờ đó là ức chế cả thân và tâm của mình để không vọng tưởng mà không có xả tâm, nó sai rồi. Bởi vì cái lối tu nó thuộc về ức chế rồi, nó không có đúng, mà bây giờ cái sức của mình bây giờ có 5 phút, hay là 10 phút mình tu tới đó mình xả, vừa tỉnh thức, vừa xả tâm. Mà giờ cái sức của mình tăng lên nữa thì nó có tạp niệm nó xen vô, nó mất tỉnh thức đi, thì do đó mình chỉ tu 10 phút thôi. Rồi do đó mình xả tâm nó thanh tịnh lần lần thì mình lại tăng lên, mình tăng lên thì nó lại tăng lên được liền.

Còn bây giờ đó, cái sức của mình nó như vậy mà mình lo mình tu cho nó nhiều thì giờ, mình ráng cố gắng mình ức chế, thì thật sự ra mình ráng mình ức chế thì nó cũng hết vọng tưởng chứ không phải không, nhưng mà lại nó bị ức chế. Nó ức chế thì cái tâm nó dễ, nó dồn qua nó sẽ tham, sân, si nó dễ hơn, nó làm cho mình ngu si hơn chứ không thông minh đâu. Cho nên nói mình tu nhiều, mình tu mình ngồi nhiều mà mình rất là hận ở trong lòng của mình. Như bằng chứng như các con biết rằng những người tu ở đây, không nghe lời Thầy mà xả tâm, khi mà bị cô Út đập họ rồi, thì họ đi ra họ oán, họ hận cô Út, họ nói cô Út đủ cách hết.

Các con chắc điều kiện các con cũng sẽ biết hết tất cả. Nhưng mà các con nhìn những người đó bây giờ cuối cùng thì họ cũng không có đạt được những gì đâu, họ cũng không làm được những gì đâu mà họ lại còn rơi trong cái tâm ham muốn của họ đủ cách hết, họ còn đau khổ nữa. Thì tất cả những cái đó là trải qua ở đây các con ba, bốn năm trời rồi thì các con đã rút tỉa được những kinh nghiệm đó rất rõ trong chị em huynh đệ của các con tu tập ở đây các con biết.

Khi bị cô Út đập rồi thì đi ra hận, giận hờn cô Út, thậm chí như có nhiều khi họ thế này, thế khác. Nhưng mà họ viết một bức thơ, họ nói cho Thầy biết, dùng những cái lời lẽ rất là nặng đối với cô Út, nhưng mà Thầy không nói cô Út biết, bởi vì Thầy nói chuyện đó cũng là chuyện thường thôi, có nói rồi cũng không có hay ho gì hết.

(29:10) Cho nên viết thơ nói với Thầy như thế này thế khác. Thầy cũng nói cô Út bằng cách này, cách khác. Thầy cũng thản nhiên, Thầy cũng chỉ xem đó là một cái sự thử thách để cho người đó xả tâm mà thôi. Tại vì họ xả tâm không được cho nên họ hận, họ buồn họ nói vậy thôi cũng là đáng thương họ, cho nên Thầy cũng chẳng có nói gì hết. Nhưng mà cũng chính vì những cái điều kiện đó mà cái hành động của họ rất là khổ đau, khi mà ra đi rồi thì họ rất là khổ. Bởi vì, ở đây là cô Út cô cũng có cái tâm là quyết làm cho họ xả được cái tâm tốt, chứ không phải có nghĩa là thù oán họ, thế mà đi ra họ nghĩ rằng cô Út ghét họ, thù oán họ bằng cách này, bằng cách khác, cho nên họ phải thọ lấy những cái quả rất là khổ, rất là đáng thương khi mà họ dùng những cái lời nói không tốt.

Nhưng mà khi đã biết được rồi thì lúc bấy giờ nó cũng muộn màng rồi, nó mất nhiều thì giờ rồi, cho nên ở đây những người đó họ tu không phải là cái sức tỉnh thức của họ không có, họ ức chế tâm họ tỉnh thức rất cao nhưng mà họ không xả tâm, có vậy thôi.

5- TU TẬP XẢ TÂM CHỨ KHÔNG PHẢI ỨC CHẾ THÂN TÂM - TU VỪA SỨC

(30:03) Các con nhớ rằng Thầy nhắc nhở các con rất nhiều, nói chung là ở đây các con cũng vậy, cái phần tu của các con là chúng ta cố gắng mà chúng ta xả tâm, nó không phải là tu mà ức chế thân tâm của mình cho nhiều thời gian. Nghĩa là bắt đầu mình phải thức từ 7 giờ tối cho đến 10 giờ mới đi ngủ. Rồi từ 2 giờ chúng ta dậy, rồi tu tập cho tới khuya, tới 5 giờ, 6 giờ mới xả ra nghỉ, rồi ngày nào cũng tu tập như vậy, không phải. Chúng ta tu tùy theo đúng như cái sức của chúng ta, rồi bao nhiêu chúng ta xả thư giãn, nghỉ để cho nó nghỉ ngơi nó trở lại quân bình của một người bình thường, cũng như không có tu gì hết vậy để cho nó trở về vị trí đó thì cái đó là cái tốt.

Chứ không phải chúng ta tu liên tục từ ngày này qua ngày khác như vậy, chúng ta làm cái hành động đó là cái hành động ức chế mà chúng ta không biết. Bởi vì đó nhiều khi cái sức của chúng ta chưa có phải, nó tỉnh thức như vậy, nó tu tập xả tâm như vậy, nó chưa đến cái mức đó mà chúng ta bắt buộc mình phải làm như vậy, làm cho nhiều như vậy để cho nó mau, không phải đâu.Tu tập cái gì nó cũng đi từ từ.

Cho nên vì vậy mà Đức Phật nói, ví dụ như cái dây đàn, nếu mà chúng ta căng quá thẳng thì nó sẽ đứt dây, mà nếu mà chúng ta căng vừa thì nó phát âm ra đúng, nếu mà chúng ta làm biếng lên dây, nó chùng thì cái âm thanh nó không phát ra được, tất cả những cái đó thì tất cả những cái chuyện mà nói về cây đàn, thì trong cái bài kinh Đức Phật đã chỉ cho chúng ta biết cách thức tu. Thì chúng ta cũng biết rằng bây giờ cái sức của chúng ta, cái si của chúng ta nó đang si nhiều, mà bây giờ ép buộc nó phải thức nhiều thì tức là nó bị hôn trầm, nó bị thùy miên, rồi ngồi tu nó gục tới, gục lui, nó có lợi ích gì đâu. Đó, mình ép buộc nó như vậy rồi nó được, đâu phải được.

Mình phải biết rằng, khi mà chúng ta xả tâm thì “quán ly tham tôi biết tôi hít vô, quán ly tham tôi biết tôi thở ra”, thì chúng ta lại nhắc “quán ly sân tôi biết tôi hít vô, quán ly sân tôi biết tôi thở ra”“Quán ly si tôi biết tôi hít vô, quán ly si tôi biết tôi thở ra”. Dù một ngày chúng ta, cái sức của chúng ta tu được năm phút hay mười phút, hay hai mươi phút cũng đủ lắm rồi. Rồi mỗi ngày chúng ta siêng năng chuyên cần như vậy liên tục như vậy thì trong một tháng chúng ta sẽ thấy nó có tăng lên, cái niệm Si của chúng ta nó sẽ giảm đi. Nó tăng lên thì cái sức tỉnh của chúng ta tăng lên thêm được một phút, hai phút nữa, nó tăng dần, tăng dần cho đến khi tự nhiên nó tăng lên chứ không có ép nó phải thức cho đến khi nó bị gục tới, gục lui, đó là cách thức của chúng ta tu sai do cái sự ức chế tâm.

(32:27) Hiểu được như vậy thì chúng ta dù ở trong cái hoàn cảnh nào, cái môi trường nào mà sự tu tập về cái pháp Xả Tâm, thì đều là tốt cả hết. Còn nếu mà về đây, ví dụ như con về đây, ở đây mà tu tập thì nào là phiền phức giấy tờ, đủ thứ. Vả lại Giáo hội ở đây họ cũng không thích gì Thầy, bởi vì Thầy sống thì giới luật, còn họ thì không có giới luật, cho nên họ cũng không ưa. Cho nên cái người mới xin vào tu, tu viện càng ngày càng đông thì họ lại tìm cách không có để yên cho mình, mà họ không để yên thì nó rất khó. Vì vậy mà Thầy muốn chia ra, chia tất cả mọi tu sĩ ra, người ở chỗ này, kẻ ở chỗ khác mà không ai làm động mình, mà mình được yên tu.

Bởi vì con đường thiền này nó rất dễ, là vì mình tu theo cái đặc tướng của mình, mình tu theo sức của mình, rồi với cái nhiệt tâm của mình quyết tâm xả thì xả tham, sân, si, niệm si nó giảm thì tỉnh thức nó lên. Niệm tham nó giảm thì nó làm cho tâm mình nó an lạc, thanh tịnh; niệm sân nó giảm nó làm cho mình không có hung dữ, không có niệm ác nữa, nó cứ lầm lượt xả lần, xả lần. Con người của mình trở thành một hiền thánh, tức là nó có một cái tâm trạng rất là hiền, từ đó nó mới có đi đến cái chỗ mà trầm lặng, ít nói, không lý luận, không hơn thua, không ba hoa, không khoe khoang, không nói tu như này, như kia, mình tu được mà chẳng hề ai biết.

6- GIỮ ĐỘC CƯ KHÔNG NÓI CHUYỆN - KHÔNG NÊN ĐỌC KINH SÁCH NGOẠI ĐẠO

Cũng như ba vị tôn giả đồng thời nhập thất ba năm ở đó, sống chung nhau ở đó, rồi bắt đầu tu tập, ai tu nấy biết, không hề nói chuyện với ai, cho đến khi ông A Na Luật, Đức Phật đến thăm ba vị đệ tử của mình thì ông A Na Luật trình bày cho Đức Phật nghe sự tu tập, thì hai vị tôn giả kia ngồi ngay bên cạnh nghe, ông nào cũng trình cho Phật, chúng con cũng tu được như vậy tất cả hết. Ba người đồng tu chung, chưa hề nói người này tôi tu vầy, tôi tu được như vầy, tôi tu được như thế kia cho người này biết. Không có bao giờ khoe khoang với nhau hết, ai lo phận sự nấy, không nói chuyện khoe khoang tu hành, không nói pháp, không nói này kia.

Còn mình hễ hở ra cái ngồi: thứ nhất là đem chuyện phiếm nói, thứ hai là đem chuyện (băng mất âm thanh); thứ ba là đem kinh sách này, kinh sách kia mà luồn với nhau để mà đọc. Thì tất cả những cái này đều là những cái tai họa, cái tai hại cho cái sự tu tập. Tất cả những kinh sách hiện giờ chưa phải có những người nào mà tu chứng mà viết, mà hầu hết là những nhà học giả viết ra, họ tu nửa chừng chưa xong, họ chưa biết gì hết, từ đó tưởng giải giải ra, rồi họ tưởng là như vậy chắc ăn, cho nên họ viết ra vì cái danh của họ họ viết ra.

(35:10) Vì vậy mà chúng ta cứ mượn những kinh sách đó chúng ta đọc thì làm sao mà chúng ta tu tới đâu. Thế mà khi đọc được cái cuốn kinh nào đó, nghe một nhà học giả nào lý luận hơi có lý. Chúng ta đã trao với nhau, đã lén lút với nhau để mà đọc những cái đó. Đọc những cái đó nếu mà đã giải thoát thì những kinh sách đó người ta đã đọc ở ngoài chợ, bán đầy ở ngoài đó, thì người ta đọc người ta đã giải thoát hết rồi, người ta đã đọc quá lâu rồi, chứ không phải mới đây. Người ta đã làm Phật hết rồi, đằng này đọc mãi, có người nào mà đã làm Phật chưa? Cho nên cuối cùng thì chúng ta lại làm động, làm mất cái sự tu tập của chúng ta mất với nhau hết đi, cho nên tất cả những khi mà chúng ta mà đọc kinh sách là một cái tai hại.

Các con nhớ rằng thời Đức Phật không có nghĩa là không có chữ viết, không có kinh sách, nó có cả bốn bộ kinh Vệ Đà, thế mà Đạo Phật ra đời thì các con thấy sau này mới kết tập thành kinh điển, còn trong thời Đức Phật chưa có chép một cái câu kinh, chưa có chép một bài kệ nào cả hết. Nghĩa là Đức Phật dạy thì các vị tu sĩ trong thời đó người ta cứ nỗ lực người ta tu chứ không thấy bao giờ mà các vị đem cuốn kinh hay là cuốn sách hay là lời Phật ghi chép ra rồi đem nói, giảng, không có bao giờ có cái chuyện đó hết. Đọc lại trong kinh sách Nguyên Thủy chúng ta không có, thời Đức Phật không có ghi lại kinh sách.

Cho đến sau này thì ông Ca-diếp mới tập hợp để mà kết tập lại cái lời của Phật dạy, rồi sau chúng ta mới có kinh sách. Từ đó có kinh sách rồi thì bắt đầu con người tu không chứng nữa, cứ mãi đọc kinh sách làm sao chứng, không lo tu. Cho nên ở đây, đầu tiên khi về đây Thầy cấm không có cho quý thầy đọc kinh sách, mà hãy nỗ lực tu ở trong hành động. Nhưng mà cuối cùng thì kinh sách nó cũng dẫy đầy, người này đút người kia, người kia đút người nọ, rồi lén nói chuyện. (37:00) Thầy cấm không có cho nói chuyện, phải sống độc cư thế mà cũng chẳng ai nghe lời Thầy. Cứ nói chuyện rồi cứ trao kinh, trao sách nhau đọc, cuối cùng nhìn lại mười mấy năm trời chẳng có một người nào đi tới đâu hết. Tại sao? Đâu phải lời Thầy dạy mà họ nghe, tại vì họ không nghe lời Thầy dạy mà cho đến giờ phút này chẳng ai được những gì hết, cho nên cuối cùng nói theo Thầy tu chẳng được, không phải ở lỗi Thầy mà tại ở lỗi họ, họ không nghe đúng lời dạy của Thầy.

Đó, thì những cái sai mà hiện bây giờ nhìn lại chúng ta mới thấy những cái sai đó, là tại sao? Là tại vì cái kết quả của quý thầy đã làm sai, không đúng lời dạy của Thầy mà mang lấy cái hậu quả đó, cho nên bây giờ đời nó chẳng ra đời, đạo chẳng ra đạo.

Còn bây giờ mấy con những người mới bắt đầu bước chân vào đây đừng có đi nhẩm lại cái lối mòn đó, mà có thể đưa đến mất cái thời gian rất là quý báu và vô ích của các con. Vì trải qua cái thời gian đã là một bài học kinh nghiệm quá lớn. Cho nên hiện giờ chúng ta là người tu tập thì chúng ta hãy cố gắng mà xóa đi tất cả những cái điều kiện mà bao nhiêu người đã trải qua những kinh nghiệm tu tập những các pháp môn đó, đã không được rồi, mà bây giờ chúng ta còn chấp nhận nó thì chúng ta sẽ sai lệch nữa. Cho nên bây giờ những gì mà Thầy nghe, làm đúng theo lời Thầy dạy thì Thầy sẽ chịu trách nhiệm trước cái lời Thầy dạy.

Nghĩa là đầu tiên không phải là Thầy sợ các con đọc kinh sách của họ các con sẽ bỏ pháp môn của Thầy đâu. Thầy không có mời các con về đây tu, người nào Thầy cũng không mời hết. Nhưng mà khi mà quyết theo Thầy thì các con hãy bỏ tất cả những loại kinh sách đó xuống hết đi, mà hãy nghe lời Thầy dạy, hàng ngày phải đi trong cái hành động dạy của Thầy, phải tu tập trong cái lời dạy của Thầy, đừng có đọc kinh sách nào hết. Vì Thầy biết chắc chắn rằng những kinh sách đó không giúp cho các con được giải thoát đâu, mà đọc thì các con sẽ bị phân tán cái tâm ra, mà tu tập không được.

(39:06) Các con nhớ kỹ, ở đây cũng vậy, thì trong cái thời gian mà về đây tạm thời, nghĩa là mình không xin phép, xin tắc mình không này kia thì chỉ trong vòng một hai bữa, năm, ba bữa thì có thể ráng được, còn cao hơn thì không thể được, bởi vì ở đâu nó cũng có chính quyền, ở đâu nó cũng phải có pháp luật, cho nên mình phải phép tắc hẳn hòi thì mới ở được. Cho nên ở đây thì về đây trong vòng một, hai ngày để rồi tập tu cách thức cho đúng rồi về ở ngoài đó mà nỗ lực sống cho đúng như vậy thì kết quả sẽ tốt. Cũng như bây giờ các con ở đây, từ đây về sau hãy cố gắng, chứ Thầy biết rằng mỗi một người mà đi ra khỏi đây rồi, về thì họ mang cái tính chất của họ là những cái kiến giải, học hiểu ở ngoài đem vô đây, Thầy biết có nhiều cái sai, chứ không phải cái đúng.

Thí dụ như Đào, ở ngoài đó tu tập, về đây đã mang theo cái sai của nó không có đúng, chứ không phải là do cái pháp môn này mà đã thực hiện đúng lời Thầy dạy, để rồi đạt được kết quả đâu. Mà do ảnh hưởng của kinh sách khác làm cho tưởng mình như là giải thoát chứ không phải lời Thầy dạy. Lời Thầy dạy không ba hoa. Tất cả những cái chuyện tu hành mà đạt được chưa hề mở răng, hé răng mà nói cho ai biết, mà càng ngày càng sống trầm lặng, im lặng chính là những người đệ tử của Thầy đã dạy khi mà họ đạt được đạo.

Còn cái người nào mà nói lung tung, ba hoa thì người đó không phải là đệ tử của Thầy, mà ảnh hưởng kinh sách của kẻ khác, của những người khác. Cho nên hầu hết là những người nói lung là những người không phải là đệ tử của Phật đâu, những người ai nói lắng nghe, đúng sai không cãi, là người đó mới chính là cái người tu theo Đạo Phật, mới chính là người đang nhập Thất. Đó, cho nên ở đây xét qua cái người thì chúng ta biết người đó tu đúng, tu sai chứ không phải tu được hay là không được mình biết liền, lưu ý cái phần này để chúng ta xác định.

(40:58) Như ở đây chúng ta thấy Từ Nguyện ở đây một thời gian tu tập, từ ngày mà bị cô Út đập, rồi cho đến khi nỗ lực thực hiện sống trầm lặng, độc cư, bắt đầu thì qua cái hành động sống như vậy, nhìn xét cái cách thức nó sống vậy thì có thể nói rằng tu tốt nhất, hơn mọi người ở trong này. Nhưng mà trong khi đó nếu mà tiếp tục trên con đường này mà tu tiếp tục mà dài ra thêm một, vài năm nữa hoàn toàn sống mà như vậy thì người ta sẽ tìm ra được, hoặc là mình ức chế tâm chịu đựng, mà hễ khi mà chịu đựng để mà sống coi như mình trầm lặng thì sự trầm lặng đó nó không phải là thật sự là giải thoát, thì nó làm cho mình bung không có chịu nổi. Còn mình trầm lặng thật sự, sống xả tâm thật sự, thì sự trầm lặng đó bây giờ nó bao lâu nó lại càng ngày càng trầm lặng hơn, và thích thú, tâm nó trở về với nội thân, nội tâm của mình, nó không phóng dật ra, thì đó là giải thoát hoàn toàn.

Sống qua những cái hạnh của Từ Nguyện thì chúng ta thấy rất tốt, có thể đạt được kết quả, nếu mà thật sự đừng ức chế tâm, thì cái kết quả đó rất tốt. Còn nếu mà bằng chứng mà chịu đựng ức chế tâm mình, để nén tâm mình chịu đựng để cho có hành động trầm lặng thì nó lại là chịu đựng không nổi, nó sẽ bị bung đi, nó không có chịu thấu. Bởi vì sự ức chế tâm của chúng ta nó có giới hạn, nó không thể nào hơn được. Còn chúng ta sống đúng cách, tu tập xả tâm đúng cách nó sẽ đưa chúng ta đi đến trầm lặng, trầm lặng đến trở thành một bậc Thánh.

Bởi vậy Đức Phật dạy chúng ta “im lặng như Thánh”, cho nên sự trầm lặng mà để trở thành một bậc Thánh là nó thực hiện từ nội tâm cho đến hành động thân của nó. Còn cái này chúng ta ức chế thân và tâm của mình, sống trầm lặng bằng cách để hình thức, thì nội tâm của mình nó đến một lúc nào đó nó sẽ chịu không nổi thì nó sẽ bung ra. Nó bung ra thì nó mang cho tính chất đau khổ rất nhiều ở trong nội thân tâm của nó. Còn chúng ta xả tâm thật sự thì nó biến chúng ta từ phàm phu trở thành bậc Thánh, từ đó tâm hồn chúng ta trầm lặng, thân tâm chúng ta nó nhẹ nhàng, nó thoải mái, nó an lạc, nó vô sự thật sự nó không bị gò bó, nó không bị ức chế.

(43:18) Đó, thì hôm nay rút tỉa những kinh nghiệm mà các con đã thấy. Từ cô Minh Cảnh, nếu mà xả tâm thì cô cũng là người tu ức chế tâm không vọng tưởng, cuối cùng thì không đạt được kết quả mà cô đã tạo ra trong thân tâm của mình. Khi mới về đây cô đã tạo một cái tâm nhân quả rất là đau khổ. Nghĩa là ở trong chùa người ta không lấy xà bông cô, người ta không lấy những cái bột ngọt mà để cho cô nấu những cái thực phẩm cô ăn, thì cô lại đổ thừa người ta lấy của cô cái đó. Thì Thầy cũng chẳng biết là người nào lấy, nhưng mà sự thật ra thì Thầy nghĩ rằng ở trong chùa thì không ai mà có thể đi vô trong thất cô lấy cái này.

Rồi cô nói những cái danh từ của cái người ở ngoài Huế như thế nào Thầy cũng chẳng hiểu, nhưng cái từ đó là cái đặc ngữ của người ta, mà những cái lời nói đó là những cái danh từ đó rất nặng đối với cái người ở ngoài đó. Thầy thấy ở đây Thầy nói toàn là người Nam. Như cô Chánh ở dưới Cao Lãnh thì cô đâu có biết cái danh từ đó mà cô ấy nói, mà sao lại là nó nói cô biết danh từ đó. Như cô Út ở đây cô làm sao cô biết cái danh từ đó, mà nói ra những danh từ đó, thì Thầy nói những cái người Nam làm sao người ta biết cái danh từ đó mà người ta xài xể cô ấy như vậy. Ít ra người ta cũng phải là người ở ngoài đó người ta mới biết danh từ đó, thì cô đã tự tạo cái vu khống cho người khác bằng những cái đó, cho nên cô lãnh những cái hậu quả rất lớn, là thân cô bất an, rất là bất an.

(44:49) Đó là những cái điều kiện khi đầu tiên cô về đây trong những cái giờ phút mà ở Viên Chiếu mà không có chấp nhận cô, rồi Thầy Thanh Từ gởi gắm cô về đây, thì có cái đoàn ở ngoài đó đưa cô về đây. Do đó đối với Thầy Thanh Từ thì Thầy chấp nhận cô, nhưng mà Thầy thấy cô có nhiều cái nó không thật ở trong đó. Nhưng mà thôi, cũng kể như là đệ tử của Hòa thượng thì cũng là huynh đệ của Thầy, cho nên thôi Thầy cũng chấp nhận. Nhưng mà khuyên thì cô Út khuyên phải xả tâm, cố gắng mà xả đi, đừng có những cái tâm đó nữa.

Nhưng mà Thầy cũng khéo léo, như mà Đào mà về đây vậy đó, nói gì nói, Thầy khéo léo chỉ khuyên xả tâm thôi. Còn cô Minh Cảnh thì Thầy cũng khéo léo bảo xả tâm thôi, cố gắng xả tâm thôi, đừng có ức chế tâm nhiều, đừng có ngồi thiền nhiều mà cố gắng mà xả. Nhưng cô đâu có bao giờ nghe Thầy đâu, cô cứ lo ngồi cho nhiều, và có cái vẻ tự đắc lắm. Có vẻ tự đắc là cô ngồi nhiều, mà người ta ngồi người ta gục tới, gục lui. Bởi vì hồi đó ở thiền đường, ở ngoài đó tập trung lại, mấy cô tập trung lại ngồi, những cái người mà người ta ngồi như mấy cháu này, như Trâm hay là Chỉnh, nếu mà ngồi chung với mấy cô đó mà giờ khuya đó thì cứ buồn ngủ, cứ gục tới, gục lui vậy thì cô cười có cái vẻ khinh bỉ những cái người đó lắm, bởi vì ngồi chung mà.

Còn cô thì cô ngồi lâu, cô tập lâu ở ngoài Viên Chiếu nó thường rồi, cô quen rồi, cho nên cô không có gục, còn người ta gục thì cô cười, cho nên Thầy cũng khuyên đừng nên cười, người ta mới tu. Còn cái tâm của người ta nó còn gục, còn mình tu lâu thì mình ngồi nó vững hơn, thì có gì đâu. Nhưng mà các con thấy cái thời gian dài như vậy mà đến bây giờ chưa có giải thoát được gì. Nghĩa là cô ngồi bảy, tám tiếng, ngồi sáu tiếng đồng hồ, trong khi mà ở đằng trước hồi mới về đây ngồi sáu tiếng đồng hồ chứ không phải là ngồi ít đâu.

Cổ ngồi không phải là cô ngồi dưới thất đâu. Cái gò mối như vầy mà, cái gò mối mà ở chỗ nhà của cô gì đó, của cô Huệ Ân đó gần chỗ cô Huệ Ân có cái gò mối cao đó bây giờ ban nó ấy lại rồi, hồi đó có cái gốc tre nữa. Cô bắt cái ghế ở trên cao cô ngồi trên cao sáu tiếng đồng hồ, đó các con biết. Cô Cảnh ngồi để khoe dữ lắm đó chứ không phải là thường đâu, ngồi sáu tiếng đồng hồ. Thầy Như Hải hồi đó trong này ông ngồi cũng sáu tiếng đồng hồ, hai người kình nhau dữ lắm đó. Thầy rầy, Thầy nói thôi đừng có kình nhau, mà ngồi nó không có lợi gì đâu, phải xả, hãy lo mà xả cái tâm của mình .

(47:09) Đó, thì các con biết cái trường hợp đó là trường hợp mà lúc mà ở đây đó thì Thầy mới nhận bốn, năm người đầu tiên về rồi kế đó là cô Minh Cảnh về đó. Như vậy thì các con biết, mà tới bây giờ thì các con đã trực tiếp được nghe những cái sự đau khổ của cô Minh Cảnh, các con là nghe được trực tiếp rõ ràng, mà trong lúc đó cô ngồi sáu tiếng đồng hồ ở trên một gò mối. Hồi đó Thầy có cái ghế vầy này, cô lại bắt ở trên gò mối nữa chứ không phải, bắt cái ghế cho cao ngồi suốt sáu tiếng đồng hồ cho người ta biết khích chơi đó. Thì các con biết như vậy đó, mà có lợi gì không? Chứ không phải là, Thầy nhắc lại để cho thấy cái chỗ cô Minh Cảnh chứ không phải là vừa đâu.

Cho nên ở đây Thầy khuyên các con chỉ nên tu trong một tiếng, rồi trong một tiếng xả tâm, âm thầm không để ai biết mình tu được tới đâu nữa. Nghĩa là tu tới đâu mình biết, với trình bày cho Thầy để Thầy hướng dẫn thêm những cái pháp cho mình tu thôi, chứ hoàn toàn không nói cho một người khác biết.

Còn như Đào về đây nói như vậy là …​ đó con, chưa có tới đâu đâu. Cái người mà nói như vậy là chưa có tới đâu hết. Cho nên do vì vậy các con âm thầm mình tu chẳng ai biết mình tu tới đâu, mà cái gì mình chưa biết mình xả chưa được cứ về trình bày cho Thầy.

Bây giờ con xin trình cho Thầy, bây giờ con trình như vậy xin Thầy dạy. Thí dụ như bây giờ Thầy bắt buộc ra đây trình ở đây có mỗi chúng mà trình như vậy đơn giản, một lời nói đơn giản cũng đủ rồi: “Con đã xả được mộng”. Nói như vậy thì Thầy biết rồi, hay hoặc là “con đã diệt được tầm, tứ”, thì Thầy biết rồi, bởi vì nói một cái danh từ đó Thầy biết cái người đó ở cái trạng thái tâm nào rồi, biết người ta sẽ dùng như thế nào rồi. Và đồng thời thì Thầy muốn nắm chắc hơn Thầy sẽ hỏi: “khi xả được tầm tứ vậy, con xả bằng cách nào?” Nói: “Bắt đầu bây giờ con hít vô, con gom; con hít vô này, hai mắt con nhìn chóp mũi này; con hít vô này, con gom sáu thức này, con hướng tâm con nhắc sáu thức gom vô này, thì bắt đầu con diệt tầm, tứ”, thì Thầy biết rằng cái người này mới tu, mới tu, gom diệt tầm tứ mà diệt kiểu đó là người mới tu.

(49:09) Còn cái người mà đã tu mà xả được mộng rồi thì những người này không gom kiểu đó đâu. Người này vô bình thường, không có nhìn, không có ngó lỗ mũi, không có nhìn chóp gì hết, chỉ ngồi bình thường như thế này, ngồi xếp bằng xong xuôi rồi thì bắt đầu hướng tâm nhắc, “tầm, tứ phải tịnh chỉ, ngưng”, thì bắt đầu họ ngồi họ nói ra lệnh vậy, họ không cần gom gì hết thì tự nhiên cái hơi thở bắt đầu chậm nhẹ, chậm nhẹ, từng đó nó đi vào nó ngưng tầm, tứ liền tức khắc, không có gom.

Còn cái người mới tu là phải, hai con mắt phải nhìn chóp mũi nè, rồi nhắc “hai mắt nhìn chóp mũi, nhìn nhân trung, biết hơi thở ra, biết hơi thở vô, sáu thức gom vào hơi thở nè, bắt đầu nhắc nó bắt đầu mới hít thở mới tập trung, gom lại”, đó là người mới tu để mà tập trung diệt tầm, tứ. Chứ không phải là pháp hướng đâu. Thầy nói, bởi vì khi mà nói rồi Thầy hỏi ra thì Thầy biết cái người đó là họ như thế nào, mà họ dùng pháp hướng mà gom tâm để diệt tầm, tứ hay hoặc là họ dùng pháp hướng nhắc tâm mà diệt tầm, tứ, cái đó khác.

Cho nên ở đây Thầy hỏi rồi Thầy biết. Cho nên khi mà trình bày tới chỗ đó Thầy biết, rồi bắt đầu bây giờ phải dạy riêng cái người này, thì Thầy cần thiết Thầy dạy riêng, mà không cần thiết dạy riêng là Thầy dạy chung chung, tức là Thầy biết cái người này đang lạc ở những cái tưởng giải như thế nào? Thầy nhắc bảo xả, tức là xả cái tưởng đó chứ không phải là xả cái gì hết.

Cho nên thí dụ như Thầy bảo Đào, biểu xả đó, là xả cái tưởng của nó thôi, chứ không phải là xả cái gì hết. Cho nên Thầy bảo xả tâm tức là nó ngay chỗ cái tâm nó đang bị cái tưởng giải đó, cái kiến giải đó đó, xả cái đó đi, vì xả cái đó thì nó sẽ được trầm lặng, và từ cái trầm lặng đó nó càng tiếp tục nó đi trên con đường xả tham, sân, si nó sẽ cẩn thận hơn.

Đó, thì hôm nay Thầy nói hết. Để rồi các con sẽ hiểu biết con đường mà tu tập, nó như thế nào đúng, như thế nào sai, thì trong cái thời gian này ở đây thì con: thứ nhất là tập độc cư, tập độc cư. Bây giờ coi như là cũng công tác quét sân hay này kia vậy, cũng quét sân với mọi chúng vậy thôi, còn vấn đề nhà bếp thì để cho mấy cô này người ta nấu nướng này kia. Trong cái thời gian năm, sáu ngày ở đây, thì do đó tập độc cư, không nói chuyện với người nào hết, người nào đến nói chuyện thì mình không có nói chuyện ai hết, không có hỏi, không gì hết, nghĩa là mình cứ lo mình xả tâm thôi, bởi vì mình biết cái pháp này rồi.

(51:16) Vấn đạo Thầy đã chỉ rất rõ ràng và từ cái pháp hướng. Hiện bây giờ chúng ta mới tu mà chúng ta bảo cho nó hết tham, sân, si, đừng có ham ngủ, đừng có mê ngủ, mới tu trong năm, sáu tháng chưa phải sạch đâu, nghĩa là chúng ta phải tu tập như thế nào, thời gian như thế nào, lo lắng tu tập như thế nào, hằng ngày phải tập đừng nói chuyện như thế nào, đừng có động tâm như thế nào, ai nói gì cũng nghe cũng tùy thuận hết để mà nỗ lực thực hiện.

Như vậy thì về đây, thì chỉ tập thứ nhất là phải độc cư, không nói chuyện. Thứ hai là lao tác thì lao tác chung nhau, giờ nghỉ lao tác thì mình cứ lao tác với nhau để tập cho nó quen, rồi kế đó giờ ăn thì mình ra mình khất thực mình ăn. Ăn xong rồi thì dọn dẹp, rồi đi nghỉ rồi tới giờ tu, hết giờ tu rồi thì tới giờ lao tác thì quét sân này kia thôi, chứ không làm gì hết, rồi cứ tập như vậy.

Sau khi cái ngày mà gần trở về ngoài đó thì trình bày lại Thầy coi tự tu tập đó nó kết quả hai hoặc là trong một hai ngày mà thấy nó xảy ra như thế nào, tu tập như thế nào, nó bị động như thế nào, có những cái duyên gì nó làm cho tâm mình bị phân tán ra thì trình bày cho Thầy, thì trong lúc đó Thầy sẽ hướng dẫn cho tiếp tục để mà khắc phục được những cái hoàn cảnh, cũng như cái sự việc để thực hiện được cái sự tu tập xả tâm để tiếp tục xả tâm. Đó con nhớ chưa?

7- HẠNH ĐỘC CƯ

(52:42) Cho nên bây giờ cố gắng mà giữ gìn cái hạnh độc cư, bởi vì coi như đương nhiên là mình vào tu viện mình sống chung trong chúng là cái độc cư là cái quan trọng nhất cho cái người mới. Nếu mà ở lâu quen rồi thì hạnh động cơ nó khó, rất khó. Tại sao? Tại vì mình quen nói chuyện rồi, bây giờ có muốn biểu đừng nói chuyện cũng khó, rất khó chứ không phải dễ đâu, trừ ra có cái ý chí của mình mình quyết mình không nói thôi, chứ còn không ai rầy mình cái điều đó nữa hết. Còn bây giờ con mới về đây, tức là nó còn lạ thì cố gắng mà giữ độc cư. Nếu mà không giữ độc cư thì cũng kể như cũng là tu hành dậm chân tại chỗ thôi chứ không có gì hết. Vì vậy mà nó phải từng sống ở đây, từng có các duyên ở đây, để rồi từ đó nó nhờ các duyên ở đây để mà xả cái tâm ra, vì độc cư chưa trọn vẹn thì phải cần hướng về cái đối tượng mà xả tâm, thì nó xả tâm cho đến khi mà chúng ta cái tâm nó quay trở vào, tức là nó chịu độc cư thì lúc bấy giờ nó xả sạch rồi thì nó mới chịu quay trở vào nó độc cư.

Còn bắt đầu chúng ta đi vào cái độc cư, để cho cái tâm nó ở trong cái trạng thái độc cư bắt buộc nó phải từ đó nó quay vô, nó quay vô thì nó nhanh hơn. Nhưng mà từ cảnh động mà chúng ta đã quen bị nói chuyện rồi thì chúng ta bây giờ khó có thể giữ độc cư được. Cho nên lấy ngay cảnh động đó mà chúng ta xả cái tâm. Xả cái tâm được thì tự cái tâm nó quay vô nó độc cư, chứ không phải bắt ép nó độc cư.

(54:08) Còn bây giờ chúng ta về đây thì chúng ta có ức chế đó, ức chế tâm của mình bắt buộc nó độc cư, cũng là cái hình thức ức chế chứ không phải không đâu nhưng mà ức chế nhẹ nhàng, bắt buộc độc cư. Tức là ý mình muốn nói, mà mình không nói là mình ức chế nó đó, đó là cái phần ức chế nhẹ đó nhưng mà mình ức chế nó như vậy. Nhưng mà thấy nó không có chịu nổi thì mình không có nên quá ức chế nữa, nghĩa là cái sức của mình mà độc cư, thí dụ như 100% mà mình chỉ độc cư có 10 phần, mà chừng khoảng 50% là nó thấy nó cô đơn quá độ, chịu không nổi thì mình nên xả ra, mà mình cố gắng ức chế nữa là mình đổ vỡ.

Cho nên ở đây, các con biết Thầy nhắc lại cái độc cư ở đây, như thầy Chân Tịnh, thầy Từ Minh, chú Điền này, rồi Thiện Huệ này, tức là Chân Huệ đó về đây tu hành Thầy cũng bắt độc cư không có nói chuyện. Cho nên thậm chí thay vì cái sức của mấy ông đó chỉ ức chế cái tâm của mình chỉ có 10% thôi, nhưng mà Thầy bắt 100% cho nên các con biết không, mấy ông chịu không nổi đâu. Rồi thay vì 11, 12 giờ thì người ta ngủ hết rồi. Mấy ông ráng thức tới giờ đó, để cho nói Thầy ngủ rồi đó mới rủ nhau ra gốc vông mới nói chuyện, nói cho đã. Thì các con thấy có phải là cái sức của mình nó chưa tới đó mà mình ức chế nó thì nó phải đi tầm bậy rồi. Thì như vậy rõ ràng là mấy ông nói chuyện như vậy, nhưng mà làm sao mà qua được Mật Hạnh.

Mật Hạnh nó đi ngủ vậy chứ, nó ngủ chứ nó biết người nào mà thức, người nào nói chuyện ở đâu. Nó, ờ lúc 12 giờ nó ngủ, bởi vì 10 giờ nó đi ngủ rồi, đúng 10 giờ nó ngủ rồi, nhưng mà nó giựt mình thức dậy, nó nói mấy ông này nói chuyện, nó chẳng nghe, bởi vì họ dẫn đi ra ngoài rào xa ở đằng sau, xa hút ngoài đằng sau mới nói chuyện. Nó thức dậy nói: mấy ông này nói chuyện này. Cái bắt đầu nó xách đèn pin nó đi ra ngay đó nó rọi, đúng là mấy ông ngồi chùm nhum một đống đó, nó vô nó báo cáo Thầy.

(56:06) Thì các con biết trong cái vấn đề trực tâm của Mật Hạnh, lúc mà cái tâm nó quay vô nó sáng suốt lắm. Hễ bất kỳ nó giựt mình giờ nào mà nó nghĩ rằng quý thầy làm cái gì ở đó là nó tới nữa. Cho nên nó ngồi ở trong thất nó tu vậy mà nó nói: “ăn trộm cắt măng ở ngoài đó”, bụng nó nó khởi ra vậy, nó đi ra nó thấy ăn trộm cắt măng. Đó là cái trực giác của nó, cái trực giác của nó, nó tu. Đến khi mà cái tâm nó quay vô rồi, bởi vì nó sống độc cư, cái tâm nó quay vô, nó quay vô nó thanh tịnh, nó không có tham, sân, si nữa. Ở ngoài này kia động gì thì ở trong này nó biết, nó làm như trong tâm nó xảy ra cái chuyện đó. Cho nên thầy Chân Tịnh, Thiện Huệ, chú Điền mà làm cái gì, mà hễ nó ngủ thôi, mà nó thức dậy, hễ làm gì là nó biết; mà nó đang ngủ vậy, mà nó thức dậy, mà làm gì nó biết liền. Tại vì cái tâm nó thanh tịnh, nó đang ngủ mê chứ, nó đang ngủ không biết gì hết à, mà ở ngoài nói chuyện là nó đã giựt mình nó thức dậy, nó nói “đó, mấy ổng nói chuyện rồi đó”, cái nó đi nó bắt à.

Thì các con biết cho nên mấy ổng ghét Mật Hạnh lắm, sợ lắm, cho nên làm gì cũng không qua hết. Vì vậy đó mà các con biết chú Điền chú khôn lắm, chú đi nói chuyện, chú lén đi nói chuyện, chú lấy giẻ rách chú bó hai cái chân, chú đi êm re không có tiếng động à, đi ngay thất Mật Hạnh là phải sợ lắm, bó hai cái chân bằng cái lớp vải như thế này để đi cho êm đó. Thì đi đến nói chuyện với mấy ông đó. Thì nó cũng trực giác nó thấy được, nó bắt đầu cũng đi bắt được. Mà bắt được nó thấy ông này sao lại bó cái chân kỳ, nó mới hỏi, nó mới vô hỏi Thầy, nó đâu có dám hỏi mấy ông, nó bắt được mà nó đâu có dám hỏi. Nó hỏi, không biết tại sao mà ông Điền ông lại lấy vải ông bó cái chân ông chi vậy không biết? Con hỏi ổng là cái chân ông có bị thương không ông? Ổng nói ông không có, mà ổng không nói ra làm chi.

(58:00) Thì Thầy mới nói: đây là cái lối của cái bọn ăn trộm, ăn cắp nó bó vậy để nó đi cho nhẹ rồi người ta không hay, chó không biết, cho nên nó mới có ăn trộm, ăn cắp biết cách này thôi chứ còn có ai.

Thì cứ mấy ông này là mấy ông thiệt là đủ cái mánh khóe lắm chứ không phải không. Cho nên đi mà đi nói chuyện mà quá sợ, sợ đi rồi nó nghe tiếng động Mật Hạnh nó biết, nhưng mà không ngờ cái nội lực người ta nó thanh tịnh, cho nên ở ngoài người ta nó phát giác được ở ngoài chứ không phải là ở trong tâm của mình. Các con biết rằng, bởi vậy cái đặc biệt, lạ lùng cái tâm chúng ta mà nó hết tham, sân, si rồi nó quay vô, nó không phóng dật ra ngoài rồi. Sao lại mọi vật ở bên ngoài động, dụng gì mà ở trong nó biết, nó hay như vậy, chứ không phải là mình cố ý. Mình đâu cố ý bắt ai, mình đâu cố ý rình mò ai, nhưng mà tự nhiên cái tâm nó lắng trong rồi thì ở ngoài nó xảy ra cái gì biết, người ta nói lén mình cái gì đó mình cũng biết nữa, tại tự nhiên cái tâm nó thanh tịnh cho nên nó biết.

Cho nên Thầy nói, Thầy đem cái ví dụ mà Thầy nói chắc các con cũng không hiểu, như hôm qua Thầy có nói, nó giống như một cái gương trong, nó kỳ cục, Thầy chẳng hiểu cái tâm mà nó hết tham, sân, si rồi nó trong như cái gương, thì lúc bấy giờ chúng ta biết nó là định, chứ chúng ta cũng chẳng hiểu gì, nhưng mà ai động dụng gì thì cái gương nó soi, nó soi nó biết. Cho nên các con cố gắng mà các con xả chứ không phải ức chế, ức chế thì nó hiện ra, nhưng mà cái trạng thái hiện đó là nó tưởng.

Cũng như Thầy trong khi mà Thầy tu thiền tri vọng, Thầy ức chế thì các con biết. Khi mà Thầy đi, bình thường Thầy đi kinh hành Thầy đi tới, đi lui thì không thấy gì hết, nhưng mà Thầy khoanh chân Thầy xếp bằng lại, Thầy ngồi lại, Thầy gom tâm lại thì lúc bấy giờ cái trạng thái hỉ, lạc nó hiện ra, thì trước mặt Thầy nó hiện như một cái vũng nước, cái vũng nước làm như một cái kiếng mà nó có thủy, do đó người ta đi ở đâu cũng biết, đi hướng nào Thầy cũng biết, đi hướng nào cũng được, mà đi trước mặt, ở đâu cách 300 - 400 thước, cả ngàn thước vậy, mà ai đi đâu Thầy ngồi Thầy thấy ở trong cái đó. Giờ cũng như Thầy ngồi, cái gương mà Thầy nhìn ở đây mà Thầy thấy người ta đi Thành phố vậy, mà đi rồi Thầy nói trúng chứ không có trật người nào hết, mà ngồi đây, cái đó là thuộc về ma.

(59:57) Cho nên sau này Thầy mới thấy được, cái tâm thanh tịnh nó không phải là cái gương, không phải cái gương hiện trước mặt, mà cái gương hiện trước mặt đây là cái tưởng, tâm của mình nó hiện ra cái gương, rồi nó thực hiện những cái tha tâm lực của mình, làm cho mình biết người ta thế này, thế khác.

Cho nên ở đây nó có hình thức khác nhau, bởi vì ức chế tâm nó mới rơi vào cái trạng thái tưởng, cho nên nó mới có cái tưởng thông, gọi là Tha Tâm Tưởng; cái tưởng thông đó nó thực hiện cái gương đó ra, nó biết người ta đi sau lưng của mình cả trăm thước nó thấy được, nó thấy rõ ràng đi như mình nhìn ở trong đó là mình thấy, nhưng mà nhìn qua bên đây thì cái gương nó chạy qua bên đây, mà nhìn qua bên đây thì gương nó qua bên đây. Nhìn trước gương nó đằng trước, mà nhìn đâu thì có cái gương theo đó, mà nó thấy người ta.

Còn cái này không phải, cái tâm nó lắng trong, rồi tự nhiên ở trong này nó biết, chứ mình không có thấy, nó biết nó nói trúng. Đó là những cái khác, chứ không phải là cái tâm thanh tịnh nó khác, còn cái này là nó thực hiện ra, một cái lạ lùng. Nhưng mà cái gương tâm mà trong suốt này, nó lại nhìn thấy được tham - sân - si, nó thấy nó không tham, sân, si. Bởi vì nó không có để ý cái chuyện gì, người ta chửi nó như tát nước mà nó không có lưu ý, nó nghe chứ nó không phải không nghe, nhưng mà nó không có lưu ý, cho nên nó không giận. Còn mình vừa mới mở miệng ra cái, lưu ý, chú ý người ta liền, người ta nói giận liền. Còn cái này nó làm như dưới nó nằm, nó không chịu chú ý, cái tâm của mình nó làm như là một cái vật gì nó khác, nó không có dính liền với cái thân của mình, cho nên lúc bấy giờ nó ở đâu, nó nhìn cái thân rung động nó ở trong này nó biết vậy thôi, cũng như nó đứng ngoài nó nhìn vô trong đó thôi chứ nó không có ở trong cái thân.

Còn bây giờ cái tâm của các con, nó với cái thân nó dính liền, cho nên khi người ta nói nó thì ở trong thân này nó giận ra, cái tâm ở trong thân này nó giận ra. Còn cái kia dường như là cái người mà nói ly dục ly ác pháp rồi, dường như là cái tâm nó đứng ở ngoài nó nhìn vào cái thân của nó, thành ra nó cứ thấy cái thân nó rung động, nó rung động, cho nên nó rõ ràng nó trong suốt, cho nên có cái gì mà đụng vào cái thân của nó thì nó biết liền, đụng vào cái thân nó biết liền, cho nên người ta chửi mắng nó thì coi như nó đứng ở ngoài cái thân nó không giận. Đó là cách thức mà thấy trên cái bước đường mà tu hành. Thầy giảng nói như vậy, sau này rồi các con tu cái lời này nó vẫn còn, thì các con thấy nó chứng nghiệm rất là cụ thể, rõ ràng.

(1:02:04) Cho nên quý thầy về đây rất là lo sợ Mật Hạnh là tại vì, cho nên cái lúc mà cái thất của nó các con biết, nó ở cái thất giữa, mà quý thầy thì ở xung quanh, mà cái gì động địa của quý thầy nó đều nắm, nó đều biết rõ.

Đó, như vậy thì hiện các con biết cái tuổi nó còn trẻ, nhưng mà chỉ sống độc cứ 3 năm trời, mà thầy nhập thất suốt ba năm ở trong cái giai đoạn từ năm 1991, 1992, 1993, ba năm đó thì Thầy nhập thất đó thì Thầy bắt nó độc cư sống với Thầy thì cái tâm nó quay vô, cái tâm mà độc cư của nó bắt đầu nó quay vô, thì trực giác của nó bắt đầu nó hiện tiền. Từ đó là quý thầy cứ về, người nào mà động dụng phá kỷ luật này kia rồi thì nó biết hết trơn, nó báo cho Thầy hết.

Cũng như mà Thầy Thiện Thuận mà bị ảnh hưởng tẩu hỏa nhập ma thì nó cũng chạy vô nó báo cho Thầy trong khi Thầy đang nói chuyện với cô Út, thì nó báo cho Thầy đi ra xả giùm Thầy Thiện Thuận thì cũng nó báo đó, chứ còn quý Thầy có ai, người nào đâu biết đâu, Các con biết, đó là một bằng chứng để thấy rằng trong cái sự tu tập nó do cái tâm thanh tịnh thì nó sẽ đạt được như vậy. Các con cố gắng các con cứ hướng, bởi vì nó thanh tịnh rồi mình biết lắm, tỉnh thức đó càng ngày càng tăng lên, tức là niệm si nó xả, rồi cái niệm tham nó xả, rồi cái niệm sân nó xả, nó cứ dần dần nó tăng lên. Như vậy là nhờ cái phương pháp độc cư.

Chứ còn nó, Thầy dạy nó các con biết không, Thầy dạy nó từ 3 hơi thở, rồi đứng dậy đi kinh hành, mà đi suốt đêm để mà phá hôn trầm, nó rất là chịu khó, tu tập dữ lắm, nhưng mà nó chưa bao giờ mà nó nghiêm túc bằng lúc mà cái tâm nó quay vô, tự nó nó phá sạch rồi, nó rất là nghiêm túc, giờ nào nó ra giờ nấy. Còn cái kia chuông đồng hồ phải báo, rồi phải dậy này kia rồi sau đó nó thành thói quen thôi, chứ còn chưa có bằng cái tâm nó quay vô.

(1:04:01) Cho nên ở đây phần nhiều các con tu, các con cố gắng mà cứ xả tâm rồi độc cư đi, chỉ có bí quyết là thành công ở chỗ độc cư, thì nó sẽ đưa cái tâm của các con đến cái chỗ mà giải thoát hoàn toàn tham, sân, si nó lìa ra hết, vì nó quay vô rồi thì nó hết tham, sân, si, còn nó phóng dật ra ngoài nó bị tham, sân, si hết. Nghĩa là bây giờ chúng ta thấy cái tâm của chúng ta đang ở bên ngoài chứ chưa phải là bên trong đâu. Còn nó vô bên trong, ở bên ngoài nó không biết đâu. Mình ngồi đây thì mình nghe cái sự động dụng trong thân của mình, luôn luôn. Còn bây giờ mình phải chú ý rồi mình mới nghe, rồi cái một lát nữa mình quên chú ý nó ở ngoài nó đi qua hết, nó không ở trong này. Còn cái này tự nó vô đó rồi nó cứ nằm đó nó hoạt động thôi, nó không có còn nghe gì ở bên ngoài nó không biết gì. Có tiếng động rồi nó cũng nghe, nhưng mà nó không có phân biệt, tự nó nó không có phân biệt.

Cho nên cái điều kiện mà Thầy muốn nhắc ở đây để cho các con thấy là độc cư là bí quyết của thành công của sự tu tập thiền định. Cho nên càng độc cư bao nhiêu thì nó lại càng hay bấy nhiêu, độc cư không có nghĩa là sống tịnh khẩu, nhập thất như kiểu người ta hiểu, mà mình sống chung với mọi người, nó cũng sống chung với mọi người nhưng không nói chuyện với ai hết, ai lại thất nó là đóng cửa lại liền chứ không có. Cũng như Minh Tông này, ai lại thất nó thì nó đóng cửa liền, nó bắt chước Mật Hạnh, hồi mới lên đây nó bắt chước theo Mật Hạnh, ai lại thất nó nó đóng cửa liền, không nói chuyện. Nó đi ở ngoài này mà hễ mà ai đi theo mà kiếm chuyện nó nói thì nó đi nhanh, mà đi nhanh nữa nó chạy, coi như nó sợ vậy đó.

Còn tới giờ ăn cơm con biết hồi đó ra tập trung ở trai đường. Rút tỉa những kinh nghiệm này các con biết rằng công phu rất là khó chứ không phải dễ, độc cư nó khó. Người ta thấy mình ít nói, thì họ bao giờ huynh đệ thì đông, họ bao giờ cũng tìm cách làm quen, cho nên nó chờ cái giờ mà sắp sửa mà thấy Thầy ôm bát Thầy ra thì nó mới ra, thế mà Thầy ra rồi Thầy xới cơm thì bắt đầu thì cũng chờ thầy Như Hải xới trước, bởi vì thầy Như Hải đứng trước mà nó đến sau, thì nó cũng chờ cho quý Thầy. Thì trong khi nó đứng, nó lựa cái chỗ nào mà cách xa quý thầy nó đứng, ở đâu cũng vậy, ai lại nói chuyện là đóng cửa, ai lại nói chuyện là đóng cửa, coi như chẳng tình cảm với ông nào, không quen ông nào hết.

(1:06:4) Cho nên từ đó họ không tình cảm nó thì họ lại ghét nó chứ không gì, nhưng mà sau này nó lại bắt người ta nhiều quá, họ còn ghét hơn, đó là cách thức như vậy, vừa ghét, vừa sợ mà cũng là vừa kính nữa. Giới luật nó rất nghiêm chỉnh nó không có vi phạm, người nào mà vi phạm là bị, nói chuyện là bị nó hết mà, cho nên rất sợ nó.

Đó, là những điều kiện trên cái thời gian ở trong tu viện này là như vậy. Mà cái số người mà độc cư được như vậy Thầy thấy quá hiếm, quá hiếm không có.

Thầy nhìn chung bên nữ các con có người nào độc cư tốt không, chưa, không có người nào độc cư tốt, phải không? Cho nên từ đó chỉ có Từ Nguyện nó khá hơn một chút nhưng mà sự thật ra cũng chưa tốt đó, nghĩa là khá hơn mấy con chút, chứ còn chưa có tốt được, nhưng mà nó nhiều khi nó khá hơn chút nhưng mà nó bị ức chế tâm thì sao, đó là những cái khó khăn.

Cho nên bây giờ con Từ Hạnh, bây giờ con về đây cũng là con phải cố gắng đó, chớ không phải là vấn đề độc cư phải tập, chứ không phải không tập không được, mà phải tìm cách tránh né dữ lắm đó, mới thắng được chứ không phải không. Sống trong chúng đông đảo mà mình biết pháp mình tu tập thì mình giữ gìn mình sống trong pháp, Phật gọi là “tùy pháp, sống trong pháp, luôn luôn thực hiện mình như pháp, pháp như mình” thì người đó sẽ thành tựu mau, bởi vì Phật dạy như vậy mà.

Còn về cái khi bệnh mà các con thấy, khi mà cái tâm mình nó thanh tịnh rồi thì nó nhu nhuyễn, nó dễ sử dụng, thì mình muốn bảo làm sao thì nó được vậy, cái đó mình đâu có cần lo nữa. Còn bây giờ mình lo mình xả cái tâm cho nó thanh tịnh, nó thanh tịnh thì nó sẽ nhu nhuyễn, nó sẽ dễ sử dụng. Còn nó chưa thanh tịnh thì nó cứng đầu như con trâu dữ, nó không có chịu nghe mình đâu. Khó mà cột vào, cột mũi nó chứ không phải dễ, đó là cách thức tu như vậy. Vì vậy từ những cái rút tỉa kinh nghiệm này, đối với huynh đệ là những cái bài học thực, là những cái bài học thực để chúng ta lấy những cái kinh nghiệm này để mà tu tập cho mình chứ không khéo rồi uổng cuộc đời của mình sao. Mình đi tu rồi mà.

(1:08:01) Cả như các con bên nữ các con biết, các con đã về đây có đứa 3, 4 năm rồi, mà chúng ta rút tỉa những kinh nghiệm của các bạn đã đi qua chúng ta, những người đó họ thực hiện không đúng, sai, nhắc nhở họ quá nhiều mà họ không làm được, họ đi ra họ còn ôm hận họ không chịu xả tâm. Mục đích mình đây là xả tâm mà, có gì mà phải hận thù với nhau, có gì phải ghét nhau mà phải nói xấu nhau, thế mà đi ra mình nói xấu thế này, thế kia, tức là mình tạo thêm nhân quả cho mình chứ người ta có ăn thua gì người ta đâu.

Con thấy như, nếu mà cô Út mà cô có tâm ác xấu thì chắc chắn là cô phải thọ lãnh những cái quả đối với những người mà cô làm ác xấu gì, như cô Minh Cảnh. Nhưng mà rốt cuộc rồi cô Minh Cảnh lại thọ lấy những cái quả khổ của thân cô, quá là khổ.

Rồi còn cô Diệu Hồng thì ở đây thì cô Diệu Hồng cũng tu rất tốt, các con biết cổ ngồi 8 tiếng đồng hồ mà cô thấy có một hơi thở đi vô mà không có đi ra, thì cô thở cô vô không, cô hít vô không mà cô không có thở ra, mà cô không chết, thì không phải là cô hay sao? Nhưng mà cuối cùng thì cô đạt được như vậy, ngồi 7, 8 tiếng, gần 10 tiếng đồng hồ, thế mà có thấy giải thoát gì, được gì? Mà đi ra cô còn phiền não, cô còn đau khổ như vậy, thì rốt cuộc rồi cái tâm không xả là như vậy, làm sao gọi là giải thoát.

Nhưng mà cuối cùng rồi các con thấy, ở đây vốn mình nhắm vào cái sự xả tâm để làm chủ mà không nhắm vào mà cứ nhắm vào thiền định, rồi thiền định đó để làm gì? Thì các con biết, như cô Minh Cảnh ngồi 6, 7 tiếng đồng hồ này, Thầy Như Hải ngồi lâu nè, rồi cô Diệu Hồng ngồi lâu nè, Đào thì ngồi rất tốt này, người nào cũng ngồi tu thiền rất tốt hết, lạc vào thiền tưởng có đủ hết, không có người nào mà về đây mà không …​ cái tu hành đó hết. Nhưng mà cuối cùng rồi có người nào mà Thầy ấn chứng cho họ gọi là họ đã giải thoát được không, Thầy chê không à, bảo họ cứ xả không à. Mà rốt cuộc rồi các con thấy người nào xả được cái tâm giải thoát nào? Chưa có người nào xả được cái tâm giải thoát, chỉ có những cái thiền tưởng là duy nhất. Có những cái trạng thái này, trạng thái kia xảy ra nhiều nhất, mà cái tâm giải thoát thì chưa có ai hết.

(1:10:09) Đó, thì hôm nay có thì chúng ta sẽ thấy rất rõ gì, thì đụng chuyện là chúng ta biết người đó giải thoát hay không giải thoát chúng ta biết liền. Thì như vậy là hôm nay Từ Hạnh con về đây phải nỗ lực thực hiện sống độc cư trong cái thời gian về đây thì coi như là 5, 10 ngày hay 1 tuần lễ, để mà thực hiện cho đúng cái hạnh độc cư, rồi lấy cái quen này để mà thực hiện trong cái thời gian, đó thì còn thưa hỏi Thầy những cái gì để mà Thầy trả lời. Vừa là trả lời cho con, mà cũng vừa trả lời chung cho tất cả chúng để rút tỉa thêm những kinh nghiệm trên bước đường tu tập của mình để mà tu tập cho nó đúng cách, cho nó mau cái thời gian. Nó không còn dài nữa mà phải thực hiện cho sớm, để rồi mình còn làm biết bao công việc khác cho lợi ích cho mọi người nữa.

HẾT BĂNG

 

Pháp Âm - 1998 - GIỚI LUẬT 04 - TỈNH THỨC ĐỂ XẢ TÂM

GIỚI LUẬT 04 - TỈNH THỨC ĐỂ XẢ TÂM

GIỚI LUẬT 04 - TỈNH THỨC ĐỂ XẢ TÂM

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Ngày giảng:

Thời lượng: [51:47]

Người nghe:

1- BÍ QUYẾT THÀNH CÔNG CỦA THIỀN ĐỊNH LÀ ĐỘC CƯ

(00:01) Trưởng lão: Hôm nay có một buổi giảng đột xuất, tại vì mấy con có, Từ Hạnh có ý muốn xin về phải không con? Do đó thì trước khi Thầy sẽ giải quyết cho mấy con đã, thì mấy con trình bày cho Thầy nghe, bây giờ trong cái thời gian ở trên này tu thì tu tập như thế nào? Coi như là thời gian cũng cả tuần lễ thì sự tu tập ra sao, và cách thức mình xả tâm như thế nào? Bởi vì ở đây thì coi như là cái lò trui luyện để cho mình xả tâm với cái mục đích ly dục ly ác pháp.

Ở đây cái ác pháp nó không những bên ngoài mà cái ác pháp nó còn ở trong tâm của mình. Bởi vì một khi mình đã tự làm khổ lấy mình, thì mình không đạt giải thoát của Đạo Phật. Chính cái mục đích của Đạo Phật là nhắm vào xả ly cái tâm của chúng ta, chừng nào mà tâm hết tham,sân,si,cái đối tượng mà đau khổ muôn đời của con người, cái đối tượng mà người đi theo Đạo Phật là nhắm vào để quyết tâm quét sạch thì mới mong giải thoát.

Nếu chúng ta quyết tâm tu để giải thoát, thì chỉ có con đường duy nhất của Đạo Phật mới quét sạch được tâm tham, sân, si của chúng ta mà thôi. Mà muốn được vậy thì chúng ta phải hết sức tu tập, phải hết sức gian khổ.

Con đường tu tập theo Đạo Phật phải nói rằng muốn làm chủ được thân, tâm của mình thoát ra khỏi ba cái ác pháp tham, sân, si không phải là một việc dễ làm. Mà đạt được nó rồi thì tất cả những thiền định gì mà chúng ta muốn đều thực hiện một cách dễ dàng, cho nên rất khó là khó ở bước đầu. Vì vậy mà bắt đầu vào Giới luật của Phật chúng ta thấy rất là khó khăn, giới luật quá nhiều, mỗi hành động, mỗi lời nói của chúng ta đều rất là khe khắt, khiến cho chúng ta phải giữ gìn, phòng hộ mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình hết sức không dám nói ra lời, không dám hành động vô ý, đó là cách thức mà chúng ta phải tu tập.

(2:55) Cho nên cái bí quyết mà thành công của thiền định của Đạo Phật, tức là độc cư, sống trầm lặng, sống một mình thì may ra chúng ta mới dùng pháp hướng như cái lý của đạo mà tác cái ý ra, để làm cho nó thấm nhuần tâm hồn chúng ta để xả ly tham, sân, si. Nếu không có cách đó thì chúng ta không còn cách nào mà có thể xả ly được tâm của chúng ta hết; đó là cái khó, cái khó nhất.

Vậy thì bây giờ con hãy trình bày, trong một cái thời gian ngắn về đây tu tập, dù ít, dù nhiều chắc chắn cũng phải có một cái sự cố gắng, nếu không có cố gắng thì về đây làm gì, thì có sự cố gắng thì xét thấy qua cái thời gian tu tập đó.

Cái thứ nhất là về sức tỉnh thức, sức tỉnh thức như thế nào? Mình tu tập trong cái thời gian trong một tuần lễ mà mình thấy rằng trước kia mình tỉnh thức ở trong một phút, bây giờ được một phút rưỡi, hai phút. Hoặc là trước kia mình có được mười hơi thở mà nay được mười lăm hơi thở, thì đó cũng là một bước tiến khá dài. Còn từ ngày về đây cho đến bây giờ một tuần lễ, mà mười hơi thở vẫn mười hơi thở mà còn tạp niệm xen vô, hay hoặc là hôn trầm mà chưa phá được chút nào, chưa khắc phục được chút nào thì đó là mình còn dở.

2- TU TẬP ĐÚNG LÀ THẤY KẾT QUẢ NGAY LIỀN

(04:23)Còn dở thứ nhất nó không phải mình dở, mà thứ nhất là tại vì mình có tu tập sai. Bởi vì Đức Phật đã xác định pháp môn của Phật, nếu không tu thì thôi, mà đã tu thì phải thấy có sự kết quả chứng nghiệm liền, thấy sự giải thoát, chứ không phải tu mà không thấy, nếu mà tu mà cứ mãi mà không đạt kết quả thì chắc chắn là người ta sẽ không tin tưởng được, mà không tin tưởng được thì người ta phải bỏ cuộc.

(4:52) Bởi vậy, Đức Phật xác định, nếu mà một pháp môn mà tu không kết quả, thì chúng ta thấy rằng trong khoảng thời gian mà chúng ta thấy không kết quả thì chúng ta nên bỏ, không nên tu. Thời Đức Phật cũng vậy, mặc dù là khi đi tu thì Ngài chưa có cái Đạo Phật, chưa có giáo pháp, Ngài phải theo giáo pháp của ngoại đạo, Ngài cũng nỗ lực hết sức nhưng mà một thời gian Ngài đã bỏ các pháp đó đi. Nghĩa là từ cái pháp dễ, cho đến pháp khó, lần lượt đến những cái pháp ức chế thân tâm tối đa, Ngài cũng thực hiện tận cùng để đạt cái kết quả giải thoát. Những pháp ức chế thân, tâm tối đa Ngài thực hiện sắp sửa gần như chết, thế mà cuối cùng thì Ngài cũng đành bỏ, để rồi trở về với cái lộ trình mà tự Ngài đã tìm ra được đó là Ly Dục Ly Ác Pháp.

Khi chứng đạo, Ngài biết rằng cái pháp môn này tu hành rất khó đối với chúng sanh, khó mà tu được, cho nên Ngài từ chối không muốn đem pháp môn này dạy lại cho người đời sau. Chỉ vì Ngài thấy nó quá khó, không thể nào mà con người tu tập nổi được, cho nên Ngài muốn nhập diệt và không đem pháp môn giảng lại cho đời sau.

(6:12) Nhưng đó là cũng còn cái nhân duyên tốt, cho nên Ngài để lại cho chúng ta. Nhưng mà nhìn trước, nhìn sau ai là người đã được giải thoát hoàn toàn tham, sân, si? Từ khi Đức Phật cho đến giờ chúng ta biết ai. Người ta nói, nhưng sự thật người ta có hết tham, sân, si hay chưa? Hay người ta còn giận hờn, phiền não, hay người ta còn đau khổ trong tâm người ta, hay người ta còn mang đầy ác pháp? Đó là những điều mà chúng ta còn khắc khoải.

Đạo Phật có, pháp môn có, nhưng khi Đức Phật đã nói rằng Đức Phật thấy chúng sanh không thể tu theo Pháp môn này nổi, nhưng rồi Ngài lại dạy cho chúng ta. Thế rồi chúng ta thấy rằng chúng ta tu có nổi không? Đó là một điều xác chứng. Chúng ta thấy sức mình tu không nổi thì chúng ta sống với một đạo đức của một con người cũng đủ lắm rồi, chúng ta không nên đi xa hơn, vì xa hơn sức chúng ta chưa đủ, chúng ta tự lượng sức mình. Như Đức Phật ngày xưa, Ngài cũng xét được chúng sanh không thể đi trên con đường này nổi, nhưng không giảng dạy, không để lại cho đời sau có những bậc đủ căn cơ, đủ sức, đủ nghị lực; người ta có thể tu tập được, nên Ngài để lại.

Vì vậy mà chúng ta chưa biết mình là người đủ căn cơ, đủ sức hay không? Chỉ có những người gan dạ, thấy biết thế gian này như mộng, như huyễn, như hoa đốm giữa hư không, các pháp đều là duyên hợp, không có gì là thật có. Chúng ta hiểu biết rõ từ thân này, tâm này không có gì là thật có của mình cả hết. Do nhân quả tạo thành duyên hợp mà có ra để khổ, để đau, để chịu mọi thứ, để dằn vặt mọi thứ chỉ vì sự hoạt động của luật nhân quả mà thôi, chẳng có gì của mình trong đó cả. Thế rồi chúng ta không hiểu biết, lầm chấp cho nên từ đó chúng ta cứ thấy mãi đau khổ, phiền não, giận hờn bằng cách này, bằng cách khác để rồi cuối cùng trôi lăn mãi trong đường nhân quả, tiếp tục kiếp này đến kiếp khác mà không chấm dứt được.

(8:30) Vậy thì, con hãy trình bày để xét qua cái thời gian tu tập. Rồi nếu mà có về tu tập thì phải ráng cố gắng hơn nữa. Con đường khó, rất khó không dễ. Nếu ai nói Đạo Phật dễ tức là chúng ta đã bị người ta lừa đảo. Nếu tu mà lơ mơ thì chắc chắn không bao giờ tới, tu làm sao như cục đất thì mới tới. Chứ còn tu mà lơ mơ thì không bao giờ đến, nghĩa là suốt ngày không có một tiếng nói, quanh năm không có một tiếng nói, cho nên ngày xưa các tổ nói “miệng không để meo mốc”, chúng ta hầu hết không để meo mốc cho nên vì vậy mà chúng ta tu không tới.

Theo Thầy thiết nghĩ căn cơ của con người, người nào cũng có căn cơ làm chủ được sự đau khổ này hết, chứ không có người nào không có. Nhưng mà tại vì chúng ta còn mê mờ, chấp có, chấp không cho nên chúng ta không quyết tâm nỗ lực xả bỏ, không coi thân tâm của mình như đất, cho nên vì vậy mà mình còn có…​Vậy con trình bày cho Thầy nghe, sau mấy ngày ở lại đây tu tập.

3- PHẢI NỖ LỰC PHÁ HÔN TRẦM

Cứ ngồi, cứ ngồi đi con. Đừng quỳ.

(10:15) Hôn trầm nói không đơn giản đâu con, chiến đấu lắm, nghị lực lắm, nhất định quyết sống chết với nó. Thí dụ như giờ này chưa phải giờ chúng ta đi ngủ mà nó lười biếng nó buồn ngủ, đừng có dễ dãi với nó mà chúng ta sẽ không làm chủ nó. Đừng coi thường cái hôn trầm đâu, mà phải chiến đấu hết tận cùng, nhất định là đúng giờ là đi ngủ, mà không đúng giờ là chết thôi chứ nhất định là không ngủ. Nghĩa là chúng ta có thể bò, chúng ta có thể lết, nhưng mà chúng ta không có lại cái giường chúng ta nằm, mà không có lại cái ghế, mà không dám ngồi nữa. Nghĩa là đi, đứng không, mà chân rụt hết thì chúng ta chỉ bò tới, bò lui như thế nào để cho tới đúng giờ là chúng ta ngủ.

Tới chừng mà nó bị buồn ngủ rồi, nó gọi là hôn trầm nặng, thì đứng nó cũng ngủ, đi nó cũng ngủ nữa, mà nó lảo đảo, nó té tới, té lui, nó không còn tỉnh nữa, nhưng mà làm sao? Lúc bấy giờ chúng ta không có cách thức nào hơn là cách thức chúng ta chỉ động thân để mà chịu đựng với nó thôi chứ còn không có cách nào hết, để kéo dài cái thời gian đó phải có một cái nghị lực hết sức.

Cho nên ở đây khi mà chúng ta chiến đấu được cái ngu si, cái vô minh của chúng ta là cái buồn ngủ đó, nó biến thành cái lười biếng của chúng ta mà thiếu tinh tấn sau này thì chúng ta phải chiến đấu hết sức chiến đấu. Chứ nếu mà chúng ta đã nghe theo nó một cái là chúng ta sẽ tiêu liền tức khắc.

Ở đây có nhiều vị lắm, nghĩa là sau cái thời gian bị hôn trầm rồi thì thôi để nghĩ rằng mình sẽ ngủ đi, rồi mình tỉnh mình sẽ tu, người đó ngàn đời tu không tới đâu hết, hoàn toàn không tới đâu, không chiến thắng nổi hôn trầm tức là không chiến thắng nổi vô minh.

Và lý luận, lý luận để chúng ta ngủ cho khỏe rồi chúng ta thức dậy chúng ta tu. Cái đó tu cái gì? Mình bây giờ mình thức dậy mình tu để mình giữ cái tâm tỉnh thức ở trong hơi thở để ức chế vọng tưởng của mình chứ làm gì, mà trong khi mình tu để mình phá được cái lười biếng của mình, tức là cái buồn ngủ, cái lười biếng nó sai khiến mình, cái này mới là chính cái chúng ta chiến thắng vô minh. Mà mục đích chúng ta làm chủ được sự sống, chết thì chúng ta làm chủ được tâm của mình là hết vô minh.

(12:18) Đạo Phật là phải quét sạch vô minh. Mà vô minh, cái tướng vô minh là cái gì - là cái tướng ngủ, cái lười biếng là tướng vô minh. Chứ không phải vô minh rồi chúng ta ngủ mặc ngủ, rồi lười biếng mặc lười biếng, chỉ cần học cho biết nhiều tất cả cái Tam tạng Kinh điển, Thánh điển mình thuộc làu hết, thì chắc chắn là mình hết vô minh, không có!

Một cái người dù có học Tam tạng Thánh điển thông suốt, mà vẫn còn lười biếng, vẫn còn ham ngủ thì người đó giờ có thông suốt Tam tạng Thánh điển họ cũng là người vô minh. Đó là một điều xác chứng thật sự như vậy. Cho nên mỗi tâm trạng của chúng ta, mỗi cái gì nó hiện tướng ra thì chúng ta phải chiến thắng. Cho nên con phải chiến thắng, mặc dù nó còn chỉ năm phút, mười phút nữa, hay hoặc là một tiếng đồng hồ chúng ta sẽ chiến thắng tận cùng, quyết định sống chết với nó, gan dạ với nó. Chết là chết, nhất định không để thua nó, như vậy là chiến thắng tâm mình.

Cho nên kinh Pháp Cú Phật dạy không có chiến công oanh liệt nào hơn là chiến thắng lại tâm mình. Mình thắng lại nó mới là một chiến công oanh liệt. Đó là cách thức tu tập của chúng ta. Vậy thì con hãy cố gắng trở về, nỗ lực thực hiện xả tâm.

Nếu mình còn quyết tâm đi trên con đường này để cầu giải thoát thì phải thực hiện cái thứ nhất, nhớ kỹ, Thầy nói nhắc chung các con, phải tập độc cư. Nếu độc cư được thì các con sẽ xả tâm, nếu độc cư không được thì sống khó lắm. Đó là cái điều kiện cần tu tập, và sau bữa cơm trưa nay con về, thì con hỏi Thầy thêm gì nữa không?

4- THIỀN XẢ TÂM

Con thấy rằng cái thiền định đó nó luôn luôn nó ở trong cái tỉnh giác để nó giữ cái chánh niệm. Chứ không phải nó luôn luôn nó ở trong cái tỉnh giác rồi nó ở trong tỉnh giác luôn, thì nó đâu có chánh niệm nữa. Nó cứ tỉnh giác không thì cái niệm chánh nó đâu?

(14:10) Các con thấy chưa, cho nên chúng ta hiểu sai rồi chúng ta tu sai. Cho nên chúng ta hiểu sai rồi chúng ta tu sai. Cho nên Phật pháp nó sai là như vậy, nó biến từ cái chỗ xả tâm trở thành cái thiền ức chế tâm, bởi vì luôn luôn mình giữ tâm mình ở trong cái tỉnh giác, cho nên mình bị ức chế tâm, đâu có cái niệm chánh đâu cho nên làm sao xả. Còn mình ở trong cái niệm chánh thì tức là mình sẽ xả được cái tâm. Cho nên gọi là Thiền Xả Tâm, còn thiền kia gọi là thiền ức chế tâm.

Đây, hôm nay Thầy giảng cho các con thấy rất rõ, vì vậy mà chúng ta luôn luôn ở trong cái chánh niệm. Khi cái chánh niệm còn thì làm sao niệm vọng tưởng xen vô, phải không? Bởi vì luôn luôn: “Quán ly tham tôi biết tôi hít vô, quán ly tham tôi biết tôi thở ra”. Thở ra hít vô tức là tỉnh thức ở trong hơi thở; để ly tham, ly sân là chánh niệm.

Con có biết cái pháp hướng người ta vừa nhắc tỉnh thức, vừa là chánh niệm nó luôn xả, xả hai cái phần nó rõ ràng. Cho nên thỉnh thoảng năm, mười hơi thở thì ta lại nhắc nó một lần năm, mười hơi thở. Cho nên suốt cái thời gian mười phút hay là ba mươi phút mà luôn luôn tu như vậy, thì hàng ngày mà nỗ lực tu như vậy cái tâm nó xả ly biết bao nhiêu không?

Còn bây giờ chúng ta cứ ngồi im lìm ở trong hơi thở rồi hễ có một niệm gì xen vào thì cho nó là vọng tưởng, tác ý ra cái pháp hướng cũng cho nó là vọng tưởng thì như vậy là chúng ta tu thiền gì, thiền ức chế tâm, chứ không phải là thiền xả tâm. Bởi vì từ cái chỗ tu tập cái tỉnh thức, như chúng ta dùng cái sổ tức để tỉnh thức ở trong cái sổ tức hơi thở để rồi chúng ta chuyển qua. Bây giờ chúng ta đi từ cái chỗ này quen rồi bây giờ chúng ta lại ở trong cái chỗ tỉnh thức mà không có ở chỗ chánh niệm, cho nên chúng ta phải đi ngay từ vào cái chỗ - Từ lâu thì Thầy dạy các con đi từ chỗ chánh niệm để rồi chúng ta xả tâm của mình.

Bắt đầu bằng sổ tức để giữ cái chánh niệm, nhưng mà chánh niệm được rồi thì cái tâm chúng ta xả nó không có hết, cho nên vì vậy hiện giờ Thầy thấy, đi từ cái chỗ mà, từ các cái thiền của tổ, từ cái quán Sổ tức quan, cho đến thiền của Phật dạy Định Niệm Hơi Thở, thì nó làm cho chúng ta mất cái thì giờ rất lớn là vì chúng ta không có ở trong Chánh niệm xả tâm, mà cứ ở trong cái niệm sổ tức để mà ức chế tâm mà thôi.

Cho nên do đó mà Thầy thấy cái thời gian mất rất nhiều là vì thăm dò được cái loại thiền này nó làm cho người ta tốn biết bao nhiều sức lực. Cuối cùng người ta chẳng đạt được gì. Cho đến giờ này rút tỉa nhiều kinh nghiệm từ sự tu tập của các tu sĩ thì thấy rõ ràng các kết quả tu Xả tâm chẳng có xả tâm, chẳng có ở trong Chánh niệm. Cho nên bây giờ trở về ngay hiện con đường tu của Đạo Phật, tu tập từ cái Định Niệm Hơi Thở xả tâm liền tức khắc, từ trong Chánh niệm xả tâm liền, không có để thời gian kéo dài một giờ rồi hai giờ trong cái sự tỉnh thức rồi mới xả tâm.

(17:12) Nghĩa là tỉnh thức trước rồi xả tâm sau thì nó không phù hợp; rút tỉa từng kinh nghiệm thì thấy rất rõ cái điều này. Cho nên hiện giờ chúng ta cứ tỉnh thức đâu là xả tâm đó liền, cho nên Chánh Niệm - Tỉnh Giác Định là hai cái này nó đi song đôi nhau, nó không làm cho chúng ta thất niệm.

5- LÀM CHỦ THỜI GIAN ĐÚNG THỜI KHÓA ĐỀ RA - TU TẬP VỪA SỨC

Đó là cách thức tu tập, nhớ kỹ như vậy. Vì vậy tùy theo đặc tướng của mình mà bây giờ con về chia, khoan đã, nâng cái thời gian mình lên. Mà nếu đã nâng cái thời gian lên thấy sức của mình, nâng lên mà lúc bấy giờ thấy có hôn trầm thì phải chiến đấu tận cùng, không có để lui lại, không có để tới lui tới lui.

Thí dụ bây giờ chọn từ bảy giờ đến mười giờ phải đi ngủ; hai giờ đến năm giờ, thì sáu giờ thức dậy luôn, không có ngủ lại. Mà chọn như vậy thì nhứt định, thí dụ như từ bảy giờ đến chín giờ mà nó buồn ngủ rồi, nhứt định còn một giờ đến mười giờ là nhứt định sống chết với nó là nhứt quyết tu đó. Đó là cách thức tu rất mạnh. Phải tìm mọi cách, mọi khả năng như thế nào để làm chủ, không được để nó sai khiến mình đi ngủ. Rồi từ hai giờ thức dậy mà nó buồn ngủ không chịu dậy, thì phải tìm cách làm sao cho nó thức dậy chứ không thể ráng nằm thêm.

Nhất là cái thời gian đó là thời gian lười biếng lắm, mà khi tu cho tới năm giờ, bốn giờ mà nó buồn ngủ trở lại, nhất định chiến đấu với nó không được cho nó ngủ lại, chớ nó cũng có thời gian nó buồn ngủ lại. Cho nên, khi mà tăng lên thì quyết định phải giữ gìn giờ giấc cho nghiêm chỉnh, không được trồi sụt nữa.

(18:56) Mà không tăng, để với cái thời gian vừa với sức của mình thì có thể kết quả tốt hơn. Và sau khi mình tu tập làm chủ được cái thời gian ngủ, nghỉ cho đúng cách thì lúc bấy giờ chúng ta sẽ thấy khả năng mình có thừa, sức tỉnh thức cao, chúng ta tăng lên. Còn nếu tăng lên sớm quá thì chúng ta không đủ cái nghị lực, không đủ cái sức lực chiến đấu với cái hôn trầm, vì cái bệnh hôn trầm, cái bệnh lười biếng rất là nặng. Con người mang cái bệnh này rất nặng chứ không phải nhẹ đâu. Mà nếu mà một cái người nghị lực yếu là không thể nào chiến thắng.

Vì ở đây có nhiều người đã không nghe lời Thầy, tăng lên cái thời gian quá dài, họ tăng lên đến mười một giờ, mười hai giờ chứ không phải không đâu. Nhưng mà cuối cùng người nào cũng bật ngửa hết, không có người nào mà thắng nổi nó hết đâu. Chúng ta phải có cái thời gian ngủ, và đồng thời chúng ta cũng biết cái tâm nó rất là quỷ quyệt. Khi giờ ngủ nó không chịu ngủ, mà sắp sửa tới giờ thức dậy thì nó ngủ, coi chừng cái tâm của chúng ta nó có đủ cái mánh khóe nó làm chúng ta lệch lạc giờ giấc để làm chúng ta sai lệch vì vậy mà chúng ta phải cố gắng chiến đấu từng phút. Trước khi nằm ngủ nó không chịu ngủ thì hướng tâm nhắc nó, rồi nương nhẹ vào hơi thở để cho nó ngủ, để cho đúng giờ đúng khắc, sau đó quen rồi thì rất dễ.

Đó thì cách thức tu tập là như vậy, phải cố gắng và khi mà nhiếp trong hơi thở để mà tập xả tâm bằng cách quán ly tham, ly sân, ly si. Hoặc là “quán tâm như cục đất”, thì con phải chọn cái thời gian ngắn, đừng có để tạp niệm xen vô, để mà thất niệm của mình. Tùy theo cái khả năng của mình, nếu được ba mươi phút thì cũng tốt, mà nếu không thì mười phút, năm phút hoặc là một phút, rồi từ tập luyện, rồi tăng dần lên, thì cái đó có kết quả.

Đừng có để cho có thất niệm, mình tu nhiều tu ba mươi phút mà để cho thất niệm thì sai. Thà là chúng ta thay đổi, tu một phút rồi đứng dậy đi kinh hành tu tập, rồi nếu mà chúng ta thấy cái sự tập trung tu vừa ngồi vừa đi kinh hành nó quá mỏi mệt thì trong khoảng thời gian ba mươi phút đó thì chúng ta có thể xả nghỉ. Xả nghỉ thư giãn chứ không phải bắt buộc chúng ta suốt trong cái thời gian vừa ngồi mà vừa đi kinh hành mà cho đúng ba mươi phút để rồi chúng ta mệt mỏi chúng ta không đủ sức tỉnh thức, thì tạp niệm sẽ xen vào, và như vậy cái kết quả chúng ta không cụ thể. Nhớ kỹ trong cái bước đường tu thì các con phải khéo léo, linh động, chứ còn không khéo léo linh động thì coi chừng sẽ dậm chân tại chỗ mất đi, không kết quả đâu. Đó là cách thức tu.

Con còn hỏi gì Thầy thêm nữa không?

6- MỤC ĐÍCH TU TẬP TỈNH THỨC TRONG MỌI HÀNH ĐỘNG

(21:45) Được, nhưng mà nhắc tỉnh thức không bằng con hãy nhắc - khi mà mình thấy mình nhớ được tỉnh thức mình nhắc nó tỉnh thức, tức là mình tỉnh thức rồi, thì mình nhắc “tâm tỉnh thức”, rồi vừa biết nó làm công việc, vừa quét sân, vừa chặt củi hay làm gì đó thì con lại tiếp tục con lại nhắc: “Quán ly tham tôi biết tôi chặt củi, quán ly tham tôi biết tôi quét sân”, thí dụ mình đang quét thì mình ngay đó mình ly tham, ly sân, ly si. Bởi vì lấy tỉnh thức của cái hành động đó để mà xả cái tâm, thì nhớ như vậy. Cho nên chúng ta kèm luôn một cái niệm, cái niệm pháp hướng để như cái lý mà tác ý cho nó thấm, nó thấm nhuần cái lý giải thoát, nó làm cho chúng ta giải thoát được thật sự thân tâm của mình không còn tham, sân, si nữa.

Chứ còn mình nhắc tâm thanh thản, tỉnh thức thì như vậy là chỉ nhắc nó tỉnh thức thôi, nó chỉ biết ở trong hành động thôi. Cho nên từ lâu thì các con cũng biết rằng có nhiều nhà học giả, có nhiều Hòa thượng, có nhiều thầy cũng dạy chúng ta tu trong mọi công việc để chúng ta tỉnh thức trong mọi công việc, nhưng mà cái mọi công việc tỉnh thức để làm gì đây, phải không?

Mình tỉnh thức để làm cái gì đây? Tỉnh thức để xả tâm, chứ tỉnh thức để tỉnh thức có nghĩa lý gì?

Cho nên người ta dạy mình tỉnh thức để mình đi vào thiền định chứ gì, nhưng mà thiền định này để làm cái gì? Mục đích nó có làm cái gì đâu, bởi vì nó tỉnh thức thì nó đi đến tĩnh lặng thôi chứ nó đâu có gì hơn!Bây giờ nó không tạp niệm nó kéo dài chúng ta tỉnh thức, thì nó đi đến cái mục đích của nó là nó tĩnh lặng thôi, nó yên lặng ở trong cái trạng thái không có tạp niệm.

Còn mục đích của mình là khác không phải như các nhà học giả dạy. Bởi vì các ngài cứ nghĩ rằng cái tâm mình thiền định là cái tâm hết vọng tưởng chứ gì, cho nên tỉnh thức. Do cái chỗ tỉnh thức đó nó không đưa đến chúng ta cái kết quả nhằm cái mục đích giải quyết Sanh - Lão - Bệnh - Tử, cái đời sống khổ của chúng ta.

Còn ở đây chúng ta vừa tỉnh thức, bây giờ trong hành động vừa quét chúng ta vừa nhắc “Quán ly tham tôi biết tôi quét sân”, thì rõ ràng là nhắc để quét sân là tỉnh thức rồi, mà “ly tham” tức là xả tâm.

Tỉnh thức thì phải xả tâm, cho nên tỉnh giác thì chánh niệm. Các con hiểu chưa? Hiểu được như vậy thì hàng ngày chúng ta tu tập chúng ta cứ kèm theo một cái pháp hướng Như Lý Tác Ý, cứ tác ý nó ra ngoài.

(24:09) Cho nên hơi thở cũng vậy, công việc làm, chúng ta làm tất cả những cái chúng ta đều làm như vậy thì thử hỏi ai nói chuyện với chúng ta được, bởi vì lúc nào chúng ta cũng lo ly tham, ly sân, ly si, tâm như cục đất của mình, quán xét tâm như cục đất của mình để mà tu tập thì còn cái chuyện gì mình nói chuyện với ai.

Cho nên cái người mà quyết tu người ta không còn nói chuyện nữa, cho nên người ta không còn nói chuyện nữa thì thời gian rất ngắn trong khoảng một tháng, hai tháng, ba tháng là đã xong công việc của người ta. Bởi vì người ta chuyên cần người ta chuyên môn vào đó, còn mình nói chuyện thì cái tâm mình nó phóng ra, nó phóng ra rồi nó quen, rồi nó xả, rồi nó tu coi như bên đây nó cũng chưa có gì cho nên mình chưa có chuyên nhất.

Còn bây giờ mình đi vào chuyên nhất thì mình nỗ lực mình lo, cho nên ai đến hỏi gì đó thì mình ra dấu với họ, mình ra dấu để cho mình giữ cái tỉnh thức của mình xả tâm tiếp tục. Còn mình nói chuyện với họ tức là mình bị động do đó cái tâm mình nó quên, nó đi theo cái tà niệm mất đi. Khi mà người ta hỏi, mình nói nhắc lại chuyện này chuyện kia tức là tà niệm hết đó, bởi vì cái niệm thế gian mà, cái niệm của cuộc sống của chúng ta mà.

Thí dụ như người ta hỏi con ở ngoài cô Diệu Hảo như thế nào thì tức là con khởi ra con nói ở ngoài đó tu như vầy như vầy cũng được an ổn rồi, đời sống cũng này kia; thì đó là niệm thế gian rồi, nó không còn cái niệm xả tâm rồi. Mà cái chánh niệm là cái niệm mà xả tâm của chúng ta mà - ly tham, ly sân, ly si. Cho nên vì vậy mà các con thấy mình ngồi tu mà mình có một cái niệm gì đó thì nhắc: “đây là tà niệm rồi, không phải là chánh niệm. Luôn luôn cái người tu thì luôn luôn giữ chánh niệm tức là cái niệm xả tâm của mình”.

(25:42) Như vậy thì các con sống với cái niệm xả, thì như vậy là các con sẽ xả tâm chứ gì? Thì mọi hoàn cảnh, mọi sự việc nó đều có sự yểm trợ cho sự tu tập của mình. Còn nếu mà mình phóng tâm ra, thì mọi hoàn cảnh, mọi đối tượng, mọi sự việc nó trở thành cái chướng duyên, nó trở thành ác ma, nó làm cho chúng ta tâm động mà chúng ta tu tập không được. Còn chúng ta cố gắng mà giữ tâm thanh tịnh, cho nên ma vương không có đánh vào chúng ta được là vì cái tâm chúng ta quá sít sao với cái chánh niệm, cho nên cái tà niệm xen vô không được; cho nên tâm chúng ta luôn luôn giải thoát an lạc, không ai làm động chúng ta được.

Đó, cách thức tu tập là như vậy, mà các con hiểu được như vậy thì chắc chắn là không bao lâu đâu. Thầy nói cái công khó của Thầy không có uổng, là vì các con đã thực hiện đúng lời dạy của Thầy thì không bao lâu các con sẽ trở thành những bậc giải thoát, những bậc thánh hiền hết. Người nào cũng là đạo đức đầy đủ không còn làm khổ ai hết, vì tâm mình luôn luôn lúc nào cũng hướng vô. Nhớ kỹ như vậy thì sẽ có kết quả tốt.

7- TU TẬP PHẢI THƯA HỎI

Con còn hỏi thêm gì Thầy nữa không?

(26:53) Như các con đã biết thì cái Tập Vấn Đạo thì tức là cái Tập thứ tư mà Thầy đã trao cho các con dường như các con đã đọc rồi, nhưng mà hôm nay thì thấy có đánh vi tính và kiểm duyệt lại những cái lời của mình đã nói đã dạy trong tập Kinh đó, cho nên nó có những cái sự thêm và bớt để cho nó đầy đủ cái ý nghĩ của con đường tu tập. Thì cái lời thay lời tựa, cái lời nói đầu của tập sách đó thì chắc các con đã đọc rồi.

Bây giờ Thầy xin đọc lại để các con về đọc lại lời tựa để rồi xét thấy cái cách thức tu tập và cái gì chính, cái gì không chính của nó.

- Người đi tu mà không học là tu mù, người có học mà không tu là cái tủ đựng kinh sách. Người có tu có học hiểu mà không thưa hỏi thiện hữu tri thức, tự kiến giải, tự tu thì trăm ngàn người đều tu sai, tu không tới đâu.

Như các con tu mà không hỏi Thầy, không được trực tiếp thưa hỏi Thầy thì ngàn đời các con cũng sẽ là tu sai. Cho nên Thầy nhắc nhở, nhắc nhở không có nghĩa là để nghe không, nghe suông, mà nhắc nhở để về suy ngẫm lại, rút tỉa từng chút để mà tu tập lại cho đúng, để thực hiện được sự giải thoát thân, tâm của mình.

  • Tự kiến giải tu, nghĩa là tự mình nghĩ ra đó, rồi mình tu, tu tập chưa tới đâu, vội đem ra hướng dẫn người khác tu hành. Chẳng hạn bây giờ mình tu chưa tới đâu, mình thấy nó kết quả chút nào đó, mình đem mình nhắc cho người khác tu. Điều đó là điều sai vì kết quả là phải rốt ráo, phải làm chủ được Sanh - Tử thì mình mới dám dạy người ta. Còn cái kết quả chẳng hạn mình bị một cái trạng thái tưởng nào đó, mình tưởng đó là kết quả, cái mình dạy người ta thì cái đó là cái sai.

Cái sai đó Thầy thấy rất là nhiều người rồi. Thậm chí như ở đây các con cũng biết rằng Thầy đã nhắc, khi nào chúng ta tu xong chúng ta mới dạy người, mà tu chưa xong thì đừng có dạy, dù chúng ta tu được cái gì đi nữa cũng không dạy. Thế mà có nhiều người không nghe Thầy, mà cứ hễ hở ra tu chưa có gì hết, kiến giải tầm bậy tầm bạ rồi cũng đem ra dạy, cũng nói thiền nói đạo, nói không đúng, thì do đó đưa cho người ta đến cái chỗ chết.

(29:19) Thậm chí có nhiều người chỉ đọc kinh sách thôi à, mà kinh sách các nhà học giả họ viết ra, họ chưa phải là hành giả tu tập đến nơi, đến chốn, rồi đọc thấy cái lý luận của họ nghe có hay thôi, mình cũng chưa thực hiện được nữa, rồi đem những kinh sách đó đưa cho người khác đọc, để giết người ta chứ làm gì, mình đã làm không được, mà mình đưa kinh sách cho người khác đọc tức là mình tự giết người ta.

  • Tự kiến giải tu, đó là một điều sai. Tu tập chưa tới đâu, vội đem ra hướng dẫn người khác tu hành, thì cũng giống như người mù, dắt một bầy mù đi. Tất cả đều có thể sa hầm lọt hố và chết chùm nhau cả đám. Ngôn ngữ danh từ không đủ diễn tả chính xác những trạng thái kinh nghiệm tu hành, một khi muốn hành động tu tập thân, tâm một điều gì thì phải thưa hỏi rất kỹ, đừng vội vàng nghe những lý luận suông rồi tự nghĩ cho rằng mình đã hiểu, nên cứ theo sự suy nghĩ đó tu tập, sự tu tập như vậy chẳng tu tập đến đâu mà còn dẫn đến chỗ tu sai lạc, nhất là sai lệch vào chỗ thiền ức chế tâm.

Đó thì các con thấy một chút xíu thôi, bây giờ các con cứ ngồi giữ cái tâm của mình, biết hơi thở ra, hơi thở vô này, không có vọng tưởng này, thì ngay đó là thiền ức chế tâm rồi, chứ nó đâu phải là cái thiền xả tâm. Xả sao nó không kèm theo một cái niệm xả, mà nó cứ giữ cái tâm không có cho cái niệm gì hết, thì tức là ức chế tâm chứ sao, đó là những cái sai.

Cho nên vì vậy chúng ta cần phải hỏi cho kỹ, khi đọc lại một cái tác phẩm của Thầy rồi thì chúng ta phải có những cái hỏi: cái này, cái danh từ này phải dùng nó như thế nào? Cái này đọc rồi là các con tự thấy như mình đã hiểu. Nhưng Thầy đã nói rằng: “Ngôn ngữ danh từ không đủ để diễn tả chính xác những trạng thái kinh nghiệm tu hành”, thì làm sao? Chúng ta phải hỏi chứ. Còn bây giờ chúng ta nghe rồi chúng ta hiểu được sao? Cái danh từ đó đâu có thể hiểu được, cho nên khi đó chúng ta phải hỏi. Vì vậy mà vấn đạo nó làm cho chúng ta sáng tỏ lên, làm chúng ta hiểu rõ lên, cách thức tu tập. Còn chúng ta không vấn đạo thì chúng ta chẳng biết gì hết. Toàn bộ kinh sách của Phật, Thầy xin nhắc lại các con biết, đều là vấn đạo, do các cư sĩ, các tu sĩ vấn đạo, mỗi khi vấn đạo tức là hỏi Phật, Phật mới nói ra bài kinh đó, chứ khi không mà Phật đâu có nói hay sao? Các con nhớ rằng, thường thường là những cái bài kinh của Phật đều là do những vị cư sĩ, rồi những người tu sĩ, tỳ kheo đó, các vị đó hỏi Phật, thì Phật mới dạy.

(31:45) Có những cái điều kiện mà Phật thấy các tu sĩ không hỏi, cũng như bây giờ Thầy không nhắc các con thì các con không biết đâu hỏi, thì Đức Phật mới tự thuyết, có những cái bài kinh tự thuyết là vì tu sĩ và cư sĩ không biết cái chỗ đó mà hỏi cho nên phải tự thuyết, phải nói ra để cho hiểu. Cũng như bây giờ Thầy không nhắc nhở như vậy thì các con không biết mà hỏi. Cho nên muốn tu tập cho nói có kết quả nhanh chóng, không phải ngay vô chỗ đọc sách, kinh sách rồi chúng ta tu liền đâu. Mà chúng ta suy ngẫm, suy nghĩ kỹ rồi mới áp dụng, hỏi thưa cho kỹ, cách thức tu tập như thế nào, rồi chúng ta tập thử, tập thử rồi trình, rồi tất cả những cái này khi mà được rồi, thì bắt đầu chúng ta thấy đúng là những cái hành động này là kết quả mà vị thiện hữu tri thức đã xác định rằng tu tập như vậy đúng, thì bắt đầu chúng ta tập luyện liền. Tập luyện mà tập luyện quyết định là nhất định là tập không bỏ, tập liên tục, tập cho đến khi nào mà làm chủ được sự sống chết mới thôi.

- Sự tu tập như vậy chẳng tu tập đến đâu mà còn dẫn đến chỗ tu sai lệch, nhất là sai lệch vào chỗ thiền ức chế tâm rất là nguy hiểm, có khi bị điên khùng, tẩu hỏa nhập ma thường là tu hành dậm chân tại chỗ, tu mãi chẳng đi đến đâu, chỉ uổng phí một đời tu hoài công vô ích. Trong phần vấn đạo vừa có lợi cho mình, vừa có lợi cho người, khiến cho mình thông suốt đường lối và cách thức tu tập, không còn nghi ngờ đường lối và pháp môn tu tập, khiến cho tâm mình tin chắc tu tập sẽ đến nơi, đến chốn.

Bắt đầu tu tập từng bước một - các con nhớ tu tập từng bước một, không có vội vàng - không vội vàng, không có muốn mà tu một nửa tiếng hay hoặc một tiếng, hai ba tiếng đồng hồ đâu, không có vội vàng.

Tu từng hơi thở, từng một hơi thở rồi cho đến nhiều hơi thở. Rồi từng bước đi kinh hành, từng một bước cho đến mười bước đi kinh hành, tập như vậy, mới là chắc ăn. (Cho nên không vội vàng) Bắt đầu tu tập từng bước một, không vội vàng, không nôn nóng. Mỗi bước tu tập là mỗi kết quả cụ thể.

(33:51) Các con thấy chưa, mình làm cái gì đi nữa, mình làm ăn đi nữa trên bước đường đời mình làm ăn đi nữa, mà cái gì mình làm chắc ăn cái nấy thì nói không bị thất bại; còn mình làm lu bù, làm cho nhiều mà rốt cuộc rồi thất bại, lỗ lã có phải là chết không. Tu tập nó cũng vậy, phí uổng cái công phu tu tập của mình là tại vì mình tu không từng bước một.

  • Tu tập như vậy, ngày càng thấy tiến bộ rõ rệt. Nhờ thế khiến mình thông suốt tà giáo ngoại đạo đang xen lẫn trong giáo pháp của Đạo Phật. Biết rõ như vậy khiến cho mình vững vàng niềm tin ở Chánh pháp môn của mình đang tu chính là pháp môn của Đạo Phật. Từ lâu chúng ta ai cũng đang sống trong sự vô minh, đen tối, mờ mịt, chẳng thấy rõ pháp môn nào của Đạo Phật và pháp nào của ngoại đạo.

Nhờ có vấn đạo ta mới thoát khỏi màn mây đen tối của các pháp tà sư ngoại đạo đang phủ mờ giáo pháp của Phật giáo từ bao thế kỷ nay.

Nhờ có vấn đạo ta mới hiểu rõ, thế giới siêu hình và hữu hình đều là thế giới Tưởng (thế giới không có thật).

(34:58) Nhờ có vấn đạo ta mới rõ thế giới Tưởng của con người, nên mạnh tay đập phá cái thế giới siêu hình mê tín đó, đã gây biết bao nhiêu sự rắc rối, tạo biết bao nhiêu sự hao tốn tiền của và đau khổ của loài người. Cũng vì cái thế giới đó, khiến cho con người đánh mất Đạo Đức Nhân bản – Nhân quả, sống không làm khổ mình, khổ người.

Từ cái thế giới siêu hình đó, con người đã mất đi sức tự lực, chỉ còn lại một tinh thần yếu đuối tha lực, luôn luôn biết dựa nương vào sự cầu cạnh những hình ảnh mờ ảo thần linh.

Nhờ vấn đạo, ta mới thấu rõ các pháp thế gian là do duyên hợp, nên ta dễ dàng buông xả thế giới hữu hình vật chất.

Bởi vì khi vấn đạo chúng ta mới hiểu rõ các duyên, càng hỏi chúng ta mới hiểu rõ các duyên nó hợp lại, nó không có gì của mình. Cho nên mình mới buông xả, mình không còn chấp cho nên cái ngã của mình mới hết, và đồng thời cái tâm ham muốn của mình nó mới diệt. Chứ nếu không, mình không biết cái thế hữu hình này do các pháp, do duyên hợp thì mình bị lầm chấp. Từ đó cái tâm tham-sân-si của mình mãi mãi không xả được.

(36:08)

  • Vậy bây giờ ta đã biết đó cũng chỉ là thế giới Tưởng - Nghĩa là cái thế giới chúng ta đang sống hữu hình này nó cũng chỉ là thế giờ tưởng - của con người vô mình từ biết bao nhiêu kiếp lầm chấp nó là thật nên dính mắc các pháp, chạy theo các pháp tạo biết bao điều đau khổ cho mình cho người và cho tất cả chúng sanh. Cũng vì thế mà con người chịu trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi từ kiếp này sang kiếp khác mãi mãi không bao giờ dứt.

Nhờ có vấn đạo, ta mới biết cách tu tập xả ly, đoạn diệt thế giới hữu hình và thế giới siêu hình, ly dục ly ác áp.

Cái danh từ “Ly Dục Ly Ác Pháp” thì mấy con biết là cái tâm đoạn diệt cái thế giới hữu hình và thế giới siêu hình chứ không có gì khác hơn hết. Chứ không phải ly nội cái tâm của mình không đâu; mà cái tâm mình đã ly rồi thì cái bàn cái ghế này mình không còn tiếc đâu, cho nên mình xả ly cái thế giới hữu hình và siêu hình đó.

(37:03) Nhờ có vấn đạo ta mới thấu rõ thiền định nào đúng hoặc sai của Đạo Phật. Nhờ có vấn đạo ta mới thấu rõ Đạo Phật có ba loại thiền định:

1/ Ngăn ác Diệt ác - Khởi thiện Tăng trưởng Thiện

2/ Diệt ngã xả tâm

3/ Ly dục ly ác pháp

Nhờ có vấn đạo ta không rơi vào thiền ức chế tâm và tu tập đúng thiền xả ly tâm, nên thân tâm chúng ta thường thanh thản, an lạc, tâm như đất trời giải thoát.

Nhờ có vấn đạo ta mới thông suốt “Tam Vô Lậu Học” là chính pháp môn của Đạo Phật nên không bị tà sư ngoại đạo nào lừa đảo, lường gạt ta được.

Vấn đạo là một điều cần thiết cho những người mới tu, cũng như người tu lâu năm. Sự mới tu cũng cần phải thưa hỏi kỹ để tu tập đúng cách và có căn bản. Còn người đã tu lâu năm thì gặp nhiều trạng thái kỳ lạ, nhất là tu thiền tưởng, những trạng thái ấy có khi đúng cũng có khi sai. Và cả cuộc đời mình chẳng thấy gì là giải thoát, sanh tử luân hồi làm chủ tham-sân-si-mạn-nghi và phiền não của mình.

(38:10) Bởi vậy kẻ nào cho rằng tất cả các pháp môn đều tu cũng tốt, cũng được, cũng thiện, cũng được giải thoát, cũng chấm dứt đau khổ và luân hồi, thì đó là kẻ nông nổi, u mê không biết tai hại về sau như thế nào, không trí tuệ, thiếu nhận xét, nhắm mắt tin càng tin bừa để rồi sẽ ân hận về sau.

Nếu các pháp tu đều tốt đều thiện, đều có kết quả giải thoát như nhau thì Đạo Phật ra đời để làm gì? Có phải bằng thừa không? Chúng ta nên tìm hiểu tại sao Đức Phật tu các pháp môn của ngoại đạo nhập đến Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Định, nghiệm xét lại thấy thân tâm mình không giải thoát, để rồi tự mình phải tìm ra một giáo pháp, một đường lối, một đạo lộ tu tập đi đến giải thoát, cứu cánh làm chủ sanh - già - bệnh - chết mà lục sư ngoại đạo và các tôn giáo khác không có pháp môn này.

(39:07) Một giáo pháp chỉ có ba mươi chín ngày tu tập, nhiệt tâm quyết chí xả ly, lìa tâm ham muốn, từ bỏ ác pháp, Ngài đã thành tựu đạo giải thoát, chứng quả Bồ đề. Sáu năm trời khổ hạnh, Ngài tu tập các pháp môn ức chế tâm nhất là pháp môn hơi thở. Ngài nín thở ức chế tâm tối đa tưởng chừng như sắp chết. Nín thở, Ngài tìm thấy pháp môn này không có giải thoát, nên Ngài chuyển qua ức chế thân, khổ hạnh tối đa. Ngài ăn bảy hạt mè hoặc một ít cháo đậu. Cơ thể vì tiết thực nên kiệt quệ, Ngài đi hết nổi. Nhờ bát sữa dê phục hồi cơ thể, Ngài tỉnh táo và tư duy biết các pháp của Lục sư ngoại đạo và các tôn giáo khác trên hành tinh này ức chế thân tâm không thể tu tập đi đến giải thoát được, Ngài từ bỏ và viễn ly các pháp đó.

(40:12) Qua sự tu tập của Đức Phật, chúng ta rút tỉa ra được những kinh nghiệm thực tế và cụ thể. Các pháp Đại thừa và Thiền Đông độ cùng tất cả các pháp môn của các tôn giáo trên thế gian này, đi đến kết luận không thể làm chủ sự sống chết và chấm dứt luân hồi.

Giáo pháp Ngài tìm ra được, là một giáo pháp không giống bất cứ một giáo pháp nào của Lục Sư ngoại đạo và các tôn giáo khác trên hành tinh này. Vì thế, Đạo Phật ra đời, không nhai lại đờm dãi của các tôn giáo khác. Pháp môn của Ngài đi từ sự tu tập sức tỉnh giác để giữ tâm trong chánh niệm, tức là xả tâm, ly dục ly ác pháp, không có một chút ức chế tâm nào cả.

Các con nhớ kỹ, nghĩa là luôn luôn Tỉnh Giác là phải ở trong Chánh Niệm. Thì cái niệm đó là cái niệm gì? Cái niệm Xả Tâm đó. Thầy xin nhắc lại điều đó là điều rất quan trọng, mà hầu hết người ta không triển khai nổi cái niệm này. Cho nên người ta cứ nghĩ rằng Chánh niệm là mình ở trong cái biết cái hơi thở ra vô là chánh niệm, đó là chánh niệm; mà mất cái hơi thở là mất cái chánh niệm thì cái chánh niệm đó là cái sai, không đúng. Cái hiểu như vậy là cái hiểu của nhà học giả, của kiến giải, không phải là của hành giả, không phải của người tu chứng.

Lấy tâm nương hành động (lấy cái tâm của mình mà nương cái hành động) tu tập tỉnh thức.

Đó thì các con nhớ rất rõ ràng chứ không phải lấy cái tâm của mình nương các pháp khác ở ngoài đâu, mà lấy cái tâm của mình nương cái hành động của Thân Nội là hơi thở, ngoại thân của mình là các hành động đi đứng nằm ngồi của mình đó tập tỉnh thức.

Rồi xen vào một cái niệm (tức là Như Lý Tác Ý đó, cái đó là Chánh niệm) để xả dục, xả pháp, tránh không đi vào trạng thái tĩnh lặng (nghĩa là không cho cái tâm của mình rớt vô trạng thái tĩnh lặng, vì rớt trong trạng thái tĩnh lặng là một cái trạng thái của định Tưởng ức chế tâm) mà đi vào trạng thái đoạn diệt tâm tham-sân-si khiến cho tâm thanh thản an lạcđi vào trạng thái thanh tịnh tức là định của Đạo Phật.

(42:19) Chúng ta không đi vào cái định ức chế tâm, mà đi vào cái định Tỉnh Thức mà xả tâm thì cái định đó là cái định của Phật.

Từ đó suy ra, ta biết pháp môn của Đạo Phật không giống một pháp môn nào của ngoại đạo - nghĩa là các con suy nghĩ từ các pháp như yoga nè, rồi như các pháp khí công nè, võ công, trọng công, khinh công, nội công nè, tất cả những cái đó đều là tập trung vào sự ức chế tâm của mình trong cái tưởng của mình mà thôi.

Còn đạo Phật thì luôn luôn lúc nào cái pháp của Đạo Phật thì chúng ta thấy rõ ràng cái Chánh niệm luôn luôn kèm theo cái Như Lý Tác Ý để mà xả tâm. Cái đó chính là của pháp Phật cho nên nó khác xa các cái pháp kia.

Còn bây giờ chúng ta niệm Phật “Nam mô A Di Đà Phật” thì vốn cũng là mục đích để ức chế tâm chứ đâu phải là xả tâm, bởi vì niệm Phật làm sao xả được. Đó là chúng ta thấy rất rõ. Bây giờ chúng ta giữ tâm bằng tìm công án hoặc thiền tri vọng là biết vọng liền buông, thì cũng là đâu có xả. Cho nên khởi tư duy tình “trước khi trời đất chưa sanh ta là cái gì”, thì các con thấy “cái gì”! Chỉ là ức chế tâm chứ đâu có xả cái tâm tham-sân-si đâu, cho nên làm sao nó hết tham-sân-si.

(43:34) Đó là chúng ta xét qua hết các pháp môn mà hiện hành, đang có mặt ở trên con đường tu của chúng ta trong cái thế gian này, thì tất cả các pháp này đều là ức chế tâm. Thậm chí như Mật tông dạy chúng ta niệm chú niệm bùa cũng đâu có xả tâm kèm theo đâu. Cho nên cũng thuộc loại thiền ức chế tâm.

Vì thế, kẻ nào cho rằng 84 ngàn pháp môn là của Phật giáo, kẻ đó quá si mê, u tối bị tà giáo ngoại đạo lừa đảo mà không biết.

Bởi vậy, vấn đạo là một điều quan trọng hết sức trong giai đoạn Phật giáo hiện nay, khi giáo pháp của Đạo Phật đã bị pha trộn nhiều thứ pháp ngoại lai.

Vấn đạo khiến chúng ta hiểu rõ, phần đông giáo pháp ngoại đạo, phi đạo đức, dạy người cầu tha lực, thường mang đến tai họa khổ đau cho người hơn là mang đến hạnh phúc. Vì hướng dẫn con người đi vào cảnh giới siêu hình mang đầy tính chất mê tín, dị đoan, thần thánh hoá, lạc hậu v.v.

Cho nên, trong vấn đề tu tập theo Đạo Phật, vấn đạo là điều cần thiết, để thăm dò các pháp môn, pháp nào đúng, pháp nào sai, pháp nào tu tập có kết quả, cụ thể và thực tế.

Qua cuộc vấn đạo trong bộ sách “Đường Về Xứ Phật”, quý vị đã được đọc, đừng vội vàng tin những lời nói trong đây, mà hãy suy nghĩ kỹ. Nếu nó chỉ vạch chỗ phi đạo đức xét thấy là thật sự phi đạo đức, chỗ lý luận sai mà thật sai, chỗ tu tập giải thoát mà có giải thoát thật sự, chỗ mê tín lạc hậu, đúng là chỗ mê tín lạc hậu, thật sự như vậy thì quý vị hãy tin. Còn ngược lại thì quý vị đừng nên tin, vì tôi cũng chỉ là một người như quý vị.

(45:30) Qua một cuộc vấn đạo, tôi trả lời chỉ muốn làm sáng tỏ lại Đạo Phật mà thôi. Bởi vì tôi không muốn Đạo Phật mất đi trên thế gian này, nhất là Đạo Đức của Đạo Phật, một Đạo Đức “không làm khổ mình, khổ người”.

Nếu Đạo Phật mất đi thì loài người trên hành tinh này chịu thiệt thòi một điều rất lớn: một tai họa không thể lường được, một bằng chứng hiển nhiên trên hành tinh này không lúc nào mà chiến tranh chấm dứt. Con người giết con người không gớm tay và không thương xót, đó chỉ vì Đạo Phật có mặt, nhưng Đạo Đức của Đạo Phật đã mất từ lâu. Con người thiếu Đạo Đức làm người, một Đạo Đức Nhân quả không làm khổ mình, khổ người.

Vì thế, trong khi khoa học lại tiến triển phát minh, những vật chất phục vụ đời sống con người rất tiện nghi. Vì vật chất tiện nghi này, tâm dục con người tăng trưởng, biến dần con người trở thành ác thú hung dữ. Từ đó con người tự sát mà không biết, tự làm khổ mà không hay, tự chuốc họa vào thân mà không ngờ, nếu không có một Đạo Đức quân bình với khoa học thì quả địa cầu này, một ngày nào đó sẽ bị hủy diệt.

Người muốn tu theo Đạo Phật cho đúng Chánh pháp của Đức Phật, thì phải chịu khó nghiên cứu cho kỹ các pháp môn, vì kinh sách hiện giờ, toàn là của các nhà học giả biên soạn, đụng đâu viết đó theo sở thích của mình, không có kinh nghiệm tu hành, viết mà chẳng thấy trách nhiệm của mình, chỉ biết nêu tên tuổi (cầu danh). Họ đâu hiểu rằng soạn viết ra kinh sách như vậy là để lại một tai hại cho bao nhiêu thế hệ con người sau này.

Muốn soạn viết kinh sách có lợi ích cho người đời sau, thì phải có thực hành tu tập đến nơi đến chốn, đời sống phải có một đạo hạnh hẳn hoi, phải nhập được các định, làm chủ được sự sống chết, phải có Tam Minh, đoạn dứt các lậu hoặc, chấm dứt luân hồi, thì soạn viết kinh sách mới có ích lợi thiết thực cho người đời sau. Bằng ngược lại là giết người, không những giết một đời người, mà giết nhiều thế hệ con người.

(47:42) Còn ngược lại, tu hành chưa đến đâu, đời sống đạo hạnh chưa ra gì, đức hạnh không có, giới luật vi phạm, thiền định chỉ có hình thức ngồi thiền, sống với những cấp bằng và những kiến giải suông, dựa vào sở tri và đờm dãi của người xưa viết soạn kinh sách, thì loại kinh sách đó là kinh sách giết người, giết cả bao thế hệ.

Phần vấn đạo là phần rất quan trọng, nên chúng tôi muốn trả lời cho một câu hỏi nào, đều phải dựa trên lập trường Đạo Đức của Đạo Phật mà trả lời. Cho nên những câu trả lời của chúng tôi đều góp ý xây dựng lại nền Đạo Đức của Phật giáo đã bị tà sư ngoại đạo Đại thừa đã biến Đạo Đức của Phật giáo, thành một thứ đạo đức mê tín (nhân quả mê tín).

Thiền định của Đạo Phật đã biến thành thiền định ức chế tâm để nhập vào các định tưởng, triển khai tưởng tuệ, biến thành một loại thiền miệng (khẩu đầu thiền). Còn loại thiền làm chủ sự sống chết và chấm dứt luân hồi thì được xem là thiền phàm phu, ngoại đạo.

Cuối cùng, chúng tôi ngưỡng mong những bậc cao minh, giới đức, đạo hạnh, vì con người trên hành tinh này, vì đạo đức xã hội, vì lợi ích thiết thực chung cho con người và vì Đạo Phật, hãy vui lòng chỉ dạy cho chúng tôi, những điều còn sai sót và cùng chung với chúng tôi xây dựng lại một nền Đạo Đức cho con người, để không còn ai tự làm khổ mình, làm khổ người, thường mang đến cho mọi cá nhân con người một nguồn sống thanh thản, an lạc, vô sự, yên vui; một gia đình hòa hợp, hạnh phúc; một xã hội có trật tự an ninh; một đất nước phồn vinh thịnh vượng; một thế giới hòa bình, an lạc. Và thắp sáng lại ngọn đèn Phật giáo đang bị những trận cuồng phong tà giáo thổi tới tấp sắp bị tàn lụi.

Tu viện Chọn Như kính ghi.

(49:42) Đó là cái lời thay Lời tựa của cuốn Đường Về Xứ Phật, tập IV mà Thầy đã trao cho các con. Còn những phần sau này, về những bài vấn đạo trong cái tập đó thì qua sự hỏi vấn đáp, thì Thầy đã biến dần nó trở thành những bài pháp. Thí dụ như cô Viên Minh hỏi: “kính bạch Thầy, xin Thầy giải cho con hiểu trí vô hạn và hữu hạn” thì cái đề mục của cái bài hỏi này, cái câu hỏi này là Trí Vô Hạn và Trí Hữu Hạn. Cho nên nó trở thành cái tiêu đề trong cái bài pháp. Do từ cái tiêu đề đó mà Thầy viết ra thành một cái bài pháp để trả lời như những bài kinh của Phật ngày xưa ở trong kinh Nguyên Thuỷ.

Đến đây thì các con cũng đã được nghe Lời Nói Đầu của cuốn Đường Về Xứ Phật tập IV, thì như vậy trên bước đường tu tập, những gì Thầy dạy cho các con là một cái sự thật, nó phải giúp cho các con đạt được. Nhưng các con phải nghe lời, thực hiện đúng lời dạy của Thầy. Nếu các con không thực hiện đúng lời dạy của Thầy thì nó chẳng dẫn dắt các con đi đến đâu và uổng phí cái đời tu của các con rất uổng. Bởi vì đi tu rồi, chúng ta chẳng làm gì lợi ích cho mình, mà nếu mình không thực hiện được sự giải thoát, thì đem cuộc đời của mình sống như thế này để tha phương cầu thực, Thầy thấy có lợi ích thiết thực gì cho mình đâu. Đã bỏ hết cuộc đời đi tu thì phải làm được những gì vĩ đại. Phải làm được những gì? Thứ nhất là phải tốt cho mình, phải giải thoát được cho mình. Cái thứ hai là phải làm tốt cho xã hội, làm tốt cho đạo pháp. Như vậy mới đúng cái ý nghĩa của sự tu tập theo Đạo Phật. Đến đây Thầy xin chấm dứt.

HẾT BĂNG

 

Pháp Âm - 1998 - THẦY GIẢNG GIỚI ĐỊNH TUỆ

1998 - THẦY GIẢNG GIỚI ĐỊNH TUỆ 01 - ĐƯỜNG LỐI TU TẬP CỦA ĐẠO PHẬT

1998 - THẦY GIẢNG GIỚI ĐỊNH TUỆ 01 - ĐƯỜNG LỐI TU TẬP CỦA ĐẠO PHẬT

THẦY GIẢNG GIỚI ĐỊNH TUỆ 01 - ĐƯỜNG LỐI TU TẬP CỦA ĐẠO PHẬT

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Phật tử

Thời gian: 1998

Thời lượng: [2:34:11]

Tên cũ: 1998-Giới-Định-Tuệ 1-Ptử ChâuĐốc

1- ĐẠO ĐỨC NHÂN BẢN - NHÂN QUẢ

(00:01) Phật tử Châu Đốc: Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Kính bạch chư Tôn đức, chúng con là Phật tử Châu Đốc, hôm nay có duyên sự xin đầu thành đảnh lễ tác bạch.

Trưởng lão: Các Phật tử xá thôi, được rồi.

Phật tử Châu Đốc: Không biết chúng con có phước duyên gì, hôm nay được Ngài từ bi đến tỉnh Châu Đốc chúng con, để cho chúng con được nghe những lời dạy bảo học thế nào, tu thế nào cho đúng Chánh pháp. Kính bạch chư Tôn đức, Phật tử Châu Đốc chúng con thành tâm mong muốn ngài ban cho Chánh pháp để chúng con biết đâu là chánh pháp nên theo, đâu là tà pháp nên tránh để cho chúng con có được chánh kiến tu hành đúng Chánh pháp của Phật. Chúng con kính xin quý Tôn đức từ bi hướng dẫn cho chúng con thêm nhiều Pháp nhũ. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Trưởng lão: Các Phật tử xá thôi, các con. Xá thôi.

( Mọi người đảnh lễ tri ân đức Trưởng Lão và sắp xếp ổn định chỗ ngồi để nghe pháp )

(05:14) Trưởng lão: Hôm nay chắc có lẽ là Thầy cũng có cái duyên gì với Phật tử Châu Đốc. Cho nên cái nhân duyên đó là trước kia thầy Thông Vân có về cái Tu viện Chơn Như ở trên Tây Ninh Trảng Bàng đó. Rồi có thời gian ở trên đó thầy nhập thất tu. Do duyên đó mà Thầy về, hôm nay Thầy về thăm, rồi Thầy cũng có nói cái sự mong mỏi tha thiết của phật tử ở dưới Châu Đốc, muốn biết cái pháp tu chân chánh của đạo Phật như thế nào đúng mà như thế nào sai, cách thức tu như thế nào mà có kết quả.

Bởi vì nhiều khi chúng ta đã theo đạo Phật tu quá lâu, mà cái kết quả thì chúng ta thấy gần như là dậm chân tại chỗ, nó chỉ có được chút ít, chứ nó chưa phải là rốt ráo cho hết sạch. Do đó thì cái lòng tha thiết theo Phật, mà đến cái giờ này thì chúng ta thấy như mình chưa có hoàn tất và cũng chưa có thấy ai mà hoàn tất được cái công trình tu học viên mãn, trọn vẹn trong cái giới tu sĩ, cũng như giới cư sĩ. Mà chắc chắn ai đi theo đạo Phật thì cũng quyết tâm tu, chứ không phải không quyết tâm.

Đầu tiên Thầy xin đính chính, Thầy thì cũng là một người như mọi quý Phật tử không có khác gì hết. Rồi cũng đi theo các pháp mà trong kinh sách từ Đại thừa, rồi kinh sách Nguyên thủy, rồi Đại thừa mà tu tập. Nói qua cái sự mà kinh nghiệm tu tập của mình trải qua nhiều pháp môn như vậy, thì cái pháp môn nào mà nó dẫn dắt mình được đến cái chỗ mà được giải thoát an vui. Đó là cái buổi nói hôm nay.

(07:21) Vì vậy mà Thầy xin đính chính, Thầy không phải là một Thánh Tăng. Khi nào mà quý Phật tử muốn biết một cái vị đó là Thánh Tăng, thì như đức Phật đã dạy, thì mình sống đồng vị đó thì mình thấy được cái hành động, cái cuộc sống của vị đó Thánh Tăng hay là không Thánh Tăng, là do cái đức hạnh của một vị đó.

Bởi vì về đạo đức thì nó phân làm hai cái loại đạo đức. Cái đạo đức của con người, nếu chúng ta là con người mà chúng ta thiếu đạo đức, thì chúng ta là con vật. Bởi vì mình là một cái loài động vật như mọi con vật khác, nhưng mà vì mình là con người có đạo đức, vì con người có cái hành động khác hơn con vật, cho nên nó là con người. Cho nên cái người mà giữ trọn vẹn, không còn cái hành động của thú vật, thì nó là cái đạo đức của con người. Cái đạo Phật nó xác định rất rõ.

Ví dụ như bây giờ cái con người của mình mà sân giận dữ, đánh người ta, hoặc đánh vợ, đánh con. Thì cái sân giận dữ đó, thì cái bản chất của con thú nó còn ở trong con người của mình. Mà cái người mà tu hành theo đạo Phật biết cái đó như thế nào, để rồi cái tâm sân của họ và họ tu tập cách nào, cái tâm sân đó bắt đầu nó giảm lần và hết, thì cái hành động của họ, nó bớt sân. Tức là từ đó họ đi dần đến cái hành động đạo đức.

Nó không khác gì hết, nhưng mà nói về cái hành động mà của bậc Thánh Tăng, thì nó phải hơn cái hành động của con người. Chứ không thể nào một bậc Thánh Tăng, mà lại còn có hành động nó như con người nữa thì làm sao gọi là Thánh, cho nên nó.

(09:00) Mình thí dụ như mình sinh ra, thì mọi vật thì có những cái hình tướng khác nhau. Thì mình cũng là một con người, cũng là một loài động vật có hình tướng khác nhau, cũng như con vật khác, nhưng mà mình có đạo đức hơn. Con người thì biết xấu hổ, con vật thì không biết xấu hổ. Cho nên cái vấn đề mà như dâm dục, thì con vật nó đâu có biết xấu hổ, còn con người mình thì kiếm cách, nó biết xấu hổ.

Nhưng, con người của mình đi đến cái đạo đức con người, thì không có tà dâm như Phật đã dạy mà. Thì rõ ràng là quý Phật tử mà thọ Tam Quy Ngũ Giới rồi, thì cái giới tà dâm của người cư sĩ thì không tà dâm. Là tại vì tà dâm có khi loạn luân anh, em, cha, mẹ đâu biết, như con vật nó không biết. Còn con người mình nó biết, cho nên vì vậy đó, cái hành động đó, cái hành động của con người, cái đạo đức của con người.

Mình so sánh như vậy mình biết, từ đó những cái bậc Thánh, những cái bậc tu hành, người ta mới tìm thấy được cái hành động nào là cái hành động gọi là đạo đức của con người. Mà con người có học được đạo đức, thì chúng ta mới biết được cái hành động đạo đức, chúng ta mới sống đúng trong hành động của con người. Còn chúng ta không học, thì chúng ta không biết.

Cho nên do đó chúng ta lầm lạc cái hành động của chúng ta, cũng ngỡ tưởng là cái tâm mình ham muốn cái gì đó, thì mình làm theo cái đó, thì mình cho nó làm đúng. Nhưng mà sự thật nó, mình mang cái lớp người mà cái hành động, cái lớp của mình nó còn là mang cái lớp của thú vật, chứ chưa phải là con người.

Cho nên những cái điều mà đạo Phật dạy, nó mang cái tính chất đạo đức. Cho nên đức Phật nói: "Muốn làm một bậc Thánh, một bậc Thánh, thì từ một con người có lỗi mình biết sửa, mình đi vào những bậc Thánh", chứ đâu phải khi không mà ông Thánh ổng không lỗi.

Nghĩa là không có ông nào mà ở trên trời mà rớt xuống đây, mà gọi là Thánh nhân được, cũng từ con người. Thì những cái đấng mà giáo chủ mà thành lập những cái tôn giáo, đều là con người. Và con người mới thấy được cái nỗi khổ, cái nỗi khổ của con người. Như đức Phật nghiệm xét cái nỗi khổ của mình, rồi thấy mọi người cũng cái nỗi khổ y như vậy.

Ví dụ như Phật nói: "Bốn cái nỗi khổ sanh, lão, bệnh, tử". Thì như quý Phật tử, như đức Phật đi ra bốn cái cửa thành, thì thấy bốn cái sự khổ.

(11:20) Cái thứ nhất thì đức Phật thấy một cái người già.

Cái thứ hai thấy một người bệnh.

Cái thứ ba thấy một người chết.

Đến cái cửa thành thứ tư thì thấy một vị Đạo sĩ, phải không? Chứ đâu có thấy cái người mà sanh đẻ đâu, thế mà người ta cứ nghĩ rằng "sanh đó là chắc là sanh đẻ", cho nên đó là sai.

Sanh tức là đời sống, phải không? Vì thấy cái đời sống của vị tu sĩ, mới nghĩ cái đời sống của cư sĩ không có giải thoát, mà đời sống tu sĩ giải thoát, phải không? Cho nên mới bốn cái khổ, khổ vì đời sống của chúng ta còn cư sĩ gia duyên mọi thứ, rồi điều này, thế kia mọi thứ phiền não đau khổ, phải lo đời sống mọi cách. Rồi hễ có của cải, tài sản mất đi vật gì thì cũng buồn rầu, cũng khổ đau, đó là cái đời sống, cho nên gọi là "sanh y". Mình nương tựa vào cái cuộc sống như vậy, thì do đó nó không giải thoát, nó trói buộc mình.

Cho nên bốn cái khổ này làm sao mà vượt ra khỏi?Mục đích của đạo Phật giúp cho chúng ta ra khỏi bốn sự khổ này. Vậy thì cái đầu tiên mà để chúng ta làm ra khỏi cái khổ thứ nhất, thì đó là cuộc sống của chúng ta hằng ngày chung đụng đối xử với nhau. Trong gia đình chúng ta hoặc nói ra một lời nói cái vợ chồng buồn phiền nhau. Hoặc là rầy con, con nó bị cha mẹ rầy thì nó cũng buồn. Như vậy rõ ràng là mình không có được vui, cho nên nói là đời sống khổ là vậy. Rồi đói không cơm ăn cũng khổ, rách rưới cũng khổ, rồi người mất đi là cũng làm mình khổ. Mọi cái nó đều là khổ, cho nên cái cuộc sống của chúng ta rất khổ.

KHÔNG LÀM KHỔ MÌNH - KHỔ NGƯỜI

(13:00) Vì vậy bây giờ đạo Phật dạy chúng ta làm sao làm chủ cái khổ trước tiên. Thế mà quý Phật tử lại chổng khu nhau mà tu tập thiền, để rồi hết cái khổ này được sao?

Cái khổ đầu tiên của chúng ta là cái khổ chúng ta không thấy cái đạo đức của mình. Bởi vì đạo đức có cái đạo đức rất rõ ràng mà hầu hết là quý Phật tử chưa hiểu cái đạo đức đó. À nói đạo Phật dường như là không có đạo đức. Người ta dạy mình cúng bái, tụng niệm, dạy mình tụng kinh cầu Vãng sanh Cực Lạc, hay Niệm Phật, dạy mình Ngồi Thiền để làm Phật, hay là Kiến Tánh Thành Phật mà người ta quên dạy cái Đạo Đức.

Mà nếu mà có nói đạo đức thì người ta lại nghĩ đến cái Đạo đức Nhân quả. Người ta cho cái Đạo đức Nhân quả là luân hồi, thành ra nó mê tín, biến thành cái đạo đức mê tín. Nhưng mà trong kinh Phật rõ ràng là dạy chúng ta có cái Đạo Đức - Không Làm Khổ Mình - Khổ Người. Người ta chửi mình mà mình tức giận ở trong lòng mình, có phải mình là tự mình làm khổ mình không?

Tại vì mình vô minh mình không hiểu, cho nên mình chấp cái lời chửi đó người ta nặng nhẹ mình, người ta mạ nhục mình, mình mới tức. Còn nếu mình hiểu cái lời nói đó, cho nên vì vậy đó mình xả cái lời nói đó, cho nên mình không có làm khổ mình.

Cho nên đạo Phật không chấp nhận mình tự làm khổ mình là cái chỗ: mình giận dữ, mình tức giận, mình buồn phiền, mình bất toại nguyện trong lòng của mình, thì đức Phật chấp nhận là cái người đó thiếu đạo đức, thiếu đạo đức với mình. Còn mình chửi mắng người, mình nói nặng nhẹ người thì đó là mình thiếu đạo đức với người khác, cái hành động đó mình thiếu đạo đức.

Cho nên đức Phật, trong kinh giới của đức Phật, nói về kinh giới của Phật, là toàn bộ dạy đạo đức của chúng ta. Từ làm hành động, từ cái hành động đạo đức của con người, cho đến hành động đạo đức của bậc Thánh nhân đều nằm trong Năm Giới của cư sĩ, Thập Thiện, rồi 250 Giới Tỳ Kheo, Thập Giới Sa Di, rồi 348 Giới Tỳ Kheo Ni. Toàn là Đạo Đức.

Tại sao đạo Phật lại nhắm vào cái Đạo Đức mà rất nhiều cái hành động như vậy? Để giúp cho chúng ta thoát ra cái đời sống của chúng ta đang đau khổ. Cái mục đích để thoát ra, đức Phật không nói thiền định.

Nhưng đức Phật nói: "Giới thanh tịnh thì tâm thanh tịnh, mà tâm thanh tịnh là định". Cho nên Đức Phật nói: "Giới Sanh Định, Định Sanh Tuệ". Thế mà người đời nay người ta không có thực hiện Giới, mà người ta vô người ta ngồi nhiếp tâm cho hết vọng tưởng, để rồi thành Phật ngang xương liền. Đức hạnh không có mà rồi muốn làm Phật thì làm Phật sao được, phải không?

Cho nên mình, mình nghĩ nó cao nhưng mà lại là tu không tới. Mình tu có căn bản, mình xây dựng trên một cái nền tảng đạo đức không làm khổ mình, khổ người. Ngay cả khi mình học đạo đức đó rồi, thì cái đạo đức đó mới là thật sự đạo đức nhân quả.

Vì nó thiện, thì nó đâu có làm khổ mình, khổ người, mà trong đó có ác thì nó mới làm khổ mình, khổ người. Người ta chửi mình, mình buồn tức là nó có ác. Bởi vì người ta chửi đó là ác rồi, cái nhân họ tạo ra, mình ở đây mình thọ cái quả mình buồn khổ thì rõ ràng là nhân quả. Cho nên khi mà chúng ta đã hiểu được cái nhân quả thiện ác, thì chúng ta biết được, rồi cái hành động nói ra một lời nói làm người ta buồn thì mình là người thiếu đạo đức.

(16:15) Bởi vì mình nói người ta buồn tức là ác pháp, mà ác pháp đạo Phật nói: "Không làm khổ mình, khổ người". Tại sao mình nói lời nói làm cho người ta buồn, mình có phải là người thiếu đạo đức không? Thiếu.

Người nào mà nói mình mà mình buồn phiền, làm cho mình khổ sở trong lòng, mà tự mình, mình không giải nó ra cho hết cái khổ này thì mình là người thiếu đạo đức với mình. Đã thiếu đạo đức với người, mà còn lại thiếu đạo đức với mình, thì thử hỏi thì mình là con người gì, phải không?

Cho nên vì vậy học Phật là trí tuệ. Trí tuệ ở trên cái chỗ đạo đức để chúng ta giải quyết được cái sự đau khổ của chính mình và của người. Cho nên mình học đạo đức mình biết được cái hành động, mình nói cái lời nói đó ra nó ác hay thiện. Mà nó ác tức là làm khổ mình, khổ người thì mình không nói, phải không?

Cho nên cái lời nói của mình nói là an vui họ, làm cho họ hạnh phúc, làm cho họ thanh thản, làm cho họ vui thì tức là cái lời nói mình là cái lời nói thiện, mà mình nói ra làm người ta khổ. Rồi cái hành động, cái hành động của mình, mình háy nguýt họ một cái thì họ nghĩ trong đầu họ nghĩ cái gì. Cái hành động đó làm cho họ khổ, cũng như người nào háy nguýt mình cái, thì mình nghĩ rằng "mình cũng khổ ở trong lòng của mình".

Cho nên vì vậy mà đức Phật dạy chúng ta từ những hành động, mà những hành động đó nó nằm ở trong Giới Luật của Phật. Cũng như đức Phật dạy chúng ta "đừng tà dâm". Là dạy chúng ta, cấm chúng ta, cái hành động tà dâm là một cái loài thú vật, chứ không thể làm con người mà làm cái điều như vậy được, mà cái người mà có đạo đức thì người ta ai mà tà dâm. Cho nên đâu có mà dê vợ người khác, đâu có lấy chồng người khác được. Cho nên đó là những cái hành động đạo đức của con người, chứ không phải Thánh nhân.

Nhưng mà nói về giới mà một vị Thánh Tăng thì hoàn toàn là không dâm dục. Một bậc Thánh mà còn dâm dục sao, phải không? Tà dâm là không rồi, nhưng đó là cái đạo đức của con người, nhưng mà bước đến một cái giai đoạn của Thánh nhân thì không thể nào là còn dâm dục nữa. Mà giờ đó, dâm dục nó có nhiều cái hành động.

Thí dụ như mắt mình nhìn người khác mình thích, người phụ nữ mình thích, thì đó là dâm rồi. Đó là một cái hành động dâm, cái tư tưởng, ý mình nghĩ lên thì đó là dâm, phải không? Thì nghĩ về một cái điều gì với một cái người khác phái mình, thì đó là một cái ý dâm của mình. Cho nên nó có ba cái hành động để chúng ta thực hiện những cái nhân quả.

Nhân trong ý thì nó chưa thành quả, nhưng đến cái lời nói chúng ta, chúng ta chọc ghẹo một cô nào đó, cô ta chửi mình thì ngay đó có quả rồi. Bởi vì cái hành động này thiếu đạo đức, cho nên do đó mình bị chửi liền, có quả liền. Vì vậy cho nên nhân quả, nó do từ cái chỗ bắt đầu khởi ý chưa có quả. Bởi vì trong ý mình khởi niệm thì người ta đâu biết, cho nên nó chưa có quả.

Nhưng mà đến khi mà đến cái hành động, cũng như bây giờ mình thấy cái xe của người đó mình thích, mình lén ăn cắp, thì trong đầu mình nghĩ "như vậy chưa ai bắt tội mình được hết". Nhưng mình tới cái hành động là mình lại mình đẩy xe họ, thì cái hành động cái thân mình đẩy xe, họ nhìn thấy được, họ bắt họ đánh mình thì cái quả nó kế tiếp liền. Hoặc là mình thấy cái điều đó mình cho rằng đó là sai, mình mở miệng ra mình nói, người ta tức giận người ta đánh mình, thì do đó cái quả đó nó theo cái ngôn ngữ mình liền.

(19:22) Cho nên nhân quả là ngay ở hành động của chúng ta, thân, khẩu, ý, ba cái chỗ nó hành động của đạo luật nhân quả. Mà đạo luật nhân quả rất công bằng, rất công bằng, nó không có thể nào mà thiếu công bằng được. Mình làm một cái quả ác, thì không thể nào tránh được cái tội mình thọ cái quả đó. Nghĩa là mình ăn trộm, ăn cắp thì bây giờ người ta chưa bắt được, nhưng mà ngày nào thì người ta sẽ bắt được người ta đánh, hoặc là mình đi ở tù. Không có người ăn trộm, ăn cắp nào mà thoát được cái cảnh mà tù tội hết, đó thì chúng ta thấy.

Nhưng chúng ta đi vào chùa mà để cầu khẩn cho đứa con mình ăn trộm, ăn cắp cho nó thoát nạn. Thì cái hành động mà vô chùa mà lạy Phật, mà cầu để cho nó thoát nạn như vậy, gọi là phi đạo đức, nó không đúng đạo đức. Bây giờ con mình ăn trộm, ăn cắp làm cho người ta khổ, mà bây giờ mình cầu Phật phù hộ cho con mình thoát ra cái tai nạn khổ đó đó, để cho nó ăn trộm ăn cắp nữa chứ gì. Thì do đó nó dựa vào Thần linh, nó dựa vào nơi cái điều kiện mà cứu khổ đó đó, thì tức là nó phi đạo đức.

Cho nên ở đây chúng ta phải học cái Đạo Đức của đạo Phật, là Đạo Đức “Không làm khổ mình, khổ người”. Dù là đứa nhỏ, khi mà cha mẹ rầy nó, hay hoặc là khuyên dạy nó bảo đừng đi chơi, phải ráng học hành. Mà nó không nghe lời cha mẹ nó, nó bỏ đi chơi, cha mẹ buồn phiền, tức là đứa nhỏ đó thiếu đạo đức.

Cho nên khi chúng ta có con cái mà dạy nó học đạo đức nhân quả, thì nó là đứa con nó biết nghe lời cha mẹ, dạy sao nó nghe lời vậy. Bảo nó đi học rồi về, không đi chơi, không cặp bè bạn, hoặc là bỏ giờ học, trốn giờ học, thì do đó đứa trẻ nó nhớ "khi mình cãi lời mẹ là mình là người thiếu đạo đức".

Còn người mẹ hay hoặc người cha mà rầy mắng con, hay đánh con, thì người cha, người mẹ thiếu đạo đức. Tại sao vậy? Đánh nó đau, rầy nó buồn. Đã làm, đạo Phật không chấp nhận cái điều mà làm cho người khác khổ, mặc dù nó con mình. Cho nên khi đó thì cha mẹ cũng phải học Đạo Đức Nhân Quả, để khi đó mình dạy con mình, khuyên con mình hơn là đánh đập rầy nó. Như vậy mới đúng Đạo Đức, cho nên không làm ai khổ hết.

Cha mẹ cũng không làm con cái khổ, con cái cũng không làm cha mẹ khổ. Vì cha mẹ nói đâu, khuyên con đâu, dạy bảo đâu nó nghe đó, chứ đâu đến nỗi mà phải đánh đập nó, thì đó là đứa con có hiếu. Còn cha mẹ thì đâu có bao giờ mà nỡ đánh đập con mình, vì con mình dạy đâu nó nghe đó, nó đâu có cãi, đó thì cái học đạo đức nó lợi ích như vậy.

Cho nên nó phát triển từng cái lứa tuổi, cũng như cái tuổi trẻ con nó vui theo tuổi trẻ con, nó sẽ phát triển đúng theo cái đó. Thì những cái hành động của nó, mình dạy cái đạo đức của nó, để đúng ở trong cái khuôn phép của những cái Đạo Đức Nhân Quả, để cho nó không làm khổ người khác. Tuổi trẻ thường thường, nó còn nhỏ như cái tuổi chừng 15, 16, 17 tuổi, có đứa nhiều đứa thắc mắc, nó làm những cái điều mà người lớn.

Thí dụ như vô trường học, nó kiếm những cái lông mắt mèo nó bỏ cho Cô giáo hay Thầy giáo ngứa chơi. Thì đó là những cái đó là, mình phải dạy nó những cái hành động đó chơi rắt mắt như vậy làm cho người khác khổ, bị ngứa, khổ. Rồi ông Thầy giáo ổng tức, ổng đánh, ổng đập cả bao nhiêu đứa học trò khác, như vậy đã làm khổ mình, ổng ác với người khác.

ĐẠO ĐỨC QUÂN TỬ LÀ PHI ĐẠO ĐỨC

(22:37) Ví dụ như một cái trường hợp như Quan Âm Thị Kính. Ngài là một người phụ nữ giả trai tu hành, nhưng mà khi đó bị Thị Mầu khai ngài, rồi ngài làm thinh, ngài nhẫn nhục theo kiểu quân tử, cho nên ngài không nói. Tới chừng ngài chết người ta phát giác ra được ngài là người phụ nữ, cho nên người ta tôn xưng ngài là Quan Âm.

Nhưng đối với cái Đạo Đức Nhân Quả thì ngài không đúng, ngài phi đạo đức. Tại vì ngài làm thinh cho nên người ta mới hành hạ ngài, người ta mới đánh đập ngài, người ta tra khảo ngài để hỏi ngài là cái tác giả của cái bào thai của Thị Mầu. Cho nên ngài không nói người ta không biết có phải ngài hay là ai? Cho nên vì vậy tạo cho người khác làm thêm những điều ác. Và đồng thời lúc đó người ta sỉ mạ ngài, và coi như là ngài người tu giả dối, không thật. Chừng mà phát giác được thì người ta hối hận, do đó đã làm người ta làm ác, rồi làm cho người ta hối hận, tức là làm khổ tâm người ta chứ gì.

Bây giờ Thầy nói thì quý vị mới thấy nè, Thị Kính hồi xưa đến giờ thì ai cũng là kính trọng cái hạnh của ngài. Nhưng mà sự thật đứng ở trong đạo luật Nhân Quả của Phật, thì ngài đã làm khổ người ta làm ác, mà chính ngài, ngài làm khổ ngài. Bởi vì ngài không nói ra cho nên người ta mới đánh đập ngài, ngài mới bị đau, rồi ngài chịu người ta sỉ mạ ngài, phải không? Cho nên đúng đạo Phật thì làm khổ mình, mà còn làm khổ người, phải không? Như vậy là phi đạo đức.

Đó thì quý vị xét có phải không? Cho nên ở đây cái Đạo Đức Nhân Quả là người nào làm, thì cái hành động nhân quả của nó làm ác thì phải chịu lấy cái quả chứ, sao lại để cho người khác tạo thêm những cái quả ác. Thì cái đạo đức như vậy đâu phải là cái Đạo Đức, chỉ là đạo đức anh hùng. Cho nên Quan Âm Thị Kính chỉ là một nhẫn, để mà chứng tỏ mình là anh hùng cá nhân.

Cho nên đạo Phật không dạy chúng ta quân tử, mà dạy chúng ta con người giải thoát. Cho nên cái hành động đạo đức của đạo Phật, làm sao không làm khổ mình, khổ người, chứ không có mong cầu cái anh hùng cá nhân. Cho nên không gọi là "quân tử" mà gọi là "người giải thoát". Vì vậy mà đạo đức của đạo Phật gọi là "đạo đức giải thoát".

2- THANH QUY TRONG ĐỜI SỐNG CỦA NGƯỜI TU SĨ PHẬT GIÁO

(24:35) Mà đạo đức giải thoát thì thật sự đó, thì quý Phật tử thì không được nghe những giới luật của Phật. Từ cái vệ sinh, từ cái hành động vệ sinh như “mình khạc nước miếng, mình khạc đàm mình nhổ trên cỏ, dưới nước” là đức Phật đã cấm, đó là hành động thiếu đạo đức.

Tại sao? Tại vì đó là những cái dơ bẩn, mình làm như vậy nó sẽ truyền nhiễm và dơ bẩn ở trong cái môi trường sống của mình. Cho nên cái hành động mà từ 2542 năm nay, mà đức Phật ngày đó mà đã biết được cái môi trường của chúng ta để giữ vệ sinh cái môi trường. Từ rác rến, ăn uống mà ông Xá Lợi Phất, mà khi mà đức Phật di chuyển. Bởi vì ngày xưa đức Phật là Du Tăng Khất Sĩ, nay ở chỗ này, mai ở chỗ khác chứ không có trụ thế, không có ở một cái chùa mãi.

Cho nên vì vậy mà khi mà ngài rời đi, thì ông Xá Lợi Phất là cái người mà dọn dẹp vệ sinh ở khu vực đó. Dọn hết rác rến, đồ ăn, lá chuối, lá gì tất cả mọi cái đều chôn sạch hết, coi như trả lại cái khu vực, cái khu vực mà mình ở đó, rất là sạch sẽ vệ sinh, rồi mới đi. Nhưng mà khi đến một cái chỗ nào rồi đó, thì ông Xá Lợi Phất là cái người đến đó mà dẹp tất cả những cái vệ sinh ở đó cho sạch sẽ. Khi Tăng đoàn đó 1250 vị, hoặc là 500 vị Tỳ kheo đến đó ở đều là sạch sẽ. Khi đi thì sạch sẽ khi ở thì cũng sạch sẽ. Cho nên không được khạc nhổ nước miếng trên cỏ, ngoài đất, phải ở đâu có chỗ có nơi đàng hoàng.

Trong lúc bây giờ chúng ta thấy chúng ta là người có Đạo Đức hay không? Ăn ngồi trên xe mà ăn mía đó, coi như là bỏ xả ở trên đường, như vậy có Đạo Đức không? Đối với đạo Phật là như vậy là thiếu Đạo Đức. Chúng ta ăn cái bọc hay hoặc là cái miếng bánh gì đó, giấy gì đó thì, hoặc là cầm cái ổ bánh mì có miếng giấy gói, chúng ta ăn rồi, chúng ta ném cái bọc giấy đó xuống dưới đường, hay hoặc là xuống dưới nước chúng ta không thấy. Do chúng ta không học, cho nên chúng ta không thấy được cái hành động đó gọi là hành động đạo đức.

Mà Thầy ở đây Thầy nói đó là cái hành động vệ sinh thôi, vệ sinh chung, vệ sinh môi trường thôi. Mà bây giờ người ta mới thấy cái môi trường của mình là ô nhiễm. Người ta mới kêu gọi, các nhà khoa học mới thấy nó là ô nhiễm, mới kêu gọi giữ vệ sinh môi trường ô nhiễm. Nhưng mà cách đây 2500 năm thì có một cái người, người ta đã thấy được phải giữ vệ sinh như vậy rồi. Còn tới bây giờ mình mới thấy nó ô nhiễm, quá ô nhiễm mình mới nói.

Nhưng mà cái hành động này là hành động Đạo Đức của con người, thường thường con người hay xả rác. Nhà mình nhiều khi mình bừa bãi, rất là bẩn chứ chưa nói gì. Còn đạo Phật ở đâu chư Tăng mà làm dơ là không được. Làm ồn tức là nói chuyện ồn náo, tranh luận cãi cọ, hay hoặc là khua bát, khua chén, làm ồn náo là đức Phật đuổi liền tức khắc.

Cho nên ngày xưa ông Xá Lợi Phất và ông Mục Kiền Liên là hai người đệ tử mà đức Phật, phải nói rằng điều khiển được cái Tăng đoàn của đức Phật là nhờ hai vị đại đệ tử này. Thế mà học trò của hai vị này làm ồn là đức Phật đuổi liền, chứ không phải vì hai vị đại đệ tử có công với mình mà không đuổi, đuổi sạch đi ra khỏi khu vực liền tức khắc. Thì đủ biết cái kỷ luật của đức Phật thời đó rất là nghiêm chỉnh, chứ không phải là không nghiêm chỉnh.

Còn chúng ta nhiều khi vì cái công lao của đệ tử của mình có công lao với mình, nhiều khi phạm chút ít thôi coi như bỏ qua, vì nó có công lao của nó. Còn đức Phật không có đâu, công lao là công lao, mà sai là phải kỷ luật ngay liền, đuổi ngay liền.

Như vậy chúng ta thấy rằng, trong cái con đường mà tu hành là cái kỷ luật là hơn hết, để giúp cho người ta được giải thoát và đồng thời là Đạo Đức phải trên hết. Nếu mà chúng ta bây giờ ngồi thiền nhập định, nhưng mà chúng ta là người thiếu Đạo Đức thì chúng ta có giải thoát được không?

Cho nên chúng ta nói, bây giờ thí dụ như chúng ta học được các pháp ở trong kinh Đại thừa: “Thấy các pháp như mộng huyễn, nhìn các pháp như hoa đốm giữa hư không”. Thật sự chúng ta thấy, chúng ta nhìn nhưng mà hành động đạo đức chúng ta không giữ thì cái thấy, cái nhìn này nó chỉ là nén tâm mà thôi. Tức là chúng ta tránh né nó mà thôi, chứ nó chưa phải là thật sự. Còn chúng ta giữ gìn Giới Luật - Đức Hạnh hẳn hòi, đàng hoàng thì chúng ta không tránh né.

Nghĩa là chúng ta nói: "Thấy hoa đốm giữa hư không, thấy các pháp như hoa đốm giữa hư không", thì nó sẽ là hoa đốm giữa hư không. Bởi vì Đạo Đức dạy chúng ta những hành động chúng ta không có vi phạm.

GIỚI LUẬT LÀ PHÁP MÔN CĂN BẢN ĐẦU TIÊN

(28:45) Cho nên ở đây đầu tiên, hôm nay Phật tử ở Châu Đốc có duyên gặp Thầy, thì chúng ta không nói chuyện luật. Bởi vì, Thầy nghĩ rằng Thầy cũng là người phàm phu có phạm lỗi, có những cái sai lầm rất nhiều chứ không phải. Nhưng mà từ khi bước vào mà theo đạo Phật, mà không còn chấp nhận cái pháp của Đại thừa nữa, bởi vì pháp Đại thừa nó cao quá, nó không đi từ giới. Còn Phật dạy chúng ta có ba cái pháp môn Tam Vô Lậu Học, Giới Định Tuệ.

Giới là pháp môn đầu tiên, tức là Đạo Đức của con người và Đạo Đức của của Thánh nhân. Mà chúng ta không thực hiện được giới, thì vì vậy mà bây giờ quý Phật tử mới nhìn tất cả các tu sĩ chúng ta có đúng giới luật không? Đều sai phạm rất nhiều. Người nào cố gắng hết sức giữ được năm, mười Giới là hết sức.

Mà giới đức của Phật, giới luật của Phật nó rất nhiều, bởi vì đó là những cái hành động đạo đức, hành động thiện của chúng ta mà. Do cái hành động đó, nó tạo cho chúng ta đầy đủ những cái nhân quả tốt đẹp, bởi vì đó là thiện, cho nên nó phải quả tốt. Cho nên ở đây, khi một cái người mà thực hiện được đạo đức của đạo Phật rồi, thì chúng ta thấy gia đình mình hạnh phúc đầu tiên. Là người trong nhà không làm khổ cho nhau, đó là cái đầu tiên.

Cái thứ hai, là đối xung quanh những người bạn bè thân thuộc của mình, không bao giờ mình làm người nào khổ. Bởi vì cái khó khăn nhất là những người thân ở trong gia đình của mình, kế đó những người xung quanh mình.

Cả một xã hội, cả một đất nước Việt Nam mà không ai làm khổ ai, thì tự hỏi đó là thiên đàng hay là địa ngục, mình có cần cầu về Cực Lạc nữa đâu. Cuộc sống đâu người nào cũng thanh thản, an lạc không ai làm khổ ai. Không ai lúc nào bất toại nguyện một cái gì, không ai bao giờ còn giận hờn. Thì như vậy là chúng ta phải đi vào từ cái học Đạo Đức của đạo Phật.

Học vào Đạo Đức đạo Phật, tức là chúng ta học được cái lộ trình, lộ trình của nhân quả. Cái đường đi của nhân quả, để hằng ngày chúng ta sử dụng cái đường đi đó đem lại nguồn vui cho mình và cho mọi người. Thì như vậy chúng ta có thiết thực không? Thiết thực, rất thiết thực.

Cho nên bắt đầu vô học Đạo Đức rồi, thì chúng ta sẽ về chúng ta thực hiện đời sống chúng ta liền tức khắc, áp dụng liền đời sống. Cho nên đạo Phật nói: "Đạo của ta không có thời gian, đến rồi sẽ thấy liền".

Nghĩa là cái người mà thực hiện đạo đức, thì ngay đó chúng ta có giải thoát, giải thoát một cách rất cụ thể. Bây giờ chúng ta mới được một, hai hành động đạo đức đã chúng ta đã thấy được cái sự an lạc rồi. Thế mà chúng ta thực hiện toàn diện những cái Đạo Đức, thì chúng ta đã thấy làm chủ được sự sống của mình rồi, không còn khổ nữa.

(31:09) Như vậy có cần Thiền định không? Mà lúc bấy giờ có thiền định chưa? Có rồi chớ, đức Phật đã xác định mà: "Tâm thanh tịnh tức là tâm ly dục, ly ác pháp, không còn làm khổ mình, khổ người thì đó là tâm thiền định", cho nên đức Phật nói: "Giới Sanh Định".

Nếu mà người giữ giới nghiêm túc, thì tâm thanh tịnh, mà tâm thanh tịnh là tâm thiền định. Vậy thiền định của Phật có phải là hết vọng tưởng không? Đâu có hết?

Quý vị Phật tử có nghe cái lời của Phật nói mà nhập Sơ thiền không? Sơ thiền là cái thiền đầu tiên chứ gì, Phật nói: "Ly dục, ly ác pháp nhập sơ thiền, do ly dục sanh hỷ lạc có tầm, có tứ". Tức là có vọng tưởng có tác ý ra chớ, phải không? Chứ đâu phải là hết. Nhưng mà cái nghĩ tưởng của người ta nghĩ thiện, người ta sống trong thiện pháp.

Cho nên trong cái bài pháp Tứ Chánh Cần, Phật dạy: "Các pháp ác chưa sanh, không cho sanh, mà đã sanh thì đoạn diệt. Các pháp thiện chưa sanh thì sanh khởi, đã sanh thì tăng trưởng". Tức là mình luôn luôn sống trong ý thức của mình toàn thiện, chớ không phải diệt ý thức.

Mục đích của thiền của đạo Phật là dẹp Tưởng thức, chứ không phải dẹp Ý thức. Bởi vì chúng ta lấy ý mà chúng ta sống hằng ngày, cái ý thức của chúng ta phân biệt cái đúng, cái sai chứ không phải vô phân biệt.

Còn quý vị vô phân biệt rồi thì quý vị, bây giờ thấy cái này, cái kia đi ra đường thấy xe hơi không tránh, bởi vì mình vô phân biệt mà, xe hơi phải đụng mình, phải không? Còn mình phân biệt, mình biết. Nhưng mà cái Tưởng thức là cái tai hại rất lớn.

3- Ý THỨC, TƯỞNG THỨC VÀ TÂM THỨC

(32:39) Cái thế giới mà siêu hình hiện có, đức Phật xác định như thế này: "Do tưởng tri của quý vị chứ không phải là liễu tri". Cho nên hiện giờ chúng ta không biết cái linh hồn ra sao, chúng ta tưởng nó ra vậy. Rồi chúng ta nghĩ nó cũng hình dáng, bóng dáng nó cũng giống mình, cũng có tay, có chân, có điều nó mờ mờ, ảo ảo. Lúc hiện chỗ này, lúc hiện chỗ kia thì đó gọi là linh hồn của mình, điều đó sai, mình tưởng tri.

Bởi vì cái ý thức của chúng ta là cái trí hữu hạn, cái hiểu biết của chúng ta nó có hạn. Nó không thể nào vượt không gian mà nó biết về vị lai nó như thế nào được, nó không nhớ lại quá khứ nhiều đời của nó được. Cái thời gian nó bị chia cắt như vậy, còn cái không gian thì nó bị trải dài. Cho nên cái ý thức của chúng ta nhìn đây về thành phố, thì chúng ta không thấy được đâu, cho nên nó bị trải dài, nó bị ngăn cách.

Như chúng ta ngồi đây mà ngăn cách cái vách này, tức là đã bị cái không gian ngăn cách, thì ngoài kia cái tâm chúng ta dừng. Cho nên cái trí đó gọi là trí hữu hạn. Vì cái ý thức của chúng ta, tuy là phân biệt biết cái này, kia thì cái đối tượng đó phải có hiện tại thì nó phân biệt rõ ràng. Mà nó không có thì chúng ta phải mượn, vay mượn cái tưởng của chúng ta. Mình tưởng cái đó ra như thế này, mình tưởng cái đó ra như thế kia, để cho mình nghĩ nó là đúng như thế này, đúng như thế kia. Nhưng mà cái tưởng làm sao đúng được quý vị.

Cho nên cái thế giới siêu hình mà hiện giờ chúng ta nghĩ rằng mình chết đi, mình rước Thầy chùa đến tụng kinh cầu siêu, cầu an, điều đó đều sai, mê tín. Bởi vì đức Phật xác định rất rõ: "Nếu còn một chút xíu thức như đất trong móng tay ta, thì con người trong thế gian này không tu giải thoát được, và đạo ta không ra đời".

Nghĩa là còn có một chút xíu, đức Phật nói. Một hôm đó thì chúng Tỳ kheo họp rất đông, thì đức Phật mới lấy một miếng đất ở dưới đất, dưới chân mình mới để trên cái móng tay của mình. Một ít nhỏ xíu chừng vài ba hạt cát chứ không cần nhiều. Đức Phật mới nói: "Nếu thức của chúng ta còn một chút xíu, thì con người trong thế gian này không giải thoát được".

Bởi vì còn cái đó là còn cái bản ngã của chúng ta rồi, không bao giờ giải thoát được. Còn do duyên hợp, rồi chúng ta lầm nó là có ngã, cho nên vì vậy mà dạy người ta hiểu biết, người ta không có chấp nó nữa. Cho nên người ta không có chấp, vì vậy mà giải quyết được cái giải thoát của họ, chứ nó còn một chút là không giải thoát.

(35:00) Cho nên ở đây khi mà cái người tu xong rồi, thì có người hỏi đức Phật. Vậy thì khi mà giải thoát cái tâm mình hết dục rồi, thì cái chỗ mà quý Phật tử chắc cũng có nghe giáo pháp của Phật dạy là: "Diệt Đế là cái Niết Bàn chứ gì". Diệt Đế là diệt hết cái nguyên nhân đau khổ của mình, thì Niết Bàn chứ gì. Thì Niết Bàn là một cái trạng thái tâm của chúng ta, cái trạng thái tâm của chúng ta hết dục.

Vậy thì trong ở đây quý Phật tử ai là người hết dục, hết ác pháp, hay hoặc là ai là người ly dục, ly ác pháp? Nếu người nào đã ly dục, ly ác pháp và đã hết dục, hết ác pháp, thì người đó sẽ thấy được cái trạng thái tâm đó, thì đó mới là Niết Bàn. Còn chúng ta bây giờ còn Dục, mà chúng ta ngồi không có vọng tưởng, rồi chúng ta nói đó là cái trạng thái hết dục, thì nó không đúng đâu. Nó còn ở trong Dục, nhưng mà cái trạng thái đó là cái trạng thái bất lạc, bất khổ mà thôi.

Nó không lạc, không khổ, nó ở trong cái trạng thái tự nhiên của nó như vậy, chứ chưa phải nó là cái trạng thái hết Dục của chúng ta. Khi nào chúng ta hết Dục nó mới được, thấy được cái trạng thái đó. Còn bây giờ chúng ta còn Dục, tức là còn cái nguyên nhân đau khổ, thì nó chỉ là một cái trạng thái không khổ, không lạc mà thôi.

Cho nên Phật nói có ba cái thọ: "Thọ khổ, thọ lạc và thọ bất khổ bất lạc".

Thì chúng ta thường thường chúng ta, nếu có người chọc tức mình giận, đó là mình đang ở trong cái thọ khổ. Hoặc cái thân mình nhức cái đầu, đau cái chân thì đó là khổ.

Còn bình thường mình ăn cái miếng bánh ngon, hoặc là người ta khen mình mừng, hoặc có người đi xa về mình mừng, đó là cái thọ lạc.

Còn cái bình thường mình không lạc, không khổ, thì cái này là gọi là thọ bất lạc, bất khổ.

Đó thì ba cái trạng thái lạc này, đức Phật không chấp nhận cái trạng thái nào cả hết, vì nó không đúng. Cho nên khi mà chúng ta hết Dục, hết ác pháp rồi, thì chúng ta mới thấy được cái trạng thái đó.

Nhưng mà khi mà người mà đến được cái trạng thái Niết Bàn đó rồi, thì người ta hỏi: "Vậy chứ ông có thấy còn có cái gì không".

Thì đức Phật nói "Nếu mà ta nói còn, ta nói còn thì tức là chấp thường, mà ta nói không có thì chấp đoạn, như vậy ta nói sao được".

Vậy thì như quý Phật tử bây giờ trả lời sao cái chỗ đó. Nếu có Phật tánh thì nó là chấp thường rồi còn gì! Dù là cái đó là vô hình, vô ảnh như thế nào nó cũng là chấp thường, bởi vì mình còn nói còn có cái đó, thì nó trật. Mà nói nó không có thì chấp đoạn rồi, thì như vậy quý vị suy nghĩ như thế nào?

Mục đích của đạo Phật là giải quyết cái gì, giải quyết chúng ta thoát khổ. Mà bây giờ nó hết Dục là nó thoát khổ rồi, thì cái còn, hay cái không còn thì tới đó người đó biết. Vì tới đó là người đó sẽ có cái trí vô hạn, mà chúng ta bây giờ cái trí hữu hạn mà đòi hiểu cái đó, thì hiểu chi? Hiểu thì đành phải tưởng, tưởng thì nó dính mắt, nó chấp ngã rồi. Cho nên ở đây vốn cái đạo Phật là diệt cái tưởng của chúng ta, chúng ta sống ý thức, luôn sống với lại tâm thức của chúng ta.

(37:46) Như trong thân ngũ uẩn của chúng ta, quý Phật tử đã từng nghe các Thầy đã giảng là thân ngũ uẩn chứ gì: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức.

  • Thì Sắc của chúng ta có cái Sắc thức: Sắc thức thể hiện qua sáu cái thức của chúng ta là mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý thức của chúng ta.

  • Còn Tưởng thức thì nó thực hiện qua giấc mộng của chúng ta khi sáu cái thức này nó nằm ngủ. Cho nên chúng ta mới chiêm bao, cho nên đó gọi là Tưởng thức.

  • Còn cái Thức mà chúng ta gọi “sắc - thọ - tưởng - hành - thức”; cái Thức cuối cùng đó, thì nó chưa có hoạt động chút nào hết, mà chúng ta gọi là "tâm linh, hay là tâm thức của chúng ta".

Cái này nó chưa hoạt động, nhưng mà hỏi về cái này có phải còn không? Không.

Cái này nó cũng hoại diệt theo, nó ngũ uẩn mà rã hết thì cái “tâm thức” này nó cũng không còn. Tưởng thức mất, Sắc thức cũng mất, thì cái Tâm thức này cũng mất.

Nó tới ba cái Thức rõ ràng chứ, chứ đâu phải một cái hay sao. Nếu một cái thì thôi bây giờ mình đang nói chuyện vầy sao mình không nằm chiêm bao coi thử coi, phải không? Nó đâu có một cái được, mình đâu ngủ thì nó đâu có chiêm bao.

(38:45) Cho nên vốn cái người mà muốn được nhập thiền định, thì người ta dẹp cái Tưởng thức. Chứ không khéo thì mình vừa ngưng Ý thức của mình, thì cái Tưởng thức nó hiện ra, tức là mình bị mộng mà mình không biết. Mình tưởng là mình nhập nào là trạng thái Hỷ Lạc Khinh An, không ngờ là mình bị Xúc Tưởng Hỷ Lạc.

Mình thấy nào hào quang ánh sáng, rồi mình thấy nào là âm thanh tiếng nổ trong tai, rồi Phật Quan Âm nói thuyết giảng trong lỗ tai mình, điều đó là thuộc về Tưởng hết. Bởi vì nó có, nó có về Sắc tưởng, thấy Phật, thấy hoa sen, thấy ánh sáng, thấy hào quang, gọi là "sắc tưởng".

Mà Thinh tưởng, thì cái âm thanh trong tai mình nghe mà người khác không nghe, mình nghe tiếng nổ rất lớn ở trong đầu của mình. Mình ngày thường có khi nhiều khi tiếng nổ, có nhiều khi nó nghe tiếng Phật dạy kinh, hoặc dạy mình, hay là Tổ dạy, điều đó là gọi là "thinh tưởng", tất cả những cái này thuộc về ma không. Cho nên khi một người nhập Tam thiền đức Phật bảo: "Ly hỷ, trú xả mới nhập tam thiền".

Ly hỷ là gì? Những cái trạng thái hiện ra nó làm cho mình vui mừng. Cũng như mình giờ mình ngồi thiền, nghe nói hỷ lạc quá mình thích. Đó là mình mừng chứ gì, do đó mình tưởng là "bữa nào mà ngồi thiền được vậy thì ngon quá, mà lâu lâu nó mới có được bữa".

Đó là mình bị những cái ma tưởng của mình, chứ không phải đúng đâu, tất cả những cái này là cái sai.

(40:02) Bởi vì vốn đạo phật không phải tu hành để lại nhục thân, mà cũng không phải tu hành để thực hiện ngồi lại bảy, tám ngày thiền.

Mục đích của nó nãy giờ Thầy nói là làm sao cho cái tâm của chúng ta bất động ly dục, ly ác pháp. Nghĩa là người ta chửi mình không giận, trước cái thọ đau đớn mà mình vẫn như thường, tâm mình không động, không sợ hãi gì hết, thì cái đó gọi là "Bất Động Tâm Định".

Mình nhập được cái Tâm định, đó mới là cái mục đích giải thoát của đạo Phật. Không phải vì Thiền Định, không phải vì Giới Luật, không phải vì tất cả mọi cái, mà vì cái tâm giải thoát của chúng, cái mục đích như vậy.

Và mục đích đó thì phải đi từ cái Đạo Đức của đạo Phật mà đi vào, "Đạo Đức Nhân Quả không làm khổ mình, khổ người", cái Đạo Đức nó sẽ thực hiện được. Từ đó khi mà chúng ta thực hiện mà xả ly được cái tâm của chúng ta rồi, thì cái quá trình tu tập nó có pháp môn, chứ không phải không có pháp môn. Cái pháp môn nó tập, nó trở thành một cái lực, lực đạo gọi là đạo lực.

Mà cái đạo lực của đạo Phật, thì như quý Phật tử nghe trong kinh phật có nói Ngũ Lực: "Tín Lực, Tấn Lực, Niệm Lực, Định Lực, Huệ Lực". Năm cái nó mới trở thành một cái đạo lực của đạo Phật. Cho nên cái đạo lực nó sẽ điều khiển chúng ta sẽ nhập được tất cả các Định.

Vì vậy mà trong kinh Phật dạy Tứ Như Ý Túc. Tứ Như Ý Túc nghĩa là mình muốn cái gì nó làm theo cái nấy. Nghĩa là khi mà cái tâm thanh tịnh rồi, nó hết dục hết ham muốn rồi, nó hết ác pháp rồi, thì lúc bấy giờ mình thực hiện Tứ Như Ý Túc.

Thì lúc bấy giờ nó có cái Định Như Ý Túc, bởi vì ở trong đó nó có cái Định Như Ý Túc, mình muốn định nào thì nó sẽ nhập định đó. Vậy thì cái đạo lực đó nó ở chỗ nào mà chúng ta làm được? Là ở chỗ cái tâm thanh tịnh của chúng ta, khi mà chúng ta hết dục, khi mà chúng ta hết ác pháp. Thì lúc bây giờ chúng ta ra lệnh, tức là Như Lý Tác Ý.

Như quý vị đã từng nghe kinh Nguyên thủy Phật dạy "Như Lý Tác Ý". Như cái lý của đạo mà tác cái ý ra như cái lý mình muốn. Bây giờ mình muốn nhập Tứ Thiền, thì đức Phật trong kinh dạy "Tứ Thiền thì hơi thở phải tịnh chỉ, phải ngưng không được thở, thì cái thân lúc bấy giờ mới có gọi là định". Vì vậy muốn cho cái thân nó định, mà nó còn thở thì không định.

Quý vị bây giờ ngồi thiền hai giờ, ba tiếng đồng hồ mà cái thân cứ thở từng giờ hoài, mà hô là định. Cái thân còn thở mà là định cái thứ gì, phải không? Cái thân không thở mới là định. Vậy thì một cái người mà người ta có cái tâm thanh tịnh, thì cái đạo lực người ta mới có. Còn mình chưa có tâm thanh tịnh thì cái đạo lực không có. Cho nên mình, mình bảo "hơi thở tịnh chỉ ngưng" thì nó đâu có ngưng.

Cho nên Phật nói "Tịnh chỉ hơi thở chứ không phải đình chỉ, hay là định chỉ". Tịnh chỉ, tức là cái tâm thanh tịnh nó sẽ chỉ được cái hơi thở nó ngưng, do đó mình mới nhập Tứ thiền.

Nhập Tứ thiền để làm gì? Để chúng ta thấy rõ ràng là chúng ta làm chủ được cái hơi thở. Vậy bây giờ chúng ta bảo "hơi thở thở lại, thở lại bình thường", thì hơi thở bắt đầu nó phục hồi lại, nó thở lại bình thường. Như vậy là chúng ta muốn chết thì nó nín thở chứ gì, muốn sống thì nó thở lại.

Thì cái quyền lực chúng ta đã nắm làm chủ được cái nhân quả đó rồi. Như vậy rõ ràng là chúng ta tu theo đạo Phật chúng ta có cái đạo lực, chúng ta có cái quyền lực. Chứ đâu phải chúng ta ngồi vậy nó hết vọng tưởng, rồi cái nó nhập vô đó được sao? Chúng ta không có đường đi rồi chúng ta đi chỗ nào giờ? Còn cái này chúng ta sai nó chỗ nào cũng được hết.

Bây giờ muốn nhập Nhị thiền, chúng ta bảo: "Tầm tứ phải tịnh chỉ", thì nó tịnh chỉ ngay liền. Tầm tứ tịnh chỉ tức là khẩu hành tịnh chỉ. Chúng ta ra lệnh khẩu hành phải tịnh chỉ. Còn chúng ta ra lệnh thân hành tịnh chỉ, thân hành tức là hơi thở, phải không?

Người ta bảo Tưởng hành tịnh chỉ, tức là Tam thiền, tức là lúc bây giờ cái người đó không còn nằm chiêm bao. Cho nên một cái vị mà chứng quả A La Hán không chiêm bao. Người ta tỉnh thức, thân ngủ mà tâm người ta không ngủ, cho nên nó làm sao chiêm bao.

Còn mình nằm xuống là thân ngủ và tâm cũng ngủ luôn, vậy mà nói tâm thức, thức cái gì, phải không? Cứ hô ai cũng nói tâm thức hết, mà có thức cái chỗ nào đâu, mình ngủ, nó ngủ theo. Vậy mà nói nó thường hằng, nó thường hằng sao ngủ mất tiêu đi? Đã thường hằng thì cái thân nó ngủ thì cái tâm nó phải thức chứ, nó mới hằng chứ!

Bây giờ mình đang thức thì mình nói nó "Hằng biết, hằng thế này, hằng nghe, hằng thấy" phải không? Nhưng mà sao mình ngủ thì sao nó hổng hằng nghe, hằng thấy. Người ta vô ăn trộm, người ta đục rương mình, người ta muốn giở nhà mình, người ta chở sạch mà mình cũng không có biết, chừng giật mình thức dậy mới biết. Thì rõ ràng là nó ngủ quên, chứ nó đâu có thức. Vậy thì Phật gì mà còn ngủ quá như vậy, vậy thì Phật còn mê hay sao? Thành ra cái đó là sai, không đúng, phải không?

Cho nên khi mà người ta tu tập tới Tam thiền là người ta phá vọng tưởng, là người ta không có ngủ. Cho nên do đó cái thân thì nó ngủ, mà cái tâm người ta không ngủ. Vậy bây giờ có gọi là tâm thức, nó thức luôn. Cho nên người ta nhập tới Tam thiền người ta không có bệnh, là vì người ta, cái thân người ta ngủ, cho nên cái thân đâu có bệnh. Còn mình mà cái tâm mà nó, nó thức mà cái thân nó cũng thức theo. Cho nên thức riết cái người này ăn uống không được, rồi ốm nhom gầy gò, rồi xơ vơ xửng vửng thành ra bệnh, gọi là bệnh mất ngủ. Còn cái người ta nhập Tam thiền rồi.

Cho nên ông Phật ổng, cái hành động của ông Phật ngày xưa đó, nửa đêm canh giữa đó ổng nằm xuống kiết tường, thì luôn luôn lúc nào cái tâm ổng vẫn theo dõi hơi thở. Hơi thở ra biết ra, hơi thở vô biết vô, không bao giờ mà mất cái đó, mà cái thân ổng ngủ ngáy khò khò. Cho nên ổng không có bệnh tật gì hết, còn mình lơ mơ coi chừng nó mất ngủ rồi cái nó tiêu.

Cho nên ở Thầy có một thầy Minh Tông, Thầy tu tập tới cái giai đoạn của cái, phá cái mộng. Tức là tập tỉnh thức toàn diện đó, để sau khi mà nhập Tứ thiền. Bởi vì cái sức mà tỉnh thức mà như vậy đó, mình nhập Tứ thiền mình mới không mất. Bởi vì Tứ thiền hơi thở dừng nè, tất cả mọi cái đều mất tiêu hết, hoàn toàn không có, nhưng mà sức tỉnh phải còn.

Cho nên ở đây mà Tam Thiền không chuẩn bị cho nó tỉnh thức vậy đó, cái đến Tứ thiền nó mất tiêu. Bởi vì cái thân hoàn toàn bất động mà nó không hoạt động nữa, nó không có thở, không có gì hoàn toàn trong đó hết. Cho nên nó sẽ mất tiêu luôn cái tâm. Cho nên ở đây người mà tu tới Tứ thiền, người ta đã chuẩn bị cho Tam thiền. Vì vậy mà ly hỷ, tức là ly hết các trạng thái Tưởng, trong đó có những Tưởng thần thông nữa.

Cũng như Tha Tâm Tưởng biết chuyện quá khứ vị lai của người này, biết chuyện nhà cửa người ta đó mà nói ra đó. Đó là những vị đó đều lạc vào cái Tha Tâm Tưởng, chứ không phải là thần thông đâu. Cái thần thông chính là họ phải ly dục, ly ác pháp là nó mới có thần thông chính của nó.

4- ĐẠO PHẬT CÓ NỀN VĂN HOÁ ĐẠO ĐỨC RIÊNG BIỆT

(46:12) Nhưng mà mục đích của đạo Phật không phải thực hiện thần thông. Thầy nói thật sự cái vấn đề mà ngồi thiền bảy, tám ngày, đạo Phật không có chú trọng vấn đề đó. Mà chú trọng ở cái tâm của chúng ta, ở con người chúng ta hằng ngày, hành động hằng ngày có đúng đạo đức hay không. Vì đúng Đạo Đức sẽ giải thoát cho chúng ta, mà không đúng Đạo Đức thì chúng ta sẽ khổ.

Cái mục đích của đạo Phật, Giới Luật của đạo Phật, tức là những cái hành động Đạo Đức, mà Thầy nghĩ rằng không có một cái tôn giáo nào mà có những cái Đạo Đức như đạo Phật. Thế mà người ta quên cái Giới Luật của phật, người ta không bao giờ giảng cho cư sĩ nghe. Người ta chỉ giảng Năm Giới, cao lắm là Thập Thiện cho quý vị, nhưng mà người ta không dạy pháp hành của Đạo Đức đó nữa.

Vì mà được mà định, con người không đạo đức mà làm sao định, cái nền tảng đó là cái nền tảng sai. Cho nên quý vị mà có muốn học Phật thì quý vị phải xây dựng mình, là trước tiên là phải đạo đức của con người. Sau đó người ta sẽ dạy đến những cái hành động đạo đức của bậc Thánh Nhân. Từ đó mình mới ly được cái tâm dục của mình, mình mới ly cái ăn, cái ngủ của mình, bởi vì mình còn dục mình mới ăn nhiều. Mà hễ dục ăn nhiều thì nó lại ham ngủ, người ta nói ham ăn, ham ngủ, ăn nhiều thì ngủ nhiều.

Cho nên cái người mà tu theo đạo Phật, người ta ăn ngày một bữa, đâu phải khổ hạnh. Khổ hạnh là tại mình ăn ít quá, mình ăn một ngày một muỗng cơm, hoặc là một ngày một bát cháo nhỏ, cho nên nó đói khổ thân thể nó, hằng ngày nó thiếu dưỡng chất, nó không có đủ nuôi.

Chứ như Thầy, Thật sự bây giờ Thầy già rồi, thì Thầy ăn ngày một bữa, thì cái thân của Thầy nó không mập hơn, mà nó cũng không có ốm hơn, nó cũng như vậy bình thường. Nhưng Thầy làm việc rất nhiều, cho nên cái năng lực ở trong người của Thầy nó phải tiêu hao. Vì Thầy phải soạn những cái Đạo Đức để giúp cho những người Phật tử, cho những tín đồ mà theo Phật giáo người ta biết được cái đạo đức của đạo Phật.

Chứ từ lâu bấy giờ, quý vị nghe được cái đạo đức của nho giáo Tam Cang Ngũ Thường - Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín, ai cũng thấy điều đó. Mà chính Phật giáo chúng ta cũng không thấy đạo đức nữa. Quý thầy cũng không thấy đạo đức của mình nữa, đạo đức của Phật giáo nữa. Luôn luôn lấy cái đạo đức của Nho giáo mà làm cái đạo đức của Phật giáo.

Cho nên ở trong cái thời mà nhà Lý, Thiền Sư Vạn Hạnh mới gọi là “Thiền Sư dung Tam Tế”. Dung ba cái tôn giáo Phật, Khổng, Lão lại, ba cái tôn giáo đó lại thành ra một cái Phật giáo của Việt Nam của mình. Cho nên nói “Vạn Hạnh dung Tam Tế”, tức là dung thông ba cái tôn giáo lại. Điều đó sai.

Đạo Phật có Đạo Đức của nó, không cần phải vay mượn của đạo đức của Nho giáo. Không cần dung hợp cái đạo đức phong kiến đó. Bởi vì cái đạo đức phong kiến đó là cái đạo đức vua chúa, họ phục vụ cho vua chúa, chứ không phải nó phục vụ cho con người giải thoát. Cho nên đạo đức, có cái Đạo Đức hẳn hòi đàng hoàng. Vì vậy mà chúng ta không học được cái đạo đức.

Nói bây giờ đến bây giờ Phật tử là những người đã đi chùa nhiều, cúng chùa nhiều, nghe pháp nhiều, mà hỏi đạo đức của đạo Phật thì bây giờ quý vị ngơ ngác. Lẽ đâu mà một cái tôn giáo không có Đạo Đức sao? Hay đâu là nói cái chuyện mê tín, vô chùa cầu khẩn, cúng bái, phải không? Cái đó là cái sai.

Hay đâu là nói chuyện thiền định không, thì cái đó đâu phải đúng. Phải xây dựng cho người ta có cái cái đạo đức chứ. Làm gì mà con người chúng ta không khiếm khuyết cái điều đó. Ai cũng toàn là đạo đức hết sao? Đâu có điều đó. Nếu đạo đức hết sao, tại sao người ta làm khổ nhau, người ta tranh giành từng miếng ăn, manh áo với nhau, hai người cùng nghề đã giết nhau rồi.

Hai ông Thầy giáo dạy một cái nghề như dạy Anh ngữ, thì ông này chê ông kia là "dạy dở". Hoặc hai cô thợ may thì chê nhau, "cô này may vụng, không bằng tui".

Thử hỏi họ từ cái chỗ đó, có phải họ là thú vật không? Mình đã tự giết nhau ở trên cái cuộc sống mà mình an nhiên, mình thấy người ta khen mình hay là mình mừng, mà chê mình chút là mình buồn, như vậy là mình là một con thú chứ đâu phải là con người. Vậy thì mình phải học làm con người, để khi đó mình luôn luôn không có nói xấu người khác, thì vậy mới đúng là con người chứ. Còn bây giờ con người sao mà hở ra chút cái nói xấu người khác à, như vậy là có đúng không? Đâu có đúng, đó là cái thiếu đạo đức.

Cho nên ở đây chúng ta cần phải học những cái Đạo Đức đó. Nhưng mà Thầy ước ao rằng một ngày mai, vì hôm nay có duyên với Phật tử ở Châu Đốc, ngày mai Phật tử ở đây sẽ học được cái Đạo Đức Nhân Quả từ đức Phật đã dạy.

Ngày xưa đức Phật dạy cái đạo đức đó cho một cái người con của một vị huấn luyện voi. Trong cái buổi đó thì đức Phật thuyết giảng, có bốn cái điều kiện:

  • Một con người mà tự làm khổ mình, thì đức Phật không chấp nhận, đó là ác pháp với mình.

  • Một con người mà làm khổ người khác, thì đức Phật không chấp nhận, đó là ác pháp với người khác.

  • con người làm khổ mình, làm khổ người khác thì đức Phật không chấp nhận người đó.

Chẳng hạn bây giờ quý vị mà ngồi thiền, mà cái chân quý vị đau nhức, mà quý vị không đứng dậy xả, quý vị ráng ngồi để cho đúng giờ thì quý vị đã làm khổ quý vị, đó là quý vị đã sai con đường của đạo Phật. Đạo Phật ngồi thì phải có an lạc, phải có yên ổn, phải có thoải mái, phải có dễ chịu. Ngồi mà chịu đau để cho tăng giờ lên, để cho ngồi được hai ba, bốn tiếng, hay bảy, tám tiếng mà chịu đau như vậy đó, là quý vị đã khổ hạnh.

Cho nên đức Phật không chấp khổ hạnh, làm cái gì có thân chúng ta khổ là không được. Làm cái gì mà có tâm chúng ta khổ là không được, gọi là khổ hạnh. Cho nên đức Phật bác cái khổ hạnh, không chấp nhận, vì ngày xưa đức Phật là đệ nhất khổ hạnh.

5- ĐỨC PHẬT TỪ BỎ TU HÀNH KHỔ HẠNH.

(51:33) Quý vị Phật tử nếu quý vị đọc kinh trong cái bài Đại Sư Tử Hống, quý vị sẽ thấy sự khổ hạnh của đức Phật đến mức tối đa. Nghĩa là lúc đức Phật ức chế tâm bằng hơi thở, nín thở, có năm cái giai đoạn nín thở để ức chế cái tâm của mình, để đạt được cái sự giải thoát. Nhưng cuối cùng gần chết mà không đạt được, cho nên đức Phật bỏ cái ức chế tâm.

Sau đó đức Phật ức chế thân. Ức chế thân như thế nào? Ăn quá ít. Ăn một ngày, một bữa ăn có bảy hột mè. Ăn một bữa ăn, ở trong kinh Nguyên Thủy nói "đức Phật ăn có một muỗng cháo, hai muỗng cháo mà thôi, cháo đậu". Còn ở trong kinh Đại thừa thì nói rằng "đức Phật ăn có bảy hột mè một ngày", cho nên cái thân đứng dậy không nổi nữa. Vì ăn như vậy nó yếu sức quá, đức Phật chỉ còn nằm không. Sau đó nhờ uống cái ly sữa dê, thì đức Phật mới tỉnh. Tỉnh lại thì đức Phật nghĩ rằng: "ức chế cái thân tối đa như vậy nó cũng không giải thoát, ức chế cái tâm tối đa như vậy không giải thoát".

Rồi đức Phật mới hồi tưởng nhớ lại, nhớ lại cái lúc mà mình còn bé đi với vua cha. Khi mà vua cha làm cái lễ hạ điền, thì vui cha xuống cày ruộng đầu tiên cho cái vụ mùa. Thì ngài ngồi, ngài còn bé, ngài ngồi ở dưới cái cây…​. tức là như cây táo của mình vậy. Cho nên ngài ngồi dưới cái bóng mát đó, rồi ngài ly dục, ly ác pháp. Mà ngài là còn con nít, ly dục, ly ác pháp như thế nào? Như Lý Tác Ý.

Ngài tác ý, ngài nói: "Tâm ham muốn lìa ra", ngài ra lệnh mà, ngài hướng mà. Ngài nói: "tâm ham muốn lìa ra, ác pháp lìa ra, lìa ra hết".

Ngài ngồi đó bắt đầu ngài thấy yên tịnh, cái sự yên tịnh đó bắt đầu ngài hồi tưởng. Trong những lúc mà ngài tu các pháp của ngoại đạo dạy ngài không tìm thấy được sự giải thoát. Cho nên cuối cùng ngài mới hồi tưởng lại cái lúc còn nhỏ. Rồi Ngài mới nói: "Ly dục sanh hỷ lạc".

Ngài nói: "Ly dục, ly ác pháp nhập Sơ thiền do ly dục sanh hỷ lạc".

Ngài nói: "Có hỷ lạc, thì tức là có dục".

Rồi ngài lập trở lại: "Do ly dục sanh hỷ lạc, do ly nó mới có, chứ đâu phải mà mình chạy theo dục mà có, có lẽ pháp này".

Đức Phật lập lại trong cái bài Saccaka rất kỹ lưỡng trong cái phần này rất kỹ. Đức Phật hồi tưởng lại mà trong khi đó đang nằm, coi như là không còn đứng dậy nổi, nhưng mà nhờ bát sữa dê mà tỉnh lại. Cho nên đức Phật mới nhớ lại, mới nhắc lại mình.

Rồi từ đó đức Phật mới nghĩ rằng: "Bây giờ ta làm sao mà ta thực hiện được cái pháp này? Nhập làm sao cho được cái pháp này mà khi cơ thể ta suy yếu như thế này? Cho nên ta phải ăn lại, phải sống lại bình thường mới có thể tu được".

Do đó thì, ngài suy nghĩ như vậy, thì nhờ mấy cái người mà chăn dê, họ cho ngài những cái bát sữa. Rồi ngài nhận những cái bát sữa ngài uống, ngài tỉnh dần. Tỉnh dần rồi bắt đầu ngài đi khất thực ngài sống. Thì lúc bấy giờ ngài sống lại bình thường, tức là ngài không còn khổ hạnh ăn ít nữa. Ngài ăn một ngày một bữa, chỉ ăn vừa no, không ăn thái quá, cho nên ăn tạm đủ để nuôi sống thân mình một ngày một đêm. Do đó ngài thực hiện ngày một bữa ngài sống.

Thì lúc năm anh em Kiều Trần Như thấy ngài mà ăn trở lại như vậy đó, gọi là: "Ông bỏ cái khổ hạnh, cho nên không có tu chung với ông này nữa". Vì vậy mà đi tìm cái chỗ khác ở, không có ở gần đức Phật nữa.

Cho nên đức Phật mới thấy người ta bỏ mình như vậy, vì vậy thôi đức Phật mới đi đến cái cội bồ đề. Đi tìm cái nơi yên tĩnh để cho mình thực hiện, để sau khi mà hồi phục được cái cơ thể của mình rồi, nó bình thường rồi thì mình thực hiện cái pháp này. Do đó từ cái chỗ đó đức Phật mới thấy được cái pháp "ly dục ly ác pháp".

6- NHIỆT TÂM TU TẬP MỚI LY ĐƯỢC DỤC VÀ ÁC PHÁP

(55:11) Ly dục, ly ác pháp nó đâu có nghĩa là mình ngồi thiền đó rồi mình ức chế tâm mình đâu. Đời sống phải như thế nào, cách thức như thế nào, phòng hộ sáu căn như thế nào, thiểu dục tri túc như thế nào. Rồi tu các định như thế nào, như Định Chánh Niệm Tĩnh Giác, rồi Định Niệm Hơi Thở, Định Vô Lậu, rồi Định An Lạc, Định Sáng Suốt, như thế nào.

Tất cả những cái này đức Phật đều thực hiện để thực hiện được cái “Ly dục - Ly ác pháp”. Chứ đâu phải ,khi ra lệnh nó rồi chứ mình xả ra thì nó trở lại như thường, nó hồi phục lại như thường. Chứ đâu phải mà, khi mình ngồi mình nhắc nó thì nó yên tịnh đó chút đó, nhưng mà xả ra thì nó trở lại như thường, nó đâu có xả hết liền được. Cho nên lúc bây giờ đức Phật mới thường xuyên tu tập những cái loại định đó, vì vậy những cái loại định đó nó “ngăn ác và diệt ác”.

Tại sao hằng ngày Thầy hít thở, thì Thầy biết hơi thở tĩnh giác, Thầy xả tâm "quán ly tham tôi biết tôi hít vô, quán ly tham tôi biết tôi thở ra". Quý Phật tử có đọc kinh Nguyên thủy của Phật, có thấy cái bài Định Niệm Hơi Thở dạy như vậy không. Đó là cách thức vừa tĩnh giác để vừa xả tâm, phải không?

Cho nên thiền của Phật gọi là thiền xả tâm. Còn chúng ta hít vô, thở ra đếm một, hai, ba, bốn, năm, không có cho niệm vọng tưởng nào xen vô, thì cái đó chúng ta sai rồi, ức chế tâm rồi. Không có xả cái tâm tham, sân, si mà cứ ức chế nó hoài. Cho nên vì vậy nó thể hiện qua Tưởng thức, nó sanh ra những cái dục của tưởng thức. Nó làm chúng ta có những hiện tượng thần thông phép tắc này kia, để thỏa mãn được cái dục của ý thức. Vì ý thức của chúng ta bị ngưng, không có cho nó hoạt động, cho nên nó thực hiện qua Tưởng thức. Từ đó nó thể hiện qua cái kia, cái chúng ta tưởng rằng mình đắc đạo.

Cho nên vì vậy mà cái người mà thực hiện đến cái tưởng thức, mà gọi là "pháp tưởng". Cho nên họ thuyết pháp rất là hay, mà toàn là tưởng, không có pháp hành. Cho nên hiện bây giờ nói mà cách thức mà luyện cái đạo lực, để họ làm chủ cái thân họ, thì họ không biết cách thức nào mà truyền lệnh cho nó nghe hết. Họ chỉ có cách thức bây giờ ngồi, tập cho ngồi cho nhiều, cho dài ra, may ra được bảy, tám ngày là thấy ngon rồi. Hoặc là ngồi được một, hai tháng là sướng rồi, nhưng mà sự thật ngồi để làm con cóc chứ làm gì? Phải không? Không lẽ là mình..

Bởi vậy Phật nói "tu theo hạnh con bò thành con bò, mà tu theo hạnh con chó thành con chó, mà tu theo hạnh con cóc thì thành con cóc". Mình ngồi thiền riết rồi mình cũng thành con cóc thôi. Chứ nó thành cái gì? Không lẽ ông Phật ổng cứ ngồi hoài sao? Bộ phải tượng sao mà ngồi?

Cho nên hành là ở chỗ tâm giải thoát của mình, không giận hờn, phiền não, không tham, sân, si, mạn, nghi nữa, phải không? Hành là tâm bất động trước các pháp, trước thọ của mình: đầu đau nhức mà mình cũng không dao động, chết mình không sợ hãi. Đó là cái Tâm Bất Động, mà muốn được như vậy phải thực hiện những pháp gì?

Nó là những cái mà chúng ta thực hiện và những pháp đó phải luôn luôn lúc nào phải Như Lý Tác Ý hết. Và cái pháp Như Lý Tác Ý thường nhắc tâm nó mới trở thành một cái lực đạo. Do đó cái lực đó, thì bắt đầu bây giờ mình mới nhắc tâm một cái nó làm liền, phải không? Còn bây giờ mình không nhắc nó, tới chừng đó mình nhắc nó, nó có biết gì đâu nó làm. Đó.

Thầy nói như thế này, quý vị ở trong thành phố, thì không biết quý vị có bao giờ mà thấy một người nông dân cày ruộng không? Nếu mà mình huấn luyện con bò, hay con trâu mà mình cày ruộng, mà mình la “Thá! Ví!”thường xuyên nó nghe được cái đó rồi, mình la “thá!”, cái con trâu nghe thá nó đi theo cái đường đó, nó không có đi bậy, phải không? Mình la “ví!” cái nó quay, nó không có đi trật. Đó là cách thức mình huấn luyện tâm cũng như là mình huấn luyện con bò, hay con trâu đi cày ruộng. Cho nên nếu mà mình không có ra lệnh như vậy, thì làm sao mà được.

Thầy nhắc lại, như cái ngài Từ Đạo Hạnh, như chúng ta đọc ở trong những chuyện huyền thoại, thì chúng ta thấy có ngài Từ Đạo Hạnh. Ngài vì thù cha của ngài mà ngài đi luyện thần chú, để ngài trả thù. Do đó ngài đến trong núi Từ Sơn, tức là miền Bắc của chúng ta thì cái núi Từ Sơn thì chắc ai cũng biết hết. Ngài vô trong núi đó, ngài mới đọc cái thần chú, mỗi lần ngài Chú Đại Bi, chứ không có chú gì hết.

Bây giờ quý vị là người nào cũng thuộc Chú Đại Bi hết, Phật tử người nào cũng có tụng kinh và đọc Chú Đại Bi hết rồi, vậy mà bây giờ chúng ta không có lực gì hết. Đọc bây giờ có nhiều chùa bây giờ chuyên môn đọc Chú Đại Bi nữa, nhưng mà không có ông nào có thần lực hết. Còn cái ông này ổng chỉ có niệm cái Chú Đại Bi, 1000 biến Chú Đại Bi mà ông đã thành.

(59:29) Tại sao vậy? Tại vì bây giờ ổng đặt cây gậy trước mặt ổng. Bởi vì người ở núi thường thường hay có cây gậy chống, bởi vì đi sợ té hay là gặp rắn rít. Cho nên chúng ta ở núi là chúng ta phải có cây gậy. Thứ nhất là cây gậy dò đường, mình chống vậy chứ rắn rít đồ ở trước nó cắn, cho nên mình khỏi bị nó cắn. Thứ hai là đi đá đồ nó trơn trợt, do đó nó có cây gậy nó nương, nó đỡ, cho nên ở rừng núi thì ai cũng có cây gậy.

Thì sẵn cái dịp ông vô rừng Từ Sơn, mà ổng ở núi Từ Sơn ổng tu, thì chắc chắn là ổng phải có cây gậy. Cho nên khi mà ổng đặt cây gậy trước mặt ổng, thì ổng thường niệm chú. Còn chúng ta không có đặt cái gì hết, cứ để cái bài kinh tụng, hay gõ mỏ tụng riết thôi. Rồi xuống rồi xá Phật đi xuống thôi, thành ra nó không có linh chứ không có gì hết.

Còn ông này ổng đặt cây gậy trước mặt. Mà mỗi lần ổng đặt cây gậy, thì ổng nói như thế này, khi mà ông niệm chú xong rồi ổng nói "cây gậy bay lên đi”. Mà nó có bay được đâu, tại vì chưa linh, cho nên ổng đọc hoài. Đọc hoài tâm ổng tập trung chú tâm vô đó, ổng dùng cái tưởng ổng chú tâm vô đó là nó phải bay thôi, phải không? Cái lực của ổng. Cho nên ổng cứ nhắc riết, nhắc riết tới chừng mà ổng quăng cây gậy xuống dòng nước, ổng bảo cây gậy "lội ngược lên cho ta".

Ổng đọc thần chú, rồi ổng quăng cây gậy xuống cái ổng bảo ra lệnh truyền lệnh nó, thì cây gậy nó lội dòng nước nó đi ngược lên. Cái dòng suối và nước chảy xuống vầy, mà cây gậy lội lên được. Ổng nói: "Ta có đạo lực! Ta có rồi, sẽ trả thù cho cha được". Do đó ổng sai cây gậy đó mà giết ngài Đại Điên chết.

Đó thì chúng ta thấy tà đạo người ta còn luyện được, còn chúng ta luyện chánh đạo, nhờ cái Như Lý Tác Ý đó mà chúng ta hướng thành một cái đạo lực, để mà chúng ta ly dục, ly ác pháp. Cho nên do đó nói ly dục, ly ác pháp, chứ đó là cái câu pháp hướng của người ta mà, chứ đâu phải nói cái là nó ly được liền sao. Cầu cho mình nói cả trăm, cả triệu lần nó mới ly chứ đâu phải.

Quý Phật tử phải nhớ kỹ, Thầy nhắc lại cho nhớ kỹ cái chỗ này nữa. Cũng như bây giờ mình hít thở mình biết hơi thở, nó không phải chính đâu. Quý vị tu hành quý vị cứ nghĩ nó chính chứ gì, mình nương hơi thở để cho tâm mình hết vọng tưởng. Mình ráng mà làm sao tập trung biết hơi thở ra vô, để cho nó đừng có vọng tưởng là trật, cái đó là phụ, cái đó tỉnh thức phụ.

Còn cái câu mà nói ly dục, ly ác pháp nó cũng là phụ, nhưng mà cái tâm, nhiệt tâm mình có ly dục, ly ác pháp không? Mình mới nhắc mình ly dục, ly ác pháp rồi mà thấy cái bánh kia cái muốn ăn rồi. Thì như vậy mình có nhiệt tâm với nó không? Mình lấy ăn liền, thì như vậy rồi mai mốt biểu nó ly dục không? Nó ly ba bốn cái nữa, chứ đâu nó có ly, phải không?

Thầy nói thật sự là cái điều kiện đó là một cái, mình phải nhiệt tâm khi mình nói như vậy là mình không có được làm cái điều đó nữa. Cho nên nó thèm là nhất định là "mày thèm gì thèm, nhất định là đúng giờ tao ăn, chứ bây giờ không cho ăn".

Cũng như bây giờ mình nói "tâm như cục đất, không có giận hờn". Mà vừa ra ngoài kia cái chúng chửi mình, cái mình sân lên liền, thì thử hỏi mình có như cục đất được không? Đã dặn mình như cục đất, thì phải là cục đất chứ sao lại giận hờn, phải không?

Nó vừa bừng lên: "tao dặn mày như cục đất mà mày vậy hả, mày chết", ngay đó nó hạ liền à, phải không? Đó là mình nhiệt tâm với pháp, và cũng từ đó nó thành một cái lực đạo. Quý vị thấy dễ không, có pháp chứ đâu phải không.

7- GIỚI LUẬT LÀ NỀN ĐẠO ĐỨC GIẢI THOÁT

(1:02:24) Nhưng mà dù sao quý vị muốn thực hiện được cái đó, quý vị phải sống đạo đức. Chứ quý vị bây giờ mà ngang xương mà vô luyện như vậy, quý vị cũng không thành tựu đâu. Cho nên phải học giới luật, bởi vì giới luật là đạo đức, cái hành động đạo đức để chúng ta biết. Cho nên tất cả cư sĩ đều là phải học giới luật.

Bởi vì nói giới Tỳ kheo, sự thật Thầy đâu có thấy đâu phải là có một vị Tỳ kheo mà biết cái giới đó không. Bây giờ làm vệ sinh thí dụ như Phật cấm nè: "Một vị Tỳ kheo đó không được nhổ nước miếng trên cỏ xanh nè, không được nhổ ở trong dòng nước nè", thì người cư sĩ làm cái đó được không? Sống vệ sinh chung với nhau mà tại sao lại không cho người cư sĩ học, cấm không cho người cư sĩ học, chỉ có Tỳ kheo mới học được à? Vậy thì để cho người cư sĩ làm ô uế cái môi trường, để cho người cư sĩ thiếu đạo đức sao? Chỉ có dạy năm giới không à, như vậy đâu có đúng đâu!

Cho nên tất cả những cái giới này như bây giờ, thí dụ một người đạo đức mà ăn mặc, ra ngoài đường ăn mặc lật trái, lật ngửa áo quần mình ra, xăn ống cao ống thấp đi ra đường, thì cái đó là có đạo đức không? Người ta nói "thằng điên" chớ ở đó đạo đức, phải không? Cho nên vì vậy một cái người mà có đạo đức, ăn mặc phải tề chỉnh, nhưng không phải trang điểm lòe loẹt; phải đúng cách của nó.

Cũng như bây giờ, quý vị thấy không người phụ nữ bây giờ, thật sự ra Thầy nói thiếu đạo đức. Ăn mặc hở hang, gợi dâm gợi dục cho kẻ khác như vậy là có phải là con thú không? Quý vị cứ nghĩ coi đúng không? Con người là phải làm sao kín đáo chứ, con người gì mà ăn mặc gì, phụ nữ mà bận quần đùi như này, người mặc cái áo để hở ngực như thế này, thử hỏi cái đó đúng không?

Con vật nó còn có bộ lông của nó, nhưng nó không biết xấu hổ, cho nên nó đâu phải là con người. Còn con người mình có trí tuệ, biết xấu hổ, biết làm cái đó sai, biết cái đó gợi dâm, gợi dục không tốt cho xã hội. Thế mà bắt chước Tây phương, mình đi làm cái chuyện đó có đúng không?

Ngày xưa nội cái Nho giáo không, ông bà của mình ăn mặc đàng hoàng. Bây giờ mình bỏ Nho giáo rồi, cho nên mình ăn mặc quá lố lăng, mà trong khi đạo Phật dạy chúng ta rất là kỹ lưỡng. Khi ngồi vào trong nhà cư sĩ phải ăn mặc như thế nào, kín đáo như thế nào, y áo mình phải như thế nào. Thì người cư sĩ chúng ta cũng phải học đàng hoàng chứ, Đạo Đức đó chung cho tất cả, chứ đâu phải đệ tử của Phật, chứ đâu phải riêng cho Tỳ kheo không. Cho nên tất cả những hành động này thì cư sĩ cũng phải học chứ.

Thầy thử hỏi bây giờ nếu mà học được vậy, thì phụ nữ có ra đường có mặc lòi tay, lòi chân không, phải không? Vậy mới là đúng là người có Đạo Đức chứ. Mình là Phật tử, mà đi chùa nghe pháp lại trang điểm, làm đẹp, thoa son, đánh phấn thì nghĩ vậy có đúng không? Phật đâu có chấp nhận cái điều đó.

(1:04:49) Cho nên ngày xưa bà Visakha khi mà đến nghe Phật, bà quên đi, bà đeo cái xâu chuỗi ngọc. Bà đến cửa tịnh xá bà nhớ, bà cởi cái xâu chuỗi ngọc, bà sai cô đầy tớ đem nhét dưới gốc cây, rồi mình mới vô được nghe pháp. Chứ mà nếu mà đeo cái xâu chuỗi như vậy, mà vô nghe pháp, đức Phật không thuyết pháp đâu. Đây là cái chỗ nghe pháp, chứ đâu phải chỗ dạ hội mà chỗ trang điểm, chỗ làm đẹp sao? Nghe pháp để xả bỏ những cái điều này, để làm những cái điều tốt, để học những cái đạo đức. Chứ không phải diêm dúa trang điểm, làm đẹp, gợi tình gợi cảm người ta, ở đây chỗ này chứ không phải chỗ đó.

Cho nên ngày xưa cũng buổi tối như thế này, chúng Tỳ kheo đều họp đủ mặt để nghe đức Phật thuyết pháp. Nhưng mà ông A-Nan nhắc Phật "bây giờ đủ mặt hết rồi xin đức Phật thuyết pháp". Đức Phật làm thinh không nói.

Rồi chờ một lúc lâu, đâu có dám nhắc ổng liền, chờ một lúc lâu sau ổng không thuyết pháp, ông A-Nan nhắc nữa. Nhắc ba lần như vậy thì ông Mục Kiền Liên, ổng mới dùng cái thần thông ổng mới quan sát coi trong chúng này có ai như thế nào. Thì rõ ràng là có một người phạm giới bất tịnh, có một vị Tỳ kheo phạm giới. Cho nên ông Mục Kiền Liên xách cái vị Tỳ kheo đem ném ra ngoài rừng rồi, thì đức Phật ở trong này thuyết pháp. Nghĩa là có một người không đúng cách là đức Phật Không thuyết pháp. Pháp không bán rẻ cho người phá giới, pháp không bán rẻ cho người thiếu Đạo Đức.

Cho nên đối với cái Đạo Tràng của Thầy trên đó mà thuyết pháp, là phụ nữ đến là phải sợ hết. Nghĩa là ăn mặc đàng hoàng tề chỉnh, nghiêm chỉnh chứ hở tay, hở chân là không được. Thành ra sau này nó thành một cái lệ, người mà đến nghe pháp nghiêm chỉnh lắm. Muốn nghe pháp là muốn thực hiện cái Đạo Đức, muốn làm tốt, muốn giải thoát cho mình chứ không phải nghe chơi, chứ không phải chỗ trang điểm.

Cho nên ở đây chúng ta nhắm vào cái chỗ thật cụ thể giải thoát, giúp cho người ta được xây dựng con người có Đạo Đức. Và hiện giờ trên hành tinh chúng ta, con người trên hành tinh chúng ta đang thiếu Đạo Đức. Cho nên người ta sẽ giết lẫn nhau, vì thiếu Đạo Đức cho nên không nước này chiến tranh, có nước khác.

Chúng ta làm sao xây dựng một cái nền Đạo Đức Nhân Bản thật, để không làm khổ mình, khổ người, cho mọi người trên hành tinh này để thọ hưởng được cái Đạo Đức. Để đem lại sự an vui cho mọi người với nhau, thì điều đó là điều mơ ước rất lớn của Thầy.

Vì vậy mà Thầy đem hết sức lực, mặc dù bây giờ sức khỏe của Thầy rất kém, nhưng Thầy cố gắng, cố gắng làm hết mình, để đem lại sự lợi ích đó. Và hôm nay nói Đạo Đức, mục đích Thầy cũng nhắm vào cái chỗ này để mà nhắc nhở quý vị.

(1:07:18) Và quý vị muốn biết một bậc nào mà tu hành chơn chánh, đúng chánh pháp của Phật. Không phải ở chỗ Thiền định họ ngồi bảy, tám ngày; hoặc là một tháng, hai tháng; hoặc là họ hiện thần thông phép tắc, hoặc họ bay trên trời. Những cái trò ảo thuật đó bao nhiêu người đã làm rồi.

Chắc quý vị xem phim ảnh Tivi, chắc quý vị có thấy những cái trò ảo thuật đó, mà người ta đã làm cho quý vị coi rồi. Người ta đi qua Vạn Lý Trường Thành bằng cách chui qua đá được mà, phải không? Người ta đi ở trên lửa được mà, người ta chôn ở trong đất được mà không chết mà, người ta dìm trong nước không chết vị tu sĩ đó mà. Thì cái chuyện đó là chuyện biểu diễn, để làm trò cho thiên hạ coi chơi, chứ không phải là cái thực để mà giải thoát.

Cái thực mà giải thoát của chúng ta, là xây dựng mình có một cái Đạo Đức, để cho mình giải thoát và giúp cho những người khác giải thoát. Cái chính của đạo Phật ra đời là xây dựng con người đạo đức chứ không phải xây dựng con người có thần thông. Cho nên nói đạo Phật ai thực hiện thần thông, thì đức Phật không chấp nhận, nhưng chúng ta biết dùng thần thông, biết dùng thần thông tại sao?

Tại vì đối với ngoại đạo nó luyện bùa chú có thần thông. Nếu chúng ta không đủ khả năng thần thông, thì những bùa chú đó sẽ làm chúng ta mất uy tín. Làm cho người khác mê man về cái đó, đưa họ đi dần vào con đường thần thông đó.

Như chúng ta từng nghe những khí công, những cái trò mà người ta lừa bịp bằng những cái biết chuyện quá khứ soi căn, điều này thế kia. Đó là những cái bịp người, lừa đảo người, không đúng đâu. Chúng ta phải sống đúng cái gương hạnh, Giới luật - Đức hạnh hẳn hòi đàng hoàng. Giới luật của Phật quý vị đều phải học cho biết rõ hết.

Một vị tu sĩ phải giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh, mà giữ gìn nghiêm chỉnh thì tâm người đó phải ly dục, ly ác pháp. Còn cái người còn phạm giới là chưa bao giờ ly dục, ly ác pháp.

Một vị tu sĩ ăn ngày ba bữa, làm sao mà gọi là ly dục, ly ác pháp? Mình thấy vị tu sĩ ăn ngày một bữa, và đời sống của vị tu sĩ đó, từ cách thức tất cả mọi cái, vật chất của vị đó buông xả sạch, thì vị đó mới ly dục. Cái này là có nào là tủ, bàn, ghế, những điều tiện nghi của xã hội hiện giờ là nhiều vị thầy đã có đủ. Thì thử hỏi cái đó là đúng hay sai? Đạo Phật là đạo buông xả cắt đứt tất cả những dây mơ rễ má, nghĩa là vật chất không còn.

Cho nên Đức Phật nói: "Cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, sống không nhà cửa, không gia đình".

Có nghĩa đàng hoàng: "Cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa", tức là làm cho mình xấu. Cái áo cà sa đâu có phải như áo tốt như Thầy vầy. Người ta lượm vải thay ma thì quý vị nghĩ nó tốt đẹp không? Mà cái đầu của mình còn để tóc thì nó đẹp, chứ cạo cái đầu nó còn đẹp cái chỗ nào, phải không? Cho nên làm cho mình xấu đi.

Vì vậy mà ở bên Nhật Bản có một cô rất đẹp, đến xin với vị Thiền sư: "Cho con tu hành".

Thì vị Thiền sư nói: "Cô tu không được đâu".

Nói: "Con sao lại tu không được, tại sao vậy?".

Nói: "cô đẹp lắm, cô tu không được".

Thì cái cô này cổ mới về cổ tìm axit, hay tìm cái gì đó cổ rạch cái mặt cổ, cổ làm cho một cái vết thẹo rất lớn ở trên mặt. Thì sau khi vết thẹo cổ trị lành rồi cổ đến xin vị Thiền sư, vị Thiền nói: "Như vậy bây giờ cô tu được đó". Đó, thì chấp nhận cho cô ta đi tu, cái đó phải trước tiên.

Đạo Phật phải làm cho mình xấu trước tiên, không còn làm đẹp. Thế mà y áo của một vị Thầy bây giờ phải mặc đồ xịn, đồ rin, chứ còn thứ đồ mà vải mà lượm thay ma chắc họ không mặc đâu, phải không, quý vị thấy cái điều đó phải rõ chứ. Cho nên điều đó chứng tỏ là quý vị còn làm đẹp, mà làm đẹp tức là còn dục, làm sao mà hết dục được.

Đó, đó là những cái chứng minh, vì vậy mà chúng ta phải nhìn thấy, rồi chúng ta phải gần gũi vị đó. Muốn biết vị đó là một bậc Thánh Tăng, thì nhìn qua cái đạo đức của họ, họ sống như thế nào, đời sống họ còn có cái gì.

Đức Phật nói: "Buông xả sạch, sống không nhà cửa". Thì không nhà cửa lấy cái gì mà chất đồ đạc vô, tủ, bàn, ghế, rồi thêm giường chõng đâu mà chất vô được. Không có nhà cửa, nay ở chỗ này, mai ở chỗ khác thì mua bàn, mua tủ, mua máy móc này để làm gì, vứt ở đâu, cho nên hoàn toàn không có gì hết. Không gia đình, tức là không có người thân thuộc của mình.

(1:11:35) Cho nên ngày xưa có một vị Tỳ kheo, một người ở tại địa phương đó, mà đức Phật đến cái khu vực đó để mà dạy đạo, thì cái vị đó nghe được Pháp xin tu theo đức Phật. Thì bà vợ bằng lòng, cha mẹ bằng lòng để vị đó theo đức Phật tu. Đức Phật dẫn ông ta đi ba năm trời không có trở về khu này. Hoàn toàn là đi rồi là không có vợ con mà đi theo thăm đâu, bởi vì đức Phật không có đồng ý cho đi thăm như vậy.

Cho nên khi mà cái vị này mà tu chứng rồi, thì đức Phật mới về cái khu vực này trở lại. Thì lúc bấy giờ đó, bà vợ và cả gia đình mới thử ông này coi tu ra sao. Cho nên bà mới, đầu tiên bà sửa sang rất đẹp, rồi nghe ổng đến "ba năm rồi anh đi tu rồi, thì em ở nhà rất vất vả, cực khổ này kia. Thôi bây giờ tu xong rồi anh về nhà phụ với em này kia, nuôi cha mẹ đồ này kia".

Thí dụ như khuyên ông chồng mình vậy, thì ông này ổng lặng thinh, ổng bỏ ổng đi qua nơi khác, ổng không về thăm nhà nữa, nghĩa ổng về tới khu vực nguyên gia đình của mình. Cũng như ổng ở Châu Đốc nè, ổng đi tu, đức Phật dẫn đâu ra miền Bắc, ba năm sau mới dẫn về Châu Đốc. Rồi bắt đầu ổng về ổng ở trong núi Sam chứ không có ở đây, ổng đi. Rồi bà vợ nghe tin mới ẵm con lên trển, nhưng mà sửa sang rất đẹp, sửa sang rất đẹp. Nhưng mà khi mà ổng gặp thì ổng lách qua ổng đi, ổng cũng chẳng kêu vợ, kêu con hay là kêu em, kêu cô gì hết. Ổng lách qua ổng đi, làm như là người xa lạ không biết gì hết.

Thì bả căm tức, cho nên bả mới ẵm đứa con bả chạy đi đường rừng bả tắt, bả chặn đầu ổng lần nữa. Lúc này bả chặn đầu ổng, bả ném đứa con xuống đường, xuống trước mặt ổng "con của anh đó, 3 năm rồi anh đi anh để ở nhà tôi nuôi. Bây giờ đó, bây giờ đó anh ôm, anh nuôi, làm gì làm đi".

Bả ném đứa con bả xuống đường, rồi bả ném rồi, bả chạy vô rừng bả núp ở trong bụi cây, làm như bả bỏ đi, để bả coi thử coi ổng thực hiện sao. Chứ mẹ mà làm sao nuôi con ba năm bây giờ ném con thì sao được, nhưng mà ném để cho coi ông này ổng tu cách nào. Nhưng mà ổng không bao giờ đứa con lăn lộn khóc dưới đường, ổng chẳng bao giờ ông rờ, ổng vuốt đâu. Ổng lách qua ổng đi, ổng đi kinh hành ổng đi luôn. Bả ra con bả nói: "Như vậy mới là chính là đệ tử của đức Cồ Đàm".

Như vậy là cắt đứt được cái tình thương đó, mà chính cái người thực hiện, người ta biết người vợ mình thực hiện mà thử mình chứ không có, không phải thực sự như vậy đâu. Cho nên lúc bấy giờ đó, cả đứa con, bả nuôi đứa con lớn rồi bả cũng xuất gia bả tu, cả cha, con, chồng, vợ đều là thành chứng quả A La Hán.

Đó là câu chuyện như vậy đó, thì đủ biết rằng khi mà đi tu theo đạo Phật rồi, thì sống không gia đình. Không gia đình là cha, mẹ, anh em, chị em đừng có để cho nó nhớ gọi là ái kiết sử, nó rất ràng rịt chúng ta lại. Cho nên chúng ta cứ quyết định ôm pháp của Phật mà theo, để cho cái tâm niệm đó nó đừng khởi lên nhớ thương.

Chứ chúng ta tuy rằng bỏ cha mẹ, chứ chúng ta vẫn nhớ cha mẹ chứ không phải không đâu. Nhưng mà khi mà chúng ta thực hiện rồi, chúng ta mới về độ cha mẹ mới thực. Chứ còn nếu mà chúng ta để cái tình cảm đó mà nó dây dưa, chúng ta thực hiện con đường của Phật không được, không giải thoát được.

Cho nên phải rõ được cái đức Thánh nó khác lắm, đó là những cái đức Thánh người ta thực hiện. Còn mình phàm phu thì đừng có nên thực hiện cái kiểu đó, thực hiện kiểu đó thì nó mất đạo đức đi.

8- MUỐN ĐI TU PHẢI ĐƯỢC GIA ĐÌNH ĐỒNG Ý

(1:14:43) Cho nên một cái người cư sĩ mà đi tu, mà cha mẹ không cho không được quyền đi tu. Đức Phật không chấp nhận.

Có người hỏi Thầy tại sao hồi xưa đức Phật bỏ cha, bỏ mẹ, bỏ vợ con đi tu mà được, mà bây giờ đức Phật lại không cho người ta. Thầy mới nhắc lại những câu chuyện ở trong đó, nghĩa là cha mẹ không cho, thì ông con trai đó xin gì đức Phật cũng không cho hết, chừng nào cha mẹ bằng lòng.

Tại vì đạo Phật có thì phải có Đạo Đức, còn lúc trước đạo Phật chưa có. Cho nên đức Phật đi tu thấy cái cái hình dáng của người tu sĩ Bà La Môn, nghĩ đó là cái cuộc đời giải thoát lìa bỏ hết cái sự ràng buộc của gia đình.

Nghĩ là giải thoát cho nên bỏ, cho nên nghĩ lo giải thoát, mà không nghĩ đến cái nỗi đau khổ của cha nhớ con, mẹ nhớ con, chồng nhớ vợ, con nhớ cha. Đâu có nghĩ cái điều đó đâu, đâu có nghĩ cái nỗi khổ của người ta, nghĩ mình tu sao cho hết thì thôi, giải khổ rồi mình về mình độ. Nhưng mà thật sự mình tu vậy mình không có độ, mất đạo đức rồi, cho nên đức Phật không chấp nhận.

Do đó có một cái cô gặp đức Phật trong lúc đức Phật thuyết pháp, cô mới có 25 tuổi, nhưng mà nghe pháp hay quá cô xin xuất gia. Thì đức Phật bảo về hỏi chồng, nếu chồng bằng lòng thì đức Phật cho xuất gia, mà chồng không cho thì thôi, ông chồng về không cho. Cô này phải đợi tới sáu, bảy mươi tuổi khi chồng mất rồi thì mới xuất gia. Tuy là tuổi lớn nhưng mà bà rất nỗ lực tu hành. Bà trải qua cái thời gian mà ở trong gia đình, bà thực hiện đạo đức ly dục, ly ác pháp.

Ở trong gia đình, các cư sĩ đừng bỏ gia đình, làm hết bổn phận đạo đức của mình đối với vợ con, tất cả mọi cái cho đúng. Rồi từng đó, quý Phật tử thực hiện cái tâm buông xả của mình, làm bổn phận buông xả.

9- BỐ THÍ CÚNG DƯỜNG ĐÚNG CHÁNH PHÁP MỚI TẠO ĐƯỢC PHƯỚC ĐỨC

(1:16:29) Nghĩa là đức Phật không cấm chúng ta làm ra tiền, nhưng chúng ta làm ra tiền đừng làm ở trong cái gian xảo, đừng làm trong cái ác pháp. Làm ra tiền chúng ta không những nuôi sống cho mình, mà còn giúp cho xã hội những người bất hạnh nữa, thì cái hành động làm ra tiền của chúng ta rất quý. Còn chúng ta làm ra tiền bằng cách gian xảo thì không quý, cái đó là ác pháp.

Cho nên đạo Phật dạy chúng ta từng việc làm. Thí dụ như Thầy có một người đệ tử cư sĩ, làm mọi việc gì đó mà làm ra tiền, Thầy khuyên làm phải thiện như thế nào, thế nào Thầy nhắc nhở. Bởi vì cái trách nhiệm người đệ tử đó là đệ tử của mình, là cư sĩ. Nếu mà họ làm ác, họ sơ sẩy, họ ở tù thì mình có trách nhiệm, mình là thầy của họ, mà để cho họ như vậy thì mình có trách nhiệm.

Cho nên người ta sống, người ta làm, rồi người ta cúng dường cho mình, người ta giúp cho chư Tăng. Mà mình không dạy chánh pháp để người ta làm gian người ta cúng, là người ta đã không được phước, mà người ta lại thêm tội người ta.

Cho nên khi mà mình ăn trộm, ăn cắp mình đem cúng Phật, mình nói "Chắc Phật, nhờ cúng Phật như vậy đó, ông Phật phù hộ cho mình", mình ăn trộm ăn cắp nữa được? Thì cái điều đó điều sai. Nghĩa là mình lấy của người khác, mình ăn cắp mình đem cúng Phật, là mình có năm điều phi đạo đức, chứ không phải là một đâu.

Cũng như quý Phật tử mà mần làm thịt con cá, làm thịt con gà, làm một miếng thịt heo rồi thành thực phẩm để đem cúng dường chư tăng, thì quý vị có năm điều phi công đức, đạo Phật dạy rất rõ mà. Cho nên không những mình cúng như vậy, mà đã không có được phước mà lại có thêm tội. Phi đạo đức mà, cho nên thêm tội chứ không có được phước đâu.

Vì vậy mà quý vị thấy như bên Nam Tông đó, Phật tử bên Nam Tông, người ta cúng dường thịt cá cho quý vị đó ăn. Mà sao lại quý vị không dạy bài kinh đó, để cho Phật tử người ta, ngăn chận người ta. Lại còn dạy ăn không thấy, không nghe, điều đó điều sai. Tại vì mình muốn ăn thịt cho nên mình bưng bít cái điều đó đi, để rồi mình ăn cho đã. Vì vậy mà có thấy vị Nam Tông nào nhập định được không? Đâu có nhập định được.

Mà gọi là Nam Tông Nguyên Thủy chứ bộ không à, chính là kinh đó là kinh gốc của Phật đó. Thế mà sai một chút cuộc đời của các vị tu sĩ đó, chỉ có nuôi được cái thân mập mà thôi. Bởi vì ăn nó đầy đủ chất bổ thì phải mập thôi chứ gì. Còn cái người tu sĩ ăn rau cải, coi vậy chứ nó không phải mập mà nó cũng không có ốm đâu. Cho nên cái người mà ăn bình thường thanh đạm, thì cái người đó khỏe, còn cái người mà mập coi chừng người đó nguy hiểm đó, dễ đau lắm.

Cho nên chúng ta thí dụ như sữa đồ này kia đồ, chất bổ nhiều, coi chừng ăn chay mà uống nhiều chất bổ đồ nó cũng nguy hiểm lắm đó chứ không phải không. Bởi vì nó bổ nó sẽ có dễ bệnh lắm, còn cái người mà roi roi, ăn rau cải, tương dưa, muối đồ, nó tầm thường vậy. Đừng có ăn dầu mỡ gì nhiều, đừng có ăn ba bột ngọt nhiều, thì nó không có đau bệnh gì đâu, dễ dàng lắm, nó sống khỏe.

Đi đâu nghe cái thân của mình nó nhẹ nhàng. Còn cái này, đi đâu mà mang, cũng như là cái thân mình nó mập, ngồi trên cái bánh xe mà nó lún xuống đó. Mấy người đó mang như mang cái bao bố, nó nặng nề, cái thân nó nặng nề lắm, nó khổ sở lắm.

Người đời không thấy mấy cái người mà uống la-ve, ăn thịt đồ, cái bụng phệ ra, họ thấy họ mang cái bụng đó thấy cũng đủ nặng họ rồi. Mình thấy cũng đã mệt rồi, còn họ thì họ không thấy chứ, bởi vì họ, nói chung là họ mang cái thân họ không thấy, chứ người khác người ta thấy đã là thấy mệt. Đó là những cái hình thức nó thiếu đạo đức ở trong cái ăn, cái ngủ của mình, mà mình đã làm hại cho cơ thể của mình.

(1:19:58) Mình làm một cái gì cho cơ thể mình sanh ra bệnh, là mình đã thiếu đạo đức với mình. Mình nói mình thương mình, chứ sự thật ra mình đâu có thương. Mình thương vọng, mình thương theo dục, cái dục nó đòi gì mình làm theo nó, cho nên mình thật sự ra mình không thương mình.

Cho nên Thầy nói như thế này nè, nhà vua Bình Sa Vương với bà Hoàng Hậu. Thì nhà vua nói nhà vua rất thương bà hoàng hậu, bà hoàng hậu nghe Phật giảng thì bà hoàng hậu đã biết được rồi, cho nên bà hoàng hậu bả không:

"Nhà vua đâu có thương thần thiếp đâu, nhà vua chỉ có thương nhà vua mà thôi. Bây giờ nhà vua nói nhà vua thương thần thiếp phải không?

Vậy thì thần thiếp sẽ lấy ông qua kia cà. Nhà vua đừng có chém đầu thần thiếp, thì như vậy là thương. Mà giờ thần thiếp lấy ông quan kia, mà nhà vua bắt tội thần thiếp giết, thì tức là nhà vua thương nhà vua chứ đâu phải là thương thần thiếp".

Có không? Bây giờ người vợ mình đi lấy ai đó, cái mình tức giận, đó thì như vậy là mình thương vợ hay là mình thương mình, phải không? Mình phải hiểu đó là mình thương mình chứ, mình ích kỹ, mình nhỏ mọn, mình không để cho vợ mình tự do. Nhưng mà người vợ mà đã học đạo đức, thì đâu bao giờ làm cái điều đó, phải không?

Cho nên vì vậy đó mình phải hiểu được ở trên cái chỗ thương mình, hay không thương mình. Nhiều khi người ta mắng chửi nó có ăn nhằm nhò gì đâu, mà mình nổi khùng, nổi điên mình lên đây mình tức mình. Thì do đó mình phải là người vô minh, người dại dột, mình làm khổ mình mà mình không thấy. Mình gây ác pháp ở trong tâm mình mà mình không biết, phải không?

Cho nên mỗi lần mà mình giận dữ một cái gì đó, mình nói: "Mày sao mày ngu quá vậy, mày tự mày làm khổ mày mà mày không biết, mày đem ác pháp vào tâm mình". Mình nhắc nó vài ba lần cái nó sáng mắt ra, cái nó cũng hết khổ, từ đó ai có chửi nó, nó làm thinh, nó không có giận hờn nữa, như vậy gọi là giải thoát. Cho nên mình thẳng tay trị cái tâm của mình, mình thẳng tay trị cái dục của mình, thì tự nhiên nó sẽ hết.

10- NHỮNG ĐIỀU PHẬT TỬ CẦN TU TẬP

(1:21:47) Đó thì quý Phật tử hôm nay nghe Thầy dạy đạo đức mình phải nhiệt tâm, nhiệt huyết với cái sự tu tập của mình. Thì cái tâm mà làm khổ mình nó sẽ hết và cái tâm làm khổ người nó sẽ hết, do đó gọi là ly dục, ly ác pháp. Rồi lần lượt đây tới đây thì Thầy sẽ giảng cho quý Phật tử, sẽ nghe từng cái hành động, từng cái hành động đạo đức nhân quả.

Mình nói một cái chuyện gì đó, mỗi cái câu chuyện đều nó có một cái sự việc để cho mình, cho mình suy tư, cho mình nói ra, cho mình hành động. Thì học cái này chúng ta sẽ biết được cái đường đi nước bước của nhân quả, từ đó chúng ta sống được cái đạo đức, thì chúng ta sẽ đem lại hạnh phúc, đem sự giải thoát cho mình.

Đây là cái giai đoạn đầu tiên của đạo Phật giải thoát, thật sự không phải mơ hồ, không phải cầu Phật có được, không phải tụng kinh có được, không phải ngồi thiền mà có được. Mà đây do một cái nhiệt tâm quyết xả ly những cái ham muốn, những cái tâm dục, những cái ác pháp mà mình đang huân và thành một cái lực của nó, cho nên đụng tới là nó mạnh bạo, nó phát triển ra liền. Do đó mình phải nỗ lực mình diệt nó bằng những cái pháp mà Phật đã dạy chúng ta học, thì chúng ta sẽ được giải thoát.

Rồi bây giờ đến đây thì như vậy, là sau cái bài pháp đại khái, đại cương nói về Đạo Đức của đạo Phật, thì quý vị Phật tử đại cương được như vậy là đủ rồi, chứ không thể nào mà bây giờ đem ra những chi tiết.

Thay vì hôm nay mà ở đây, mà quý Phật tử có được một cái đạo tràng, thì giờ này Thầy không phải thuyết như vậy đâu. Mà Thầy dạy quý Phật tử thực hiện đạo đức, tập cách nào, làm cách nào trong một tháng. Quý vị về cái nơi yên tịnh đó, quý vị dành ra một ngày chủ nhật nghỉ ngơi, để mà luyện tập những cái hành động, để chúng ta thực hiện cái Đạo Đức đó. Để đem lại cho cái nguồn an vui, thanh thản tâm hồn của mình, thì cái này lợi ích thiết thực.

Nhưng mà bây giờ ở trong căn phòng của thầy Thông Vân như thế này chật chội, không đủ cái chỗ mà chúng ta sinh hoạt đâu. Chỗ này chỉ cao lắm là một người có thể sinh hoạt được, hay hoặc hai người là cao, chứ không thể hơn được. Đó cho nên chúng ta phải có một cái vị trí tốt để yên tịnh, để rồi có một vị ở đó người ta sẽ truyền Bát Quan Trai cho mình.

BÁT QUAN TRAI

Bát Quan Trai là tám giới, mà tám giới đó chính là chín giới của Sa Di. Cho nên người cư sĩ muốn thực hiện cái đạo đức, thì chúng ta phải tập một ngày đời sống của tu sĩ, của người bắt đầu tu.

Cho nên chúng ta thực hiện những cái này, để chúng ta tuần tự đó rồi chúng ta tập những cái xả, những cái thiền định, để mà chúng ta luyện tập mà xả cái tâm của chúng ta, để ly dục, ly ác pháp. Làm đem lại cho cái tâm hồn chúng ta thanh thản và an lạc, rất là hạnh phúc cho những người xung quanh chúng ta và trong đó có chúng ta. Đó là những cái điều kiện mà cần thiết.

Còn bây giờ đến chùa người ta sinh hoạt được không. Nghe thọ Bát Quan Trai phải thọ theo kiểu Tịnh Độ, chứ không thể nào thọ theo kiểu này được. Bởi vì đức Phật sống trong cái thọ Bát Quan Trai này, mà sống đúng cái hạnh của một người tu sĩ của Phật, thì phải trầm lặng.

Đến đó khi người ta truyền cho mình tám cái giới rồi và người ta dạy cho mình cách thức. À, bây giờ ngồi xuống, phải tập về Định Niệm Hơi Thở như thế nào. Người ta dạy cách thức mình nương vào hơi thở để tỉnh thức, để xả tâm như thế nào, thì mình theo đó mình tập. Người ta dạy mình cách thức liền, người ta ngồi đây, người ta điều khiển cho mình tập. Tập được rồi người ta mới dạy tới, dạy tới, dạy tới.

Và kỳ này, thí dụ như tuần này người ta dạy thọ Bát Quan Trai phải tập như vậy, tuần sau người ta kiểm tra lại thấy mình thuần thục người ta dạy tiếp tục thêm. Và cứ tiếp tục thêm về cái sức tỉnh của mình và sức xả của mình, càng ngày nó xả nhiều ra. Thì mình thấy cuộc sống của mình càng ngày đối xử với nhau rất là hạnh phúc, không bao giờ mình có một lời nói làm cho người khác khổ. Đó là cách thức tập để cho chúng ta được giải thoát.

Cho nên đây là xây dựng mình có những hành động Đạo Đức. Và phải từ cái chỗ đó đó, mình thấy hằng ngày mình có những hành động rất tốt, rất thiện không làm khổ ai hết, thì đó là Đạo Đức rồi chứ gì, phải không? Cho nên đem lại hạnh phúc rất rõ ràng và cụ thể. Tu như vậy mới thật sự mới ích lợi chứ "tôi còn chiếc áo, sự thật ra tôi cũng ly dục, ly ác pháp được như ai, tôi cũng giải thoát". Đây là giai đoạn đầu của đạo Phật xây dựng Đạo Đức mà.

Rồi bắt đầu bây giờ quý vị, ai có cái duyên mà quyết định là tu để làm chủ, để nhập các định, làm chủ sự sống chết. Còn ai chưa có đủ duyên, còn gia đình con cái nhỏ làm sao bỏ được, phải không? Cho nên chúng ta thực hiện được cái Đạo Đức như vậy, thì chúng ta cũng mãn nguyện lắm rồi.

(1:26:01) Nhưng mà chúng ta luôn luôn chúng ta tập thọ Bát Quan Trai, mỗi tháng chúng ta tập một ngày, hoặc hai ngày thôi để gieo cái duyên đó. Bây giờ cái kiếp đời của mình chưa thực hiện được kiếp này, nhưng mà cái hướng của chúng ta đã hướng xây dựng được cái Đạo Đức như vậy, thì rõ ràng là kiếp sau chúng ta tiếp tục được cái pháp này nữa.

Đức Phật nói mà: "Cái cây cổ thụ nó nghiêng về hướng nào, thì cái bóng nó sẽ ngã về hướng đó". Mà chúng ta nghiêng về cái Giới Luật của Phật, cái Đạo Đức của đạo Phật rồi, thì chúng ta sẽ tiếp tục tái sanh sẽ được gặp cái thân sau cũng sẽ được chánh pháp. Còn không khéo chúng ta gặp tà pháp thì như thế nào, tu mãi mệt mỏi mà rốt cuộc rồi chẳng ra ôn gì hết, uổng công, mà uổng sức.

Cho nên tu đúng sẽ có kết quả và nếu đủ duyên thì cái nơi đây để mà thực hiện thọ Bát Quan Trai, không phải cái nơi để cho quý vị thực hiện sâu hơn. Cho nên người ta sẽ gửi cho quý vị đến những cái nơi thực hiện những cái sâu hơn của thiền định, thì đến đó quý vị sẽ trở thành những người tu sĩ.

Đó như thầy Thông Vân, bây giờ là một tu sĩ thì không phải ở trong cái dạng mà thọ Bát Quan Trai nữa, mà phải ở trong cái dạng mà thực hiện những thiền định. Để tịnh chỉ các hành, làm chủ sự sống chết, muốn chết hồi nào thì chết, muốn sống hồi nào thì sống.

Trong khi cái thọ hoành hành cái thân đau, người ta ra lệnh tất cả các cảm thọ đau đớn đó nó đều ngưng bặt. Nó làm cho chúng ta thanh thản, an lạc không thọ sự đau khổ, mới gọi là làm chủ được bệnh. Đó như vậy mới rõ ràng cụ thể chứ, còn nếu không mà cái đầu đau nhức mà cắn răng chịu đựng "nó đau kệ nó, nhân quả là phải chịu", thì như vậy không đúng đâu.

Chúng ta làm chủ nhân quả là không có cái nhân quả nào không làm chủ. Bởi vì chúng ta làm chủ nhân quả, chúng ta không có làm ác, thì tức là chúng ta đã đoạn dứt được cái nhân quả ác, nó làm sao có cái quả khổ chúng ta nữa.

11- TẠO DUYÊN GIÚP ĐỠ NGƯỜI BẤT HẠNH TRONG XÃ HỘI PHẢI ĐÚNG CÁCH

(1:27:44) Cho nên chúng ta thực hiện nhân quả thiện, nhưng mà chúng ta đâu có cầu cái phước hữu lậu. Cho nên nó đem đến phước chúng ta đâu có vì đó mà tích lũy lại cho mình làm giàu, làm có bằng hưởng thụ cá nhân. Cho nên chúng ta giúp đỡ cho những người bất hạnh. Do cái khả năng, cái phước báu chúng ta đứng vào cái vị trí làm ra tiền được, giúp cho những người khổ trong xã hội, an ủi những nỗi bất hạnh con người.

Tạo cho họ có những cái duyên để họ đến với thiện pháp, chứ nhiều khi họ nghèo khổ, họ sanh ra trộm cắp, họ làm những cái điều ác, ăn cướp nữa. Cho nên mình giúp họ, rồi mình tìm cách an ủi họ, rồi họ trở về thiện pháp. Từ cái thiện pháp họ không tham lam trộm cắp, từ đó họ biết cúng dường, biết bố thí, làm cho họ xả được cái tâm ích kỷ của họ, từ đó họ gặp cái may mắn.

Và họ trở thành người tốt, cho nên khi thấy họ thất nghiệp, thì người ta giới thiệu vô cái chỗ làm, họ có công ăn việc làm thì họ tự mình có. Còn cái này họ tham lam, trộm cắp, Thầy bây giờ Thầy biết cái nhà máy đó thiếu người, Thầy cũng không dám giới thiệu vô nữa. Giới thiệu nó vô ít bữa nó lấy kềm, lấy búa người ta hết đi, Thầy mang tiếng chứ gì, cho nên đâu có dám.

Cho nên bây giờ quý vị mà có cơ sở làm ăn, quý vị cũng chọn người vô làm chứ. Chọn mấy cái thằng ăn trộm, ăn cắp nó vô lấy hết đồ mình sao, đó là bằng chứng cụ thể. Mà mình hướng dẫn cho những người nghèo, là những người đều là có thể nói, họ có thể trở thành những người ác trộm cắp, tham lam. Bởi vì túng quá họ phải trở thành những cái điều không tốt rồi.

Cho nên chúng ta trợ giúp họ, an ủi họ chứ không phải đem của quăng cho họ ăn rồi thôi, không có đâu. Chúng ta giúp họ rồi còn tìm cách an ủi bằng lời lẽ, làm sao cho họ biết được cái đường phải. Thì như vậy họ nhờ họ thọ của mình, thì họ biết ơn mình, mình nói họ nghe, tức là mình gieo duyên với họ, mình tạo duyên để mình nói người ta nghe.

Do đó họ nghe thì giúp họ thoát ra cái cảnh nghèo khổ, chứ không phải mình nuôi họ được mà hết nghèo khổ được, mà chính họ phải tự lực cứu họ mới hết nghèo khổ. Còn họ tham lam trộm cắp, mình cứ bỏ của nuôi họ suốt đời họ cũng vẫn nghèo đói, cho nên mình phải giúp như vậy, giúp như vậy. Cho nên mình có phước, mình làm những việc thiện thì mình phải biết cách.

Thầy thấy hầu hết là người ta kêu mọi người đi làm việc từ thiện, tập trung chúng ta góp tiền đi lại cứu trợ chỗ kia, phát cho họ, chà được cái danh từ thiện. Thật sự họ ở đó họ chờ "mình được cháy nhà, hoặc được bảo lụt nay, ít bữa đây đàng này đến đàng kia, khỏe thôi khỏi làm cũng có ăn". Cái điều đó tạo cho người ta có những cái tâm niệm ác, chờ đợi, chờ sung mà rớt cho họ ăn, họ còn mong ước.

Cho nên có một số Phật tử ở thành phố họ nói cái khu mà họ, cái xóm nhà cháy. Nghĩa là xóm mà nhà lá của họ, "họ mong sao cháy được cái khỏe quá, từ đó mình có nhà tốt, mà lại còn có người ta cấp thực phẩm này kia ăn nữa". Cho nên rốt cuộc rồi mình là người làm có tiền mà mình ngu, mà mình đưa họ đi vào cái nhân quả ác rồi, họ không sáng suốt đâu.

"Cho nên mấy người đừng có rủ tôi, tôi không nghe đâu. Tôi biết người đó khổ thật sự, tôi đem đến tui giúp, tôi an ủi người đó và tôi trợ giúp cho người đó. Chứ giờ tôi đem đến đó mà tôi cho họ cả triệu bạc đi, cuối cùng họ ăn, họ chờ đợi tôi đem nữa chứ họ không chịu làm ăn đâu, họ còn làm ác nữa chứ đừng có nói". Đó những cái đó nhiều khi chúng ta làm thiện mà không thiện, còn chúng ta làm thiện phải biết thiện.

12- CÚNG DƯỜNG TU SĨ PHẠM GIỚI LÀ TIẾP TAY PHÁ HOẠI PHẬT GIÁO

(1:30:40) Vì vậy mà sau này Thầy sẽ dạy cho quý Phật tử biết cách cúng dường làm sao có phước báu.

Chẳng hạn như bây giờ nói: "Tôi cúng dường cho ông Thầy đó, ổng làm sai, ổng phạm giới kệ ổng, miễn là tôi cúng dường Phật, cúng dường Tăng thôi, ông làm gì làm". Nhưng mà không ngờ mình cúng dường như vậy để giúp cho ông này sống để ổng phá Phật pháp chứ gì. Người ta thấy ông Thầy người ta chê Phật pháp chứ gì. "Thầy chùa gì mà kỳ cục vậy, chở phụ nữ đi vô trong quán, trong lều ngồi ăn không có ra gì hết, cái chùa gì mà còn uống rượu nữa".

Đó, người ta phỉ báng ông thầy chùa, tức là người ta phỉ báng Phật giáo. Mà mình cúng dường cho ông ta để cho ông ta làm cái chuyện đó thì thử hỏi. Bây giờ mình cúng tivi, cúng tủ lạnh, cúng những đồ này kia để cho ông Thầy ổng sống sang vậy đó, thử hỏi có đúng cách không?

Tức là mình đưa cái chỗ sai cho ông ta, thì mình có tội với ông ta chứ không phải không. Mình làm cho người ta khi dễ Phật pháp, rồi làm cho Phật pháp mất đi cái bậc chân tu, phải không? Cho nên cái cúng dường đó không đúng. Cho nên những cái chùa nào mà không đúng không cúng dường.

Nó chết đói bao giờ nó phải đi ra nó lao tác, nó làm à. Để không nó ngồi đó mà nó chùa to, giàu sang nó ở đó mà nó không có làm được cái điều gì đúng chánh pháp, sai giới luật. Chúng ta phải thẳng thắn với người cư sĩ, ủng hộ Phật pháp là ủng hộ vậy chứ. Quý vị cứ đụng chùa nào cũng cúng dường, làm như vậy, nhờ cậy cho nó khi người thân mình có chết, mình nhờ cậy nó đến tụng niệm. Nó độ nó chưa được mà nó độ cha mẹ mình được sao, phải không? Quý vị cứ nghĩ đi coi có đúng không?

Cái công đức, cái người mà sống như vậy, cái phước đức của họ làm sao họ độ họ được mà họ độ cha mẹ mình? Họ đến họ tụng niệm, mình chỉ làm theo hình thức che mặt thế gian, chứ đức Phật đã nói có linh hồn đâu mà độ, có thế giới siêu hình đâu mà thăng. Thế mà bây giờ nó trở thành một truyền thống mê tín của Phật giáo rất là đau lòng.

13- CÚNG GIỖ MA CHAY LÀ MÊ TÍN

(1:32:24) Thầy nói thẳng nói thật, bởi vì đức Phật nói đó là Tưởng tri, cái thế giới của Tưởng, nó không có thật mà, làm sao mà chúng ta xác định nó được. Cho nên nó sống ở trong Tưởng của chúng ta, nó là thế giới siêu hình của mỗi cá nhân con người. Chúng ta còn sống là nó còn, chúng ta chết là nó mất tiêu sạch, nó không còn nữa.

Cái bóng dáng mà ngoài kia chúng ta thấy ma, cái bóng dáng mà ngoài kia mà biết chuyện quá khứ vị lai, đoán biết được, đâu có phải là cái linh hồn người này nhập, người kia nhập mà báo cho chúng ta biết, mà chính tưởng của chúng ta giao cảm được chứ. Bởi vì tưởng nó không có không gian và thời gian, cho nên cách vách tức là không gian nó vẫn biết. Cũng như tối chúng ta ngủ, cửa không mở, mà nó chui lỗ nào nó đi chợ, nó đi ra ngoài chợ nó chơi, phải không? Nó đi tới thành phố Sài Gòn nó chơi nữa, phải không? Có người ngủ ở đây mà đã đi chơi thành phố, phải không?

Cho nên như vậy rõ ràng là cái Tưởng của chúng ta nó vô cùng siêu việt, nó không có không gian và thời gian. Nhưng cái không gian và thời gian nó có hạn cuộc, chứ không phải là như tâm thức của chúng ta.

Tâm thức của chúng ta nó vô tận, cho nên gọi là trí vô hạn. Còn cái Tưởng thức nó chỉ có một cái hạn lượng, không thời gian của nó. Nó biết cái chuyện của chúng ta ở trong hiện tại, mà chuyện vị lai thì có khi đúng mà cũng có khi sai. Cho nên ở đây chúng ta phải hiểu, vì vậy bây giờ chúng ta không nên bỏ. Nghe Thầy nói rồi quý vị ma chay của cha mẹ mình, mình về mình bỏ, cái đó là cái sai, không phải đâu. Nói để mà nghe, nghe để mà biết, biết để mà…​

Có giới luật mặc dù chưa nghiêm chỉnh, nhưng họ cũng giữ được giới luật chút ít tốt. Đến, họ tụng niệm cầu cho vong linh, mặc dù là không có, nhưng cái lòng thành của chúng ta tưởng nhớ đến ông bà đã mất, phải không? Do đó nó nói lên được cái lòng của chúng ta đối với những người mất và cái phong tục nó vẫn chứng tỏ được cái lòng hiếu của chúng ta. Cho nên chúng ta biết cái đó nó mê tín, nhưng nó vẫn có giữ được những cái gì tốt cho chúng ta, chúng ta không nên bỏ.

Vì vậy lần lượt những người mà tu hành đúng, người ta sẽ dạy cách thức của mình trong cái sự ma chay như thế nào đúng, cách thức cái nghi lễ như thế nào đúng. Nó không phải bày ra rườm rà rồi đốt giấy tiền vàng mã, hoặc là cúng vong tiễn linh bằng cách này, bằng cách khác. Cho nên từ đó chúng ta thực hiện những cái phong tục, có hình thức mê tín này nó trở thành có ý nghĩa Đạo Đức của con người, nó biến dần thành cái Đạo Đức của con người.

(1:34:56) Cũng như bây giờ chúng ta biết là vào ngày giỗ, cha mẹ ông bà mình chết đâu có linh hồn về mà ăn. Nhưng mà ngày đó chúng ta làm một cái ngày giỗ, để cho anh em con cháu, dòng họ bà con. Tất cả những người tập trung đến nhớ lại cái công ơn của người và nhớ lại những cái gì mà của người còn để lại cho chúng ta, cái tình nghĩa thâm sâu đó. Cái hình thức rõ ràng là như là chúng ta cúng là những người đó về ăn. Nhưng mà cái đó là cái mê tín, nhưng mà nói lên cái tình nghĩa chúng ta đối với người chết, cái này không phải mê tín, mà đó là cái Đạo Đức con người chúng ta phải thực hiện.

Cho nên từ cái chỗ mê tín chúng ta biến dần nó trở thành cái Đạo Đức của con người. Chứ đừng có biến dần nó trở thành cái mê tín, cứ tin tưởng rằng "Ờ mình cúng vậy cha mẹ mình về ăn". Không lẽ là trong một mới có cái ngày giỗ ăn vậy nó đói chết thì sao? Còn mấy ngày kia đi ăn chực của người ta hay sao? Cho nên do đó chúng ta phải nghĩ cái gì phải cho nó đúng đắn, rồi chúng ta lần lượt chúng ta sửa, sửa cho đúng những cái Đạo Đức.

Hôm nay như Thầy đã nói như vậy, để rồi không phải mình nói thẳng vậy, nhiều khi Phật tử không nghe tưởng là Thầy bác, không phải đâu, Thầy không có bác chút nào hết. Nhưng mà mình phải sửa cho nó đúng cái ý nghĩ của mình, nó biến trở thành một cái Đạo Đức của con người. Đó thì như vậy mình lần lượt mình sửa.

Cũng như cái ngày tư ngày tết, không có nghĩa là ông bà của mình về mà vui tết ăn vui với mình đâu. Nhưng mà cái tình nghĩa trong ngày vui đó, nhắc nhở lại những ông bà của mình, con cháu sum họp trong những ngày vui đó. Cho nên chúng ta đâu có dẹp những ngày tư ngày tết, đó. Như vậy nhưng mà những ngày đó sẽ biến thành nó có cái ý nghĩ của chúng ta.

Nhiều khi những ngày đó cái người gia trưởng ở trong nhà, người ta sẽ đọc lên cái tiểu sử của ông bà, cha mẹ của mình, dòng họ của mình là như vậy đó. Hồi đó ông cha mình như vậy, bây giờ con cháu nó nghe những cái người ông bà của nó như vậy, nó phải noi gương sao cho nó xứng đáng.

Thí dụ như ông bà của mình những nhà nho như thế nào, cách thức sống như thế nào. Mình đọc lại cái tiểu sử của những cái ngày giỗ, hay là ngày tết, dịp tết. Nhắc cho chung con cháu mình khi mà về họp, thì nó tạo thành một cái ngày đó là một cái ngày kỷ niệm. Những cái ngày gương mẫu và một cái ngày mà làm cho con cháu nó có một cái vinh hạnh đối với dòng họ của nó, thì cái đó là những cái hay.

Nhưng mà sau này dạy Đạo Đức Thầy sẽ nhắc nhở về cái phần này, để chúng ta thay đổi những cái mê tín nó trở thành một cái tình nghĩa, một cái Đạo Đức thật sự giải thoát, đó là cách thức phải làm.

Nhiều khi bây giờ không có người làm thì chúng ta, nhiều khi chúng ta không biết cách thức nào mà làm. Rồi nhiều khi chúng ta bồng bột, nghe Thầy nói cái bắt đầu chúng ta dẹp, dẹp hết, thì tức là thành ra một người vô nghĩa, vô tình, không có tình nghĩa nữa. Như vậy là chúng ta thiếu Đạo Đức rồi, phải không? Cho nên chúng ta phải thực hiện những cái cho đúng Đạo Đức của con người.

Con người của chúng ta, cây thì có cội nước có nguồn, chim thì có tổ người có tông. Mà tại sao bây giờ nghe nói vậy cái rồi dẹp hết? Thì như vậy nói là "Thầy Thông Lạc nói vậy, dạy vậy" là quý vị lại hiểu sai ý Thầy mất rồi, phải không? Chúng ta biến từ cái chỗ mà chúng ta nghĩ sai, biến nó thành mê tín, chúng ta sẽ biến dần nó thành cái không mê tín. Thì như vậy để cho nó đúng cái tình nghĩa, đúng cái Đạo Đức.

(1:38:07) Đến đây thì Thầy đã nói những cái điều mà tâm huyết của Thầy muốn nói, là cái hướng của đạo Phật để xây dựng một cái Đạo Đức.

Vậy thì quý vị hiện giờ đó, quý vị có muốn hỏi gì thì Thầy sẽ tùy theo cái sự hiểu biết của mình mà trả lời. Thầy cũng chỉ là một người như hồi nãy Thầy nói, bình thường nhưng các vị mà thôi. Nhưng trên con đường tu của mình, quý vị đừng nghĩ rằng Thầy ngồi thiền nhập định bảy, tám ngày, là một bậc Thánh tăng như thế này, thế khác, không phải đâu. Thầy cũng chỉ là phàm phu nhưng biết sửa lỗi mình.

Vì mình là cũng là con người như mọi người, tức là phải có lỗi và có lỗi mình sửa đừng có phạm những cái lỗi đó. Mà Thầy nhờ theo giới luật của Phật mà sửa những cái lỗi đó, cho nên mình thấy được tâm mình rất an ổn. Và tâm mình được an ổn thì nó thanh thản, an lạc, cho nên muốn đem cái Đạo Đức này dạy cho quý vị. Để rồi quý vị sẽ được giải thoát, đó là đem lại cái nguồn hạnh phúc chung cho quý vị, đó là cái ước mơ của Thầy. Thầy mong sao quý vị sẽ hiểu.

Còn hiện giờ những cái phong tục tập quán nào chúng ta đều giữ. Lần lượt những Đạo Đức sẽ dạy chúng ta, sẽ biến cải những cái phong tục mê tín nó trở thành một cái chánh tín và nó thành một cái đạo nghĩa, chứ không phải chúng ta dẹp. Đó như vậy nó mới đúng, chứ còn nếu không thì chúng ta lầm lạc, cái tư tưởng của chúng ta sẽ hiểu sai đi thì nó không hay.

Cho nên Thầy muốn nói như vậy để quý vị có đủ duyên, sau này nó có duyên thì Thầy sẽ cố gắng mà trợ giúp, trợ giúp trên cái phần học tu về Đạo Đức. Sau đó thì chắc chắn là thầy Thông Vân, Thầy có cái nhân duyên ở đây, chứ còn đối với Thầy thì lớn tuổi rồi, không thể nào mà đi đây, đi đó nhiều được, và cũng không thể nào mà trụ ở Châu Đốc được.

Cho nên thầy Thông Vân sẽ tìm mọi cách và quý Phật tử sẽ giúp thầy Thông Vân có một cái nơi ở địa phương này yên ổn, thanh tịnh. Để làm một cái nơi cho quý vị sinh hoạt, tu tập những cái Đạo Đức của đạo Phật, rồi lần lượt chúng ta sẽ đi tới thiền định.

Cho nên nó đi từng bước, chứ chúng ta đừng vội mà ngay vô. Mà hiện bây giờ gia duyên chúng ta còn nhiều, cuộc sống chúng ta còn nhiều, mà chúng ta ngay vô chúng ta muốn thiền định thì không có được, nó rất khó, nó không đúng đâu. Mình phải sửa mình từng chút đạo đức, rồi từ đó mình mới thấy cuộc sống an lạc của mình, thì mình sẽ do cái sự hướng dẫn và do cái sự trợ duyên và cái người trụ trì ở đó, người ta. Như thầy Thông Vân chẳng hạn, Thầy sẽ giúp đỡ quý vị rất nhiều khi quý vị cần thiết, cái gì mà thầy Thông Vân đã được hiểu.

Và Thầy có một cái địa điểm, Thầy sẽ gửi về những cái tài liệu đạo đức như nói về giáo trình Đạo Đức Nhân Quả. Thì quý Phật tử sẽ đến đó thì thầy Thông Vân sẽ trao cho quý vị đọc. Rồi những cái gì không hiểu hỏi lại, thì mình sẽ xây dựng mình lần lần, dẹp bỏ những cái ác pháp, mình tăng trưởng những thiện pháp. Sống trong những hành động đạo đức để đem lại hạnh phúc cho mình, cho người, thì đó là cái điều hay. Nhưng bây giờ trong sinh hoạt như thế này, mà cái chỗ này thì sinh hoạt không được, nó chật chội.

Hôm nay có cái duyên mà quý vị về đây đông đảo như thế này, cũng là một cái duyên, cũng là cái duyên lớn. Dù nếu mà không có, thì chắc chắn là năm, ba người thì Thầy cũng sẵn sàng mà nói hết những cái ý cho năm, ba người. Tại vì cái số này ít thôi, còn quý vị ngồi quá đông như thế này. Cho nên Thầy cũng nghĩ rằng mình sẽ cố gắng đem những cái điều kiện mà giúp cho quý vị sau này khi có những cái điều kiện cần thiết, để mà tu tập, để mà luyện tập trau dồi đạo đức của mình.

Đó, hôm nay quý vị, còn những cái gì thì quý vị cứ hỏi, những cái gì mà Phật giáo mà quý vị còn thắc mắc thì cứ vị cứ hỏi Thầy sẽ giúp. Lẽ ra kỳ này Thầy sẽ về Thầy giúp cho Minh Điền, với Châu, với một người cư sĩ nào mà tu tập với Thầy đó.

14- MỤC ĐÍCH VÀ Ý NGHĨA THỌ BÁT QUAN TRAI

(1:42:07) Phật tử:…​..

(1:42:24)Trưởng lão: Thọ Bát Quan Trai - Bát Quan Trai là tám cái giới, năm cái giới đầu tiên là quý vị Phật tử biết rồi. Bốn cái giới sau cộng lại nó là bốn cái giới, tức là chín giới của Sa Di. Thì ở Bát Quan Trai nó cộng lại hai cái giới.

Một cái giới trang điểm, một cái giới thoa xức dầu thơm. Hai cái giới đó nó cộng lại làm một cái giới.

Và cái giới không nằm giường cao rộng lớn.

Và cái giới không ăn phi thời là ba cái.

Cộng với năm cái giới kia là: Sát sanh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ, uống rượu, là năm cái giới với ba cái giới nữa là tám giới.

Nhưng mà vì hai cái giới, cái giới mà thoa xức dầu thơm, không có cho mình thoa xức dầu thơm và không có cho mình trang điểm là đeo vàng vòng làm đẹp. Do đó thì hai cái giới này nó cộng lại nó làm một cái giới. Với hai cái giới kia, giới mà không nằm giường cao rộng lớn, giới không ăn phi thời ngày ăn một bữa, đó là ba cái giới nữa là năm cái giới.

Đó thì Bát Quan Trai tức là tám cái giới, hay nói là tám cái cửa ải, quan là cái cửa ải, cho nên nói là tám cái cửa ải. Vậy cho nên vì vậy mình tập để mình vượt qua tám cái cửa ải này, mình gọi là thọ Bát Quan Trai.

Đó thì, do đó một ngày mình tập, mình sống, nhưng mà đâu phải mình vô đó mình chỉ có mà mình giữ gìn cái đó không đâu. Mình muốn tập được cái đó đó, hằng ngày mình ăn một bữa nè, bắt đầu mình sống cái ngày đó thì:

Mình ăn một bữa cơm,

Rồi bắt đầu đó mình không trang điểm, mình không thoa dầu thơm. Còn năm cái giới kia: mình không nằm giường cao rộng lớn.

Với năm cái giới kia mình giữ gìn không cho vi phạm. Ngày đó mình ăn chay không ăn thịt chúng sanh. Mình không nói láo. Mình nói về dâm dục thì chắc chắn là không có rồi. Nói về uống rượu thì chắc ngày đó thì mình không uống rượu rồi. Thì do nó năm giới kia đều là mình giữ gìn trọn vẹn. Đó thì như vậy là tập tám giới thì gọi là Bát Quan Trai.

Và trong khi đó thọ Bát Quan Trai vậy, là mình phải sống độc cư, sống trầm lặng, sống không nói chuyện. Rồi mình tập tu, như mình tập Định Niệm Hơi Thở để tập Tỉnh Thức, để mình xả mình ly dục ly ác pháp.

Rồi mình tập Chánh Niệm Tĩnh Giác, mình đi kinh hành. Mình làm công việc gì nhè nhẹ quét sân, hay hoặc là nhổ cỏ, hay hoặc là làm cái gì nhè nhẹ, thì mình tật tỉnh thức ở trong những hành động đó, coi như là tu trong các hành động, do đó cái sức tỉnh thức của mình. Thì trong các hành động đó thì mình vừa hướng tâm mình nhắc. Nhắc tâm mình "ly dục, ly ác pháp, ly những cái tâm ác của mình ra".

Do những cái hành động tu như vậy, thì suốt ngày mình tập luyện những cái hành động đó để cho mình nhắm vào cái tâm ly dục, ly ác pháp. Đó, thì giữ được những cái đức giới, tám cái giới này. Và đồng thời mình tập luyện cái này để trong cái ngày đó cuối cùng mình về, mình thấy cái sức tỉnh mình càng ngày tăng lên. Thì đụng cái chuyện gì, thì mình sẽ xả được cái tâm của mình từng chút.

Đó là cách thức tập như vậy, để gieo cái duyên sau này. Mình có cái duyên, mình sống trọn vẹn luôn ngày nào mình cũng trọn vẹn, thì đó là một tu sĩ. Còn bây giờ mình còn cư sĩ thì một tháng mình tập một ngày, hoặc hai ngày thôi, chứ không nên tập nhiều. Đó là Bát Quan Trai, tập dần cho nó quen cái lối sống Đạo Đức của đạo Phật, mình tập nó.

Đó thì bây giờ còn hỏi thêm gì nữa cứ hỏi.

(1:45:55) Phật tử: (thưa hỏi)

Trưởng lão: À, bây giờ lòng dục. Ở đây để giải thích cho ly dục. Ly dục ở đây là dục của ác pháp, cho nên đức Phật nói ly dục, ly ác pháp. Cần kèm theo rõ ràng, cho nên chứ không nói ly dục mà ly thiện pháp bao giờ, đó phải không? Cho nên nói ly dục ly ác pháp…​.

Bởi vậy cho nên vậy nói là còn tầm tứ đó, tức là cái tốt cho nên Phật nói ly ác pháp phải không? Để cho mình quyết định, mình làm tốt, mình muốn sống tốt đó, mình làm tốt. Thì tôi muốn tốt, cái dục tốt đó vẫn còn giữ mà, chưa phải xả hết.

15- MUỐN TU HÀNH ĐÚNG PHÁP PHẢI ĐƯỢC NGƯỜI CÓ KINH NGHIỆM HƯỚNG DẪN

(1:47:01) Phật tử: (thưa hỏi)

(1:47:28)Trưởng lão: Nếu mà quý Phật tử muốn nhưng mà cái hành thiền mà tại gia, mà tập hành động mà không có lý thuyết. Thì phải Thầy phải trực tiếp Thầy dạy từng cái hành động, rồi nó phải như thế này nè.

Khi mình tu một tuần lễ đó, thì mình phải gửi cái kết quả đó như thế nào, để cho Thầy biết được cái kết quả rồi để mà dạy mình thêm chớ. Không có dạy mình lý thuyết, là dạy mình xả láng rồi cái về đó mình, mình tu cái này chưa xong, cái mình tu qua cái khác là nó sai. Mình dạy cái nào tu cho được cái đó rồi, rồi bắt đầu cái lớp đó rồi mình lên cái lớp khác.

Thí dụ bây giờ dạy mình tỉnh thức xả tâm, thì về hơi thở thì mình tỉnh thức xả tâm. Hoặc dạy mình đi kinh hành, hoặc là dạy mình tu trong các hành động của mình để xả tâm. Sau cái thời gian mà tu xả tâm như vậy, thì cái sức tỉnh thức mình nói tăng lên mức độ nào, chứ đâu phải nó tăng hoàn toàn. Rồi cái xả tâm của mình nó cũng xả được cái mức độ nào, chứ nó không có xả hết được.

Do đó thì mình phải trình bày cho một vị Thầy sau một tuần lễ mình tu. Thì vị Thầy đó người ta sẽ tiếp tục, người ta sẽ xét người ta thấy, người ta cho mình tăng lên những cái gì. Như tăng lên pháp hướng, hay hoặc là tăng lên giờ, thời gian lên để cho mình tiếp tục những cái đó để mình xả cho nó nhiều ra nữa, và cái tỉnh thức mình nó tăng được dài ra. Và cứ như vậy thì, cứ thường xuyên như vậy thì cái kết quả của mình nó không mất thời gian.

Còn nếu mà hỏi Thầy tu, Thầy dạy một lát rất nhiều, đủ pháp hết, từ cái lớp thấp cho đến lớp cao, hiểu hết rồi tới chừng đó tu thì. Nhiều khi cái pháp thứ nhất mình tu chưa xong, mình tu pháp thứ hai. Pháp thứ hai chưa xong mình làm qua pháp thứ ba, cái pháp nào cũng lam nham hết thì nó không kết quả.

Cho nên ở đây mà dạy mà về thực hành, là dạy từng giai đoạn. Dạy giai đoạn đó rồi, tu rồi thì tới dạy đến giai đoạn khác, chứ không phải dạy mà, dạy tu một lượt cái mình thành tựu được, cho nên tuần tự. Cũng như mình học lớp Một rồi, thì mình mới lên lớp Hai học được, cứ như vậy thì nó kết quả. Và cái số cư sĩ mà tập luyện như vậy, cho nên Thầy mới nói là phải chi mà có được cái đạo tràng, phải không?

Có cái đạo tràng đó, thì trong khi mà cái ngày mà Phật tử mà thọ Bát Quan Trai, Thầy mới về Thầy dạy cho cái cách thức xả tâm cách thức đó. Thì trong khi đó mình ở trong cái môi trường yên tịnh, thì mình tập. Như bây giờ ở trong cái gia đình như vậy, ồn náo thì mình tập khó vì mình mới tu, mới tu khó lắm. Nó được cái môi trường tốt mình tập luyện, rồi mình xả tâm dần dần thì mình thực hiện được cái Đạo Đức.

Cho nên ngày mai mà muốn, thì đông quá rồi mà làm sao Thầy dạy hết. Nếu ít ít Thầy dạy hết, chứ nếu nhiều quá Thầy dạy không hết. Mà, người nào muốn học mà về cái pháp Định Niệm Hơi Thở mà xả tâm, thì Thầy sẵn sàng giúp đỡ chứ không có gì đâu. Mà bây giờ cỡ sức muốn hết, Thầy cũng chịu khó Thầy ở lại Thầy dạy hết, chứ không lẽ bây giờ dạy một người, bỏ một người sao, cái này Thầy nói ví dụ.

Còn nói chứ, quý vị còn nhiều gia duyên chứ đâu phải là chỉ có tu không đâu. Cho nên cũng lần lượt là người này tu, rồi tới người khác chứ. Lần lượt mình sắp xếp mình mới tu được chứ, chứ đâu phải là muốn tu là tu được liền được đâu. Cho nên ở đây ai có thấy mình sắp xếp được, mà muốn học thực hành, thì Thầy nghĩ rằng ngày mai Thầy còn ở đây. Hoặc là có theo Thầy nghĩ ở đây, chứ bây giờ có đi chỗ nào được đâu. Hay là chỗ nào mà có rộng rãi hơn thì các Phật tử, Thầy cũng sẵn sàng Thầy đến Thầy giúp đỡ. Nhất là nó bảo đảm an ninh, chứ không an ninh được thì khó lắm, chứ không phải chuyện dễ đâu.

Ở đây thì mình chỉ nói chuyện như ở trong gia đình, chứ không phải là đây là buổi thuyết pháp. Bởi vì thuyết pháp nó phải có cái bài thuyết pháp, và cái bài thuyết pháp đó mình phải trình qua Giáo Hội ở Ban Đại Diện ở huyện này, ở tỉnh hội này, thì mình mới thuyết pháp được cái bài. Còn đây là chỉ nói chuyện đạo đức, nói chuyện với quý Phật tử thôi, kêu là toạ đàm thôi, chứ còn mình nói pháp là người ta bắt tội mình đó, bởi vì mình phải biết pháp luật chứ.

Cho nên vì vậy thí dụ như, ngày mai thì thí dụ như đến đây thì Thầy sẽ lúc mấy giờ, để cho thầy Thông Vân định giờ khắc như thế nào. Thì đến trong cái giờ mà quý Phật tử rảnh rỗi, chứ còn mình lao động, mình còn làm công việc thì đâu có, buôn bán đồ này kia làm sao mà tập được. Cho nên cái giờ nào rảnh thì Thầy sẵn sàng Thầy giúp thực hiện. Có thể Thầy ở đây khoảng hai bữa, ba bữa rồi Thầy về, không sao đâu, Thầy sẽ giúp cái phần đó.

Còn về những cái phần mà lý thuyết để mà học về cái đạo đức của những hành động đó, thì sau này Thầy viết Thầy sẽ gửi về. Để sau nữa mấy con sẽ, thí dụ như Thầy không có in nhiều được đâu, Thầy sẽ in ra chừng một tập Thầy sẽ gửi về rồi sau đó mấy con photo ra. Quý Phật tử photo ra thì mình trao nhau mình đọc, rồi mình hiểu được cái Đạo Đức thì cái đó là cái tốt. Thầy giúp cho cái Đạo Đức của đạo Phật nó sống lại, chứ để không nó chết mất sao.

Rồi quý vị còn ý gì nữa hỏi Thầy nữa không? Có gì thắc mắc hỏi Thầy, để có cái dịp mà Thầy về đây, Thầy ít có khi về lắm. Đôi khi Thầy lần này là có thể lần cuối cùng mà Thầy về đây, rồi Thầy không có về nữa. Thầy chỉ gửi bài này kia, Thầy bận công việc nhiều lắm không thể về.

Thầy năm nay gần 70 à, còn hai, ba tuổi nữa là…​.

16- TỤNG NIỆM LỄ BÁI CÓ ÍCH LỢI GÌ?

(1:52:28) Phật tử: (thưa hỏi)

(1:52:40)Trưởng lão: Sự thật ra tụng niệm lễ bái thì nó không có ích lợi và thiết thực. Mà có cái pháp hành như vậy mình xả tâm nó có ích lợi thiết thực, còn mình tụng niệm.. Sự thật ra thì mình xét qua cái thời gian dài mà ở trong các chùa mình tụng niệm nhiều lắm rồi. Cái sự giải thoát mình cũng đã chứng minh cho cái sự tụng niệm đó, nó không giải thoát. Chính quý thầy tụng niệm cũng thấy được cái điều không giải thoát, chứ không phải là riêng mình Phật tử ở ngoài mình nhìn. Bởi vì cái thời gian nó trả lời được cái điều đó rồi, cho nên bây giờ đó mình biết được là cái sự tụng niệm không giải thoát đâu.

Mà chỉ có cái sự mà mình tu tập, mình rèn luyện, mình trau dồi, mình quyết tâm mình bỏ những cái ác pháp, mình bỏ đi những cái ác pháp thì mình sẽ được giải thoát. Bởi vì cái ác pháp nó làm khổ mình, khổ người, cho nên mình dứt, mình biết "À, cái đó là nó làm khổ mình, khổ người cho nên mình loại bỏ", có phải không? Thì cái tâm quyết định của mình, thì mình sẽ cương quyết mình làm được cái điều này dễ, không khó. Chỉ có mình không muốn bỏ thôi, chứ mình quyết được.

Thật sự ra một cái người nào mà có cái nghị lực, có cái quyết chí mà làm, trong cái làm ăn cũng vậy, họ cũng dễ thành tựu nữa, mà trong sự tu tập cũng vậy nữa. Còn cái người mà không có cái nghị lực, không có quyết chí thì trong làm ăn họ cũng thất bại nữa, họ gặp khó cái họ bỏ cuộc. Còn cái người mà có ý chí, có nghị lực, gặp khó họ vượt qua, họ làm cho được, mấy người này là họ sẽ xả được tâm của họ không khó.

Đạo Phật nói không khó, nó gần gũi với mình lắm. Cho nên những cái pháp dạy nó thực tế, nó cụ thể lắm. Cho nên mình xả là được giải thoát, còn mình không xả là không giải thoát. Mà xả nó cũng có cách thức, bởi vì bây giờ là cái sức tỉnh của mình chưa có đâu. Cũng như bây giờ mình ngồi lại, mình giữ cái tâm mình yên lặng chút đó thì, nó nhớ cái này, nhớ cái kia cho nên nó mất tỉnh. Vì vậy cho nên nó chưa có đủ cái sức tỉnh, vì vậy mình tập tỉnh thức để mình xả, mà hễ càng tỉnh mình xả dễ lắm, hễ càng tỉnh là mình xả nó.

Khi mà cái tâm niệm ác, hay hoặc là cái niệm gì nó khởi lên cái mình biết nhận nó liền. Còn mình bị mê, cho nên nó chưa có nhận ra liền, cho nên vì vậy mình dễ phiền não. Cho nên cái hành động tụng niệm từ lâu nó cũng đã chứng minh cho chúng ta biết rằng không có giải thoát đâu.

Rồi cũng như bây giờ chúng ta ngồi thiền này kia đồ nhiều, thì nó cũng chứng minh cái thời gian dài mà, quý Phật tử cũng đã biết mà. Có ngồi hai, ba tiếng đồng hồ rồi xét lại tâm mình mà giải thoát không, thì mình chắc là cũng sẽ biết được cái điều đó. Do đó nó không phải ở chỗ ngồi thiền, mà ở cái chỗ xả tâm chứ không phải chỗ ngồi thiền, không phải chỗ tụng niệm. Do cái chỗ mình biết được cái tâm của mình, rồi mình cố gắng mình biết cái đó nó đem đến cái nỗi khổ cho mình, khổ cho người, mình cố gắng mình xả thì được.

Mà xả được thì mình được an, người khác cũng được an liền. Cho nên nó kết quả nó hữu hiệu lắm, nó cụ thể lắm; chỉ mình ráng chút là mình được à. Thầy nói đừng nghĩ rằng "tôi già tôi tu không được", không có phải đâu. Tại mình quyết tâm xả được, bao lớn cũng giải thoát được hết.

Mà ở trong, ở trong kinh điển của Phật có ông Ca Diếp, ổng 80 tuổi ổng tu còn chứng quả A La Hán mà, xả hết tâm là nó sẽ được. Còn cái sư cô Thánh Tăng đó, 70 tuổi chồng chết rồi mới đi tu đó, chỉ có một năm sau là chứng quả A La Hán. Cho nên đừng nghĩ rằng "70 tuổi tôi không còn tu được", mình nghĩ rằng tu là phải tuổi trẻ. Cái đó là mình mặc cảm với mình, chứ người nào cũng tu được, quyết tâm là được. Đừng nghĩ rằng tuổi trẻ tu không được, La Hầu La 8 tuổi xuất gia đó, ngài 20 tuổi ngài cũng thành tựu đạo. Thành ra mấy cháu trẻ nói "tôi còn nhỏ, tôi ham chơi, để chơi đã rồi tôi tu", không đúng. Mình muốn tu là cũng giải thoát được, nhỏ, lớn gì cũng được, mình quyết tâm là làm được.

Còn ai hỏi Thầy gì thêm nữa không? Bên phái nữ mấy con có hỏi Thầy điều gì nữa không?

17- ĐẠO ĐỨC CỦA ĐẠO PHẬT KHÔNG PHẢI LÀ ĐẠO ĐỨC ANH HÙNG CÁ NHÂN

(1:56:24) Hôm nay quý Phật tử về đây nghe Thầy nói đạo đức, Đạo Đức của đạo Phật thật sự đó. Vì chính trong cái bài Đạo Đức của đạo Phật có dạy "đạo đức không làm khổ mình, khổ người". Cho nên triển khai cái này ra, mà triển khai ra thì nằm ở trong cái toàn bộ giới luật của Phật, thì nó là đạo đức hết.

Bởi vì cái hành động đó là hành động thiện mà, giới luật là hành động thiện, cho nên nó là đạo đức. Mà mình làm được cái hành động mà không phạm giới, tức là mình đã hành động được đạo đức. Và nó làm cho mình ly dục, ly ác pháp, nó làm cho mình được an vui, thanh thản, được giải thoát, cho nên Giới sanh Định.

Vì vậy trong người giữ giới biết cách thực hiện, chứ mình giữ giới như mình lấy pháp luật mình bắt buộc đừng có phạm pháp đó thì, mình trói nó kiểu đó chắc mình ở vài ngày trong bụng mình nó phạm đủ thứ hết đó, nó không có được. Cho nên nó khó là khó chỗ đó.

Rồi ở đây quý vị còn hỏi gì nữa không, hỏi điều gì? Ai có gặp trường hợp nào đó cứ hỏi Thầy? Có tu gặp trường hợp gì khó khăn cứ hỏi Thầy.

Phật tử: Bạch Thầy nếu mà cái hạnh nhẫn nhục của Quan Âm Thị Kính đó Thầy. Không làm khổ mình, khổ người không có đạt được, thì người ta sẽ không tôn sùng là Quan Âm Thị Kính.

Trưởng lão: Đúng rồi người ta không tôn sùng. Bởi vậy cho nên người ta tôn sùng đó bởi vậy Thầy nói "anh hùng cá nhân" người ta mới tôn sùng. Bởi vì mình thực hiện cái hạnh nhẫn nhục đó đó, nó mới là anh hùng cá nhân. Còn đạo Phật không có anh hùng cá nhân, mà nó giải thoát mình và giải thoát người. Bởi vì đạo Phật không có tạo cho mình anh hùng, mà nó tạo con người giải thoát thôi.

18- KINH VU LAN BỒN KHÔNG PHẢI LỜI PHẬT DẠY

Phật tử: (Thưa hỏi)

(1:58:18)Trưởng lão: Bây giờ Thầy nói thêm một cái nữa, nó không có đúng với Đạo Đức nữa. Như cái ngày lễ Vu Lan Bồn, kêu là ngày Rằm tháng 7. Người ta sắm tứ sự để cúng dường trai Tăng để cầu siêu cho cha mẹ mình này kia đồ đó, thì cái sự tích như thế này:

"Ngài Mục Kiền Liên, ngài tu hành ngài chứng lục thông. Mẹ ngài thì làm cái tội ác rồi đoạ xuống địa ngục. Ngài dùng thần thông ngài thấy mẹ ngài bị đọa địa ngục, rồi đói khổ, địa ngục ngạ quỷ mà. Rồi ngài mới ôm một cái bát cơm xuống dưới ngài đút cho mẹ ngài ăn. Nhưng mà mẹ ngài ăn không được, bỏ cơm vô miệng thì nó hóa lửa nó cháy đi, mẹ ngài ăn không được thì ngài thấy khổ quá".

Một người con mà thấy mẹ mình ở trong địa ngục khổ chịu sao nổi phải không? Do đó mới đến cầu Phật cách thức để mà cứu mẹ mình.

"Thì lúc bây giờ đức Phật mới dạy ngài Mục Kiền Liên nên sắm tứ sự. Những cái gì mà cần dùng cho chúng Tăng thì sắm mà cúng dường, nhờ trong ba tháng hạ an cư tu học có công đức tu hành nó lớn lắm. Do đó là nhờ công đức đó mình đem mà cứu mẹ ngài thoát khổ. Do đó mà ngài nghe lời vậy ngài đi khất thực ngài xin, chứ ngài là một tu sĩ thì ngài có gì mà cúng dường người ta được. Cho nên ngài ra công ngài đi xin, rồi ngài mới đem về ngài cúng dường chư Tăng, nhờ công đức chư Tăng mà cứu mẹ ngài".

Thì ở trong kinh sách nói rằng mẹ ngài thoát khỏi địa ngục. Từ đó nó mới thành cái ngày báo hiếu và cũng là một cái ngày tự tứ chúng Tăng, tự tứ xả cái ba tháng an cư kiết hạ.

Như vậy thì chúng ta thấy cái đó nó đúng hay sai? Sự thật ra nếu mà chúng ta suy nghĩ cái đó nó không đúng, vì như mình lo lót. Mà ăn lo hối lộ rồi mới là cứu khổ cho cái bà mẹ đó.

Chẳng hạn bây giờ có một người có con đi làm quan, thi đậu đi làm quan đi. Rồi bây giờ bà mẹ làm một cái tội gì đó nhà vua bắt, bắt cái tội tử hình. Ông con này ổng làm quan mà cái quan nó nhỏ quá, như quan tri huyện vậy đó, thì không thể nào cứu mẹ mình được. Cho nên mới ở huyện mới góp nhặt một số vàng bạc mới đem xuống kinh đô, chỗ nơi vua đó. Mới vô mấy ông quan lớn, quan thừa tướng ví dụ vậy, lớn đó, mới lo lót mấy ông đó đi. Rồi nhiều ông, người nói tiếng, một tiếng nói, ông vua ổng nghe ổng thả bà mẹ mình.

Thì như vậy có phải lo lót không? Đạo Phật có hình thức ăn lo, hối lộ sao? Cho nên cái đó nó cũng phi đạo đức, nó không đúng.

Mình cứ suy tư chứ Thầy nói thì nói cái gì thì đừng có tin Thầy đâu. Mà mình cứ suy nghĩ ở trong đó có cái đúng, cái sai chứ. Làm như vậy đứng ở trong góc độ của Đạo Đức Nhân Quả nó không công bằng.

Mình nhờ tu rồi nhờ tu sĩ, làm cho mẹ mình giảm tội, vậy thì cái thế gian này có những người theo đạo Phật rồi chắc chắn làm tội ác không có tội đâu, phải không? Còn người mà theo ngoại đạo, không theo cái đạo Phật này chắc tội chết, phải không? Cho nên vì vậy đó là một cái là hình thức sai.

Đức Phật đã nói: "Các con tự thắp đuốc lên đi, ta không cứu các con được". Thế mà bây giờ lại có những cái chuyện như vậy sao được. Nếu ngài Mục Kiền Liên mà muốn cứu mẹ mình, là cái người ơn sanh mình ra, mà ngài là người hiểu đạo Phật thì ngài không được làm điều đó. Bởi vì Đạo Đức của đạo Phật không thể phi công lý, phi đạo đức. Nó phải công bằng.

Mẹ mình làm ác phải trả cái quả ác đó, nhân quả mà. Đâu có lý nào mà lợi dụng cái sức tu hành của mình, của người mà để mà mẹ mình thoát khỏi địa ngục. Cái chuyện đó không được. Mà chỉ có đứa con đến đó dạy mình, dạy bà mẹ, vì cái tình cảm của người mẹ với người con phải có. Còn những ông thầy kia có tình cảm với bà Thanh Đề không? Đâu có. Cho nên bà nghe con bà hơn là nghe mấy ông thầy, phải không?

19- LUẬT NHÂN QUẢ THAY ĐỔI THEO HÀNH ĐỘNG THIỆN ÁC

(2:02:30) Cũng như bây giờ mình có cha mẹ của mình, thì cha mẹ mình có nói thì mình nghe, mà mình có khuyên: "Mẹ bây giờ mẹ khổ như vậy, mẹ hãy cố gắng mẹ làm như thế này, thế này thì mẹ chuyển được cái quả khổ của mẹ", phải không?

Mình cứ đúng theo Luật Nhân Quả mà mình hướng dẫn cho bà ta khởi tâm thiện như thế nào, để chuyển cái quả địa ngục này. Thì bà khởi tâm thiện của bà, bà thực hiện cái tâm thiện của bà, bà chuyển được. Bởi vì nhân quả mà, nó di chuyển chứ nó không phải là cố định, nó không phải định mệnh, nó không phải định luật, mà nó là nhân quả, cho nên nó thay đổi.

(2:03:00) Cũng như bây giờ, Thầy sinh ra con người Thầy có cái nhân quả của Thầy, mới có 50 tuổi là Thầy chết rồi. Nhưng mà suốt cái quãng thời gian mà Thầy sinh ra Thầy làm thiện, cho nên bây giờ tuổi thọ Thầy nó kéo dài 80 tuổi hay 100 tuổi làm sao? Đâu có định mệnh được cái chỗ đó được đâu, cho nên nó thay đổi. Cái câu chuyện ở trong giới luật:

"Có một chú Sa Di đó theo một cái vị Thầy chứng quả A La Hán rồi. Cho nên khi vị Thầy đó thấy cái chú này là tới cái ngày đó đó, còn 7 ngày nữa là chú này chết. Nghĩa là cái số của chú đó là như vậy, cái nhân quả của chú như vậy. Cho nên vị Thầy này mới nói, thôi bây giờ, không có nói chú chết nhưng mà nói:

- Thôi bây giờ con hãy về thăm cha mẹ con lần cuối cùng đi

Nghĩa là chú này về tới nhà đó, gặp cha mẹ thì trong vài hôm là chú chết, nó xảy ra một cái tai nạn gì đó chú chết. Nhưng mà chú này chú lại đi ở trên đường, chú về thì chú lội ngang qua một cái dòng suối. Chú thấy có một cái ổ kiến nó trôi trên dòng nước. Rồi chú cởi cái áo tràng ra chú mới túm cái ổ kiến này chú đem lên trên bờ, chú cứu cái ổ kiến này. Nghĩa là vớt hết cái bầy kiến lên trên bờ hết, rồi chú về nhà chú, rồi chú sống tự nhiên qua 7 ngày. Giờ ông Thầy ổng cho tôi về thăm nhà 7 ngày mà, do đó cái chú này khi mà trở lại gặp Thầy.

Trở về Thầy, Thầy mới ngạc nhiên:

- Ủa tao tưởng mày là đã chết rồi mà, tại sao mày còn sống mày trở lại đây?

Hồi đó thì ổng không nói, nhưng mà bây giờ nó trở lại ổng ngạc nhiên, ổng mới hỏi vậy chứ:

- Trên đường đi về con có làm điều gì không?

Rồi nó mới thuật lại ổng là nó vớt được cái ổ kiến như vậy. Là nó thấy ổ kiến trôi, nó thấy tội nghiệp, nó vớt thôi, chứ nó cũng vô tình, chứ nó không nghĩ gì hết.

- Cái ổng nói: Thôi, nhờ mày chuyển được cái nghiệp nhân quả".

Đó là cái luật nhân quả nó chuyển như vậy. Đó thì chúng ta biết rằng cái luật nhân quả nó linh động và di chuyển, chứ nó không phải là cố định đâu mà chúng ta sợ. Cho nên chúng ta cố gắng chúng ta tập thì chúng ta sẽ chuyển.

Cũng như bây giờ ngày mai này mình có một cái tai nạn đến. Mà hôm nay mình luôn luôn mình giữ thiện, thì ngày mai nó chuyển cái tai nạn đó đến rất nhẹ. Xe đụng không gãy chân tay đâu, nó sướt da mình là hết sức, nó làm cho mình hết hồn vậy thôi. Còn người ta thì bể đầu mà chảy máu, gãy tay, gãy chân. Đó thì cũng trong chuyến xe đó mà đâu phải người nào cũng chết hết đâu, nó có cái nhân quả ở trong đó.

(2:05:25) Cho nên chúng ta thực hiện cái Đạo Đức Nhân Quả, nó đem lại những cái lợi lạc rất lớn cho chúng ta. Nó chuyển được cái quả khổ của tiền kiếp của chúng ta. Chúng ta hãy cố gắng mà thực hiện, rồi sẽ thấy được cái Luật Nhân Quả, nó đạo đức nó công bằng lắm. Nó không có một cái vị Thần, vị Thánh nào mà có thể cứu khổ mình được hết. Cái nhân quả này nó không có chuyển mà bằng một vị Thần, Thánh, Phật nào mà chuyển cái nhân quả cho mình được, mà chính mình chuyển nhân quả. Cũng như Thầy nói một câu nói ngắn gọn là:

“Thân khẩu ý của mình mà hành thiện thì mình mở cửa thiên đàng cho mình bước vào.

Mà thân khẩu ý miệng của mình mà nói điều ác, làm điều ác, hành điều ác, thì mình mở cửa địa ngục mình bước”.

Có như vậy thôi. Cho nên thiên đàng với địa ngục nó không có, mà chính ở nơi ba cái hành động của mình. Nếu mình làm ác thì mình sẽ mở cửa địa ngục cho mình bước vào. Mà nếu mình làm thiện thì mình sẽ mở cửa thiên đàng mình bước vào, có phải không? Thiên đàn là hạnh phúc, an vui của chính mình, chứ không đâu mà có.

Cho nên thí dụ như có người làm giàu mà trong ác, sớm muộn họ cũng tiêu rồi họ cũng đi tù. Còn mình làm giàu với mồ hôi, nước mắt của mình, với bàn tay của mình, với đầu óc của mình, đem hết sức ra mình làm, người đó làm giàu vĩnh viễn, không ai bắt tội tù mình được hết, phải không?

Quý cư sĩ cứ xét coi có phải có không? Có người giàu dữ lắm, nhưng mà làm ác cho nên tiêu ma. Họ làm giàu mình thấy mình ngợp lận, thế mà rồi thời gian sau mình nghe họ ở tù. Trong đó có những sự gian xảo.

Còn Thầy đến đây thấy quý vị mà lao động làm vậy, Thầy nói: "Đó là làm giàu tốt, tiền kiếm mồ hôi, nước mắt". Mình tăng trưởng lên sự thiện đó nữa, giúp những người. Bởi vì phước mình, mình nghĩ rằng nó nhỏ, nó không có lớn. Mà mọi người, người một chút, một chút, mà mình giúp họ, tức là tăng thêm cái phước của mình, mình sẽ làm giàu vĩnh viễn.

Còn mình làm giàu mà mình bõn xẻn mình lo cho mình, cái giàu đó nó sẽ tới ngày đó nó hết cái phước mình rồi, bắt đầu nó suy sụp, nó tiêu tan, chứ nó không có vĩnh viễn với mình. Còn mình làm bố thí chứ nó vĩnh viễn, mặc dù mình làm mồ hôi, nước mắt, mình đâu có giật của ai đâu, mình đâu có gian xảo đâu, nhưng mà biết bố thí, thì cái sự làm giàu đó nó vĩnh viễn. Nó còn nhiều đời nữa, con cháu mình cũng luôn luôn giàu nữa chứ không phải là nói: "Giàu ba họ, khó ba đời".

Người ta nói: "Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời". Điều đó là tại vì người ta thấy rõ có người nhiều người giàu mà ác, nhiều người gian xảo cho nên nó không có giàu ba họ, mà cũng không ai khó ba đời. Nghĩa là người ta nghèo quá, người ta phải vươn lên để mà người ta sống. Còn nghèo quá mà cứ ăn trộm, ăn cắp thì nó nghèo lụng xuống hết, con cháu nó đều đi lụm bọc mà không đủ sống.

Thì tất cả những cái này đều là phải nói là: "đứng ở trong luật nhân quả thì nó công bằng lắm, và cũng từ đó mà nó quân bình được cái xã hội". Nếu mà không có cái đạo luật nhân quả này, thì cái xã hội chúng ta sẽ ác, cho nên nó phải có cái đạo luật nhân quả. Vì vậy mà chúng ta phải đặt trọn niềm tin ở Đạo Đức Nhân Quả.

20- MUỐN NHẬP ĐỊNH, GIỚI LUẬT PHẢI VỮNG CHẮC

(2:08:28) Và Đạo Đức của đạo Phật và cái Thiền định, cũng như cái Trí tuệ của đạo Phật đều xây dựng trên nền tảng Đạo Đức của Nhân Quả. Cho nên từ đó mới không làm khổ mình, khổ người.

Bởi vì không làm khổ mình, khổ người tức là thiện pháp, mà có làm khổ mình, khổ người là có ác pháp. Mà ác pháp, ác với thiện là nhân quả chứ gì, phải không? Cho nên chúng ta thấy rõ điều đó. Đó cho nên cái đạo đức đó nó nằm ở trong cái nền tảng của đạo Phật, nền tảng rất vững chắc.

Cũng như bây giờ mình muốn xây một cái nhà lầu mười tầng. Mà cái móng ở dưới mình đổ sơ sài thì cái nhà lầu này nó đứng vững không? Nó lật đổ. Cho nên vì vậy mà quý Phật tử lo ngồi thiền, thì chắc chắn là cái nền móng nó không vững. Cái đạo đức mình không có, nó sẽ đổ cái nhà lầu. Mà mình càng ngồi thiền cao chừng nào thì nó đổ mau chừng nấy. Cho nên gọi là "tẩu hỏa nhập ma, hay hoặc là thiền tà", nó không đúng.

Nó thấp thì nó chưa có sao, cái móng của mình nó ít, cái đạo đức của mình cái móng nó không có, thì mình làm cái nhà tranh, nhà sàn thì nó không có lật đâu, nhà sơ sơ thì không có lật đâu. Nhưng mà khi mình cất những cái nhà tường, nhà cao lên năm, mười tầng thì cái móng mà nó không có thì nó đổ.

Cho nên đi vô thiền mà sâu, cao thì nó vô không nổi nữa, nó sẽ lật đổ, nó vô không tới. Còn mình muốn thiền định mà ngồi bảy tám ngày, một tháng, hai tháng, ba tháng và có thể cả ngàn năm sau, mà cái thân này không bị hoại diệt. Thì phải cái nền móng đạo đức này nó phải vững chắc. Càng vững chắc thì cái sự thiền định này nó mới đúng, đó là cách thức tu của người ta.

(2:10:00) Cho nên đức Phật có Tam Vô Lậu học, chứ đừng nghĩ rằng đức Phật có 84.000 pháp môn. Tám mươi bốn ngàn pháp môn nó nằm ở trong cái dung thông của giáo pháp Đại thừa, nghĩa là đụng giáo pháp nào mê tín thì cũng dung vào.

Thầy nói như thế này, ngày xưa phong tục của mình, cái ngày 23 Tết thì gia đình nào cũng là đưa ông Táo, có không? Rồi cái ngày 30 thì mình rước ông Táo để về nấu cơm, chứ không rước ông Táo thì lấy gì nấu cơm. Cho nên đưa ổng về trển tề tựu với ông Trời, phải không? Mình nghĩ như vậy mà. Nhưng mà trong chùa thì theo cái luật nhà chùa thì đâu có chùa nấu cơm. Cho nên mấy ổng đâu có đưa ông Táo được. Vậy mấy ổng đưa chư Thiên, từ lâu tới giờ chư Thiên ở trong chùa ổng, cho nên giờ mới đưa chư Thiên rồi rước chư Thiên.

Thì quý vị cứ tới chùa hỏi thử có phải không, cái ngày đưa ông Táo của bà con đó thì mấy ổng biến cái phong tục mà đưa ông Táo thành đưa chư Thiên, phải không, để cho nó phù hợp với cái ngày đó. Ở ngoài người ta cúng thèo lèo đồ, thì ở trong chùa mình cũng cúng thèo lèo hay là chè, xôi để mà đưa chư Thiên. Rồi tới 30 người ta rước ông bà, ở ngoài đời thì người ta rước ông bà, cho nên cái phong tục nó như thế này. Thầy cũng không biết, bởi vì ở trong Nam thì nhiều khi Thầy không biết, chứ ngoài bắc người ta hỏi:

"Trong cái ngày mà Tết ngày 30 thì mọi gia đình người ta đến mả - những người thân ở trong gia đình người ta đến mả - người ta mời ông bà của người ta về vui Tết. Rồi người ta hỏi Thầy: "Như vậy có về hay không?".

Nhưng mà Thầy thì Thầy sẽ trả lời cái đó cho quý vị đó. Còn cái Thầy nói ở đây đó, là vì: “Đưa thì đưa ông Táo, mà rước thì rước ông bà”. Còn ở trong chùa thì đưa thì đưa chư Thiên, mà rước thì rước chư Thiên. Có nhiều khi có chùa nói rước Phật nữa.

Thầy nghĩ rằng, những cái điều đó là do từ cái phong tục mê tín của dân gian của chúng ta, nó biến dần. Rồi trong chùa nó cũng biến từ cái phong tục mê tín dân gian, nó biến thêm thành cái phong tục mê tín của chùa. Do đó cái giáo pháp của Đại thừa nó nhiều cái hình thức mê tín lắm, vì vậy mà gọi là 84.000 pháp môn đó.

Bởi vì cái pháp nào nó cũng dung thông được hết, có nghĩa là nó gặp pháp nào nó dung thông với nhau hết. Cũng như người ta ở ngoài cúng ông Táo, thì ở trong này nó đưa chư Thiên, thì nó dung thông để cho nó cũng có cái hình thức. Cho nên nó từ đó mà kinh sách Đại thừa nó có nhiều cái mê tín, nhiều lắm. Nó rất nhiều những cái điều mê tín đó.

Vì vậy mà chúng ta lần lượt chúng ta sửa lại cho nó tốt dần lên những cái phong tục đó. Những cái mà có đạo lý, đạo nghĩa thì chúng ta sửa lại hết. Rồi những cái mà nó không đạo lý đạo nghĩa, không đúng cách thì chúng ta bỏ dần những cái phong tục mê tín đó. Nó làm giảm bớt cái sự hao tốn của Phật tử, chứ không cái phong tục nào mà chúng ta cũng nghe theo, chúng ta làm theo hết thì tốn hao lắm.

Cũng như thí dụ nó đốt tiền vàng mã, hay giấy, quần áo bằng giấy đồ đó. Cái đó mê tín quá, chúng ta hãy bỏ cái đó đi, chúng ta đừng làm hao tốn tiền của. Chúng ta làm những cái nó có tình nghĩa hơn, còn cái này nó hơi mê tín quá. Chúng ta như sắm tivi, hay là Honda Cub bằng giấy đồ đó, rồi đem đốt cho ông bà mình ở dưới chạy chơi đó, thì chuyện đó nó không đúng cách đâu.

Thành ra những cái mà quá sai đó thì mình bỏ dần. Còn những cái mà nó biến thành những cái đạo đức, đạo lý con người, thì mình biến từ cái mê tín nó trở thành một cái đạo lý thì nó hay hơn. Từ đó con người của mình nó không còn lạc hậu mê tín nữa, nó đi đúng vào cái đạo đức, đạo lý con người.

Đó, cách thức là như vậy, cho nên ở đây là hôm nay là Thầy banh ra nói rõ hết để mà cho quý Phật tử thấy rằng. Cái lần lượt rồi Phật giáo chúng ta sẽ chấn hưng lần lần, chứ không phải nói vậy rồi cái làm liền, được liền được đâu, nó rất khó. Mà cũng nhờ quý Phật tử trợ giúp, chứ không quý Thầy cũng không, một mình quý Thầy làm cũng không được.

Thật sự ra thí dụ như quý Thầy nói, mà quý Phật tử cứ mua giấy tiền vàng mã đốt, thì cái chuyện đó thôi cũng đành chịu thôi. Bây giờ nói cái chuyện đó sai, như vậy nó mê tín như vậy, rồi quý Phật tử cũng làm hoài thì cũng chịu thôi, chứ không có làm sao hết.

Do đó quý Phật tử phải hiểu biết cái giáo lý của Phật, rồi đạo đức chỗ nào. Rồi mình sáng suốt, rồi mình giúp ở trong chùa để chấn hưng lại những cái sai, cái đúng trong chùa, nó mới làm tốt được cái đạo Phật. Chứ không khéo đạo Phật của mình bây giờ nhìn vào cái dạng mê tín nhiều lắm.

Rồi cái người mà không hiểu Phật giáo người ta nói: "Phật giáo mê tín quá", đó thì người ta cũng chê bai. Cho nên mình là một cư sĩ của đạo Phật, mình là đệ tử Phật, mà mình thấy người ta chê cái tôn giáo của mình, cũng buồn lắm chứ, chứ đâu phải không.

Thí dụ như cha, anh em hay là những người ruột thịt của mình mà đi tu Phật giáo. Mà bây giờ người ta nói đến Phật giáo là mình thấy cũng chột ruột, mình thấy cũng buồn đó chứ không phải không. Cho nên mình phải cố gắng mình ủng hộ Phật giáo như thế nào, để rồi mình là người cư sĩ đệ tử Phật cho đúng với cái cách của đạo Phật.

Cho nên hôm nay quý Phật tử được nghe Thầy nói, nói không phải rồi nghe rồi thôi. Mà nghe rồi cố gắng cùng với quý Thầy có một tinh thần chấn hưng lại Phật giáo, làm tốt lại Phật giáo. Và đồng thời cũng là đem lại cái nguồn an vui cho gia đình cái thứ nhất, và kế đó là cho xã hội, cho mình. Cuộc sống mình biết tùy thuận, nhẫn nhục, bằng lòng. Biết xả, biết bỏ xuống những cái điều không đáng để làm mà khổ mình và khổ người.

Nhiều khi cái chuyện không đáng mà mình không có giữ được tâm mình, rồi thành ra cái chuyện lớn. Rồi rầy rà phiền phức, rồi thù oán nhau, nó kéo dài từ năm này đến năm khác. Nó có nhiều khi nó thù oán đến từ đời ông đến đời cha mà chưa hết nữa, cái tai hại nó như vậy cho nên chúng ta cố gắng mà xả bỏ nó ra.

Thôi bây giờ quý Phật tử có hỏi Thầy gì nữa không? Thầy cố gắng Thầy giải thích cho nó hết những cái gì mà quý Phật tử chưa hiểu rõ. Cho nên cái gì không hiểu cứ hỏi, có nhiều cái ở trong Phật giáo lắm.

21- KHÔNG MUA BÁN KINH PHẬT VÌ LÀ PHÁP BẢO

Phật tử: (thưa hỏi)

(2:15:53)Trưởng lão: Tác phẩm của Thầy thì, kinh sách Thầy đều viết để gửi cho Phật tử chứ không có bán. Và đồng thời thì cái số kinh sách đó thì, như Đường Về Xứ Phật có mười tập: nó bốn tập dạy về Giới Luật của Phật, hai tập dạy về Thánh Đức và hai tập dạy về Đạo Đức Con Người, đó là cái về giới luật. Và đồng thời thì nó còn cái hai cuốn nữa là lời vàng ngọc, là lời Phật nói, kinh Lời Vàng Ngọc. Đó là những lời cô đọng của Phật nói lại để mà dạy chúng ta cách thức tu tập, nó hai tập. Trong cái sự chú thích đó là Thầy chú thích, còn cái lời Phật dạy nhưng mà Thầy chú thích. Còn khoảng độ chừng sáu tập Đạo Đức Nhân Quả.

Nhưng vì nó còn nằm ở trong một cái bản thảo, mà bây giờ thì một số thì cũng được in thành sách, nhưng mà rất ít vì cái nhân sự nó không có, thành ra mình tuần tự. Mà được cuốn nào thì Thầy gửi cho Phật tử chứ Thầy không có để.

Mà nhất định là kinh sách là không bán, bởi vì kinh sách là cái Pháp Bảo, mà mình đem bán thì coi như bán pháp, nó không có hay. Chỉ Phật tử nào có duyên thì gặp được cái trường hợp mà in ra đó thì Thầy gửi cho.

Phật tử: Sao thấy ở các chùa có …​..

Trưởng lão: Cái điều đó là ở các chùa người ta không thấy cái Pháp Bảo. Cho nên thí dụ như bây giờ Thầy không tiền, bây giờ Thầy in cái cuốn này, quý Phật tử sẽ đọc thử. Nếu mà thấy hay thì đồng thời góp với nhau người chút ít, rồi Thầy sẽ cho photo in ra, rồi gửi cho quý Phật tử đọc chứ còn không bán. Còn nếu mà Thầy xin được Phật tử nào mà có tiền nhiều ủng hộ Thầy, rồi Thầy mua giấy, mua này kia. Hay hoặc là Thầy mướn người ta photo in ra, người ta đóng lại thành sách rồi Thầy gửi cho Phật tử.

Thí dụ như bây giờ có một người có tiền, gửi cho Thầy coi như là cúng dường Thầy một trăm, Thầy mua giấy hay hoặc là Thầy gửi cho người ta photo tác phẩm này ra. Thầy gửi cho con một tập, còn bao nhiêu Thầy gửi cho mọi Phật tử người ta ai muốn đọc thì Thầy gửi cho. Hay hoặc là con xin năm tập, hay mười tập để rồi con sẽ gửi cho những người thân của con để cho họ có họ đọc, thì khi mà in ra Thầy sẽ gửi cho chứ Thầy không có bán. Mà Thầy không có gửi ở tiệm sách nào, không gửi chùa nào bán hết.

Bởi vậy Thầy nói là: “Lời Phật dạy và cái Pháp nó giải quyết được cái sự khổ con người, thì cái pháp này không được đem bán”.

Cho nên trong khi mà trong cái giới luật của Phật dạy đó, trong giới Chúng học đó. Một người mà ở trần là đức Phật không thuyết giảng. Một người mà đứng nghe pháp, không giảng. Một người mà đội nón là đức phật không giảng. Nghĩa là một cái người nghe giảng cái pháp, là phải cái người như thế nào thì đức Phật mới giảng.

Cũng như đức Phật nói: "Nhìn thấy trong chúng có người bất tịnh là không giảng đó", cái pháp không đem bán rẻ. Phải là người ta hết sức thanh tịnh là mới nghe pháp, cho nên cái pháp Phật nó vậy.

Cho nên ở đây những cái bài pháp của Thầy, là dạy người ta đem đến cái đời sống giải thoát của họ, cái hành động đạo đức của họ. Thì cái pháp không thể nào buôn bán ở ngoài chợ mà lấy tiền là gọi là cái pháp đó, cái pháp đó còn kinh doanh rồi, bán lấy tiền rồi.

À, chẳng hạn là Thầy kêu Phật tử đóng góp, rút cuộc rồi Thầy in ra rồi cái Thầy đem bỏ mấy cái chùa bán, Thầy làm giàu trên cái chuyện đó rồi. Thầy do Thầy ngồi Thầy viết ra, thứ nhất là Thầy cầu danh, thứ hai Thầy cầu lợi rồi, cái đó không phải đâu, Thầy viết ra là vì lợi ích chúng sanh. Cho nên Thầy không có tiền, Thầy không làm được, thì Thầy kêu những Phật tử người ta có tâm, người ta đã hiểu biết được cái cách thức tu tập đó có lợi ích, người ta bỏ ra tiền ra vì làm cái chuyện lợi ích cho xã hội.

(2:19:40) Thay vì bây giờ mình đem tiền cho người ta gạo, cho người ta sống. Thì mình đem giúp cho họ cái tinh thần giải thoát thì nó còn gấp mấy lần mà đem cơm gạo cho người ta ăn. Khi người ta đọc được cái tác phẩm, người ta làm được đạo đức, người ta đối xử trong gia đình của người ta được hạnh phúc an vui, thì hơn là đem gạo, đem cơm, đem tiền cho người ta, đó là cái tốt.

Vì vậy mà quý Phật tử thay vì mình làm việc từ thiện kia, thì mình làm việc cái góc độ từ thiện này lại giúp ích biết bao nhiêu. Mà ông cha của mình chết nhiều đời sanh ra làm người, đọc được cái tác phẩm này cái bắt đầu họ thực hiện đạo đức, thì họ cũng được giải thoát. Tức là mình đền đáp được công ơn cha mẹ của mình nữa, nó quý hơn là mình cầu siêu, cầu an một cách mà mình không thấy thiết thực.

Vì cái tác phẩm này nó được rải ra, nó là cái đạo đức mà. Ông cha mình mà sanh lên, nhờ cái duyên của mình bỏ cái tiền mồ hôi nước mắt của mình ra, tình cảm đó nó sẽ hồi hướng được cái người tái sinh kiếp sau. Cho nên người lên thấy cuốn sách này là do cái mồ hôi nước mắt của ông cha của mình đã ấn tống ra.

Trên cái con đường mà in kinh sách nó phải, cho nên cụ đã hỏi như vậy đó là đúng đó. Bởi vì kinh sách Phật giáo bây giờ nói chung là người ta nghĩ rằng: "Những cái người Phật tử nào bỏ tiền ra, rồi bắt đầu cái họ in rồi họ bán, họ lấy cái số tiền đó rồi họ in cuốn khác".

Thầy không nghĩ vậy, hễ cuốn nào mà có đủ duyên, có Phật tử cúng dường, góp tiền với nhau in rồi gửi cho Phật tử liền, không có đem bán ai hết. Hoàn toàn không có tích trữ bán để rồi in cuốn kinh khác để dành. Bây giờ có cuốn kinh khác, xin Phật tử người ta dành một đồng, hai đồng mình đi in chứ không có bán. Bán như vậy rồi mình tính bán mắt, bán rẻ, những cái lời của Phật dạy mình đem mình bán lời Phật vậy nghe sao đổ nước mắt.

Mình phải bỏ ra, bây giờ cái cuốn kinh như vậy mà mua có hai chục hay ba chục ngàn. Cái giá trị của người ta, một câu kinh của người ta vô giá, mà bây giờ mình mua có hai, ba chục ngàn vậy là cái cuốn kinh đó mất giá trị mất.

Còn Thầy đem một cuốn kinh mà Thầy làm ra, Thầy viết ra mà đọc được cái lợi ích thì nó có cái giá trị. Cái lợi ích là nó đem lại cái giá trị giải thoát cho mình, thì cuốn kinh đó có giá trị. Cho nên vô giá, không bán, đó là cái mục đích của Thầy, lý do không bán.

Mà Thầy chẳng cầu danh cho nên Thầy chẳng rải chùa nào hết. Ai có duyên, có cái duyên của người ta, có cái duyên với mình người ta mới đọc được tác phẩm mình, người ta không duyên thì thôi chứ. Còn mình rải ra mình cầu danh, để người ta đọc người ta biết mình viết sách, viết kinh này kia, thì cái đó mình cầu danh, thành ra Thầy không cầu danh, mà Thầy cầu sự giải thoát cho họ.

Cho nên ai có duyên được với Thầy, Thầy cứ in cái đó ra Thầy gửi cho họ, họ đọc, họ thực hiện cái họ giải thoát. Và đồng thời Thầy, bởi vì họ có duyên họ gặp Thầy, mà họ được in ra, họ được Thầy trao, thì tức là Thầy có trách nhiệm với họ. Họ là người đã muốn đọc những cái gì mà Thầy đã nói, cho nên bổn phận Thầy phải làm sao cho họ được giải thoát. Cho nên khi mà đọc rồi thì họ có hỏi Thầy cái này, cái kia là luôn luôn lúc nào Thầy cũng sát bên họ để giúp họ.

(2:22:22) Đó thì cũng như có cái duyên mà thầy Thông Vân đọc, rồi cho nên Thầy mới không muốn hưởng cái pháp bảo riêng cho thầy, thầy mới mời Thầy về đây để gặp quý Phật tử, tức là thầy không ích kỷ.

Chứ còn thầy ích kỷ thầy nói: "Thôi để cho mình tu xong đã, còn quý Phật tử từ từ", cái đó là ích kỷ. Chứ thầy nghĩ: "Mình biết cái này đạo đức hay quá".

Cho nên thầy đọc được, nói: "bây giờ quý Phật tử mà từ hồi đó biết mình tới giờ, mình giúp cho họ hiểu biết để cho họ biết được Phật pháp đúng cái đạo đức, để cho họ thực hiện được giải thoát chứ gì", thì thầy không ích kỷ.

Cho nên vì vậy mà quý Phật tử có duyên với thầy, thầy không phải là người ích kỷ. Cho nên sau này, quý Phật tử sẽ ở gần bên thầy Thông Vân, thầy có cái gì hay là thầy sẽ giúp quý cho Phật tử. Cũng như hôm nay là thầy chịu khó mời cho quý Phật tử, quý Phật tử mới họp ở đây, chứ mà thầy không cho biết thì quý Phật tử cũng không biết đâu, phải không?

Cho nên bây giờ, đó là những cái điều mà thầy Thông Vân sau này cố gắng giúp quý Phật tử. Sau những điều kiện mà dù khó khăn cách gì thì thầy Thông Vân phải cố gắng, đừng có nản chí. Vì bao nhiêu cái linh hồn, bao nhiêu con người mà đang xung quanh đây là cái duyên của thầy đó. Đây là duyên của thầy đã tạo, tạo duyên mới gặp Thầy, chứ không có thầy thì quý vị đâu có gặp Thầy được. Và quý vị có đọc được kinh sách Thầy cũng nhờ cái duyên của thầy. Cho nên thầy không được bỏ những cái Phật tử, đem hết sức lực mà độ.

Cho nên Thầy tin rằng quý Phật tử sẽ tìm một cái nơi yên ổn nhất, để cho thầy Thông Vân làm một cái trụ xứ của mình, để giúp cho quý Phật tử ở đây. Chứ quý thầy ở chỗ khác, quý Phật tử ở đây không thể nào mà theo Thầy được. Đó cho nên làm sao cho giữ chân thầy Thông Vân, đừng có cho thầy đi chỗ khác. Đây là cái duyên của thầy Thông Vân đã tạo cho quý Phật tử rồi đó, mà quý Phật tử để cho thầy Thông Vân đi ở cái nơi khác, thì quý vị đã mất đi một cái gì mà quý vị khó tìm.

Cho nên sau khi đó thì quý vị cố gắng mà tạo cái nơi, thì Thầy sẽ sẵn sàng dù là nếu như thế nào mà có cái duyên Thầy trở về, để mà Thầy đến cái chỗ đó mà Thầy dạy: "À, bây giờ quý phật tử ngồi xuống đi, tập như vầy, như vầy, hít thở như vầy, làm vầy, Rồi tập Thầy thử coi được không".

Hít thở được là Thầy nói: " Ờ được rồi, bây giờ tập tới, tập tới như vầy rồi làm vầy". Thầy dạy từng chút, từng chút.

Rồi quý Phật tử làm được rồi, rồi bắt đầu Thầy nói: "Bây giờ về tập đi, tuần lễ sau Thầy chịu khó Thầy ở lại đây, tuần lễ sau kiểm tra, chừng nào mà chín chắn Thầy sẽ về Trảng Bàng, Thầy về Tây Ninh".

Đó, thì như vậy là có cái chỗ, chứ bây giờ bắt Thầy ở chỗ này thì cũng được chứ không phải không, nhưng mà Thầy có hướng dẫn gì cho Phật tử được đâu. Thầy đã nói nó không có giúp ích cái lớn cho Phật tử. Cho nên Thầy ước ao rằng sau này thầy Thông Vân sẽ làm cái việc đó cho Phật tử. Và Thầy là coi như là Thầy ở sau lưng thầy Thông Vân mà giúp quý Phật tử tập luyện để mà luyện tập cái Đạo Đức. Từ đó cái Đạo Đức của mình sẽ giúp cho mình được giải thoát, sống một cuộc đời mà tạo cái cảnh, sống chung chúng ta mọi người trong cái thế gian này sẽ thanh thản hơn cõi cực lạc, nghĩa là sống không làm khổ nữa.

(2:25:17) Đó thì như vậy là đủ biết bây giờ kinh sách của mọi người viết mà bán đó, thì phải nói là "đem Phật Pháp bán quá rẻ", cái đó không đúng. Thay vì người ta có khả năng. Có Phật tử có tiền ủng hộ mà in ra được vậy gửi cho quý Phật tử hết, người nào không có giúp cho họ có, thì Thầy thấy hay đừng có đem bán.

Bây giờ họ còn để cả thùng mà họ chờ bán hết cuốn này rồi mới đem ra, trong khi Phật tử có nhiều người phải bỏ tiền ra mua. Rồi còn phải mặc cả nữa, rồi còn phải giảm bớt. Trời, kinh sách lời Phật dạy mà bây giờ còn phải bớt năm chục, hay là năm ngàn, ba ngàn nữa. Thầy thiệt là đau lòng thiệt chứ.

Bây giờ nói cuốn sách, thì nói vô thì không có để giá, mà mua cái người bán muốn bán bao nhiêu bán. Nói tám chục ngàn hay là ba chục ngàn, hay hai chục ngàn. “Thấy cuốn sách này có người có mua có mười ngàn, mà sao bán đắt quá vậy? - Ờ thôi bớt năm ngàn đi”. Ôi thôi coi như là kinh sách mặc cả quá vậy thì, kinh sách bán mà bây giờ trường hợp như vậy thì thấy đau lòng lắm, cho nên cái đó là cái sai.

Thay vì bây giờ cái tờ báo của Phật giáo mà gọi là cái tờ báo Giác Ngộ mà của Hòa thượng Trí Quảng đó. Cái tờ báo đó phải phát cho quý Phật tử, xin Phật tử ủng hộ. Thì khi mà Phật tử, thay vì Phật tử bỏ ra năm ngàn, mười ngàn mua chứ gì, thì Phật tử cứ bỏ ra đâu có gì đâu. Nhưng mà Phật tử khi được phát không, Phật tử không bỏ năm ngàn, mười ngàn đâu, mà Phật tử bỏ cả trăm ngàn cho cái ban mà làm báo này, để người ta in lại cho nhiều người.

Mà thử hỏi trong nước của chúng ta người nào là Phật tử mà người ta đâu cần bỏ năm ngàn người ta mua một xấp báo, phải không? Người ta bỏ ra hàng trăm ngàn, người ta thấy lợi ích của chúng sanh, lợi ích cho mọi người, người ta bỏ ra nhiều, người ta đâu cần phải người ta mua, người ta lấy có một tập đâu.

Khi mà mình làm đúng cái điều kiện mình làm đúng, thì Pháp Bảo sẽ được quảng bá. Thầy tin rằng, tin cái lời của Thầy dạy mà sau này xin phép được giáo hội mà chấp nhận cho in ra đó, cho phép đàng hoàng, thì Thầy thấy rằng quý Phật tử sẽ bỏ tiền ra, ở tỉnh nào lo tỉnh nấy in ra cứ mình có phép mà, để mình phổ biến ra cho người nào cũng nắm rõ được cái Đạo Đức của đạo Phật, để thực hiện cái đời sống giải thoát, cái đó là cái quan trọng, mà khi mà được phép rồi. Còn bây giờ thì nó chưa được phép đâu, nhưng mà sau này nó sẽ được đó, bởi vì nó lần lượt nó sẽ được.

Bởi vì như hồi nãy Thầy nói: "Về cái phi đạo đức của Quan Âm Thị Kính chứ gì, rồi cái phi đạo đức của Vu Lan Bồn kinh chứ gì, cái ngày Tự tứ chứ gì, cái ngày báo hiếu, ngày rằm tháng bảy chứ gì". Thì như vậy thì những người đó họ đâu có cho phép đâu, phải không? Cái này khó lắm chứ không phải đâu. Nhưng mà khi nào họ sẽ nhận ra rồi họ cho phép, họ sẽ cho thôi.

Đó thì hôm nay quý Phật tử có gì thêm thì hỏi Thầy đi…​.

22- CÁCH HOÁ GIẢI NHÂN QUẢ CỦA MÌNH

Phật tử: ( thưa hỏi về nhân quả )

(2:28:43) Trưởng lão: Bây giờ con muốn hỏi về cái chuyện nhân quả phải không?

Bây giờ cái cô này cổ đánh cái người này, cổ vô tình cổ đánh người này, người này không có làm cái tội đó mà cổ đánh. Do đó bây giờ luật pháp người ta mới truy ra, người ta biết là cô này không có tội, mà cô gây thương tích cho cô này, do đó cô này mới vô tình.

Bây giờ đó, trên pháp luật rõ ràng là cô này gieo cái, thay vì cái người kia chửi mà cô không đánh, mà cô lại đánh cái người không chửi, cái ý là vậy chứ gì?

À, thì cái cô này rõ ràng là trong lúc mình nóng, mình khùng, làm điên như vậy, cái lỗi cô này là có lỗi chứ, cái cô mà gây đánh ra đó có lỗi chứ. Cho nên cái người mà bị tội này, bị đánh này thì đứng trong luật nhân quả mặc dù là hiện tình là oan, bị đánh này là oan, cái cô này. Nhưng mà cô phải nhớ là cái luật nhân quả nó không oan chút nào đâu, cô đã bị cái quả này là do tiền kiếp cô vô tình.

Cũng như bây giờ một cái con kiến, hay hoặc một con côn trùng nó ở dưới đất. Thầy đi Thầy đâu có, vô tình Thầy đạp mà, chứ Thầy đâu có cố ý nó đâu. Bây giờ nếu mà bắt tội Thầy sát sanh đó thì nghe nó cũng tội Thầy, nhưng mà sự thật Thầy có cái vô tình đó chứ. Thì cái sự đánh đó nó cũng là vô tình, nhưng mà cái quả của Thầy phải trả cái sự vô tình.

Ngày xưa đức Phật, tiền kiếp đức Phật là một vị thầy thuốc, nhưng mà vô tình đức Phật, thay vì người ta bệnh lạnh, đức Phật phải hốt cái thuốc nóng để mà nó trị cái cơn lạnh của người ta chứ gì. Lại là ông Phật lại vô tình lại hốt cái vị thuốc lạnh, mà người ta bị bệnh lạnh cho nên uống vô nó lạnh rồi người đó chết. Thì do đó sau này đức Phật đã trả cái quả đó chứ đâu phải trốn cái nhân quả.

Phật tử: (thưa hỏi tiếp)

Trưởng lão: Khi mà hai người này đã học nhân quả thì họ sẽ giải tỏa được, còn họ không học nhân quả thì họ không giải toả. Còn họ học được nhân quả là họ giải tỏa, họ tha thứ cho nhau được. Họ không có thấy kết tội nhau, bởi vì họ biết cái nhân quả. Bởi vì họ đánh người khi bị thương, thì tức là cái quả phải có tiền kiếp rồi chứ không có thế nào mà khi không mà mình, người ta đánh mình vậy đâu.

Cũng như bây giờ người ta đánh lộn nhau người ta phan nhau như vầy, mà mình vừa đi, mình đi đường chứ có ăn thua gì, mình có chọc ghẹo họ đâu. Mà mình vừa đúng cái tới nơi đó nó trúng cái đầu mình cái bốp! Trời đất! Thì chừng đó mình té xuống mình bể, mình nứt đầu, mình té xuống, người ta chở mình đi. Rõ ràng là người ta phan người kia chứ đâu có phải phan mình, phải không? Cái này đâu phải là mình, cái người mà phan đó đâu có mục đích là cố ý để mà hại mình đâu, nhưng mà cái rủi lỡ tay, đó là thuộc về nhân quả vô tình.

Cho nên Thầy nói vô tình mình đi, mình đạp chúng sanh là mình cũng gieo một cái nhân quả vô tình, thì mình cũng phải trả cái nhân quả đó. Nhưng mà luôn luôn lúc nào mình cũng tập mình chuyển, những cái nhân quả vô tình của mình nó cũng nhiều lắm chứ không phải không. Nhưng mà cái tâm mình thực hiện là mình chuyển nhân quả là mình xả, tức là ngăn ác. Còn mình không hiểu nó gây những cái ác.

(2:31:47) Chứ cái người mà bị vô tình như vậy họ cũng tức nữa "tôi có chọc ghẹo chị đâu mà chị phan tôi vậy?”. Họ cũng chửi cho người này một mớ nữa chứ đừng có nói, nếu mà…​. nhân quả.

Cũng như bây giờ thí dụ như mình đi đường phải không? Mình đi đường mà mình lật đật cái gì đó, mình xớn xa, mình lật đật cái mình đi nhanh quá cái mình đụng xạt cái rớt cái rổ, hoặc cái sách của người ta. Cái bà này bả sừng xộ bả chửi mình "đi gì mà xớn xác quá vậy".

Thì cái người mà mình đi vô tình mình đụng người ta như vậy đó, thì đó là cũng là cái hành động thiếu nhân quả của mình, tức là thiếu ý thức mà mình đụng người ta. Do đó mới tạo cái nhân, cái quả, cho nên cái bà này bả quay lại bả chửi mình.

Thì lúc bấy giờ thì mình xin lỗi người ta thì nó hòa liền, "À lỡ tôi hồi nãy, tôi lật đật quá chị cho nên lỡ đụng chị, chị đừng có buồn. Chị thông cảm cho", thì người ta giận chút người ta vui liền. Còn mình mà sừng xộ mình chửi họ lại đó, thì nó sanh ra chuyện lớn sau. Cho nên nhân quả nó từ đó nó dàn xếp được là do mình hiểu được cái nhân quả. Cho nên Thầy nói Đạo Đức Nhân Quả cần hiểu, tức là những cái chuyện oan ức này kia đều là mình phải hiểu nhân quả.

Do đó, cũng như bây giờ có một người chửi mình, thì mình hiểu nhân quả là mình không có giận được, còn mình không hiểu nhân quả mình tức cái mình chửi. Cho nên học nhân quả rồi tự người ta nói nặng, nói nhẹ mình, hay hoặc là người ta mình làm ăn người ta tranh điều này, thế kia người ta dìm mình xuống, thì ngay đó là mình cũng nhẫn được hết. Bởi vì mình hiểu nhân quả cho nên mình nhẫn được, từ đó cái diễn biến về cái nhân quả của mình nó hiện lên, thì cái làm ăn của mình nó tăng trưởng, nó tốt được.

Còn mình đấu tranh rồi từ đó mình dìm với nhau trong cái nghề nghiệp đó, thì coi như hai cái người có thể thực hiện ở trong cái nhân quả ác thì nó diệt nhau ở trong cái sự làm ăn. Ít ra cái người mà người ta có của cải giàu hơn, tức là phước người ta hơn thì người ta diệt cái người ít hơn.

Thí dụ như bây giờ mình làm buôn bán cái cửa hàng đó, mình muốn diệt cửa hàng kia cái bắt đầu mình có tiền hơn, mình bán rẻ hàng mình. Cửa hàng kia bán không được nó lỗ, lỗ riết nó dẹp tiệm, cái bắt đầu mình bán hàng mình tăng lên, tức là mình diệt người ta, diệt người ta để cho mình sống, thì cái đó là cái nhân quả cực ác. Nhưng mà ở đời người ta có đủ thủ đoạn đó để diệt nhau hết.

Rồi quý Phật tử ngày mai có gì cứ hỏi Thầy. (2:35:00)

HẾT BĂNG

1998 - THẦY GIẢNG GIỚI ĐỊNH TUỆ 02 - THIỀN ĐỊNH CỦA ĐẠO PHẬT

1998 - THẦY GIẢNG GIỚI ĐỊNH TUỆ 02 - THIỀN ĐỊNH CỦA ĐẠO PHẬT

THẦY GIẢNG GIỚI ĐỊNH TUỆ 02 - THIỀN ĐỊNH CỦA ĐẠO PHẬT

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Phật tử

Thời lượng: [01:57:12]

Thời gian: 1998

Tên cũ: 1998-Giới-Định-Tuệ 2-Ptử ChâuĐốc

1- ĐỨC TRƯỞNG LÃO TRIỂN KHAI TRI KIẾN VỀ THIỀN ĐỊNH CỦA PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY

(00:06) Phật Tử: Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Kính bạch Tôn Đức Tăng, Phật tử Châu Đốc chúng con hôm nay đủ phước, đủ duyên đã được nghe chơn Tôn Đức Tăng dạy cho về giới luật, về đạo đức sống thế nào để không làm khổ mình, khổ người. Hôm nay tiếp tục chúng con xin thỉnh Ngài giảng dạy cho chúng con có Chánh kiến về Thiền định. Để cho chúng con biết phân biệt thế nào là tà thiền, thế nào là chánh thiền. Để chúng con được lợi ích trong Phật pháp, chấn hưng Phật pháp, không có đi sai lạc con đường của Phật đã dạy.

Chúng con thành tâm cầu xin chơn Tôn Đức Tăng từ bi hứa khả cho chúng con được ân triêm pháp nhũ.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Trưởng Lão: Thầy chấp nhận bữa nay là Thầy sẽ thuyết giảng cái giai đoạn thiền định của đạo Phật, để cho quý Phật tử rõ.

Phật Tử: Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Chơn Tôn Đức Tăng đã từ bi hứa khả cho rồi, chúng con xin thành tâm đảnh lễ ba lạy cúng dường.

Trưởng Lão: Chúng ta hiểu được cái đức hạnh của Phật là như vậy, thì hôm nay Thầy giảng về thiền định của Phật. Từ lâu tới giờ nghe nói thiền định thì mọi người ai cũng muốn tu thiền định, vì nghe nó thực và nghe nó hay. Cái lý luận thì cũng rất là tuyệt vời và nó có logic, làm cho chúng ta thấy nó rất thực. Nhưng mà nhìn lại cái quá trình mà chúng ta tu cái thời gian rất dài. Những cái sự thiền định đó nó đạt được những kết quả gì và cái sự siêu việt nó như thế nào, nó có hay không?

(02:22) Cho nên chúng ta nghe nói thiền Yoga, rồi các đạo sĩ Yoga như thế này, thế khác, có nhiều cái đặc biệt siêu việt thần thông. Rồi đến Mật Tông thì chúng ta nghe các vị Lạt Ma, nó cũng thực hiện nhiều những cái phương pháp tu hành, người ta cũng có những cái siêu việt. Vậy thì cái thiền định của đạo Phật, như thế nào là thiền định của đạo Phật, mà nó có cái thần lực như các cái thiền định kia không?

Thì hôm nay Thầy sẽ dạy về thiền định của đạo Phật. Mà từ lâu tới giờ thì người ta đều xem cái thiền định đó, là cái thiền định Phàm thiền. Người ta gọi cái tên là Thiền Phàm Phu, người ta đặt cho nó cái tên Thiền Phàm Phu. Rồi người ta còn gọi nó một cái tên nữa là Thiền Tiểu Thừa.

Thiền Tiểu Thừa có nghĩa là cái cổ xe nhỏ, cái thiền nhỏ chứ không phải là thiền lớn. Đó thì nó mang cái tên như vậy mà chính đó là cái thiền của đạo Phật. Mà chính đức Phật nhờ thực hiện cái thiền này, mà Ngài đã làm chủ được cái sự sống chết của Ngài, là Ngài làm chủ được cái khổ của cái kiếp người.

Do đó thì hôm nay Thầy sẽ giảng trạch cho quý Phật tử có duyên, hôm nay còn có mặt được nghe bốn cái loại thiền, mà người ta gọi là Tiểu thừa, gọi là Phàm Phu Thiền này. Cho nên nghe cái tên là chúng ta đã thấy không ưa rồi, không thấy thích rồi.

Người ta nghe cái tên mà như Như Lai Thiền, Tối Thượng Thừa Thiền, hay hoặc là Đại Thừa Thiền. Rồi chúng ta nghe thấy nó lớn cái chúng ta ham. Nhưng mà nghe nói Tiểu Thừa, Phàm Phu Thiền thì nghe nó, sao nó thấp, nó bé quá. Nhưng mà chính những cái hành động của cái loại thiền này, chúng ta thấy nó có những cái sức lực, nó làm chủ được cái sự sống chết của con người.

(04:26) Như hồi nãy Thầy đã nói, đức Phật cũng nhờ cái thiền này mà đi đến cái sự cứu cánh của mình. Mà mỗi cái thiền của nó mà chúng ta tập thì chúng ta có thấy kết quả liền, chứ không phải đợi tới chừng nào đó nó mới giải thoát, mà nó kết quả ngay liền. Thấy nơi thân tâm của mình có cái sự làm chủ thật sự.

Thì cái thiền thứ nhất, như chúng ta đã biết đó là, đức Phật gọi là Tứ Thiền, là bốn cái loại thiền. Thì bốn cái loại thiền đó tên là: Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền và Tứ thiền.

Đức Phật còn cho nó cái tên nữa, đó là Thánh Trú. Những cái bậc Thánh người ta mới trú vào được những cái loại thiền đó. Rồi người ta còn gọi, đức Phật ở trong kinh Phật còn gọi nó là Phạm Trú. Phạm Trú là những người đức hạnh mới trú được vào trong những cái thiền đó, còn những người mà không có đức hạnh thì không thể nào trú được vào cái thiền đó. Thì ở trong kinh điển Phật còn gọi nó là Như Lai Trú. Những bậc mà chứng đạo thường sống ở trong đó, cho nên gọi là Như Lai Trú. Thì những cái tên đó, là những cái tên mà trong kinh điển của Phật đã xác định đúng cái nghĩa của bốn cái loại thiền này.

Nhưng mà các nhà học giả thì họ cho nó là ‘Tiểu Thừa Phàm Phu Thiền’. Thế mà trong kinh điển của Phật thì kêu nó như là "những cái nơi cư trú vững chắc cho những bậc giải thoát”, thì người ta mới ở được trong các loại thiền này.

2- NGŨ LỰC - THẦN LỰC CỦA PHẬT GIÁO

(06:00) Vì vậy trên cái bước đường tu tập, thì đức Phật có xác định là đạo Phật có năm lực. Bởi vì nói đến thiền định thì phải nói là Thần lực. Thần lực, cái lực của một vị Thần thì quý vị nghĩ nó phải siêu việt vô cùng mới gọi là Thần lực.

Còn vừa rồi thì Thầy giảng về đức hạnh, mà trong kinh điển của Phật gọi là Oai lực. Oai lực tức là cái oai nghi tế hạnh, cái hành động của một vị đó, nó làm cho chúng ta phải kính mến, kính mến cái vị tu sĩ đó, gọi là Oai lực.

Còn bây giờ đến dạy nói về thiền định thì phải nói về Thần lực. Vậy thì cái Thần lực của đạo Phật, vậy cho nên muốn được cái Thần lực như vậy, thì đức Phật xác định thêm bốn cái loại thiền này nó là Định lực. Cho nên nó có bốn cái lực.

Cái Tín lực, là cái lòng tin của mình đối với Phật pháp và giới.

Rồi cái Tấn lực, là cái sự siêng năng mà không phải cố ép mình siêng năng, mà tự động nó siêng năng gọi Tấn lực.

Rồi Niệm lực, Niệm lực là cái niệm nó không có bị mất, gọi là Niệm lực, sức lực của cái niệm.

Rồi Định lực, là cái sức lực của Thiền định.

Rồi Tuệ lực, là cái sức lực của Trí tuệ.

Cho nên đức Phật xác định cho chúng ta biết rõ những cái bài pháp, mà chúng ta tu tập ở trong cái ba bẩy Phẩm Trợ Đạo. Thì Tín lực đức Phật cho chúng ta thực hiện cái Tín lực đó, thì phải là thực hiện Tứ Bất Hoại Tịnh. Bốn cái pháp làm cho thân tâm của chúng ta thanh tịnh, gọi là Tứ Bất Hoại Tịnh, gọi là Tín lực.

Tấn lực thì đức Phật xác định cho chúng ta muốn được có cái Tấn lực, thì chúng ta thực hiện Tứ Chánh Cần. Tức là các pháp ác chưa có sanh khởi, thì mình ngăn không có cho sanh khởi, mà đã sanh khởi thì mình đoạn diệt. Các pháp thiện chưa sanh khởi thì sanh khởi và khi mà đã sanh khởi thì tăng trưởng các pháp thiện lên, chứ không có bảo chúng ta diệt cái điều thiện. Thì đó là cái Tấn lực.

(08:37) Rồi Niệm lực thì đức Phật xác định rằng Tứ Niệm Xứ là Niệm lực.

Mà đến Định lực thì đức Phật xác định đó là Bốn Thiền. Sẽ là Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền, đó là Định lực. Cho nên Định lực nó thuộc về Thần lực, thì nó cụ thể rất rõ ràng.

Và Huệ lực thì đức Phật xác định là Tứ Diệu Đế là Huệ lực.

Cho nên mỗi một cái lực thì đức Phật đã xác định cho một cái pháp, một cái bài pháp để mà chúng ta thực hiện trên con đường tu tập của chúng ta.

Vì vậy cho nên những cái thiền mà của đạo Phật nó thuộc về Định lực của một cái sức lực, của một người tu tập. Để nó làm chủ được sự sống chết thì nó phải có một cái lực như thế nào, chứ không phải mình ngồi thiền một cách cho hết vọng tưởng lơ mơ đó, rồi cái lực nó ở chỗ nào, mình không thấy. Cho nên mình tu hành là phải như thế nào để có cái lực của nó.

3- NGƯỜI MUỐN NHẬP SƠ THIỀN THÌ TÂM PHẢI LY DỤC, LY ÁC PHÁP

(09:35) Do đó nãy giờ Thầy xác định cái Bốn Thiền để chúng ta thấy thật sự nó nằm ở trong kinh sách của Phật rất rõ ràng. Và xác định nó, những cái tên tuổi nó rất rõ ràng. Vậy thì bắt đầu mà chúng ta trở về vị trí của chúng ta để thực hiện cái con đường thiền định này, thì đầu tiên chúng ta phải nhập được Sơ thiền.

Vậy thì hôm qua mà Thầy đã dạy về cái đạo đức của chúng ta là không làm khổ mình, khổ người, thì chúng ta phải sống giới luật. Lấy giới luật phòng hộ sáu căn: mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình để bảo vệ cái sự tu tập của chúng ta. Rồi thực hiện các loại định, như Định Vô Lậu, Định Chánh Niệm Tĩnh Giác, Định Niệm Hơi Thở, Định Sáng Suốt. Bốn cái loại định này để mà chúng ta thực hiện cái Sơ thiền, tức là cái thiền thứ nhất.

Cho nên cả một cái vấn đề mà rất là quan trọng của cái Sơ thiền, thì chúng ta phải thực hiện nào là giới luật phải nghiêm chỉnh, rồi chúng ta phải sống đời sống thiểu dục tri túc, phải lấy giới luật phòng hộ sáu căn của mình, phải tu tập bốn cái loại định. Do đó chúng ta mới có thể ly dục, ly ác pháp được, cho nên cái Sơ thiền coi vậy chứ nó không đơn giản.

Vậy mà có nhiều người nghĩ rằng: "Khi mình ngồi hết vọng tưởng, không có niệm ở trong đó thì nó là Sơ thiền." Không phải. Sơ thiền ở đây của Phật là do cái tâm mà mình ly được cái lòng ham muốn của mình, mình xả được cái ác pháp ở trong tâm của mình, thì cái đó mới gọi là Sơ thiền.

Do cái thiền như vậy thì chúng ta thấy nếu mà chúng ta tập bốn cái định. Từ cái Định Vô Lậu, cái Định Niệm Hơi Thở, cái Định Chánh Niệm Tĩnh Giác và cái Định Sáng Suốt. Thì bốn cái loại định này, nó sẽ giúp chúng ta thực hiện được một cái tâm thanh tịnh, cái tâm thanh tịnh tức là cái tâm ly dục, ly ác pháp.

Như ngày hôm qua Thầy dạy đạo đức, là nhắm vào cái chỗ mà Sơ thiền đó chứ không phải gì khác nữa hết. Vì thực hiện được như vậy mới có thể nhập được Sơ thiền. Và khi Sơ thiền mà nhập được, thì cái tâm thanh tịnh của chúng ta đó là cái Đạo lực, cái Đạo lực của đạo Phật.

Cho nên đức Phật, hôm qua Thầy cũng có nhắc là Giới sanh Định, do giới nó làm cho chúng ta ly dục, ly ác pháp. Mà vì vậy mà cái tâm chúng ta mới được thanh tịnh. Mà cái tâm thanh tịnh không còn tham, sân, si, phiền não đó, thì cái tâm đó là cái tâm định, lúc bấy giờ cái tâm của chúng ta nó có định. Mà khi nó có định, thì nó thanh tịnh mà nó định, thì nó sẽ tịnh chỉ được những cái điều kiện khác mà khi mà chúng ta muốn nhập các cái định khác sâu hơn.

4- NGƯỜI MUỐN NHẬP NHỊ THIỀN THÌ PHẢI CÓ LỰC ĐỊNH CỦA TÂM THANH TỊNH

(12:08) Cho nên cái hướng tu tập của chúng ta nó có cái hướng tu tập rất là rõ ràng. Khi một cái người mà tâm ly dục, ly ác pháp rồi thì cái tâm đó thanh tịnh, cho nên nó có một cái sức lực gọi là Định lực. Vì chúng ta có định nó mới có lực, mà khi cái tâm thanh tịnh thì nó có định, nó có định thì tức là nó phải có lực. Vì vậy mà đức Phật gọi là Tứ Thiền là Định lực.

Cái thiền đầu tiên, cái Sơ thiền, nó đã giúp cho chúng ta có định, cho nên chúng ta có cái lực của thiền định. Vì vậy mà bây giờ chúng ta muốn nhập cái thiền thứ hai để chúng ta làm chủ được cái lão, tức là già. Già là cái sự vô thường thay đổi, làm cho thân chúng ta thường thay đổi mà dần dần chúng ta già đi. Dần dần chúng ta đến, khi mà chúng ta đổi đến mức độ mà cằn cỗi, rồi không thể mà hồi phục lại cái sự sống, nó bị hoại diệt luôn, vì vậy mà chúng ta chết.

Do đó muốn mà cho không có già, thì cái người đó phải nhập Nhị thiền, nhờ cái Nhị thiền thì cái thân nó không thay đổi nữa. Vì ba cái chỗ mà hành động của nhân quả nó không hoạt động được.

Thứ nhất là cái thân ngồi bất động, thì nó không hoạt động được cho nên nó không thay đổi.

Thứ hai là miệng không nói, một người ngồi thiền mà còn nói chuyện được sao? Đâu còn đi tới, đi lui. Cho nên khi mà gọi là định, thì thân phải định mà tâm phải định. Mà tâm thì ly dục, ly ác pháp thì nó đã định rồi, mà cái thân thì chúng ta chưa có định, cho nên buộc nó phải ngồi.

Còn hồi mà chúng ta tu, tu để cho cái tâm thanh tịnh thì chúng ta phải đi kinh hành. Đi tới, đi lui để mà chúng ta xả ly, lìa cái tâm ham muốn và các ác pháp trong tâm của chúng ta. Do đó chúng ta tu mà cái tâm định thì chúng ta còn đi tới, đi lui được, bởi vì cái thân nó chưa định. Còn khi mà chúng ta muốn tu cho cái thân định, thì cái tâm phải định rồi thì tu cái thân mới định.

(14:04) Còn bây giờ quý vị chưa có tâm định, còn ham muốn cái này, cái nọ, cái kia. Mỗi chút thì còn giận hờn, phiền não, thế mà vô ngồi thiền để cho cái thân định, thì tức là chúng ta đi vào cái thân định, khép chặt không có cho nó hoạt động. Rồi bắt buộc cái ý chúng ta không có khởi niệm, diệt niệm thiện, niệm ác của nó đi. Do vì vậy mà chúng ta tu mãi mà chúng ta không có làm chủ được.

Còn trái lại khi mà trong tâm nó thanh tịnh rồi, thì bắt đầu cái người này đã có tâm định, thì nó không còn có phóng dật ra ngoài. Cho nên luôn luôn nó thanh tịnh, thì nó ở trên cái thân của nó, cái thân nó hoạt động. Bởi vì hồi mình tu, mình đi kinh hành, đi tới, đi lui trong tất cả mọi hành động, nó điều chú ý trong cái hành động của thân. Cho nên khi nó thanh tịnh rồi, thì luôn luôn nó quay vô nó biết cái hành động của thân nó, cho nên gọi là tâm định trên thân.

Cho nên khi mà cái tâm ly dục, ly ác pháp thì luôn luôn nó biết cái thân hoạt động của nó, nó không biết cái gì bên ngoài hết, cho nên gọi là tâm không phóng dật.

Đó phải hiểu cái lời của Phật dạy ở trong kinh sách, gọi là tâm không phóng dật, là tâm đã quay vô thân. Nó luôn luôn, cái biết của nó luôn luôn biết cái hoạt động của thân của mình. Thân thở nó biết thân thở, thân đi nó biết thân đi, thân ngồi nó biết thân ngồi. Mà mình không phải còn đang lúc tu tĩnh giác như vậy, mà bây giờ tự động nó, nó đã biết. Vì cái tâm chúng ta ly dục, ly ác pháp thì cái tâm nó không còn quay ra nữa, mà nó quay vô nó nhận cái hành động của cái thân, gọi là tâm định trên thân, hay là tâm định vô thân.

Bây giờ cái tâm nó định rồi, thì do đó bây giờ chúng ta mới bắt buộc cái thân nó định lại cái tâm, gọi là thân định trên tâm, hay là thân định vô tâm, định trở lại, vậy thân tâm nó mới có định với nhau được. Cho nên chúng ta bắt đầu chúng ta tu cái Sơ thiền giúp cho tâm chúng ta định, tâm nó định vào cái thân của nó.

Bắt đầu bây giờ chúng ta tu Nhị thiền cho đến Tứ thiền cái thân nó mới có định. Chỉ có cái thiền đầu tiên là cái tâm chúng ta định. Rồi ba cái thiền này, ba cái thiền sau cùng, đến cuối cùng cái thân nó mới định trọn vẹn, chứ nó không định ngay liền được. Thì chúng ta còn cái khó khăn nào mà chúng ta phải trải qua cho tới Tứ thiền, cái thân của chúng ta mới định được?

Là vì rất khó, khi mà cái tâm nó định, nó quay vô rồi thì nó không có khởi cái niệm, nó không có khởi niệm như cái ý của chúng ta nó không còn khởi cái niệm ra. Cho nên nó luôn luôn nó biết cái thân động của nó thôi, mà nó không còn biết cái gì hết, nó không khởi niệm nghĩ nhớ cái này, nhớ cái kia. Cho nên chúng ta không có dừng vọng tưởng mà vọng tưởng chúng ta không còn có nữa. Do đó vì vậy thì cái tưởng thức của chúng ta bắt đầu hoạt động.

5- SẮC THỨC, TƯỞNG THỨC VÀ TÂM THỨC - BA CÁI THỨC CỦA THÂN NGŨ UẨN

(16:50) Thầy xin nhắc lại, trong cái thiền định của đạo Phật chúng ta phải nên phân biệt biết được ba cái thức, chứ không phải có một cái thức. Đối với, như Thầy cũng có nhắc hồi hôm qua rồi, thì đối với cái thân của chúng ta, cái thức mà đầu tiên nó hoạt động hằng ngày, đó là gọi là sắc thức. Mà sắc thức thì nó phải hoạt động ở trong sáu cái căn của chúng ta: mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của chúng ta.

Cho nên nó hoạt động cái đó gọi là sáu cái thức của chúng ta, gọi là lục thức đó, thì nó là mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của chúng ta. Thì đó là thuộc về cái sự điều khiển của cái sự sống hằng ngày của chúng ta hằng ngày, thuộc về ý thức của chúng ta.

Còn ban đêm mà chúng ta ngủ, chúng ta nằm chiêm bao đó, đó là cái tưởng thức hoạt động. Cho nên sáu cái thức này nó ngưng hoạt động, nó nhường lại.

Còn bây giờ chúng ta cái tâm nó quay vô rồi, thì sáu cái thức này, cái lỗ tai chúng ta có nghe âm thanh bên ngoài, nghe nhưng mà nó không phân biệt, vì vậy cho nên nó không còn hoạt động nữa.

Nó phân biệt, nó biết tiếng đó là máy nổ, người đi, tiếng nói chuyện, mà nói chuyện nghĩa lý gì, cái lý gì ở trong lời nói chuyện đó. Đánh lộn với nhau hay hoặc là khóc lóc, hay hoặc kể lể, thì nó nghe, nó phân biệt nó biết rất rõ.

Còn đằng này nó quay vô nó không có biết, nó có nghe nhưng nó không phân biệt cái điều đó như thế nào. Cái tiếng động đó có tác động nó, nhưng mà nó không có biết cái tiếng động đó là như thế nào, nó không phân biệt nữa. Thì lúc bấy giờ cái tâm nó quay vô thân thì nó chỉ chuyên chú vào cái những hành động của thân mà thôi.

Do vì vậy nó không phân biệt bên ngoài, thì đương nhiên coi như là nó ngưng hoạt động. Cũng như mình ngủ mình không còn nghe, mình không còn thấy mọi vật. Còn cái này nó quay vô rồi nó cũng không còn nghe, còn thấy mọi vật bên ngoài, cho nên gọi là vô phân biệt, chứ không phải nó không nghe, không thấy.

Cho nên do vì vậy mà nó đã dừng, sáu cái thức này nó dừng lại, tức là cái ý, cái thân thức của chúng ta nó sẽ dừng lại. Nó dừng lại thì tưởng thức của chúng ta hoạt động, thì lúc bấy giờ chúng ta cũng còn bình tĩnh như thế này, chứ không phải là nằm chiêm bao, không phải nằm ngủ. Nhưng mà cái tưởng thức hoạt động giống như chúng ta ngủ, cho nên chúng ta làm sao mà xả cho hết cái này, xả cho hết cái này.

Cho nên khi mà người nhập Nhị thiền, thì chúng ta đã đóng sáu cái thức của chúng ta lại, tức là sắc thức đóng lại. Cho nên diệt tầm tứ, nó không có khởi niệm, không có tác ý nữa, cho nên ý thức nó ngưng hoạt động hoàn toàn, nó không hoạt động. Mà nó không hoạt động thì cái tưởng thức nó phải hoạt động.

Cho nên lúc bấy giờ chúng ta ngưng được cái này, thì chúng ta thấy trạng thái hỷ lạc, rồi thấy cái ánh sáng, thấy hào quang. Rồi thấy tất cả những cái âm thanh, sắc tưởng mình thấy rất rõ, nó hiện cái tướng của tưởng ra. Mà nó mỗi lần mà mình không hiểu biết, thì mỗi cái tướng nó hiện ra như vậy thì mình thấy như là mình đã ngồi thiền mà nhập định, mình có những cái lạ lùng, cái kỳ đặc.

Do đó mình nhận thấy nhiều khi nó khởi ra những cái trực giác, làm cho mình nhận ra được những cái tâm niệm của kẻ khác nữa, nó hiểu biết được những cái tâm niệm của kẻ khác. Nó có khi ngồi đây mà nó nhập trong cái định đó, thì cái sự kiện mà xảy ra ở ngoài kia, cái chuyện gì nó ở đây nó biết. Người đi cách xa vài trăm thước, thì cái người mà nhập vào những cái loại định đó đó, cái định mà của tưởng, thì đương nhiên là nó ngồi đây mà nó biết được cái người đó sẽ còn cách đây vài trăm thước sẽ đến đây, mà cái người đó là cái người nào nó cũng biết.

(20:02) Đó là những cái thần thông tưởng do cái tưởng mà nó hiện ra, nó tạo cho chúng ta biết như vậy. Là vì vậy cho nên đức Phật bảo mình xả hỷ, những cái trạng thái mà làm cho mình thấy như mình có cái khả năng thiền định, nó làm cho mình mừng đó, mình vui mừng đó. Thì đức Phật gọi là xả hỷ, lìa những cái lòng mừng đó đi, cái lòng mà nó xảy ra những cái trạng thái nó làm vui mừng đó, coi như mình đắc thiền, đắc đạo đó, do đó đức Phật bảo xả ra.

Xả hỷ tức là xả các cái loại tưởng, mà nói chung là phải xả cái tưởng thức. Mà khi mà xả tưởng thức thì chúng ta sẽ không còn mộng mị nữa. Mà không còn mộng mị nữa thì từ cái chỗ mà đóng cái Nhị thiền, nó đóng sáu căn lại, nó không còn tầm tứ. Thì cái Tam thiền nó lại đóng cái tưởng thức của chúng ta lại.

Cho nên con người mà tu mà tới Tam thiền thì không còn mộng mị, cho nên ý thức ngưng, ngưng hoạt động hoàn toàn, mà tưởng thức nó cũng đóng lại. Nó đóng lại như vậy thì chúng ta mới thực hiện được cái Tứ thiền, còn nếu không đóng lại thì không thể nào mà thực hiện được Tứ thiền.

Và chúng ta nhớ rằng trong thân ngũ uẩn của chúng ta, nó có thức uẩn, người ta nói là "sắc, thọ, tưởng, hành, thức". Cái thức uẩn này từ lâu tới giờ ở trong thân của chúng ta, nó từ khi mà tái sanh cho đến khi mà nó thành người, rồi tiếp xúc với mọi duyên. Như chúng ta là một con người như bây giờ đó, thì cái thức đó nó còn nằm im lìm, nói chưa hoạt động bao giờ hết. Nói nó là cái thức, nhưng mà sự thật cái vị trí của nó đứng thì nó chưa có hoạt động.

Từ lâu thì chúng ta hoạt động ở trong cuộc sống hằng ngày thì đó là ý thức, rồi kế đó là tưởng thức, còn cái tâm thức của chúng ta nó không có hoạt động. Cho nên bây giờ chúng ta đóng lại hết những cái tụi này, thì cái tâm thức của chúng ta bắt đầu hoạt động. Coi như muốn cho nó hoạt động thì chúng ta phải ngưng cái sắc thức và cái tưởng thức, thì cái tâm thức của chúng ta mới hoạt động.

Do đó khi mà cái tâm thức nó hoạt động, thì cái hơi thở của chúng ta mới tịnh chỉ được. Còn cái tâm thức chưa hoạt động mà cái hơi thở tịnh chỉ, thì chúng ta sẽ là trở thành một cái thây ma, là một người chết, không thể nào phục hồi lại sự sống được.

Vì vậy đương nhiên về cái tâm của chúng ta, thì lúc bây giờ chúng ta dừng cái sắc thức và dừng cái tưởng thức của chúng ta, để rồi đánh thức cái tâm thức dậy. Để rồi dừng, bắt buộc cái thân của chúng ta tịnh chỉ hơi thở, ngưng hoạt động để rồi cái thân nó định vào cái tâm.

Thì cách thức nó cụ thể và rõ ràng, rất là khoa học. Cho nên khi mà chúng ta muốn dừng cái này được, thì nó mới dừng cái kia. Cũng như bây giờ mình muốn chiêm bao, thì phải dừng ý thức mình, không cho hoạt động thì cái chiêm bao nó sẽ thể hiện.

6- THIỀN XUẤT HỒN LÀ CỦA NGOẠI ĐẠO, KHÔNG ĐEM LẠI SỰ GIẢI THOÁT CHO CON NGƯỜI

(22:48) Như chúng ta thấy có một loại thiền, gọi là Thiền Xuất Hồn, phải không? Nếu mà cái người đó mà còn ý thức thì họ không có xuất hồn được đâu. Vì vậy mà cái người mà tu thiền đó họ phải tưởng như là mình phải ngủ, rồi tưởng như là mình ở trên đầu mình nó nứt ra một lằn, rồi nó xuất hồn từ đó do dùng cái tưởng của mình.

Vì vậy mà cái giấc chiêm bao nó dễ thực hiện là khi mình ức chế cái vọng tưởng của mình, tức là cái ý thức nó không có khởi niệm nữa. Thì lúc bấy giờ cái tưởng nó hoạt động thì nó thành ra cái giấc mộng của người đó, được xem như là mình đã xuất hồn. Và mình điều khiển bằng cái sự tu tập đó, cho nên cái giấc chiêm bao bằng cái sự điều khiển mình chiêm bao.

Còn hiện giờ mà quý Phật tử mà chiêm bao đó là tự động nó chiêm bao, chứ không phải là mình điều khiển. Còn cái người tu Thiền Xuất Hồn thì người ta chủ động, người ta điều khiển để cho cái ý thức của chúng ta ngưng, để cho các tưởng thức nó hoạt động, nó trở thành cái giấc mộng người ta. Đương nhiên là người ta xuất hồn là người ta đi chơi.

Vì vậy mà nhiều khi người ta xuất hồn ra thì người ta đi đến những nhà này, những nhà kia. Thì những cái sự kiện gì xảy ra, thì khi mà người ta trở lại bình thường, tức là người ta hết chiêm bao đó, cũng như mình là tỉnh dậy đó, thì mình nói lại cái việc xảy ra hồi mình xuất hồn đó, thì xảy ra rất đúng. Cho nên nói dường như là mình có cái hồn, mình xuất hồn ra, chứ sự thật không phải đâu.

Đó là cái tưởng thức của chúng ta giao cảm được, những cái điều mà chúng ta đã thực hiện điều khiển được cái tưởng thức của chúng ta hoạt động đúng cách. Cho nên chúng ta thấy được thực trạng của hiện tại, của cái hoàn cảnh đó, của những người mà mình muốn biết.

Cho nên nó cũng không hay ho gì hết, là đánh thức những cái tưởng thức của chúng ta hoạt động mà thôi. Nó không giải quyết, cho nên những người mà tu Thiền Xuất Hồn, họ không giải quyết được cái sanh, già, bệnh, chết. Họ không làm chủ được cái sự đau khổ, tâm tham muốn và ác pháp trong lòng của họ, cho nên nó không giống đạo Phật.

Vì vậy họ xuất hồn để mà chơi, hoặc là xuất hồn để mà thể hiện những cái thần thông huyền bí chơi, để mà gạt người, lừa đảo người. Thì cái điều kiện mà họ làm cho người ta thích thú những cái thần thông đó, thích thú cái xuất hồn đó và đặt niềm tin là: "Mình chết đi mình cũng xuất hồn được, thì mình bỏ thân này thì vẫn còn cái phần hồn, cái linh hồn của mình, mình vẫn điều khiển nó đi tới, đi lui chỗ này kia được và tái sanh cũng dễ dàng, không có rơi vào địa ngục". Thì do đó họ cũng thích, họ tưởng tượng như vậy.

Nhưng mà sự thật khi mà người chết rồi, thì cái tưởng thức nó cũng không còn. Cho nên cái linh hồn mà họ tưởng ra đó, nó cũng không có, cho nên toàn bộ là nó hoại diệt sạch, nó không còn có nữa đúng như lời đức Phật đã nói: "Không có một vật gì còn có trong thân ngũ uẩn này cả".

7- SƠ THIỀN LÀ NỀN TẢNG ĐẦU TIÊN RẤT QUAN TRỌNG CỦA THIỀN ĐỊNH

(25:22) Đó thì khi mà thực hiện thiền định của đạo Phật, mà khi mà chúng ta tu đến đây rồi, thì chúng ta mới thấy rằng cái Sơ thiền là cái vấn đề rất quan trọng. Do cái tâm thanh tịnh có cái định đầu tiên, nhờ cái định đầu tiên đó gọi là Định lực, từ cái Định lực đó chúng ta mới hướng tâm chúng ta nhắc.

Bởi vì thường thường chúng ta ly dục, ly ác pháp là chúng ta phải dùng cái hướng tâm chúng ta nhắc hằng ngày, hằng giờ, hằng phút, để chúng ta nhắc nhở để mà ly dục, ly ác pháp. Cho nên tới mà khi mà chúng ta thanh tịnh được cái tâm, thì cái lực đó nó trở thành một cái sức lực rất mạnh, vĩ đại.

Bởi vì hằng ngày chúng ta nhấn mạnh vào cái tâm chúng ta để buông xả, để ly được ác pháp và cái tâm ham muốn. Mà đến khi nó ly được rồi thì nó trở thành một cái đạo lực rất là vĩ đại. Do đó chúng ta bảo: "tầm tứ tịnh chỉ", thì nó ngưng liền hoàn toàn, nó không còn hoạt động.

Cho nên lúc bây giờ thân chúng ta không hoạt động, ý chúng ta không hoạt động, miệng chúng ta không nói, hoàn toàn ngồi, thời gian rất dài chứ không phải ngắn như là một, hai tiếng đồng hồ. Có thể một, hai ngày, hay ba, bốn ngày, hay hoặc là thời gian cả trăm năm nó vẫn là ở trong cái trạng thái đó. Và khi mà cái người mà ngồi cái thiền đó, cái Nhị thiền đó mà còn cảm thấy đói, thì chưa phải đúng thiền. Bởi vì cảm thấy đói, tức là còn trở về cái trạng thái của dục thì chưa phải là đúng cái thiền của Phật.

Chính người ta nhập Sơ thiền, mà trong khi mà người ta nhập Sơ thiền, người ta ly dục, ly ác pháp, thì người ta không thấy cái trạng thái đói. Cái trạng thái ly dục, ly ác pháp nó là cái trạng thái hỷ lạc, nó sanh ra hỷ lạc. Cái hỷ lạc đó nó làm cho chúng ta không có cảm thấy đói, dù cái người đó nhập Sơ thiền họ vẫn không thấy đói.

Cho nên nói chung chúng ta ngồi để hết vọng tưởng, chúng ta thấy tâm thanh thản, nhưng mà bụng chúng ta đói, chúng ta khát nước, chưa phải là chúng ta nhập Sơ thiền nữa. Bởi vì đó là những cái trạng thái kinh nghiệm của một người tu người ta thấy được cái điều đó. Chúng ta nhiều khi chúng ta thấy cái Sơ thiền quá dễ, chứ sự thật ra nó không phải dễ, nó rất khó.

Ngồi làm sao mà mình tới giờ mình ăn cơm mà mình không thấy đói. Mà một, hai ngày, ba, bốn ngày mà làm sao mà ra khỏi được cái điều này. Chỉ có sự ly dục, ly ác pháp mà cái trạng thái hỷ lạc nó giúp chúng ta không thấy cảm thấy đói. Bởi vì nó là hỷ lạc, nó làm cho chúng ta an lạc, cho nên nó không còn có cái cảm giác thọ làm cho chúng ta khổ sở vì cái đói, cái khát của chúng ta. Vậy thì mới thấy được cái thiền định của Phật vi diệu đến cái mức độ như vậy.

Kế đó thì chúng ta diệt tầm tứ được, nhập Nhị thiền, thì lúc bấy giờ chúng ta lại có một trạng thái định thật cụ thể và rõ ràng. Cho nên đức Phật gọi là "Định sanh hỷ lạc”, không phải còn do ly dục sanh hỷ lạc. Nhưng mà nhờ cái sức mà thanh tịnh của tâm định đầu tiên đó, chúng ta mới điều khiển được mà vào cái định sau này. Cho nên muốn xả được cái tưởng của chúng ta không phải là chuyện dễ đâu, khó rất khó.

(28:12) Chúng ta xả cái ý thức, chúng ta ngồi lại mà chúng ta niệm Phật hay hoặc là chúng ta nương vào hơi thở, hay hoặc là giữ cái tâm mình không vọng tưởng cũng thấy khó rồi. Mà vọng tưởng là cái dễ nhất, mà đến cái tưởng thức là cái trừu tượng rồi. Cho nên khó có ai mà biết cách để mà dừng được cái tưởng thức. Chỉ có cái tâm thanh tịnh của chúng ta mới dừng được cái tưởng thức, nó thuộc về vô hình rồi.

Còn cái ý thức của chúng ta nó thuộc về cái hữu hình, tức là thuộc về thân của chúng ta. Cho nên vì vậy mà chúng ta còn dùng cái thân để điều khiển nó, ức chế nó không niệm thiện, niệm ác. Còn đến cái tưởng thì chúng ta khó, rất khó dừng, chỉ còn có cái lực của cái tâm thanh tịnh của chúng ta thì điều khiển nó dừng được. Cho nên nó dừng được, thì chúng ta không mộng mị chiêm bao nữa, tức là chúng ta tỉnh thức hoàn toàn.

Do đó thì chúng ta cũng dùng cái lực của cái Sơ thiền, của cái tâm thanh tịnh đó mà chúng ta tịnh chỉ hơi thở của chúng ta. Do cái hơi thở tịnh chỉ thì chúng ta nhập được Tứ thiền.

8- TAM THIỀN - LÀM CHỦ ĐƯỢC CÁI BỆNH CỦA THÂN

(29:06) Do nhập được Tứ thiền thì như Thầy đã nói, khi mà nhập được Tam thiền thì chúng ta làm chủ được cái bệnh. Cái thân chúng ta bị đau cái chỗ này, nhức cái chỗ kia, thì chúng ta chỉ cần dùng cái pháp hướng ra lệnh.

Vì trong kinh Phật đã dạy thọ là vô thường, cũng như Phật dạy là thân, thọ, tâm và pháp là Tứ Niệm Xứ, bốn chỗ. Thân là vô thường, thọ vô thường, tâm là vô thường, pháp là vô thường. Thì thọ là một ở trong bốn cái chỗ đều là vô thường, nó vô thường, vô ngã, và khổ. Cho nên Phật xác định trên bốn cái chỗ này đều vô thường, vô ngã, nó không thật.

Cho nên khi chúng ta biết cái thọ là vô thường không có thật, do đó chúng ta dùng cái lực của tâm thanh tịnh mà chúng ta ra lệnh: "Thọ hãy rời khỏi nơi đây, vì thọ là vô thường không có ở đây mà đau nhức". Thì ngay đó chúng ta chỉ cần giữ cái sự yên lặng trong tâm của chúng ta, thì ngay lúc bây giờ cái thọ dần lui mất, không còn thấy đau đớn ở nơi chỗ thân của chúng ta đang bệnh. Như vậy chúng ta đã làm chủ được cái bệnh rất là cụ thể.

Cho nên thí dụ như một người đó bị bệnh nhức đầu, thì họ không phải ngồi thiền mà hết nhức đầu. Mà ngồi thiền hết nhức đầu là tại vì ngồi rồi chúng ta bị cảm thế này, thế khác. Chúng ta ngồi giữ cái thân tâm bất động của chúng ta, thì một lúc thì nó xuất hiện mồ hôi, thì nó toát, nó đẩy những cái chất nắng mưa hay nước trong người chúng ta ra, thì chúng ta thấy nó không còn cảm nữa.

Còn trái lại đây là cái thọ, như bây giờ chúng ta đau óc không phải vì cảm, thì chắc chắn ngồi thiền như các vị ngồi mà để trị bệnh, mà trị cái bệnh nhức đầu thì sẽ không bao giờ hết, nhức đầu theo không phải cảm. Nhưng mà cái người mà ngồi thiền mà, mà theo mà cái Tam thiền, mà nhập được Tam thiền đó, thì họ sẽ trị được hết cái đau.

Nhưng mà cái thân vô thường của họ, bệnh gì đó mà nó thành ra cái cảm giác đau đó, thì khi mà họ xuất thiền, thì trong lúc mà họ đã đẩy lui được cái cảm giác đó, mà họ ở trong cái trạng thái đó- thì cái trạng thái thiền định của Tam thiền, nó lần lượt nó phục hồi lại cái cơ thể đang bị bệnh. Cái nơi, cái chỗ đó, nó làm cho cái vết thương của cái nơi bị bệnh đó, bị rối loạn đó, nó phục hồi lại.

Nó làm cho cái người đó kéo dài cái thời gian đó ra hơn cái thời gian trước. Thí dụ như trước khi mình ngồi Tam thiền, mình nhập mới có một tiếng đồng hồ, mình xả ra mà nó chưa hết đau. Thì bấy đầu bây giờ đó mình mới nhập cái lần thứ hai, mình ngồi hai tiếng đồng hồ,mình xả ra nó hết đau, tức là nó đã phục hồi rồi. Nó nhờ cái sức thiền định nó phục hồi lại cái cơ thể đang bị rối loạn đó.

Nếu mà hai giờ chưa hết, chúng ta sẽ nhập một lần thứ ba nữa, là ba giờ hay là bốn giờ, chúng ta kéo dài cái thời gian ra. Và cái thời gian mà ở trong cái loại định đó nó sẽ phục hồi lại cái cơ thể, nó làm cho cái cơ thể không còn bị rối loạn đau khổ nữa. Cho nên cái bệnh nó sẽ dứt, nó không còn có nữa.

(32:12) Đó là cái lối mà chúng ta dùng cái pháp để trị bệnh, gọi là lấy pháp trị bệnh chứ không lấy thuốc trị bệnh.

Cho nên khi mà người tu thiền của đạo Phật, chúng ta có pháp để trị bệnh. Và nhân quả chúng ta đã sống ở trong thiện pháp, ly ác pháp, cho nên nhân quả chúng ta rất thiện, vì vậy mà chúng ta chuyển rất dễ. Còn chúng ta đang sống trong ác pháp mà chúng ta chuyển cái nghiệp quả khổ chúng ta rất khó, không thể nào chuyển được. Và vì vậy mà cái tâm chưa thanh tịnh, thì chúng ta không thể nhập Tam thiền được.

Bởi vì Tam thiền nó có cái sức của nó để làm chủ được cái thọ, cái cảm thọ của chúng ta, cái đau đớn của chúng ta, cái khổ sở về cái bệnh đau của chúng ta. Cho nên vì vậy mà khi mà chúng ta thực hiện được cái Tam thiền thì chúng ta đẩy lui được những cái bệnh tật ở trong thân của chúng ta, cho nên làm chủ được bệnh. Sanh, già và bệnh thì chúng ta làm chủ được cái bệnh, do cái sức Tam thiền nó sẽ làm chủ được cái đó.

9- TỨ THIỀN - LÀM CHỦ SỰ SỐNG CHẾT

(33:06) Bây giờ chúng ta nhập cái Tứ thiền thì hơi thở tịnh chỉ, thì chúng ta làm chủ được cái sự chết của chúng ta. Cho nên khi mà hơi thở ngưng mà chúng ta phục hồi lại cái hơi thở, nó thở trở lại được, thì đó là chúng ta đã làm chủ được sự sống chết.

Muốn chết thì chúng ta tịnh chỉ hơi thở, hơi thở ngưng, tức là, coi như là cái thân của chúng ta chết. Và bây giờ chúng ta muốn sống lại, thì chúng ta điều khiển bằng cái pháp lệnh của chúng ta, thì cái hơi thở bắt đầu thở trở lại và thở lại bình thường. Rồi chúng ta sống như mọi người, nó phục hồi lại sự sống của chúng ta, nó hoạt động lại, cơ thể chúng ta hoạt động lại như người bình thường, không có gì khó khăn cả.

Đó là bốn cái loại thiền của Phật để giúp đỡ cho chúng ta như vậy, mà làm được những chuyện này không phải là Thần lực sao? Nếu không có đủ một cái Đạo lực, Thần lực như vậy thì làm sao làm chủ được nó. Cũng như bây giờ quý vị muốn chết, quý vị nín thở được không? Không bao giờ được, rất khó, không thể nào mà chúng ta nín thở mà…​

Có bao giờ chúng ta nghe một người nào tự tử mà người đó ngồi lại nín thở rồi chết không, không có đâu. Họ phải tự tử nhảy xuống sông, nhờ nước mà họ thở không được, họ mới nghẹt mà họ chịu chết. Hoặc là họ dùng cái thòng lọng, họ đưa cổ họ vào họ siết, để cho họ thở không được, họ mới chết. Chứ còn không ai mà ngồi tự nhiên như vầy mà nín thở mà chết được.

Nhưng một cái người tu thiền của đạo Phật, thì người ta ngồi tự nhiên, người ta truyền lệnh được cái hơi thở nó tịnh chỉ, nó ngưng, nó không thở. Cho nên người ta bỏ cái thân của người ta một cách dễ dàng, không để cho nó đau khổ.

Thí dụ như bây giờ cơ thể của Thầy già yếu rồi, Thầy thấy nó không còn sử dụng được nữa, cho nên Thầy cần phải bỏ. Vì vậy mà Thầy cần ngồi lại, Thầy ra lệnh, Thầy bảo: "Hơi thở tịnh chỉ, hãy bỏ cái thân này đi, vì cằn cỗi rồi không có xài được nữa, như một cái chiếc xe cũ không đi được nữa, thôi bỏ đi".

Thì Thầy chỉ ra lệnh, rồi Thầy ngồi yên lặng một chút xíu thì cái hơi thở tịnh chỉ, thì lúc bây giờ Thầy bỏ luôn cái thân. Và những người thân của Thầy sẽ đem thiêu đốt, hoặc là đem tẩm liệm trong một cái quan tài, rồi đem đào một cái lỗ, đem chôn nó, thì đó là Thầy đã hoại diệt, bỏ cái thân của mình. Và lúc bây giờ Thầy còn cái gì?

Nếu một người mà có cái Đạo lực như vậy thì họ phải giữ cái thức, chứ họ không có để tan hoại cái thức của họ. Cho nên khi đó, họ chỉ dùng cái pháp hướng của họ, tức là cái Đạo lực của họ, họ truyền lệnh: "Cái thức này phải tiếp tục trên con đường tái sanh để làm việc Phật pháp, lợi ích cho chúng sanh, vì hiện giờ chưa có người làm tròn cái nhiệm vụ này, thì cái thức này phải đi làm tròn cái phận sự này".

Khi mà truyền lệnh, thì lúc bây giờ cái vị mà truyền lệnh cho mình tiếp tục cái sự tái sanh đó, thì cái vị đó họ dùng cái Thiên Nhãn Minh, họ quan sát cái nơi nào đó để mà cho cái thức này đi trở về đó tái sanh. Thì họ tìm ngay cái chỗ, cái duyên nào mà hợp nhất, là cha mẹ của cái kiếp tới đó, thì họ đi vào cái chỗ đó mà họ tái sanh.

(36:09) Cho nên nó không phải do nghiệp lực thúc đẩy, mà do cái Đạo lực, cái Thần lực của họ, đưa cái thức của họ vào cái nơi tái sanh đó, chứ không để cho nó mất. Cho nên vì vậy coi như là họ giữ được cái thức không bị tan hoại theo bốn cái uẩn kia, coi như là cái uẩn thức họ giữ.

Cũng như một người mà thân định trên tâm, tâm định trên thân, thì cái gì họ còn điều khiển được Tam Minh? Thì chính là cái Thức uẩn của họ. Cho đức Phật gọi là "hướng tâm đến Tam Minh". Khi mà thân định và tâm định rồi, thì hoàn toàn là nó không còn hoạt động nữa. Thì cái cuối cùng mà còn thì nó còn cái hành uẩn và cái thức uẩn.

Cho nên vì vậy nó mới nhờ những cái lệnh, tức là cái Thần lực của thiền định đó, mà điều khiển để đưa cái tâm chúng ta trở về Túc Mạng Minh, hay là Thiên Nhãn Minh, hay Lậu Tận Minh. Nó giúp cho cái tâm của chúng ta hướng về đó để mà thấu rõ nhiều đời, nhiều kiếp. Để mà cái không gian không trải dài, họ muốn thấy, muốn xem một chúng sanh nào đó ở đâu, họ đều thấy biết. Và tâm niệm của chúng sanh như thế nào, họ đều rõ ràng.

Do cái chỗ mà hướng dẫn Tam Minh như vậy, cho nên cái thức họ phải giữ. Vì vậy mà họ muốn phục hồi lại sự sống, thì đương nhiên là cái thân sống lại. Họ không muốn phục hồi sự sống, thì họ phải đưa cái thức họ đi tái sanh luân hồi kế tiếp một kiếp nữa.

Vì Phật pháp như thế nào, vì cái duyên chúng sanh như thế nào mà họ chưa xong, cho nên họ tiếp tục tái sanh để họ tiếp tục độ chúng sanh. Còn nếu họ thấy duyên họ hết thì họ diệt luôn cái thức của họ, họ luôn luôn ở trong cái trạng thái hoàn toàn là yên lặng của họ.

10- THƯỜNG KIẾN, ĐOẠN KIẾN VÀ VÔ NGÃ

(37:52) Mà cái trạng thái đó nói có, hoặc nói không, không được. Vì nói có là chấp thường, mà nói không thì nó không đúng, là chấp đoạn. Cho nên đối với đạo Phật mà còn chấp thường, chấp đoạn thì không được. Cho nên đạo Phật gọi là đạo vô ngã.

Nếu mà nói thường, nó còn thì cái gì còn, mà nói là Niết Bàn còn thì chúng ta là đã chấp thường, mà như vậy là không phù hợp với đạo Phật, vì đạo Phật vô ngã, đâu thể nói được. Nhưng cái mục đích của đạo Phật là chúng ta nhập được các thiền định đó, giúp cho chúng ta giải thoát được cái đời của con người rồi, thì cái còn, cái mất đó chúng ta không cần thiết nữa. Mục đích chúng ta đã đạt được rồi, chúng ta không quan trọng về cái còn mất.

Nhưng ở đây chúng ta phải nói thiền định của Phật, mà người ta gọi là Thiền Tiểu Thừa, Thiền Phàm Phu, mà đến cái lực chúng ta không ngờ được, đến cái sức thần lực mà không ngờ được.

Ở đây Thầy không nói cái chuyện mà ngồi thiền nhập bảy, tám ngày, một năm, hai năm. Đối với cái chuyện đó thì nó không thành vấn đề. Mà cái chuyện mà chúng ta đã làm chủ được cái bệnh, làm chủ được cái tuổi già, làm chủ được cái đời sống của chúng ta và làm chủ được cái chết của chúng ta. Thì cái vấn đề này là cái vấn đề rất là quan trọng cho cái đời người.

Nhưng khi mà chúng ta đã làm chủ được bốn cái nỗi khổ này rồi, thì ai có hỏi chúng ta: "Còn có cái gì không? Còn có Phật tánh không?" Chúng ta từ chối liền.

"Nếu tôi nói còn có Phật tánh, tức là tôi bị chấp thường, thành ra nó sai, nó không đúng cái nghĩa của đạo Phật. Vì đạo Phật là đạo vô ngã, tại sao lại còn có cái ngã, nó không có đúng. Mà nếu chấp đoạn, thì chúng tôi lại mất hết, như vậy chúng tôi tu để làm gì đây? Giải thoát thôi sao? Cho nên nó không đúng".

Vì vậy mà chỗ này là để cho quý vị có được cái trí vô hạn, thì quý vị khỏi cần hỏi mà quý vị sẽ biết nó rất rõ. Còn quý vị hỏi với cái trí hữu hạn của quý vị mà hỏi để hiểu nó, thì đạo Phật sẽ trở thành đoạn và hoặc thường mà thôi. Nếu thường thì cũng không đúng nghĩa, mà đoạn thì cũng không đúng nghĩa.

Cho nên ở đây chúng ta chỉ biết được bốn cái loại thiền này mới có thể giúp ta có đủ thần lực để làm chủ được những cái điều mà cái đời người chúng ta mang. Trong cái con người chúng ta, mỗi người đều mang bốn cái khổ và bây giờ con đường thiền này đã giúp chúng ta.

(40:14) Cho nên chúng ta nghe nói giới luật, nghe nói ba bảy Phẩm trợ đạo, rồi là Bát Chánh Đạo, tám cái nẻo tu tập, cho đến cái Tứ Chánh Cần, Tứ Niệm Xứ, Tứ Như Ý Túc, tất cả mọi cái đều là nhằm để chúng ta thực hiện bốn cái thiền này, chứ không phải là gì cả. Ngay cả giới luật của Phật để mà chúng ta thực hiện sống một đời sống phạm hạnh, cũng nhắm vào bốn cái loại thiền này, chứ không phải vì là cái chỗ khác mà chúng ta thực hiện.

Cho nên cuối cùng thì chúng ta vẫn thấy mình sống giới luật, mình tu các cái loại thiền định gì, tất cả mọi cái nó cũng dồn về đến khi mà chúng ta nhập được cái Sơ thiền. Rồi chúng ta thực hiện cuối cùng thì, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ Thiền, thì cuối cùng thì chúng ta cũng từ đó mà chúng ta làm chủ được cái tuổi già, rồi làm chủ được cái bệnh tật, rồi làm chủ được cái sống chết của chúng ta.

Thì như vậy rõ ràng là những cái điều kiện mà các pháp mà Phật dạy chúng ta, đều nhằm vào cái chỗ giải quyết cho sự đau khổ của chính mình. Nhưng chúng ta đòi hỏi hiểu cái sâu xa hơn: “có hay là không có” thì chúng ta đã đòi hỏi một cái quá sức hiểu biết của mình.

Mình hãy nỗ lực mình tu tới đó và đồng thời sẽ theo Thầy nghĩ, như quý Phật tử chúng ta không cần hiểu cái đó. Mà chúng ta chỉ cần làm sao mà giải thoát được bốn cái nỗi khổ, mà mỗi con người mang cái thân này đều phải khắc khoải ở trong lòng của mình, thì cái hay nhất là chúng ta phải giải quyết nó thôi. Giải quyết rồi thì chúng ta sẽ biết được những cái gì mà chúng ta cần biết. Vì lúc bấy giờ chúng ta không còn nằm ở trong cái trí hữu hạn nữa, mà chúng ta đã có một cái trí vô hạn, từ đó mà chúng ta sẽ hiểu về phía sau của nó.

Cũng như có người nói: "Có đời sống sau khi chết", thì cái đó là sai. Bởi vì chúng ta làm sao có cái trí mà hiểu biết, rằng cái phía sau cái sự chết của chúng ta lại có cái đời sống. Nếu mà chúng ta không có đủ cái trí đó, thì chúng ta phải tưởng mà hiểu mà thôi.

(42:13) Cho nên người ta nghĩ rằng: "Có đời sống sau khi chết, tức là phải có linh hồn". Mà nếu có linh hồn, thì tức là có một vật thường hằng, mà một vật thường hằng thì như vậy là đạo Phật lại tuyên bố là đạo vô ngã. Như vậy là cái thuyết đó sẽ là phản lại cái giáo lý, cái đạo Phật mất đi rồi, phải không? Thành ra cái đạo Phật, nếu cái kia đúng, thì đạo Phật sai, nếu cái kia mà có linh hồn thì đạo Phật là sai, mà nếu mà đạo Phật mà đúng thì cái kia phải là sai.

Cho nên ở đây chúng ta thấy đạo Phật mục đích là dạy cho chúng ta thoát cái khổ, thì đó là đúng. Nhưng mà nó nói về siêu hình thì điều kiện đức Phật đã xác định là nếu mà có những cái siêu hình như vậy, có cái linh hồn như vậy thì đạo Phật không đúng rồi. Mà không đúng thì tức là chúng ta sẽ không giải quyết được bốn nỗi khổ của chúng ta. Còn đằng này chúng ta giải quyết được bốn nỗi khổ, thì chắc chắn là cái kia phải sai, không đúng rồi.

Cho nên Thầy có nhắc cho quý Phật tử, một hôm đức Phật trong cái họp chúng đó, thì đức Phật lấy một ít đất bỏ trong móng tay của mình rồi mới nói: "Nếu mà còn một chút xíu thức của chúng ta như đất trong móng tay thì con người không thể giải thoát…​" Mà con người không thể giải thoát thì đạo Phật ra đời để làm gì? Cho nên do đó đức Phật mới nói : "thì Đạo ta cũng không ra đời".

Cho nên vì vậy mà đức Phật đã thấy rất rõ là con người giải thoát được, vì vậy mà đạo Phật nên ra đời. Ra đời để giúp cho con người giải thoát, chứ không phải giúp cho con người đi tìm cái linh hồn, hoặc là đi tìm cái thế giới siêu hình.

11- NGOÀI TỨ THÁNH ĐỊNH KHÔNG CÓ PHÁP NÀO LÀM CHỦ ĐƯỢC SANH, GIÀ, BỆNH, CHẾT VÀ ĐẠT ĐƯỢC TAM MINH

(43:42) Như vậy là quý Phật tử hôm nay đã được nghe Thầy nói về bốn cái loại Thiền mà từ lâu người ta đã xem nó là cái thứ ‘thiền đồ bỏ’. Cho nên nhiều người tu thiền mà bây giờ không biết là tu thiền để mà giải thoát mình như thế nào, người ta chưa biết cách tu như thế nào hết.

Hôm nay được nghe Thầy nói về bốn cái thiền này, kể như là quý Phật tử là người đầu tiên được nghe cái điều kiện mà Thầy đã nói. Chứ trước kia thì chúng ta cũng nghe trong kinh điển, cũng đọc, cũng thấy nói Phật nói:

"Ly dục, ly ác pháp nhập Sơ thiền, do ly dục sanh hỷ lạc có tầm, có tứ, có hỷ, có lạc có nhất tâm.

Rồi diệt tầm tứ nhập Nhị thiền, định sanh hỷ lạc.

Nhập Tam thiền thì ly hỷ, trú xả nhập Tam thiền.

Xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh rồi nhập Tứ thiền".

Đó là những cái danh từ để chỉ cho chúng ta biết đó là các cái loại thiền là như vậy, nhưng mà chưa nói cách thức để mà chúng ta tu tập.

Hôm nay được nghe Thầy giảng dạy về cách thức chúng ta tu tập. Như muốn Sơ thiền thì chúng ta phải thực tập những cái định nào, những cái loại nào để mà chúng ta nhập được cái Sơ thiền. Và giới luật phải thực hiện như thế nào, đạo đức con người phải tu tập như thế nào cho đúng những cái giới luật của đức Phật, tức là đúng những cái đạo đức mà đức Phật đã dạy.

Rồi đến cái Nhị thiền thì phải dùng cái lực định của tâm thanh tịnh mình như thế nào để điều khiển. Thì hôm nay Thầy chỉ nói dùng Như Lý Tác Ý hay là pháp hướng, chứ chưa có chỉ dạy cặn kẽ cái pháp hành đó. Là khi chúng ta ngồi, chúng ta phải hướng cách nào và chúng ta nhắc như thế nào để cho nó thực hiện được cái điều kiện đó. Thì đây là nó về chuyên môn, về cái sự thực tập, nó không phải còn lý thuyết, ở đây cho nên Thầy không nói.

Cái đó là để dẫn dắt người ta tu, còn bây giờ mình nói để cho mình hiểu được cái thiền này, nó phải có những cái phương pháp, cách thức nó như vậy. Nhưng mà về cái thực hành, thì nó đi vào những cái hành động chi li. Người đó phải làm cái gì trước và hướng cái nào trước, hướng cái nào sau để cho chúng ta thực hiện được cái định đó, cái thiền đó. Cho nên đó là cái chuyên môn rồi.

Còn bây giờ chúng ta đại khái, chúng ta hiểu là chúng ta phải dùng pháp hướng, dùng Như Lý Tác Ý như thế nào để mà chúng ta tịnh chỉ nó mà thôi. Do tịnh chỉ được thì chúng ta nhập được cái thiền định đó, chứ không phải chúng ta cứ ngồi ì trong đó để mà giữ cái tâm mình không vọng tưởng, rồi nó nhập vào đó được đâu, không phải đâu. Không tự nhiên mà nhập được, nó phải có một cái sức lực nào mà Thầy gọi là Thần lực, cái sức lực đó gọi là Thần lực.

(46:17) Do vì vậy mà chúng ta mới tu tập mới làm chủ được, chứ nó không đơn giản như chúng ta ngồi mà tu thiền. Rồi ngồi đó tưởng xuất hồn, hay hoặc ngồi lại tưởng như mấy người mà dùng khí công, nó cũng dùng sức tưởng của họ đó. Cho nên có nhiều cái trường hợp mà người ta dùng khí công người ta trị bệnh, thì để cho mình cảm thấy như hết bệnh. Nhưng cái bệnh của chúng ta là do nhân quả làm sao ai trị hết được, không có Thần lực nào mà trị hết cái nhân quả, chỉ có nhân quả trị nhân quả là hết.

Đó là những cái điều mà hôm nay Thầy giảng cho quý vị biết là chúng ta tạo cái thân nghiệp bệnh là do cái nhân quả hành động của chúng ta, thì chỉ có nhân quả mà chúng ta thực hiện đúng, thì nó chuyển được cái bệnh của chúng ta thoát, chứ còn không có một cái gì mà có thể mà làm thay đổi được cái nhân quả đó được. Chỉ có nhân quả mới chuyển được nhân quả mà thôi.

Thiền định chúng ta cũng từ ở trong cái thiền định mà ly dục, ly ác pháp, tức là thiền định thiện pháp, nó mới chuyển ra. Chứ còn nếu mà chúng ta ở trong ác pháp, mà chúng ta mà dùng thiền định chuyển, thì không bao giờ chuyển hết được, không bao giờ chuyển được đâu, đó là một cái thực tế và cụ thể.

Bởi vì cái luật nhân quả là luật công bằng và công lý nhất. Nó là một cái đạo luật, đạo đức của con người ở trên hành tinh này, không thể mà chúng ta trốn chạy được nó khi mà chúng ta làm điều ác. Cho nên chúng ta tin sâu cái nhân quả chừng nào, thì cuộc đời chúng ta hạnh phúc chừng nấy, vì chúng ta sẽ làm thiện không làm ác.

Còn chúng ta không tin nó, thì chúng ta tự làm thì chúng ta phải thọ lấy những cái quả khổ từ làm những hành động ác. Thì cái quả khổ đó là do cái chỗ hành động ác của chúng ta, sẽ không ai ban bố cho chúng ta, không phải ngẫu nhiên nó đem đến cái sự khổ cho chúng ta đâu. Mà chính chúng ta đã làm mà chúng ta phải gặt lấy.

Và người mà nhập được thiền định cũng phải đi từ cái đạo đức nhân quả, để nó chuyển được cái nhân quả của chúng ta mới nhập được thiền định. Cho nên nó gọi là ly dục, ly ác pháp mới nhập được định, chứ đâu phải là khi không mà chúng ta nhập được định. Cho nên chúng ta cứ ngồi ì ra mà chúng ta giữ cho mình nhập được định, thì làm sao mà định được. Vì cái nhân quả là cái thân của chúng ta, đâu phải là chuyện dễ, khó, rất là khó khăn chứ đâu phải dễ.

(48:13) Cho nên chúng ta phải thực hiện từ cái đạo đức nhân quả, thì tuần tự chúng ta sẽ nhập các định, chúng ta sẽ làm chủ được bốn cái đau khổ của kiếp người. Chứ không phải ngoài cái riêng cái pháp này mà còn có những pháp nào, mà làm chủ được bốn cái sự đau khổ của kiếp người được. Thầy nói ngoài bốn cái pháp thiền định này, không có pháp nào mà làm chủ được cái sự đau khổ của kiếp người.

Mà ngoài bốn cái thiền định này, thì không có ai mà đạt được Tam Minh. Nghĩa là cái người nào mà không nhập Tứ thiền-‘thân định trên tâm mà tâm định trên thân’, thì người đó không bao giờ người đó sẽ là hướng tâm đến Tam Minh được. Mà người nào mà nhập được Tứ thiền- ‘tâm định trên thân, mà thân định trên tâm’, thì người này sẽ thực hiện được Tam Minh. Nghĩa là cái người nhập Tứ thiền là người sẽ thực hiện được Tam Minh.

Còn người nào mà không nhập Tứ thiền mà nói gọi là thực hiện được Tam Minh, thì chỉ còn nói vọng ngữ mà thôi. Hoặc là một vài cái sự hiểu biết trong cái không gian và cái thời gian ngắn, gần, do cái tưởng thức của chúng ta giao cảm mà biết trong những cái chuyện đó, chứ nó là tà thiền, tà định. Cho nên nó có những cái thần thông, nhưng cái thần thông đó chỉ một thời gian sẽ mất đi.

Người đó ở trên núi tu hành một thời gian, hoặc là luyện tập đúng cách thì cái tưởng nó hoạt động, chúng ta biết chuyện quá khứ vị lai. Nhưng mà quá khứ vị lai rất ngắn, trong cái thời gian ngắn biết những chuyện mà xảy ra của gia đình của chúng ta hồi hôm qua, hồi hôm kia, hoặc một tháng, hai tháng, hoặc một năm, hai năm, hoặc hai, ba chục năm cũng có thể nói ra được.

Nhưng mà một đời, hai đời, ba đời thì không thể biết được. Bởi vì một đời, hai đời thì nó không thể nào cái tưởng, nó thu ngắn được cái thời gian đó trở lại được. Mà trong một đời chúng ta, nghĩa là lúc nhỏ chúng ta té, chúng ta như thế nào, thì cái người mà có cái tưởng thông đó, cái tha tưởng thông đó, họ sẽ biết được cái sự kiện xảy ra chúng ta hồi còn bé như thế nào, họ nói được.

(50:04) Nhưng mà cái đời nữa thì họ không biết, cái đời trước nữa thì họ không biết. Cái tưởng thông nó không có thể mà vượt cái thời gian quá khứ dài đó được, đó là có thần thông, nhưng mà thần thông đó thuộc về loại Mật tông bùa chú. Thuộc về loại người dùng thiền tưởng mà có thần thông đó, cho nên nó không phải là Chánh đạo.

Còn cái thần thông của đạo Phật do ly dục, ly ác pháp, cho nên cái tâm mà hết ham muốn rồi, thì cái thần thông đó hoàn toàn là không hại con người. Còn cái tâm mà còn ham muốn mà có thần thông như là những bậc mà A La Hán thì thế giới này họ là bá chủ hoàn toàn, bởi cái tâm dục họ còn.

Cho nên họ khi mà có thần thông như vậy, họ sẽ sử dụng thần thông đó, mà một cái nước nào mà không đầu hàng họ, họ tiêu diệt nước đó liền, họ giết sạch con người ở đó, để họ làm bá chủ ở đó. Thì đủ biết rằng cái tâm tham dục của chúng ta nguy hiểm lắm, khi mà nó đã có thần thông siêu việt đó.

Cho nên một cái người tu mà theo đạo Phật, nó có thần thông siêu việt đó, thì tức là cái tâm dục họ phải hết. Mà tâm dục họ hết, họ còn muốn làm bá chủ hoàn cầu không? Đâu còn. Nếu mà còn thì làm sao mà gọi là tâm siêu việt, họ chỉ còn có một tâm từ bi rất là thương xót chúng sanh.

Vì mọi con người đang sanh ra mang trong người bốn cái nỗi khổ, làm sao cho mọi người thoát ra nỗi khổ này? Đó là cái tâm niệm của một người mà tu đúng theo đạo Phật, lòng thương yêu của họ đối với tất cả mọi người đang khổ đau. Họ giải thoát rồi, họ sung sướng rồi, nhưng họ rất thương xót chúng sanh, mọi con người ở trên hành tinh này đang đau khổ.

12- PHẬT DI LẶC RA ĐỜI LÀ ÂM MƯU CỦA NGOẠI ĐẠO NHẰM TIÊU DIỆT PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY

(51:35) Cho nên Thầy suy ngẫm, cho nên vì vậy rồi tìm cách thức nào để làm cho mọi người thoát khổ. Chỉ duy nhất có đạo đức của đạo Phật- không làm khổ mình, khổ người. Bây giờ làm sao phổ biến được cái đạo đức này cho mọi người, đến với mọi người để giúp họ thoát khổ. Họ sống hạnh phúc trong gia đình của họ, anh em, cha mẹ, dòng họ, vợ chồng, con cái hòa thuận không bao giờ có tiếng to làm đau khổ với nhau. Thì đó là cái đạo đức của đạo Phật để giúp cho mọi mọi gia đình hạnh phúc, an vui.

Đạo đức của đạo Phật giúp cho xã hội, con người không chà đạp lên nhau vì sự sống. Biết thương yêu nhau, giúp đỡ nhau mà không giận dữ, không chửi mắng nhau, thì cái đạo Phật sẽ giúp được xã hội chúng ta. Con người đối xử con người với tình thương, mà không vì một ích kỷ cá nhân nào, thì cái đạo đức của đạo Phật thực tế và cụ thể sẽ giúp được con người.

Nhưng hiện giờ như chúng ta biết cái đạo đức đó nó chưa có, nó chưa có thành hình được, nó chưa có thành sách vở được. Lấy đâu mà quý vị đọc, lấy đâu quý vị nghiên cứu để thực hiện những hành động đó, đối xử với nhau, đem lại hạnh phúc cho nhau, không làm khổ nhau.

Thấy được, biết được, bây giờ làm sao? Chắc chắn là như Thầy dù là tuổi già sức yếu nhưng phải cố gắng, cố gắng hết mình, vì những sự đau khổ của con người. Cho nên cách đây mười lăm, mười sáu năm, thì khi ra thất rồi, tu xong Thầy ra thất. Rồi thời gian Thầy nghĩ đến một cái khu đất để thành lập một cái trung tâm an dưỡng, để giúp cho mọi người về đó được nghỉ ngơi và được học một cái đạo đức mà Thầy đã thấy, đem lại lợi ích cho muôn người, đem lại hạnh phúc cho mọi người, mong rằng cái sự thực hiện đó thành tựu.

(54:04) Nhưng nhìn trước, nhìn sau, kêu gọi mọi người giúp đỡ mình thì nhân sự chưa đủ. Thầy đào tạo một số người, đem hết sức lực mình mong cho họ thực hiện được đạo giải thoát như Thầy. Tâm đầy đủ những đức hạnh để cùng Thầy giúp cho mọi người học được những đạo đức.

Nhưng họ đã lạc lầm trong những cái pháp môn tu. Dạy một điều họ làm một ngả, vẫn nhắc đi, nhắc lại nhiều, họ chẳng nghe. Nhiều khi phải đuổi họ, phải nói nặng họ để rồi họ buồn, họ giận, họ bỏ, họ đi. Họ vào chùa khác ăn ngày ba bữa sướng hơn, ăn ngày một bữa cực khổ. Sống gì mà không cho nói chuyện, buồn gần chết, tu hành vậy sao nổi.

Thật sự ra Thầy tha thiết mong cho họ chỉ sống cần năm tháng, ba tháng, sáu tháng, một năm, mà sống cho đúng cái hạnh của người tu sĩ. Để rồi cùng Thầy đem cái sức lực này, mà đem cái đạo đức đó mà giúp cho mọi người thực hiện được cái sự nguồn vui cho họ.

Thế mà người ta cứ mãi chịu ảnh hưởng của những cái giáo pháp, mà người ta đè nén đạo Phật xuống, người ta cho rằng: "Cái giáo pháp của đạo Phật là Tiểu thừa, là ngoại đạo, là Phàm Phu Thiền", như hồi nãy Thầy đã nói. Cái danh từ đó hiện bây giờ ràng ràng là quý vị đọc ở trong kinh sách của Phật có hẳn hoi đàng hoàng. Người ta đã gán cho nó những cái danh từ quá thấp hèn.

Thầy xin nhắc lại, người ta còn xây dựng một đức Phật ở vị lai để thay thế Đức Bổn Sư Thích Ca. Lật đổ cái giáo pháp của đức Phật bằng một cái giáo pháp khác và bằng một giáo chủ khác đó là đức Phật Di Lặc.

Vừa rồi Thầy có nghe là một số người đem truyền cái đạo Di Lặc, chứ không phải không có. Họ lén lút, họ đưa cái đạo đó vào, họ tuyên bố rằng: "Thời mạt pháp và tận thế nó sắp đến rồi, đức Phật Di Lặc sẽ ra đời lập một cái đời mới, Phật giáo mới, không còn cũ nữa".

(56:07) Như vậy là có mục đích là cách mạng Phật giáo, thay thế đức giáo chủ là đức Phật Thích Ca. Người đã đưa ra một cái giáo pháp mà từ xưa đến giờ các tôn giáo không có cái đạo đức đó, không có giáo pháp mà làm chủ như Thầy đã giảng về thiền định như quý vị đã nghe.

Người ta còn muốn thay thế đức Phật Thích Ca, dìm mất cái đạo Phật Thích Ca và đồng thời kinh sách Nguyên Thủy. Khi mà đức Phật Di Lặc, nghĩa là có một vị nào thực hiện có thần thông, họ sẽ đưa cái vị đó lên làm đức Phật Di Lặc. Từ đó chúng ta đắm mình ở trong, say mê cái thần thông đó và quên đi tất cả các giáo pháp của đức Phật Thích Ca.

Từ đó người ta cho rằng giáo pháp đó là Tiểu thừa, là ngoại đạo. Chúng ta không có đọc, đốt phá sạch nó đi thì chúng ta chỉ còn thấy mờ mịt trong cái thần thông của cái vị giáo chủ gọi là Di Lặc đó. Thì lúc bấy giờ chúng ta xem như đức Phật Thích Ca là lỗi thời, không có hợp với thời đại, cho nên cái đạo Phật sẽ mất gốc ở trên thế gian này. Và từ đó cái đạo đức của đạo Phật không có phải như Thầy đã nhắc nhở quý Phật tử như ngày hôm nay.

Cho nên chúng ta thấy rằng ngoại đạo Bà La Môn giáo ngày xưa đã có cái mục đích đó rõ ràng, vì vậy kinh sách Đại thừa còn ghi lại hẳn hoi đàng hoàng những cái điều đó. Nếu ai đọc chúng ta sẽ thấy rất rõ ràng và rất đau lòng cho Phật giáo.

Từ đó chúng ta biết rằng 2542 năm cho đến giờ biết bao nhiêu người đã tin Phật, đã theo Phật, đã Quy Y Tam Bảo, mà ai là người đã thực hiện được con đường giải thoát mà đạo Phật đã giải thoát. Một cái giáo pháp rất là rõ ràng, cụ thể, pháp hành cụ thể rất rõ ràng, giúp cho chúng ta bước vào tu là có giải thoát thật sự.

Vì chúng ta biết đời khổ, thì chúng ta đừng đắm mê cái dục lạc của thế gian này. Ăn, uống, ngủ nghỉ, quần áo, trang điểm, nhà cửa đẹp sang đều đưa chúng ta đi vào cái khổ đau, chứ không phải là đưa chúng ta thoát ra khổ đau. Nhưng sanh lên làm người chúng ta phải hoạt động, phải làm. Làm dư giả giúp đỡ cho những người khác, an ủi những sự đau khổ bất hạnh của những con người do nhân quả nặng, quá nặng.

(58:16) Cho nên ở đây chúng ta phải thấy được cái đúng, cái sai. Và Phật giáo sẽ bị mất đi nếu hôm nay không có tiếng nói của Thầy, không có lời của Thầy chỉ vạch rõ một cuộc cách mạng của Phật giáo sắp đến. Khi người ta tuyên bố rằng: "Tận thế, đời sẽ thay đổi và có một đức Phật Di Lặc ra đời làm lại Phật giáo".

Từ đó chúng ta sẽ còn có kinh sách Đại thừa, mà kinh sách Nguyên thủy sẽ không còn có nữa. Lời Phật Thích Ca năm xưa bây giờ chúng ta không tìm lại được nữa. Người ta đã dự định tiêu diệt lâu lắm rồi nhưng vì không tiêu diệt nổi, cái nhân duyên của chúng sanh còn có duyên với Phật pháp.

Cho đến cuối cùng cái thế kỷ này, may mắn Thầy đi từ cái giới luật của Phật mà trở lại, Thầy tìm thấy được cái đạo đức của đạo Phật giúp cho con người không làm khổ mình, khổ người. Thế mà bây giờ thì, cách đây mười mấy năm Thầy dự định xây dựng cái trung tâm an dưỡng từ thiện, nhưng không có người, đứng ra xin phép cũng không phải dễ. Chứ Thầy không nghĩ rằng phải xây cái chùa, xây cái hình ảnh của tôn giáo. Mà Thầy nghĩ rằng xây dựng những cái mái nhà nho nhỏ, gọn, để cho mọi người được nghỉ ngơi cái vùng khí hậu tốt ở nơi biển, như ở Phước Hải.

Khu đất ở đó Thầy có hai chục mẫu, đã mua ở đó để xây dựng cái trung tâm an dưỡng, để giúp cho mọi người, Phật tử, mọi người về được nghỉ. Thầy nuôi cơm ở đó, khỏi tốn hao, được tắm biển, được nghỉ ngơi khỏe khoắn trong một tuần, hoặc một tháng, hoặc hai tháng. Thầy sẵn sàng nuôi hết những cái điều sống đó cho Phật tử, để Phật tử được ở đó. Vừa nghe Thầy nói về đạo đức, giảng từ cái hành động đối xử nhau, để đem lại một cuộc hạnh phúc an vui cho kiếp sống của chúng ta quá khổ đau.

(01:00:03) Thế mà Thầy cố gắng hết sức mình cho đến bây giờ tuổi già, sức yếu mà chưa làm được. Thầy đã viết lại cái phương án đó để xin phép rất rõ ràng và cụ thể đến giờ này chưa thực hiện được. Nhưng cái hoài bão đó Thầy nghĩ rằng đệ tử của Thầy sẽ tiếp tục làm những cái điều này. Và để giúp cho con người trên hành tinh này, không riêng gì đất nước Việt Nam có một đạo đức tốt đẹp đó, mà cả mọi con người trên hành tinh này đều hưởng được cái đạo đức của đạo Phật.

Cho nên hôm nay quý Phật tử được duyên mà về nghe Thầy nói từ cái đạo đức của đạo Phật, cho đến thiền định của đạo Phật, thực tế và cụ thể, phải làm được như vậy. Nhưng tiếc vì không ai hiểu Thầy, không người tin tưởng Thầy cho nên sự làm việc rất là khó khăn.

Nhiều người ở trong Phật giáo thấy cái sai, tin tưởng nơi Thầy nói, nhưng cũng còn nghi ngờ chưa chắc Thầy đã là nhập được các định. Sự thật không phải nhập không được các định, nhưng không thể làm cái trò ảo thuật đó đối với quý Phật tử. Mà phải thực hiện được cái đạo đức cuộc sống của mình, thì nó mới thực tế, cụ thể.

Luôn luôn Thầy nghĩ rằng cuộc đời của Thầy, từ khi mà tu hành theo đạo Phật cho đến khi hoàn tất được tâm thanh tịnh của mình, Thầy không làm khổ một người nào hết. Luôn luôn sống tùy thuận, nhẫn nhục, bằng lòng mọi hoàn cảnh, mọi sự việc. Làm sao giúp được người giải thoát được như mình, đó là cái ao ước và nguyện vọng của Thầy nhất.

Nhưng đến giờ này Thầy chỉ nghĩ rằng, thầy Thông Vân khi về thăm Thầy cũng là có cái duyên với Phật tử ở Châu Đốc. Thầy về đây để mong đem lại những cái đạo đức, cái thiền định thật sự của đạo Phật đã bị chôn dập và vùi dập mất.

Người ta có bao giờ dạy chúng ta Tứ thiền bao giờ, người ta đâu có dạy chúng ta những đạo đức nhân quả, không làm khổ mình, khổ người bao giờ. Quý Phật tử đã từng đi nghe thuyết pháp, mà có bao giờ nghe được những cái đạo đức này đâu. Mà có bao giờ nghe được cái sự thiền định làm chủ như vậy đâu.

(01:02:05) Hôm nay quý vị đã có duyên, đã nghe được Thầy nói, những cái thiền định thật là thần lực, làm chủ được sự sống chết của mình, làm chủ được bệnh tật, khổ đau mình như vậy thì còn một cái pháp gì mà quý giá bằng. Chúng ta lấy vàng bạc, châu báu mà chất ngập cả Tam Thiên, Đại Thiên này, mà đổi cái pháp đó có đổi được không?

Quý vị có thấy được không, hàng vạn, hàng triệu người ở trên đất nước Việt Nam này, ai đã được nghe những cái lời dạy như ngày hôm nay mà quý vị được nghe?

Quý vị là những người có duyên phước rất lớn, được nghe chánh giáo pháp của đức Phật, mà ngày xưa đức Phật cũng do từ pháp môn này đã thực hiện được. Do đó khi thực hiện được giáo pháp này, đức Phật đã đảnh lễ, đã quỳ xuống đảnh lễ: "Ta hãy đánh lễ giáo pháp này là Thầy của ta, dạy ta đã giải thoát".

Cho nên cái bài kinh đó, rõ ràng là đức Phật đã ghi lại cái lòng tôn kính của đức Phật đối với cái pháp mà đức Phật đã tự tìm ra, đã giúp mình thoát ra cái kiếp làm người khổ đau.

Cho nên khi Ngài tịch, Ngài lấy giáo pháp đó mà truyền lại cho chúng ta và Ngài di chúc lại: "Các thầy Tỳ kheo hãy lấy giới luật và giáo pháp ta làm Thầy. Đừng lấy ai làm Thầy, đừng lấy ai làm chỗ nương, mà hãy lấy giáo pháp và giới luật làm chỗ nương tựa, làm Thầy mình".

Lời di chúc đó mà đến hôm nay lời đó vẫn còn mãi mãi. Thế mà chúng ta có giữ gìn được giới luật, có giữ gìn được cái giáo pháp đúng đó mà tu hành không? Hay là chúng ta đã tu theo pháp của ngoại đạo?

Hiện giờ quý vị, có nhiều Phật tử đã tu thiền, đã tu, đã nghe pháp rất nhiều, hành động của quý vị có nghe đúng những cái lời dạy của đức Phật không? Có đúng cái lời giáo pháp này không?

Nếu đúng tức là của Phật, mà nếu quý vị không đúng, tức là đã thành ra giáo pháp của ngoại đạo. Đã thay thế, đã che đậy tất cả những giáo pháp của Phật và tính sắp sửa lật đổ Phật Thích Ca.

(01:04:08) Một ngày nào đó trong chùa chúng ta còn thờ Phật đức Di Lặc, mà Đức Phật Thích Ca chỉ để ở hàng, coi như là chúng ta thờ một vị Phật như chúng ta thờ quan thánh Đế Quân, như bà Chúa Xứ, bà Chúa Tiên, Chúa Ngãi nào đó. Đó là sau này chúng ta sẽ làm cái bàn thờ rất nhỏ để một bên, chỗ thờ đức Phật Thích Ca. Coi như là chúng ta nhớ cái hình ảnh đó cũng như cái di tích vậy thôi, chứ còn không phải là đấng giáo chủ, đấng bậc Thầy của chúng ta.

Đó là ngày mai chúng ta sẽ thấy nó đưa như vậy đó, trong chùa chúng ta sẽ đốn Người. Thì không phải gì, tại vì quý Thầy lầm lạc, quý Thầy tưởng như vậy, rồi quý Thầy cũng đặt như vậy mà thôi. Rồi đời này qua đời khác thì nó quên mất đi đức Phật Thích Ca.

Nếu không có Thầy nhắc đi, nhắc lại cái chánh pháp để thực hiện được như vậy, cái đạo đức được như vậy thì ngày mai này đức Phật Thích Ca sẽ mất. Vì quý vị có nghe đức Phật Di Lặc chứ đâu phải không nghe, mà kinh sách Đại thừa quý vị có tụng đọc về cái tên Di Lặc này chứ đâu phải không. Đó là cách thức người ta đã sắp đặt, để người ta lật đổ Phật giáo đó.

Hôm nay Thầy tuyên bố một cách thẳng thắn như vậy, chứ không phải còn một cái gì nữa. Lẽ ra một tôn giáo chỉ có một đấng giáo chủ, không phải hai, ba đấng giáo chủ. Thì phải hiểu được như vậy là cái thâm ý của những ngoại đạo, người ta đã biến Phật giáo chúng ta dần dần mất gốc rồi.

Nếu mà không có Thầy móc ra, thì kể như là người ta sẽ quên mất những cái giáo pháp này. Người ta chỉ đọc, nói Ba mươi Phẩm Trợ Đạo, Tứ Diệu Đế bằng cách này, bằng cách khác hời hợt, để nghe nó mà chơi, rồi chúng ta thực hiện những cái không phải của đạo Phật.

Vậy thì hôm nay quý Phật tử còn có thấy những gì mà không hiểu về Phật pháp, xin vui lòng mà hỏi Thầy. Vì ngày mai, ngày mốt thì Thầy có thể Thầy trở về trụ xứ của Thầy, không còn cái duyên mà tiếp tục tiếp xúc với quý Phật tử nữa.

Vì vậy mà Thầy ước mong có ngày nào có đủ duyên gặp lại, Thầy không còn thuyết giảng nữa. Mà Thầy sẽ chỉ dạy quý Phật tử sống như thế nào, thực hành như thế nào để đem lại nguồn an vui hạnh phúc, một cái đạo đức giải thoát cho quý Phật tử. Thì cái điều đó ngày mai quý Phật tử gặp Thầy, là Thầy dạy cái hành chứ không có lý thuyết. Bởi vì lý thuyết nó chẳng đi đến đâu hết, chỉ có hành nó mới giúp chúng ta được giải thoát mà thôi.

Đó thì hôm nay quý vị có duyên phước nghe Thầy, thì ai thì có cái gì thắc mắc cứ hỏi Thầy để cởi mở tâm hồn của mình, để cho mình hiểu được đạo Phật như thế nào đúng.

13- CON NGƯỜI CÓ BẢN NGÃ HAY KHÔNG? NẾU CÓ THÌ LÀM SAO DIỆT ĐƯỢC BẢN NGÃ?

(01:06:37) Câu hỏi: Có một vị phật tử hỏi Thầy: Con người có bản ngã hay không?

Trả lời: Đúng là đạo Phật con người không có bản ngã. Do không có bản ngã cho nên nó mới tu giải thoát, có bản ngã là tu không giải thoát. Chúng ta vì chấp ngã cho nên người ta nói một lời nào đó mình giận, mình sân là vì mình chấp ngã, cho nên có bản ngã là không thể giải thoát. Vì vậy mà đức Phật đã thấy rõ được các pháp ở trong thế gian này do duyên hợp mà có, chứ không có cái bản ngã. Nó hợp lại rồi nó tan hoại, cho nên nó đâu có cái gì mà thường hằng mà gọi là bản ngã.

Đó là trả lời cái câu hỏi thứ nhất.

Câu hỏi: Nếu có thì làm sao diệt bản ngã.

Trả lời: Nếu có thì chúng ta không diệt được, bởi vì có một cái vật thường hằng. Vì chúng ta đây là chúng ta lầm chấp, lầm chấp nó là cái ngã, cho nên đức Phật chỉ vạch cho chúng ta hiểu để mà chúng ta hết lầm, chứ không phải nó nếu có thì diệt nó không được.

Sự thật nó có một cái bản ngã thật, thì không có pháp nào diệt nó được hết, nó không có diệt được. Mà vì nó không có, do chúng ta lầm hiểu nó có, chúng ta chấp lầm cho nên đức Phật mới chỉ cho chúng ta biết đây là, cái thân của chúng ta là cái ngũ uẩn, nó là sắc, thọ, tưởng, hành, thức, năm cái duyên này nó hợp lại, nó làm cái thân của chúng ta, chứ nó không có cái bản ngã trong đó, gọi là vô ngã.

Vì vậy mà chúng ta hiểu được, chúng ta thấu rõ được cái lý nó như vậy, chúng ta thấu suốt được, cho nên chúng ta không chấp ngã. Từ đó chúng ta không còn giận hờn nữa, nó không còn đau khổ nữa thì gọi là vô ngã, nó mới, còn nếu có ngã thì nó không có. Cho nên nếu mà nó có ngã, mà diệt ngã thì chúng ta diệt không hết được, chúng ta không làm sao diệt được, vì nó không ngã cho nên chúng ta mới có giải thoát.

(01:08:13) Câu hỏi: Còn không thì tu hết khổ được không?

Trả lời: Nếu mà nó không ngã thì tu hết khổ. Nghĩa là hoàn toàn là đức Phật xác định là nó không ngã, cho nên chúng ta sẽ tu hết khổ, coi như là chúng ta giải khổ hoàn toàn. Và cái người mà hết khổ, mà hết tham, sân, si, phiền não thì bằng chứng là Thầy đã làm được điều đó. Còn nói về thần thông thì Thầy làm không được gì hết. Nhưng mà cái mà hết giận hờn, phiền não, ai chọc ghẹo Thầy gì thì Thầy không giận hờn, thì cái đó Thầy làm được. Đó là Thầy biết rằng hỏi Thầy là câu này rất đúng đó: "Có hết khổ hay không?".

Nếu mà nó không ngã mà bây giờ chúng ta tu thì nó hết khổ. Hết, cái đó là hoàn toàn đúng là lời Phật nói không có ngã. Chúng ta đã hiểu biết thì chúng ta thực hiện như chúng ta nhắc, nhắc chúng ta: "Quán cái tâm vô ngã, hay hoặc là hít vô tôi biết tâm tôi vô ngã, hay hoặc là hít vô tôi biết thân tôi vô ngã". Là do mình nhấn mạnh, mình hướng tâm như vậy nó thành ra một cái lực của nó.

Thật sự nó không vô ngã là tại vì từ lâu mình lầm chấp nó thành một cái lực lầm chấp, là do đó nó dễ sanh giận hờn phiền não vì cứ lo cho mình là bị chấp cái ngã. Do khi mình hướng tâm mình nhắc thì lâu ngày nó thành một cái lực vô ngã. Vô ngã vì chính nó thật sự là vô ngã.

Mà bây giờ thì mình hiểu nhưng mà mình chưa thật sự đủ cái lực, để mình dẹp cái lực của mình đã lầm chấp vô ngã. Cho nên tu một thời gian sau thì cái lầm chấp này nó sẽ bị quét sạch đi, rồi từ đó thì mình thấy mình hết khổ. Mình không có ngã thì người ta chửi mắng mình hết giận rồi, đó là nó hết khổ.

Đó là Thầy trả lời cái câu của Phật tử hỏi. Kế đó có một người hỏi Thầy.

14- ĐẠO ĐỨC NHÂN QUẢ CÓ TỪ KHI NÀO? AI SÁNG LẬP RA VÀ NÓ MANG LẠI LỢI ÍCH GÌ CHO XÃ HỘI?

(01:09:44) Câu hỏi: Có một người phật tử hỏi: Đạo đức nhân quả có từ hồi nào?

Trả lời: Bởi vì cái đạo đức mà nhân quả nó sinh ra là do từ cái môi trường sống của chúng ta. Cho nên nó gồm môi trường sống của chúng ta là vô minh, bởi vì muốn hỏi cái này, là cái điểm cao nhất.

Bởi vậy thí dụ như nói bây giờ "có cái ngã", hỏi vậy chứ cái ngã đó "do ai sanh?". Rồi chúng ta hỏi hoài, thì cái người đó nói riết rồi không còn chỗ trả lời được, thành ra cái hỏi nó cũng đã sai. Bởi vì cái trí hữu hạn của chúng ta mà tìm hiểu cái vô hạn, thì chúng ta làm sao chúng ta hiểu được.

Cho nên hồi nãy Thầy nói, nếu mà chúng ta chấp thường thì có cái có, thì tức là nó sai, mà chấp đoạn thì nó cũng là sai, cho nên ở chỗ này rất là khó nói.

Bởi vì cái trí của chúng ta không thể hiểu cái mà chúng ta hiểu. Mà bây giờ buộc lòng chúng ta phải giải thích nó, để mà cái trí không hiểu mà để cho nó hiểu thì nó thành tưởng mất đi. Cho nên Phật nói chúng ta hiểu bây giờ những cái điều mà chúng ta không hiểu mà chúng ta hiểu, đó là tưởng tri chứ không phải liễu tri.

Cho nên ở đây Thầy muốn nói: "Đạo đức nhân quả nó có từ hồi nào?". Nghĩa là cái khi mà nó có cái nhân quả, thì cái con người chúng ta mới từ đó, nó mới xây dựng theo cái lộ trình của nhân quả mà chúng ta xây dựng để mà chặn đứng được những cái ác pháp. Để tạo được cái lộ trình thiện pháp, để đời sống chúng ta được hạnh phúc, được an vui.

Cho nên do đó chúng ta cũng phải theo cái lộ trình của nhân quả, mà chúng ta mới biết được cái đạo đức như thế nào. Bởi vì nói nhân quả thì có thiện, có ác chứ gì, cho nên con người chúng ta nó có cái trí tuệ, cái đầu óc của chúng ta nó có sự suy tư, bắt đầu chúng ta thấy khổ. Do đó chúng ta mới tìm hiểu ra được cái khổ đó.

Mà hỏi: “Nó từ ở đâu nó sanh ra?” thì rõ ràng là cái nhân quả này nó phải từ ở trong cái đống rác nó sanh ra, cho nên nói: vô minh. Cho nên nó, nếu mà nó có minh, thì nó sanh ra thì nó hoàn toàn thiện, thì nó đâu có khổ. Cho nên nó vô minh, nó mới có ác, có thiện, nó không hiểu, cho nên gọi là vô minh.

Vậy thì từ ở trong đống rác mà sinh ra rõ ràng là cái môi trường sống mà Thầy muốn nói đống rác. Bây giờ chúng ta đem một cái đống rác chúng ta đặt đó đi, rồi bắt đầu mưa hay nước mưa nó ẩm, nó rách, nó mục. Rồi một cái thời gian chúng ta lật ra, chúng ta thấy những cái loại mà côn trùng, nó ở từ ở trong đó nó sinh ra. Nó ở trong cái môi trường sống đó.

(01:12:09) Chẳng hạn bây giờ nếu mà cái môi trường sống của chúng ta, cái không khí này, cái bầu không khí này nó không phù hợp với cái cơ thể của chúng ta, thì chúng ta không sanh ra được. Cho nên nó có những cái hành tinh mà không có loài người sanh ra được, là tại vì cái môi trường sống ở đó không có. Cho nên tất cả những cái luật nhân quả này mà đức Phật gọi là vô minh.

"Vô minh sanh hành, hành sanh thức", do đó từ cái vô minh đó thì nó làm sao minh được. Chứ đâu phải nếu mà có một cái đấng nào đó, hoặc là có một cõi trời nào đó mà chúng ta thực hiện đây, thì tức là chúng ta phải minh rồi. Mà đã minh thì không bao giờ mà chúng ta vô minh được. Hễ minh mà nó làm sao vô minh được, nó không xen vô được, mà chỉ từ cái ở đống rác nó mới vô minh.

Cho nên từ cái trong đống rác, cái môi trường sống nó xuất hiện ra cái loài động vật, là cái môi trường sống nó có tạo ra được ra được cái sự sống. Cho nên nó mới sanh ra cỏ cây, mới sanh ra loài vật, do đó thì loài người cũng là một loài vật. Cho nên từ cái môi trường sống đó mà sanh ra. Mà sanh ra thì từ cái môi trường sống đó, thì nó phải có thiện, ác chứ không thể nào không.

Mà bây giờ mà muốn mà rõ được, thì như vậy là rõ ràng là đức Phật từ đó, từ trước tới bây giờ, trước đức Phật nó có cái đạo đức nhân quả rồi, nó có cái nhân quả rồi, chứ không phải là đợi đức Phật mới có. Nhưng mà đức Phật đã vạch ra cái nhân quả, cái đạo đức nhân quả, nó rõ ràng và cụ thể.

Nhưng các tôn giáo khác người ta cũng biết nhân quả, tức là thiện, ác người ta cũng biết hết rồi, nhưng mà nó không vạch ra được cái đạo đức. Đến đức Phật, Ông đã vạch ra được cái đạo đức, cho nên chúng ta mới thấy được đạo Phật, mới dạy chúng ta không làm khổ mình, khổ người, thì đó là nó đúng là từ đạo Phật. Chứ còn các tôn giáo khác thì không có dạy cái đạo đức không làm khổ mình, khổ người.

Như Khổng Tử dạy chúng ta Tam Cang Ngũ Thường - Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, chứ đâu dạy chúng ta không làm khổ mình, khổ người. Cho nên cái hành động mà đạo đức của Nho giáo là hành động quân tử. Vì vậy mà cái hành động của Quan Âm Thị Kính như Thầy đã nói đó là hành động của đạo đức Nho giáo, chứ không phải đạo đức của Phật giáo. Đối với đạo đức của Phật giáo, cái đạo đức của Nho giáo đó là phi nhân quả, phi đạo đức của đạo Phật.

(01:14:03) Bởi vì mình làm thinh, mình không nói, để cho người ta hiểu lầm, người ta đánh đập mình. Thì đức Phật nói để cho người ta hiểu, người ta không chửi, mạ nhục mình là: "Thầy tu hành mà Thầy còn những cái hành động như vậy. Hay hoặc là chú tu hành mà chú còn làm như vậy, chú đi tu làm gì, phải không ?".

Người ta chửi mắng Thị Kính như vậy. Thì lúc bấy giờ người ta chửi mắng, thì thứ nhất là Thị Kính làm thinh là tạo cho người ta làm điều ác. Mạ nhục mình như vậy, rồi người ta căng mình ra, người ta đánh mình nữa, người ta nói mình làm như vậy.

Cho nên do vì vậy đó mà chúng ta thấy rằng, cái đạo đức của đạo Phật không chấp nhận. Là vì mình đã làm khổ mình mà làm khổ người, làm cho người làm ác, thì tức là ta sẽ vay trả cái quả ác đó. Cho nên cái đạo đức nhân quả không chấp nhận cái hành động của Quan Âm Thị Kính.

Thì ở đây chúng ta phải thấy rằng cái nhân quả nó từ cái đống rác mà nó sanh ra, cho nên nó phải có thiện, có ác. Không thể nào mà, có một cái người nào mà người ta là cái đấng Ngọc Hoàng, hay Thượng Đế, hay là một đấng Tạo Hóa nào mà sanh mình ra. Thì họ phải sanh con người mình tốt, chứ sao lại họ sanh con người mình như thế này. Thì như vậy là cái đấng Ngọc Hoàng mà đấng Tạo Hoá như vậy đó, thì nó không phải là cái con người.

Mình sanh con, quý vị mà đẻ sanh ra một đứa con, quý vị muốn nó thông minh hay là muốn nó ngu, quý vị nói đi. Thì ông Ngọc Hoàng, ông sanh chúng ta ra là con của Ngọc Hoàng thì phải là tốt chứ, sao lại con Ngọc Hoàng gì mà giận dữ vậy, gì mà như rắn độc vậy, phải không?

Quý vị thấy khi mà chúng ta giận dữ coi phải là như chúng ta dữ không? Giết người chúng ta cũng dám lắm chứ, phải không?

Đó cho nên không lẽ là con ông Ngọc Hoàng gì mà dữ vậy, mà ông sanh mình ra mà bây giờ ông để cho mình dữ tợn vậy, thì đâu phải. Mình sanh con mình ra thì mình cũng muốn con mình nó phải thông minh, nó phải hiền lành chứ. Mình đâu có muốn con mình như cọp, phải không?

Mình làm cha mẹ vậy thì ông Ngọc Hoàng là cha mẹ mình, hay là đấng Tạo Hóa nào mà gọi là cha mẹ mình, vạn năng mà sanh con người ra thì phải vậy. Phải thương con mình chứ, sanh con người ra mà muốn nó là con thú như vậy thì sanh nó làm gì?

Như vậy là Ngọc Hoàng gì? Thầy lôi xuống chứ Thầy đâu có cho ngồi cái ghế đó được, phải không? Phải nói mạnh như vậy đó mới là xác định được cái nghĩa lý của Ngọc Hoàng. Một ông cha mà chúng ta là con của Ngọc Hoàng mà chúng ta làm như vậy thì đâu được.

(01:16:07) Cũng như bây giờ chúng ta phải hiểu như vậy đó, thì do đó mà chúng ta từ cái chỗ mà cái môi trường sống đó sản sanh chúng ta ra, cho nên chúng ta vô minh. Do vô minh chúng ta mới lầm chấp, chúng ta mới không hiểu rõ, vì vậy mà chúng ta làm chấp tưởng cái thân mình là cái ngã. Tưởng mọi vật này xung quanh là những vật của mình, nhưng không ngờ mình có giữ nó được đâu.

Một cái nhà này cất, mai mốt thời gian nó hoại diệt, rồi mình lại cất nữa, và cứ như vậy mà nó làm khổ mình. Do như vậy mình lầm chấp, mình cho nó là cái thật có, mà cuối cùng thì nó không thật có. Cái gì nó cũng hoại diệt hết, trong thế gian này không có cái gì mà nó thường hằng được.

Cho nên đạo đức nhân quả phải nói rằng từ đức Phật mà có, chứ không phải có trước. Nhưng nhân quả có là phải có trước đức Phật.

Vì khi đức Phật tu rồi, thì ngài rõ ràng là Ngài thực hiện cái đạo đức nhân quả. Người ta muốn nghe Phật thuyết pháp rồi mà xin vào tu, thì đức Phật không cho đi. Cha mẹ không bằng lòng thì không nhận, mà cha mẹ bằng lòng thì nhận. Người có đôi bạn, có vợ chồng rồi mà chồng muốn đi tu thì vợ phải bằng lòng thì đức Phật nhận, mà vợ không bằng lòng thì đức Phật không nhận. Đó là cái đạo đức làm người hẳn hoi mà. Cái đạo đức nhân bản rõ ràng, không thể nào mà sai được. Đạo đức của đạo Phật ra đời, thì chúng ta thấy ngay từ khi mà đức Phật nhận người vào tu.

Mà chúng ta lại thấy đức Phật ngày xưa mà ngài đi tu, Ngài bỏ cha, bỏ mẹ, Ngài bỏ ngai vàng, cha mẹ rồi vợ con, vợ mới sanh Ngài bỏ, Ngài đi tu. Thì coi đương nhiên như đạo đức của đạo Phật không còn có.

Nhưng mà đến khi mà Ngài làm giáo chủ, cái đạo Phật có mặt trong thế gian thì bắt đầu có đạo đức rõ ràng. Ai đi tu mà làm khổ người khác là không được, phải không? Quý vị đọc lại kinh sách của Phật phải có không? Rõ ràng, rất rõ ràng. Cho nên vì vậy nó có cái đạo đức hẳn hoi.

Trước Phật có đạo Phật không? Không có. Có nhân quả chứ không có đạo Phật. Cho nên do đó đức Phật muốn tu, là cái ham muốn của mình mà, mình muốn giải thoát, cho nên bỏ cha, bỏ mẹ, khổ gì kệ, chừng mình tu xong rồi mình về mình độ, biết xong được không ?

Cũng như quý vị bây giờ, giận cha mẹ mình cái bỏ vô chùa tu, như vậy là mình làm khổ cha mẹ mình, mình phải làm sao cho nó xứng đáng chứ. Đó là những cái đạo đức của con người mà chúng ta chưa thực hiện được thì chúng ta đừng có mơ mộng một cái gì cao siêu.

Đó hôm nay Thầy trả lời để thấy rõ.

(01:18:30) Câu hỏi: Ai sáng tạo lập ?

Trả lời: Đó Thầy trả lời: Đạo đức nhân quả là do đức Phật đã sáng lập ra cái đạo đức đó.

Câu hỏi: Phát hiện về nhân quả ấy đem lại lợi ích như thế nào cho cộng đồng xã hội.

Trả lời: Ở đây đó thì cái sự mà, cái đạo đức nhân quả nó đã có, nhưng mà phát triển về cái đạo đức nhân quả của đạo Phật thì từ xưa đến giờ các Tổ không có phát triển cái này, cho nên chúng ta mờ mịt, chúng ta không biết. Nếu mà các Tổ đã có phát triển cái đạo đức nhân quả thì chúng ta đã có những sách đạo đức nhân quả rồi.

Cho nên một đống kinh sách này chúng ta có thể đọc mệt thì thôi mà chúng ta tìm thấy một cái đạo đức nhân quả thì không có, mà đạo đức nhân quả mê tín có.

Bây giờ đem cúng chùa, đem cúng bình bông này cho Phật đó, thì mai mốt mình sanh ra kiếp sau đó, thì cái mặt mình nó đẹp đẽ như là Tây Thi. Trời ơi ai không ham mà không cắt bông. Mà thử hỏi Thầy nói như thế này: Một cây bông nó đẹp là khi nó còn sống với cái gốc của nó, mà cắt chưng đó mình chỉ làm đẹp cho mình, chứ sự thật ra nó là mất cái đẹp của nó rồi. Thì thử cái nhân quả mình làm người ta chết mà mình muốn làm đẹp, mình thì đẹp ở chỗ nào đâu. Mà kinh sách nhân quả dạy vậy có đúng không? Quý vị có chấp nhận cái nhân quả đó không?

Làm chết cái cây bông này rồi đút vô đây để nước cho nó sống, để rồi ít bữa nó tàn rụi với cái đau khổ của nó, phải không? Nó có sung sướng gì đâu, nó đâu có còn tự nhiên với mẹ nó, với gốc của nó đâu. Mà quý vị vui là quý vị thấy đẹp mắt của quý vị, chứ cây bông này nó khóc, nó khóc nó lìa cành, phải không?

Mình đâu có nghĩ đến cái nỗi đau thương của nó đâu, như vậy là rõ ràng là mình thiếu đạo đức. Vì cái đẹp của mình, mình đem mình cúng Phật, Ông Phật, Ông khóc chứ: "Trời ơi đạo từ bi gì mà không thương xót".

(01:20:10) Ông cấm đệ tử của mình đi không được dẫm lên cỏ nữa mà, là đủ biết hồi thời đức Phật đi không được đạp lên cỏ. Vì cây cỏ nó đang tươi xanh, đang tốt mình đạp lên nó héo úa, thì đủ biết cái đạo của Phật như thế nào rồi, cái đạo đức như thế nào rồi. Đối với cây cỏ mà còn không đạp thì thử hỏi quý vị nghĩ sao đối với một con vật?

Cho nên trong Tứ Niệm Xứ mà khi mà hành cái pháp Tứ Niệm Xứ, mà Thầy dạy trong giáo án rất rõ ràng. Là khi cái thân hành mà chúng ta bước đi, thì mặt chúng ta nhìn xuống, nhìn xuống dưới bước đi mà chúng ta hướng tâm nhắc: "Tâm phải nhớ vì dưới chân chúng ta côn trùng rất nhiều, đi hãy chú ý đừng đạp côn trùng". Do đó cái sức tỉnh chúng ta vô cùng, vì lòng thương yêu của chúng ta đối với chúng sanh, phải không?

Chúng ta đi mà chúng ta sợ đạp chết thì bắt đầu buộc chúng ta phải tập trung rồi, không tập trung thì không được. Còn nếu mà chúng ta nói: "Tôi đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành" mà không sử dụng cái tâm Tứ Vô Lượng Tâm từ bi, thì chắc chắn là chúng ta sẽ không bao giờ tỉnh thức được lâu. Vì cái lòng thương yêu chúng ta nó kéo dài cái sự tỉnh thức, để mà chúng ta tránh khỏi đạp côn trùng chết ở dưới chân.

Đó thì cái sự tu tập Thầy sẽ dạy ở trên Tứ Vô Lượng Tâm đó: Từ, Bi, Hỷ, Xả. Do chúng ta thực hiện được cái tâm từ bi của chúng ta trên những cái hành động của chúng ta. Đó thì nó có lợi ích là vì cái đạo đức mà nhân quả, là vì nó lợi ích rất lớn cho xã hội, nghĩa là như thế nào?

Khi một cái người sống mà đã hành động đúng cái đạo đức nhân quả, thì họ không có làm khổ họ, họ không có làm khổ người. Mà mọi người đều thực hiện được như vậy thì cái cộng đồng xã hội chúng ta là thiên đàng rồi, nó lợi ích như vậy đó.

Thì thử hỏi khi mà chúng ta tu tập mà học được cái đạo đức nhân quả rồi, thì cuộc sống của chúng ta, mọi người sống, đi ngoài đường không bao giờ có thể xảy ra tai nạn. Nghĩa là tai nạn lưu thông đó, không bao giờ xảy ra. Còn bây giờ chúng ta, vì như thế nào mà chúng ta xảy ra tai nạn lưu thông.

(01:22:05) Khi chúng ta hiểu rằng mình cưỡi xe, mình lái xe như vậy là gây cái đau khổ cho người khác, không nên, cho nên cẩn thận từng cái lúc mà mình lái xe. Còn bây giờ chúng ta có chuyện gì lật đật, hay hoặc là uống rượu say là chúng ta nhào lên xe, là lạng một hơi, là bao nhiêu người gây ra bao nhiêu tai nạn, đó là chúng ta thiếu đạo đức đó.

Nếu một người có đạo đức rồi thì người ta cẩn thận từng cái hành động. Hành động thân, rồi cái ý của chúng ta, cái lời nói, thì cái hành động mà chúng ta lái xe đâu phải là thiếu cẩn thận được. Đó là những cái hành động đạo đức, cho nên nó đem lại cho cộng đồng xã hội, cho nhân loại này là một cái hạnh phúc vô cùng.

Đương nhiên là khi mà đã đạo đức của nhân quả mà đức Phật đã được truyền dạy, được phổ biến rộng cho mọi người rồi, thì cái xã hội chúng ta gọi là cái xã hội cực lạc, con người không còn khổ đau. Nhưng mà vì chưa có được cái đạo đức cho nên chúng ta còn tranh nhau từng để sống, giết nhau từng cái danh, cái lợi mà chúng ta lầm chấp là cái ngã. Vì cho mình, vì cho cá nhân cho mình mà mình quên đi cái sống của người khác.

Cũng như bây giờ mình ăn thịt chúng sanh, mình gọi ăn chay, ăn mặn đó, là vì mình lo cho mình mà mình quên cái sự đau khổ, cái sự chết chóc của chúng sanh. Cho nên mình nỡ tâm mình ăn thịt được, chứ sự thật ra mà khi học đạo đức rồi, thì không bao giờ mà ai mà có thể nuôi bò, nuôi heo mà để làm thịt. Không bao giờ mà ai nuôi gà nữa hết, bởi vì có ai mà thèm ăn nó nữa đâu. Vì mình ăn nó, mình không thấy cái sự đau khổ của nó sao? Cho nên cái người mà theo đạo Phật mà học đạo đức nhân quả, thì như vậy là cả xã hội này không có còn máu vây tanh, không còn ai xuống sông bắt cá nữa.

Đó sự thật ra là chúng ta sẽ thực hiện cái đạo đức của nó, sẽ đưa cho chúng ta đi đến cái chỗ mà rất là thiện, không còn làm đau khổ một con vật nhỏ. Thậm chí như con kiến đi dưới chân chúng ta, chúng ta còn nhìn để mà tránh, không bao giờ mà chúng ta làm chúng đau khổ, chúng chết.

15- TRONG TƯƠNG LAI PHẬT GIÁO VIỆT NAM SẼ NHƯ THẾ NÀO ?

(01:24:00) Thầy sẽ đọc câu hỏi rồi Thầy sẽ trả lời.

Câu hỏi: Đại thừa giáo là một nhánh trong Phật giáo và được lập ra sau Nguyên thủy Phật giáo. Nhưng đại đa số người tu theo Đại thừa lại kích bác Nguyên thủy chỉ là chấp giới tướng, cho Nguyên thủy là chấp giới tướng. Hiện tượng này là điều sáng sủa cho Phật giáo hay là nỗi hoang mang, là điều đi xuống của Phật giáo đương đại ở Việt Nam?

Trả lời: Thí dụ như đây là cái câu hỏi Thầy những cái điều mà kích bác hiện giờ, thì các Hòa thượng dung thông giữa Nguyên thủy và Đại thừa. Người ta cố gắng người ta dung hòa giữa cái Nguyên thủy và Đại thừa, nó không có để cho chống báng nhau. Và đồng thời thì người ta sẽ triển khai cái giáo pháp của Đại thừa hơn là cái Nguyên thủy. Nhưng người ta cho học cái Nguyên thủy nhưng mà ít có ai dạy cái sự tu tập về Nguyên thủy.

Nhưng người ta là hầu như là tất cả quý thầy, Hoà thượng bây giờ, ngay cả giáo hội chúng ta không triển khai cái đạo đức của đạo Phật, cho nên nó sẽ làm mất đạo Phật. Vì đạo đức của đạo Phật là cái nền tảng vững chắc cho cái thiền định của đạo Phật, chứ không phải là do thiền định đâu, mà chính là cái nền tảng đạo đức nhân quả đó. Mà bây giờ nền tảng đạo đức nhân quả không có, kinh sách không có cho nên vì vậy mà đạo Phật sẽ mất.

Do một ngày nào đó thì các kinh sách mà Đại thừa nó phát triển lý luận, đến cái mức độ và có một vị nào mà xuất hiện trong đời nay mà có thần thông, từ cái các pháp Đại thừa mà thực hiện ra thì từ đó là thay đổi toàn bộ, giáo lý của Nguyên thủy sẽ bị dẹp. Đó là cái hiểu biết và tiên đoán trước cái sự việc mà sẽ đến cho Phật giáo ở ngày mai.

Nhưng mà kịp thời chúng ta đã chấn chỉnh được Phật giáo, đem lại cái đạo đức cho mọi người, cho Phật tử. Đem lại hạnh phúc cho mọi người, thì không có một cái giáo pháp nào mà có thể diệt Phật giáo được.

Cho nên Thầy mong rằng ở Châu Đốc ngày nào quý Phật tử sẽ cùng nhau cố gắng mà tạo một cái môi trường sống, môi trường sống phù hợp với để mà thực tập những cái đạo đức của đạo Phật. Vì Thầy có dự định, cái chương trình như hồi nãy Thầy nói là Trung Tâm An Dưỡng Từ Thiện. Thì tất cả những người trong đất nước, không riêng gì ở tỉnh Châu Đốc, hoặc Tây Ninh. Không riêng gì ở thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội hoặc là Hải Phòng, mà tất cả những tỉnh khác ở trong đất nước, đều được về trung tâm của Thầy an dưỡng.

Người nào có duyên được về, được nghe dạy đạo đức, đó là một cái phổ cập cho rộng. Và từ đó nó được đưa vào cái giáo trình học tập của các trường học, để giúp cho trẻ em và giúp cho những người lớn người ta học tập.

Cho nên ở đây thì cái điều mà câu hỏi này, thì nếu mà giáo pháp hiện giờ nó gây những cái hoang mang, chứ không phải là sáng sủa cho Phật giáo đâu. Nó làm cho hoang mang, người ta không biết Phật giáo là thế nào. Cho nên đó là một cái sự hoang mang, chứ không phải là sự sáng sủa cho Phật giáo.

Đó thì nên đến bây giờ như Thầy đưa cái giáo pháp này ra, nó làm cho hoang mang. Từ nào chúng ta theo cái Đại thừa chúng ta tu học, kinh sách Đại thừa chúng ta học tập, chúng ta tụng niệm cúng bái theo cái lối Đại thừa. Rồi bây giờ Thầy nhắc đến Nguyên thủy, nói đến cái đạo đức của đạo Phật, thì nó làm hoang mang cho các vị hết. Nó làm cho các vị hoang mang, không biết là Phật giáo như thế nào mà bây giờ lại có những cái này, nó làm cho các vị dao động rất mạnh.

Từ lâu các vị tin tưởng là có cõi Cực Lạc Tây Phương, thế bây giờ Thầy lại nói là không có, thì nó hoang mang trong lòng các vị rồi. Cho nên nó đưa ra một cái là làm cho các vị như là sự sụp đổ cả một cái gì mà mình đã tin tưởng ở cái giáo pháp đó.

Nhưng mà quý vị nên cần suy nghĩ, đừng tin nơi lời Thầy nói đâu. Mà các vị suy nghĩ, từ xưa đến giờ người ta thực hiện Đại thừa người ta có kết quả gì? Hay là những bậc mà thực hiện Đại thừa đó, khi mà họ chết, họ để lại những cái đau khổ. Những cái bậc mà gọi là chân tu đó, họ lại để lại những cái đau khổ.

Chúng ta suy xét và chúng ta đừng có tin vào ở trong kinh sách huyền thoại. Cái người này tu là đã chứng đạo như thế này, chứng đạo như thế kia, chết tự tại như thế này, thế khác, đó là cái sự huyền thoại che đậy của họ. Chúng ta phải bằng mắt thấy cái người mà tu hành, cái thiền định đó nó sẽ làm chủ như thế nào khi chết, thì chúng ta mới tin, còn không thì chúng ta đừng tin.

16- NGƯỜI THEO ĐẠO PHẬT NÊN CHỌN PHÁP MÔN NÀO ĐỂ TU

(01:28:25) Câu hỏi: Ở đây câu hỏi. Trước cảnh Phật giáo muôn vàng pháp môn như vậy, muôn vẻ như vậy, chúng con chọn pháp môn nào để tu?

Trả lời: Thì ở đây Thầy xin trả lời, chúng ta nên chọn lấy cái giới luật mà để tu, vì đó là cái đạo đức, cái đạo đức của đạo Phật. Cho nên những nơi nào mà người ta thực hiện đạo đức, cái hạnh đạo đức, thì chúng ta nên chọn cái đó là chơn chánh, bởi vì cái đó dễ cho chúng ta nhận. Còn nếu mà chúng ta nhận ra những cái thần thông, những cái thiền định, là chúng ta sẽ bị những tà thần thông nó sẽ gạt chúng ta, nó sẽ dẫn dắt.

Cho nên có nhiều ông giáo chủ, có những thần thông nói chuyện quá khứ, bói khoa, làm chúng ta tin tưởng, làm chúng ta hy vọng. Nhưng mà cuối cùng chúng ta có thoát được cái nhân quả của chúng ta không, đâu có thoát được. Cho nên chúng ta tin tưởng, cúng dường, cúng bái các vị đó, thấy họ có những thần thông. Thì do đó, từ cái thần thông đó mà nó lường gạt chúng ta biết bao nhiêu sự khổ đau. Vì vậy mà chúng ta hãy chọn lấy những cái người đạo đức mà đúng là giới luật của Phật.

Vì vậy cho nên Phật tử muốn chọn lấy một bậc thầy, muốn nương vào một cái tôn giáo nào đó, thì phải xem cái đạo đức của tôn giáo đó có phù hợp với mình không. Và chọn lấy cái người mà tu tập có đạo đức và làm lợi ích cho Phật giáo. Thì làm lợi ích cho Phật giáo là phải chọn lấy cái nơi, cái nơi mà giữ gìn đạo đức, thì cái nơi đó mới là làm sáng tỏ Phật giáo. Còn cái nơi mà làm cảnh tham quan thì không phải là, chúng ta chọn cái đó, chúng ta đưa Phật giáo đi đến chỗ chết. Coi như mình nối giáo cho ngoại đạo để diệt Phật giáo mất.

Cho nên cái tốt nhất là quý Phật tử muốn đi đúng vào con đường Phật giáo và ủng hộ giáo pháp của Phật, thì cứ xem nơi đâu có đạo đức. Người đó có sống đầy đủ giới luật của Phật thì chúng ta sẽ thực hiện. Người nào mà không làm khổ mình, khổ người, thì người đó, chính đạo Phật đã dạy cho người đó.

Đó là một cái niềm tin của mình, phải lấy giới luật của Phật mà làm cái niềm tin sâu thì chúng ta mới có giải thoát được, mới có được hạnh phúc, được an vui cho cuộc sống của chúng ta.

17- TRÁCH NHIỆM VÀ BỔN PHẬN CỦA NGƯỜI CƯ SĨ ĐỐI VỚI PHẬT GIÁO

(01:30:20) Câu hỏi: Trước sự đi lên của Phật giáo, chúng con có trách nhiệm và bổn phận hay không?

Trả lời: Trước cái sự chấn hưng Phật giáo thì người cư sĩ là cái người bổn phận gốc, người cư sĩ là bổn phận gốc.

Cái Phật giáo mà chúng ta hư từ lâu tới giờ, là tại vì chúng ta nghe cái lời lý luận của Đại thừa, rồi chúng ta không hiểu đúng sai cho nên chúng ta cúng dường, chúng ta làm theo cái kiểu của Đại thừa. Vì vậy mà lần lần nó dìm mất cái giáo pháp của đạo Phật, do Phật tử cái chính.

Nhưng mà cái lỗi nhất là cái người hướng dẫn của ông thầy đó, mà chúng ta là người Phật tử làm sao chúng ta hiểu hết kinh sách của Phật đâu. Cho nên nói sao chúng ta nghe hữu lý và nghe có lợi ích cho mình.

Cũng như hồi nãy Thầy nói là cắt cái bình bông này để đem cúng Phật thì sắc đẹp sẽ được, chúng ta nghe ham quá.

Bây giờ quý vị đem tiền bạc bỏ cúng dường để xây chùa thì quý vị sẽ được giàu sang, thì gợi cái tâm tham của quý vị chứ gì.

Tham cho mình đẹp thì cắt bông này chưng cúng Phật. Tham cho mình được giàu sang,cho nên vì vậy bỏ tiền ra cúng giường để xây chùa cho tốt. Thì do đó, là do gợi cái lòng tham của mình đúng cách mà, cho nên mình tham cho mình có tiền.

Vì vậy bây giờ mình bỏ ra một trăm, hai trăm, hay là một triệu đi nữa, chắc chắn là mình sẽ giàu sang sau này. Bây giờ cúng xây cái chùa như vậy, mình có công lao là mình có gieo được cái công đức như vậy. Thì chắc bây giờ đời này mình chưa có giàu được, chứ đời sau đây chắc là mình lên là mình làm quan, tiền bạc mình triệu triệu nữa. Bây giờ mình bỏ có một triệu mà sau này mình cả trăm triệu nữa.

Thì do đó ai không ham, do cái chỗ mà nhân quả cái kiểu này là nhân quả gạt người, lừa đảo người, chứ không thật là làm cái chuyện đó. Bởi vậy Thầy mới ví dụ cắt cây bông này, làm cho sự chết chóc đau khổ như vậy mà bây giờ đòi mình đẹp. Thầy nói thật sự cái bông này, nó vì do cắt nó mau tàn đó, do đó cái mặt của chúng ta mà muốn đẹp, chắc chắn là nữa nó méo xẹo à, nó không còn đẹp đẽ chút nào đâu.

(01:32:12) Bởi vì mình làm một cái nhân quả đó thì mình phải cái mặt như vậy chứ sao. Mình làm người ta chết đau khổ như vậy, mình bảo nó đẹp nữa, làm sao đẹp nữa được, nhân quả phải trả đúng thôi.

Đó thì như vậy cho nên bổn phận người cư sĩ thì trong cái giai đoạn này thì trách nhiệm bổn phận đó phải cúng dường đúng chánh pháp. Tìm đúng cái nơi mà vị trí giữ gìn giới hạnh nghiêm túc, giới luật không vi phạm, những thầy đó chúng ta sẽ cúng dường.

Những thầy mà dù chùa cao tháp lớn, mà làm những chuyện mê tín như coi ngày tốt xấu, rồi cúng sao, cúng hạn, tạo những cái điều mê tín như vậy chúng ta không nên đến đó. Đó là thuộc về loại Ma Ba Tuần mà mang hình lốt của sắc của Phật, chúng ta không đến đó.

Thầy ở đây quý Phật tử đừng có chọc mấy cái chùa mà họ cúng sao đó, họ tìm Thầy họ diệt Thầy đó. Họ mất cái miếng ăn, họ giết Thầy chứ không phải không đâu. Cho nên Thầy nói để mà nghe, để mà biết mà mình tìm cái cách mình trùng hưng lại Phật giáo, để làm cho Phật giáo nó tốt lại. Chứ không phải là đến gặp mấy ông thầy đó nói: "À thầy Thông Lạc nói vậy đó, mai mốt là tôi lên tôi đốt cái rừng Trảng Bàng cho sạch đi, cho tiêu ổng luôn cho rồi". Thì coi như là họ xúm nhau họ lên, họ đốt cháy thật đó.

Nhưng mà sự thật ra Thầy không sợ đâu, Thầy nghĩ rằng cái điều mà Thầy làm đúng, thì không ai mà làm cháy nổi cái khu rừng của Thầy đâu. Họ vừa đốt cái mưa xuống cái tắt.

Cho nên cái công đức của cái người làm đức tin đúng mà, đâu có sợ đâu, cho nên Thầy mạnh miệng nói với Phật tử chứ Thầy không có sợ đâu. Nhưng mà Thầy nói rằng mình âm thầm chứ để không khéo nó làm cực khổ mình, nó hại mình không được nhưng mà làm mình vất vả. Chánh pháp thì đâu có sợ tà pháp đâu, nhưng mà nếu mà chúng ta không khéo, thì chúng ta lại làm Thầy vất vả và các Phật tử cũng vất vả hơn, có gì.

Đó cho nên vì vậy từ đây về sau quý vị cúng dường thì phải chọn những bậc chân tu, những cái người giới luật nghiêm chỉnh.

(01:34:05) Chứ không phải chân tu là người đó ngồi ba bốn bữa, có thần thông đó là chân tu, đó là tà ma nó ngồi cũng được nữa chứ đừng có nói. Thầy cố gắng mà Thầy gạt quý vị, Thầy ngồi cho được thiền ngồi một tháng. Rồi bắt đầu Thầy ngồi Thầy im lặng một tháng như vậy: "Trời ơi ông đó nhập định quá trời”, họ cúng dường. Đó thì Thầy tập ngồi như vậy thế nào cũng được à, bởi vì coi cái thân vậy chứ Thầy luyện riết, Thầy ngồi cũng được, cái đó không có quan trọng.

Nhưng mà cái đạo đức của Thầy mà có được, Thầy sống không phải chuyện dễ đâu. Mà cái người mà sống đạo đức thì phải làm được chứ sao không được, mà làm được đạo đức thì người ta đâu có gạt mình đâu, đã có đạo đức thì làm sao gạt. Không lẽ bây giờ tôi sống đạo đức như vậy để tôi gạt người ta, thì vậy là còn nghĩa lý gì đạo đức, phải không? Các con thấy nó phản đối trở lại ngay liền.

Một người có đạo đức thì không bao giờ gạt người, vì người ta sống đạo đức thì người ta không gạt. Mà cái người mà sống không được đạo đức thì họ gạt. Cho nên coi vậy chứ cái giả đạo đức nó cũng dễ biết lắm. Bởi vì hầu hết có một số thầy cũng giả đạo đức, cũng ăn ngày một bữa này kia, nhưng mà ban đêm họ ăn lén. Họ chơi cái kiểu đó thì thiệt là đạo đức thiệt! Nó còn thêm cái tội giả dối nữa chứ, phải không?

Họ thì họ làm một cái điều, trước mặt Phật tử họ làm một điều, sau lưng họ làm chuyện khác. Họ mang cái tội là đối với giới luật của Phật đó, là cái tội họ ăn phi thời, họ mang cái tội đó bởi vì họ ăn phi thời. Nhưng mà đối với Phật tử họ mang cái tội dối trá, phải không?

Ban ngày họ ăn có một bữa, chờ Phật tử về hết rồi bắt đầu họ ăn thêm bữa nữa, phải không? Mà họ ăn họ làm đủ thứ hết, ngon, béo, ngọt. Ban đầu, mới đầu có Phật tử thì ăn đơn giản lắm, rau cải, tương dưa đồ ăn chấm đơn giản, tối họ làm đậu hũ cục nào, cục nấy thật lớn, phải không? Cho nên họ cũng ăn lén mà, như vậy là họ đã tạo họ hai, ba cái phi đạo đức ở trong đó rất lớn.

Cho nên ở đây đối với Thầy thì thật là thật mà giả là giả. Do đó họ làm vậy, họ che đậy như vậy, chứ một thời gian sau chúng ta gần gũi thấy rõ lộ mặt hết, không có làm sao mà giấu được hết. Cho nên mỗi cái gì mà người ta giấu, thì không có ai giấu được hết, hễ giả là giả mà thật là thật.

Vì vậy mà hôm nay Thầy nói để cho quý vị Phật tử, có cái bổn phận mình cúng dường phải đúng chánh pháp. Cúng dường không đúng chánh pháp là mình nối giáo cho ma vương nó sẽ diệt Phật giáo mất.

18- CHUYỂN NHỮNG PHONG TỤC MÊ TÍN THÀNH NỀN ĐẠO ĐỨC

(01:36:13) Trưởng lão: Bây giờ nó có những cái mê tín, mà chúng ta biến dần những cái mê tín đó thành đạo đức.

Đó bây giờ Thầy nói như thế này nè, đạo Phật đã xác định là chúng ta không có linh hồn. Vậy cha mẹ chúng ta rước ông Thầy đến cầu siêu, nó không có linh hồn thì cầu cái gì siêu đây? Hay là cái hình thức làm?

Chúng ta biết đó là cái mê tín, chúng ta hiểu rồi, Phật đã nói thì chắc chắn là ông Phật không nói dối rồi, cho nên nó là cái xác thực. Nhưng mà chúng ta biến cái hành động mà cái khi mà cha mẹ chúng ta qua phần, mà làm ma chay, rước ông thầy đến tụng. Chúng ta biến nó trở thành một cái hình thức, một cái hình thức đạo đức không phải mê tín.

Chúng tôi rước ông thầy đến đây tụng niệm là chứng tỏ cái lòng biết ơn sự sanh thành cha mẹ của chúng tôi. Trong cái đám ma hôm nay, thì chúng tôi không biết gì hơn là lấy những cái lời Phật dạy tụng niệm. Mặc dù là ông cha tôi không có cái gì mà siêu sanh được hết, nhưng mà nói rõ được cái lòng hiếu hạnh của chúng tôi. Làm cái đám ma của cha mẹ tôi ấm cúng, qua những cái lời kinh tiếng Phật cho nó đậy ấm cái chỗ mà đau khổ của chúng tôi mất cha, mất mẹ.

Thì mình biến dần cái chỗ mê tín này, nó trở thành cái tình cảm, cái tình đạo đức, phải không? Cho nên cái đám ma của mình, mình có hiểu được cái nghĩa nó khác.

Còn mình hiểu cái nghĩa là tôi rước mấy ông thầy chùa, ông tụng đi, linh hồn cha mẹ tôi siêu sanh được Cực Lạc. Mà sự thật ra nếu mà có thật linh hồn siêu sanh Cực Lạc, thì thử ông Phật, ông dám rước cha mẹ mình lên đó không? Đâu có dám. Bởi vì cha mẹ mình còn tham, sân, si, lên trên chửi lộn nữa. Lúc bây giờ ông là Phật mà ông làm ông toà để ông xử đó, thì cái chuyện đó thôi ông không dám rồi, phải không? Chắc chắn là cõi Cực Lạc người ta đâu có dám rước những cái linh hồn mà còn tham, sân, si đâu. Còn quý vị mà thật sự hết tham, sân, si rồi mà bây giờ không cần ông Phật Di Đà rước, thì mình cũng lên cõi đó à, có phải vậy không?

Cho nên ở đây chúng ta phải hiểu đúng cái nghĩa, đúng cái nghĩa của nó. Chúng ta biến từ cái chỗ mê tín đó đó, nó trở thành một cái đúng nghĩa của nó, là cái lòng hiếu của chúng ta đối với cha mẹ. Cho nên cái việc ma chay chúng ta đâu có bỏ, nhưng mà cái hiểu của chúng ta nó đúng chánh hay hoặc là tà, phải không?

(01:38:16) Nếu mà chúng ta hiểu linh hồn mà sanh Cực Lạc như ông thầy mà ông tụng: Hồi hướng lại cho đức Phật Di Đà phóng hào quang tiếp độ vong hồn mình siêu sanh Cực Lạc, thì cái điều đó điều sai. Điều đó ông thầy đó gạt mình đó, ông nói láo đó, nó không có đâu. Nếu mà có vậy thì chắc chắn là cha mẹ ông cũng siêu sanh Cực Lạc hết rồi. Bởi vì không lẽ ông không độ cha mẹ ông. Do đó thì đó là cái láo của ông, cái bài đó là cái bài gạt của ông.

Hầu hết những cái bài đó không phải Phật dạy đâu, mà các Thầy chế ra, luận ra, để làm cho thỏa mãn cái lòng mà tín ngưỡng của quý vị đó. Cho nên nghe được mà Phật Di Đà phóng hào quang tiếp độ vong hồn, cái ông tên gì đó được siêu sanh Cực Lạc đó thì mình mừng rồi. Như vậy là ông nói đôi ba lần như vậy là mình khoái lắm rồi, chắc chắn là sinh Cực Lạc, phải không? Nó làm cho cái nguồn an ủi nhưng mà nó mê tín. Trái lại mình biến cái chỗ đó nó trở thành, mình rước ông thầy, một ông thầy đến tụng, không cần nhiều ông.

Đừng có nghe là nhờ nhiều cái công đức tu hành của quý thầy, rồi sẽ độ cha mình thoát ra địa ngục đâu. Cái điều đó là mình cúng tiền cho ông, để như vậy là mình lo lót cho ông để cha mình thoát ra khỏi địa ngục. Thì cái kiểu như là Mục Liên Thanh Đề, Thầy nói là phi đạo đức rồi, Thầy không chấp nhận điều đó.

Cho nên do vì mà học đạo đức mà thấy đúng đạo đức, thì chúng ta sẽ phục vụ đúng đạo Phật, vì đạo Phật xây dựng mình trên cái nền đạo đức. Cho nên những cái điều mà các Phật tử mà làm đúng, những cái điều mê tín như ở đây mình muốn làm sao cho đừng sai lạc ở trong cái mê tín và lãng phí, thì mình làm đúng.

Thay vì mình rước năm, mười ông thầy tụng kinh, mình chỉ rước một ông thì tốn ít, phải không? Do đó mình rước một ông để nói lên cái tượng trưng cái lòng hiếu của mình. Mình rước nhiều ông đến đó tốn tiền nhiều là lãng phí, nó có siêu sanh được đâu mà rước nhiều. Cho nên một ông kể cũng là ấm cúng rồi, mượn cái câu kinh, tiếng kệ ông ta cũng làm ấm cúng.

(01:40:01) Những cái bài kinh mà giả dối, thì mình biết mình nói: "Thầy tụng thôi, đừng có đọc những cái điều này, nó thành ra thầy gạt chúng sanh được, chứ thầy gạt Phật không có được", phải không? Nếu mà có Phật thật thì gạt không được đâu.

Nói như ông nói, ông biểu là: "Đức Phật phóng quang mà tiếp độ đó". Thì Ông Phật, Ông nói: "Ta làm sao ta tiếp độ được". Mà khi đức Phật còn sống đức Phật nói: "Các con tự thắp đuốc lên mà đi, Ta là người hướng đạo chỉ đường thôi, chứ Ta đi đâu có được". Vậy thì làm sao mà tiếp độ được, ông phải hiểu cho rõ như vậy đó.

Đó thì như vậy là muốn không sai lầm, lãng phí, mê tín, thì chúng ta biến cái mê tín đó nó trở thành cái thực lòng hiếu hạnh của chúng ta. Thì đó là cái đạo đức, và không lãng phí chúng ta không rước nhiều. Đừng có nghĩ rằng mình trai tăng đó, mời hai ba chục ông thầy ngồi lên cái làm, nào là bao thơ tiền. Rồi tứ sự, nào là vải, xà bông, rồi bột ngọt, bàn chải, kem đánh răng gì đủ thứ hết. Mỗi ông một gói gói vậy, trời ông nào cũng đi trai tăng.

Cho nên mấy ông thầy chùa nói sao quý vị biết không? Nói: "Chỉ cần tôi móc một cái là, tôi mới Sa Di tôi móc hai chục. Mà mới thọ Tỳ kheo thì tôi móc một cái là được năm chục. Mà mấy ông lớn Hòa thượng thì móc từ hai trăm, ba trăm".

Móc cái gì? Cái y mà móc như thầy, cái y của thầy Thông Vân nè, đó gọi là móc. Cho nên mấy ông nói với thầy: "Trời ơi tôi chỉ cần móc một cái là có hai chục liền, mà đó là chú Sa Di", có không?

Cho nên quý vị trai tăng là quý vị phải bỏ tiền bạc ra làm này kia, để cầu siêu cha mẹ mình chứ gì, phải không? Do đó mới hai hàng thầy trai tăng mới ngồi hai bên. Rồi các vị mà lớn, Hoà thượng, những vị mà gọi là Hòa thượng, Thượng tọa, ngồi trên cái bàn lớn này. Thì cái gói đồ, tiền bạc nhiều ở trong đó, thơ nhiều nữa, bởi vì người ta lớn, công đức người ta to. Cho nên mình nhờ cái công đức của người ta để mà giải thoát cho cha mẹ, linh hồn cha mẹ mình chứ gì.

Do đó trai tăng, tưởng như vậy, đó là những cái điều kiện quý vị mê tín mà sai lạc, phi đạo đức đó. Mà mấy ông thầy người ta được tiền, mà người ta còn nói: "Cái y người ta móc lên có hai chục, ba chục rồi", thật sự ra chuyện nghe đau lòng lắm.

(01:42:01) Cũng từ cái chỗ sai lầm đó mà người ta chỉ lấy cái y của người ta mà tượng trưng ra người ta nói: "Cần móc cái là hai chục". Nghĩa là Sa Di, chú móc cái là chú được hai chục rồi. Có làm cái gì đâu, ăn no mà lại còn có tiền bỏ túi xài nữa, sướng quá cho nên họ sắm xe dream chạy là phải. Mà cái người ngu là ai? Phải quý Phật tử không? Phải không?

Tại vì mình ngu người ta mới móc cái người ta lấy tiền liền. Quý vị phải biết rằng Thầy nói thật sự hoàn toàn họ dám nói lời nói đó. Còn y của Thầy có móc được không? Đâu có móc, móc ai được. Bởi vì giới luật dạy quý vị cúng dường tiền đâu có lấy, đâu có nhận. Bởi vì người tu sĩ mà đâu có cầm tiền, giữ tiền, phải không?

Bây giờ quý vị, Thầy đói, Thầy xin cơm ăn, mà Thầy no thì thôi, cho dư không lấy. Cái đó là cái hạnh của người tu người ta mà, khất thực mà. Đó, cho nên bây giờ trong cái giai đoạn mà tổ chức được cái đường lối mà đi xin ăn như vậy, không bao giờ mà dạy Phật tử mê tín làm những điều đó. Quý vị không có tốn tiền lãng phí, nó đi vào đúng cái chánh đạo.

Đó như vậy gọi là những cái điều mà chúng ta làm đúng, là điều kiện chúng ta nhờ những bậc chân tu, giới đức người ta dạy cho mình đúng cách cúng dường, bố thí. Làm được cái đó là cái phước rất lớn của mình, mình không hao phí trong bậy bạ, phải không?

19- NGƯỜI MUỐN TU HÀNH ĐÚNG THÌ PHẢI CÓ THIỆN HỮU TRI THỨC CHỈ DẠY

(01:43:16) Trưởng Lão: Bây giờ Thầy trả lời rồi cái phần này, bây giờ tới cái phần này.

Trong cái sự mà ngồi thiền, mà nó khi mình nương hơi thở, mình thấy hơi thở ra, vô mình biết mà nó đổ mồ hôi, nó ra mồ hôi, thì cái đó nó không quan trọng. Bởi vì đó là một cái sự khi mình ngồi yên lặng, mà một lúc rồi bắt đầu nó xuất mồ hôi ra, nó không phải bệnh đâu. Mà nó coi như cái thân trược của mình nó tống những cái mồ hôi, nó ra những cái trược, gọi là bài tiết đó. Mà nhờ cái sức mình ngồi sau thời gian nó sẽ hết, thì cái thân nó sẽ nhẹ nhàng lắm. Cho nên mình mới ngồi thiền hay đổ mồ hôi, tức là nó bài tiết ra những cái uế trược ở trong thân của mình, cho nên cái đó là cái tốt.

Còn ngồi thiền mà đúng, sai thì mình nên đến một cái vị Thiện hữu tri thức, người ta biết cách người ta dạy cho mình ngồi. Rồi về cái định niệm hơi thở mà ra vô, người ta dạy mình đúng cách chứ không khéo mình thở sai nó cũng sai nữa. Cho nên muốn tu thì nói chung là mình phải gần Thiện hữu tri thức, cái người có kinh nghiệm rồi, người ta dạy về cách thức mình tu thiền định, nó tốt nhất.

Thí dụ như có cái duyên mà trong một tuần lễ thì coi như là mình, có dù mình có về nhà mình tu đi nữa, thì trong một tuần lễ mình đến, mình cũng phải gặp vị thầy đó một lần. Để trong cái khoảng thời gian một tuần lễ mình tu nó có nhiều lắm, chứ không phải ít đâu. Thì cho nên cái trạng thái mà nó xảy ra, thì cái gì thầy đó khi đến kiểm tra, họ nắm được cái trạng thái xảy ra của mình đúng hay không, rồi cách thức của mình hành. Nhiều khi mình hiểu, mà mình hiểu chưa có rõ hết đâu, cho nên mình hành cái sai, rồi cái vị thầy đó người ta sửa lại cho đúng.

Từ đó bởi vậy tu phải có Thiện hữu tri thức, tu hành thì có bạn để mình thấy người ta tu mà mình lười biếng thì nó sách tấn mình, mình ráng, mình không có lười biếng được. Còn có thầy thì cái sai thầy sửa liền, nó không mất thời gian, chứ không khéo mình tu sai rồi nó không có thầy, cái mình mất thời gian. Đó là những cái tu

20- GIỚI LUẬT ĐỨC HẠNH CỦA NGƯỜI TU SĨ PHẬT GIÁO

(01:45:08) Cho nên ở đây cái phần mà quý Phật tử hỏi Thầy, đó là cái phần thật sự là quý vị có tâm tha thiết hướng về Chánh pháp, muốn làm sao làm tốt lại Phật pháp. Như vậy rõ ràng là nãy giờ quý vị được nghe Thầy nói và như vậy cố gắng ở Châu Đốc, chúng ta tạo được một cái địa điểm tốt, để cho quý vị sinh hoạt đúng cái Phật giáo.

Chứ bây giờ đến chùa, bây giờ là nói ở Châu Đốc này có một cái người muốn cúng dường cho Thầy một cái chùa, thí dụ như vậy đó, Thầy không dám lãnh. Bởi vì Thầy lãnh cái chùa đó, thì Thầy phải thực hiện theo các cái giáo pháp của cái chùa rồi, chứ còn không phải là cái giáo pháp của đạo Phật nữa.

Cho nên vì vậy Thầy chỉ muốn chúng ta cất những cái túp lều tranh vách lá, rồi chúng ta cư ngụ trong cái cảnh mà người ta nói: "Xả phú cầu bần, xả thân cầu đạo", chúng ta xả cái giàu sang của chúng ta ra. Thì bây giờ lãnh cái chùa, tức là cái chùa đó vỡ lở có hư thì Thầy cũng phải trùng tu lại chứ. Nếu mà Thầy lãnh cái chùa mà Thầy không trùng tu, họ nói: "Ông Thầy này bộ ăn hết của Phật tử, rồi không có lo cất cái chùa, bây giờ chùa sập. Để ở nhà tranh vách lá vậy coi sao được".

Thà bây giờ Thầy kiếm cái khu đất nào đó, Thầy cất nhà tranh vách lá, Thầy giữ cái hạnh tu, thì nó hơn là Thầy ở trong cái chùa sang. Bởi vì một người tu sĩ, người ta xả cái giàu sang mà người ta đi tìm vào cái nghèo, cái tri túc thiểu dục. Người ta nghèo đến nỗi mà người ta có ba y, một bát mà. Quý vị nghĩ coi người ta không có được cái ly uống nước như vậy nữa.

Cái bát là cái để mà đựng cơm ăn, cái bát để mà uống nước, phải không? Rồi cái bộ quần áo của người ta gọi là y trung, y thượng, y hạ, nó có một bộ đồ. Có một bộ đồ chứ đâu phải là nhiều bộ đồ đâu. Cho nên cái đời sống của tu sĩ- thiểu dục tri túc tối đa, không có nhiều.

Cho nên đối với cái bộ đồ này, thí dụ đây là một cái, cái y trung là cái áo của Thầy mặc, còn cái quần mà Thầy mặc ở dưới đây là cái y hạ và cái y thượng là cái nơi mà Thầy tràng, đó là cái y thượng. Cho nên có một bộ đồ, đi đâu cũng có một bộ đồ, cứ mang kè kè như vậy đó. Với cái bát để đựng đồ ăn, xin cơm ăn đó thôi, cho nên nó có bao nhiêu đó thôi, cái gia tài nó không có nhiều.

Nó có một cái y cũ, cái y này mà rách cũ, thì cái vị đó mới xếp nó lại, mới để trong cái bát. Khi đến cái khu vực đó đó, mới trải nó ra để nằm, hoặc là trải nó ra làm cái toạ cụ, người ta gọi là tọa cụ, hay là họa cụ. Hễ trải cái y nó cũ, nó rách, cho nên nó không còn giống vậy nữa, cho nên lấy mới xếp lại, mới để trong cái bát của mình, chứ không có được mà mang chiếu, mang mền theo đâu.

Cho nên mới trải ra, trải ra rồi để nằm ở trên đất, ở trên cỏ, nói chung là ở trên đất, chứ không được nằm ở trên cỏ xếp nữa. Do đó mới trải ra, hoặc ngồi thiền thì xếp vuông nó lại rồi mới ngồi thiền, làm cái tọa cụ, trải ra rồi làm cái tọa cụ để mà nằm. Nó không có giường chõng, không có mền. Lấy cái y thượng này trời lạnh thì đắp, mà trời nực thì chỉ còn cái mặc cái y trung, y hạ mà thôi.

Đó là cách thức sống của một đời sống thiểu dục tri túc của một bậc đức hạnh, phạm hạnh của một người tu sĩ. Bây giờ thì chúng ta không thấy người nào làm cái điều đó. Cho nên Thầy cố gắng, Thầy trùng hưng lại cái đời sống, thì do đó cái đời sống du tăng, họ sẽ không ở một nơi nào đó.

(01:48:08) Thí dụ như bây giờ thầy Thông Vân, thầy ở Châu Đốc. Nhưng mà thành lập cái khu vực ở đây rồi, thì ít hôm quý Phật tử sẽ không thấy thầy Thông Vân. Vì thầy đã đi ở cái điểm khác, thầy sẽ thực hiện những cái gương hạnh tu. Thì có một vài thầy, hay năm ba thầy, người ta sẽ đến cái tụ điểm này người ta ở. Người ta không nói cái gì hết, người ta đến đó, người ta làm những cái lợi ích thọ Bát Quan Trai.

Rồi có một người, người ta đại diện, người ta chỉ cho cách thức cho quý vị tu thiền định như thế nào, thế nào. Rồi quý vị trong cái thọ Bát Quan Trai trong ngày đó, quý vị sẽ giữ im lặng như thế nào mà hành thiền, rồi người ta theo dõi, cái vị tu sĩ đó người ta theo dõi.

Cũng như thầy Thông Vân, thầy ở đây thầy làm những cái hành động đó giúp cho quý Phật tử. Rồi quý Phật tử thực hiện như vậy để tập tu, để cho thực hiện được cái đạo đức giải thoát. Làm cho gia đình mình hạnh phúc, làm cho cái cuộc sống xung quanh mình mọi người đều được an vui, đó là cách thức người ta hướng dẫn.

Rồi cái số thầy này, người ta ở một thời gian một tháng, hai tháng người ta đi. Cho nên đối với Phật tử thường là các bậc tu sĩ đều là thầy mình hết, chứ không có một vị thầy nào cả. Nhiều khi cái vị thầy ở lâu quá nó có cái tình cảm giữa nhau, thầy trò nó có tình cảm. Cho nên do đó, mặc dù cái tình cảm thầy trò chứ không phải là tình yêu đâu, nhưng mà nó vẫn có cái tình cảm. Cho nên vì vậy vị thầy này ở thời gian đi, thì cái tình cảm đó coi như chúng ta ban rải cho tất cả các thầy, chứ không phải tập trung cho một ông thầy.

Đó là một cái sự tu của đạo Phật, đã thực hiện được cái điều đó. Và đồng thời chúng ta ở chỗ này, rồi dời chỗ khác, chúng ta cũng không bị dính mắc những ngôi nhà này nữa. Còn nếu không chúng ta ở một chỗ, chúng ta dính mắc từ cái cây, cái cỏ chúng ta ở, rồi nó quen thân rồi đi nó buồn. Cái tình cảm của chúng ta nó bị, đối với cái cây cỏ mà chúng ta còn buồn.

Cái con người mà, đâu có phải là cái gộc cây hay sao mà nó cứng đơ, cứng ngắc đâu quý vị. Còn Phật tử ra vô mà cúng dường cho quý thầy, thấy cái đạo đức của cái hạnh của quý thầy, người ta rất mến, người ta kính trọng cái đạo đức. Cái tình cảm của quý vị là còn cái tình cảm của con người mà, thấy cái vị thầy rất mến.

(01:50:02) Đây là Thầy nói không có đi xuyên qua cái tình yêu đâu, mà cái tình người. Thấy cái hạnh của vị thầy đó rất mến, cho nên nhiều khi thầy đi mình buồn, mình khóc. Cho nên vì vậy mà vị thầy đó không có ở lâu, ở đây mình đến với vị thầy khác. Cho nên cái tình của mình nó cũng không có phải là thấm thía như đến nỗi như vậy, nhưng mà mình rất thương các thầy, các thầy người nào cũng sống cái hạnh thiểu dục.

Cho nên Thầy, Thầy muốn tạo ra được những cái gương hạnh đó, để cho quý Phật tử kính trọng các vị Tăng như là kính trọng đức Phật vì cái hạnh đó, mà cái tình cảm mình nó không bị len lỏi vào. Vị thầy nào mình cũng mến trọng, vị thầy nào cũng như là đức Phật hết. Đó là cách thức mà Thầy cố gắng, Thầy sẽ làm.

Và cái điểm ở Châu Đốc này, Thầy ước ao là ngày mai có thầy Thông Vân là cái người ở đây, có anh em ở đây, thì ngày mai thầy Thông Vân là cái người có thể nỗ lực thực hiện được cái này. Thì cũng nhờ quý Phật tử ủng hộ giúp đỡ rất nhiều để được thực hiện. Mà cũng ủng hộ giúp đỡ cho thầy Thông Vân thì là tạo cái chỗ cho mình thọ Bát Quan Trai, mình thực hiện được cái đạo đức của đạo Phật.

Chứ bây giờ vô chùa họ mình thực hiện kiểu này, chắc họ đuổi mình chạy ra, bởi vì mình làm nó không có đúng với họ. Thay vì ông thầy đó ăn ba bữa, mình vô mình chơi mình ăn một bữa, cái chuyện đó chắc họ chướng mắt quá rồi, không có được. "Cư sĩ gì mà ăn một bữa, mà mình ăn mấy bữa, cư sĩ gì mà giới luật hiểu rành hết, còn mình tu sĩ nhiều khi hỏi giới luật không biết nữa".

Đó cho nên vì vậy đó là những cái nó nghịch với nhau. Cho nên mình đến chùa người ta mình sinh hoạt là đã làm người ta khổ thì cũng không nên. Cho nên mình phải tìm cái nơi mình sinh hoạt để cho đúng đường.

Mình tạo…​ Bởi vì bây giờ thay vì nó cũng phải có những cái nơi sẵn tổ chức, nơi nó đã sẵn có như từ lâu, thì quý Phật tử ra đời trong cái giai đoạn này nó đã sẵn, thì nó đi vào trong cái khuôn khổ nó dễ. Bây giờ nó chưa có, mà làm cho có thì quý Phật tử phải cực khổ. Nhưng mà nếu mình không xây dựng thì ai xây dựng cho mình? Cho nên mình phải nỗ lực mình làm mới có chứ.

Thật sự là quý thầy phải chuẩn bị, như thầy Thông Vân bây giờ thầy cũng phải chuẩn bị cho mình những cái đạo đức. Những cái gì mình chưa đủ, mình sẽ chuẩn bị mình cho đủ để mình làm cái gương hạnh, để cho Phật tử đến đó mà sinh hoạt đúng cái môi trường của Phật giáo. Do đó vì vậy cho nên chuẩn bị hết mọi mặt, rồi từ đó mà nó thành hình ra thì cái gương hạnh của thầy Thông Vân là cái nơi mà có thể nói là quý Phật tử sẽ nương tựa.

(01:52:23) Và đồng thời thì cái thời gian mà thầy Thông Vân sẽ thực hiện được, thì ở trên Tu Viện Thầy sẽ đưa những người có thể đến đây để tạm thời. Thời gian một tháng, hoặc hai tháng đến đây để mà thực hiện những cái gương hạnh, thì mới thấy được những cái oai nghi tế hạnh của những bậc tu chứ. Chứ không bây giờ mình đi tìm những cái bậc đó không ra, không thấy được. Mà bây giờ khi không người ta ở đâu, người ta mang gói xuống đây, người ta thực hiện được sao? Đâu phải chuyện dễ đâu, phải hiểu.

Cho nên phải có một cái sự tổ chức, phải có một cái sự làm đúng. Và đồng thời mình không cất chùa, cất chiền thì nhà nước người ta đâu có nghĩ mình cái gì đâu. Mình chỉ thực hiện những cái đạo đức, cái dưỡng sinh của mình để thực hiện được cái tốt thôi. Còn bây giờ mình cất chùa, cất này kia, mình thờ Phật đồ đó là sai. Ông Phật hồi trước ông thờ ai bây giờ? Ổng đi, Ông có mang ông Phật Thích Ca theo không? Các con nghĩ.

Cho nên hồi đó mình thấy ổng cất cái chòi ở trong đó không có thờ ông Phật. Còn mình bây giờ vừa cất cái nhà cái đem ông Phật tưởng lên. Chính hằng ngày mình thực hiện được cái đạo đức, đó là đức Phật Thích Ca đã thể hiện. Cho nên đức Phật nói: "Ở đâu mà có giới luật thì đức Phật Thích Ca ở đó", đó là ông Phật, Ông nói mà.

Có một vị Tỳ kheo nói: "Con xa đức Phật quá, con nhớ đức Phật".

Thì đức Phật nói: "Nếu mà thầy thực hiện giới luật, thì ngay đó là đức Phật ở bên ngay bên rồi thì thầy còn nói gì mà xa Phật".

Mà mình thực hiện cái đạo đức đó là mình thực hiện được cái hình ảnh, cái hành động của đức Phật ở tại đó rồi. Chính thân mình là thực hiện được hành động Phật, thì Phật ở tại đó chứ đâu phải, cho nên đâu cần phải tượng trưng cái hình Phật đâu. Chỉ sợ mình ăn phi thời ngày ba bữa mà thấy ông Phật, thì ông Phật, Ông khóc ròng à, phải không, quý Phật tử thấy không?

Nếu mà mình là đệ tử của Phật, như vị Tỳ kheo như Thầy mà ăn ba bữa mà gặp đức Phật, đức Phật, Ông khóc liền, Ông nói: “Ngày xưa thì đức Phật dạy thừa tự pháp chứ không phải thừa tự thực phẩm. Thế mà con bây giờ, các thầy Tỳ kheo bây giờ thừa tự thực phẩm mà xa lìa pháp, thì đâu phải là đệ tử của ta nữa".

(01:54:17) Cho nên đức Phật mà gặp mấy thầy mà ăn ba bữa thì đức Phật khóc. Không phải đệ tử của mình mà để bây giờ mà nhận đệ tử của mình, mà bảo nhận được, làm sao nhận được, cho nên đức Phật phải khóc chứ làm sao. Thấy đệ tử của mình bây giờ nó sai trái quá rồi mà làm sao mà không đau lòng được.

Cũng như Thầy dạy năm, người người đệ tử, mà nó không nghe lời Thầy, Thầy đau lòng lắm chứ. Cái trách nhiệm của mình dẫn dắt nó đi đến nơi, đến chốn, mà nó không nghe thì làm sao dẫn dắt nó được. Thì cái trách nhiệm của mình như thế nào, phải khổ đau chứ, coi vậy chứ buồn lòng lắm chứ, thì Thầy nói như vậy là các con hiểu.

Do đó Thầy mong muốn ở Châu Đốc cũng có một cái nơi mà để cho Phật tử sinh hoạt đạo đức. Chúng ta tập đạo đức, đừng nghĩ rằng thiền định gì cả, mà phải xây dựng mình trên một cái nền đạo đức của đạo Phật, cái đạo đức nhân quả không làm khổ mình. Nam cũng vậy mà nữ cũng vậy, chúng ta thiếu đạo đức thì chúng ta tự làm khổ mình mà làm khổ người khác. Nói chung những người thân của mình, mình thiếu đạo đức là mình đã làm khổ những người thân mình trước tiên.

Đó thì hôm nay Thầy nói, bây giờ còn hỏi Thầy thêm gì nữa không? Thầy sẵn sàng để rồi mai mốt Thầy về rồi không có hỏi Thầy được.

Phật tử: Quý chú, quý cô muốn hỏi gì thì cứ mạnh dạn…​

Bởi vì Thầy biết rằng các con có nhiều công việc làm. Đến như thế này, thay vì bây giờ giờ này nằm nghỉ, hay hoặc là nghỉ ngơi, mà được đến đây mà nghe là cũng phải là dành hết cái sức của mình ra, chứ không phải là đơn giản.

Thầy biết cái lòng các con tha thiết mới đến đây, chứ còn nếu không tha thiết thì không đến đâu. Do đó tha thiết như vậy mà rồi đây cũng đâu có phải là gặp Thầy được thường xuyên sao? Như Thầy ở đây thì các con: "Bây giờ ngày hôm nay mình rảnh, mình về mình thăm Thầy, mình hỏi Thầy thế này, thế khác". Nhưng mà Thầy ở xa, mấy con muốn đi gặp Thầy, một lần về Tây Ninh đâu phải chuyện dễ đâu, phải không?

(01:56:04) Cho nên hôm nay thì nghe Thầy nói thì nó, Thầy biết rằng các con cũng chưa có chuẩn bị mình để hỏi Thầy cái gì, để chỉ nghe thôi. Cho nên bây giờ muốn hỏi thì cũng chưa có biết hỏi làm sao hết. Nhưng mà một ngày nào đó mà có những câu hỏi, thì các con sẽ hỏi địa chỉ của Thầy gửi, Thầy sẵn sàng trả lời các con.

Phật tử ở miền Bắc, người ta xa xôi hơn ở Châu Đốc rất nhiều, thế mà thường xuyên người ta hỏi Thầy về đạo đức, về những cái gì người ta gửi thơ. Coi như là Thầy đi đây là Thầy nhân ra bao nhiêu thơ của phật tử gửi Thầy, về để trả lời những cái đạo đức cho họ thực hiện cuộc sống. Vì Thầy đã dạy họ, họ thực hiện họ thấy những kết quả đối xử trong gia đình họ rất thích, từ đó họ hỏi để đi sâu vào những cái đạo đức đó.

Cho nên đối với Thầy khi mà ra miền Bắc, Thầy đã đem tới cái đạo đức nhân quả, Thầy đã hướng dẫn họ. Họ đã thực hiện được những cái đạo đức rồi họ về, Thầy về rồi bắt đầu họ hỏi những cái chi tiết để mà thực hiện những cái đạo đức nhân quả. Chừng đó Thầy viết từng cái bức thơ, Thầy gửi đến cho những người Phật tử, coi như những đứa con của mình đang khổ đau, đang thiếu đạo đức, mình phải dạy nó từng cái đạo đức. Mình đem lại một cái tình của một người cha, một người thầy, để giúp cho nó được cái đời sống giải thoát. (01:57:12)

HẾT BĂNG

1998 - THẦY GIẢNG GIỚI ĐỊNH TUỆ 03 - NHỮNG ĐIỀU MÊ TÍN NGƯỜI PHẬT TỬ CẦN BIẾT

1998 - THẦY GIẢNG GIỚI ĐỊNH TUỆ 03 - NHỮNG ĐIỀU MÊ TÍN NGƯỜI PHẬT TỬ CẦN BIẾT

THẦY GIẢNG GIỚI ĐỊNH TUỆ 03 - NHỮNG ĐIỀU MÊ TÍN NGƯỜI PHẬT TỬ CẦN BIẾT

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Phật tử

Thời lượng: [01:16:40]

Thời gian: 1998

Tên cũ: 1998-Giới-Định-Tuệ 3-Ptử ChâuĐốc

1- PHẬT DẠY CÚNG DƯỜNG, BỐ THÍ PHẢI CÓ TRÍ TUỆ, ĐỪNG ĐỂ NGƯỜI KHÁC LỪA ĐẢO MÌNH

(00:00:00) Trưởng lão: Chính người tu sĩ Phật giáo sẽ giết Phật giáo chết là những tu sĩ phạm giới, phá giới. Đó thì quý vị nhớ kỹ những cái điều đó, cho nên thanh tịnh tức là người cá nhân phải là thanh tịnh. Bây giờ chúng ta đến cái chùa đó có hai chục vị tăng, ba chục vị tăng, tức là tập thể. Mà tập thể đó không hòa hợp, chia phe, chia nhóm trong đó tranh nhau, đó là cái thứ nhất.

Cái thứ hai giới luật của các vị đó không nghiêm chỉnh, ăn uống phi thời ngày ba, bốn bữa thì quý vị không nên cúng dường. Nếu quý vị cúng dường, tức là nuôi bọ chét ở trong lông sư tử để giết Phật giáo chết. Cho nên Phật giáo, đức Phật đã tuyên bố: "Nơi đâu mà giới luật có thì đạo Phật còn, mà nơi đâu giới luật mất thì đạo Phật mất".

Các chùa nào mà giới luật nghiêm chỉnh, quý thầy giữ gìn nghiêm chỉnh, thì cái chùa đó là Phật giáo còn. Còn cái chùa nào mà giới luật không nghiêm chỉnh, tức là Phật giáo sẽ mất ở đó. Mà quý vị cúng Phật hay là cúng Ma, quý vị nhớ kỹ, người cư sĩ phải sáng suốt trên sự cúng dường.

Còn sự bố thí đức Phật cũng nói: "Phải là đối tượng thanh tịnh, là một người không lừa đảo". Một người, người ta không què tay chân, mà người ta giả đò, người ta lấy vải người ta bó tay chân, người ta lấy thuốc đỏ người ta trét lên, người ta nói người ta bị thương cụt tay, người ta xin tiền. Do đó mình bị gạt mà mình lại đem tiền mình cho họ, mình thấy họ thương, nhưng mà cuối cùng mình bị lừa gạt. Như vậy là cái đối tượng đó không thanh tịnh, cho nên chúng ta phải quan sát rất kỹ.

Vì vậy mà đức Phật nói: "Cúng dường, bố thí phải có trí tuệ". Nhìn kỹ chứ không thể để tình cảm của chúng ta, vội vàng mà bỏ tiền ra giúp rồi bị lừa đảo. Đừng nghĩ rằng "tôi cứ việc làm thiện là tôi được phước", không phải.

Phật ví dụ như quý vị đem một cái hạt giống mà bỏ trên đường đất dầu, thì cái hạt giống đó có lên được không? Làm sao lên được. Nhưng mà quý vị bỏ cái hạt giống đó, một cái hạt giống tốt đó mà bỏ vào một cái đất ẩm ướt, một cái đất tốt phì nhiêu, hạt giống đó lên được không? Lên được và có quả cho quý vị hưởng. Còn cái hạt giống bỏ trên đường đất dầu, trên đất cát chai làm sao hạt giống lên được.

Do quý vị bỏ cái mồ hôi nước mắt của quý vị không đúng chỗ thì quý vị không thọ hưởng được cái gì cả, mà nhiều khi còn làm hại cho một cái điều khác. Như quý vị cúng dường sai, là quý vị đã hại Phật giáo, quý vị thấy chưa?

Cho nên ở đây sự cúng dường của quý vị phải rõ ràng, và phải đúng đắn, phải thanh tịnh, không thể nào mà cúng dường với một cách bừa bãi, thiếu trí tuệ thì không thể được.

2- COI NGÀY GIỜ TỐT XẤU LÀ MÊ TÍN DỊ ĐOAN, PHI ĐẠO ĐỨC, CẦN PHẢI TỪ BỎ

(00:02:31) Bởi vậy Thầy dạy đệ tử, người cư sĩ Phật giáo phải đúng như lời của Phật dạy, không thể làm sai, vì vậy Phật giáo mới còn trong thế gian. Nếu chúng ta đụng đâu cúng dường đó, miễn là chúng ta cúng dường với sự trao đổi mê tín bằng cách này, bằng cách khác như: cúng sao, cúng hạn, coi sao, bói quẻ, coi ngày tốt xấu. Rồi quý vị cúng dường như vậy thì cuối cùng quý vị được cái gì? Được phước cái gì?

Trong khi quý vị đã bị mê tín, bị lường gạt bằng những cái hình thức mê tín. Trong khi quý vị làm cái nhân ác, mà bây giờ quý vị coi cất cái nhà này, cái ngày tốt, mà quý vị làm ác thì mai mốt cái nhà này lửa cháy hay hoặc là nước trôi. Thì quý vị nói: "Tôi sao coi ngày mà lại cái nhà tôi lại xảy ra như vậy?".

Thật sự ra có phải là những cái người mà đang hiện có những nhà cửa bị bão lụt, bị sập, bị đổ, có phải họ có coi ngày không? Có chứ làm gì mà dân Việt Nam mình khỏi coi ngày, thế mà sao cũng bị sập, bị đổ vậy, phải không? Quý vị hiểu không?

Bây giờ trong thành phố chúng ta có cất cái nhà cũng phải coi ngày, coi giờ. Nhiều người bây giờ Thầy nói thật sự ra vẫn còn cái mê tín điều đó nữa. Mà trong khi hành động thiện ác của chúng ta, nó mới bảo vệ được của cải, tài sản của chúng ta khi chúng ta làm thiện. Còn chúng ta làm ác, thì dù bây giờ chúng ta có coi ngày giờ tốt xấu gì, thì cái sự việc đó nó sẽ xảy đến chúng ta do cái nhân quả thiện ác của chúng ta. Chứ đâu phải ngày giờ mà định được cái sự giàu sang đó cho chúng ta được sao? Thế cho nên vì vậy đó là hình thức mê tín, chúng ta cần dẹp những cái điều đó đi.

Chúng ta phải tin tưởng rằng không phải ngày giờ tốt xấu đó mà làm nên sự nghiệp đâu, mà chính hành động thiện ác của chúng ta làm nên sự nghiệp. Vì vậy đứng trong góc độ Phật giáo Thầy khuyên quý Phật tử đừng nên tin những cái điều đó, mà phải làm đúng đắn.

(00:04:08) Còn đối với cái sự ma chay chúng ta biến thành cái sự mê tín, cầu siêu linh hồn của ông cha chúng ta thì hãy biến thành cái lòng hiếu hạnh của chúng ta. Rước một cái ông thầy chùa đến mà tụng kinh, do cái lòng hiếu chúng ta để làm cho nó ấm cúng được cái ma chay của gia đình của chúng ta, mẹ cha chúng ta.

Nhờ như vậy chúng ta nghe tiếng tụng niệm đó, nó làm cho tâm hồn chúng ta thanh thản, an lạc, trong khi mà mất mẹ, mất cha. Nó làm cho cái nguồn an ủi cho tâm hồn của chúng ta. Chứ sự thật ra linh hồn cha mẹ mình còn ở đâu mà đi siêu sanh Tịnh Độ. Thì quý vị phải biến những cái hành động đó để trở thành cái hành động đạo đức của chúng ta, đối xử với cái tình nghĩa hiếu hạnh của chúng ta khi một người con mất mẹ, mất cha thì như vậy nó có nghĩa lý.

Còn quý vị nghĩ là ông thầy tụng kinh đó là vong hồn mình siêu sanh Tịnh Độ, cha mẹ mình được về Cực Lạc. Điều đó là một điều mơ hồ, huyễn hoặc chứ không thật. Cha mẹ mình làm ác trong thế gian này, làm sao mà sanh được về Cực Lạc được, cho nên đâu phải là làm thiện.

Nếu mà ông ta đã làm thiện thì đâu cần gì phải cầu siêu, phải không? Quý vị phải hiểu, mà phải hiểu bằng cái trí tuệ như vậy mới là đúng nghĩa của đạo Phật, mới gọi là trí tuệ, chứ nếu mình hiểu sai thì nó đâu có đúng nghĩa đâu.

3- NHỮNG GÌ ĐỨC TRƯỞNG LÃO DẠY HÔM NAY CHÍNH LÀ LỜI PHẬT DẠY NĂM XƯA

(05:12) Cho nên hôm nay điều kiện Thầy giảng cho quý vị Giới, Định, Tuệ, nói hết tất cả những cái điều mà người cư sĩ…​ Nó còn nhiều điều mà Thầy sẽ lần lượt, nếu có duyên gặp Thầy, Thầy sẽ dạy, chúng ta sẽ đi vào chánh pháp không bị tà pháp. Và không bị kẻ khác lừa đảo chúng ta bằng cách là họ buôn Phật, bán Pháp, bằng cách họ làm điều này, thế kia. Vì cái danh, cái lợi của họ mà họ làm điều đó mà chúng ta là không hiểu về Phật pháp như thế nào, rồi chúng ta bị kẻ khác lừa đảo mà chúng ta không biết. Cho nên chúng ta phải sáng suốt và cẩn thận, đừng có để kẻ khác lừa đảo mình.

Bởi vì ở trên này người ta mượn cái hình thức tôn giáo người ta lừa gạt nhiều lắm. Và con người của chúng ta đã bị lừa gạt rất nhiều, vì vậy bây giờ có Thầy, Thầy sẽ nói tất cả những cái đó để mà chuẩn bị cho quý Phật tử không bị kẻ khác lừa gạt mình nữa.

Đó là hôm nay Thầy về đây với Châu Đốc, Thầy mở ra một cái hướng đúng chánh pháp của Phật, để giúp cho quý vị Phật tử ở đây càng ngày càng sáng suốt. Để trên con đường của đạo Phật càng ngày càng chấn hưng lại, do cái công lao của quý vị Phật tử cúng dường đúng, hoặc là không cúng dường đúng, hoặc thực hành đúng để tâm hồn mình giải thoát. Thực hiện lại cái ngọn đuốc của Phật pháp, dạy chúng ta những đạo đức đó bây giờ chúng ta được giải thoát, được an vui, được hạnh phúc, trong gia đình của mình rất là hạnh phúc.

Thì điều đó Thầy đã đem cái đạo pháp đi, đạo Phật- chánh pháp đến đây để giúp cho quý vị giải thoát, không đem cái sự mê mờ bằng những thần thông phép tắc. Mà từ lâu người ta nghĩ rằng thầy Thông Lạc có thần thông phép tắc, biến hóa, tàng hình. Mong Thầy đến đây ngồi thiền năm, bảy ngày, một tháng cho mình xem chơi. Đâu lẽ Thầy đi tu hành mà Thầy làm cái trò thiên hạ coi hay sao?

Quý vị nghĩ điều đó, cho nên quý vị đừng nghĩ rằng: "Thầy phải thể hiện thần thông thì quý vị mới tin Thầy", điều đó không phải. Dù bây giờ tin hay không tin thì quý vị nói như thế nào Thầy cũng chẳng bao giờ mà Thầy thể hiện thần thông. Vì Thầy đã tuyên bố với quý vị rằng: "Thầy không có thần thông, làm gì mà Thầy thể hiện được".

Mà Thầy là người tu sĩ của đạo Phật chân chánh, thì chắc chắn là Thầy có thần thông. Thì bây giờ quý vị làm gì Thầy cũng không thể hiện đâu, Thầy thể hiện quý vị là trong nhân quả của quý vị mà thôi.

Cho nên ở đây trên cái việc mà Thầy về đây là mục đích Thầy hướng dẫn cho quý vị từ cái cúng dường cho đúng chánh pháp. Từ những cái mê tín để biến dần nó trở thành những cái hiếu hạnh của quý vị. Từ cái tu tập của quý vị, thiền định để quý vị tránh những cái điều mà quý vị tu sai, để giúp cho quý vị đừng có lạc vào tẩu hỏa nhập ma hoặc là loạn trí.

Thầy giúp cho quý vị đi vào con đường đạo đức đúng là con đường đạo đức không làm khổ mình, khổ người, mà đạo Phật đã xây dựng giáo lý của người ở trên cái đạo đức đó. Vì vậy hôm nay Thầy vạch ra cái chánh pháp để quý vị biết rằng đó là con đường của đạo Phật.

Ở đây Thầy nói quý vị đừng tin, quý vị hãy đọc lại kinh sách Nguyễn thủy. Và kinh sách Nguyên thủy của Phật, lời của Phật nói ngày xưa mà bây giờ người ta còn giữ lại. Quý vị sẽ đọc thấy lời Thầy nói không bao giờ sai lời Phật dạy. Cho nên những cái gì mà Thầy nói không phải của Thầy đặt ra, mà chính của đức Phật đã dạy.

(00:08:14) Vì vậy không có pháp này, Thầy không có là một giáo chủ đẻ ra cái pháp mới, xây dựng một cái đạo đức mới. Mà đây là cái đạo đức mà đức Phật đã xây dựng. Nhưng cái sự hoàn thành của đức Phật đã bị người ta gạt ra, cho nên tới bây giờ mà chúng ta chưa thấy cái đạo đức của đạo Phật như thế nào.

Hôm nay Thầy móc ra, Thầy làm sống lại để giúp cho quý vị thoát ra cảnh khổ của kiếp người. Trong cuộc sống của mình không còn phiền não đau khổ, không còn giận hờn, không còn buồn phiền, không còn bất toại nguyện trong lòng của mình nữa. Đó là những điều mà Thầy giúp cho Phật tử ở Châu Đốc này.

Và Thầy ước ao rằng, Thầy sẽ gặp nhiều Phật tử ở mọi miền và sẽ giúp họ sáng sủa hơn. Và giúp ở đây có một nơi để quý vị thực hiện cái hạnh tu của đạo Phật. Một tháng chúng ta thực hiện một ngày thọ Bát Quan Trai, để thực hiện cái đạo hạnh với cái đạo đức của chúng ta. Để luôn liên tục, để thực hiện cuộc sống của chúng ta trong cái đạo đức của con người tốt đẹp.

Đến đây Thầy xin dừng lại và đồng thời có duyên khi dịp nào mà Thầy trở về, thì được nghe những cái bài pháp. Và có ngày Thầy sẽ gửi cho quý vị những cái tài liệu mà Thầy sẽ soạn viết. Đó là giáo trình đạo đức nhân quả, giúp cho quý vị hiểu biết hành động hằng ngày của chúng ta, cái nào thiện, cái nào ác. Để chúng ta tránh mà tạo hạnh phúc cho mình và giải thoát cho mình, cho người, không làm khổ mình, khổ người, đó là cái điều ao ước của Thầy.

Và Thầy cố gắng để soạn cho xong cái bộ giáo trình đạo đức nhân quả, giúp cho các Phật tử thực hiện được cái đạo đức làm người. Đối xử nhau cho tốt, đem lại hạnh phúc cho nhau, xây dựng trên cái hành tinh này trở thành một thiên đàng, chúng ta cùng sống, đem lại hạnh phúc.

Đó như vậy thì đến đây thì Thầy, các vị mà còn thưa hỏi gì thì cứ hỏi Thầy thêm, để rồi Thầy trả lời, lát rồi Thầy sẽ về Tây Ninh. Rồi bây giờ các vị có hỏi Thầy gì không? Bây giờ Thầy xin tiếp tục trả lời câu hỏi.

4- NHÂN QUÁ KHỨ QUẢ HIỆN TẠI, NHÂN HIỆN TẠI QUẢ HIỆN TẠI

(00:10:12) Câu hỏi: Ở đây thì có một cái câu hỏi như thế này. Vì vô minh che lấp bản tánh chân thật, không phân biệt hư giả. Chúng con kính mong Thầy đại từ, đại bi chỉ dạy, mong Thầy hoan hỷ.

Cái thứ nhất làm sao phân biệt được nghiệp gen di truyền của cha mẹ.

Trưởng lão: Thì ở đây dễ dàng lắm. Nếu mà cái di truyền của cha mẹ trong hiện kiếp, thì coi như là mình sinh ra mình có, cha mẹ mình có cái tánh nào đó trong cái hiện kiếp.

Thầy nói cái kiếp này, bây giờ cha mẹ mình, thì mình, thí dụ như có một người đó nói giống cha, có người nói giống mẹ. Đó là cái di truyền của cha mẹ trong cái máu thịt của họ đã truyền qua mình.

Còn bây giờ cái người đó là có những cái đặc tính khác nó không giống cha mẹ. Nó có những cái giống nhưng mà có những cái không giống, thì cái đó là di truyền của cha mẹ mình đời trước, phải không? Cái đó là mình dễ nhận.

Thí dụ như cha mẹ mình không phải tu sĩ, mà sao bây giờ mình sanh ra trong nhà này mà lại bây giờ mình muốn tu. Là bởi di truyền đời trước mình đã gieo một cái nhân, mình hồi đó mình có tu rồi đó.

Cũng như bây giờ Thầy tu, Thầy chưa xong, Thầy chết đi. Thì cái kiếp trước Thầy sanh vào trong cái gia đình đó họ không có người nào tu hết, mà trái lại Thầy lại muốn tu. Thì đó là cái di truyền của tiền kiếp của Thầy, hiểu chưa? Đó là Gen đó, thấy rõ không?

Còn cái mà cha mẹ hiện đời mà bây giờ ông cha ông giận dữ, Thầy sanh ra, Thầy cũng tánh nóng giận dữ như vậy đó, thì nói đứa con này "sao mà nó giống cha quá trời".

Còn bà mẹ hiền lành, đứa con này nó hiền lành thì nó "đứa con này, đứa nhỏ này sao nó giống mẹ quá, nó hiền lành, ai nói gì nói, nó làm thinh, nó không nói gì hết". Thì đó là nó giống mẹ, tức là nó di truyền của cha mẹ.

Rồi bây giờ nó di truyền về cái học thức nữa, "ông cha, ông thông minh, ông học đỗ tiến sĩ, thằng con này nó học giỏi". Đó là di truyền về cái học thức nữa, nó học giỏi, nó thông minh, thành ra nó cũng sẽ đỗ tiến sĩ như ông cha, thì đó là di truyền.

(00:12:06) Hiểu cái di truyền chưa? Đó là cái nghiệp đó, cái nghiệp của nó đó. Như vậy là hiểu được cái quá khứ và hiểu được cái hiện tại rồi đó, cái hiện tại trong một kiếp.

Ví dụ như một đứa bé chín tuổi, mười tuổi bị câm, nó bị câm không phải là nó, cái nhân của nó không phải là ở trong cái hiện kiếp này đâu. Nhưng mà cái nhân quả của nó, nó đã tạo ở trong cái, thành một cái nghiệp lực của đời trước rồi. Cho nên vì vậy nó sanh ra cái kiếp này nó phải bị câm. Trước kia nó đã làm cái gì, cái nhân quả gì mà bây giờ nó bị câm?

Thí dụ như nó, thí dụ như cái nhân quả câm là lúc bấy giờ nó xảo quyệt, nó tìm mọi cách nó nói gạt, nói gẫm, nói người này, người nọ kia. Cho nên bây giờ nó sanh ra, nó vào cái chủng tử, vào một cái chủng tử cha mẹ nó khiếm khuyết một cái gì đó, làm cho cái lưỡi nó cụt hay như thế nào đó, để rồi nó câm.

Thầy thí dụ, thí dụ như cái người đó họ câm, là trong cái kiếp hiện kiếp của họ, họ thấy cái người mà bị câm, rồi họ nhạo báng, họ cười chê, họ cười chê tạo cái nhân quả đó. Cho nên sau khi đó, cái kiếp đó họ chết, thì sau cái kiếp tái sanh họ, họ lại bị câm. Bởi vì cái nhân quả nào thì nó phải trả cái nhân quả nấy.

Đó Thầy ví dụ để cho thấy từng cái chỗ mà mình tạo nên cái bị câm. Cho nên những đứa bé sinh ra mà nó ngay đó nó bị câm liền, là tại vì cái chủng tử của nó đời trước cho nên nó sanh ra nó bị câm liền. Ở trong bụng mẹ nó ra nó đã câm liền, đó là cái chủng tử đời trước.

Còn cái chủng tử mà hiện tại nó lớn lên nó mới bị câm. Thầy muốn nói đây là cái hiện tại, mà cái quá khứ nữa chứ. Quá khứ là như bây giờ hỏi Thầy chín, mười tuổi là nó, trong khi chín, mười tuổi nó chưa làm ác cái gì mà, làm sao nó bị câm được phải không? Cho nên nó phải ở quá khứ rồi.

Còn cái bây giờ nó tới ba mươi hay là bốn mươi tuổi mà nó bị câm. Nó xảy ra cái trường hợp nào, cái tai nạn nào đó làm cho nó bị đứt lưỡi hay như thế nào đó nó nói không được. Thì lúc bây giờ cái tai nạn xảy ra, làm cho nó bị câm, ở đây phải nói hết là cái hiện tại.

Do đó trong cái khoảng thời gian mà nó lớn lên, nó tạo cái nhân quả. Cái nhân quả là có lẽ là nó thấy cái người câm nó khinh chê này kia, người ta nói không được người ta ớ ớ ớ như vậy đó, nó cười, nó chê người ta. Thì do đó cái nhân quả hiện tại nó phải trả liền tức khắc, là xảy ra một cái tai nạn nào đó nó bị đứt lưỡi nó nói không được. Thì đó là cái nhân quả hiện tại, còn cái này nhân quả quá khứ, nó từ cái quá khứ mà nó ôm ấp cho nên nó có.

5- NGƯỜI CHẾT RỒI CÓ TÁI SANH QUA NƯỚC KHÁC ĐƯỢC KHÔNG?

(00:14:55) Câu hỏi: Cái người mà nước Việt Nam khi chết có tái sanh ra nước ngoài không?

Trưởng lão: Điều đó là về nhân quả thì nó không có không gian và thời gian rồi. Cho nên cái vấn đề mà tái sanh mà ở nước ngoài. Thì như thí dụ như người Việt Nam mình mà chết sanh qua Tàu thì cũng có, mà Tàu chết sanh qua Việt Nam cũng có.

Cho nên vì một cái người mà thí dụ như, Thầy nói như thế này, khi một cái người mà người ta chết mà người ta tỉnh thức được, người ta nhớ được. Hay hoặc là có một hôm đó Thầy có một cái người mà đến thăm Thầy là chú Hùng.

Chú nói: "Sao chú lại thích chữ Hán, chữ Nho đó, chú thích chữ Nho lắm".

Cho nên người ta thay vì người ta học Anh ngữ, Pháp ngữ đồ này kia. Mà trong khi mà nhà trường đưa ra cái chữ Hán, cái chú xin, chú đăng ký chú học chữ Hán, chú thích. Mà chú sống, chú thấy mấy người, nhất là mấy cái vị tu sĩ mà người Tàu chú mến lắm.

Chú hỏi: "Tại sao chú lại có tâm như vậy?".

Thầy nói: "Thật sự là cái chủng tử của chú là người Tàu. Cho nên bây giờ cái chủng tử đó chú thấy những người tu sĩ, tức là hồi đó chú là người có đi chùa, ở trong đó. Hoặc là chú đã là người tu sĩ ở trong các chùa Tàu ngày xưa. Cho nên thứ nhất là chú thấy chữ Nho là chú thích, là tại vì chú huân cái đó quá nhiều rồi, bây giờ cái sở thích của chú nó hiện ra. Trong cái hiện kiếp của chú bây giờ hiện là người Việt Nam, nhưng mà cái tâm của chú ngày xưa nó huân là cái người Tàu rồi".

(00:16:18) Cho nên bây giờ nghe nói đến cái tỉnh Quảng Đông thì phải, chú nói: "Chú nghe nói tỉnh Quảng Đông dường như là chú thấy cái quê hương của mình vậy đó".

Thầy nói: "Thật sự ra chú là một người tu sĩ có tu tỉnh thức rồi đó, cho nên cái này nó mới thực hiện qua rõ chú là. Chú chưa có bao giờ đi qua Quảng Đông, nhưng mà sao chú nghe Quảng Đông như là cái quê hương của mình, mình muốn đến đó liền, mình không đi Hồng Kông, không đi này kia ?".

Cho nên chú nói: "Có dịp mình về Quảng Đông, mà mình nhớ ở trong trong tâm của mình, mình nhớ là như Quảng Đông nó có một cái chùa nào đó, mà mình rất thích cái chùa đó, mà chú chưa từng thấy ở Việt Nam này có". Do đó chú nói như vậy.

Vì vậy mà, cho nên phải nói rằng người Trung Hoa mà có chết đi có sanh qua Việt Nam mình, thì cái trường hợp chú đó là cái người Trung Hoa sanh qua Việt Nam. Thì chắc chắn là người Việt Nam mình có sanh qua ở Trung Hoa.

Thầy nghe một câu chuyện như vầy mà không biết có không, nhưng mà Thầy xin thuật lại.

Ở quê hương của Thầy có một vị tu sĩ, ở trong chùa vị đó là Hòa thượng. Nhưng mà lại ở cái chùa đó thì cái xóm đó gọi cái danh từ của họ, gọi là Cầu Xe. Cầu Xe, người ta dùng cái tên, cái địa phương đó gọi là Cầu Xe. Có lẽ là chắc cái cầu người ta đóng bằng cây để cho xe bò đi ngang qua, cho nên gọi là Cầu Xe, chứ Thầy không thấy cái di tích đó. Nhưng mà người ta ở bây giờ người ta cũng còn gọi cái tên, cụm danh ở cái địa phương đó, họ gọi là Cầu Xe. Và cái chùa của vị Hòa thượng ở cái khu vực đó, cho nên người ta gọi là chùa Cầu Xe. Đó là lấy cái địa phương mà đặt cái tên chùa.

Vì vậy đó, khi mà cái vị Hòa thượng đó tịch, thì cái vị Hoà thượng đó mới, trước cái giờ mà tịch đó, thì cái vị Hoà thượng đó mới lấy cái chữ Hán. Bởi vì các vị Hòa thượng đều là thông chữ Hán hết, cho nên các vị Hòa thượng đó mới ghi ở trên cái thân của ông ta đó. Ổng viết ở bên hông ông ta nè, ông lấy mực xạ đó ông viết cái hàng chữ, ông viết, ông để: "Hoà thượng Cầu Xe Xứ". Ông để theo cái chữ Hán mà, ông viết vậy đó.

(00:18:10) Rồi ông mới dặn những cái người mà ở bên Việt Nam đó: "Khi mà ông chết đó, thì chôn cất xây tháp đồ đàng hoàng, mà nhớ cái chữ ông viết ở trên thân của ông đó. Nếu mà ở đâu mà có đứa nhỏ mà sanh ra mà có cái chữ đó đó. Nói Hoà thượng Cầu Xe Xứ là chính ông là tái sanh ở đó".

Thì ổng dặn như vậy, do đó sau một cái thời gian mà trong cái thời mà vua Gia Long, trong cái thời Gia Long, gần đây chứ không có xa. Do đó thì ở bên Tàu nó có sai cái người xứ qua bên đây mới hỏi, mới hỏi bên Việt Nam này: "Có cái chùa nào mà tên là Cầu Xe Xứ không?".

Thì lúc bây giờ vua Gia Long mới truy, mới tìm ra, mới nói có. Mà cái chùa đó mới cất, có một vị Hoà thượng, ông ở đâu ở ngoài miền Trung đó. Họ đi vào đó họ cất để mà họ ở tu, bởi vì nó còn rừng rú dữ lắm, cất cái am. Nhưng mà chỗ đó là thường là dân đi chặt cây, họ bắc cái cầu họ đi qua cái suối đó, cho nên gọi là, họ đặt cái tên là. Cho nên nó chưa có tên làng, xóm, ấp gì hết, chỉ có người địa phương người ta đi chặt cây rừng đó, người ta đặt cái chỗ đó là thấy cái cầu qua đó, họ kêu là "Xóm Cầu Xe".

Thì do đó cái chùa ông đó, ông cất ở trong cái khu rừng đó ông ở, ông tu đó, thì gọi là "chùa Cầu Xe". Chứ không có cái tên mà chùa Chơn Như, hay hoặc là Trúc Lâm, hay hoặc cái này kia. Người ta lấy địa phương mà cái dân ở đó họ gọi sao, họ gọi cái chùa vậy.

Cho nên khi mà hỏi, thì vua Gia Long, bởi vì sứ ở bên Tàu qua hỏi thăm. Vì nói có một người Thái tử, tức là con của nhà vua Càn Long, hay là vua ai trong cái thời ở bên Tàu mà thời vua Gia Long đó, thì mới qua bên đây hỏi.

Thì cái mẫu chuyện đó như vậy, thì qua bên đây hỏi đúng có như vậy. Trên cái thân của cái ông Thái tử đó là có khắc cái hàng chữ. Hồi đó ông là Hòa thượng ở bên Việt Nam, mà qua bển là ông là một Thái tử, con của nhà Vua bên đó.

(00:20:06) Đó là cái câu chuyện như vậy đó, thì Thầy xin thuật lại. Thì như vậy là rõ ràng Việt Nam mình có những ông Hoà thượng chết làm Thái tử ở bên Tàu chứ không phải không. Đây là câu chuyện huyền thoại, nhưng mà không biết nó có thật hay là huyền thoại, nghe cho vui thôi, nhưng mà đó là người ta nói về chuyện ở trong chùa.

Ở Tây Ninh nó cũng nhiều cái chuyện ngộ lắm, chứ không phải, cái chuyện như Cái Bàn Chân Phật đó, nó cũng có ở trên Tây Ninh. Cho nên người ta, cũng là cái nơi mà du lịch, để người ta xem những cái di tích cổ đó. Đó thì những cái mẩu chuyện ở Tây Ninh có nhiều cách lắm. Cho nên Thầy sanh trưởng ở Tây Ninh, do những cái mẩu chuyện mà nó huyền thoại đó, mà khi lớn lên là ai nghe cũng ham tu hết. Nói chứ cái chuyện đó hay nó cũng khích lệ cho chúng ta tu hành lắm.

Đó thì như vậy là rõ ràng là một cái chú Hùng, mà chú đến chùa Thầy, chú nói lên cái trạng thái đó, để mà hỏi Thầy như thế nào đó. Thì Thầy mới nói đó là chú là người Hoa và chú cũng là một tu sĩ ở bên Trung Hoa đó. Cho nên do đó mà chú sanh qua Việt Nam, bây giờ cái nghiệp của chú đã tạo, cái nghiệp lực tạo nên chú nhớ lại đó. Mà chú là người có tu, tức là có tập tỉnh thức. Tức là có niệm Phật nhất tâm là đã có tỉnh thức rồi quý vị, cho nên nó không có mất phần của quý vị đâu.

Vì vậy cho nên do đó mà cái vị này, dù niệm Phật hay gì đi nữa thì chắc chắn là cũng phải thị hiện được. Bởi vì niệm Phật ai làm ác bao giờ đâu, cũng làm thiện chứ không ai làm ác. Đó thì thế nào nó cũng có thể nói rằng, nó không những mà chúng ta sanh ở Trung Hoa, mà cũng như Việt Nam mà sanh Trung Hoa, mà từ Trung Hoa sanh Việt Nam. Mà chúng ta sanh cả những nước Tây phương nữa quý vị.

Bởi vì cái không gian này đối với nhân quả chỗ nào mà cũng có nó hết, không có chỗ nào là không có nó. Hễ có cái môi trường sống là có nhân quả rồi. Nó sẵn có tự nhiên của nó chứ không phải là ai chế ra cái luật nhân quả được. Cái hành động của chúng ta là tự là thiện ác thôi chứ có ai chế được nó đâu.

6- LẠY PHẬT SÁM HỐI CÓ HẾT TỘI HAY KHÔNG?

(00:22:01) Câu hỏi: Hỏi Thầy sám hối có hết tội hay không? Và nếu có thì nó lại mâu thuẫn với nhân quả.

Trưởng lão: Ở đây nó không mâu thuẫn đâu, mình sám hối có nghĩa là mình nhắc cái tâm mình. Mình sám hối có nghĩa là mình biết được cái tội của mình làm cái điều đó, cho nên mình ăn năn. Sám hối có nghĩa là ăn năn đó, ăn năn sám hối đó, là mình chừa bỏ mình không làm nữa.

Cho nên nó mới hết tội chứ không phải là tôi đến, tôi lạy Phật, tôi sám hối, tôi lạy hồng danh cho đã rồi mà tôi không có chừa cái tội đó thì tôi ăn cắp xe đạp mà tôi cứ ăn cắp xe đạp hoài đó thì, tôi sám hối nó hết đó, mà mai mốt công an bắt đó thì không được, thì cái chuyện đó không được đâu. Cho nên ở đây tôi sám hối nghĩa là tôi từ đây về sau tôi không có ăn cắp nữa. Thì nó sẽ hết tội đó, nó hết tội, nó hết tội bằng cách mà từ đây về sau.

Còn cái nghiệp mà ăn cắp của mình làm người ta mất của đó, cái khổ đó mình phải trả thôi chứ không phải là hết cái tội đó đâu. Mà hết cái cái tội từ đây chấm dứt mình không có làm nữa. Từ cái chỗ mình chấm dứt mà trở về cái vị lai đó, nó sẽ không còn tội đó nữa. Còn cái hiện mà mình đã làm tội mà cái người ta mất của, người ta đau khổ đó, thì mình phải hành những cái thiện pháp để chuyển cái tội đó, thì mới hết trả được cái quả đó.

Chứ không phải nói: "Tôi sám hối, tôi đến tôi lạy Phật cái rồi tôi làm tội gì đó nó hết". Thì rõ ràng là ông Phật, do mình lạy Phật mà ông giúp cho mình hết cái tội đó thì chắc chắn cái kiểu đó là nó phi đạo đức rồi, nó mâu thuẫn, con hiểu chưa?

7- Ý KHỞI NIỆM NHƯNG THÂN CHƯA HÀNH ĐỘNG THÌ CÓ THÀNH QUẢ KHÔNG?

(00:23:22) Trưởng lão: Ở đây ý nghĩ khởi ăn trộm, mình nghĩ mình thấy muốn lấy cái xe đạp của người đó, mà mình vẫn chưa có lấy, thì cái ý nó chưa có thành quả đâu. Cho nên không bao giờ ai bắt người mới khởi ý được hết.

Thầy thí dụ như: "Thầy nghĩ là Thầy muốn lấy cái máy ghi âm này", nhưng mà Thầy đâu có lấy, phải không? Mà Thầy không nói Thầy lấy, thì làm sao mà Minh Điền bắt Thầy, phải không? Đâu có bắt được, cho nên nó chưa thành quả. Nhưng mà Thầy lấy, Thầy nhét, Thầy giấu, cái nó thấy, nó lại nó nắm Thầy, nó lôi ra, nó thành cái quả rồi, phải không?

Hiểu như vậy cho nên khi mà cái ý nó không có thành tội đâu. Cái ý đó chưa có thành tội, nhưng mà từ cái ý đó mà không diệt thì nó sẽ biến ra hành động, nó sẽ thành quả. Nghĩa là biến ra hành động, là hành động cái thân của mình, mình lấy, hoặc mình nói. Cho nên hễ mà mình nói, thấy cái người đó mình tức quá, mình chửi họ mà mình chưa có chửi. Trong ý nghĩ mình muốn chửi họ, mình mắng họ "đồ mày là đồ chó’ đi, nhưng mà chưa có nói ra, thì người đó không có giận mình chút nào hết. Mà mình mở miệng mình nói "chó" cái quả liền đó, họ giận, họ lấy cây, họ gõ lên đầu mình liền, phải không? Cho nên nó thành cái quả liền.

Đó là mình phải thấy nhân quả nó hiện tiền là khi nào mà cái thân hành và cái khẩu hành nó hiện ra là có quả liền. Mà cái ý thì nó không có quả, mà nó có nhân thôi, mà mình không diệt cái nhân thì cái quả nó tới. Mình không diệt cái nhân thì cái miệng nó tới à. Cho nên ngay cái nhân nó khởi nghĩ cái gì đó, thì lúc bây giờ chúng ta còn có cái trí tuệ mà chúng ta đình chỉ nó lại được, thì cái quả nó không có, phải không?

Cho nên vì vậy mà tu nhân quả chúng ta phải tập tỉnh thức để làm gì? Để cho nó tỉnh thức, ngay khi mà cái ý mình nó nghĩ ra điều ác, thì ngay đó mình ngăn chặn nó liền, bởi vì mình tỉnh thức. Còn mình không tỉnh được, thì do đó nó đưa mình đi đến cái miệng, cái hành động thân của mình thì nó thành cái quả, cho nên chúng đập mình liền.

Đó thì như vậy là rõ ràng là chúng ta nên tập tỉnh thức, vì vậy mà đức Phật dạy chúng ta thân hành niệm đó. Hằng ngày chúng ta đi đứng, làm mọi công việc chúng ta đều tu. Tập cái tỉnh thức để làm gì? Để mà chúng ta ngăn chặn những cái niệm ác ở trong đầu của chúng ta. Không khéo mình nói ra cái chúng vả vô mặt mình, chứ không có thường đâu.

Quý vị nhớ kỹ có quả là do cái miệng của mình với cái hành động thân của mình, chứ còn cái ý chưa có ra cái quả đâu, mà nó mới là cái nhân thôi.

8- TÂM LÀ GÌ ? LÀM SAO PHÂN BIỆT ĐƯỢC CHƠN TÂM HAY VỌNG TÂM.

(25:29) Câu hỏi: Tâm là gì? Làm sao phân biệt được chơn tâm hay vọng tâm?

Trưởng lão: Tâm là gì? Ở đây mà nói về tâm thì chúng ta cũng không khó đâu, bây giờ để chỉ rõ cái vọng tâm trước.

Cái tâm vọng là cái tâm chạy theo sự tham muốn, gọi là tâm vọng. Cho nên nó thường khởi cái niệm này, niệm kia, cho nên nó gọi là vọng tưởng hay là vọng tâm, phải không? Nó chạy theo cái lòng tham muốn rồi. Ngồi đây mình nghĩ, mình khởi niệm: "Chà phải chi có chiếc xe dream mình chạy ngon lành chơi, phải không?", thì đó là cái vọng tâm của mình khởi tham muốn chiếc xe dream chứ gì.

"Trời ơi phải chi mình mua vé số bữa nay mà trúng được một triệu, hai triệu, hay là hai mươi triệu thì ngon quá", thì đó là vọng tâm của mình theo cái lòng tham muốn của mình. Cho nên vọng tâm, thì cái tâm tham muốn của mình gọi là vọng tâm.

Còn cái chơn tâm là cái tâm không có tham muốn, phải không? Cái chơn tâm là không có tham muốn. Thầy không nói chơn tâm là Phật tánh đâu. Mà Thầy nói cái chơn tâm là cái tâm nó không tham muốn. Cái tâm mà không bị người ta chửi thì cái đó là chơn tâm, cái tâm nó không phiền não.

Rõ ràng là Thầy có cái tâm chứ, mà Thầy cũng nói chuyện, Thầy vui vẻ. Mà nó ở đây, nó không giận hờn, không phiền não, đó là cái chơn tâm. Cái tâm nó không có cái đau khổ, thì nó là chơn tâm, mà cái tâm đau khổ nó không phải là chơn tâm.

Nhưng mà Thầy xin nói rằng ở đây đừng có nghĩ là chơn tâm là cái Phật tánh như Thiền Đông Độ, như Phật tánh thì Thầy không nói. Mà Thầy muốn nói đứng ở trên góc độ, mà chơn tâm, vọng tâm ở đây, là đứng góc độ của nhân quả. Đó phải hiểu như vậy để chúng ta biết, chúng ta sống cái chơn tâm, tức là cái chánh tâm của chúng ta. Cái chơn chánh của nó, nó không làm chúng ta khổ, không làm ai khổ hết, thì đó là cái chơn tâm, phải không?

Chứ còn nếu mà nói về cái chơn tâm là cái mà sống thường hằng thì ở đây hoàn toàn cái thân ngũ uẩn của chúng ta không có cái tâm mà sống thường hằng, phải không? Không có sống thường hằng. Nhưng cái trạng thái (của một cái trạng thái) của tâm không vọng, cái trạng thái đó nó thường hằng. Cho nên đối với kinh sách mà Thủ Lăng Nghiêm mà dạy đó, dạy tánh thấy, tánh nghe, tánh biết.

Thí dụ như Thầy nhắc lại cho quý vị nghe, là lúc bây giờ đức Phật sai ông La Hầu La đánh tiếng chuông, rồi đức Phật mới hỏi ông Anan: "Ông có nghe không".

Thì ông Anan nói: "Có nghe". Phải không?.

Nhưng mà không có đánh thì đức Phật hỏi: "Có nghe hay không?

Ông nói: "không nghe".

Thì đức Phật ba lần như vậy đức Phật nói: "Ông điên đảo. Cái nghe của ông thì thường hằng, còn cái có đánh thì nó có âm thanh trần. Tức là cái âm thanh nó mới phát ra, nó có phát ra ông nghe, ông nói có nghe. Còn không có phát ra âm thanh thì ông nói là không nghe. Nó thường nghe chứ sao lại không nghe, phải không? Mà nó thường biết chứ sao lại nói nó không biết, phải không?".

(00:28:07) Cũng như bây giờ mình biết nó thường biết chứ, nó có cái đối tượng này thì mình biết, mà không có thì mình cũng phải biết chứ, chứ đâu lẽ nó mất cái biết. Thì cái đó là kinh sách đã xác định được cái thức của chúng ta thường biết.

Cho nên Thầy mới hỏi lại như thế này: "Khi cái người ngủ, cái biết nó còn không?". Nó ngủ thì ăn trộm nó vô lấy hết đồ còn biết cái chỗ nào? Còn nghe cái chỗ nào? Nó cậy rột rẹt cái rương của mình mà cũng không nghe nữa, thì thử hỏi nó còn cái chỗ nào nó biết, phải không? Cho nên vì vậy mà lấy cái thức mà nói là thường hằng thì không thường hằng được đâu, phải không?

Cho nên ở đây cái biết là cái thức chứ gì, cái tâm của mình hiện giờ mình nói đó là cái biết của mình gì. Cho nên cái mà chẳng niệm thiện, niệm ác, cái đó là cái sơ khởi để chúng ta nhận cái chỗ biết của chúng ta thôi. Chứ còn cái trạng thái mà để nhận cái biết đó, cái trạng thái đó nó mới thường hằng.

Cũng như bây giờ nghe Thầy nói cái tâm thanh thản của mình. Mình ngồi cái tâm thanh thản và cái tâm mình đang thanh thản ở trong cái trạng thái thanh thản. Nhưng cái trạng thái thanh thản nó thường hằng, nó luôn có cái trạng thái đó, chứ không phải chờ cái tâm thanh thản mình nói có cái đó, cho nên cái đó thường hằng.

Nó ngoài cái thân tứ đại của chúng ta, chứ đâu phải trong thân tứ đại của chúng ta, phải không? Cho nên cái thân tứ đại chúng ta hoại diệt, nhưng cái trạng thái thường hằng nó phải còn, phải không?

Còn bây giờ chúng ta công nhận cái thức của chúng ta bây giờ nó thường hằng biết, hằng này kia, nó có hằng biết. Thì cho nó là thường hằng sao được, khi cái thân nó chết mất thì cái biết nó còn không? Mà nói mình biết sao lại mình ngủ nó mất đi. Mà cho nó là Phật tánh sao lại Phật ngủ như vậy? Ông Phật gì ngu quá vậy, cứ ham ngủ quá vậy?

Mà khi ngủ quý vị còn biết không? Biết sao ăn trộm lấy đồ? Nếu mà quý vị biết thì cần gì đóng cửa, nên ăn trộm vô biết liền, có phải vậy không? Cho nên cái đó nói chúng ta sẽ bị hiểu lầm, chứ không lý kinh mà dạy sai, nhưng mà tại chúng ta hiểu lầm.

Cho nên Thầy dạy như vậy quý vị thấy đã hiểu rõ chưa? Cho nên bây giờ nói tâm thanh thản, cứ nhận cái tâm thanh thản là cái tâm của mình là còn, trật. Cái trạng thái thanh thản, thì nó phải có cái trạng thái thanh thản luôn luôn nó có chứ, chứ đâu phải cái tâm.

(00:30:02) Nhưng mà tại bây giờ cái tâm mình nó ở trong cái trạng thái đó, nó biết cái thanh thản đó, nhưng mà nó mất rồi cái thanh thản đó còn, phải không? Thì cái đó là mới là thật chứ, đó quý vị hiểu lầm hết. Cho nên nghe Hoà thượng dạy mà rốt cuộc rồi không hiểu Hòa thượng chút nào hết, coi như là cách xa Hòa thượng.

Hôm nay Thầy dạy như vậy thì hiểu không? Cho nên kinh Thủ Lăng Nghiêm dạy rõ ràng, Lục Tổ Huệ Năng dạy rõ ràng chẳng niệm thiện, niệm ác. Bây giờ chẳng niệm thiện, niệm ác, luôn luôn vẫn biết, thì chúng ta cứ nhận thấy cái tâm biết là cái Phật tánh của mình liền. Nhưng mà không ngờ, không ngờ cái mà để mà chúng ta thanh thản đang ở chỗ biết đó lại không thấy, mà lại cứ thấy cái biết của chúng ta. Tức là chúng ta nhận lầm cái biết là Phật tánh của mình, là sai phải không? Cái đó nó đâu có.

Cái thân ngũ uẩn của chúng ta có cái thức duy nhất, sắc thọ, tưởng, hành, thức, cái thức thì tức là cái biết chứ gì. Do đó chết thì cái thân ngũ uẩn này Phật nói nó hoại diệt hết, nó không còn gì hết. Đức Phật còn nói như thế này: "nếu còn một chút xíu cái thức, cái biết đó nó còn một chút xíu như đất ở trong móng tay ta". Nghĩa là đức Phật lượm mấy hạt cát để ở trong móng tay đức Phật như vầy, mới đưa cho chúng xem: "Nếu cái thức còn một chút xíu đất như móng tay ta, thì con người ở trong thế gian này không giải thoát". Vì đó là cái ngã của họ rồi, không thể nào mà phá vỡ được, nó thường hằng rồi, nó không thể nào mà cứu họ được.

Do đó đức Phật nói: "Và đạo ta cũng không ra đời". Vì ra đời cũng không giải thoát được cho ai, thì ra đời làm cái gì? Không có làm cho người ta hết khổ. Vì cái đó là cái thực thể của họ, họ chấp dính rồi, cái ngã của họ rồi, họ có thật cái ngã rồi thì không bao giờ giải khổ họ được, phải không? Bởi vì cái đó là cái cố định của họ rồi.

Như bây giờ chúng ta cho nó là cái linh hồn hay Phật tánh, thì có chừng chúng ta bị dính cái ngã rồi. Cho nên đó là gọi là đức Phật gọi là chấp thường, mình chấp có cái thật ở trong cái thân tứ đại của chúng ta là thường, thì đó là chúng ta nguy hiểm vô cùng rồi, không xả được đâu.

Còn nếu mà chúng ta chấp không, thì với trạng thái thanh thản chúng ta chúng ta có mà tại sao bảo là không. Mà cái trạng thái tâm hết dục thì nó luôn luôn nó ở trạng thái thanh thản. Mà cái thanh thản đó là niết bàn của Phật chứ gì. Mà bây giờ chúng ta chấp cái tâm thanh thản của chúng ta, là chúng ta chấp cái giả mà chúng ta lầm nó có, thì chúng ta đã nguy hiểm rồi. Chúng ta sai rồi, chấp ngã rồi, cho nên chúng ta lấy giả mà làm thật, lấy thật làm giả, cái hiểu lầm của quý vị.

(00:32:11) Cho nên vì vậy mà coi chừng nghe quá nhiều rồi bắt đầu đi sai hết, phải không? Bây giờ nghe Thầy lật ngược cái quý vị giật mình, hồi nào tới giờ mình tưởng là Hòa thượng dạy mình hiểu đúng rồi, nhưng mà không ngờ lại trật. Cho nên vì vậy mà mình phải cố gắng, phải hiểu cho rõ một chút nữa thì mình sẽ thấu rõ.

Cho nên ở đây cái chơn tâm và vọng tâm Thầy xin dạy là cái chỗ cái tâm của chúng ta. Bởi vì nói tâm chứ đâu phải mà nói cái Phật tánh đó, thì nó Thầy sẽ nói cái chỗ khác, phải không, hiểu không?

Cho nên Thầy nói cái vọng tâm là cái tâm chạy theo cái lòng dục, cái lòng ác pháp, cho nên nó khổ đau gọi là vọng tâm.

Mà cái chơn tâm là cái chánh tâm của chúng ta, cái chơn chánh của tâm của chúng ta, cái tâm giải thoát. Cái tâm hiện giờ không có giận hờn, không phiền não ai hết, cái tâm bây giờ nó không có bất toại nguyện một điều gì hết, thì đó là chơn tâm của chúng ta.

Chứ không khéo hiểu chữ chơn tâm là Phật tánh đó thì, bởi vì cái danh từ chúng ta sẽ lầm lạc những cái nghĩa lý, thì nó không đúng. Cho nên sẵn Thầy chỉ luôn về cái Phật tánh, Thầy chỉ cho trong kinh Thủ Lăng Nghiêm, vậy cái tánh thấy, tánh nghe và tánh biết.

Và dạy cho chúng ta như trong pháp Bảo Đàn, dạy chúng ta: “Chẳng niệm thiện niệm ác, bản lai diện mục hiện tiền”. Thì coi chừng chúng ta lầm cái thức của chúng ta là cái bản lai nữa thì chúng ta nguy, là hiểu lầm. Cho nên tất cả những cái này là coi chừng quý vị đã thường nghe thuyết giảng, rồi quý vị lầm, quý vị rớt xuống sông mà không biết. Tới chừng đó mà không có Thầy mà nhắc nhở, Thầy lôi lên là chắc chắn uống nước, tiêu luôn đó.

Thôi bây giờ như vậy là quý vị còn hỏi Thầy gì thêm nữa không? Còn nữa, như vậy Thầy sẽ trả lời. Con hỏi gì đó?

9- BÀN THỜ PHẬT Ở TRÊN, BÀN ÔNG BÀ Ở DƯỚI, ĐÁM GIỖ CÚNG THỊT CÁ CÓ TỘI KHÔNG?

(00:33:40) Phật tử: Dạ thưa Thầy, con coi trong cuốn sách nhân quả. Nói là cúng thịt cá trước bàn Phật thì sẽ bị đọa địa ngục. Nhà con thì bàn Phật ở trên cao, còn bàn của ông bà thì ở dưới. Ba con cúng đám giỗ thì ba con có bị tội không Thầy?

Trưởng lão: Bàn Phật thì ở trên phải không? Ông bà thì ở dưới, bây giờ cúng đám giỗ tức là cúng mặn chứ gì? Con hỏi như vậy là ba con có tội không? Không có tội con.

Bởi vì cái lòng của ba con cúng ông bà tổ tiên, mà cái bàn Phật phải ở dưới thì ba con có tội, cái này bàn Phật thờ ở trên. Ông Phật ngồi ở trên, không lẽ Ông ở trên, Ông ngó xuống, Ông thèm cá, thịt sao? Phải không? Bởi vậy đâu có tội.

Chứ phải chi cái bàn Phật mà ở dưới, mà để ông bà mình ở trên mà ngồi ăn cá đồ đó thì có tội. Tại sao đem cá thịt để trên đầu ông Phật, phải không, các con hiểu điều đó. Cho nên ba con không có tội đâu, tự nhiên cúng bái như thường, thờ Phật như thường, không có sao hết.

Nhà mình chật bây giờ làm hai, ba cái bàn thờ chật chội gần chết. Người ta đã nâng Phật lên cao mà Phật còn không chịu ngồi hay sao? Phật phải thương chúng sanh chứ. Ông bà người ta chưa có ăn chay được, chúng ta còn cúng chút xíu mà Ông cũng trách quở nữa sao được. Từ từ rồi ông sẽ giữ giới chứ, phải không? Cho nên ba con không có tội đâu, về nói ba đừng sợ, Thầy nói như vậy đó, cứ tự nhiên cúng.

Khi nào mà ba thấy được, bây giờ ba thích ăn chay để giữ gìn cái giới sát sanh, để tạo được cái phước không có làm đau khổ chúng sanh nữa. Để tạo cái nhân cho tốt, ở trong gia đình của mình không có những cái tai nạn xảy ra cho gia đình mình. Thì cha mẹ ăn chay thì nên cúng ông bà mình ăn chay hết, làm cho ông bà của mình cũng tốt luôn, cũng thiện luôn. Thì điều đó, thì khi đó thì ông Phật, Ông mừng, Ông ngồi trên, Ông mừng. "Nay nó ăn chay hết rồi, nó giống mình rồi", phải không, các con hiểu không? "Nó từ bi rồi". Thì do đó Ông càng mừng nữa.

Còn bây giờ ăn mặn thì chúng sanh mà, đâu có quở nó làm chi. Tại vì nó còn đắm mê, cho nên để cho nó ăn chay chút chút. Nhưng mà lần lượt đây, có quý vị tu hành giới luật nghiêm chỉnh là lần lượt sẽ hướng dẫn ba mẹ của nó sẽ ăn chay lại được chứ gì, thì lần lượt sẽ mà. Cũng như bây giờ con gặp Thầy, hỏi Thầy, thì tức là ba mẹ con sẽ có dịp tốt, không có sao hết. Về nói ba mẹ con không có tội lỗi gì hết đâu mà sợ.

10- GIẾT CHẾT RẮN ĐỂ TỰ VỆ CÓ TỘI HAY KHÔNG?

(00:35:57) Phật tử: Dạ thưa Thầy, ví dụ bất ngờ có con rắn nó lại nó cắn mình. Rồi trong tay mình sẵn có cái cây, mình tự vệ thì mình phải đánh nó. Như là đánh cho nó chết, rồi mình có bị tội không Thầy?

Trưởng lão: À, có tội. Tại vì mình đã sát, phải không con? Nó cắn mình, mình có chết đâu, mình đau nhức thôi, rồi mình sống chứ mình đâu có chết. Thế mà mình đập nó, rồi mình tự vệ mình bằng cách mình giết nó. Thì tự vệ thì đập bậy bạ cho nó chạy đi, thì nó mới là tự vệ. Còn không thì đánh cây nó nhẹ nhẹ thôi chứ, đừng đánh nó bể đầu người ta sao, phải không?

Phật tử: Dạ bởi vì là quanh mình mới có là loại rắn độc cắn vô là chết.

Trưởng lão: À, bây giờ nếu mà quả chăng mình, đứng ở trong góc độ nhân quả, nói lỡ mà rắn độc chết mình, dù bây giờ mình có giết nó mình cũng chết rồi, phải không? Cho nên mình giết nó, tức là nó thành hai mạng chết thì tội quá. "Thôi mày có lỡ cắn thì tao chết đi, tao vui lòng để tao trả cái quả đời trước, để cho mày sống. Để rồi mày làm ác nữa mày phải chịu con rắn khác cắn mày, hay hoặc người khác họ sẽ giết mày. Chứ tao nhất định là tao làm thiện".

Thì do đó ba con chết mà lại sanh lên cõi trời, không có giết nó. Còn không khéo mình giết nó thì mình phải đọa xuống địa ngục sao, bởi vì mình sanh cái tội sát sanh, phải không con hiểu chưa?

Cho nên khi mà bị rắn thường cắn, thì mình hãy đánh nó nhẹ nhẹ thôi, cho nó đi, tại nó sợ đau nó chạy. Đó là cái lòng từ bi của mình, mình làm cho nó sợ thôi, đó là nó cắn mình không chết.

Mà gặp rắn độc đó thì mình lại, nó cắn mình thì thôi, càng không có đánh nó nữa. Thì nó tự nó rủa nó, con rắn nó cũng có cái suy nghĩ chứ: "Tại sao mình cắn nó chết mà nó không đập mình cái roi nào hết?". Từ đó nó ăn năn, nó không cắn ai nữa hết. Biết đâu chừng cái lòng thiện của mình đã cảm hóa được cái người hung dữ, phải không, còn nhớ không?

Người đó hung dữ chửi mình hoài, mà mình vẫn làm thinh, mình không chửi lại họ. Mà mình cũng luôn luôn mình tìm bánh trái mình đem cho họ ăn. Thành ra từ đây về sau họ không chửi mình nữa, phải không? Từ họ dữ đó mà họ thành thiện là do nhờ mình. Vậy thì con rắn mình làm vậy cũng đúng chứ sao lại không.

Cho nên ở đây mình sống nhân quả mà, cho nên mình cảm hóa được cái người dữ họ trở thành hiền. Còn mình thấy họ dữ rồi mình cũng dữ theo thì biến cho họ thành dữ nữa, nguy hiểm lắm. Cho nên mình giúp cho xã hội và cả mình đều là thiện hết, phải không?

Do đó bây giờ con còn hỏi Thầy gì thêm nữa không? Hay quá con hỏi vậy hay.

11- NẾU KHÔNG CÓ LINH HỒN THÌ CÁI GÌ SẼ DẪN NGHIỆP LỰC ĐI TÁI SANH?

(00:38:12) Phật tử: Dạ Thưa Thầy xin Thầy hoan hỷ giảng cho con được rõ. Như Thầy nói là sau khi chết thì không có cái linh hồn, vậy thì cái gì sẽ dẫn cái nghiệp lực, cái quả báo để mà đi tái sanh luân hồi suốt kiếp?

Trưởng lão: À, con đã nói cái nghiệp lực, tức là cái nghiệp con đã tạo ra nó thành một cái lực. Thì cái lực là nó phải đẩy đi chứ, chứ cái lực nó không lẽ nó đứng một chỗ mà gọi là sao lực được.

Thầy nói bây giờ, Thầy nói cái tay Thầy có lực, mà Thầy không có gồng, không có co, không có bóp gì hết làm sao có lực, phải không? Mà nó có lực thì Thầy gồng lại vậy Thầy có lực không, phải không? Thầy nắm lại như vậy có lực không? Mà thầy để cái tay xuôi như vầy thì có lực không? Mà đã nói nghiệp lực thì tức là con bỏ cái này, cái lực nó đẩy đi, nó đi tái sanh không biết là chỗ nào nữa mà nói nữa.

Vì cái nghiệp lực, là cái nghiệp là cái tạo thiện hay ác. Cái lực đó nó đẩy đi, cái lực của thiện ác nó đi chứ đâu phải có cái gì của ba con mà đi, phải không? Mà con làm cái điều ác, điều thiện hằng ngày, hằng ngày sống con làm điều thiện, điều ác, do đó nó trở thành một cái lực.

Cũng như bây giờ một người mà nghiện rượu, do cái lực nghiện của họ, họ nghe rượu cái họ thèm, phải không? Đó là cái lực, cho nên bây giờ "ghé quán uống một ly coi", thì uống vô ly thấy khoẻ quá, làm cho nó hăng hái, mà không uống cái ông lừ đừ, phải không? Đó là cái nghiệp lực, do vì vậy đó nó thúc đẩy mình đi. Mà cái nghiệp thiện thì nó thúc đẩy ở cái góc độ thiện.

Cho nên vì vậy khi mà cái người cha mình mất đi, thì cái nghiệp lực đó nó sẽ giao cảm được cái nơi mà sanh của cái nghiệp lực nó tương đồng. Thì cái người đó, họ có cái hành động nhân quả nó tương đồng với cha mình hồi còn sống làm những cái nhân quả đó. Cho nên nó đẩy đi lại cái chỗ đó để mà thực hiện các nghiệp lực kế tiếp, con hiểu chưa?

Kế tiếp cái nhân quả nó sinh ra con người nó mang theo cái nghiệp lực đó. Nó tương ưng với cái nghiệp lực của cái người cha, của cha mình trong cái hiện kiếp của mình. Thì cái người cha mẹ của cha mình trong cái kiếp tới đó, thì nó là cái nghiệp lực của cha mình hiện tại ở đây. Cho nên cái nghiệp lực của cha mình ở đây, nó đưa lại cái nghiệp của cái người kia, để nó tương ưng với cái nghiệp của người kia mà trở thành cha của cái người chết đó, con hiểu chưa?

(00:40:18) Phật tử: Dạ con muốn tìm hiểu cái gọi là cái linh hồn hay là cái Thức đó thưa Thầy.

Trưởng lão: À, nó không còn có nữa, nó chỉ còn có hành động thiện ác của con nó trở thành cái nghiệp lực. Bởi vì bây giờ tại sao mà người ta vừa nói cái lời nặng cái con giận liền. Đó là cái nghiệp lực, nó nhanh như vậy, thì cái đó nó còn. Mà cái chỗ mà gọi là con giận thì nó không phải, đó là cái nghiệp lực.

Cho nên Phật thấy rằng đó là cái nghiệp, chứ không phải là cái con giận, mà con cứ nghĩ rằng tại con giận, cái linh hồn mình giận, cái tâm mình giận. Chứ sự thật ra cái nghiệp lực nó làm cho mình thấy, cảm thấy như mình giận, vì vậy mình chấp, mình thấy có mình giận. Như vậy là mình chấp ngã, ở trong mình có mình giận rồi, chứ sự thật ra cái nghiệp đó nó giận chứ không phải là mình giận, nhưng mình lầm chấp, mình thấy mình giận, các con hiểu chỗ đó chưa?

Cho nên Phật nói: "Như vậy mới giải thoát được người ta". Người ta hiểu được, người ta thấy: "Ờ, cái đó đâu phải mình giận, mà cái đó là cái nghiệp lực nó giận". Bởi vì hằng ngày con bị người ta chọc tức con giận, bây giờ con tức giận quá, đó con hiểu không? Đó là thành cái nghiệp lực, vì vậy mà cái đó nó đi tái sanh. Cho nên cái nhân quả tái sanh, chứ không phải vì cái linh hồn mình tái sanh, các con hiểu không?

Mà đó tương ưng lắm, nó hay lắm. Nó ở đây mình hành động thiện ác như thế nào, nó tương ưng với những cái người xung quanh nó, với những người nước khác nó tương ưng được. Thì bởi vì nó không có cái không gian, cái không gian nó không có trải dài đối với nó. Cho nên cái nhân quả đó, nó tương ưng cái nó tái sinh ngay liền đó. Nó hợp với cái đó là nó ngay đó, là nó trở thành cái bào thai liền.

Phật tử: Mô Phật cho con thưa hỏi: Khi mình tu tỉnh thức thì khi nào là mình nhận biết được tỉnh thức? Và cái trạng thái của tỉnh thức nó như thế nào?

Trưởng lão: À, để Thầy chỉ dạy cho rõ ràng.

Bây giờ thí dụ như con tỉnh thức, cái hơi thở ra con biết hơi thở ra, hơi thở vô biết hơi thở vô. Con không có niệm nào mà con vẫn duy nhất con biết cái hơi thở ra vô, đó là con tỉnh thức trong hơi thở, phải không?

Bây giờ con đi mà con biết từng bước đi, con bước, bước, bước đi mà con không có nhớ cái gì hết, mà con không quên bước đi con, thì đó là tỉnh thức ở bước đi.

(00:42:05) Thì cái trạng thái mà tỉnh thức đó, nó cái tâm của con bây giờ nó thanh thản, mà nó không có cảm thấy lo lắng. Mà con khởi niệm lo cái thì nó mất cái tỉnh thức rồi, phải không? Cái tỉnh thức thì nó ở trong cái trạng thái thanh thản của mình, nó nhẹ nhàng thanh thản đó là tỉnh thức.

Mà nếu mà ở trong tỉnh thức mà nghe, nó nghe cái sự gì an lạc thì cái thanh thản nó cũng mất rồi. Nó có cái trạng thái thanh thản, tức là có cái trạng thái dục nào đó nó xen vô cái mình thích thú thì coi như mình ngồi thiền, mình nghe nó hỷ lạc quá, thì cái đó là nó thật sự ra nó mất cái trạng thái thanh thản mất rồi, bị cái hỷ lạc đó nó xen vô.

Thì cái đó là con ở trong cái tỉnh thức, ở trong cái trạng thái hỷ lạc, cho nên đó là sai, cũng sai rồi. Nó bị là xúc tưởng hỷ lạc nó hiện tướng nó ra, nó làm con mất cái tâm thanh thản của mình. Đó là con mất rồi, con bị tưởng thức rồi, là con sai rồi. Cho nên ngồi thiền mà nghe hỷ lạc cái mê "Trời ơi tôi hôm nay ngồi thiền nghe nó hỷ lạc quá trời, tôi thích". Đó là người đó đã lạc vào thiền bậy rồi đó, nó sai rồi.

Hôm nay Thầy chỉ những cái trạng thái, tất cả những cái gì mà các con đã không hiểu, thì các con hiểu. Bây giờ các con sẽ thấy rõ được cái sai, cái đúng.

Bây giờ các con còn hỏi gì nữa không? Còn cái gì hỏi nữa đi.

12- MÌNH TỨC GIẬN NGƯỜI KHÁC NHƯ VẬY MÌNH CÓ MANG TỘI KHÔNG?

(00:43:11) Phật tử: Dạ cái chị đó chị làm ở nhà con, con nhờ chị làm giùm con một việc gì đó, nhưng mà chị không có làm. Rồi con nhắc lại thêm một lần nữa chị cũng không có làm luôn nữa, rồi con giận chị, vậy con có tội không?

Trưởng lão: À, con có, thứ nhất là con giận đó là con đã làm tội cho con, con làm khổ cho con đó, là con đã tội với con rồi đó. Nên con, đối với chị đó thì con, nếu mà con không có nói gì mà tự ở trong tâm con giận đó, con không có nói nặng nhẹ gì chị đó, thì đối với chị đó con không có tội gì hết. Nhưng mà con, tự con giận ở trong lòng con, con tức cái chị đó, con tức mà con không có nói ra, nhưng mà con làm cho con khổ đau, con giận thì con đã tự làm tội cho con rồi, con hiểu chưa? Con khổ đó.

Còn mà con nói ra: "Chị sao mà chị ngu quá vậy, nói nãy giờ mà chị cứ không nghe". Thì đó là con có tội với chị đó, con nói nặng chị đó, con hiểu chưa?

Phật tử: Vậy là mình nghĩ là mình nói ra là mình cũng có tội hả Thầy?

Trưởng lão: À mình nghĩ thì chưa có thành cái quả, chưa thành tội. Nhưng mà mình nói ra là thành tội rồi.

Phật tử: Không như là mình tức giận ở trong lòng đó là mình tội với mình?

Trưởng lão: Mình tội với mình, mà mình chưa nói ra thì mình chưa có tội với chị đó, mà mình đã làm tội mình rồi. Nó tội cho mình là mình bây giờ mình giận, mình khổ. Con thấy lúc con giận con có khổ không? Tức quá, nó không còn thanh thản.

Phật tử: Mình giận là mình khổ cho mình, mà còn có cái quả gì nữa không Thầy?

Trưởng lão: À, nó sẽ huân thành một cái nghiệp lực, thành ra đó mình sau này mình hung dữ, mình giận riết rồi mình là người dữ lắm. Thành ra lúc bây giờ đó, mình còn nhẫn được, mình không có nói gì. Mình huân cái sân đó nhiều, mình không có thể giữ nó ở trong lòng của mình được, bắt đầu để xả nó ra thì con chửi người ta tan nát hết. Lúc bây giờ con trở thành một người hung dữ.

Thầy nói người nào nén nuốt cái sân của mình riết rồi tới chừng chịu không được nổi, bắt đầu cái chửi người ta (không) tan nát, (không còn) gì hết. Cho nó đã cái cơn giận của mình ra đó, nó thành ra là hung dữ ghê gớm lắm. Thầy nói thật sự mà các con cứ suy ngẫm đi, lời nói Thầy nói không có sai chút nào đâu.

13- ĐỨC PHẬT THÍCH CA KHÔNG CÓ THỌ KÝ CHO AI LÀM PHẬT Ở TƯƠNG LAI

(00:45:13) Phật tử: Như hồi hôm qua Thầy có nói là đức Phật Di Lặc là không có. Như vậy sao con đọc trong kinh Pháp Hoa đó là đức Phật Thích Ca thọ ký cho một vị Tỳ Kheo là Phật Di Lặc trong tương lai ?

Trưởng lão: …​.thầy Thông Vân này sẽ thành Phật ở vị lai, cái điều đó sai. Mai mốt thầy không tu nữa làm sao thầy thành Phật được quý vị, phải không? Nếu mà thầy tiếp tục thầy tu thì còn thành Phật, chứ nghe nói thành Phật rồi cái thầy không thèm tu. "Vị lai Thầy đã ấn chứng tôi rồi, tôi thành Phật rồi, tôi cần gì phải tu nữa, vị lai tôi thế nào cũng thành Phật". Nhưng mà bây giờ thầy không tu, thì tức là cái nhân quả của thầy không tu thì tới đó thầy làm Phật được không?

Cho nên không thể nào nói có đức Phật Thích Ca mà thọ ký cho ai cả, đây là cái lối đặt của người khác, con hiểu không? Thọ ký tương lai, sao ai dám nói về luật nhân quả như vậy được, vì người ta có làm hay không?

Bây giờ hiện giờ thấy người ta tu, mình ấn chứng cho người ta, rồi người ta nghe được vậy, người ta không thèm tu, rồi chừng đó mình nói được trúng không? Vậy Đức Phật Thích Ca nói láo hay sao. Như vậy là có Phật Di Lặc thật sự không?

Nếu mà ấn chứng như vậy là đức Phật, chẳng qua là người có trí tuệ và chẳng qua là đạo Phật không xây dựng trên đạo đức nhân quả. Cho nên mình về vị lai không dám nói điều gì. Nói người ta mừng là người ta cũng nguy hiểm cho người ta rồi, tạo cho người ta cái nguy hiểm rồi, không có nói.

Mà nói như vậy tức là tạo cho người ta ngã mạn người ta. Người ta tu chưa chứng, nói vị lai là về tương lai chứ gì, mà giờ cái tâm người ta còn cái ngã ở trong này. Nói người ta thành Phật là người ta coi như là người ta thành Phật rồi. Lúc bây giờ người ta ra đường đó, người ta hô mình là Phật rồi đó.

Con biết cái điều đó là không bao giờ vị Phật mà người ta nói cái chuyện vị lai cho người khác hết. Người ta khen một cái người nào mà tu đúng người ta khen cũng âm thầm, chứ người ta chưa khen trước mặt đâu. Khen cái người đó tu đúng cái họ mừng cái ngã họ liền, bộ diệt cái ngã dễ lắm sao? Rồi tạo cho người ta thêm cái ngã thì không phải tội sao?

Cho nên khen là luôn luôn bao giờ cái lỗ mũi mình nở ra, mình mừng lắm, thì cái ngã của mình chứ cái gì. Đó là Thầy nói thật sự đó các con biết không. Cho nên cái người tu người ta cẩn thận lắm, người ta không có thọ ký tầm bậy đâu, tuyên bố bằng cách sai đâu. Cho nên kinh Pháp Hoa nói như vậy là Tổ nó chứ không phải Phật nói đâu quý vị. Con có hiểu điều đó, Thầy xác định như vậy.

Mà Phật Di Lặc, làm sao vị lai, bộ nói rằng trong cái thế gian này, tất cả đều là một vị Phật thành lập một cái đạo tôn giáo thì có một ông Phật thôi chứ, sao lại có nhiều ông Phật thành lập tôn giáo, Phật giáo như vậy. Bộ hôm nay là ông Phật này, mai ông Phật khác lên ngồi ghế như là nhà vua thay ngôi vậy.

Các vị nghĩ là cái điều kiện là như là cái ngôi vua vậy à, tôn giáo Phật giáo mà như cái ngai vàng vậy đó. Mai ông vua này lên làm vua, mốt ông vua kia lên làm vua, bữa nay ông Phật Thích Ca, mai ông Phật Di Lặc. Rồi về tương lai đó là có lẽ nói là ông Phật gì đó nữa đó, chứ không phải là không đâu.

Thí dụ như, đức Phật Thích Ca thì thời đó là hiện tại, bây giờ vị lai chúng ta là Di Lặc, sau này đó là ông Phật Mít nữa. Thật sự là ông Phật Mít hay là ông Phật Xi Măng nữa chứ đừng có nói cái chuyện đó, cái tên đặt mà. Cái người đó sẽ là lên làm giáo chủ đó, rồi họ dạy cái đạo khác nữa, rồi chúng ta cũng nhận đó là ông giáo chủ hay sao?

(00:48:06) Thì cuối cùng cái giáo pháp của đức Phật nó trở thành là cái giáo pháp gì đó. Bởi vì có một ông Phật lên thay là cái giáo pháp của người ta phải khác rồi chứ, làm sao giống được. Rồi làm sao các con móc được cái giáo pháp của đức Phật Thích Ca ra mà tu, lúc bây giờ người ta đưa ra đạo đức gì. Thì tại vì đạo Phật có ông Phật Di Lặc, nên bây giờ cái đạo Phật phải là giáo lý như vậy, như vậy mới đúng. Chứ đạo Phật Thích Ca bây giờ Ông đã bị lật đổ rồi, còn gì nữa mà đem cái giáo lý Phật Thích Ca ra đây mà dạy, phải không, các vị phải hiểu điều đó.

Cho nên coi chừng trong kinh Pháp Hoa hay là kinh Đại Thừa coi chừng các Tổ viết đó, cho nên các Tổ dám bịa đặt lắm. Cũng “như thị ngã văn nhất thời Phật tại” đó, mà rồi ai viết đâu cũng nói là: "Tôi nghe như vậy, Phật nói như vậy tại Xá Vệ Quốc".

Thầy bây giờ viết kinh Thầy cũng nói: "Ờ ông Phật Thích Ca, Ông nói như vậy", rồi quý vị có tin không? Quý vị biết ở đâu là cái bài này là của ai viết, cũng nói ông Phật Thích Ca viết không à. Tội cho ông Phật, Ông không nói cái điều đó mà nói Ông, thiệt oan ức, Ông tức tối. Ông Phật gì mà thọ ký kỳ cục như vậy, dám nói về tương lai. Mà cái luật nhân quả người ta như vậy mà dám bảo như vậy, rồi ông Phật đó là Ông không hiểu gì hết sao?

Thầy nói ông Phật Thích Ca như vậy Thầy cũng lôi xuống: "Ông không hiểu gì hết à, luật nhân quả người ta rõ ràng nó di chuyển như vậy mà Ông dám nói". Cho nên mấy vị mà đi coi thầy bói, nó nói về quá khứ thì cái chuyện xảy ra rồi nó nói đúng lắm đó, tương lai nó nói trật lất hết đó, không có nói trúng đâu.

Bữa nay nói: "Ngày mai tôi chết, mà bữa nay tôi làm thiện, tôi phóng sanh, tôi làm cái gì đó, ngày mai tôi không chết. Ông nói trật lất như vậy, ông nói đúng được sao".

Con phải biết là vị lai không phải chuyện dễ nói đâu. Một cái người mà người ta tu hành đàng hoàng, không bao giờ mà người ta nói chuyện tiên tri đâu. Tiên tri mai mốt không có chúng cười mình à, phải không, quý vị hiểu điều đó.

Cho nên vì vậy quý vị đừng có tin, bởi vì Phật nói: "Đừng có tin vì kinh sách, đừng có tin vì truyền thuyết, đừng có tin vì lời ta nói nữa. Khi nào những cái điều mà ở trong đó nó đem lại sự lợi ích thiết thực cho quý vị thì quý vị hãy tin". Đức Phật đã dặn mình như vậy mà, tại sao mình không nghe cái lời căn dặn đó. Cho nên đừng có vội tin kinh sách gì hết hoàn toàn, họ nói tôi không tin, chừng nào mà cái đó đem lại sự giải thoát cho mình, lợi ích thiết thực thì mình tin nó.

Đó thì như vậy là quý vị đã hiểu rõ rồi chứ gì. Chắc như vậy là Thầy làm con hoang mang lắm chứ gì.

(00:50:22) Phật tử: Mô Phật con cũng hoang mang lắm, con đọc về kinh Pháp Hoa mà con nghe nói con giật mình.

Trưởng lão: Bây giờ con cứ tụng, con đọc, con nghĩ rằng cái công đức mình làm cái công việc đó nó không có, không ích lợi cho con. Nhưng mà con kèm thêm một bên là con thực hiện đạo đức nhân quả. Con cứ thực hiện, con nhớ là "Tôi tụng kinh Pháp Hoa, nhưng mà tôi sẽ thực hiện những cái đạo đức nhân quả ở trong đời mình", thì cái đó lợi ích.

Đừng có tìm cái suy nghĩ, bởi vì những cái lời Phật nói nó cao siêu lắm, ở trong đó các con đừng có nghĩ rằng tầm thường đức Phật thọ ký. Phật nói thọ ký tức là Phật muốn nói cái gì đó, để chờ khi nào Thầy giải thích cho các con nghe. Còn bây giờ hỏi Thầy, Thầy phải nói thẳng thôi, nói thẳng theo cái kiểu mấy con hiểu.

14- TỤNG KINH MÀ ĂN MẶN LÀ SẼ BỊ HỘC MÁU, CÓ ĐÚNG KHÔNG?

(00:51:07) Phật tử: Kính bạch Thầy con cũng nghe kinh nhân quả, ngoài đời có thầy nói rằng là tụng kinh mà ăn mặn thì hộc máu, người ta sợ như vậy. Cho nên nhiều lúc con đi tụng kinh thì con sợ nên con không có kêu người ta đi.

Trưởng lão: À, cái đó là cũng là một cái sai, tụng kinh (bao giờ) mà hộc máu bao giờ. Con cứ tụng kinh, rồi có ăn mặn đi, rồi có hộc máu Thầy bồi thường đó, thiệt đó. Thầy nói "tụng kinh gì mà nó linh hiển dữ tợn thiệt, tụng kinh gì mà nó bắt mình hộc máu vậy nè".

Mình ăn mặn thì ăn mặn, vì mình không hiểu về nhân quả thì mình còn sát sanh, mình ăn mặn. Có bao giờ mà ăn mặn mà tụng kinh hộc máu bao giờ đâu, tại vì họ dạy như vậy, (nó làm) kinh nhân quả nó dạy như vậy. Nó sợ mình ăn thịt chúng sanh cho nên nó dạy mình, nó làm cho mình hoảng sợ vậy, cho nên khi mà tụng kinh này kia thì phải ăn chay đồ như vậy.

Chứ sự thật ra Thầy bảo, mình cứ thực hiện nhân quả thì mình biết rằng, khi mình ăn chúng sanh là có sự đau khổ chết chóc trong đó, mình không ăn. Còn bây giờ mình chưa hiểu, mình chưa biết rõ và tâm mình chưa có thực hiện được thì mình cứ ăn, sống như mọi người. Ai mà dạy mình ức chế mình, mình làm đau khổ mình điều đó. Chừng nào mình ngộ được cái lý đó, mình thương tất cả chúng sanh, thì mình thực hiện ngay cái đời sống của một cái đạo đức của con người, của mình đối với loài chúng sanh thôi.

Còn bây giờ đừng có sợ, con cứ muốn tụng kinh gì con cứ tụng, con cứ ăn bình thường cho gia đình, cho chồng con nó vui. Chứ con ăn chay mà đi tụng kinh đó. "Ở gia đình tới giờ này sao bả ăn kiểu này thì thôi trời ơi nó buồn bã gần chết", phải không?

Trong gia đình mình không sum họp, chồng thì ăn mặn, vợ thì ăn chay, nói: "Tối nay tôi mắc tụng kinh không dám ăn mặn với con cái, chồng con". Trời đất ơi làm cái gia đình của người ta muốn tan nát, tụng kinh cái kiểu đó rồi nó chia rẽ hết còn gì. Cho nên quý vị coi chừng tu mà quý vị địa ngục ở trong gia đình đó. Chồng ăn cơm rồi nó buồn bã: "Vợ nay không ăn, như vậy không biết nó có gầy gò, ốm o bệnh tật này kia đồ không", con hiểu điều đó.

Cho nên làm cho người ta lo đó là ác pháp rồi đó, đừng có làm cho người ta lo. Mình tu để mình giải thoát cá nhân mình quá vậy, mình tụng kinh để cho mình giải thoát. Mà cả gia đình của mình thấy bữa nay nó ăn như vậy, vợ con ăn như vậy "Trời đất ơi nó ốm o, nó ăn kiểu đó chắc là nó chết chứ nó không có sống đâu. Tụng kinh không biết là ông Phật có phù hộ cho nó không, chứ kiểu này thấy nó càng ngày nó càng ốm".

Cho nên từ đây về sau đừng có làm điều đó, làm những điều đó gia đình mình khổ lắm, đừng có làm người khác khổ. Bởi vì Phật dạy "đừng có làm cho người khác khổ, đừng làm mình khổ, đừng làm người khác khổ". Tụng kinh (thì) tụng kinh, ăn mặn (thì) ăn mặn. Chừng nào mình hiểu được cái lý, chừng đó mình quyết định mình khuyên giúp cả gia đình cùng ăn chay với nhau hết thì vui vẻ. Đồng ăn với nhau hết thì chừng đó ăn chay mà gia đình cười vui, bởi vì mình thấy mình tránh được cái nghiệp sát sanh, cả gia đình của mình là hạnh phúc.

Không lẽ mình ăn chay thành Phật được, cả gia đình của mình ăn mặn nó đọa địa ngục, mình vui, mình ngồi trên cõi Phật được không? Không lẽ bây giờ chồng con mình ở địa ngục, mà mình ngồi ở trên cảnh giới Phật đó, mình nhìn xuống đó mình thấy, mình đau khổ không?

Con là người hay là con làm cái gì mà cái gộc cây hay con không có đau khổ. Chồng con mình ở địa ngục nó khổ sở, nó đói khát, mà bây giờ mình ngồi trên Phật, mình ăn bữa cơm này ngon được không? Bây giờ con ăn vàng, nuốt cũng không vô nữa. "Bây giờ thôi, thôi tôi không dám ở cõi Phật đâu, ở cõi kiểu Phật kiểu này chắc là tâm tôi nó ở địa ngục, nó phải sống chết với con cái tôi, với chồng con chứ". Như vậy con mới là tình nghĩa chứ.

(00:54:12) Cho nên tu phải đúng cách, hiểu cho đúng nghĩa, chứ không khéo con lên thiên đàng một mình đó. Mà mình đã tạo cái nhân duyên có chồng, có con thì phải đồng nhau ở trong cái thiện pháp với nhau. Mà nó chưa thuận thì không nên được làm buồn khổ chồng con ở trong gia đình. Phải hiểu được cái điều đó mới thật sự là đạo đức của đạo Phật đó, con hiểu chưa?

Đạo đức đạo Phật không dạy chúng ta làm khổ gia đình chút nào hết. Các con ham đi, chồng nói: "Đừng, bữa nay không có đi, ở nhà coi chừng nhà”, mà: “Nay là cái ngày lễ, ngày đó tôi phải đi chùa à". Cãi đi, nó buồn chứ đâu phải nó không buồn sao. Cho nên chúng ta đi chùa mà chúng ta làm người khác buồn, có lợi ích gì?

Thầy nói thẳng, tu là phải tu cho (thẳng) đúng, hành là phải hành đúng giáo. Ở nhà gia đình không có bằng lòng, thì nhất định là không đi, đừng có cãi. Làm cho vui lòng mọi người đó là đạo đức của đạo Phật đó. Khi nào mà chồng con vui vẻ cho mình đi thì mình đi, mà không vui vẻ thì đừng có đi, vì mình phải làm cho đúng cái bổn phận của một người có đạo đức. Chứ đừng nói là: "Tôi đến Phật mà tôi bỏ chồng con tôi ở địa ngục” thì đừng có nghĩ, cái điều đó là ích kỷ nhỏ mọn của mình đó.

Phật tử: Mô Phật, Thầy nói về những cái chùa, với lại những cái vị sư ở chùa là làm những cái hình thức như cầu an, cầu siêu, hoặc là mình cúng dường sai vậy đó. Rồi cái những cái đạo hạnh của quý vị sư đó không tốt, như vậy thì giáo hội có biết không?

Trưởng lão: À, bây giờ mà quý vị căng thẳng với họ thì giáo hội biết liền, giáo hội tìm Thầy, họ trị thẳng tay đó, chứ không phải xa đâu. Bởi vì giáo hội bây giờ đông lắm đó, thầy mà phạm giới nhiều lắm. Quý vị lén lén ở nhà lâu lâu cũng đi thăm chùa một lần chứ đừng có nói: "Tôi nghe Thầy nói rồi tôi không thèm đến thăm mấy ông này nữa". Thôi đến thăm để may ra thầy Thông Lạc còn sống được hai ngày, còn nói pháp cho mình nghe chứ. Lơ mơ mấy ông rủ một đám lên đòi đốt cái chùa Trảng Bàng sẽ tiêu hết đó, đông quá họ đốt không ai làm gì đâu.

(00:56:01) Phật tử: Vậy là tức là giáo hội không biết hả Thầy.

Trưởng lão: Ờ. Mà mà bây giờ thì thôi mình đừng có để cho giáo hội biết Thầy nói gì hết, mình chỉ ráng mà nghe lời Thầy mình tu, mình giải thoát. Thỉnh thoảng mình đến mình thăm chùa chút xíu, để cho người ta thấy cái mặt mình chút, người ta không có nghi ngờ. Đó là mình hành thiện, đừng có tạo cho người ta ác.

Bây giờ đó mình không có cúng dường như ngày xưa nhiều nữa, vì mình biết đó là mình nối giáo để cho họ diệt cái Phật giáo. Cho nên vì vậy mình thỉnh thoảng mình đến thăm, rồi mình cũng mua chút ít mình cúng ở trong chùa, mình cúng Phật. Chứ đừng có cúng vị tăng mà không có đúng, vì cái tượng Phật nó tượng trưng cho thanh tịnh. Mình đem đến đó, mặc dù mình biết rằng cái lòng mình cúng Phật, nhưng những cái trái cây đó thì các vị tăng đó hưởng. Nhưng mà vẫn là mình cúng Phật chứ không phải là cúng các vị tăng đó, bởi vì các vị tăng đó sai.

Thầy muốn nói như vậy thì các con thỉnh thoảng đến chùa cúng Phật, lạy Phật chứ đừng có xa cái quý vị đó nhiều, đó thì nó cũng tai hại. "Không biết ai dạy cái đám mà đệ tử của mình hồi nào nó đi chùa, bây giờ nó vắng mặt hết đây, truy nó ra coi ai". Tới chừng mà truy ra lòi rồi, chắc họ phải biết, họ tới chùa Thầy đó.

Các con đừng nghĩ Châu Đốc xa đâu, nó không có xa đâu, nó đến chứ nó không phải không đến, mà cả giáo hội nữa chứ không phải là ít đâu. Bây giờ trong quý thầy, nói chung là giáo hội nó cũng đều phạm giới hết. Các con đừng có lộn xộn, mình hãy ráng lo tu cho mình đi.

Lơ mơ các con mà giống như mà Phật tử ở miền Bắc, họ nghe Thầy nói rồi họ không thèm đến chùa nữa, họ không thèm sinh hoạt trong chùa nữa, họ không thèm cúng dường. Kêu họ bố thí họ cũng không thèm đi nữa, họ không làm gì hết, trời ơi nó rùm ở ngoài Hà Nội hết. Cho nên Thầy phải gửi thơ, Thầy ổn định ở ngoài đó hết, chấn chỉnh lại.

Cho nên bây giờ sẵn dịp này Thầy cũng nhắc mấy con đó, để cho nó bình thường, lần lượt đó mình giữ gìn từng chút, từng chút. Mình thay đổi từng chút nó cho êm thắm, nó không có gì động ai hết.

15- VÌ SAO QUAN ÂM THỊ KÍNH LẠI PHI ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO. NHẪN NHỤC BA LA MẬT NHƯ THẾ NÀO MỚI ĐÚNG

(00:57:47) Phật tử: Mô Phật như Thầy nói là về đức Quan Âm Thị Kính là phi đạo đức. Như vậy thì ở các chùa, hoặc là ở nhà mình thờ đức Quan Thế Âm, vậy là cái chức danh Quan Thế Âm đó là Quan Thế Âm nào?

Trưởng lão: À, cái đó là Bồ Tát Quan Thế Âm. Còn cái kia Quan Âm Thị Kính, cái đó là chuyện hư cấu mà người ta tin tưởng, người ta tôn xưng đó. Tức là cái huyền thoại của Quan Âm để chỉ rõ cái hạnh nhẫn nhục anh hùng đó mà, cho nên nó là phi đạo đức đó con.

Chứ còn cái mà các con thờ Quan Âm đó là Bồ Tát Quan Âm mà, chứ đâu phải Thị Kính sao. Chứ không khéo các con lại lấy cái đức Bồ Tát Quan Âm, mà cho là Thị Kính nữa thì tội quá vậy, phải không? Các con đừng lầm lạc.

Phật tử: Dạ thưa Thầy tại sao thờ Quan Âm Thị Kính lại là phi đạo đức.

Trưởng lão: À, tại vì Quan Âm Thị Kính làm anh hùng cá nhân con. Cho nên khi mà bị khai oan đó, thì Quan Âm Thị Kính làm thinh không có nói. Người ta nói Quan Âm Thị Kính là một cái người tu mà xấu xa, cho nên mới Thị Mầu mới mang thai. Cho nên do đó Thị Mầu khai Quan Âm Thị Kính, ngài làm thinh ngài không có nói.

Do đó người ta, làng xã mới bắt ngài, mới đánh ngài, căng ngài ra đánh, rồi sỉ mạ ngài, không có cho ngài ở trong chùa. Ngài phải ở ngoài cái cửa tam quan, ngài che cái chòi ở ngoài tam quan, ở ngoài trước cổng chùa ngài ở. Do đó ngài vất vả, khổ sở. Đến khi mà ngài chết người ta phát giác ra ngài là một cái người phụ nữ, cho nên người ta mới hỡi ôi.

Nhưng mà hỡi ôi ăn năn rồi, thì cái chuyện người ta đã làm ác, đánh ngài, chửi ngài, mắng ngài, người ta đã làm cái ác quá độ. Vì vậy mà gọi là phi đạo đức, mình đã làm khổ người ta, làm ác cho người ta. Mà chính ngài, ngài lại làm khổ để cho người ta đánh đập mình, rồi bắt đầy mình ra ở cái chòi tranh vách lá ở ngoài cửa tam quan chùa. Cho nên đó là tự ngài đã làm khổ mình mà khổ người, cho nên đó là phi đạo đức, con hiểu không?

Phật tử: Thưa Thầy như theo con nghĩ, ví dụ như nói là Quan Âm Thị Kính phi đạo đức, như vậy thì con nghĩ là lúc mà ngài chịu để cái thân mình bị đánh như vậy là hành cái pháp nhẫn nhục chứ?

Trưởng lão: À, bởi vì cái đó là anh hùng, Thầy nói anh hùng mà, cái nhẫn nhục đó anh hùng, ai gan dạ vậy. Thầy mà đụng tới một roi Thầy khai hết, phải không? Còn cái đó là tại anh hùng, mà đạo Phật đâu có dạy chúng ta đạo đức anh hùng.

(01:00:09) Con nhớ cái đạo đức anh hùng là đạo nào dạy hay không? Đạo Nho, dạy chúng ta làm người quân tử cho nên phải anh hùng chứ. Thì Quan Âm Thị Kính đó là quân tử, cho nên đạo Nho chứ đâu phải đạo Phật. Thầy muốn nói là phi đạo đức của đạo Phật, chứ không phải phi đạo đức của đạo Nho. Cho nên Thầy nói anh hùng mà, anh hùng cá nhân, con hiểu chưa?

Cho nên con là đạo Phật hay là đạo Nho? Nếu đạo Nho thì con nói nó đúng đó, thì con là đạo Nho thì đúng. Mà con là đạo Phật, Phật tử thì con nói không đúng thì đúng. Mà con nói cái hành động của Quan Âm Thị Kính đúng, mà con nói như vậy là con sai đối với đạo Phật, chứ không sai với đạo Nho đâu, phải không, con hiểu chưa?

Phật tử: Bạch Thầy thí dụ như vậy thì trong cái Lục Độ Ba La Mật đó, nói về giới nhẫn nhục, thì cái nhẫn nhục đó nó có được xếp vào cái hạnh của Bồ Tát Quan Thế Âm không?

Trưởng lão: À không, không phải đâu, tại con hiểu anh hùng cá nhân. Đạo Phật mà nếu là Lục Độ Ba La Mật mà nói nhẫn nhục mà cái kiểu mà của Quan Âm Thị Kính, là cái kiểu mà anh hùng cá nhân của Nho giáo thì nó là người quân tử rồi. Thì đạo Phật, thì nó không có cái người quân tử đâu. Cho nên Lục Độ Ba La Mật con phải hiểu một cái nghĩa khác cái nghĩa nhẫn nhục Ba La Mật bằng cái kiểu đó. Người ta nhẫn nhục nhưng mà người nhẫn đúng cái đạo đức của nó.

Thí dụ như bây giờ người ta chửi mình, mà mình không giận trong lòng của mình, mình không làm khổ mình, mà mình không chửi lại họ, thì gọi là nhẫn nhục Ba La Mật, chứ đâu có là cái lý đó. Nghĩa là mình không làm khổ ai hết, còn đằng này Quan Âm Thị Kính làm cho người ta làm ác, mà tự làm cho mình khổ nữa.

Thí dụ như bây giờ nhẫn nhục Ba La Mật như thế này nè. À, có một người chửi Thầy, chửi Thầy chó, mà Thầy không có giận, mà Thầy không chửi mắng lại người đó. Thì như vậy rõ ràng là Thầy nhẫn chứ đâu phải Thầy không nhẫn, phải không? Như vậy mà Thầy cũng nhẫn luôn cả Thầy, Thầy không làm cho nó giận. Thì cho nên Thầy nhẫn đối với Thầy, mà Thầy nhẫn với cái người, cái tên hung dữ đã chửi Thầy, vậy là Thầy nhẫn Ba La Mật chứ sao.

(01:02:04) Nó là ‘không’ Ba La Mật là ‘không’ chứ gì, trí tuệ Bát Nhã là trí tuệ ‘không’ chứ gì. Mà Thầy không giận, không hờn, mà cái người kia chửi Thầy, Thầy cũng không bao giờ làm cho người ta giận, thì đó là Bát Nhã Ba La Mật chứ sao. Chứ đâu phải là cái chỗ hành động kia mà tạo ác cho người ta gọi là Ba La Mật.

Ta tưởng là ‘không’‘không’ sao được, đánh thì phải đau chứ làm sao ‘không’. Mà ‘không’ sao được, mấy cái ông làng xã này chửi cái bà Thị Kính này tan nát, không còn cái manh gì hết mà làm sao ‘không’. Nếu ‘không’ thì đâu có chửi, con hiểu không? Cho nên nó có như vậy làm sao ‘không’ được. Cho nên ‘không’ nó phải là không chứ sao lại có.

Ở đây rõ ràng là cái tâm chúng ta có rõ ràng, đối tượng đánh đập có. Rồi nhẫn nhục mà đối với Thị Kính ngài không sân hận, thì đó là ngài chỉ có một góc độ Ba La Mật của ngài. Mà với những làng xã, ngài có làm được cái Ba La Mật của làng xã hay không. Cho nên Ba La Mật phải đối tượng của nó và chính nó là không hết, thì nó mới Ba La Mật.

Còn đằng với này, đằng kia người ta có biết Ba La Mật là cái thứ gì. "Căng lọc cái thằng này mà đánh nó cho nó đã đi, tu hành mà chướng nghiệp gì mà làm tầm bậy, tầm bạ như thế này? Cho nó ớn đi, sau này mấy cái chú tiểu không có làm bậy bạ nữa", phải không? Răn một người bao nhiêu người.

Đó Thầy ra Thầy nói như vậy là đủ biết nó phải hiểu cho đúng cách, chứ không khéo mình hiểu sai, mình sẽ hiểu trật Ba La Mật mất.

Rồi bây giờ hết rồi phải không con, Thầy sẽ đọc cái này Thầy trả lời luôn.

16- KHI NGƯỜI TA ĐANG TỨC GIẬN THÌ MÌNH NÊN TRÁNH ĐI CHỖ KHÁC

(01:03:31) Phật tử: Cái ví dụ của Thầy mới nãy, là Thầy nói người ta chửi Thầy là chó là Thầy im, Thầy không có chửi lại. Rồi người ta tưởng là Thầy có làm cái điều xấu gì nên Thầy im. Người ta tưởng như vậy rồi người ta mới chửi Thầy nữa, thành ra Thầy làm cho người ta tội.

Trưởng lão: À, như vậy là Thầy, thí dụ như người ta chửi Thầy, Thầy không giận cho Thầy, Thầy giữ được cái tâm Thầy. Thầy không có điên gì mà Thầy để tiếp tục người ta chửi Thầy. Thầy co giò mà Thầy chạy mất chứ ở đó quở hoài, phải không? Thầy đâu có điên, ai mà đứng đó nghe, mình nhận một lần thôi chứ ai nhận nhiều lần. Lúc Thầy chạy rồi thì cũng không có ai chửi Thầy được hết.

Đó là cái điều mà mình phải sáng kiến, người ta nói chạy trước thì không ai chửi mình nữa, mà cũng không đánh nữa. Bởi vì họ tức giận, nhiều khi mình làm thinh mà mình coi bộ mình sần sần đó. Chắc chắn là họ nói "cái thằng này nó lì thiệt, đánh nó mấy cây chứ đừng có chửi".

Phật tử: Mà Thầy chạy rồi người ta đuổi theo người ta đánh thì sao?

Trưởng lão: Lẽ đương nhiên là Thầy điên gì mà Thầy chạy mà để cho họ đánh. Thầy lo Thầy chạy, coi như là chạy dữ tợn chứ đâu phải dễ. Nhưng mà thật sự ra khi mà Thấy người ta chửi Thầy, mà thấy Thầy chạy rồi, người ta cũng không có chạy theo người ta đánh đâu. Chừng nào mà Thầy cự người ta, đánh lộn đó, mà bây giờ Thầy thua rồi Thầy chạy, là người ta tức, quá tức rồi người ta đuổi theo. Chứ người ta mới chửi Thầy người ta đâu có đuổi theo để đánh Thầy đâu.

Nhưng mà Thầy biết khôn, khi người ta chửi Thầy chó, Thầy biết người ta giận quá rồi, thôi đừng để cho người ta giận nữa, thôi mình chạy trước đi, mình tránh đi. Cái người ta thấy mình thua rồi, "cái ông đó ông thua rồi đâu có chửi ổng nữa". Thành ra cuối cùng họ cũng không có chửi Thầy nữa. Và bây giờ không có Thầy ở đó thì chửi ai bây giờ, không lẽ chửi không không hay sao. Cho nên họ cũng hết chửi, từ đó họ cũng hết ác.

Con thấy không mình phải khéo léo chứ, sử dụng cái trí tuệ của mình, mình biết lúc nào mình cần chạy. Chứ mình chấp cái ngã, mình đứng trân trân đó, mình làm thinh. Mà cái kiểu mà muốn đánh người ta nữa, không chửi người ta mà coi bộ như cái thằng lì lì thì tức là người ta chửi thêm.

Đó thì cái gì cũng qua cái hành động của mình mà người ta không chửi, chứ còn mà mình không có hành động đúng cái chỗ thì người ta cũng sẽ chửi mình hoài.

17- NGƯỜI NGHÈO BỐ THÍ NHƯNG LẠI BỊ NGƯỜI GIÀU CHỬI RỦA THÌ PHẢI LÀM SAO?

(01:05:44) Trưởng lão: Ở đây thì có câu hỏi như thế này.

Câu hỏi: Ở đây mình nghèo mà mình có cái lòng buông xả, mình bố thí. Thì có một cái người giàu, người ở gần bên mình họ thấy mình làm cái chuyện đó, họ nói: "Nghèo mà làm phách". Phải không? Có phải trong câu hỏi là như vậy. Như vậy là cái người mà nói mình làm phách đó, người đó có tội hay không?

Trả Lời: Có các con. Bởi vì cái chuyện người ta làm từ thiện, do cái tâm mà người ta buông xả, người ta làm những cái điều đó, thì mình ca ngợi. Nhưng mà cái người giàu này họ chưa có học đạo đức, cho nên họ thấy làm như vậy coi như là bỉ họ đó. Họ giàu, họ không có làm vậy mà mình làm, thành ra họ, coi như là họ gặp cây gai trước mắt họ rồi đó, cho nên họ chửi mình, họ nói như vậy.

Thì mình là mình cứ làm thật tâm của mình, họ nói là họ có tội đó con. Tức là cái điều tội đó là cái tội ác của họ, họ nói. Rồi họ nói mình làm phách chứ họ tội đó, thì cái nhân quả đó để họ trả.

Nhưng mà điều kiện, là khi mình biết họ như vậy mà mình làm thinh, mình không nói, họ nói gì nói mặc, thì đó là cái nhân của họ, làm sai thì họ chịu. Chứ mình nghèo mình không đủ khuyên họ để mà làm như mình đâu, họ không tin mình đâu, họ không nghe đâu. Cho nên họ có đủ duyên gặp một bậc thầy nào đó, chừng đó họ sẽ đến họ xin lỗi cái người nghèo đó, họ dạy liền…​.

Cũng như con biết cái nhà rồi đó như vậy, rồi bắt đầu đó, thí dụ con biết cái nhà nào đó, mà bắt đầu mà họ giàu có như vậy đó, rồi con lại gặp Thầy, Thầy tìm cách Thầy gỡ cái, Thầy thương cái người mà họ làm ác đó, họ không hiểu đó. Thầy ôm cái bình bát, Thầy đến, Thầy xin, để cho họ, tìm mọi cách để xin họ, mai mốt là họ cũng bố thí rồi thành ra họ đâu có chửi cái người bố thí nữa.

Cho nên Thầy giải nguy được cái tội lỗi của người đó, là Thầy đến Thầy tìm cách Thầy xin. Mà Thầy dai lắm, Thầy quyết Thầy làm cho họ xả cái tâm của họ, mà họ không có nói cái nặng với người nghèo này nữa. Cho nên Thầy tìm cách, mà có cái người nghèo ở trước mặt là Thầy đến Thầy xin, mà không có người nghèo Thầy không tới xin. Để cho cái người này phải bỏ ra cho Thầy cho một đồng bạc, hay hoặc là cho Thầy bát cơm đi. Để rồi sau này không có nói cái người nghèo đó nữa, nhất là làm cho cái người nhà giàu đó họ giảm tội, con hiểu chưa?

(01:07:57) Ở chỗ mà Thầy cứu cái người là khi mà họ đã nói cái người nghèo mà làm phách đó, thì Thầy luôn luôn Thầy phải là người thực hiện tâm từ của Thầy đó. Thầy biết cái người đó họ ở trong cái gai trước mắt họ là cái người mà nghèo làm từ thiện này. Để cho cái người nghèo này tăng trưởng mà không bị cái lời nói này mà chướng tâm. Để giúp cho cả hai người đều tốt, cho nên Thầy sẽ ôm bình bát, Thầy đến xin, Thầy đến xin nhà của người đó Thầy xin.

Thì thứ nhất Thầy phải hiểu được cái tâm niệm của từng người gia đình ở trong cái nhà đó. Cái người nào mà có thiện tâm bố thí trước, là Thầy đến Thầy xin người đó trước. Còn cái người nào mà có cái tâm bỏn xẻn Thầy không có xin người đó đâu, Thầy chờ cho cái người đó đi khuất rồi Thầy xin cái người…​

Thí dụ như ông chồng bỏn xẻn, thì Thầy biết bà vợ là rộng rãi, Thầy xin là bà vợ sẽ cho liền. Mà bà vợ bỏn xẻn, Thầy biết ông chồng rộng rãi, Thầy chờ bà vợ đi chợ ở đâu đó, cái Thầy ôm bình bát vô Thầy xin. Ông chồng bỏ ra tiền bạc này, ông chồng bỏ tiền bố thí rồi thì không có nó người nghèo này nữa được, con hiểu chưa?

Con phải hiểu như vậy, đã là bố thí với nhau thì không có phân biệt cái giàu nghèo nữa. Mà người bố thí mà người không bố thí là cái gai của người ta, người ta phải nói: "Cái đồ làm phách". Đó là điều đó là hẳn nhiên, là có ở trong cái xã hội này là thật chứ không phải không đâu, chính đây là những cái bài học thật chứ không phải không đâu.

Đó như vậy rồi bây giờ các con còn hỏi điều gì thêm nữa không?

(01:09:19) Phật tử: Thưa Thầy người nghèo bố thí hoài rồi người giàu người ta cảm thấy chướng mắt, rồi họ chửi người nghèo hoài thì cái người nghèo đã làm cho người giàu họ mang tội.

Trưởng lão: À, Chính vì vậy mà cái người nghèo được học việc bố thí đó đó, mới đến thưa lại với Thầy. Cũng như bây giờ người ta nghe nói rồi mới hỏi Thầy. Cho nên vì vậy đó Thầy sẽ đến Thầy giải cái ách khổ cho người kia. Chứ không khéo để cái người kia, vì cái sự bố thí của người này mà tạo cái ác cho người kia sao.

Phật tử: Mà thí dụ như người nghèo đó không biết cách xử lý, là không có đến tìm Thầy rồi là họ có tội không Thầy?

Trưởng lão: Lẽ đương nhiên là người nghèo bố thí phải được học đạo đức rồi con. Nếu mà nghèo mà bố thí phải được học đạo đức, ít có khi mà người nghèo mà bố thí lắm. "Nghèo không có ăn mà cứ mang bình bát đến để xin hoài à, báo tôi càng nghèo thêm nữa".

Người ta cứ nghĩ tới cái khổ của người ta, chứ người ta ít có bố thích lắm. Nhưng mà người ta được học đạo đức rồi người ta xả. Cho nên người nghèo mà bố thí là người có đạo đức rồi đó con, người ta được học nhân quả rồi.

Phật tử: Họ có đạo đức là họ sẽ đến tìm Thầy phải không?

Trưởng lão: Ừ người ta sẽ đến tìm, không những Thầy mà những người mà đã dạy họ đạo đức đó. Và họ sẽ học, họ sẽ học lại những cái hành động họ làm mà họ đã bị như vậy, bây giờ làm sao?

Thứ nhất là họ tránh được cái chướng tâm của họ đã bị người ta nói mình làm phách đó, nó cũng nặng lắm đó con. Cho nên vì vậy họ mới đến để giải nguy cái tâm của họ, bây giờ họ không biết làm sao giải nguy. Thì cái ông thầy chỉ cần giải nguy cái người mà, đối tượng mà nói họ làm phách, mà người này hết nói thì họ đâu có chướng tâm, con hiểu chưa?

Phật tử: Mà thí dụ như là họ chỉ biết có tấm lòng bố thí thôi chứ họ không có học đạo đức thì họ đâu có biết đâu mà tìm đến những vị thầy.

Trưởng lão: À, như vậy là làm sao mà tự dưng mà họ biết bố thí mà không có người dạy con.

À bắt đầu bây giờ cái tình cảm của họ, con nói ví dụ cái người đó, họ có tình cảm họ thương, thấy người nghèo tàn tật là họ cho thôi chứ họ không có nghĩ gì, nhưng mà họ nghèo. Tự cái bản tánh của họ mang cái tiền kiếp là họ đã bố thí, cái nghiệp lực nó đã quen với họ như vậy rồi, bây giờ không có người thầy nào dạy họ hết. Thì do đó bây giờ họ ở gần bên cái người nhà giàu, rồi họ bị cái lời nói như vậy.

Do đó thứ nhất là từ cái hành động đó mà không có người thầy hướng dẫn, đã biến cho họ thành một cái tức giận. "Vì mình làm cái việc này do cái lòng thiện tâm mình, mà sao người này nói phách?". Thì do đó vì vậy đó, họ tìm cách nào là họ đã…​ Bởi vì họ không được hướng dẫn thiện toàn diện, mà họ chỉ từ cái tâm của họ, từ đó nó sanh ra cái quả ác mà không lường được. Cho nên coi chừng thiện mà đi đến cái quả ác đó.

Cho nên ở đây nó phải có một vị thầy, khi mà gặp gì rắc rối mình không giải quyết được, thì hỏi vị thầy. Chứ không khéo để tự mình giải quyết, thì mình giải quyết ác rồi. "Thằng cha này nó giàu mà nó ích kỷ, mình nghèo mà mình buông xả, thế mà bây giờ nó nói mình phách. Mình chờ bữa nào đó cho nó một trận cho nó biết". Thì coi chừng cái người nghèo này họ nhiều thủ đoạn, họ cũng dám làm điều ác lắm đó con.

(01:12:00) Phật tử: Vậy tóm lại là người nghèo đó có tội phải không Thầy?

Trưởng lão: Vậy là từ đó mà coi như là người nghèo chưa phải là cái thiện của họ là, từ biến cái thiện của họ mà trở thành một cái ác của họ. Cho nên nó có tội, luôn cả cái người giàu kia cũng có tội, cả hai đều đưa nhau vào nhân quả tội, mà tạo cái đó là nhân quả mới không đó, chưa phải là cũ. Từ cái cũ của thiện của người này, mà kéo dần luôn cả hai người đều đi vào cái nhân quả mới, nó nguy hiểm lắm.

Cho nên Thầy nói học đạo thiện ác, mà không có một vị thầy đạo đức thiện ác, thì coi chừng trong thiện ác mình sẽ sai. Cũng như một ông thầy đánh học trò, thì rõ ràng học trò đau thì ác rồi chứ gì. Mà không đánh học trò làm biếng học, thì học trò học dở, thì như vậy là có thiện không?

Con nhớ rằng trong thiện có ác, mà trong ác có thiện. Mà nếu mà không có một người vạch ra rõ, thì coi như cái hành động ác của mình mà nó trở thành thiện, mà cái hành động thiện của mình trở thành ác.

Vì vậy mà trường hợp mà một cái người nghèo bố thí, mà coi chừng là cái hành động thiện của mình mà trở thành ác, tạo cho cái người khác làm ác. Cho nên ở đây điều kiện là về mà học đạo đức đều là phải có một vị thiện hữu tri thức. Người ta đầy đủ trí tuệ trong cái đạo đức đó, người ta có kinh nghiệm. Cho nên người ta hướng dẫn mình thoát ra cái cảnh ác.

Các con thấy nên phải hiểu như vậy là luôn luôn các con đều là phải…​ Bởi vì mình coi như là cái người dốt đạo đức rồi, mà mình hành ngang đạo đức coi chừng nó là đạo đức ác nữa, cho nên mình phải có thầy hướng dẫn. Cũng như con là người dốt mà không có ông thầy dạy chữ, thì con làm sao con biết chữ. Con tự lấy sách đọc ê, a, con đọc ê, a thì con đọc biết chữ ê với a thôi, còn con ráp vần thì không được, không có ai dạy tới nữa thì con đọc ê, a đâu có nghĩa là con biết chữ, thành ra dốt nó cũng dốt à.

"Nói tôi biết chữ", thì bảo đọc coi. "Thì cái chữ ê, a tôi đọc được chữ ê, a". Ở trong các chữ thì người ta ráp được, còn con thấy chữ ê con nói chữ ê, con thấy chữ a con nói chữ a. Mà không biết là người ta đọc cái chữ đó là cái chữ gì, con đọc không được, thế mà con nói con cũng biết chữ nữa. Thì cái đạo đức đó là kể như là đạo đức khiếm diện không có đúng đâu, nó trở thành ác.

Đó là tất cả những cái điều kiện gì Thầy nói, tu thiền cũng phải là có Thầy dạy, nó không điên. Mà tu đạo đức thì nó phải hành thật sự là thiện. Chứ không khéo mà đạo đức nửa chừng nó thành ra ác ở trong đó, nó nguy hiểm lắm. Nhân ác, quả ác nó liên tục, nó kéo dài cho người ta.

Rồi bây giờ các con hỏi điều gì thêm nữa không, có gì không? Để rồi Thầy về Tây Ninh rồi không còn lấy ai mà hỏi, mỗi cái hỏi như vậy đó các con sẽ thấy lợi ích rất lớn đó. Nó giúp cho mình sáng tỏ trong cái cuộc sống của mình hằng ngày chung đụng đối xử với nhau. Nhiều khi mình tránh được những cái điều ác thiện về nhân quả. Và Thầy sẽ gặp các con nhiều nữa, để mà Thầy giải những cái điều kiện, tất cả những hành động nhân quả. Để giúp cho các con để mà sống cuộc đời hạnh phúc, không có làm khổ mình, khổ người nữa.

18- VÌ SAO LẠI CÓ NGƯỜI THÔNG MINH, NGƯỜI NGU DỐT ?

(01:14:34) Phật tử: Thưa Thầy tại sao hiện nay có nhiều người rất là thông minh, mà cũng có nhiều người rất là ngu.

Trưởng lão: À, cái đó là con biết, cái thông minh không phải tự ở trên trời mà rớt xuống cái thông minh đâu. Nếu bây giờ con là cái người học sinh, mà rất là dốt Sinh Ngữ, con học hoài không thuộc, phải không?

Còn cái người bạn của con sao nó học nhanh quá vậy, nó đọc cái nó thuộc liền, mà con lại không thuộc. Người ta nói lại hay quá, còn mình nói ra ấp a, ấp úng, không có suôn sẻ. Thì con biết tại sao nó thông minh không? Đời trước nó học sẵn rồi, còn con.

Phật tử: Nếu như nó không có học qua thì sao ?

Trưởng lão: Nó không học thì nó như con vậy thôi. Tại vì cái nghiệp, cái huân nó không có rồi, thì nó cũng giống con vậy. Cho nên cái thông minh là do mình đã huân sẵn, ở trong tiền kiếp mình đã có học sẵn. Còn nếu mình không học sẵn thì mình không có, mình cũng dốt như vậy thôi.

Cũng như thằng sao học giỏi toán quá, còn mình sao dở. Không ngờ cái thằng này tiền kiếp nó là một giáo sư toán rồi, phải không? Bây giờ cái ông giáo sư toán, bây giờ ông mang cái lớp, ông học trở lại, thì ông phải hơn mình. Cho nên nhiều khi cái thằng nó học trò vậy, ông giáo sư viết cái bài toán ở trên bảng, cái nó làm cái chớp. Ông giáo sư mới hỏi "Sao mày giải cái này nổi vậy?" Tại vì nó hơn, nó hồi đó là giáo sư, nó dạy ông đó rồi nữa là khác.

Vì vậy bây giờ nó bằng mình, nó học trò giống mình, mà mình thua nó là tại vì đời trước nó là giáo sư dạy toán rồi. Rồi bây giờ biểu đó bằng mình, nó thông minh như mình sao được. Cho nên mình mình nói: "Trời ơi sao thằng này thông minh quá", nhưng sự thật nó đã học rồi. Họ không giáo sư, họ không có học thì học cũng như con, cũng dốt như vậy.

Phật tử: Nhiều khi họ cũng không có hơn mình nữa.

Trưởng lão: À, nó luôn luôn là nó có người nó còn dốt hơn con nữa. Nói như tối thì có những người tối hơn, mà cao thì nó có người thông minh cao hơn.

Phật tử: Mà tại sao lại như vậy ?

Trưởng lão: À, đâu có tại sao, tại vì cái người đó đã học trước rồi, người ta đã hiểu trước rồi.

Phật tử: Vậy bây giờ không có học trước thì…​

Trưởng lão: Thì bây giờ con không học trước con phải học, đó thì bây giờ con phải học, con phải học rồi cái…​ Thí dụ như bây giờ con học, con thông suốt cái đó rồi, rồi con chết con sanh ra thấy cái đó con học, con thông minh hơn. Rồi đây con phải học những cái cao hơn nữa, những cái mà con chưa học thì con dốt, mà cái con đã học rồi thì con thông minh. Cho nên con mới: “Tại sao không có trí thông minh?”, trí thông minh đâu phải tự đâu mà có. (01:16:40)

HẾT BĂNG

Pháp Âm - 1999 - PHẬT TỬ VẠN HẠNH - ĐẠO ĐỨC CỦA ĐẠO PHẬT

1999 - PHẬT TỬ VẠN HẠNH - ĐẠO ĐỨC CỦA ĐẠO PHẬT

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Phật tử

Thời gian: 1999

Thời lượng: [01:44:34]

Tên cũ: 1999-Thầy dạy đạo cho ptử Vạn Hạnh

https://thuvienchonnhu.net/audios/1999-phat-tu-van-hanh-dao-duc-cua-dao-phat.mp3

1- BÁO HIẾU CHA MẸ, NGƯỜI THÂN

(00:00) Trưởng lão: Báo hiếu cha mẹ mình hay những người thân mình muốn tỏ lòng thương của mình, thì đức Phật có dạy bài Kinh Ước Nguyện.

Mình muốn ước nguyện cho họ được điều gì, thì mình phải sống đúng đức hạnh không làm khổ mình, khổ người. Tức là đức hạnh của một con người, rồi đức hạnh của bậc Thánh Tăng. Lấy đức hạnh đó mà hồi hướng cho người khác là đúng Chánh pháp. Chứ không phải lấy đức hạnh đó mà hồi hướng cho họ được siêu sanh Cực Lạc hay Thiên Đàng, không được. Hồi hướng cho người mà mình hồi hướng đó được sống một đời sống đức hạnh. Vì trong đời sống đức hạnh đó, nó có sự giải thoát.

Bởi vì đức hạnh mình không làm khổ mình, khổ người là giải thoát chứ gì? Nó cụ thể, rõ ràng. Người ta chửi mình mà mình không giận, tức là mình giải thoát chứ gì? Mình đừng chửi người ta, mình chửi người ta tức là ác pháp làm người ta khổ. Cho nên nó rõ ràng, cụ thể. Cho nên mình ước ao cho cha mẹ của mình được sống đạo đức, như vậy là giải thoát chứ gì, phải không?

Còn bây giờ mình cầu về Cực Lạc. Cực Lạc có hay không? Thiên Đàng có hay không? Điều đó mơ hồ, trừu tượng. Đạo Phật rất thực tế, rất cụ thể. Chúng ta không làm khổ mình, không làm khổ người, thì đó là giải thoát.

Cho nên đức Phật nói: “Trí tuệ ở đâu thì đức hạnh ở đó. Trí tuệ làm thanh tịnh đức hạnh, đức hạnh làm thanh tịnh trí tuệ. Người nào có trí tuệ, người đó có đức hạnh. Người nào có đức hạnh, người đó có trí tuệ. Trí tuệ không lìa đức hạnh, đức hạnh không lìa trí tuệ”.

Nếu mà người nào sống thường mắng chửi, thường làm khổ người khác, mà gọi là “Tôi có bằng Tiến sĩ, tôi đã thông suốt Tam tạng kinh điển”, thì người đó là người ngu chứ không phải là người có trí tuệ.

2- VIẾT SÁCH CHỈNH ĐỐN LẠI PHẬT GIÁO

(01:47) Trưởng lão: Hôm nay tiếp tục Thầy nhắc lại. Vừa rồi thì Nhà Xuất bản Tôn giáo ở ngoài Hà Nội có gửi cho Thầy một bức thư. Cho nên Thầy trả lời lại cho Nhà Xuất bản Tôn giáo:

Kính gửi Nhà Xuất bản Tôn giáo,

Trước hết, chúng tôi có lời kính thăm sức khỏe của anh/chị/em trong Nhà Xuất bản Tôn giáo. Sau khi được tin tác phẩm của chúng tôi được cấp giấy phép xuất bản, chúng tôi rất mừng, và thầm biết ơn anh/chị/em trong Nhà Xuất bản Tôn giáo đã tận tình giúp đỡ mới có được giấy phép như ngày hôm nay.

Ước vọng của chúng tôi viết những tác phẩm này để chấn chỉnh lại Phật giáo. Những cái sai được loại trừ ra khỏi, và lôi ra những cái đúng để làm sáng tỏ lại đạo Phật. Vì đạo Phật là một tôn giáo được truyền thống lâu đời, ăn sâu vào tư tưởng của dân tộc Việt Nam. Nó tốt là dân tộc tốt, nó xấu là dân tộc sẽ xấu. Nhất là sự chú ý của chúng tôi dựng lại nền Đạo đức Nhân bản của đạo Phật đã bị chìm mất từ ngàn xưa khi đức Phật nhập diệt. Để giúp cho con người trên hành tinh này có một nền đạo đức không làm khổ mình, khổ người. Để quân bình với những vật chất mà các nhà khoa học đã và đang phát minh phục vụ đời sống của loài người. Vật chất phát triển phục vụ đời sống tiện nghi, thì tâm tham đắm của con người sẽ đưa họ đến đời sống vô đạo đức. Trước tình trạng thanh thiếu niên Việt Nam nói riêng, cả thế giới nói chung, đạo đức đang xuống dốc. Bổn phận và trách nhiệm của những người tu sĩ như chúng tôi không thể làm ngơ nhìn con cháu của chúng ta như con thiêu thân lao đầu vào chỗ chết.

Chúng tôi nghĩ rằng những tác phẩm của chúng tôi khó mà xin phép, vì cái sai là truyền thống lâu đời, nhưng cái đúng thì chưa ai biết cả, thì làm sao người ta chấp nhận cho phép được? Nhưng chúng tôi tin ở lẽ phải. Cái gì đúng là đúng, cái gì sai là sai. Không thể lấy cái sai làm cái đúng được, không thể lấy cái đúng làm cái sai được. Bất chấp trước sự hiểm nguy, chúng tôi viết. Viết làm lợi ích cho đời. Viết xây dựng nền đạo đức cho con người. Ngày nay tác phẩm xin phép chưa được, ngày mai sẽ được.

Hôm nay anh/chị/em đã cảm thông được nỗi khắc khoải trong lòng của chúng tôi. Vì đạo đức của dân tộc, nên mới tận tâm, tận lực giúp đỡ, tác phẩm này mới được giấy phép. Chúng tôi không kinh doanh buôn bán, chúng tôi không kinh doanh, buôn Phật bán Pháp nhưng chỉ biết in, phát hành, ấn tống giúp cho mọi người không bị tà sư, ngoại đạo lừa đảo và họ tự tạo cho mình một nền đạo đức không làm khổ mình, khổ người.

Khoảng ba năm nay, chúng tôi viết và soạn mười tập “Đường Về Xứ Phật”, hai tập “Giới Đức Làm Người”, hai tập “Giới Đức Làm Thánh”, hai tập “Những Lời Phật Dạy”, bốn tập “Giáo Trình Đạo Đức Nhân Quả”. Sau khi nhuận lại những bản thảo này xong, chúng tôi sẽ gửi đến Nhà Xuất bản Tôn giáo, nhờ các anh/chị/em giúp đỡ và xin phép.

Xin chân thành cảm ơn. Chúc anh/chị/em dồi dào sức khỏe.

Kính thư,

Thích Thông Lạc

TB: Xin Nhà Xuất bản đừng gọi Hòa thượng Thích Thông Lạc mà hãy gọi Tỳ kheo Thông Lạc; trên tác phẩm xin đề “Thông Lạc” đừng đề “Hòa thượng Thích Thông Lạc”.

(05:34) Bởi vì vừa rồi, thì Nhà Xuất bản họ đề pháp danh của Thầy.

Hầu hết là tác phẩm của Thầy đều không đề danh, nghĩa là Thầy để: “Tu viện Chơn Như”. Trong Tu viện Chơn Như ấy có một vị sư, một vị thầy viết cái này. Hay hoặc là trong nhóm đó, người ta viết cái này. Cho nên, hầu hết là tác phẩm không được để tên Thầy, vì Thầy không lấy nó để mà cầu danh, để mà làm cái danh của mình. Thầy thiết nghĩ, vì làm lợi ích cho con người không phải vì cầu danh. Cho nên những tác phẩm của Thầy đều được bỏ cái tên, mà để tên Tu viện.

Nhưng mà Nhà Xuất bản họ đòi hỏi người tác giả viết: “Không, phải có cái tên”. Nên Thầy mới buộc lòng bảo: “Đề Thông Lạc, không được đề Thích Thông Lạc, chỉ đề Thông Lạc mà thôi”. Đó cũng như là cái danh của một nhà văn nào đó mà thôi, người ta đừng nghĩ đến Thầy làm gì cả.

Nhưng mà đó là xin phép. Nhưng sau khi xin phép rồi, thì tác phẩm chúng ta sẽ xóa cái tên trên đó đi. Cho nên có những tập mà xin phép in tên của Thầy, thì Thầy nói cô Út nên xóa cái tên. Mặc dù cái gì thì người ta cũng biết, nhưng mình để cái tên mình lù lù trên đó, tức là chứng tỏ mình còn tạo danh, còn tham danh, mình sẽ gạt bỏ. Cái điều kiện mình làm tốt cho xã hội thì cứ làm tốt, không cần phải người ta biết mình là ai, cái đó là tốt. Vì vậy mà người ta có người nói như thế này: “Thầy làm như vậy, sau này ai biết là ai”. Thầy chả cần biết là ai hết, chỉ biết làm sao cho con người chúng ta có đạo đức là được. Nghĩa là bây giờ trong thời hiện tại thì người ta còn biết Thầy, nhưng mà sau trăm năm người ta không biết tác phẩm này của ai. Nghe cái tên Tu viện Chơn Như người ta không biết ông thầy nào ở trong Tu viện Chơn Như, người ta không biết.

Nhưng điều đó không quan trọng. Thầy chỉ biết rằng, trong hiện tại người đương thời biết được Thầy thì biết, mà người không đương thời với Thầy thì họ chỉ biết có cái Tu viện đó, có một người, có một vị tu sĩ làm chuyện đó, thì đủ rồi, đừng có nghĩ đến ai nữa hết. Thầy không nghĩ rằng cái tên của Thầy lưu danh thiên cổ đâu. Thầy chỉ nghĩ rằng Tu viện là nơi tu hành của Phật giáo. Ở đó có bổn phận không phải riêng Thầy, mà tất cả tu sĩ đều phải làm điều này.

(07:45) Nghĩa là bây giờ không ai viết cho nên Thầy viết. Trước kia, khi mà thầy Thông Huyễn về đây, sống chung với Thầy, Thầy thấy thầy ấy có khả năng viết lách. Bản chất có nhiều người, người ta có khả năng, cho nên thầy ấy có khả năng. Mặc dù thầy ấy tu chưa tới đâu, nhưng mà thầy có khả năng. Khi nghe nói rồi, thì thầy ấy ghi chép lại rất là rõ ràng và cụ thể qua cái lời văn của thầy. Thầy thấy mình không phải là một con người có khả năng viết lách. Thầy công nhận Thầy ấy là một con người có khả năng viết lách. Thầy đã tu, Thầy đã hiểu biết tất cả, cho nên Thầy nghĩ rằng Thông Huyễn sẽ ở gần Thầy tu tập, và đồng thời Thầy trò có thể cùng nhau làm về Phật giáo.

Vì thế mà cuốn Luận Về Nhân Quả của thầy Thông Huyễn, Thầy đã góp ý rất nhiều để chữa lại những sự sai lệch ở trong cái cuốn đó. Cho nên sau này, tuy rằng chữa chưa hết nhưng mà vì cư sĩ người ta đọc, người ta thấy hay, người ta phô-tô ra, hồi đó người ta đánh máy, người ta phô-tô ra để người ta chia nhau, người ta đọc. Nhưng mà không còn có thì giờ để mà kiểm tra, vì lúc bấy giờ ở đây kín, rất là đông Thầy không có thì giờ. Do đó, tác phẩm tuy chưa được hoàn chỉnh, nhưng thấy nó cũng có lợi ích về Đạo đức Nhân quả.

Vì vậy hôm nay, thì Thầy thấy không còn ai có thể ngồi lại, ghi chép lại cho Thầy. Chứ Thầy chỉ mượn cái tên của Thông Huyễn mà viết lại những cái ý của Thầy mà thôi, Thầy không cầu danh. Nhưng mà không người, cho nên buộc lòng bây giờ Thầy ngồi lại Thầy viết. Thầy viết những điều mà Thầy đã tu tập, Thầy đã thấy cái đúng, cái sai. Thầy chỉnh đốn lại Phật giáo, vì Phật giáo có nhiều cái sai, quá sai, phi đạo đức trong đó rất lớn, làm cho con người chúng ta lầm lạc, mê muội, càng lúc càng mê muội hơn. Cho nên Thầy quyết định là phải viết, chỉnh lại tất cả những cái sai, làm tốt lại.

Ngày xưa, đức Phật, Ngài bác sáu mươi hai lập luận của ngoại đạo. Trong Kinh Nguyên Thủy còn ghi rất rõ ràng, thế mà người ta không nói đức Phật bài bác. Còn bây giờ, Thầy chỉ là người chỉnh đốn lại Phật giáo cho nó tốt chứ Thầy không bài bác một tôn giáo nào hết. Nhưng mà tôn giáo nào sai thì bị đụng chạm những lời nói thẳng của Thầy, chứ không phải Thầy chỉ trích cái tôn giáo đó sai.

Còn Phật giáo là bổn phận của Thầy, Thầy chỉnh đốn. Thầy là người tu sĩ Phật giáo, mà bây giờ cái nào của Phật giáo mà cái đó sai, đưa tín đồ Phật giáo đi đến chỗ chết, đi đến cái chỗ không đúng, thì Thầy có bổn phận phải chỉnh đốn lại để cho tín đồ Phật giáo biết rõ. Chứ không phải là Thầy bài bác Đại Thừa hoặc là Thiền Đông Độ. Cái nhiệm vụ của Thầy là phải làm sáng tỏ lại Phật giáo.

Thầy là tu sĩ Phật giáo, Thầy đã theo Phật, thì Thầy phải làm sao cho đúng Phật. Còn những cái không đúng Phật, thì Thầy gạt ra. Chứ không phải Thầy bài bác. Người ta hiểu Thầy bài bác Đại Thừa, bài bác Thiền Đông Độ là sai. Cũng như bây giờ trong Phật giáo có những cái không phải của Phật giáo, mà nó biến Phật giáo trở thành một tôn giáo mê tín, thì buộc lòng Thầy phải gạt nó ra khỏi môi trường của Phật giáo, không để cho Phật giáo phải mang tiếng là một tôn giáo như vậy.

Như bây giờ quý cư sĩ thấy rõ ràng, người ta nhìn vào Phật giáo, người ta nói Phật giáo toàn là cái thứ mê tín: cúng bái, tụng niệm, cầu siêu, cầu an, không có hay sao? Rồi coi ngày tốt xấu, xin xăm, bói quẻ, đủ loại. Cái gì cũng ở trong Phật giáo đi ra hết, không có cái nào ngoài Phật giáo mà có cái loại này.

(11:26) Như vậy, chúng ta là những tu sĩ, chúng ta đau lòng. Phật giáo - cái giáo lý rất là cao đẹp, rất là tuyệt vời - thế mà đưa nó đi vào cái chỗ mê tín như vậy, cái chỗ sai lạc như vậy, cái chỗ lừa đảo như vậy.

Phật giáo đã xác định không có một cái vật gì thường hằng của chúng ta. Thế mà bây giờ nó lại có một cái Phật tánh trừu tượng, mơ hồ, làm chúng ta điêu đứng. Người nào cũng nhận ra “nó là thật”, cho nên cuối cùng thì chúng ta quá khổ đau. Tại sao như vậy?

Hãy nhìn sự thật. Họ nói rằng tánh thấy, tánh nghe, tánh biết. Chúng ta là con người làm sao có trí tuệ Tam Minh mà chúng ta hiểu cái tánh thấy, tánh nghe, tánh biết đó như thế nào đúng, sai. Thì Thầy hỏi họ: “Như trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm dạy chúng ta cái tánh nghe, tánh thấy, chúng ta thấy quá rõ ràng. Nhưng mà khi ngủ, tánh nghe, tánh thấy còn nghe, còn thấy nữa không? Khi chúng ta đến bệnh viện, bác sĩ chụp thuốc mê, chúng ta mê man. Tánh nghe, tánh thấy nó ở trong thân chúng ta sao? Tại sao bây giờ chúng ta mê, lại không biết gì nữa”? Đó là những cái lý luận già hàm lẻo mép của những người kiến giải, tưởng giải ra, mà lý luận, để viết nên bộ kinh này.

Mà người ta còn cho là bộ kinh này rất có giá trị. Người ta cấm không cho lưu hành ra nước khác. Cho nên một vị hòa thượng phải mổ bắp đùi của mình, nhét bộ kinh đó vào, để đưa qua Việt Nam, đưa qua các nước khác để truyền bá cái kinh sách đó, ca ngợi cái kinh sách đó, người ta phải hy sinh đến sự đau khổ như vậy để đem cái giáo pháp, chân lý đó cho chúng ta. Nhưng sự thật khi lật ngược trở lại: Những lời pháp đó có đúng sự thật hay không?

Chúng ta là con người phải có trí tuệ chứ. Cho nên đức Phật đã nói chúng ta: “Đừng nên tin những gì mà người ta nói, mà hãy thấy những điều đó có làm được lợi ích cho chúng ta thật sự hay không thì chúng ta mới tin”. Cho nên sao? Thầy cũng là như tất cả các quý vị có mặt hôm nay ở đây với Thầy, Thầy cũng ngu si như vậy. Trước kia, Thầy đọc tới Kinh Thủ Lăng Nghiêm, là Thầy thấy tuyệt vời: “Hay quá! Như vậy rõ ràng là từ xưa đến giờ mình không biết cái tánh thấy của mình, tánh nghe của mình. Bây giờ, nhờ cái bộ kinh này mới thấy…​” và rất thích thú để đi tìm cái chơn Phật tánh của mình.

Nhưng cuối cùng, suốt chín năm trời trong thất nỗ lực để thực hiện (vì người ta bảo rằng mình kiến tánh, thì tự mình đốn ngộ rồi tiệm tu), thấy tánh rồi, nỗ lực tu, phải được. Nhưng cuối cùng chín năm nỗ lực đã thấy tánh rồi, mà nỗ lực tu chín năm hết sức mình, chẳng thấy được gì. Chỉ thấy ba cái ảo tưởng mà thôi! Cho nên, cuối cùng Thầy biết rằng bao nhiêu người - cả Đông, Tây chứ không phải chỉ riêng Việt Nam chúng ta đâu - đã say đắm, đã mê mờ, đã không thấy đường lối. Mà nếu Thầy không nói ra, thì ai mà dám nói? Không người nào dám nói cả.

Mười bảy năm trời. Về đây mở Tu viện Chơn Như, Thầy âm thầm chịu đựng những nỗi cay đắng, tùy thuận tất cả mọi người về đây. Nhắc khéo, nhắc khéo, không dám nói thẳng, nói thẳng sợ đụng, sợ đụng một cái lực lượng rất mạnh, thì khó quá. Cho nên cuối cùng, thì không thể dừng lại được, vì Thầy thấy tuổi mình sắp già. Và, sắp chết rồi.

3- ĂN, NGỦ PHÂN BIỆT HẠNH THÁNH, PHÀM

(14:58) Ba năm gần đây, thì những người Phật tử miền Bắc họ có duyên trong những năm hạ đó, họ đi về đây. Họ cũng ngồi đông như các con. Thậm chí những cư sĩ, các bà già ở ngoài miền Bắc, họ về đây họ tập trung.

Họ về đây được là nhờ gì? Nhờ ở đây có một thầy ở miền Bắc, tức là thầy Chơn Trí. Lúc bấy giờ ông ta về đây thì ông có tiền nhiều, cho nên khi được nghe Thầy thuyết giảng những cuộn băng của Thầy, thì ông ta gửi về miền Bắc, ông bỏ số tiền ra, ông sang cái băng đó. Ông sang, ông cho mọi người ở miền Bắc. Cho nên người miền Bắc họ được biết Thầy trước hơn là miền Nam. Từ đó, khi mà Thầy mở khóa để mà Thầy giảng “Giáo án tu tập đường lối của đạo Phật”, thì họ tập trung về đây, để họ nghe trong những tháng hạ. Cho nên từ đó, họ được nghe những lời Thầy dạy. Vì Thầy thấy rằng người ta theo giáo Pháp của Phật mà tu Giới, là sống không lầm.

Các cư sĩ cứ nghĩ rằng: một số người rất đông về đây tu tập. Thậm chí như ở đây mở Hạ nữa mà, thì các cư sĩ nghĩ số người như vậy. Thế mà cho ăn ba bữa thì thôi, tập trung tu rất đông. Vì ở đây đâu có lao động, đâu có làm gì đâu. Người đông như vậy, sáng quét ba, bốn chổi là thấy sạch sẽ hết rồi. Không có trồng tỉa, không có gì hết. Thật sự thì đông người bao nhiêu, thậm chí như mà Thầy muốn cho họ không ăn bữa chiều thì Thầy xin sữa cho họ uống buổi chiều, thì chú Tâm chú kéo về đây cả mấy chục thùng sữa. Thậm chí như Thầy còn phải đem bố thí cho Cô Nhi, cho những nơi mà người ta nuôi trẻ con. Thì quý Phật tử biết rằng, về tinh thần giúp đỡ cho người tu, người cư sĩ người ta có tinh thần rất lớn.

Thế rồi, có nhiều vị ăn sữa không hết. Họ nói rằng sữa đặc đó (hộp như thế này này) họ chỉ ăn có nửa hộp, còn nửa hộp họ quăng. Họ nói ở dưới là bột mì, họ bỏ, họ không ăn. Đó thì đủ biết rằng tu sĩ thời nay, Thầy nói chứ chỉ ăn, ăn thừa là quăng bỏ, chứ không tiếc mồ hôi nước mắt người ta làm ra được một hộp sữa đâu có dễ. Các con hiểu không? Cho nên vì vậy mà Thầy thấy rằng họ không phải những người tu hành theo đạo Phật. Tu ăn, tu ngủ, chứ không phải Thiền Định gì hết. Giờ giấc thì làm bộ ngồi cho có tướng để mà ăn, ngủ thôi chứ không có gì hết.

(17:24) Thầy thật sự Thầy khép vô. Bắt đầu, Thầy cho ăn buổi sáng; buổi chiều Thầy không cho uống sữa, Thầy cho uống nước chanh. Sau đó Thầy dứt nước chanh, Thầy cho buổi sáng không cho ăn, cho uống sữa. Và tới chừng khi khép vô ăn một ngày một bữa là không cho ăn uống gì nữa hết, thì họ bỏ đi mất sạch. Đủ biết là cái thời đại người ta tu ăn, chứ không phải thật sự người ta đi tìm sự giải thoát.

Cuối cùng, Thầy khép vô. Thầy tăng giờ lên. Nghĩa là, ngủ phải từ giờ nào, thức phải giờ nào. Thí dụ như Thầy tăng lên mười giờ đi ngủ, tới hai giờ phải thức dậy tu. Thì trong lúc đó họ bị hôn trầm đánh họ, họ không chịu nổi được nữa, họ bỏ. Ở đây chỉ còn có năm, mười người.

Thầy khép vô độc cư: không được đọc kinh sách, không được nghe băng, không được nói chuyện, thất của ai người nấy ở, không được đi qua đi lại, chỗ nào nấy ở, chết chỗ đó. Họ đi sạch, còn có một người, mà sống không nổi độc cư đâu.

Thì các con biết rằng đời nay thì người ta sống vui, mà người ta đòi đi theo đạo Phật thì thôi, thực ra đạo Phật không thể dung chứa cho những hạng người đó. Người ta đòi ăn, thì không thể nào chấp nhận cho những người theo đạo Phật mà ham ăn như vậy. Bởi vì, thầy nhắc lại cho các con nghe: Đạo Đức của đạo Phật thì trong Giới luật đã dạy cho chúng ta rất rõ. Đức Phật ví chúng ta là loài động vật. Con người là loài động vật, chúng ta còn mang bản chất của loài động vật, chứ chưa phải con người của chúng ta là thoát khỏi loài động vật. Cho nên những cái mà thiếu đạo đức, nó là còn ở trong loài động vật.

Thí dụ như một ngày mà chúng ta ăn vặt, ăn không giờ giấc, đó là con thú vật, chứ không phải là con người. Con người thì phải ăn có giờ, có giấc, có bữa. Thí dụ ba bữa là ba bữa, còn lát ăn cái bánh, lát ăn cái trái, lát uống chai nước ngọt, đó là con thú vật. Nó gặp hồi nào, nó ăn hồi nấy. Nó không đúng.

(19:20) Nhưng bây giờ một người có đạo đức: ăn ba bữa, hai bữa đâu ra đó đàng hoàng, không ăn vặt, thì người đó phải là người có đạo đức.

Kế đó, một vị Thánh Tăng, một bậc Thánh mà còn ăn ba bữa, còn ăn đêm, thì thử hỏi đó là Thánh sao?

Cho nên đức Phật nói: “Thừa tự Pháp, chứ không thừa tự thực phẩm”.

Vì vậy một bậc Thánh ăn ngày một bữa mà người ta không thèm khát. Còn mình ăn ngày ba bữa mà đụng cái gì cũng thèm. Như vậy có phải ăn mà hết thèm không? Đâu hết! Càng ăn lại càng tham ăn. Còn người ta ăn một bữa mà người ta không thèm, mà người ta có chết không?

Quý vị thấy không, nội Giới luật của Phật, cái Giới luật cấm ăn phi thời, ăn đúng Ngọ, ăn đúng giờ, không được ăn phi thời, là hành động của sự sống một bậc Thánh chứ không phải là của phàm phu được. Như vậy, chúng ta nhìn vào giới đức là chúng ta biết vị đó Thánh tăng hay là Phàm tăng.

Một vị gọi là Hòa thượng, Thượng tọa mà bây giờ ăn phi thời: sáng ăn, trưa ăn, chiều ăn. Thử hỏi đó là Thánh hay là Phàm? Thì cũng như quý cư sĩ thôi, có gì đâu mà lại Thánh, Phàm? Thế mà quý vị đảnh lễ, thì đảnh lễ ai đây? Cái ăn của người ta cũng như mình. Người ta đâu phải Thánh mà mình đảnh lễ?

Hôm nay Thầy nói, đây là quý vị chưa đọc bộ “Kinh Giới Đức Làm Thánh”. Quý vị sẽ thấy được đức hạnh của một bậc Thánh. Họ sẽ làm hành động nào mà gọi là Thánh, mà hành động nào là con người, mà hành động nào là con thú. Trong Giới luật của Phật đã dạy rõ để chúng ta biết được điều đó, để xác định bậc chân tu, bậc giả tu, bậc dối gạt người. Mặc dù bậc đó có thần thông, bậc đó có cấp bằng cao, nhưng vẫn là phàm phu tục tử, vẫn là ác quỷ ma vương, chứ không phải là người chơn chánh tu hành.

Hôm nay Thầy nhắc lại, để cho tất cả các cư sĩ, các con sẽ hiểu sơ sơ, để nhận ra một vị chơn tu, một bậc thầy của mình như thế nào xứng đáng.

Sau này đọc cuốn “Tập VIII – Đường Về Xứ Phật”, Thầy sẽ xác định một bậc thầy của quý vị.

(21:52) Trưởng lão: Một bậc thầy của quý vị là một bậc phải sống đúng Giới luật của Phật, Giới đức của Phật hẳn hòi, đàng hoàng. Tại sao vậy? Tại vì đức Phật di chúc: “Các vị Tỳ kheo hãy lấy Giới luật ta làm thầy”. Vậy thì mình nương vào Giới luật, là nương vào chỗ nào? Nương vào Giới luật tức là nương ông thầy giữ gìn Giới luật nghiêm túc, chứ không phải nương ông thầy phạm Giới, phá Giới. Có phải đúng vậy không?

Đức Phật đã di chúc mà, đừng lấy ai làm thầy, đừng lấy ai làm tổ, mà hãy “lấy Giới luật làm thầy”. Nhưng Giới luật nó là một bộ sách, một đống giấy, thì nó là một vật vô tri. Lật ra đọc, chúng ta hiểu nổi không? Nó có nói lên được cái đức hạnh đó không?

Nhưng một vị Thánh Tăng mà người ta sống đúng đức hạnh, thì đó là một gương hạnh sống, một Giới luật sống, để chúng ta nương vào đó mà chúng ta thực hiện đời sống đạo đức của chúng ta. Có phải là đức Phật muốn di chúc vậy không? Muốn di chúc cho chúng ta, để chọn lấy một bậc Thiện hữu tri thức sống đúng Giới luật của Phật là thầy của mình, chứ không phải đụng ai cũng là thầy của mình!

Nếu đụng một người mà không đức hạnh làm thầy của mình, thì mình sẽ ảnh hưởng cái không đức hạnh đó. Cũng như bây giờ Thầy theo một vị thầy, vị thầy đó có vợ, có con, thì như vậy vị thầy đó đâu có dạy chúng ta đức hạnh gì đâu. Khi chúng ta cũng thấy vậy, chúng ta cũng tu mãi thì chúng ta cũng có vợ con.

Vì vậy mà trong các chùa chúng ta thấy ở nông thôn, nhiều ông thầy có vợ, có con sống y như gia đình. Rồi bây giờ mình cũng cho con mình vào đó học tu theo Phật đi. Mai mốt nó cũng làm ông thầy cạo đầu có vợ, có con đi ra gõ mõ, tụng kinh, làm thầy tụng để kiếm tiền sống; rồi về trồng lúa, trồng khoai cũng như mọi người, nuôi gà, nuôi vịt, đủ thứ. Thử hỏi cái đó có phải là làm tốt Phật giáo không, hay là phỉ báng Phật giáo?

Thế mà cái số tu sĩ này đâu phải là ít. Đó là một cái sai. Làm cho Phật pháp suy đồi. Làm cho người ta nhìn vào Phật pháp người ta ngao ngán. Cho nên vì số tu sĩ này mà những câu ca dao, những lời mỉa mai rất nhiều. Người ta nói: “Xoài cà lăm nhỏ trái mà chua. Thầy tu mê gái, bỏ chùa không ai coi”, có phải không? Là cái số tu sĩ này nó mới làm vậy chứ. Nó cạo đầu như thế này, nó đi ra nó chọc gái, thì người ta không nói sao được? Đó thì Thầy nói những câu ca dao, những câu mà người ta coi thường Phật giáo rất nhiều.

Cho nên ở đây Thầy nói thật sự, khi mà mình tu hành xong, mình đau lòng. Mình nhìn thấy Phật giáo là một con đường chân chánh, là một tôn giáo xuất hiện ra đời để giúp cho con người thoát bốn cái khổ: sanh, già, bệnh, chết. Thế mà nó trở thành quá tầm thường.

(25:01) Thật sự ra, chúng ta ngồi đây, chúng ta là những người Phật tử, chúng ta còn có niềm tin. Chứ nếu người mà không biết, không tôn giáo, họ nhìn Phật giáo chẳng ra gì đâu quý vị. Họ coi thường lắm quý vị. Đừng có nghĩ chiếc áo mà chúng ta mặc thế này họ kính chúng ta đâu, họ coi chúng ta như bọt. Thực sự ra họ cho chúng ta chẳng ra gì. Một đứa nhỏ bảy, tám tuổi, mười một, mười hai tuổi, chúng ta đi ngang, nó chế nhạo chúng ta liền tức khắc: thầy chùa này, thầy chùa kia, đủ thứ hết.

Các con đã từng mang chiếc áo này đi, các con đã từng nghe được lời người ta. Thầy nói thật sự, trên con đường ngang qua cái hàng rào chùa này, mọi người đi ngang qua lại, họ nói chuyện với nhau, họ châm biếm với nhau rất nhiều. Tại sao họ châm biếm như vậy? Chúng ta không nên trách họ. Tại vì trong chúng ta, có những người làm sai, làm không đúng. Cho nên chúng ta phải sửa sai. Lời trách mắng, lời châm biếm của họ làm chúng ta phải cảnh tỉnh.

Thế mà cái bọn tu hành kia có cảnh tỉnh đâu. Càng lo cất chùa cao Phật lớn, càng lo làm những chuyện danh lợi, chứ đâu lo tu hành, giữ gìn nghiêm chỉnh Giới Đức của Phật đâu. Ăn uống phi thời, xe cộ chạy nhảy bon chen như một người đời, lừa đảo Phật tử để sống trong mồ hôi, nước mắt, khổ đau của người khác bằng cách này, bằng cách khác.

Thí dụ như bây giờ quý Phật tử về đây, Thầy tổ chức năm tổ, mười tổ. Bây giờ Thầy cần dùng cái gì, ông tổ này phải đi lại đằng kia kêu gọi Phật tử, hay người này người kia góp cho có năm trăm, ba triệu, một triệu hay năm triệu, mười triệu để làm cái này, làm cái này để có phước báo. Thì bà tổ trưởng này, hoặc ông tổ trưởng kia đi lại kêu gọi, dối gạt người ta: “Làm cái chuyện này phước báo lắm về sau, này kia nọ…​ đủ thứ hết”. Gạt người ta phước báo, để rồi lấy tiền người ta được, để xây chùa cho đẹp. Đó là cái lừa đảo, phỉnh gạt người ta làm cái này.

Thí dụ như bây giờ đúc cái chuông cho lớn như này. Bây giờ tổ này, tổ kia, tổ nọ - bây giờ tổ chức có những cái tổ, bây giờ về gọi: “Đây là cái tiếng chuông mà gióng lên một cái, là thông Thiên Đường xuống dưới Địa Ngục. Ai có tội gì thì ghi vào cái chuông này, thì sẽ tiêu tội, tiêu tai hết”. Chà! Bà con nghe hay quá rồi! Đóng tiền nhau để đúc cái chuông cho thật lớn, để gióng cái tiếng chuông đó nó kêu tới Thiên Đường, đặng cho cái lời cầu ước của mình nó theo trên đó, đặng cho chư Phật, Ngọc Hoàng, Thượng Đế ghi thêm cái tuổi thọ của mình sống thêm vài ba trăm năm nữa để cho hưởng hết cái dục lạc thế gian này, có phải vậy không? Cho nên xúm nhau đóng tiền để mà đúc chuông. Thật sự làm cái điều mê tín đó. Làm gì ở đây mà chúng ta làm tội mà gióng tiếng chuông đó để mà bay theo sự cầu nguyện của chúng ta lên đó, mà giải quyết cho chúng ta, đặng chúng ta làm ác nữa sao? Đó là những cái sai mà chúng ta bị lừa đảo.

Đúc chuông để làm gì? Thật sự ra, trong thời đức Phật, chúng ta chẳng thấy một cái chuông nào để lại hết. Trong thời đức Phật, chúng ta cũng chẳng thấy để lại một cái nền gạch, đá cho tốt nữa. Về sau người ta mượn cái danh ông Phật, người ta xây tháp. Người ta nói nào chỗ này là Bồ Đề đạo tràng, nào chỗ này là nơi đức Phật tắm, nào chỗ này đức Phật đản sanh. Để làm gì? Để cho bà con đi du ngoạn, đi xem, ham thích để xem đó, để kiếm lấy tiền, chứ để làm gì. Đó là chúng ta bị lừa đảo mọi cái. Người ta đem Phật ra người ta bán. Người ta đem di tích của Phật ra, người ta bán. Mà trong khi ấy di tích hồi đức Phật sống, thì tịch rồi người ta đến đó, người ta thấy một cái hình tan rã. Không còn một cái nền chứ đừng nói. Không còn cục gạch ở trên cái nền đó nữa. Thì đủ biết đạo Phật như thế nào.

(28:39) Còn bây giờ chúng ta xây nền, xây này kia. Thầy nói đây cái nhà của Thầy, cái chùa của Thầy, Thầy cất bằng tầm vông. Thầy chết rồi nó tan hoại. Nhưng cái nền này còn là Thầy phải còn nợ. Một viên gạch bông này nó không mất, là Thầy còn phải nợ của đàn na thí chủ. Nhưng mà làm sao, khi mà các con về đây đông quá không có chỗ nào ngồi. Bàn ghế làm sao đâu mà ngồi được? Cho nên phải làm như thế này để mấy con có chỗ ngồi. Cho nên, Thầy chịu cái tội lỗi này, mặc dù Thầy biết rõ ngàn năm sau viên gạch này chưa tan. Đó là cái nợ của Thầy mà.

Đừng nghĩ rằng chúng ta cất một cái chùa kiên cố là làm cho tên tuổi chúng ta vang lừng mãi mãi: Nhờ Hòa thượng đó, tên đó, mới trùng tu được cái chùa đó, không phải đâu. Cái chùa đó là cái cục nợ của ông ta đó. Nghĩa là muôn đời, muôn kiếp ông ta trả không hết. Chừng nào cái chùa đó hoại diệt toàn bộ, thành như đất, thì ông ta mới hết cái nghiệp.

Người ta thấy được nhân quả, người ta quá sợ. Người ta quá sợ! Người ta làm những điều lợi ích cho chúng sanh, mà người ta còn mang nợ thật sự. Như Thầy làm một cái bia đá, là vì những lời của Phật dạy người ta đã dìm mất rồi. Bây giờ mình móc lên, mình phải ghi vào trong đó, để cho một ngàn năm sau nó không bị xóa đi.

Nhưng việc làm đó đâu phải là không mồ hôi, nước mắt. Thầy có trồng khoai, trồng củ Thầy bán đâu. Cũng là tất cả mồ hôi, nước mắt của quý Phật tử làm ra. Quý Phật tử đi ăn cướp người ta được sao? Cũng phải là bán buôn, cũng phải lương thiện, làm ăn cái gì cũng phải lương thiện. Thì, làm được một cái bia đá như vậy bao nhiêu tiền? Do ai mà làm được? Thì Thầy đã chủ trương điều này thì Thầy phải nhận lãnh cái tội đó chứ. Cho nên vì vậy mà dù sao đi nữa, Thầy cũng ước nguyện: “Kiếp này chưa xong nhiệm vụ của mình, thì tiếp tục để làm xong những con đường chấn hưng lại Phật giáo, đem lại sự lợi ích cho chúng sanh”. Do đó Thầy mới làm.

Chứ nếu mà không, Thầy chẳng làm một cái gì hết. Thầy chết đi, hoàn toàn cái thất của Thầy bằng tầm vông, cốt tre, Thầy chết ba hôm, năm hôm, một năm sau là bao nhiêu cái nhà này, nó sẽ bị bao nhiêu mối mọt ăn mục ruỗng hết thành ra một đống đất, Thầy không còn một cái nghiệp gì của chúng sanh nữa hết, thì Thầy an ổn trong Niết Bàn vĩnh cửu. Còn bây giờ Thầy lưu lại cái này, cái nọ kia, không chắc Thầy an ổn trong Niết Bàn. Mà cái nợ đó muôn đời, muôn kiếp phải trả.

Các con biết: “Vay một, trả mười”. Đời nay Thầy ăn các con một bát cơm, đời sau Thầy phải trả các con mười bát cơm. Cho nên của đàn na nặng lắm chứ không phải nhàn. Thế mà người ta đã ăn, mà còn phung phí bỏ. Chưa thấy cái đó là cái đau khổ, cái nước mắt của người khác. Người ta tìm ra một đồng đâu phải chuyện dễ, tại sao chúng ta không thấy được điều đó? Nhiều khi người ta cúng dường mình: năm nay người ta cúng dường, năm sau người ta đi ở tù.

Thầy nói thật sự mà. Có nhiều Phật tử đã đi ở tù, vì làm ăn của người ta thất bại, vì làm ăn người ta mang nợ, Nhà nước bắt người ta bỏ tù. Người ta muốn làm thiện, chứ không phải ai muốn làm ác. Con người chúng ta làm ăn, muốn làm điều tốt, không ai muốn làm điều xấu. Nhưng môi trường đẩy người ta đến chỗ người ta phải trở thành giả dối, gian xảo, chứ không ai mà làm cái chuyện gian xảo. Vì cuộc sống mà chúng ta phải vươn lên, vươn lên. Mà không có lối thiện được, thì phải đi vào lối ác chứ, để mà sống. Chúng ta không cảm được nỗi khổ đau đó, mà chúng ta nỡ tâm nào để mà ngồi đây, để mà lợi dụng người khác, lợi dụng tôn giáo để mà ở trên mồ hôi, nước mắt, xương máu của người khác? Chúng ta phải làm cho đúng.

Cho nên bổn phận của Thầy soạn thảo những bài “Giới Đức Làm Người”, “Giới Đức Làm Thánh” để chấn chỉnh lại Phật giáo. Và đồng thời, soạn thảo “Đạo Đức Nhân Quả” không làm khổ mình, khổ người để giúp cho con người chúng ta mọi người đều hiểu và thực hiện đời sống của chúng ta không làm khổ mình, khổ người. Như vậy, chúng ta cũng đủ giải thoát lắm rồi.

(32:48) Từ giải thoát không làm khổ mình, khổ người, tâm hồn chúng ta yên ổn, thanh thản, an lạc, thanh tịnh. Từ đó chúng ta mới đi vào Thiền Định. Lúc bấy giờ, hỏi về Thiền Định, Thầy sẽ dạy. Còn bây giờ quý vị hỏi về Thiền Định, hỏi để mà chơi, chứ quý vị làm gì được?

Đối với Thiền Định, quý vị biết, Thiền Định không phải như các vị ngồi thiền hít thở mà có Thiền Định được. Một ngàn năm sau, quý vị có ngồi mười giờ, hai mươi giờ không vọng tưởng, quý vị cũng chẳng ra gì. Thiền Định của Phật đã xác định rất rõ, là phải tịnh chỉ hơi thở. Nếu thân mà “định” mà còn thở, là thân gì, làm sao gọi là “Thân định”? Định là không động đậy. Định mà còn động đậy, là “định” gì? Cho nên khi mà nói “Thân định”, là thân không thở. Mà thân không thở, không phải là nín thở. Nó phải tịnh chỉ, chứ không phải đình chỉ, hay định chỉ nó, không phải nín thở để mà nhập Định được. Nó khó là ở chỗ chúng ta phải biết tu tập đúng cách thì chúng ta sẽ làm rất dễ dàng, yên ổn, không sai. Và như vậy, chúng ta mới làm chủ được cái sự chết, sự sống của chúng ta.

Cái này để dành riêng cho những người tâm đã thanh tịnh, tâm đã không làm khổ mình, khổ người. Tức là người đó đã sống đúng đạo đức. Còn những người sống chưa đúng đạo đức bây giờ dù muốn, Thầy cũng chẳng dạy. Vì họ chưa sống đúng đạo đức, thì họ còn tham. Họ còn tham mà bây giờ họ tịnh chỉ hơi thở được, thì họ có đủ sức thần thông, họ ra họ lòe bịp, họ lừa đảo bằng cái sức thần thông này, họ làm tiền, hoặc là họ làm bá chủ hoàn cầu nữa là. Cho nên, cái này đạo Phật không thể hướng dẫn cho những người còn tâm tham vọng mà có những hành động siêu việt, thì quả đất này, loài người này sẽ ra sao?

Cho nên đặc biệt, đạo Phật là lấy tâm “ly dục, ly ác pháp” mà làm chủ để tiến tới Thiền Định. Cho nên kẻ nào tu hành mà không ly dục, ly ác pháp mà tu tập Thiền Định, đó là một tham vọng rất lớn: một tham vọng mình muốn hơn người, mình muốn trở thành người siêu việt, mình muốn trở thành người có thần thông phép tắc.

Như các vị sư Lạt Ma, không ly dục ly ác pháp, mà tạo ra cho mình có những thần thông bằng các con đường Mật Tông, bùa chú. Rõ ràng các ngài đã tái sanh luân hồi, đã biết chuyện tái sanh luân hồi của mình, đã làm cho thế giới người ta điêu đứng, người ta không biết cách nào mà các ngài đã biết được như vậy. Đó rõ ràng là lừa bịp người khác.

Cho nên ở đây, đối với Thầy, những vị sử dụng thần thông không thể gạt Thầy được. Nhưng mà đối với các con, họ có thể gạt được các con. Cho nên họ gạt được các con, từ cái ông thầy bói nói tầm bậy, tầm bạ, các con cũng vẫn tin, vẫn bỏ tiền ra để coi bói. Thật là điên đảo, thật là ngu si! Thầy nói lời nói hơi quá nặng đối với các con, nhưng cũng là lời cảnh giác với các con, đừng quá ngu như vậy, để bị người ta lừa đảo.

(36:09) Hôm nay, các con có điều gì, thì hỏi Thầy, Thầy sẽ nói. Ngày mai, ngày mốt Thầy sẽ là du tăng khất sĩ, muốn gặp Thầy rất khó, tùy duyên. Có phước mới gặp, mà không phước là không gặp. Vì đức Phật đã nhắc nhở Thầy rất nhiều, rất đúng: “Có danh có lợi thì hãy ẩn bóng”. Nghĩa là bây giờ Kinh sách Thầy viết ra như vậy tức là có danh. Ngày nay, các con thấy một số người nhỏ, ngày mai nó sẽ chật cả chùa này, mà nếu Thầy cứ ngồi ở một chỗ, thì chắc chắn số lượng người mà đọc Kinh sách Thầy - họ tha thiết giải thoát, họ tha thiết biết đúng Chánh pháp của Phật. Hôm nay đọc được Kinh sách này, thì họ nghĩ rằng: “Đây là con đường có thể đưa họ đến giải thoát” và họ cầu mong sẽ gặp được người thiện tri thức.

Nhưng cầu mong để mà cầu mong, chứ sự thật họ tu được hay không? Hay biến Thầy trở thành một vị, một người đào kép hát, để hát cho họ nghe, để rồi về nhà, bản chất nào họ trở về bản chất nấy? Thầy đâu phải là một người ngu để trở thành một đào kép hát mà hát cho họ nghe. Các con nhớ kỹ, Thầy nói ra lời nói là vàng bạc để giúp cho các vị giải thoát, chứ không phải nói để mà nghe chơi. Cho nên người nào hữu duyên thì mới gặp, mà không hữu duyên thì không gặp.

4- RÈN LUYỆN THÂN TÂM

(37:25) Trưởng lão: Hôm nay các con gặp Thầy, đó là có duyên. Nhưng Thầy biết các con chưa đủ sức để mà giải thoát mình. Vì đủ sức để giải thoát mình, thì các con phải chọn lấy một Thiện hữu tri thức xứng đáng để mà theo gót Người, Người sẽ dạy các con từng chút, thì các con mới đi nốt cái quãng đường. Chứ các con ở xa vị Thiện hữu tri thức, sai một chút xíu, là các con đã rơi vào trạng thái ức chế tâm. Và rơi vào trạng thái ức chế tâm, thì các con sẽ thọ lấy cái khổ của các con.

Thí dụ, bây giờ nói “ăn ngày một bữa”, các con về nghe nói, ráng ăn ngày một bữa. Nhưng sáng đói bụng cũng muốn ăn, thì các con có ráng ăn ngày một bữa không? Như vậy rõ ràng là các con đã bị ức chế tâm. Các con hiểu sai một chút là ức chế tâm. Ức chế để chịu đựng thì tức là mình đã làm khổ mình rồi.

Người ta tu tập như thế nào, để rồi người ta ăn ngày một bữa mà người ta không bị ức chế? Còn các con chưa được mà các con lại ăn ngày một bữa, thì các con bắt buộc mình phải cố gắng như vậy là làm cho các con khổ đau, chứ không phải giải thoát. Vì đạo Phật không có thời gian, bắt đầu tu là có giải thoát ngay liền, mà không có giải thoát là tu sai.

Cũng như bây giờ các con ngồi thiền: kéo chân lên ngồi, hai chân đau, tê, ráng ngồi, ráng ngồi cho hết giờ. Ngồi đau đổ mồ hôi hột, mà ráng. Như vậy, các con có làm khổ mình không? Đó là ác pháp đó các con. Chứ đâu phải. Đau nhức như ai bẻ giò. Đau nhức như ai đốt lửa. Thế mà ráng ngồi. Tê gần như cóng. Tê gần như là khắp cả người. Thế mà cứ ráng ngồi, ráng ngồi để cho nhập Thiền Định. Nhập gì? Nhập cái khổ đau, chứ nhập Thiền Định gì.

Sự thật nói như vậy là đụng chạm lắm. Thầy không chủ trương điều đó đâu. Thầy ngồi, là thân tâm an ổn. Cho nên Phật dạy: “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô. An tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra”, phải không? Các con thấy không? “An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô. An tịnh tâm hành tôi biết tôi thở ra”. Nếu không an tịnh, tức là chúng ta tu sai. Mà có an tịnh, thì tức là tu đúng.

Đó, ông Phật đã nhắc nhở chúng ta như vậy. Mà giờ ngồi đau đó, mà cũng ngồi à? Ác pháp mà không xả. Đâu phải chờ người ta chửi mình, mình mới xả. Các con hiểu không, mình đã tự làm khổ mình. Ai buộc mình ngồi tréo chân đó cho khổ? Có phải tự mình mình ngồi tréo chân không? Mà mình muốn ngồi tréo chân để làm gì ư? Để làm Phật chứ gì? Đó là tâm tham của mình. Suy ra từ tham mà chúng ta trở thành ác pháp. Chúng ta tu như thế đâu giải thoát.

Thầy ngồi trên ghế thế này, tâm hồn Thầy thanh thản, vô sự. Có một niệm nào khởi lên Thầy biết nó là Dục Lậu, Hữu Lậu, Vô Minh Lậu. Niệm nào, nó là ác pháp, nằm chỗ nào, Thầy xả ly. Quán xét mà xả ly, thì tâm hồn Thầy trở về thanh thản, an lạc, vô sự.

Thầy ngồi đây suốt ngày mà tâm hồn Thầy thanh thản, an lạc, vô sự thì Thầy là người Giới đức rồi. Thầy không làm khổ ai cả. Bởi vì Thầy ngồi đây Thầy có làm ai khổ? Chính những pháp mà nghiệp lực của Thầy đã huân nó, bây giờ chính nó đem vô đầu Thầy, nó làm cho Thầy khổ đó. Mà Thầy chạy theo nó, tức là Thầy tự làm khổ mình thôi. Cho nên, Thầy biết cách Thầy quán xét, Thầy xả ly nó. Thầy ngồi đây Thầy xả, và ngày này qua ngày khác thanh thản như vậy, tâm Thầy định trên thân. Cho nên, Thầy bất động trước các pháp.

(40:32) Do đó, Thiền Định - Thầy cần phải tréo chân ngồi cho đau, để mà làm gì? Cho nên cuối cùng, các con biết rằng Thầy cũng đã tu, cũng đã tập, cũng đã ngồi thiền cho đến ba tiếng đồng hồ chứ không phải không. Khi Thầy lên Chơn Không Thầy tu theo Hòa thượng Thanh Từ. Lúc bấy giờ sức của Thầy mới tập ngồi có ba mươi phút à, nhưng Hòa thượng buộc là phải ngồi một giờ. Chu choa, sao mà ba mươi phút sau, nó đau quá trời. Coi như là Thầy ngồi, nó run mình, nó run tự ở trong các thớ thịt, nó đau quá. Tất cả các bắp thịt ở trong người nó run lên hết. Nhưng mà mọi người, người ta không xả, mà mình xả thì coi sao được. Ráng! Cho nên Thầy cũng ráng. Nhưng mà thầy Thanh Từ ngài cũng biết được cái nỗi khổ đó, cho nên ngài lấy bàn tay ngài để trên lưng Thầy, Thầy cũng nghe nó cảm được cái gì. Không biết có phải Thầy sợ Hòa thượng hay không, mà nghe nó bớt đau. Đó là cách thức hồi lúc mà Thầy về Chơn Không, Thầy tu như vậy.

Cho nên Thầy sau khi biết được Phật pháp, Thầy ngộ ra mình đã làm khổ mình mà mình không biết, khổ rất khổ. Cho nên ở đây, khi tu mà chúng ta tịnh chỉ hơi thở, bây giờ chúng ta bảo: “Hơi thở tịnh chỉ, ngưng. Nhập định bảy ngày đêm mà ra”. Dặn nó vậy rồi bắt đầu Thầy ngồi đó bảy ngày đêm nó xuất định ra. Như vậy nó có đau nhức gì đâu nhưng nó không thở nữa, thì nó có hoạt động đâu mà nó biết đau, phải không? Nhưng mà Thầy có bất tỉnh không? Không, Thầy tỉnh bơ chứ Thầy có ngất đâu. Nhưng mà Thầy không cảm giác được, tại vì nó ngưng hoàn toàn.

Còn bây giờ nó đang thở mà cứ bảo ráng, ráng mà ngồi một, hai tiếng đồng hồ, nó đau thấy mồ thấy tổ. Nó đau như là, Thầy nói thật sự, ai đè cái núi Ngũ Hành Sơn ở trên thân mình. Cho nên khi mà tới giờ chuông đồng hồ reng một cái, trời ơi, lôi cái chân xuống cũng như bằng để hòn núi xuống ấy các con ạ. Các con có tu, các con biết chứ, bộ Thầy nói…​ (cười). Nghĩa là coi như trong lúc đó, Thầy là người gác đồng hồ, chứ không phải không đâu, Thầy ngồi Thầy gác đồng hồ. Trời ơi! nó đau rồi Thầy nói một phút mà trôi qua nghe nó lâu quá! Cái kim đồng hồ, sao bây giờ nó chạy chậm ghê gớm. Nó đau là hồi đó nó thấy, kinh lắm các con. Đây là những kinh nghiệm đã đi qua mình trong sự tu tập. Cho nên Thầy biết rất rõ. Thầy nói, ai có tu rồi thì các con cũng đồng một bệnh với Thầy chứ không ai khác hơn hết đâu.

(42:59) Cho nên vì vậy mà các con hiện giờ đã được Thầy chỉ cho các con bước đầu vào tu là các con có giải thoát liền. Nếu các con xét thấy, các con sẽ rõ: có kết quả, có kết quả của sự giải thoát rồi! Các con đừng có nghĩ kết quả cao là hiện giờ các con phải tịnh chỉ hơi thở, ngưng để làm chủ sự sống chết, để hướng tâm đến Tam Minh, biết nhiều đời nhiều kiếp. Đừng nghĩ cái điều đó các con.

Mà các con nghĩ hàng ngày mình sống này: Ăn sao ngày một bữa mà sáng mình không thấy đói này, chiều mình không thấy đói nè, trưa nè. Mình phải sống, tập như thế nào để sống cho được những Đức Giải Thoát này. Hàng ngày, mình làm sao mỗi tâm niệm mình tỉnh thức để mình xả được cái tâm của mình, thì mình tìm thấy sự giải thoát nơi đó. Hàng ngày mình ngồi lại, mình nghe tâm hồn mình thanh thản, an lạc, và vô sự. Nó được bao nhiêu giây, thì mình thấy đây là sự giải thoát.

Còn bây giờ các con cứ nhìn cái lớn, để chọn lấy ông Phật rồi các con sẽ cố gắng tu sau. Chắc chắn điều đó sẽ không thể tu nổi. Cho nên, Thầy nghĩ nếu tu nổi, thì chúng ta sẽ có nhiều người, quả là giải thoát hết, không còn tham sân si nữa. Ông Phật sao còn tham, sân, si? Ông Phật sao còn tham ngủ? Ông Phật sao còn tham ăn? Nội cái đó chúng ta đã thấy rằng người Kiến Tánh sao còn tham ăn quá? Vậy mà gọi là “Kiến Tánh thành Phật”? Đâu có thể được. Thầy không chấp nhận điều đó đâu.

Nếu đã là Phật, thì không tham ăn. Ăn do đâu mà tham? Do tâm của mình, chứ đâu phải thân của mình đòi ăn mà nó ăn được. Như vậy cái thây ma, nó có lết đi ăn không? Do tâm của mình chứ, mình muốn lết, mình đi kiếm ăn. Chứ còn cái thân nó đâu có lết được. Ai bảo nó đi, cái tâm bảo chứ, đâu phải là cái thân đi. Cho nên chúng ta muốn đi là ai muốn? Cái tâm muốn chứ đâu phải cái thân muốn. Đó, chúng ta phải thấy cái điều kiện, nó cụ thể và rõ ràng.

Và cái thân này nó chịu ảnh hưởng của thói quen. Thí dụ như một người uống cà phê, một người ghiền thuốc phiện. Trước kia nó không ưa cái thứ đó, nhưng mà vì cái tâm bảo “Mày làm thử, hút thử đi”. Bây giờ nó hút thử rồi, lần lượt nó bắt đầu ghiền. Nó nghiện, bây giờ mới tới cái thân sai này.

Thân sai: trong khi mà không có thuốc phiện, nó làm cho ói mửa, hoặc là làm thế này thế khác, làm khổ sở mình, mình muốn hút vô cho nó khỏe. Đó, lúc bấy giờ nó trở thành cái bệnh gọi là “ghiền”; thì cái thân của chúng ta nó sai chúng ta là lúc bấy giờ nó trăn trở, nó không có cái chất đó nó làm cho chúng ta khổ sở. Đó là thân sai chúng ta. Còn đầu tiên là cái tâm sai chúng ta hết.

Bây giờ thí dụ như Thầy ăn ngày một bữa, Thầy thấy giải thoát. Còn mấy con ăn ngày một bữa, sáng thấy đói, thì cái đó là cái gì? Là cái thân sai mấy con, tại vì mấy con đã bị cái tâm nó sai các con muốn. Bây giờ Thầy ăn một bữa, bây giờ Thầy nói: “Thôi bây giờ ăn sáng chơi, thiếu gì đồ ăn, mình ăn chơi chứ bộ mình ghiền nó sao”. Nhưng ăn rồi, mai mốt sáng không ăn, cái bụng bấy giờ nó đói. Nó đói, bây giờ cái bụng nó sai mình đi ăn, chứ không phải là cái tâm nữa. Có phải vậy không?

Còn bây giờ, Thầy không ăn sáng. Cái bụng Thầy nó không đói. Tức là cái thân Thầy không sao. Mà bây giờ Thầy nói: “Thôi bây giờ đồ ăn nhiều quá, thôi ăn chơi đi, bỏ uổng, thôi ăn”. Ăn mấy bữa rồi, thì mấy bữa sau tới cái thân nó sai. Cho nên cái thân nó sai.

Vì vậy mà chúng ta lo tu cái tâm: “ly dục, ly ác pháp”. Khi tâm thanh tịnh, thì chúng ta dùng cái tâm mà sai cái thân. Cho nên cái thân tịnh chỉ hơi thở. Làm như vậy mới đúng chứ. Còn bây giờ cái tâm chúng ta, nó còn danh, còn lợi, còn đủ thứ ô nhiễm thế tục, mà bây giờ bảo cái thân này tịnh chỉ, ngồi thiền bảy, tám ngày; ráng ngồi mười hai, hai mươi bốn tiếng đồng hồ. Ông nội nó đau, đau chứ sao không đau? Nó đau thấy mồ thấy tổ. Đó là cái chúng ta tu sai, không đúng.

Biết cách tu thì chúng ta đi từng Giới luật một, mà chúng ta đi đến chỗ giải thoát. Không biết cách tu thì chúng ta tu sai, chúng ta không đi đến chỗ giải thoát được.

(46:57) Bây giờ đến phần quý Phật tử hỏi Thầy, có ai muốn hỏi gì thì hỏi. Mai mốt tìm Thầy khó lắm.

Người nào có duyên, Thầy đi đâu đó rủi mà các con đi làm ăn mà nghe nói Thầy ở chỗ này, đến gặp Thầy, đó là cái duyên. Mà nghe nói: “Thôi Thầy ở chỗ nào không biết, nhưng mà có duyên mình gặp, tức là có duyên, thôi bỏ hết để đi theo Thầy mà tu”, thì người đó còn có duyên hơn nữa.

Nghĩa là lúc bấy giờ xin quyết định theo Thầy tu hành mà Thầy thấy căn duyên xả bỏ hết. Như bây giờ đương (đang) chở một cái tàu hàng hóa đi ra Hà Nội bán, mà bây giờ: “Thôi, con giao hết cho mấy đứa tụi nó đem về, con đi theo Thầy tu; bây giờ gặp được Thầy là phước báo con lớn lắm, con không còn ham muốn nó nữa”. Lúc bấy giờ cái người mà như vậy, chắc Thầy không bỏ. Thầy dẫn đi theo. Phải không các con?

Còn các con mà không bỏ cái tàu hàng hóa của các con mấy tỷ bạc ấy thì thôi, chắc chắn là bây giờ có xin theo Thầy cũng nói: “Để con đem về, rồi ít hôm rồi con xin Thầy độ con tu” thì thôi, cái chuyện đó thì chờ cái duyên sau đi, cái đời sau đi. Chưa xả bỏ được, thì đừng mong theo Thầy. Bởi vì xả bỏ được, đi theo Thầy mới ở trong rừng, trong núi, trong hang, trong hốc, lúc đói, lúc no, đủ thứ, đủ cách, muỗi mòng đủ cách…​ mà vẫn chịu đựng, thì cái người đó là người gan dạ, nên đem Chánh pháp mà dạy họ những pháp siêu việt, để cho giúp họ giải thoát.

Còn nếu những người sợ muỗi, sợ mòng, sợ này kia, sợ khổ đau…​ thì thôi, mấy người ấy về “đời” mà sống đạo đức là tốt hơn, chứ đừng theo Thầy, không nổi đâu.

Đó là ước nguyện, phát nguyện của Thầy. Cho nên vì vậy đó là cái duyên gặp Thầy, thì nghĩ cho kỹ. Bây giờ các con cứ hỏi Thầy đi, Thầy sẽ dạy đạo đức cho các con.

5- CÁCH ĂN NGÀY MỘT BỮA KHÔNG BỊ ỨC CHẾ

(48:35) Phật tử 1: A Di Đà Phật, Thầy nói tránh ức chế tâm, tức là mình phải huân tập cái thân của mình qua cái tâm.

Nhưng hiện tại như các con còn đang bị cái thân sai sử, mình đói bắt cái thân phải kiếm ăn. Mà con chắc chắn rằng trong giai đoạn đầu, nếu con muốn không ức chế tâm, thì con phải có một thời gian tu tập thế nào đây. Chứ nếu không, đến cơn đói nó làm con run cả tay chân, chắc chắn điều ấy sẽ xảy đến với chúng con. Mặc dầu, con đã hàng phục được cái tâm của mình, quyết chí để lấy cái tâm làm chủ cái thân.

Con xin Thầy dạy cho chúng con kinh nghiệm thế nào để mình hàng phục tâm để mau có kết quả; làm chủ được cái thân, dẹp những cơn đói làm run rẩy mà tự nhiên nó run rẩy thân, A Di Đà Phật.

(49:20) Trưởng lão: Trong vấn đề tu tập đó, không phải là tu một ngày. Nếu mà nói mình tu một ngày để ăn được một bữa cơm như một vị thầy, thì đó là một việc ức chế. Cho nên mình muốn tu được như vậy, thì Thầy muốn nhắc nhở cho quý vị đừng nên ức chế nó.

Là như vầy, ngày ba bữa: sáng mình ăn, trưa mình ăn, chiều mình ăn. Mà bây giờ thay vì buổi sáng mình ăn cơm hoặc ăn bánh, thì mình ăn cháo. Nó có đói nữa đâu, phải không? Rồi bắt đầu từ cháo đó, mình thay sữa. Từ sữa đó mình thay, mình thay dần, tới chừng đó mình thay nước, phải không? Từ nước đó mình bỏ luôn, thì tức là nó nhẹ nhàng, nó đâu còn đói nữa. Còn vô cái bắt đầu như Thầy ăn một bữa, mấy con cũng nhào vô ăn một bữa “Ôi! trời ơi, đói muốn chết”, thì như vậy là ức chế chứ gì, phải không các con?

Bởi vậy Thầy nói: Tập! Phải tu tập. Chứ đừng có mong mau thời gian mà thấy Thầy ăn một bữa cái, mình cũng nhào vô ăn một bữa. Thầy giải thoát, mình cũng làm cho được giải thoát. Không ngờ là mình ức chế mình. Cái thân nó đâu phải vậy, mấy con. Nó làm khổ mấy con nhiều lắm, mà chính là ác pháp ở trong sự khổ đó của các con đó. Các con có giải thoát không?

Còn bây giờ thay vì sáng các con phải ăn bánh mì, hoặc là bát cơm, hoặc là bát phở phải không? Các con: “Không! Bây giờ mình nấu cái chén cháo lỏng mình ăn rồi nó có đói nữa không”? Một tô cháo rồi nó đâu có đói nữa. Đến trưa mình ăn cơm, có gì đâu. Mai mốt mình thấy nó ăn cháo quen rồi, nó không có đòi, nó không có gì nữa hết, thì mình thay chén cháo bằng chén sữa chứ có gì. Được không? Các con thấy có khổ không? Đâu có khổ. Bởi vậy tu là phải vậy, tu là phải tập. Tập dần nó hết khổ. Từ đó chúng ta biết từ cái thân của chúng ta tập như thế nào, rồi cái tâm của chúng ta cũng tập như thế nấy.

Cho nên đức Phật nói: “Chúng ta hãy như người huấn luyện voi” - một người nài để mà tập luyện dần, chứ không phải là bắt buộc nó thế này, thế kia. Con voi mà bắt buộc, nó sẽ bẻ đấy. Con trâu nó còn bẻ nài, bẻ ống cơ mà. Các con nhớ, mình đừng có làm hung dữ với nó, đâu được. Mình phải dụ dỗ dần dần, lần lần cho nó nhẹ dần. Bởi vậy Thầy nói: “Chỉ có cái tâm tha thiết tu, hay là không tha thiết tu thôi”. Mình tha thiết tu giải thoát thì mình tập dần là sẽ được. Có ức chế không? Không!

Không thì ngồi vô đây bắt buộc cái đầu của mình đừng có vọng tưởng. Trời đất ơi, đâu phải chuyện dễ đâu. Nó là chuyện ức chế. Cho nên, nó không lọt vào được Tưởng thì nó lọt ở chỗ nào nữa. Nếu bây giờ nó hết vọng tưởng rồi thì nó phải vô Tưởng thôi chứ làm sao mà chạy đi đâu khỏi?

Còn trái lại, Thầy không tập như vậy, mà cuối cùng không vọng tưởng. Tại vì, Thầy xả cái tâm. Mỗi tâm niệm nó lên, Thầy quán xét: “Ờ, cái này là ác pháp nè”. Cho nên Phật dạy: “Ngăn ác, diệt ác” mà. Cái này là ác pháp, không được để cho tâm mình thọ cái ác pháp này, sẽ khổ. Do đó lần lượt Thầy cứ tu tập rồi tu tập. Và đồng thời, Thầy dùng pháp Như Lý Tác Ý, Thầy tác ý Thầy nhắc nó. Và cứ như vậy, mỗi lần, nhắc như vậy mà với lòng nhiệt tâm, thì lần lượt tâm của mình nó sẽ không còn tham sân si; thì ngồi lại nó có niệm đâu.

Còn không, trời ơi, tâm còn ăn ba bốn bữa, còn ham muốn cái này kia, mà ngồi biểu ráng đừng có vọng tưởng, niệm Phật giữ cho hết vọng tưởng, thì cái đó là ức chế. Các con hiểu chưa? Đức Phật nói đâu có sai. Đạo Phật đâu có dạy chúng ta vậy. Phải không, các con thấy tu dễ không? Đâu có khó đâu. Biết mà tu là dễ lắm. Cho nên, khi mà mình xả được cái niệm ác chứ gì, mấy con có thấy giải thoát không? Giải thoát ngay trong tâm mình liền, thanh thản liền mà, phải không? Đó là tu đúng.

Thầy nói thật sự theo Thầy mà sống, thì Thầy dạy mấy con tu, mấy con không có ức chế chút nào đâu. Nhưng mà sợ Thầy không có đủ sức mà theo dõi các con. Bởi vì các con bị ảnh hưởng của ngoại đạo, nó đã ăn sâu vào đầu óc các con. Hở ra một chút các con ức chế tâm các con liền. Mà ức chế thân nữa. Cái tâm tham đắm của các con nó quá nhiều đi, cho nên các con muốn mau. Vì vậy mà các con tập không có đúng.

Theo Thầy từ từ, từ từ mình sửa lần sửa lần. Sửa lần nó sẽ đi đến giải thoát. Từ cái sửa đã giải thoát rồi. Cho nên đức Phật nói: “Chúng ta phải sợ hãi những lỗi nhỏ nhặt”. Những lỗi nhỏ nhặt đó, nó đưa đến chúng ta không giải thoát đâu. Chúng ta sợ hãi nó, cho nên vì vậy mỗi cái, chúng ta đều sửa lại mình, đừng có làm. Thì từ chỗ sửa đó, cái sai sẽ được thành cái đúng. Chứ không có gì hết.

Các con hỏi gì nữa không?

6- PHÁP TÁC Ý VÀ PHÁP NHƯ LÝ TÁC Ý

(53:43) Phật tử 2: Kính bạch Thầy, con có thắc mắc từ trước, chứ không phải là mới đây, là pháp Như Lý Tác Ý con không có hiểu rõ. Nhưng mà vừa qua được Thầy dạy cho cách nhịn đói, tập nhịn để mà ăn một ngày một buổi. Thì từ cái đói mình chuyển qua ăn cháo, rồi uống nước, như vậy có phải là tác ý như vậy không? Xin bạch Thầy chỉ ạ.

(54:15) Trưởng lão: Được rồi, các con chưa hiểu “tác ý” và “Như Lý Tác Ý”. Cái mà con hỏi Thầy đó là “Tác Ý”, chứ không phải là “Như Lý Tác Ý”, các con hiểu không?

“Như Lý Tác Ý” là pháp ám thị của tâm mình. Cho nên mình phải đặt một câu trạch pháp ra, tức là mình chọn lựa một câu nào đó. Thí dụ như bây giờ Thầy chọn lựa một cái câu, Thầy nói: “Tâm như cục đất, không có tham sân si nữa nhe”. Đó là Thầy ám thị như cái lý cục đất, là nó không tham sân si đó, nó như cục đất đó. Thầy ám thị, tức là Thầy trạch pháp câu đó ra, nó phù hợp với Thầy.

Hoặc là Thầy đặt trạch pháp ra một cái câu khác, thí dụ như: “Tâm ly dục, ly ác pháp đi”. Thầy nhắc bảo nó: “Tâm ly dục, ly ác pháp đi, đừng có ham muốn, đừng có ở trong ác pháp nữa, khổ lắm”. Thầy nhắc nó vậy. Hằng ngày Thầy nhắc nó. Đó là “Như Lý Tác Ý”. Còn bây giờ là “tác ý”, tác ý là khác đó.

  • Các con nhớ Như Lý Tác Ý: như một cái lý, tức là nó có một cái lý của nó, để tác cái ý đó ra.

  •  

    Còn bây giờ có một cái pháp nào hiện đến, Thầy “tác ý” ra cái pháp đó để mà Thầy giải quyết nó.

Bây giờ cái pháp đói bụng đến, bây giờ Thầy mới quán xét, Thầy tư duy: “Cái đói này là do mình quen ăn uống rồi nó thành thói quen, cho nên nó đói. Vì vậy bây giờ, cái đói này nó không thực, và làm cho mình mất sức đâu mà sợ. Nhưng mình biết rằng mình phải tập, dần dần thì nó sẽ quen đi, chứ không nên ức chế nó, làm khổ nó”. Đó là tác ý cái lý để chúng ta biết được cách thức chúng ta sẽ làm. “Bây giờ mình ăn như thế nào? Hồi nào sáng mình phải uống một ly sữa, một ổ bánh mì. Bây giờ mình bỏ, uống ly sữa thôi, bánh mì làm gì. Dụ nó làm. Dụ cho làm cái thân mình nó quen”. Thì đó là mình tác ý, mình suy tư để mình phá cái pháp này, phá cái pháp đói của mình. Thì như vậy là “tác ý”.

Còn bây giờ, Thầy không phá như vậy. Mà Thầy nói: “Cái đói này là vô thường, không thực, mày phải đi đi, mai mốt tao không có tha mày đâu”. Nhưng mà kèm theo cái tác ý thì chúng ta phải sống ăn cháo, hoặc là bột, hoặc là sữa. Chúng ta phải biết cách chứ. Chứ không phải là nói mình Như Lý Tác Ý rồi bắt đầu mình sống ức chế nó, thì sai. Mình Như Lý Tác Ý để cho nó có cái nhớ, đừng có quên. Cho nên từ đó mình lại sống đúng, lần lượt mình xả dần, xả dần thì nó hết.

Chứ không phải Như Lý Tác Ý mà mình ép nó quá, mình dùng cái đó để mình ức chế nó quá, thì cái pháp Như Lý Tác Ý là cái pháp ức chế rất mạnh. Nhưng mà chúng ta tạo nó thành lực, chứ không phải chúng ta dùng nó để ức chế. Nhiều khi cái tâm mình bây giờ nó còn tham, mình nhắc nó, tại sao nó không hết tham? Nhưng mà nhắc nó để nhớ, mai mốt nó khởi muốn cái gì đó, thì mình dừng nó lại. Mình dừng nó lại, mình tác ý ra, mình mới quán xét để cho cái tâm tham của mình xả ra, hiểu không?

Bởi vì Như Lý Tác Ý là chỉ tạo cho nó một cái lực đó thôi. Còn cái Tác Ý thì giúp cho chúng ta xả ngay cái pháp đó liền, tức là diệt ác liền. Như vậy được chưa? Các con phải phân biệt rõ giữa Tác Ý và Như Lý Tác Ý. Chứ không khéo thì chúng ta lại không hiểu.

7- TRẢ LỜI CƯ SĨ VỀ “TÂM”

(57:37) Phật tử 3: Mô Phật! Bạch Thầy, con nghe nói rằng sau khi mình chết rồi thì không còn cái linh hồn, mà còn cái tâm. Nhưng mà theo đệ tử thì vẫn còn lờ mờ, không biết thế nào là cái tâm, rồi thế nào là cái linh hồn. Con xin Thầy dạy.

(58:02) Trưởng lão: Bây giờ nói về cái tâm. Cái tâm là một danh từ để chỉ chung cho chúng ta ba cái biết, chứ không phải một cái biết đâu. Nhưng mà nói đến cái biết, như hồi nãy Thầy nói, có ba cái biết. Nhưng mà nói đến cái biết của Thân, thì nó có sáu cái biết, phải không? Nói đến Thân thì nó có sáu cái biết. Tại sao nói nó có sáu cái biết lận?

Bây giờ chúng ta nghe âm thanh, thì cái nghe để mà biết âm thanh đó là tiếng chim, hoặc tiếng người nói, hoặc là tiếng đờn (đàn), hoặc là tiếng nhạc…​ Tự trong cái nghe đó nó có cái biết. Chứ không phải nghe đó rồi, nó mới truyền qua cái biết của chúng ta, không phải đâu. Trong cái nghe nó biết. Cho nên Phật nói là: “Nhĩ thức” - cái nghe của cái biết mà, phải không?

Cho nên Nhãn thức - bây giờ chúng ta thấy màu trắng, màu xanh, màu đỏ, thì trong cái Nhãn thức đó thì nó có cái thức, nhãn thức là cái thấy biết mà. Thấy để mà biết cái màu sắc đó, cho nên mà gọi là nhãn thức. Mà chúng ta có sáu cái thức như vậy, gọi là Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, Ý thức, phải không?

Cho nên đối với cái Thân chúng ta hiện giờ sử dụng, người nào mà nhãn căn (con mắt) này bị mù đi, nó không thấy được, thì nó không phân biệt được màu sắc, nó thấy đen tối hết. Cái lỗ tai này điếc thì chúng ta không nghe âm thanh. Cái đầu chúng ta, nó còn biết chứ, tại sao nó không nghe, phải không? Cho nên chúng ta không nghe vì cái biết của nhĩ thức của chúng ta, nhĩ căn nó hư rồi, nó không thể tiếp nhận được âm thanh bên ngoài.

Đó là về cái Thân của chúng ta, nó có sáu cái biết.

Nhưng mà về cái Tưởng của chúng ta, thì nó chỉ có cái biết trọn vẹn của nó ở trong Tưởng. Nghe, thấy, biết tất cả, nó trong Tưởng. Thí dụ như quý vị nằm chiêm bao. Tối quý vị ngủ: tai đâu còn nghe, ý đâu còn khởi niệm, mắt không còn thấy vì mắt nhắm lại ngủ còn đâu thấy được. Thế mà nằm mộng thì vẫn thấy, biết, nghe, đủ thứ hết phải không? Đó gọi là Tưởng thức. Hồi nãy Sắc thức rồi, bây giờ là Tưởng thức.

Bây giờ còn cái Tâm thức của chúng ta - cái thức mà đức Phật nói “Sắc - Thọ - Tưởng - Hành - Thức”. Cái thức cuối cùng này nó chưa hoạt động đâu quý vị. Nó hoạt động là khi nào quý vị đang nhập Tứ Thiền. Nghĩa là quý vị phải ngăn, phải tịnh chỉ, phải làm cho cái Sắc thức của quý vị ngưng hoạt động, cái Tưởng thức ngưng hoạt động - tức là chiêm bao không còn hoạt động nữa, không còn giấc mộng nữa, và cái Ý thức của quý vị (sáu cái thức này) cũng ngưng hoạt động hoàn toàn, thì cái Tâm thức kia nó mới hoạt động.

Cho nên người mà nhập Tứ Thiền, người ta tịnh chỉ hơi thở, thì con mắt không còn thấy nữa. Mà tịnh chỉ hơi thở, thì cái Tưởng người ta không hoạt động được nữa, bởi vậy nên cái chiêm bao người ta cũng không có nữa. Do đó, người ta mới đánh thức cái Tâm thức của người ta dậy, tức là cái Thức thức. Thức thức nó dậy, người ta mới hướng cái thức đó, đi đến Tam Minh, mới biết được nhiều đời nhiều kiếp.

Cho nên nói về Tâm, thì chúng ta phải thấy nó có ba cái thức của nó, không thể riêng biệt. Nhưng cái này khi mà chúng ta chết rồi, ba cái này hoại diệt toàn bộ, không có cái nào còn. Cho nên linh hồn chúng ta không có. Cái tâm cũng không có, chứ không phải nó có, theo lời Phật thì hoàn toàn không có.

(01:01:09) Nhưng cái gì mà chúng ta còn tiếp tục tái sanh luân hồi đây? À, cái này nó đặc biệt. Bởi vì đức Phật đã nói là còn luân hồi chứ đâu phải đã hết luân hồi.

Hàng ngày, quý vị chửi người ta một tiếng đó, quý vị làm một điều ác; quý vị làm một điều thiện, ban cho người ta một bát cơm. Thì những hành động đó sẽ lại tiếp tục đi tái sanh luân hồi, gọi là nghiệp đi tái sanh. Chứ không ai nói linh hồn đi tái sanh. Cho nên phải hiểu như vậy. Vì vậy mà toàn bộ ba cái thức này thì chúng ta phải biết rất rõ.

Vì vậy, lúc mà người tu đánh thức được cái Tâm thức của họ, thì người ta sẽ biết được nhiều đời nhiều kiếp. Người ta ngồi đây mà người ta thấy được ở bên Nhật Bổn, ở bên Pháp, ở bên Mỹ, những thân nhân người ta nơi đó được. Là tại vì cái không gian nó không có ngăn cách đối với cái Tâm thức. Cái Tâm thức lúc đó nó không có không gian. Và người ta biết được cái Lậu tận của người ta. Cái nghiệp mà còn tái sanh luân hồi nó đã diệt sạch, hay là chưa diệt sạch, người ta biết hết. Đó là cái chỗ mà Tam Minh, cái chỗ đó là Tâm thức của chúng ta.

Vì chúng ta chưa đóng được hai cái thức: Sắc thức và Tưởng thức. Chúng ta chưa đóng được, cho nên cái Tâm thức của chúng ta không hoạt động được. Các con hiểu chưa? Cho nên do chỗ này mà đạo Phật mới dẫn chúng ta đi đến chỗ đánh thức Tâm thức của chúng ta dậy. Hễ muốn đánh thức nó, thì phải đóng mấy cái này lại. Mà đóng cái này lại, thì chỉ có: Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền mới đóng nó lại mà thôi, không có thiền nào mà có thể đóng nó lại được. Còn Thiền Đông Độ thì họ bị rơi vào Tưởng. Bởi vì họ đóng được Ý thức của họ, cho nên họ rơi vào Tưởng. Họ sống ở trong trạng thái Tưởng.

Chúng ta cứ nghĩ đi, Tưởng với Ý thức của chúng ta nó câu hữu với nhau. Ngồi đây một chút chúng ta khởi cái niệm, gọi là vọng tưởng, đó là Tưởng đó. Chúng ta đang sống trong Tưởng. Cho nên thí dụ như bây giờ một người ngồi yên lặng như thế này, mới vô đầu thì vọng tưởng xen tới xen lui. Bắt đầu lặng không thấy nó nữa, ngồi vô không thấy nó vọng tưởng nữa, tưởng là mình đang biết chứ, không ngờ là cái Tưởng thức biết. Lúc bấy giờ chúng ta đang trong chiêm bao mà chúng ta không hay. Nghĩa là chúng ta đang biết chúng ta đang ở đó, nhưng mà biết trong Tưởng thức, chứ không phải là biết trong Ý thức nữa.

Cho nên vì vậy mà đức Phật nhắc chúng ta thở: “Hít vô tôi biết tôi hít vô. Thở ra tôi biết tôi thở ra”. Không nên để cho nó rớt ở trong cái Tưởng thức, mà phải giữ cho nó ở trong Ý thức. Cho nên cứ tác ý thôi. Quý vị nhớ kỹ Mười Sáu Đề Mục Thiền của Phật đâu có cho chúng ta ngồi yên lặng đâu, luôn luôn phải tác ý. Mà tác ý ra thì giữ Ý thức chứ gì? Còn nếu mà chúng ta không tác ý, thì chúng ta bị rơi vào Tưởng thức. Cho nên nó thay thế. Chúng ta tưởng ai cũng nhào vô được: “Thầy ơi, an lạc quá!” nhưng mà không ngờ là mình đã rớt trong Tưởng rồi, không biết đó.

Còn cái này, mục đích người ta phải diệt luôn cả Tưởng mà. Bắt đầu, người ta dùng ý người ta tác ý. Tác ý cho cái Ý thức của chúng ta hoàn toàn nó có cái sự tỉnh thức, nó không bị mất. Khi mà nó không bị mất rồi, nó ly được cái tâm danh, tâm lợi, tâm ác pháp của nó rồi - tức là “ly dục, ly ác pháp” ấy - nó ly được rồi, thì bắt đầu chúng ta dùng pháp Như Lý. Bởi vì pháp Như Lý của chúng ta - Ý thức của chúng ta dùng pháp Như Lý để mà tác ý - nó có cái lực. Sau khi nó có đủ cái lực, nó mới ly được cái tâm tham đắm của chúng ta. Cái “ly dục ly ác pháp” của chúng ta được trong tâm chúng ta rồi, cho nên nó làm cho tâm chúng ta thanh tịnh rồi, thì bắt đầu chúng ta dùng cái lực của pháp Như Lý Tác Ý này chúng ta mới tác ý các Hành trong Thân, bắt buộc cái Thân nó phải bất động, để cho nó nhập Định.

Các con thấy phương pháp, cách thức của người ta đi, tu tập nó có cách thức như vậy đó. Thế mà chúng ta không biết thì chúng ta tu ngàn đời chúng ta cũng không nhập Định được. Cho nên ngồi thiền, mà rồi ngồi riết, kéo dài riết, mà không vô Định đâu, không có đâu. Cái đó là định điên, định khùng, cái định xuất hồn của mấy người, chứ không phải Định của Phật giáo. Đó, mấy người hiểu chưa, mấy người hiểu rõ rồi phải không?

Ở đây, Thầy nói rất bài bản, rất rõ ràng các pháp của Phật, danh từ nào sử dụng đúng nghĩa của nó chứ không có trật. Chứ không phải như các nhà học giả mà họ lượm qua các danh từ, chữ nghĩa họ lượm miết, sai hết à. Đó, bây giờ muốn tu được như vậy thì phải ráng tu. Chứ không ai tu cho mình được hết.

Bây giờ có ai muốn hỏi thêm nữa không?

8- ĐỪNG DẪN ĐẠO VÀO TÂM, HÃY DẪN TÂM VÀO ĐẠO

(01:05:11) Phật tử 4: Dạ bạch Thầy, con đi vào con thấy có cái bảng đề lời Phật dạy là: “Đừng để đạo vào tâm, hãy để tâm vào đạo”, con không hiểu rõ được như thế nào. Con nghĩ là “đạo vào tâm” thì là làm cho tâm sáng, nhưng mà tại sao lại không được để đạo vào tâm?

Trưởng lão: Bởi vì mình huân cái đạo vào, cái ngã mình lớn, mình nói ờ mình hiểu đạo đây, đi đâu mình cũng nói đạo không đó. Nó sáng không, hay là nó tối? Mình nói dóc không à, mình không được gì hết mà mình cũng nói mình giải thoát hay này kia sao? Bởi vì mình học đạo nhiều thì tức là mình huân vô cái học, chứ đâu phải là đạo sáng được. Cho nên “Đừng dẫn đạo vào tâm, mà hãy dẫn tâm vào đạo”. “Vào đạo”, đạo là cái chỗ giải thoát. Cho nên mình nhắc cái tâm của mình, tức là Thầy muốn nói pháp Như Lý Tác Ý đó. Thầy muốn nói, nhắc cái tâm, tức là: “Tâm ly tham - sân - si đi”. Mà cái chỗ không tham - sân - si đó là cái chỗ “đạo”, con hiểu không? Giờ nhắc: “Tâm ly tham - sân - si đi đi”, mà nó ly hết thì nó “vào đạo” chứ gì.

Còn con học, nào là “ly dục, ly ác pháp, ly tham sân si” con nói vanh vách hết, mà con không nhắc nó, thì con cũng tham, sân, si như thường. Có không? Như vậy con dẫn đạo vào tâm, con nói thì hay mà con làm dở hơn ai hết à! Đúng chưa?

9- ĐẠO PHẬT LÀM CHỦ SANH, GIÀ, BỆNH, CHẾT

(01:06:33) Phật tử 5: Kính bạch Thầy! Ở ngoài sân có để một tấm bảng mà có ghi lại một câu của Phật là: “Thiên thượng thiên hạ. Duy ngã độc tôn”. Kính bạch Thầy, cái đó là sao, cái ý mà Thầy giải thích thì con hiểu rồi, nhưng mà cái nghĩa của cái câu đó thì con chưa rõ, xin Thầy giải thích thêm cho con.

Trưởng lão: Ngày xưa, khi mà đức Phật tu chứng đạo rồi, thì Ngài mới dùng trí tuệ Tam Minh của Ngài quan sát hết khắp thế gian này, mà không những ở trong thế gian này nữa. Bởi vì Ngài nói “thiên thượng thiên hạ” mà, trên trời dưới trời khắp cùng hết, khắp trên thế gian nữa, không phải riêng ở trong cái thế gian của chúng ta không đâu, Ngài nhìn thấy không có người nào mà làm chủ được sanh, già, bệnh, chết. Cho nên, Ngài mới nói: “Trên trời dưới trời, ta là người duy nhất vượt qua sanh, già, bệnh, chết” tức là làm chủ sanh, già, bệnh, chết. Ngài tu chứng rồi, Ngài mới nói lên câu nói này. Ngài quan sát hết không thấy ai nữa cả.

Cũng như hôm nay, Thầy dám xác định rằng người ta không tu chứng Bốn Thiền, chưa người nào nhập Bốn Thiền, Thầy xác định. Thầy xác định là do đôi mắt của Thầy đã quan sát. Chứ không phải, liệu coi chừng có ông nào ở trên núi kia ổng nhập được thì sao? Mình có quan sát coi hang cùng ngõ hẻm nào có ai nhập được Tứ Thiền này chưa? Đâu phải mình muốn nói là nói sao. Ông Phật cũng vậy, quan sát hết. Dùng cái gì quan sát, các con biết không? Dùng Thiên Nhãn Minh.

Cho nên người ta quan sát, người ta dám xác định mà. “Trên trời dưới trời, ta là người duy nhất” - “ta” không có nghĩa là xưng mình là ta, mà nói “chỉ có ta duy nhất” là người làm chủ bốn cái sự đau khổ này, không còn người thứ hai, các con hiểu chỗ đó không? Chứ không phải “ta là ngon” đâu. Nhưng mà ta làm chủ được cái sự đau khổ này, tức là ta đang ở trong thiện pháp đây.

Để làm gì? Để nói thẳng, nói thật rằng có rất nhiều tôn giáo, nhưng mà chưa có tôn giáo nào mà làm được thế này. Chỉ có pháp của “ta” mới có thể giải thoát được. Đó là câu mà đức Phật sau khi tu chứng, Ngài xác định.

Nhưng mà sau này các Tổ cắt ra. Bởi vậy cho nên tại sao mỗi câu Thầy phải đóng lại hết để nhấn mạnh những cái câu đó đều có một ý nghĩa. Không có được ai chia cắt nó ra trong cái bài này. Các con hiểu điều đó! Nếu mà chia cắt ra, thì các Tổ đã làm cái điều đó rồi. Bây giờ bài kệ này Thầy xếp chặt như vậy không ai được chia cắt nó ra. Ngày xưa các Tổ cắt hai câu cuối, lấy hai câu đầu, để chỉ cho Phật tánh. “Thiên thượng thiên hạ. Duy ngã độc tôn” tức là chỉ cho cái bản tánh thanh tịnh của mình. Như vậy, Thầy thấy việc họ dám làm cái điều tội lỗi như vậy. Kệ Phật bốn câu mà họ cắt hai câu. Cho nên, hầu hết có một số người chỉ biết hai câu: “Thiên thượng thiên hạ. Duy ngã độc tôn”. Còn hai câu sau, không ai biết. Nếu mà Thầy không vạch ra, bây giờ thì các vị không ai biết hai câu sau đó hết. Thầy nói thật mà.

Đó cho nên ở đây, thật sự ra những cái gì của Phật, Thầy móc ra hết. Còn những cái gì mà các Tổ làm sai, sẽ lộ bộ mặt ra hết, không giấu ai được hết.

Cho nên ở đây chúng ta phải biết rằng, câu kệ rất là quý. Nghĩa là đức Phật nói chúng ta sống thiện. Chúng ta đừng nghe Đại Thừa mà nói: “Ngã, Pháp đều không”, còn Nguyên Thủy hay là Tiểu Thừa thì: “Pháp còn, mà ngã không” Câu nói sai.

Thầy nói đạo Phật không phải là đạo vô ngã. Tại sao vậy? Tại vì đức Phật nói: “Ngăn ác, diệt ác. Sanh thiện, tăng trưởng thiện”. Nếu mà không còn cái thiện, thì còn cái gì đây? Mà đã còn cái thiện, bảo là “vô” sao? Quý vị nghĩ đi, còn cái thiện mà bảo “vô” sao? Đâu có “vô”! Thầy sống trong thiện là đã giải thoát rồi. Thầy không làm khổ mình, khổ người thì đó là thiện chứ gì? Như vậy là đủ giải thoát rồi chứ gì?

Cho nên vì vậy, từ cái chỗ đó nó mới có những cái thiền định này, không có nghĩa là hoàn toàn chúng ta vô ngã. Vô ngã như thế nào được? Các vị nghĩ “vô ngã” làm sao được? Cũng như bây giờ người ta bảo mình “Vô Sản”, vô sản làm sao được, khi Thầy có cái thân?

Đó là một cái lý thuyết, một cái triết thuyết người ta đưa ra, nhưng thực hành không thể làm được. Cho nên mới nói vô ngã là chỉ có Đại Thừa vô ngã thôi. Chứ còn đạo Phật không vô ngã. Cho nên ông Phật cũng nói: “Trên trời dưới trời, ta là người duy nhất vượt qua sanh, già, bệnh, chết” - ta là người duy nhất sống trong thiện pháp, không làm khổ mình, khổ người, mục đích là như vậy.

Nghĩa là ngay bây giờ, sanh - là cuộc sống của chúng ta, khổ rồi phải không? Là ác pháp chứ gì?

Già - nó làm cho chúng ta lụm cụm, khổ sở, điêu đứng chứ gì? Đó là ác pháp chứ gì? Khổ là ác chứ gì, phải không?

Bây giờ bệnh - đau nhức, không phải ác pháp sao? Nó là ác pháp.

Bây giờ chết, không phải là ác pháp sao? Đó là những cái khổ. Mà bây giờ thiện, thì nó không có sanh, già, bệnh, chết. Bởi vì thiện thì nó không có khổ. Mà không khổ thì sanh, già, bệnh, chết làm sao nó làm được.

(01:11:34) Đó! Cho nên Thầy nói thật sự tu theo đạo Phật chúng ta thấy rất rõ. Rất rõ là chúng ta làm chủ được nhân quả, nhân quả không tác động chúng ta. Bây giờ cái tay của Thầy đau, tức là Thầy sanh trong thân này là thân nhân quả chứ gì, thì sự vô thường nó sẽ vô thường, thì cái tay này nó phải đau là hẳn nhiên rồi. Đau nhức này thì làm cái gì? Nhưng mà Thầy làm chủ nó, Thầy bảo: “Cái Thọ là vô thường, cái đau chỗ cái tay này hãy đi đi, đi khỏi đây”. Thầy ra lệnh như vậy. Thầy ngồi im lặng, tâm bất động, thì lúc bấy giờ cái đau đi mất. Và nó sẽ phục hồi lại chỗ đau Thầy, nó sẽ lành.

Có phải là chúng ta lấy tâm mà trị bệnh không, hay là lấy thuốc trị bệnh? Còn quý vị phải chạy vô bệnh viện kà, nhờ bác sĩ coi trị bệnh, thì nó hết đau. Nhưng mà uống thuốc: bệnh này hết, thì bệnh khác tới. Thầy lấy tâm trị, không bao giờ, nó khỏi.

Cho nên các con thấy một người tu như Thầy khỏe không? Còn các con bây giờ lo không biết bữa nay mạnh, chứ ngày mai đau đây không biết sao đây. Không biết chừng, ra cửa đứt mạch máu não chết liền tức khắc nữa, trời ơi uổng quá, tu không được nữa.

Đó thì các con phải biết, tu hành nó thực, thì nó giúp chúng ta giải thoát, an vui, thanh thản, không lo gì hết. Muốn sống là kéo dài sự sống, muốn chết là ngay đó bỏ thân.

Còn của Phật, bởi vì ác pháp không tác động chúng ta được, chúng ta làm chủ tất cả. Chúng ta sống toàn thiện mà. Cho nên đối với những người mà nói người nào “sống trên tinh thần vô ngã”, thực sự họ chỉ nói dung tục. Bởi vì chưa có người nào vô ngã, ngay cả ông Phật còn thiện pháp kia mà. Bởi vì chúng ta phải chấp một cái tốt, để mà chúng ta sống cho mình, cho người, không làm khổ ai, thì cái tốt là thiện pháp. Đạo Phật đâu có khuynh hết những cái gì. Chúng ta vô ngã chúng ta trở thành cây, đá sao? Cũng như bây giờ quý vị không phân biệt: ác không phân biệt, thiện cũng không biết, thì cái chuyện này là chuyện như cục đá rồi. Tu để thành cây, đá để làm gì?

Chúng ta biết thiện, biết ác. Ác chúng ta ngăn chừa, chúng ta không làm khổ mình, khổ người. Thiện chúng ta sống thì không làm khổ ai. Đó là chúng ta giải thoát của cuộc đời chúng ta rồi. Là một người đạo đức, có đức hạnh rồi. Cần gì chúng ta phải đi lên Thiên Đàng, hoặc là làm Phật làm gì? Thầy chẳng làm Phật, Thầy không ham làm Phật đâu. Mà Thầy không làm khổ ai hết là được rồi. Thầy không làm khổ Thầy, không làm khổ người, thì Thầy là giải thoát. Mà chính chỗ này là cái mấu chốt để chúng ta làm chủ cả bốn sự khổ của kiếp người. Vì còn ác pháp là còn khổ, hết ác pháp là hết khổ.

10- PHƯỚC HỮU LẬU VÀ PHƯỚC VÔ LẬU

(01:14:20) Bây giờ Thầy nói để cho các vị thấy. Người ta gọi là phước Hữu lậu và phước Vô lậu. Phước Hữu lậu và phước Vô lậu không thể đi chung nhau một đường.

Một người có phước Hữu lậu giàu sang tiền của, người ta cung kính đảnh lễ, thì cái người đó, là không bao giờ giải thoát. Tại sao vậy? Tại vì đã nói Hữu lậu tức là có khổ. Ông ta có sung sướng gì chứ, ông ta phải lo mình làm sao cho người ta cung kính mình nữa chứ. Hoặc là bây giờ có tiền, mà làm sao để tiền này mình giữ chứ để không mất thì sao, phải không? Đó là có khổ rồi. Rồi ăn không ngon, ngủ không yên, thì cái đó là có khổ không? Còn Thầy còn ba y một bát, đi đến đây ai có lấy làm chi cái đồ này, phải không? Cho nên Thầy ngủ, thả cửa không lo gì hết. Giải thoát hoàn toàn. Không còn Lậu hoặc nữa.

Mà nói phước Hữu lậu, là người đó dù có làm vua các con thấy có lậu không? Có khổ chứ, ông vua cũng phải khổ chứ. Ông nhà giàu bây giờ, như Thạch Sùng, ông có khổ không? Khổ chứ đâu phải không.

Nhưng mà, cái ông tu phước Vô lậu: “Tâm luôn thanh thản, an lạc, và vô sự, không còn lậu hoặc”. Người ta đem tiền không ham. Tôi sợ cái này lắm: “Nó là rắn độc, ông đem về đi, cho tôi bữa cơm đủ ngày hôm nay, tôi không để dành ngày mai, mất công tôi quản”. Phải không, mình thấy có cái gì là mất công giữ à. Thầy nói: “Ờ, trái chuối này ăn không hết, thôi để dành”. Trời ơi, để dành kiến bu cũng mất công đuổi, phải không? “Thôi thôi, thầy ăn không hết, thầy cho ai thì cho đi, chứ tôi không có cất giữ. Cất giữ nó làm bận tâm tôi lắm”, có phải vậy không? Bây giờ mấy con cúng dường Thầy hộp mứt, thôi Thầy để dành ăn, trời ơi kiến lửa nó chung vô, mắc công Thầy đập. “Thôi tôi ăn một bữa thôi, còn bao nhiêu cơm thôi đem về đi. Ngày mai có tôi ăn, không có để dành”. Như vậy là Thầy giải thoát chứ gì? Thầy đâu có coi chừng kiến. Thầy nói: “Thôi, tôi quê vậy thôi, để biết được cái sự Vô lậu hay Hữu lậu”.

Thật sự ra khi các con cúng dường Thầy một hộp mứt, tức là Hữu lậu đó. Nhưng mà Thầy biết Hữu lậu là khổ, cho nên Thầy trả lại các con. Thầy ăn để mà thọ dụng cái lòng các con, Thầy ăn vừa đủ, ăn bữa nay thôi, trả lại các con. Ngày mai các con còn đem cúng dường nữa mà. Hết thôi Thầy không cần, chứ Thầy không để dành. Do đó, đêm nay Thầy ngủ khỏe không sợ kiến vô phá. Có phải Vô lậu không? Các con thấy mình đâu có gì thì mình Vô lậu chứ gì? Đó là cái phước Vô lậu của chúng ta.

Người tu phước Vô lậu là người như vậy. Đó mới là Thánh Tăng. Chứ còn cái gì cũng để dành ngày mai ăn, ngày mốt ăn, làm cái gì chúng ta…​

Đó, thì Thầy nói trong cái phước Vô lậu, nó có đầy đủ sự sống trong đó, không có lo đâu. Bữa nay vậy, chứ ngày mai người khác họ cúng dường, ăn cũng không hết đâu, đừng sợ. Đừng có lo đói, bữa nay để dành ngày mai tôi có cơm ăn; ngày mai đi xin họ không cho, không đói. Ngày mai không có thì tôi về ngồi thiền chơi hà. Ngồi thiền bảo: “Dừng hơi thở đi” thì còn gì biết đói nữa. Thầy ngồi vậy cả tháng nó cũng không biết đói nữa, chứ đừng có nói chi một ngày, hai ngày. Không phải sung sướng hay sao?

Thầy nói thật sự ra, đi xin ăn để mà tạo duyên, gần gũi với chúng sanh, để thực hiện đức hạnh, giúp đỡ cho người ta thấy cái gương hạnh của mình. Còn nếu không, ngồi thiền giờ một ngàn năm sau nó cũng có sao đâu mà sợ. Nó đâu có đói, nó đâu có tốn hột cơm, hột gạo nào đâu mà sợ. Mình không ăn mà không chết, mà bây giờ ngồi thiền không ăn không chết, mà ngồi đó như gốc cây thì làm gì, có được ích lợi gì cho ai? Cho nên mình đi xin ăn để mà hóa duyên độ chúng sanh qua cái gương hạnh đạo đức của chúng ta, các con hiểu vậy.

Cho nên đối với Thầy bây giờ, cái sự sống chết, thí dụ như Thầy bảo hồi nào, Thầy đi hồi nấy. Quá dễ dàng mà rảnh rang nữa chứ gì. Nhưng mà vì chúng sanh, vì các con còn khổ quá, chưa rõ con đường. Thầy đi các con sẽ bị dao động, các con không biết đâu mà tu. Đọc Kinh sách Thầy rồi, các con còn đường nào các con đi nữa? Vì các con đã thấy quá rõ ràng, bây giờ vô chùa, mình sao tu được, phải không; mà giờ bỏ đi thì các con lấy đâu các con tu? Các con hiểu điều đó. Cho nên Thầy chưa bỏ đi. Khi nào mà Thầy thấy cần đi là Thầy đi, thì tức là Thầy thấy duyên hết, Thầy đi. Nghĩa là Thầy làm xong bổn phận, còn các con cứu độ được các con là các con cứu, mà không thể cứu được thì thôi.

(01:17:32) Khi mà Thầy viết bộ giáo trình Đạo Đức Nhân Quả xong rồi, mỗi hành động Thầy dạy các con rất kỹ. Nói phải như thế nào, suy tư như thế nào, đi, đứng, nằm, ngồi các con phải làm như thế nào, để đúng cái Đạo Đức Nhân Quả. Mà Thầy dạy các con rồi, thì đó: “Bây giờ các con đã hiểu rồi, các con tự làm lấy, Thầy ra đi là vừa”. Còn bây giờ các con chưa hiểu, Thầy không nỡ bỏ các con đâu. Các con hiểu, cái tâm ý của Thầy là tâm ý nghĩ đến sự đau khổ của các con, mà bây giờ không có cách thức nào các con hiểu biết. Mà Thầy không đem cái sự hiểu biết này để giúp cho các con hiểu biết, thì Thầy thấy Thầy có lỗi với con người. Vì Thầy sinh ra làm con người mà không giúp đỡ con người, Thầy thấy Thầy có lỗi. Cho nên Thầy phải kéo dài tuổi thọ sống thêm.

Chứ Thầy ra đi là Thầy khỏe lắm mấy con. Ăn ngày một bữa có ngọt ngào gì đâu mấy con. Ăn để sống, để nuôi thêm chứ, nó có thích thú gì đối với Thầy. Bây giờ ăn không có cái gì mà có thể nói rằng “ngon thì phải biết ngon chứ hay sao”, nhưng mà không cám dỗ được Thầy, cho nên Thầy cũng không thích nó đâu. Ăn cũng coi như là cái liều thuốc để mà nuôi cái bụng bị đói của mình thôi. Cho nên đối với Thầy thì không còn tha thiết gì cái thế gian này, tất cả các vật dụng thế gian này không cám dỗ được Thầy cái gì nữa hết.

Vì vậy mà chỉ còn có tình thương của Thầy đối với các con mà Thầy còn nấn ná chúng sanh. Chứ nếu các con mà đã vững mạnh trên con đường Đạo Đức Nhân Quả “không làm khổ mình, khổ người” thì Thầy đi rồi. Bởi vì đi nó sẽ hết khổ hơn, sống nó cực lắm. Các con biết mang cái thân này cũng như là mang cái khối đá mà đi vậy. Các con thì không có cảm thấy, chứ còn Thầy, Thầy mang cái thân này bước đi Thầy nghe như là mang cái khối đá. Bỏ cái này đi, Thầy thấy nó nhẹ nhàng vô cùng. Bởi vì khi mà Thầy ngồi thiền, cái thân Thầy như là cái thây ma chết rồi chứ gì, Thầy bỏ nó ra được, nó thư thái, nó nhẹ nhàng lắm, nó không có…​. Còn ngồi đây mà cứ biết cái thân mình, có phải nặng không? Ngồi như một đống đá thôi chứ gì.

Thôi bây giờ các con hỏi Thầy gì nữa hay không?

11- ĐẠO ĐỨC NHÂN QUẢ LÀ THUỐC TRỊ BỆNH

(01:19:50) Phật tử 6: Mô Phật, con xin phép hỏi Thầy. Bây giờ nếu như trên trần gian này nó có cái bệnh gì mà thuốc của các nhà bác học trị không lại, trị không được. Vậy Thầy có thể trong thời gian tham thiền, Thầy có thể tìm bằng mọi cách, cách nào tìm được thứ thuốc đó, để cứu độ chúng sanh không?

(01:120:11) Trưởng lão: Có được chứ. Nhưng mà trị nữa rồi, nó lại là hư hoại nữa.

Có cái bệnh, đó là ngăn chặn nó đó. Mà nếu trị nó, nó có thuốc rồi, bắt đầu nó lại là thôi. Nó vô đạo đức còn kể vô số nữa Thầy không nói được. Phải không, có bệnh là ngăn chặn tốt đó.

Thầy biết nếu mà, Thầy tìm ra thứ thuốc Thầy trị bệnh được, nói không phải, thì thôi xã hội này nó loạn hết rồi. Thôi tốt hơn là để như vậy chứ còn…​ Nếu mà Thầy trị được mà nó loạn, nó lại còn sinh cái bệnh còn ngặt nghèo hơn nữa. Bởi vì nó đồi truỵ mà, các con biết nó đi đến chỗ sa đọa ghê gớm lắm. Cho nên từ đó, phải để có một cái gì ngăn chận. Bởi vì cái lực của nhân quả nó ngăn chặn, chứ không phải ai làm ra đâu. Các con không thấy, các con tưởng hư không mà nó sinh ra sao? Mình đồi truỵ quá độ, nó mới sanh ra cái thứ đó. Nó sanh ra thứ đó để nó ngăn chận lại, vì con người ai cũng ham sống chứ không ai muốn chết đâu. Mấy ông muốn ham chết thì mấy ông cứ lao đầu vô đi thì mấy ông biết, phải không? Cái đó là cái sự ngăn chận của Tạo Hóa đó, của cái luật nhân quả đó, chứ không phải gì đâu. Thầy nói như vậy, đừng có…​ (cười)

Bởi vì Thầy nghĩ nếu mà tìm thuốc, thì sự quan sát của Thầy dễ dàng tìm thuốc cho người ta trị. Nhưng mà tìm thuốc để trị cho họ, họ có thuốc trị rồi, thì bắt đầu đó họ đồi truỵ còn hơn nữa, đừng nói tới xã hội này, họ đâu còn sợ gì nữa đâu, các con biết mà.

Thầy biết lắm. Thầy rõ lắm. Chứ đâu có thể trí tuệ của Thầy mà không nhìn thấy được cái điều này. Thầy biết nỗi đau khổ của những người bệnh đó lắm chứ. Nhưng mà tìm ra được, thì nó sẽ không ngăn chận được. Cái xã hội, loài người này nó sẽ hư hoại hết, không còn. Nó lại trở về bản chất của loài cầm thú. Vật chất lên cao thì con người trở về bản chất của loài cầm thú. Mà con thú nó còn bảo vệ được sự dâm dục của nó đến mức độ: khi nào mà nó cần, thì nó mới dâm dục, mà không cần thì không. Không có phải như con người của chúng ta đâu. Cho nên cái này là cái đau khổ nhất. Loài người có trí tuệ, mà lại vô minh. Còn con thú nó tự cái bản năng của nó, nó bảo vệ nó, nó khác hơn chúng ta. Nếu mà nó không vậy thì nó cũng chết nó.

Cho nên, các con yêu cầu cái gì thì được, chứ còn yêu cầu Thầy đi tìm thuốc để trị ba cái bệnh thời đại này, Thầy nhất định là để cái bệnh thời đại này nó dạy cho nó đáng cái đời của nó, phải không? Không phải Thầy không thương đâu. Nhưng mà nếu mà không có một cái gì mà ngăn chận, thì bây giờ pháp luật làm gì cũng không được. Nó khó như vậy đó.

Cho nên tất cả những cái làm được mà nó đem đến xã hội tốt thì làm; mà làm đem đến xã hội xấu thì không làm, đem đến con người xấu thì không làm. Cho nên mục đích của Thầy, là làm thì phải làm Giáo trình Đạo Đức Nhân Quả. Còn cái trị bệnh ấy, thầy nói thật sự ra, người nào mà biết sử dụng tâm thanh tịnh của mình mà trị bệnh, là một cái thứ thuốc không còn thứ thuốc nào hơn. Chứ còn không phải thuốc của phàm phu ở thế gian này đâu. Cho nên người mà được thuốc Thánh rồi thì đâu còn cần gì viên thuốc ở thế gian này nữa. Bây giờ không có bệnh gì hết bởi vì, Thầy nói, ăn thua là ở chỗ trị tâm bệnh của họ. Mà tâm bệnh của họ sạch sẽ thì không phải uống thuốc gì nữa hết, có vậy thôi.

Cho nên Đạo Đức Nhân Quả sẽ ra đời, để giúp cho các con có một vị thuốc trị bệnh. Mà người nào muốn trị thì uống, mà người nào không muốn trị thì cứ để bệnh mà ráng chịu. Chứ không phải không có thuốc. Đó, như vậy là con yên tâm rồi, chứ không phải là Thầy bỏ, không tìm thuốc cho họ đâu.

12- KINH ĐỊA TẠNG

(01:23:39) Phật tử 7: Kính bạch Thầy! Con xin hỏi, khi thân người vừa mới mất thì sẽ thác sanh vào một cõi lành hoặc cõi ác tùy theo cái tội, tùy theo cái nghiệp của người đó tạo tác. Nếu như vậy vừa rồi con cũng có xem qua Kinh Địa Tạng. Trong đó con thấy ngài Quang Mục là thị hiện của ngài Địa Tạng. Mà ngài Quang Mục cũng vì tình thương với mẹ mà phải bán hết gia tài, của cải để mà làm lễ cúng dường trai tăng, để hồi hướng công đức để cha mẹ thác sanh vào các cõi lành. Trong Kinh Địa Tạng như thế thì Kinh đó có thật hay là hư, thưa Thầy? Con mong Thầy hoan hỷ chỉ bảo cho tụi con biết, mô Phật.

(01:24:13) Trưởng lão: Nó thuộc về hệ thống của Đại Thừa, nó thuộc về Bà-la-môn. Cho nên nó xây dựng ở trên cái vấn đề phước báo Hữu lậu, chứ không phải là Vô lậu. Vì vậy mà những loại kinh này, thật sự nó không đúng đường lối của đạo Phật đâu. Cho nên nó nói làm chúng ta không có hiểu. Làm sao hiểu được? Nhưng sự thật ra, cũng không phải là khó hiểu đâu.

Ví dụ như ngài Quang Mục, ngài bán hết của cải, tài sản, ngài đem cúng dường trai Tăng, mong nhờ công đức của chư Tăng để hồi hướng lại cho mẹ ngài. Thì sự thật ra, không có ai hồi hướng cho mình. Mà chính bản thân của mình. Chỉ có có ước vọng, ước nguyện của mình thôi. Trong Kinh Ước Nguyện, trong Kinh Trung Bộ thì Đức Phật có dạy về bài Kinh Ước Nguyện, chỉ ước nguyện chứ không hồi hướng cho ai được hết.

Nghĩa là bây giờ Thầy có tu rồi, Thầy hồi hướng cho con cũng không được. Mà Thầy chỉ ước nguyện cho con. Ước nguyện cho con được làm cái điều lành, làm cái điều tốt thôi. Cái sự ước nguyện đó thì mới có thể được. Bởi vì mình ước nguyện cho người ta. Bây giờ mình ước nguyện cho đứa con. Con nó hư, nó đi chơi, nó không có nghe lời dạy. Mình ước nguyện, mà mình làm được điều lành gì, mình ước nguyện con mình sẽ làm được những điều lành. Cái tâm tha thiết đó, và cái nhân quả đó, nó sẽ giao cảm, nó giúp con mình trong một ngày nào đó, nó có sức tỉnh, từ đó nó sẽ đổi được con đường. Chứ không thể làm gì. Nghĩa là chỉ có ước nguyện. Cho nên vấn đề ở trong Kinh Địa Tạng là vấn đề mê tín.

Sau này Thầy có dịp thầy lôi ra mà đập cái kinh đó hết, thì các con mới thấy kinh đó đúng hay sai. Tại vì nó không có duyên, không có người hỏi, chứ mà có người hỏi, Thầy lôi ra Thầy đập hết. Nghĩa là có nhiều cái mê tín ở trong đó rất lớn mà Thầy chưa tiện nói ra. Kinh Pháp Hoa đã có người hỏi Thầy. Cho nên do đó từ cái chặt tay, chặt chân cúng dường để mà cầu phước báo, để mà cầu “kiến tánh thành Phật”, điều đó là đã được Thầy đập. Sau này các con đọc tới cuốn IX, cuốn X “Đường Về Xứ Phật”, các con sẽ thấy Thầy dạy trong Kinh Pháp Hoa. Cái cách trong đó làm cho người ta hủy hoại cơ thể của người ta, người ta không tàn tật mà bắt buộc người ta phải cụt tay, cụt chân. Có nhiều người chặt tay, có người đốt ngón tay để mà cầu pháp mà. Gọi là “Pháp thí đại thừa” chứ gì? Cho nên ngài Thần Quang, tức là Huệ Khả, chặt cánh tay để mà cúng dâng lên cầu pháp với Bồ Đề Đạt Ma chứ gì? Đó là hình ảnh của Phật gia đó mấy con. Cái Phẩm “Tựa” của Pháp Hoa, mấy con tụng rồi mấy con biết, nó dạy cúng dường nhiều cách phi đạo lý lắm. Cơ thể chúng ta để chặt ngón tay, để đốt ngón tay, để làm đau khổ. Thậm chí nó dạy chúng ta phải đốt đầu, làm chúng ta hồi hướng muốn run người. Các con biết nếu mà không nhờ quý Hòa thượng bấm ở trên đầu chúng ta, thì chúng ta thấy đau không chịu được đâu. Cho nên tưởng là chúng ta đốt đầu nhiều dấu như vậy là lên chức Hòa thượng, Thượng tọa rồi ngon lành, sự thật ra, cái này là hành xác, làm cho khổ mình chứ không sai. Phật không chấp nhận điều đó.

Cho nên có dịp mà các con hỏi Thầy thì hôm nay các con sẽ lần lượt sẽ đọc lại những cái cuốn Đường Về Xứ Phật tập IX, tập X, các con sẽ nghe những bài pháp nói về Kinh Pháp Hoa. Rồi tới đây thì chắc chắn là sẽ có người hỏi về Kinh Địa Tạng. Và đồng thời thì các con sẽ được nghe hỏi lại. Còn giải thích bây giờ thì nó không có thì giờ. Để rồi, làm cho chúng ta sáng tỏ lại, không bị mê mờ của ba cái giáo pháp này. Bây giờ còn cái gì mấy con hỏi nữa không? Nếu không thì đi ăn cơm. (cười)

13- TẬP SÁCH “ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT”

Phật tử 8: Thưa Thầy con hỏi một câu. Con cũng có được cái duyên là đọc được cái cuốn thứ bảy (VII) thôi. Cuốn thứ tám (VIII), thứ chín (IX)…​

(01:28:10) Trưởng lão: Nghĩa là cuốn thứ bảy (VII) Thầy chưa nhuận lại, vì cuốn đó Thầy giao cho con của cô Châu nó đóng, rồi Thầy in ra để mà phát ra cho những người trong Tu viện. Nay là con đọc được tới cuốn thứ VII cũng là khá lắm rồi. Nhưng mà cuốn thứ bảy VII nó chưa đầy đủ lắm đâu. Thầy còn nhuận lại đó. Cho nên sau khi nhuận lại, bây giờ thì ít hôm Thầy in cuốn VIII, rồi Thầy nhuận lại cuốn VII, để cho từ cuốn IV, cuốn V, cuốn VI, cuốn VII, cuốn VIII là một loạt này. Còn cuốn IX, cuốn X là sắp sửa. Đã đánh lên vi tính nhưng mà Thầy chưa nhuận, mới đánh bản thảo thôi. Còn cái mà nhuận lại, tức là cái Thầy đọc trên vi tính Thầy nhuận lại, mà sau đấy Thầy chỉnh lại hết.

Rồi còn trở lại từ cuốn I, cuốn II, và cuốn III cũng của mấy cháu học sinh nó đánh đó cho nên vì vậy bây giờ Thầy chỉnh lại hết. Bởi vì đĩa nó sang rồi nó gửi về Thầy, Thầy cho vô vi tính Thầy chỉnh lại tất cả hết. Sau này các con được đọc toàn bộ là mười tập Đường Về Xứ Phật. Còn bây giờ, thì thôi chỉ còn mấy con đọc cuốn IV, cuốn V, cuốn VI, rồi tiếp tục đây tới cuốn VIII.

Rồi Thầy sẽ nhuận lại hết toàn bộ mười tập này. Và đồng thời thì các con sẽ đọc cuốn Giới Đức Làm Người, Giới Đức Làm Thánh, rồi học Giáo trình Đạo Đức Nhân Quả luôn, thì coi như là bổn phận Thầy xong rồi.

14- ĂN CHAY HẠNH THÁNH

(01:30:12) Phật tử 9: Thưa Thầy, con có một ông sư, ông ấy ăn chay mấy chục năm rồi, ổng tu Tịnh Độ, mà sao ổng nóng quá, không biết cái đó là cái duyên gì vậy Thầy?

(01:30:25) Trưởng lão: Ở đây ăn chay không có nghĩa là hết nóng. Con thấy con bò, con trâu nó ăn chay không? Nhưng mà cái hồi nó cụng lộn nó cũng đánh dữ tợn lắm, phải không. Nó đâm, nó chém nhau chết đấy.

“Mười phương”, nghĩa là tâm từ mình phải phủ trùm. Vì vậy mà thấy có thịt thì không được ăn, bởi vì tâm từ mà. Họ dạy mình: “Thương yêu chúng sanh mà ăn, chứ không phải ăn chay”. Mà hễ có thịt, mà mình “thương yêu”, thì thương yêu cái gì? Con hiểu bài Kinh Jivaka chưa? Cho nên ở đây, ăn chay không có nghĩa là theo con bò. Vì vậy mà trước đạo Phật, có đạo Bà-la-môn dạy người ta ăn chay, mà ăn chay theo kiểu con bò, chứ không phải là ăn chay theo ông Phật. Cho nên ông Phật nói: “Người cư sĩ làm thịt chúng sanh mà cúng Phật và cúng chư Thánh Tăng, thì người cư sĩ có năm điều phi công đức”. Có ai dám cúng không? Đó là cái đức Phật nói thứ nhất.

Cái thứ hai, đức Phật dạy cho chúng Tỳ kheo: “Ăn không nghe, không thấy, không nghi”. Bây giờ ăn mà thấy có miếng thịt, thì mình nhất định không ăn. Là “ăn không thấy”, mà thấy thì không ăn, phải không?

Bây giờ con làm đậu hũ mà con làm giống cái đùi gà là Thầy không ăn đâu. Phải không? Thầy cũng cho đó là đùi gà, tại vì thấy nó là cái đùi gà thì có sự đau khổ trong này. Chứ không phải nói đậu hũ mà gắp mà ăn đâu. Con lấy bột, lấy gì đó con nắn, con làm giống như thịt heo, có da đàng hoàng, rồi có nạc đàng hoàng. Thầy thấy giống thịt heo nhất định không ăn. Mặc dù con làm bằng bột mì, nhưng Thầy cũng không ăn. Con lấy mì căn con xé ra con trộn gỏi làm giống như thịt gà xé, Thầy cũng không ăn. Bởi vì đây Thầy biết “thịt gà xé”, Thầy không ăn. Chứ đừng nói con làm đồ chay mà gạt Thầy.

Đó gọi là “ăn không thấy”.

“Ăn không nghe” – Bây giờ con bằm nát hết tất cả mọi cái, con làm như là đậu hũ, không có gì hết, không còn thấy thịt gà gì hết, nhưng con nói: “Trong này có thịt gà”. Thầy nghe con nói là Thầy không ăn đâu. Bất kỳ đậu hũ Thầy cũng không ăn nữa. Mà Thầy chấm nước tương, Thầy ăn muối thôi. Bởi vì nghe người ta nói có, là không ăn.

Mà bây giờ, trong món ăn con đem cúng dường Thầy, Thầy nghe mùi tanh cá này, mùi hôi thịt bò này, mùi hôi gà này, nhất định Thầy không ăn. Thầy nghi! Nghi trong này có đồ tầm bậy tầm bạ nữa, nhất định không ăn.

Cũng như bây giờ con gói bánh ít, gói bánh tét phải không, con cho một miếng mỡ trong đó, con cúng dường Thầy. Con gỡ miếng mỡ đó, Thầy không thấy miếng mỡ. Nhưng mà Thầy nghe mùi hôi mỡ, Thầy nghi nó bỏ mỡ trong này, Thầy nhất định không ăn. Con hiểu chỗ đó không? Bởi vì nghe, nghe mà Thầy nghi ở trong đó: nó có mùi này là phải có thịt.

Như vậy, đức Phật dạy: “Một vị tu sĩ ăn không thấy, không nghe, không nghi”. Mà “miếng ăn của mình - phải khởi tâm từ của mình phủ trùm tất cả hết bốn phương” lận. Cái lòng thương yêu của mình phải khắp cả bốn phương, thì không thể nào mà ăn như con bò ăn cỏ được. Còn ăn với cái tâm của chúng ta rộng lớn như vậy, mới gọi là “ăn”.

Thấy chưa, thấy ông Phật dạy chúng ta ăn chay chưa? Mà có dạy chúng ta ăn chay đâu. Ông Phật đâu có cấm chúng ta không ăn chay đâu, nhưng mà ăn sao cho đúng cách của người tu sĩ chứ. Cái đạo đức của nó “không làm khổ mình, khổ người, khổ chúng sanh” mà. Tại sao giờ mình nuốt được cái này, cái mà sự đau khổ, chết chóc của chúng sanh đây? Các con hiểu chỗ đó chưa?

Cho nên người đó họ ăn chay, niệm Phật mà bây giờ sân dữ, thì Thầy nói con bò, con trâu nó cũng sân dữ tợn; hồi mà nó sân nhau, trời ơi, nó chém cũng ghê gớm lắm chứ. Thì ông này cũng như con bò, con trâu vậy thôi chứ gì, ổng coi chừng khi chết ông cũng thành bò, trâu. Bởi vì mình ăn chay để là bò, trâu chứ không phải ăn chay để giải thoát. Còn cái này “Ăn chay để không làm khổ mình, khổ người” là ăn chay giải thoát. Mình phải hiểu chứ. Cho nên chúng ta cũng ăn chay, coi chừng không hiểu được ý nghĩa nó, mà chúng ta trở thành bò, trâu.

Cho nên đức Phật nói, có một vị ngoại đạo đến hỏi: “Con tu theo hạnh con chó. Trong giáo lý thì dạy con tu như vậy sẽ trở về cõi Phạm Thiên, có được không?” Ông Phật nói: “Tu hạnh chó thì thành chó, chứ sao lại thành Phạm Thiên được”. Phải không, mình ăn cũng giống chó, mình nằm cũng giống chó, mình ngủ cũng giống chó, cũng thói quen đó, thì mình chết thì mình làm chó chứ? Ông tu hạnh con bò, ông ăn chay ăn cỏ, ông không ăn thịt chúng sanh gì hết, thì ông cũng sẽ thành con bò, chứ làm sao ông thành Phạm Thiên được? Cái đó đâu có đúng. Ông phải sống đúng Phạm Thiên thì ông mới thành Phạm Thiên chứ. Ông không sống đúng Phạm Thiên sao mà thành Phạm Thiên. Các con hiểu chưa?

Đó như vậy cho nên người tu sai là biết liền. Thí dụ như bây giờ con ngồi con tu Thiền định. Thầy biết người này thành cây, đá. Bởi vì họ vô phân biệt rồi họ phải thành cây, đá. Cây, đá nó có phân biệt đâu. Mình tu để thành cây, đá thì tu làm gì đây? Nhưng mà, đôi mắt của Phật nhìn thấy chúng sanh tu cái đó sẽ thành cây, đá thì biết là người đó sẽ tu thành cây, đá. Người đó tu thành con bò là biết thành con bò. Người đó tu cái gì biết thành cái nấy. Bởi vì cái hạnh của họ nó chứng minh cho cuộc sống của họ. Tức là nghiệp lực của họ phải tái sanh nơi đó thôi. Bởi vì con người không có linh hồn tái sanh, mà có nghiệp lực. Hồi mình sống cái nghiệp đó, thì mình phải sanh ra cái đó chứ, các con phải hiểu. Chân lý của Phật rõ lắm. Không có sai chỗ nào đâu. Thầy nói thật sự mấy con cứ suy ngẫm đi. Đừng có tin lời Thầy, mà về suy nghĩ. Suy nghĩ rồi có đúng hay không.

Cũng như bây giờ cứ trong mỗi chút mà con giận dữ, thì mai mốt người ta nói thì con phải giận dữ chứ gì. Rồi mỗi chút con cứ nhẫn nhục, nhịn nhẫn, nhịn nhẫn, rồi xả tâm. Mai mốt người ta chửi con, con không giận, là tại vì con biết xả tâm con, con nhẫn. Như vậy con mới hết khổ. Thì cái đó là cái đúng. Cho nên, tạo cái nghiệp đó là tạo cái nghiệp không khổ, thì con sẽ giải khổ. Mà tạo cái nghiệp khác đi, thì con phải bị khổ thôi.

Cho nên đừng lấy cái này mà gọi là giải thoát. Cũng như bây giờ con cầu Phật mà con cầu Phật không đúng cách, thì con cũng đâu có giải thoát. Còn Thầy đúng cách, Thầy không cầu Phật, Thầy giải thoát: Đó là pháp thiện.

“Phật” chỉ là một danh từ để chỉ cho cái tâm chúng ta ở trong thiện pháp, sống không làm khổ mình, khổ người, thì nó là “Phật”. Còn làm khổ mình, khổ người, thì nó là không Phật. Thí dụ như bây giờ con ngồi hai chân con đau mà con không chịu xả ra, tức là con không “Phật”. Bởi vì con làm khổ con thì con làm sao con “Phật” được?

Bây giờ mấy con còn hỏi Thầy gì nữa không?

15- GIÁO TRÌNH TU TẬP CON ĐƯỜNG CỦA ĐẠO PHẬT

(01:35:37) Phật tử 10: Bạch Thầy, con xem của Thầy một số quyển sách Đường Về Xứ Phật, trong đó Thầy nói rải rác về phương pháp thiền, thành ra con xin Thầy có một giáo trình đặc biệt về thiền. Bởi vì trong đó có một số trường hợp thí dụ như Thầy nói rằng cách để mà “Diệt tầm, giữ tứ” nhưng mà Thầy không nói rõ, thành ra con không hiểu như thế nào. Có thể nào Thầy soạn một giáo trình đó để mà lưu lại cho đời sau được không? Chứ mai sau này sẽ rất khó gặp Thầy, theo như Thầy nói.

(01:36:10) Trưởng lão: Bây giờ Thầy nói như thế này. Các con biết không, bởi vì cái bộ sách Đường Về Xứ Phật là những câu hỏi của những người khác, cho nên nó không phải là giáo trình tu tập con đường của đạo Phật. Nhưng hầu như là tất cả những phương tiện, cách thức để mà tu tập, đều là cô đọng ở trong đó rất nhiều.

Nhưng các con không đủ sức để cho mình lập thành một giáo trình của nó, Thầy biết mà. Bây giờ các con đọc thì đọc, chứ lập trình từ cái dễ đến cái khó thì các con chưa biết đâu. Phải không? Cho nên hiểu biết “tu vậy vậy, nói vậy vậy” mà vô đầu thì không biết cái nào trước, cái nào sau.

Cho nên vì vậy, như hồi nãy có cư sĩ hỏi Thầy về cái ăn mà muốn ngăn chận đừng ức chế cái bụng đói của mình, thì phải lập trình cái giáo trình là phải tu tập cái gì trước, cái gì sau, từ cái hạnh sống của mình phải tập luyện như thế nào. Thì cái giáo trình đó, nó không phải là trả lời ở trong đó đâu. Vì đây là người ta muốn hỏi cái đó, nên Thầy trả lời cái đó cho người ta biết thôi. Chứ còn cái mà các con tu đó, bởi vậy tu là phải có Thiện hữu tri thức. Bây giờ muốn tu giải thoát phải không? Bây giờ vô đây phải sống vậy vậy đó, rồi phải sống như vậy, phải tập như vậy vậy, thì nó sẽ có giải thoát. Chứ còn không thể nào mà khơi khơi mà được.

Mà Thầy thì bây giờ nói chung là không có thì giờ mà ngồi đó mà hướng dẫn từng chút. Nhưng mà chắc chắn là có một ngày nào đó, các con sẽ đọc một cái giáo trình tu tập của các con từ dễ đến khó, từ bắt đầu, để mà luyện tập. Vì cái Đạo Đức Nhân Quả chưa ra đời. Cho nên nó là cái bước đầu của các con.

Bây giờ dạy các con mà Đạo Đức Nhân Quả các con chưa biết, thì các con tu chỉ ức chế tâm thôi. Các con phải biết cái đạo đức - mình phải sống sao cho đúng đạo đức. Từ cái đạo đức đó người ta mới dạy mình cách thức tu đi sâu. Chứ còn nếu mà chưa có biết đạo đức gì hết, tức là mình chưa có biết cái căn bản sống đối xử với người ta như thế nào, bây giờ nhào vô chùa tu, thì ức chế mình rồi. Phải không, các con hiểu điều đó không?

Mình sống đạo đức, mọi người đều vui hết, mình không làm cho gia đình mình buồn gì hết, thì đó là mình là người có đạo đức “không làm khổ mình, khổ người” rồi. Bây giờ vô chùa người ta dạy mình bắt đầu tu đây là mình tu để ly dục, ly ác pháp mà, đi vào cái Sơ Thiền rồi. Đạo Đức Nhân Quả mà chưa có mà muốn Sơ Thiền, thì Sơ Thiền sao nổi?

Bây giờ các con là chỉ những người muốn Thiền Định, cho nên hỏi Thầy, Thầy mới nói cái đúng của Phật, cái không đúng của Phật thôi. Chứ còn Thầy dạy thật sự ra, phải là cái Giáo trình Đạo Đức. Các con mới học, rồi từ đó các con phải sống đạo đức như thế nào, gần gũi Thầy mới thấy những gương hạnh đạo đức của Thầy là cái gương sống để các con bắt chước. Cái thứ hai Thầy mới dạy. Bởi vì Thầy sống đúng đạo đức, Thầy mới dạy các con những gương hạnh đạo đức. Từ đó các con mới thấy, cuộc sống của mình đối xử không có khổ mình, khổ người.

Bây giờ nó mới tiến tới cái giai đoạn nữa, là bây giờ mới thật sự là đóng thất, vô đó Thầy dạy các con tu để ly dục, ly ác pháp để nhập Sơ Thiền. Chứ bây giờ các con muốn Sơ Thiền ngay liền không có được đâu. Cho nên các con biết cái đường đi, nó không phải đơn giản. Đạo Đức làm người chưa có, mà các con muốn làm Thánh nữa thì thôi, ông Thánh đó chắc lâu đó. Phải không, các con hiểu chưa?

Đó, bây giờ những cuộn băng này đừng cho ai nghe lại, họ động tâm lắm đó. Họ tu tầm bậy tầm bạ, rồi họ thấy rối họ chới với, họ không biết cái đường nào mà tu: “Ông thầy ổng nói kiểu này thôi chắc mình chết; đạo đức nhân quả mình cũng chưa biết sao nữa đây, mà ổng nói kiểu này nghe vầy thì thôi, chắc tiêu rồi”.

Các con hiểu chưa, bây giờ hoàn toàn nói về Đạo Đức Nhân Quả. Các con biết nhân quả đó thế nào chưa, các con chưa biết cái nhân quả sao hết. Thầy phải dạy, các con mới biết hoàn toàn, đó sẽ đưa đến cái quả gì. Rồi vì vậy mình phải giữ như thế nào, để mà sống mà đối xử với người ta, cái nhân quả mình phải tốt “không làm khổ mình, khổ người”.

Khó lắm mấy con, chứ không phải dễ đâu. Bởi vì con đường theo đạo Phật coi vậy chứ phải thông suốt dữ lắm. Rồi học, rồi tập, rồi sống, rồi xem xét từng phút, từng giây để rồi mình sửa mình lại, nó mới đúng đạo đức nhân quả. Rồi từ đó thì mới được thôi.

Chứ còn hiện giờ, mấy con đọc Kinh sách Thầy để biết được cái sai, cái đúng của đạo Phật đã, cái đó đã. Để nó dựng mình trên một cái niềm tin của mình - con đường của Phật như thế nào.

Chứ bây giờ các con đang ở trong một cái đám mây mờ nó che khuất cả những cái chân chính rồi, các con không thấy được cái chân chính của đạo Phật. Bây giờ các con đọc sách Thầy, các con có thấy được chút cái chân chính nào của đạo Phật ở đó không?

(01:40:40) Bây giờ khi nào mà đọc hết cái bộ Giáo trình Đạo Đức Nhân Quả rồi, các con mới thấy rằng đạo Phật xây dựng đạo đức rất cụ thể. Tuyệt vời lắm chứ không phải thường đâu. Mà chỉ có bài kinh ngắn gọn trong Kinh Trung Bộ, bài Kinh Kandaraka đức Phật nói có bốn hạng người. Thầy nói, đức Phật dạy đạo đức không nói đạo đức mà. Cũng như dạy chúng ta ăn chay không nói ăn chay mà. Mà nói những ý nghĩa của sự ăn chay, các con hiểu ông Phật hay lắm. Mà dạy đạo đức cho con người thì đức Phật nói thế này: “Trong thế gian chúng ta có bốn hạng người. Hạng người thứ nhất là làm khổ người”. Chúng ta hay làm khổ người lắm, phải không? “Hạng người thứ hai làm khổ mình”. Mình không làm khổ người ta, mà cứ làm khổ mình. Như mấy con bây giờ muốn đi tu là làm khổ mình đó. “Hạng người thứ ba này là vừa làm khổ mình vừa làm khổ người”. Muốn đi tu cái bỏ đùng đùng cái đi tu, vợ con bỏ kệ nó. Trời, cái đó là làm khổ mình mà khổ người nữa. Đi tu mà mình biết cách được không? Nhưng mà ở nhà bỏ vợ, bỏ con. Con còn nhỏ vậy mà cũng bỏ đi nữa. Nói ông Phật hồi đó cũng vậy chứ gì? Ờ, mấy người muốn làm Phật sớm cho nên làm cái chuyện phi đạo đức này. Chỉ có hạng người thứ tư là đức Phật chấp nhận: “Không làm khổ mình, khổ người”.

Đức Phật dạy đạo đức hay thật. Chỉ đem so sánh một thực tế trong cuộc sống của chúng ta có bốn hạng người đó như vậy. Nhưng mà hạng người “Không làm khổ mình, khổ người” thì không có; đức Phật chấp nhận, nhưng mà cái hạng người đó chúng ta không có. Các con thấy có không?

“Làm khổ mình” có này. “Làm khổ người” có này. “Vừa làm khổ mình, vừa làm khổ người” có. Mà cái hạng người “Không làm khổ mình, khổ người” thì không có. Vậy thì phải học cái đạo đức nào để mà “không làm khổ mình, khổ người”? Các con thấy rõ chưa, đức Phật dạy đạo đức mà, đâu có dạy đạo đức quân tử tam cang ngũ thường - nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Đó là đạo đức quân tử, đạo đức anh hùng. Còn cái này không có anh hùng, mà giải thoát, cho nên Thầy mới nói là Đạo Đức Giải Thoát - đạo đức không làm khổ mình, khổ người.

Bây giờ hiểu rồi phải không? Các con sẽ lần lượt có đủ duyên các con còn sẽ học được những cái đạo đức mà Thầy đã viết.

Các con có duyên, các con đã đọc được bộ Giới Đức Làm Người, thì các con đã thấy đức Phật dạy từ cái đức vệ sinh, từ cái đức hạnh đi đường, tất cả mọi đức hạnh ở trong bộ Giới Đức Làm Người. Cách đây 2543 năm mà đức Phật dám dạy về vệ sinh của chúng ta mà gọi là đức hạnh.

Đức Phật dạy chúng ta, cấm chúng ta không được leo. Là tại vì sao? Leo mà ôm cái cây leo là Đức phật nói là “súc sanh”. Phải không, có phải con thú nó leo không? Nhưng mà dạy chúng ta phải bắc cây thang, để rồi chúng ta leo. Con người phải có thang leo, chứ chúng ta leo lầu mà không lẽ ôm cột kèo lên trên đó đâu. Cho nên chúng ta làm thang rồi chúng ta đi thôi. Như vậy nó có nguy hiểm không? Đâu có nguy hiểm. Mà cái hành động đi lên cây thang như vậy nó có phải là cái hạnh của chúng ta không? Hay là chúng ta ôm cái cây mà trèo lên là cái hạnh? Tức là cái hạnh của con thú, chứ không phải cái hạnh của con người. Các con thấy chưa, từ cái leo cây mà đức Phật đã cấm chúng ta rồi, đã dạy đạo đức chúng ta rồi.

Cho nên cái ăn mặc của các con này, từ cái ăn mặc mà các con lôi thôi, là đức Phật đã cho là vô đạo đức rồi. Ăn mặc cho đàng hoàng, nề nếp. Các con thấy đó là những đạo đức mà trong bộ Giới Đức Làm Người - một trăm giới Thức Xoa Ca La Ni đó. Nhưng mà nó chưa nói hết tất cả những hành động của nhân quả. Đây là chỉ mới dạy đạo đức thôi.

Các con đi đường mà đi song song hai người là đức Phật cấm rồi đó. Đó là làm cản trở giao thông. Thì bây giờ không ngờ là luật giao thông. Không ngờ ngày xưa đức Phật lại dạy Đạo Đức Giao Thông.

Các con thấy hay không? Có ai mà biết được như vậy không? Mà bây giờ chỉ có Thầy triển khai các con, có thấy người ta mà triển khai cái này dạy các con không? Mà ông Phật đã dạy rồi. Chứ đâu phải là Thầy mới chế ra đâu. Thầy đâu có chế cái gì. Cái gì của ông Phật, ông Thầy ông ấy cũng bới ra ấy nhỉ? Thầy chỉ lôi lại của đạo Phật thôi, không có cái gì của Thầy hết. Bởi vì Thầy cũng là đi vào cái giáo pháp đó, mà được sự giải thoát. Cho nên bây giờ Thầy lôi cái giáo pháp đó, để cho các con tu cái này, tu cái này.

…​Cái gì hả con? À tới giờ cơm rồi phải không? Thôi bây giờ mấy con ăn cơm. Rồi mấy con chiều về phải không? Còn duyên thì gặp nhau. Trái đất còn tròn mà, đâu có mất. Mà nếu mà lỡ mà Thầy có chết thì các con chết cũng vẫn gặp Thầy ở trong Niết Bàn.

HẾT BĂNG

Pháp Âm - 1999 - THIỀN CỦA ĐẠO PHẬT

1999 - THIỀN CỦA ĐẠO PHẬT

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Phật tử

1- NHẬP SƠ THIỀN

(00:01) Muốn nhập Sơ Thiền, như hồi nãy giờ Thầy đã nói là phải tâm ly dục ly ác pháp. Ly dục ly ác pháp thì tâm không phóng dật, tâm không phóng dật tức là tâm giải thoát. Đó là giải thoát được những gì? Giải thoát được đời sống của chúng ta.

Thường thường trong các nhà học giả, dạy đến chữ “SANH” thì người ta nghĩ đến chữ sanh đẻ chứ người ta không nghĩ đến sanh là cuộc sống, cho nên trong Thập Nhị nhân duyên Phật có dạy: “Chúng ta từ chỗ hữu, thủ mới có sanh”. Hữu là gì? Hữu là có. Thủ là giữ lại. Khi mà giữ lại, có mà giữ lại thì nó mới có cái đời sống của chúng ta, cho nên chữ “sanh” ở đây là sanh y, nương tựa để mà sống chứ không phải sanh là sanh đẻ. Trong kinh A hàm và trong kinh Nikaya chỗ này cũng dạy có nghĩa là sanh đẻ, nên theo tôi thiết nghĩ qua sự tu tập chúng tôi có kinh nghiệm vì Đức Phật đã dạy câu kinh rất rõ ràng.

Một vị tu sĩ mà muốn đi theo Đạo Phật tu hành thì “cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa”. Đó là những danh từ chỉ cho những hành động một người muốn tu theo Đạo Phật thì phải làm xấu mình không có trang điểm, không có làm đẹp đẽ nữa, nghĩa là cạo bỏ râu tóc là làm cho mình xấu không còn đẹp.

Đắp áo cà sa không phải là những chiếc áo hàng đắt tiền như quý Thầy hiện giờ mà là những miếng vải, những mảnh vải đắp thây ma, quăng ở đồng mả. Lượm rồi giặt gọi là y phấn tảo, ghép lại thành một tấm vải lớn để rồi người tu sĩ vấn chiếc y đó gọi là cà sa. Chứ không phải cà sa như chúng ta cắt từng miếng vải nhỏ ra, trong khi miếng vải lớn mà cắt nhỏ ra rồi kết lại tạo thành một chiếc y bằng những hàng vải đắt tiền đó là những cái sai của chúng ta. Vì bỏ hết cuộc đời mà còn một chiếc y đẹp vẫn là có sự tham đắm và dính mắc.

(02:28) Cho nên trong thời Đức Phật lượm vải thây ma, vải bỏ mà kết lại làm y mặc để thực hiện hạnh giải thoát của mình. Do đó sanh y là như đồ bỏ không còn có nữa, vì thế mà sanh y tức là những vật dụng cần thiết cho đời sống chúng ta hàng ngày chỉ còn ba y, một bát mà thôi. Nếu người tu sĩ theo trong giới luật nếu người tu sĩ thừa y, thừa bát là không đúng hạnh của người tu sĩ, phải xả bỏ nếu không xả bỏ thì sẽ bị tội đọa.

Như vậy rõ ràng, chúng ta sống đầu tiên là “cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa” là làm chúng ta không còn đẹp nữa. Xuất gia sống không nhà cửa, không gia đình, không có nhà cửa không có chùa to tháp lớn, không có Phật lớn, mà chỉ ở tạm với những người tín thí cúng dường Tịnh Xá, thất. Rồi trên bước đường du tăng rày đây mai đó, ở hang, ở bóng cây, ở chòi tranh, vách lá bất kỳ nơi đâu chúng ta đều dừng chân nghỉ được cả, ở được cả. Tùy theo sự cúng dường của Phật tử, của tín thí. Có nhà cho chúng ta ở nhà mà không thì chúng ta ở bóng cây, hang đá, đó là hạnh của du tăng khất sĩ, hạnh của người tu giải thoát.

Cho nên chúng ta bứt sạch tất cả sanh y. Mà đoạn dứt sanh y thì không còn sanh già bệnh chết. Mà đoạn dứt sanh y thì thủ không có, thủ không có thì hữu không có; hữu không có thì ái không có, cho nên ái không có cho tới cuối cùng thức cũng không có, tới cuối cùng thì vô minh cũng quét sạch.

(04:53) Do vì vậy mà chúng ta biết từ duyên sanh mà chúng ta đi vào, cho nên Phật dạy: “cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa xuất gia sống không nhà cửa, không gia đình” là vậy, chớ không gì khác hơn. Tức là Đức Phật muốn chúng ta đi vào trong Thập nhị nhân duyên mà phá cái duyên đầu tiên của nó tức là sanh y, để thực hiện đời sống Phạm hạnh của một vị tu sĩ bứt sạch tất cả các dây triền phược trói buộc để chúng ta thực hiện một đời sống giải thoát hoàn toàn, do vì vậy mà chúng ta mới thực hiện ly dục ly ác pháp. Ngũ Triền Cái và thất kiết sử trong tâm ta mới bứt sạch, mới diệt sạch, chúng ta mới thực hiện được đạo giải thoát. Nếu không được vậy thì Sơ Thiền không thể nào mà chúng ta thực hiện được.

Trong Bốn Thánh Định của Phật, Sơ Thiền là pháp môn khó tu nhất, vì phải sống đúng, sống đời sống Phạm hạnh, không được sai và còn lập những đức hạnh ăn, ngủ, độc cư, tùy thuận, nhẫn nhục, bằng lòng thì chúng ta mới thực hiện được Sơ Thiền, không đơn giản. Nhưng đến Nhị Thiền, Tam Thiền và Tứ Thiền thì rất đơn giản, không có khó khăn, không có mệt nhọc.

Khi tâm ly dục ly ác pháp, tâm không còn phóng dật nữa thì tâm đã thanh tịnh, đời sống chúng ta đã làm chủ được đời sống của chúng ta, hoàn toàn chúng ta bất động trước các pháp, trước các thọ của chúng ta. Vì vậy mà Sơ Thiền còn có cái tên gọi là Bất Động Tâm Định. Người nhập được Sơ Thiền là người nhập được Bất Động Tâm Định của mình, cho nên giải thoát được đời sống của mình trước các pháp. Ai chửi không giận hờn, ai khen cũng không mừng, ai cúng dường tiền bạc, châu báu cũng không chấp nhận, chỉ tùy duyên mà độ chúng sanh, chỉ tùy duyên mà đi khất thực hóa duyên độ người hữu duyên với mình mà thôi, cho nên Sơ Thiền là mấu chốt để chúng ta đi vào thiền định của Đạo Phật.

2- NGŨ LỰC LÀ GÌ?

(07:28) Vì vậy Đức Phật có nhắc trong ngũ lực. Nói đến Ngũ lực Đức Phật xác định Định lực là vì Đức Phật xác định Định lực là Bốn Thiền, tức là Tứ Thánh Định. Do đó con đường của Đạo Phật qua bài Ngũ lực thì chúng ta đã thấy rất rõ ràng.

Nói về Tín lực - lòng tin của chúng ta thì có Tứ Bất Hoại Tịnh. Tứ Bất Hoại Tịnh là Pháp môn gì? Tin Phật, Tin Pháp, Tin Tăng và Tin Giới. Vì lòng tin không lay chuyển cho nên chúng ta phải lập sống đúng như hạnh của Đức Phật, phải theo pháp của Phật mà không được tu sai cho nên gọi là tin Pháp, phải nương tựa vào các bậc Thánh Tăng là những người giữ gìn Phạm hạnh nghiêm túc, lấy gương hạnh của các bậc Thánh Tăng là đệ tử của Phật ngày xưa mà làm gương hạnh cho mình gọi là Tin Tăng.

Còn hiện giờ thì chúng ta không thể tin Tăng được, vì Tăng danh, Tăng lợi, Tăng sống trong danh lợi. Chùa to, tháp lớn không thể nào mà chúng ta nương vào những vị tăng này mà tin họ được. Chúng ta tin giới vì giới là đức hạnh, đức hạnh làm người, đức hạnh làm thánh nhân cho nên chúng ta tin giới và quyết định sống đúng những đức hạnh đó, do đó gọi là Tứ Bất Hoại Tịnh, làm cho thân tâm chúng ta thanh tịnh mà không hoại diệt sự thanh tịnh. Gọi là Tín Lực.

Tấn Lực: là pháp ngăn ác diệt ác, sang thiện tăng trưởng thiện, do đó chúng ta hàng ngày phải siêng năng tu tập pháp này cho nên gọi là Tấn Lực. Tấn Lực là cái sự siêng năng, tinh tấn hết sức mình trong pháp này để thực hiện được tâm ly dục ly ác pháp. Nếu không siêng năng trên Tấn Lực này thì khó mà thực hiện được đạo giải thoát của Đạo Phật, khó mà nhập được Sơ Thiền. Cho nên Tấn Lực là một pháp môn cần thiết cho mỗi tu sĩ của Đạo Phật khi bước chân vào đạo luôn luôn lúc nào cũng phải thực hiện nơi thân và tâm của mình “ngăn ác, diệt ác; sanh thiện tăng trưởng thiện”.

(10:02) Niệm lực là gì? Đức Phật xác định Niệm Lực là Tứ Niệm Xứ. Tứ Niệm Xứ là “trên thân quán thân”. Như lúc nãy Thầy đã nói cách thức chúng ta ngăn ác diệt ác bằng trên thân quán thân tức là bằng pháp Tứ Niệm Xứ. Ở Niệm lực, Đức Phật xác định là Tứ Niệm Xứ. Tứ Niệm Xứ là pháp môn hộ trì, thực hiện cho pháp Tứ Chánh Cần. Nếu không có Tứ Niệm Xứ tức là không có bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp mà tu tập thì không thể nào thực hiện Tứ Chánh Cần được. Cho nên muốn thực hiện Tứ Chánh Cần không thể nói rằng ngăn ác diệt ác bằng một danh từ suông được mà phải bằng pháp Tứ Niệm Xứ. Vì có tu tập trên Bốn niệm này, bốn chỗ xứ sở này thì chúng ta mới thực hiện được thân tâm ly dục ly ác pháp.

Trên Tứ Niệm Xứ thì như Thầy đã dạy ở trên là: trên thân quán thân tu về nhân tướng, đó là Định Vô Lậu. Tu về hành tướng nội là hơi thở, Định Niệm Hơi Thở; về hành tướng ngoại tức là Tĩnh giác chánh niệm định. Đó là ba cái loại định ngăn ác diệt ác để hỗ trợ cho Tứ Chánh cần thực hiện Định tư cụ.

Nói về Định Lực thì Đức Phật đã xác định là Tứ Thánh Định tức là Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam thiền, Tứ thiền. Cho nên chúng ta thực hiện từ Giới luật cho đến Tứ Chánh Cần, Tứ Niệm Xứ đều là thực hiện ngăn ác diệt ác, ly dục ly ác pháp, diệt ngã xả tâm. Đó là những pháp cần thiết cho sự tu tập của con người muốn tu tập thiền định của Đạo Phật. Cho nên bốn thiền gọi là Tứ Thánh Định hay còn gọi tên nó là Phạm Trú, hay gọi là Như Lai Trú, những danh từ đó Đức Phật đã từng gọi trong kinh Nguyên thủy Nikaya. Những danh từ đó xác định đó là những loại thiền định của bậc Thánh không phải bậc thường mà tu tập được.

Chúng ta nhập Sơ thiền như lúc nãy là chúng ta làm chủ được đời sống của chúng ta gọi là Sanh. Như trong kinh Thập Nhị Nhân Duyên. Sanh là một duyên trong Mười hai nhân duyên. Đoạn dứt được duyên Sanh là đoạn dứt được mười hai nhân duyên trong Thập Nhị Nhân Duyên.

3- NHẬP NHỊ THIỀN VÀ TAM THIỀN

(13:04) Nếu chúng ta nhập Nhị Thiền, chúng là làm chủ được gì? Chúng ta làm chủ được già. Tại sao vậy? Tại vì nơi ba chỗ hoạt động của nhân quả đó là thân, khẩu và ý ngưng hoạt động hoàn toàn. Cho nên lúc bây giờ người muốn nhập Nhị Thiền không phải ngồi ức chế tâm mà nhập Nhị Thiền bằng cách ra lệnh dùng pháp hướng tâm Như Lý Tác Ý: “tịnh chỉ tầm tứ nhập Nhị Thiền” thì ngay đó tâm thanh tịnh của chúng ta tự điều khiển sẽ nhập ngay Nhị Thiền, tâm không còn tầm tứ.

Tầm tứ diệt thì người đó nhập Nhị Thiền do định sanh hỷ lạc, bây giờ do định sanh hỷ lạc chứ không phải ly dục sanh hỷ lạc. Trạng thái của định này mới chính là chúng ta có thiền định một cách dễ dàng, một cách không mệt nhọc không cần ngồi nhiều, không cần ngồi ức chế tâm, không cần ngồi tập trung cao, không cần gom tâm mạnh mà chỉ cần pháp hướng tâm. Chỉ nhắc: “tầm tứ tịnh chỉ nhập Nhị Thiền” thì ngay đó tâm chúng ta đã diệt tầm tứ và nhập Nhị Thiền.

Kế đó Phật dạy nhập Tam Thiền thì phải ly hỷ, trú xả. Hỷ là gì đây? Hỷ là năm, sáu loại tưởng hỷ. Mỗi trạng thái của tưởng đều luôn lưu xuất ra làm chúng ta có cảm giác vui mừng của dục thế gian. Cho nên chúng ta phải lìa nó ra, xa lìa nó ra, vì vậy mỗi trạng thái của hỷ tưởng như chúng ta thấy ánh sáng hào quang chúng ta ngỡ tưởng đó là mình đã tu chứng, có hào quang ánh sáng, hoặc thấy Phật, hoặc thấy hoa sen, hoặc thấy cõi Cực Lạc, điều đó là do tưởng pháp mà ra, không phải sự thật chân chính. …​ (không nghe rõ) muốn được chúng ta nhận xét như chúng ta đang Thiền Định mà chúng ta nghe âm thanh trong tai, nghe tiếng niệm Phật, nghe Phật dạy, nghe Tổ dạy, hoặc nghe Chư Phật thuyết pháp trong tai ta điều đó là thinh tưởng; hoặc nghe tiếng nổ trong đầu chúng ta; hoặc nghe tiếng kêu vo vo; hoặc nghe tiếng thì thầm, tất cả đều là do thanh tưởng mà ra.

(16:03) Người đang ngồi thiền mà nuốt nước bọt vào cổ nghe cảm giác nghe ngọt đó là chúng ta gặp vị tưởng chứ không phải là Cam Lồ, người hiểu Cam Lồ là người sai.

Ngồi thiền mà nghe mùi hương thơm tưởng đó là chúng ta đã đạt được những gì của Thiền Định nhưng không ngờ hương thơm đó do Hương tưởng mà ra.

Ngồi Thiền mà hiểu được lời Phật dạy, kinh sách, công án, gọi là tiểu ngộ, đại ngộ hay là hoặc triệt ngộ, thông suốt tất cả những công án và những câu dạy trong kinh Đại Thừa cho rằng đó là trí tuệ của chúng ta, sự thật đây là chúng ta đã gặp pháp tưởng. Người gặp pháp tưởng bản ngã to lớn thường thích thuyết pháp, gặp ai đem sự hiểu biết này trình bày nói Pháp. Cho nên những bậc tôn túc của chúng ta thường bị rơi vào Pháp này. Vì rơi vào Pháp này cho nên các ngài luôn thích thuyết pháp, nay đọc bài kinh này giảng theo kiểu tưởng giải của mình, mai đọc bài kinh khác giảng theo tưởng giải của mình khiến cho mọi người nghe thì có lý nhưng thực hành thì chẳng đến đâu, đó là các ngài đã gặp pháp tưởng.

Đó là 6 loại ma mà trong Tam Thiền Đức Phật dạy chúng ta phải ly nó ra, không nên chấp nó, phải “im lặng như thánh”, không được đem những pháp này giảng người khác vì chúng ta chưa làm chủ được sanh già bệnh chết, chưa ly được dục, chưa ly được ác pháp. Sơ Thiền còn chưa nhập được mà bây giờ nói pháp dạy người thì thử hỏi làm sao đúng được.

(18:09) Tại sao chúng ta biết rằng các vị này chưa ly được dục, tại vì các vị còn ăn uống phi thời, còn đắm mê những danh lợi, còn ham thích cảnh đẹp đẽ, sang giàu, còn thích chùa to, Phật lớn, điều đó là các ngài bị lầm tưởng do tâm của các ngài đã gạt. Các ngài nghĩ rằng đó là các ngài làm Phật sự, để cứu độ chúng sanh nhưng không ngờ đó là tâm danh, lợi của các ngài đã bị chôn vùi trong pháp tưởng.

Cho nên người tu hành đến Tam Thiền là mau mau phải xả tất cả những các pháp tưởng này ra, khi mà xả các pháp tưởng này thì người tu thiền không còn mộng mị chiêm bao nữa, cho nên các thiền sư Đông Độ thường mộng mị chiêm bao cho nên các ngài còn bị pháp tưởng.

Người tu thiền đến Tam Thiền là không còn chiêm bao, coi như là ly tất cả những trạng thái hỉ tưởng, ly tất cả tưởng thức cho nên không còn mộng mị nữa. Người tu đến thiền định của Phật mới thấy rõ được mộng mị còn là người đó bị pháp tưởng. Sau khi ly được hỉ xong thì chúng ta tiếp tục xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh để đạt được, để nhập Tứ Thiền.

5- NHẬP TỨ THIỀN

Muốn nhập được Tứ Thiền cũng không phải khó khăn gì cả, chúng ta chỉ cần ra lệnh là sẽ xả tất cả những điều mà trong kinh đã dạy, ra lệnh gì chúng ta chỉ cần ra lệnh: “Tịnh chỉ hơi thở, hơi thở ngưng nghỉ” thì ngay đó xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh, hoàn toàn đánh thức tâm thức của chúng ta. Lúc bấy giờ sự hiểu biết của chúng ta nó không còn ở sắc thức, không còn ở tưởng thức mà cái biết của chúng ta bây giờ mới gọi là tâm thức. Vì từ lâu ba cái thức này chỉ có tâm thức là đang ngủ ngầm không hoạt động. Còn sắc thức và tưởng thức hoạt động, cho nên bây giờ chúng ta đã nhập tới Tứ thiền.

(20:26) Không tịnh chỉ được hơi thở thì không thể nào mà nhập Tứ thiền được, cho nên những danh từ gọi là xả hỷ, xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh, những danh từ đó chỉ là những danh từ suông mà thôi. Cho nên Phật khi nói Tam thiền thì nói ly hỷ, mà nói ly hỷ tức là một danh từ suông để chúng ta biết ly hỷ chứ chúng ta không biết cách thức nào mà ly hỷ. Vì thế muốn ly hỷ thì chúng ta phải tịnh chỉ hỷ tưởng hay hoặc là tịnh chỉ tưởng thức, thì lúc bấy giờ tưởng tịnh chỉ thì hỷ sẽ ly.

Cũng như nói Tứ thiền mà nói, xả hỷ, xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh thì đó là những danh từ chứ không thể nào mà nói xả là chúng ta xả được, mà chúng ta chỉ tịnh chỉ hơi thở thì sẽ xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh. Như vậy Tứ Thiền phải có một đạo lực như thế nào mới nhập được nó, cho nên tâm bất động, thân bất động.

Khi thân tâm thành một khối định, thân tâm bất động thì lúc bấy giờ chúng ta hướng đến Tam Minh, tức là dẫn cái tâm nào đến Tam minh. Tức là dẫn Tâm Thức của chúng ta chứ không phải dẫn ý thức hay hoặc là lục thức mà đến Tam minh được. Cái hiểu biết của quý vị hiện giờ đang ngồi trước mặt Thầy đây là cái hiểu biết của ý thức, của nhãn thức, của nhĩ thức, của tỉ thức, của thân thức chứ không phải cái hiểu biết của tâm thức. Còn cái hiểu biết của quý vị trong giấc mộng chiêm bao là cái biết của tưởng thức, chứ không phải cái biết của tâm thức cho nên dẫn tưởng thức đi về Tam Minh cũng không được mà dẫn sắc thức tức là ý thức của quý vị đi về Tam Minh cũng không được chỉ có dẫn tâm thức của quý vị mới về Tam minh mà thôi.

(22:48) Khi nhập được Tứ Thiền, thân định trên tâm, tâm định trên thân thì quý vị mới có đủ khả năng dẫn tâm về Tam Minh. Đầu tiên, chúng ta hướng tâm đến Túc Mạng Minh một đời kế tiếp đời nay chúng ta sẽ thông suốt và thông suốt tất cả các đời trong quá khứ của quý vị. Khi chúng ta dẫn tâm đến Tam Minh mà thông suốt được nhiều đời nhiều kiếp trong quá khứ của chúng ta thì chúng ta có thể dẫn tâm mình trở lại cách đây 2543 năm để nghe Đức Phật thuyết pháp những bài kinh như bài kinh Jivaka, như bài kinh Xuất Tức Nhập Tức, như những bài kinh khác trong kinh Nikaya thì chúng ta vẫn nghe Đức Phật Thích Ca thuyết giảng rõ một một, tiếng nói của Phật Thích Ca rõ ràng trong quá khứ, còn đó.

Cho nên không những chúng ta dẫn tâm mình, biết Túc Mạng của mình mà còn dẫn tâm mình nghe được lời thuyết giảng của Đức Phật ngày xưa, cho nên tất cả những kinh sách của Phật đúng, sai chúng ta đều biết rất rõ. Các Tổ thêm, bớt như thế nào chúng ta đều thông suốt không có chỗ nào mà chúng ta không thông suốt, vì lúc bấy giờ chúng ta dẫn tâm về Tam Minh tức là Túc Mạng Minh thì chúng ta sẽ nghe được Đức Phật thuyết giảng bài kinh trong lúc đó với tất cả chúng Tỳ kheo và người thưa hỏi Phật bài kinh đó như thế nào? Chúng ta đều nghe và thấy rất rõ những vị đó. Như các vị đang ngồi trước mặt Thầy mà nghe Thầy thuyết giảng, cho nên một người mà nhập được Tứ Thiền thì mới dẫn được tâm đến Tam Minh.

Khi thực hiện được Túc Mạng Minh rồi thì chúng ta thực hiện Thiên Nhãn Minh. Túc Mạng Minh có nghĩa là tâm chúng ta không còn thời gian, không còn trong thời gian chi phối được, dẫn tâm đến Thiên Nhãn Minh tức là tâm chúng ta không bị không gian còn trải dài, vì vậy bất kỳ nơi đâu chúng ta đều nghe thấy rất rõ ràng đối với mọi người. Cho nên Thiên Nhãn Minh dùng nó thì ngay đây chúng ta cũng đều thấy biết, như Thầy đang ngồi trước mặt quý Phật tử mà nhìn quý Phật tử, người già, người trẻ, trẻ con đều thấy rõ ràng như trước mặt chúng ta vậy.

(25:37) Bây giờ Thiên Nhãn Minh, chúng ta đã dẫn tâm đến Thiên Nhãn Minh xong thì chúng ta lại trở về hướng tâm đến Lậu Tận Minh. Lậu Tận Minh là chúng ta thông suốt nguồn gốc sanh tử luân hồi của chúng sanh và của chính mình.

Cho nên người có Túc Mạng Minh, người có Lậu Tận Minh là người chấm dứt sanh tử luân hồi, mặc dù chúng ta nhập Tứ Thiền làm chủ được sự sống chết của thân, nhưng không thể chấm dứt được sự tái sanh luân hồi vì nguyên nhân sanh tử luân hồi là nghiệp lực do hành động thiện ác của chúng ta mà Đức Phật gọi là lậu hoặc.

Cho nên khi mà hướng tâm đến Lậu Tận Minh để mà quét sạch được nghiệp lực này, cho nên nghiệp lực này không còn đi tái sanh. Nghiệp lực tái sanh chứ không phải chúng ta có thần thức, có linh hồn, có Phật tánh mà đi tái sanh, mà chỉ có hành động thiện ác của chúng ta tạo thành một nghiệp lực, từ đó nghiệp lực tương ưng với những nghiệp lực nhân quả của kẻ khác mà chúng ta tiếp tục tái sanh.

Chúng ta phải hiểu con người từ đâu sanh? Con người từ nhân quả sanh ra, rồi chúng ta sống trong nhân quả cuối cùng chúng ta chết về nhân quả, luôn luôn lúc nào chúng ta cũng trong cái định luật nhân quả mà không ra khỏi luật nhân quả.

Bằng chứng hiện giờ quý vị đang sống trong nhân quả mà không hay biết, cho nên Đạo Phật có một đạo đức gọi là Đạo Đức Nhân Quả. Vì Đạo Đức Nhân Quả hướng dẫn chúng ta hành động các thiện pháp, diệt trừ các ác pháp. Do hành động các thiện pháp mà chúng ta hưởng một đời sống an lạc thanh thản đầy đủ những phước báo. Còn nếu chúng ta không hiểu nhân quả cho nên chúng ta vô minh, si mê chạy theo sự tham mê của dục lạc thế gian tạo ra nhiều pháp ác từ đó chúng ta thọ lấy những sự đau khổ.

(28:09) Muốn được vậy thì chúng ta phải nỗ lực thực hiện, phải đạt đến Lậu Tận Minh mới chấm dứt được nguồn tái sanh luân hồi mà mỗi con người ai cũng có nhân quả đó. Ai cũng có nghiệp lực đó, không làm sao tránh khỏi, vì thế chúng ta tiếp tục mãi mãi trong đường sanh tử luân hồi 6 nẻo khổ đau, từ kiếp này sang kiếp khác mà không bao giờ cùng tận.

Duy chỉ có pháp môn Giới - Định - Tuệ của Phật mới xác định được chúng ta làm chủ bốn sự đau khổ này và chấm dứt sự tái sinh luân hồi giúp chúng ta thoát khỏi sự đau khổ của kiếp làm người. Do như vậy những pháp quý báu như vậy thì chúng ta phải cố gắng thực hiện để không phí uống một đời: “Được thân người là khó, được chánh pháp còn khó hơn” thế chúng ta đã được thân người mà được nghe chánh pháp của Phật tức là Giới - Định - Tuệ.

Hầu hết như quý Thầy đã thấy, hiện giờ người ta cũng nói Phật Pháp nhưng tu mãi chẳng đến đâu được, chẳng làm chủ sanh già bệnh chết được thế mà Phật Pháp là như thế nào, cho nên chúng ta phải nghĩ tu hành phải đúng chánh pháp. Đủ duyên được gặp Phật Pháp đó là một duyên may mắn nhất đời của chúng ta, không khéo chúng ta gặp tà pháp không đúng chánh pháp của Phật, tu mãi tu mãi mà không làm chủ được sanh già bệnh chết, đụng chuyện gì thì tham mê đắm đuối, đụng chuyện gì thì sân hận phiền não, đến khi bệnh tật thì đau khổ, phải đi nằm nhà thương bị mổ, bị xẻ giống như một con thú chẳng khác gì.

(30:15) Đến khi chết rất là khổ sở, rất là khó khăn, muốn chết mà chết không được phải nằm đó mà chịu đựng những cơn hành hạ của bệnh khổ. Đó là những nỗi khổ của kiếp người và nghiệp lực tạo ác, tạo thiện vẫn còn mãi mãi đi tái sanh luân hồi làm sao chấm dứt được nó? Cho nên kiếp này như vậy, kiếp sau biết chúng ta có được chánh pháp hay không? có gặp Phật Pháp hay không? Có được làm thân người hay không? Hay là chúng ta phải đọa làm thân chúng sanh? Nếu làm thân chúng sanh thì làm sao chúng ta có trí tuệ hiểu biết để thực hiện sự tu tập, để biết đâu thiện, đâu ác, để biết đâu là đạo đức của con người, đâu là đạo đức của thánh nhân? Nếu không được học hỏi, nếu không được làm người thì làm sao có trí tuệ mà học hỏi được những điều thiện ác, những điều đúng sai, những chánh pháp, những tà pháp?

Hiện giờ chúng ta đã làm con người mà không đủ duyên, chúng ta gặp tà pháp, tu mãi cho đến giờ này chẳng ra cái gì, bệnh tật hành hạ khổ sở. Đôi khi quý vị đã chết đi chẳng biết đi về đâu, mờ mịt đường trước cửa sau không thấu rõ, tu hành như vậy là phí uống một cuộc đời tu hành. Có thân người rất quý thế mà gặp tà Pháp như vậy không cứu chúng ta được chút nào cả, không tự cứu chúng ta giải thoát được mà làm chúng ta mất rất nhiều công phu, rất nhiều sức lực để thực hiện giải thoát nhưng cuối cùng chẳng giải thoát được gì, bằng cách lý luận che đậy những điều thế này thế khác để trốn chạy các pháp thế gian.

(32:16) Cho nên con đường của Đạo Phật vạch rất rõ, pháp môn của Phật rất rõ. Lời di chúc năm xưa của Đức Phật còn văng vẳng mãi trong tai của chúng ta: “khi ta nhập diệt các thầy Tỳ kheo hãy lấy Giới luật và Giáo pháp của ta mà làm Thầy làm chỗ nương tựa mà tu hành vững chắc, đừng nương tựa vào ai, đừng lấy ai mà làm chỗ nương tựa tu hành mà hãy lấy giới luật và giáo pháp của ta mà tu hành”. Lời dạy năm xưa rõ ràng như vậy, thế mà ngày nay dựa lưng vào những người mà không được Đức Phật chấp nhận là người thừa kế giáo pháp của Phật. Thế mà chúng ta quá vô minh, quá mê mờ, nghe đâu tin đó mà không thấy kinh Nguyên Thủy của Phật, nguồn gốc lời Phật nói năm xưa còn rõ ràng, thế mà hôm nay chúng ta không chịu suy tư tìm đâu là chánh, đâu là tà, để không phí uống một đời người, một kiếp làm người không phải dễ.

Nên Phật nói: “được thân người rất khó, khó như con rùa mù mà tìm bóng cây giữa biển mà được pháp còn khó hơn”. Biết bao nhiêu tà pháp đã gieo lên chúng ta mà được chánh pháp chúng ta không thể nào mà dễ dàng. Mọi tà pháp đang dìm mất chánh pháp, đang làm chánh pháp của chúng ta chìm mất đi, đang diệt Phật Giáo trên hành tinh này bằng một Phật Giáo mới. Do đó toàn bộ tín đồ Phật Giáo đều lầm lạc không đi đúng con đường của chánh pháp của Phật vì thế mà không thể nào tu hành giải thoát hoàn toàn. Bốn cái đau khổ của kiếp người không giải quyết được sanh, già, bệnh, chết. Luôn luôn vẫn là những vị tu sĩ hết sức tu mà vẫn không làm chủ được, điều này chỉ còn hi vọng đời này đến đời sau mà thôi, đó là niềm hy vọng cuối cùng của những vị tha thiết tu hành để mong đời sau được giải thoát, nghĩ rằng mình là hạ căn, không có thượng căn, trung căn, nên tu mãi chưa được mà thôi.

(34:58) Phật Pháp không có trung căn, hạ căn. Người có duyên được gặp chánh pháp tức là người sẽ tu được giải thoát. Người không duyên gặp không đúng chánh pháp là người tu tà pháp không được giải thoát mà thôi. Không thể nào mọi con đường đi về một mục đích được, chỉ có một con đường đi về một mục đích. Ví dụ như đây là lộ trình đi về thành phố Hồ Chí Minh thì sẽ đạt được về thành phố Hồ Chí Minh không thể con đường đi Xuyên Mộc mà về thành phố Hồ Chí Minh được. Cho nên con đường nào thì dẫn về mục đích của nó không thể đi sai khác được.

Ở đây chúng ta phải hiểu rõ Phật Pháp là con đường duy nhất đi vào cái mục đích làm chủ bốn sự đau khổ và chấm dứt sự luân hồi sanh tử đó là Giới - Định - Tuệ. Xin nhắc lại quý vị nghe: Giới - Định - Tuệ, đó là con đường duy nhất để dẫn chúng ta làm chủ được bốn sự đau khổ. Và thiền định của Phật là phải Tứ Thánh Định, Bốn Thiền. Còn hoàn toàn tất cả những loại thiền khác không thể giúp chúng ta giải thoát sanh, già, bệnh, chết được thì không thể nào gọi là thiền của Đạo Phật.

Vì Đức Phật Ngài đã nói lên bốn câu kệ để xác định Pháp môn của Ngài giải thoát cái gì? Ngài nói: “Trên trời, dưới trời ta là người duy nhất, vượt qua sanh già bệnh chết”. Đó là người độc nhất ở trên thế gian này đã làm chủ được bốn sự đau khổ này, và chúng ta là những đệ tử của Phật theo Ngài tu hành phải nhắm vào mục đích mà ngài đã đạt được, như vậy mới là chính đệ tử của Đức Phật, chứ không phải đi tìm con đường thần thông, phép tắc hoặc là con đường mơ hồ trừu tượng cảnh giới siêu hình nào…​(không nghe rõ)

(37:03) Ngày trước chúng ta nhập vào Niết Bàn này hoặc là Niết Bàn khác. Chỉ khi nào chúng ta làm chủ được sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi thì ngay đó tâm của chúng ta là cảnh giới Niết Bàn chứ không phải có cảnh giới nào ở đâu xa cả. Đó là một trạng thái tâm giải thoát của chúng ta chứ không phải có một cảnh giới nào khác ở trong tâm của chúng ta nữa.

Đến đây Thầy xin chấm dứt buổi nói chuyện hôm nay để quý vị suy ngẫm, đừng tin gì những lời Thầy nói hôm nay mà hãy suy ngẫm, suy ngẫm. Nhưng ai làm được, sống được đúng Giới luật của Phật, Đức hạnh của bậc Thánh, và thực hiện được Bốn Thánh Định này, tịnh chỉ hơi thở nhập: thân định trên tâm, tâm định trên thân, thực hiện Tam Minh đến Lậu Tận Minh thì người ấy mới chính là người có thể dạy pháp cho quý vị, thực hiện con đường giải thoát. Bằng người ta chưa thực hiện được đến Lậu Tận Minh thì những người này đều là những học giả, những người học lý thuyết, giảng suông, không pháp hành, không dẫn dắt quý vị đến nơi, đến chốn quý vị sẽ uổng công, uổng sức mà không đạt được kết quả như ý nguyện của quý vị.

Đến đây xin chấm dứt.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

HẾT BĂNG

Pháp Âm - 19991211 - GIỚI LUẬT LÀ NỂN TẢNG CỦA ĐẠO PHẬT

19991211 - GIỚI LUẬT LÀ NỂN TẢNG CỦA ĐẠO PHẬT

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Phật tử

Thời gian: 11/12/1999

1- GIỚI LUẬT LÀ ĐỨC HẠNH CỦA NGƯỜI TU, KHÔNG NÊN BẺ VỤN GIỚI

(0:02) Trưởng lão: Chứ còn mình mới ăn một bữa đó, thấy mình còn muốn ăn thì chưa được, mà chính cái chỗ đó là đức hạnh chứ không có gì khác.

Phật tử 1: Thành ra chắc có lẽ đức Phật thấy như vậy cho nên đức Phật giữ cái hạnh ăn một ngày một bữa, chứ sau này không có quan tâm đến cái đó mấy.

Trưởng lão: Chứ còn thật sự đức Phật nói: “thừa tự pháp chứ không có thừa tự thực phẩm”, cái bài “Thừa Tự” đó, hay lắm. Kinh trung bộ, cái bài kinh Nikaya, kinh Trung Bộ. Thành ra mình cứ sống đúng, mình thực hiện cho đúng cái hạnh sống độc cư, trầm lặng. Nghĩa là mình cũng nói chuyện, cũng tiếp duyên chứ không phải tránh, nhưng mà mình đừng có tiếp chuyện, nói chuyện này chuyện kia, ai nói gì nói mình nghe, ai có hỏi mình trả lời, có vậy thôi.

Thì từng cái tâm niệm của mình nó khởi lên thì mình quán xét, tức là mình đừng có để nó…​(không nghe được) là biết nó ly dục, ly ác pháp. Nó ly rồi từ đó nó quay vô, tâm nó quay vô nó không phóng dật, nó quay vô, nó trụ ở trên thân, mà nó trụ ở trên thân thì niệm nó không sanh khởi. Còn bây giờ mình cố gắng mình tu tập hơi thở để cho nó trụ trên ở trên đó thì nó không trụ nổi, xả ra nó chạy tứ tung, phải không?.

(01:17) Cho nên khi mà ngồi đó, mình thấy trước cái cái tâm cái người mới vừa mới tu …​(không nghe rõ) mình thấy có lúc sao hơi thở mình nó nhỏ nhiệm, nó nhẹ, nó nhẹ mà an ổn lắm, mà tìm cái này không có được, thấy cái gì cũng. Thành ra cái biết được là cái biết tâm phóng dật nó quay vô đó. Bởi vì nó quay vô một chút là cái tâm cái hơi thở của mình nó thanh tịnh, còn cái hơi thở của mình hiện giờ nó không thanh tịnh đó, nó không cảm thấy nhỏ nhiệm, hơi thở nhẹ nhàng êm ái, cái người người ta tu người ta mới thấy được cái hơi thở nhỏ nhiệm, hơi thở mà đức Phật nói: “Cái tâm mình nó nhu nhuyễn dễ sử dụng”, dễ sử dụng tức là mình sai bảo sao nó làm theo vậy, tu tới đó là hết sức rồi.

(02:05) Phật tử 1: Chúng con về chúng con cứ ráng nhớ lại những lời dạy của Thầy đó, lên xe hơi mà cũng còn nhớ hoài, người này nhớ 1 chút, người kia nhớ 1 chút, cũng như con voi mình ráp riết cũng chưa thành con voi nữa, giờ quên rồi, rốt cuộc rồi quên. Cái nhớ hoài nó tiếc quá, phải chi mà Thầy cho phép, dạ thì ý con muốn xin là anh, chị, em nãy giờ cũng bàn đó để xin phép Thầy để cho chúng con, bởi vì hay quên quá đi, rồi cái chuyến đi trở về rồi muốn nhớ lại, anh, em mỗi người ráp một tí nhiều khi không trung thực bằng, tốt hơn để về có cái băng nghe lại mà.

Con hứa với Thầy là chúng con ở trong phạm vi có bốn anh em chị em thôi. Hôm nay đi đến là để mong rằng cầu đạo. Dạ con biết con có đọc cái cuốn “Đường về xứ Phật” của Thầy rồi. Tuy trước đây Thầy nói hạn chế phổ biến nhưng mà trong số anh em chúng con cũng có đọc qua rồi, thành thử ra chúng con thấy rất là hoan hỉ. Vì vậy mà nó đôn đốc thúc dục con mà hôm nay có cái nhân duyên đúng là cũng một cái duyên lành. Chứ đáng lẽ là lên đây ít khi được gặp Thầy lắm, nhưng chúng con được báo điện thoại, chị Nghĩa đêm hôm qua chỉ điện trước hỏi thăm nghe nói có Thầy chúng con mừng quá, cấp tốc đi liền, bữa nay là chúng con.

Phật tử 2: Tụi con quyết định đi hôm nay đó, nếu mà gặp Thầy thì rất là tốt.

Phật tử 1: Đó thành ra xin Thầy hoan hỉ, cho phép chúng con là ghi lại những lời nói của Thầy để chúng con về mổ xẻ học hỏi nó sâu hơn, chứ còn nghe rồi như trước về là quên cũng nhiều đó.

Trưởng lão: À thôi cũng được.

Phật tử 1: Hạn chế phổ biến, nhớ hạn chế phổ biến, dạ, ở trong phạm vi của chúng con thôi.

(03:27) Trưởng lão: Bởi vì bây giờ mình phải thấy những cái này nè, thứ nhất là quý Thầy thì bây giờ người ta theo học tập người ta chuyên tu, mình nói chuyện chuyên tu là trái ý, nhất là người ta bỏ giới, người ta không có giữ giới, mà nói giới là đạo thành ra khó lắm. Mà giới tức là cái hạnh của người tu, cái giới là cái đức.

Cho nên, ví dụ như bây giờ đó, cái giới nó quan trọng lắm. Tổ của mình ngày xưa đó, họ soạn, họ viết ra, thành ra họ đặt ra những cái giới…​(không nghe rõ) đủ loại ở trong đó hết, chứ không phải không có phi giới đâu, toàn bộ y của Phật đâu. Ví dụ như có những cái giới mà chúng ta đọc chúng ta thấy đức Phật chưa có nhập diệt, mà lại đức Phật cấm là không có cho được vào Tháp Phật. Đó là cái sai đó con, nó không có đúng. Bởi vì ông Phật mà bây giờ chưa chết mà có Tháp sao, mà cấm không cho thì mình biết đó là Tổ rồi chứ ai.

Nhưng mà cái cái giới như vậy cũng hay, kính trọng ông Phật mà, phải không, cho nên thấy nó cũng hay. Cho nên mình thấy cái điều đó cũng là cái đạo đức tôn kính rồi. Thầy thấy nó cũng được, nhưng mà có những cái giới khác nó bẻ vụn, bẻ vụn giới Phật. Như thí dụ như cái giới mà ăn phi thời đó, thì các Tổ lại bẻ vụn ra, thí dụ như bẻ vụn như thế nào?

(04:56) Các Tổ viết ra nói: Chư thiên ăn buổi sáng, Phật ăn giờ Ngọ, súc sanh ăn sau giờ Ngọ, ngạ quỷ ăn đêm. Đó là bẻ vụn cái giới ra. Để nói buổi sáng mình ăn cũng còn chư thiên, phải không, cái ý vậy mà. Còn có tệ nữa mình ăn chiều cũng còn chúng sanh, chứ chưa phải là ngạ quỷ, chỉ có cấm ăn đêm thôi. Thành ra bây giờ quý thầy ăn bừa được hết, không có sao, đó là bẻ vụn cái giới của Phật. Cho nên trong kinh này đức Phật cũng có nói bẻ vụn giới mà. Đó là ý này.

Mà mỗi cái giới thay vì mình muốn thấy rõ khi mà đọc cái bộ giới hai trăm năm chục giới mình thấy một trăm giới chính thống, từ cái hành động đạo đức vệ sinh cho đến hành động ăn mặc lôi thôi, xốc xếch là đức Phật cấm hết. Đi ngoài đường mà hai vị tỳ kheo nắm tay nhau mà đi song song ngoài đường là đức Phật không cho, đó là cái đạo đức về lưu thông ở trên đường mình đi như vậy là cản ngăn người khác. Rõ ràng là bây giờ mình thấy cái luật lệ giao thông là đức Phật đã có hồi trước rồi, phải không?

Cái đạo đức làm người mà. Mình đi làm cản trở người khác, mình thiếu đạo đức. Đó là mình đọc lại cái bộ một trăm giới của Phật mình thấy rõ, từ cái ăn, ăn uống, rồi từ cái mặc, ăn mặc rồi đến cái sinh hoạt mình đi ra đường sao, mình đến nhà cư sĩ sao, cách ngồi như thế nào, rồi cái mình giữ vệ sinh làm sao, ăn uống sao, giữ vệ sinh sao, dạy hết trong một trăm giới của Phật. Tức là một trăm giới của Phật là một trăm giới đạo đức để dạy người cư sĩ, chứ không phải là dạy năm giới của người cư sĩ mình thọ vô, mình thọ Tam Quy, Ngũ Giới đâu, không phải đâu.

(06:33) Giới đó là giới thánh của người ta mà làm sao mà cư sĩ thọ nổi. Làm sao bây giờ thí dụ như cư sĩ mà thọ năm giới, giới sát sanh đầu tiên phải không. Làm sao mà tránh khỏi, chỉ có những bậc tu người ta mới không có sát sanh chứ còn cư sĩ mà thọ giới đó làm sao mà giữ trọn được, phải không? Mà nói cái giới tà dâm thì có thể phạm rồi, nhưng mà đến cái giới vọng ngữ mình giữ nổi không, mình tiếp giao, còn cái người tu sĩ người ta không có tiếp giao chuyện đời. Cho nên người ta chỉ hỏi đạo, hỏi pháp người ta tu thôi, đâu có nói chuyện phiếm, đức Phật cấm nói chuyện mà.

Nghĩa là mình không có được đem chuyện đời nói, phải không? Cho nên người ta đâu có nói láo, còn mình làm sao mà giữ được, mặc dù mình nói láo không tội, không hại mình, không hại người, nhưng mà vẫn nói láo. Bây giờ thí dụ như mình nói không hại ai hết, nhưng mai mốt người ta phát giác ông này cũng nói dốc thôi, phải không? Cũng mất uy tín mình chứ bộ không sao? Mà một vị thánh làm sao làm cái chuyện đó được. Cho nên những cái giới đó là những cái bậc thánh rồi chứ không phải phàm phu rồi.

Rồi sau này các Tổ còn hỏi như thế này nữa, bởi vì có nhiều người họ chỉ học rồi chỉ tưởng ra thôi. Ví dụ hỏi về giới sa di cái giới nào quan trọng, hỏi chi vậy !? Cái giới nào cũng quan trọng chứ làm sao có cái không quan trọng. Thật sự họ nghĩ rằng là, bởi vì hồi Thầy học giới, các hoà thượng dạy, sa di đó, tại sao mà tỳ kheo thì cấm dâm trước, bởi vì nó lớn chừng hai mươi tuổi rồi, còn cái đứa nhỏ hay giết, hay bắt nhái, bắt cóc, bắt ếch đồ này kia hay sát sanh cho nên cấm giới sát sanh trước. Là tại các người đó luận như vậy, các Tổ luận như vậy.

Giới của Phật cái giới nào cũng quan trọng hết chứ đừng có nói giới đó là quan trọng hơn nó trật, phải hiểu chỗ đó, phải không? Rồi hỏi, hỏi về cái giới mà 5 giới của người cư sĩ giới nào quan trọng. Thì mình biết rõ ràng là quý Thầy cũng rút tỉa kinh nghiệm chứ gì, là giới uống rượu quan trọng chứ gì, nếu mà mình say sưa thì bao nhiêu giới phạm hết chứ gì. Rõ ràng là quý hoà thượng đã dạy, cái đó là cái rút tỉa kinh nghiệm của mình dạy, chứ sự thật từ giới sát mà cho đến cái giới uống rượu, giới nào cũng quan trọng hết.

(08:38) Nếu mà mình giữ giới sát được thì giới uống rượu dám không? Đi uống rượu vô rồi còn biết gì không sát sanh? Cho nên do cái giới sát sanh đó mà mình không có giết hại thì ai mà ăn thịt chúng sanh, mà không ăn thịt chúng sanh thì làm sao uống rượu, phải không? Nó quan trọng chứ sao không quan trọng, cái giới nào ta cũng quan trọng hết. Mình chỉ nghĩ rằng tại uống rượu mới sanh ra cái này, cái nọ, cái kia, nhưng mà tôi giữ giới sát đàng hoàng thì tôi đâu có thèm uống rượu, tôi uống rượu tôi biết là uống rượu vô rồi lát nó say rồi nó làm tầm bậy hết sao. Cái đầu óc, cái trí tuệ của mình mà mình không hiểu điều đó sao.

Phật tử 1: Phải hộ trì như nhau hết đó

Trưởng lão: Phải hộ trì chứ, cái lý của nó là cái nào không quan trọng. Bởi vậy học nhiều khi các hoà thượng, hồi mà mình chưa tu đó, mình nghe hoà thượng nói đúng chứ, hay. Nhưng mà tới chừng mà hiểu được giới luật của Phật rồi, cái đức hạnh rồi, thì mình thấy cái giới nào cũng quan trọng.

(9:30) Mà nói chung đó, quý hòa thượng còn nói vậy nữa, hồi Thầy học mấy ông hoà thượng dạy mà: “Giới có cái giới nó nó hợp với thời đại của mình còn có giới nó lỗi thời”. Đặng mấy ổng nói làm chi, đặng bỏ đi đó. Nhưng bây giờ mình đọc lại bộ giới, không có giới nào mà lỗi thời. Thí dụ như mấy ổng nói bây giờ đức Phật cấm cái người tu sĩ đó không có được đứng tiểu, thấy không. Mấy ổng luận là tại vì hồi bên Ấn Độ thì các cư sĩ người ta mặc chăn, còn mình bây giờ mặc quần thì không sao hết, nó lỗi thời với mình, mà nó hợp với cái người Ấn Độ. Họ cho những cái giới đó nó lỗi thời, chứ thật ra không có lỗi thời, bởi vì mình thấy con thú nào nó cũng đứng tiểu, mà con người có đạo đức phải ngồi chứ, làm như vậy thô lỗ lắm.

Cho nên hầu hết cư sĩ mình, nam đi xe Thầy nói xuống xe cái đùng đùng ngay lề đó, đứng xổng cẳng đó mà tiểu thôi, phải thô lỗ không !? Có đức hạnh gì chỗ nào không, giống như con thú chứ gì, có đúng không ? Mình học cái đó mình phải biết được, vậy đâu có lỗi thời đâu. Đúc từ cái đức hạnh của mình để mà nói lên con người khác con thú chứ sao lại giống con thú quá vậy. Mình chỉ, cũng là một loài động vật thôi chứ, phải không, mình hơn loài động vật là mình hơn nó thì tức là mình phải có đạo đức, đó là đạo đức làm người.

Nhưng bây giờ quý cư sĩ chưa phải là thánh thì đâu phải ăn ngày một bữa, phải không. Thầy là bậc thánh Thầy phải ăn ngày bữa, chứ ông cũng xưng là thánh tăng mà ăn ngày ba bữa thì cũng như tôi vậy thì là thánh gì. Cái hành động sống của mấy ông không khác tôi chút nào thì mấy ông không có thể làm thầy tôi được đâu. Nghĩa là mấy ông phải sống là sao mà đức hạnh của mấy ổng phải hơn tôi thì mấy ông mới làm thầy tôi được. Chứ còn mấy ông học có cấp bằng, tôi học cũng có cấp bằng vậy, phải không. Các ông có tiến sĩ, tôi cũng có tiến sĩ được chớ, ở ngoài đời đó phải không, người ta không có tiến sĩ, mình phải công nhận.

Còn cái hành động sống mà thánh, không phải dễ đâu, hành động sống không phải dễ đâu. Đó là cái để chứng minh cho mình cụ thể không phải ở chỗ thần thông, một cái người đó mà cái hạnh, hành động sống của họ không đúng, không đúng mà họ có thần thông, họ là quỷ chứ không phải con người cũng không phải con vật nữa. Bởi vì con vật nó cũng không có thần thông, con người cũng không có thần thông. Chỉ có ma quỷ, cái loài quỷ nó mới có thần thông. Thì cái người này mà sống không đúng cái đức hạnh của thánh mà có thần thông thì đây là quỷ. Nó sẽ tìm cách nó hại mình, có đúng không. Mấy ông giáo chủ mà có thần thông rồi thử coi mấy ông có làm bậy không !? Làm bậy mà người ta mê theo chớ. Đó là cách cám dỗ người ta, quỷ ma nó mới có những cái loại đó chứ, mình phải thấy được chứ.

(12:04) Cho nên thật sự ra đúng trên con đường của đạo Phật là nhìn xét qua cái giới luật đức hạnh đó, người ta xét được cái bậc tu chơn chánh hay là tu không chơn chánh, người tu thật hay là người không thật. Mà chính cái chỗ tu mà giới luật thì nó sẽ ly dục, ly ác pháp, giải thoát, từ đó cái tâm thanh tịnh rồi đi vào Thiền Định.

Cho nên ở đây Thầy thấy nó khó quá. Không thể con người mà theo đạo Phật mà tu mà với cái số giới luật, cái đức hạnh như vậy, người ta làm sao người ta sống nổi, nhất là đời sống vật chất như thế này !? Không thể nào. Bởi vì sống nó phải sống nó xa lìa những cái tâm tham đắm của nó, nó không mê vật chất, mà mình bỏ không được thì phải làm sao mà dạy. Cho nên Thầy nói bây giờ tại sao mà Thầy không ở, thay vì người ta đọc những cái lời dạy của Thầy người ta giải thoát lắm chớ, nhưng mà Thầy biết thật sự khó lắm, không phải dễ đâu.

2- HẠNH ĐỘC CƯ VÀ PHÁP NHƯ LÝ TÁC Ý

(12:55) Ăn đó mình thấy ngày bữa còn ráng được, chứ ngủ đó tới độc cư mà trầm lặng mà một mình để xả tâm không phải chuyện đơn giản đâu, coi vậy chứ khó lắm. Cho nên Thầy thường nhắc, ở trong sách của Thầy, Thầy thường nhắc: “Bí quyết thành công để thành tựu Thiền Định là độc cư”, là đức hạnh độc cư đó. Mà độc cư không có nghĩa là trốn tránh người ta, cũng như bây giờ các cư sĩ về đây gặp Thầy, hỏi gì Thầy trả lời, không hỏi thôi, tức là Thầy độc cư đó. Mà tâm niệm của Thầy khởi lên mà Thầy theo những tâm niệm đó Thầy mất độc cư đó, Thầy phải xả nó Thầy mới độc cư. Độc cư thân là Thầy giam mình ở trong cái khuôn viên ở trong cái thất Thầy độc cư, nhưng mà cái tâm Thầy độc cư trói giữ cũng không được, nó ở trong thất chứ nó đi tùm lum hết chứ nó hết ráo, nó nghĩ chuyện này, chuyện kia, đông tây nghĩ đủ thứ hết, nó không có độc cư nổi.

Mà khi mà chúng ta giữ gìn chúng ta xả được nó rồi nó độc cư. Nó độc cư tức là nó trở vào định, cho nên tâm định trên thân, nó định ngay trên cái hơi thở, thở ra, thở vô. Lúc bấy giờ hơi thở nó nhu nhuyễn, nó nhỏ nhẹ, mình ngồi đâu mình nghe hơi thở luôn luôn. Ở ngoài đó người ta nói gì mình không có lưu ý, nghe chứ mà mình không có lưu ý, không biết người ta làm cái gì, thì lúc bấy giờ nó đang định ở trong thân nó đó.

Đó là cái giai đoạn đầu của mình tu, mà chỉ trong giới luật này thôi. Có người nói cái ly dục, ly ác pháp chỉ thô thôi, Thầy nói: “Thô sao được?”. Thì bắt đầu Thầy mới tu đó, thì Thầy ăn ngày một bữa thì nó còn thèm ăn, lâu ngày nó thuần rồi thì nó phải hết chứ nó còn thô tế gì. Còn bây giờ nó ngay cái thô này Thầy cứ để Thầy thèm ăn hoài thì cái chuyện đó thì Thầy có ăn ngày một bữa Thầy cũng ức chế Thầy thôi đâu có làm sao giải thoát được. Đó là cách thức tu. Nhưng mà Thầy đã ăn ngày một bữa rồi thì Thầy tiếp tục Thầy xả luôn những cái gì nó còn đây chứ, phải không. Cho nên Thầy xả riết nó mới ly hết. Không có thô đâu, không có cái nào mà thô hết, cái nào nó cũng thô hết, cái nào nó cũng tế hết. Nếu mình không khéo giữ thì nó bị, chứ không có chạy đâu cho khỏi.

(14:49) Khó lắm, bởi vậy Thầy nói con đường của đạo Phật coi nó dễ vậy chứ mà nó khó, mà nó làm chủ thật sự. Nội cái pháp mà Như Lý Tác Ý, không biết quý cư sĩ không biết có đọc trong kinh Nikaya cái pháp Như Lý Tác Ý không !? Rất tuyệt vời. Mình nhắc cái tâm, mình ám thị nó như vậy đó, đó là cái pháp ám thị của Phật dạy mà. Mình ám thị như vậy mà nó có cái lực. Cho nên khi mà cái đầu mình nhức mình nhắc bảo: “Cái thọ này nè, cái đầu nhức lui ra hết”, nó nó rời khỏi. Mình chỉ cần mình nói vậy cái tâm mình nó vẫn lặng lẽ, yên lặng trong cái hơi thở nhẹ nhàng đó, thì một chút nó hết à.

Còn cái hơi thở của mình mà nó còn tham sân si nó thở thô như vầy thì nó không hết. Còn cái hơi thở của mình mà nó nhu nhuyến đó, nó thở nhẹ nhàng, như người ta ngồi định mà nghe nó có trạng thái hỉ lạc đó, hơi thở rất nhẹ đó, thì lúc bấy giờ mình ra lệnh nó cái mình ngồi mình thở một chút xíu là nó hết đau nhức cái đầu, tức là làm chủ được bệnh đó. Với cái tâm đó đó, với cái tâm mà thở được cái hơi thở đó làm chủ được bệnh.

Còn mình thở hơi thở như thế này là hơi thở còn tham sân si. Như giờ quý cư sĩ thở cũng như Thầy đang thở vầy đó, là tâm còn tham, sân, si nó thở vậy đó. Mà khi nó ly hết tham, sân, si rồi nó thở khác. Bởi vì nó thanh tịnh, mình phải hiểu cái sự thanh tịnh đó chứ. Có tu rồi, có kinh nghiệm mà không tìm được người để dạy. Thầy đi đó là Thầy tìm người đó chứ không phải là Thầy, đi tìm người nào mà có đủ căn duyên.

3- QUÁ TRÌNH THẦY ĐI TÌM NGƯỜI TRUYỀN DẠY

(16:12) Phật tử 1: Hôm trước con nghe Thầy nói rằng Thầy đi tìm cái kinh nghiệm thực tế ở ngoài thế gian để Thầy tu bổ thêm cái đạo đức nhân quả, cái mà đang chuẩn bị viết sách đó, thì con cũng nghe sơ bộ con thấy vậy thôi, chứ thật sự Thầy cũng đang đi tìm người.

Trưởng lão: Đúng đó. Nghĩa là vừa đi để xem thấy ở trong các chùa, các thầy tu như thế nào, đúng sai, để mình ghi thực tế mà. Rồi vừa xem lại như mình lên xe, xuống ngựa mình xem lại cái đời sống của người ta hoạt động ở trong cuộc đời coi nó gian ác đến mức độ nào, để mình viết lên thành cái hành động nhơn quả đúng để cho mình dạy người ta học

Phật tử 1: Trong tương lai là cái đạo đức nhân quả .

Trưởng lão: Đạo đức nhân quả mà Thầy đang chuẩn bị cho con người đó, đó. Còn cái nữa là đi coi chỗ hang cùng, ngõ hẻm nào có cái người quyết tâm tu, để mình móc những cái người này ra để mình độ họ. Dạy cho họ đúng họ tìm, để Phật pháp nó còn có những cái ngọn đuốc soi sau này. Cái tuổi Thầy, sáu bảy chục tuổi rồi còn gì nữa, nó cũng sớm muộn nó cũng phải bỏ đi chứ nó đâu có ở đây được, chắc chắn là phải bỏ thôi, làm sao mà.

Phật tử 1: Nên Thầy làm lại cái gì để lại cho đời sau này nó được nối tiếp.

Trưởng lão: Cái thứ nhất đó Thầy nghĩ con người trên hành tinh này cần phải có đạo đức. Trong giai đoạn mà khoa học tiến triển như thế này, đưa con người đi đến những cái phục vụ đời sống đầy đủ thì phải có cái đạo đức, không thì vật chất nó sẽ diệt ngay. Đó là cái mà Thầy đang lo. Cái thứ hai đó là tìm cái người để cho Phật pháp được sống chứ học như vầy là nó sẽ chết. Người ta sẽ tìm thấy nó ở trong cái danh lợi bằng cái học thuật này, đâu bằng, người ta đi học để người ta sáng chế ra bằng những vật chất để cung phụng cho người khác không phải hơn sao.

Như bây giờ thí dụ như Thầy học Thầy làm một kỹ sư canh nông đi. Thầy nghiên cứu, Thầy lai ghép những cái hạt lúa như thế nào để phù hợp với cái mảnh đất đó để mà người ta cấy có lúa, phải lợi ích không? Bây giờ dạy vậy người ta không làm được cái gì hết mà cứ gạt người ta để lấy tiền ăn sống, bằng cách cất những cái nhà cửa, chùa đẹp như vậy thì phí mất biết bao nhiêu mồ hôi nước mắt của người khác, phải không !? Cái này đâu có phải làm lợi ích lớn đâu, chỉ làm cái cảnh quan trong cái giai đoạn đó, sau này nó, tôn giáo nó dẹp sạch hết rồi, bởi vì nó không thực tế người ta sẽ bỏ chứ đâu phải người ta còn lạc hậu như ngày xưa nữa. Người ta sẽ bỏ, tu hoài người ta không thấy kết quả gì người ta bỏ.

(18:24) Do đó những cái nhà mà cất kiên cố vĩ đại mà chùa này kia đó, đều trở thành những cái di tích lịch sử người ta đến chơi thôi, con cháu mình sau này đến đây là tôn giáo Phật giáo, đây là Thiên Chúa, hay đây là Cao Đài hay đây là Hoà Hảo. Cái này hồi đó gạt ông bà của mình gần chết nè, phải không!? Nó đến đó nó xem, trời quá trời, bao nhiêu mồ hôi nước mắt của ông cha của mình đổ ra, phải không? Bởi vậy cho nên Thầy mới nói thật sự ra làm sao cái gì cho có lợi ích thiết thực. Cũng như một nhà bác học người ta nghiên cứu gì ra để giúp cho đời sống con người, thì mình cũng làm tôn giáo mình phải đem cái gì cho lợi ích thiết thực chứ.

Này chẳng tu cứ mà lo cứ xây cất, đó là cái gì, không có, thay vì các ngài đều có trình độ, có trình độ thì các ngài phải nghĩ đến những cái gì đạo đức mà đức Phật đã để lại cho chúng ta, triển khai nó ra, giúp cho con người có cái đạo đức chứ. Thì đồng thời bây giờ khoa học người ta tiến triển đó, người ta tìm mọi cách để người ta đưa cái đời sống con người đến đầy đủ cơm ăn áo mặc phải không, đời sống tiện nghi, thì mình phải đưa cái tinh thần người ta đến cái đạo đức. Thì tôn giáo mình phải làm cái đó chứ. Còn này khi mình giữ cái mục đó mà nhiều khi mình còn sa đoạ hơn nữa. Nên tu sĩ rồi mà mình bây giờ mà mình còn sang hơn người ta giàu nữa thì thử hỏi còn cái nghĩa lý gì, nó phải khác, nó phải giữ được cái đạo đức.

Cho nên những lời nói Thầy đừng có cho ai nghe, chứ nghe là mệt. Thầy nói thẳng nói thật mà, cái đó là cái thẳng thật. Một cái tâm niệm của con người khi mình tu hành rồi mình nghĩ, mình đâu có nghĩ đến cá nhân mình đâu.

(19:53) Bởi vì, thí dụ như bây giờ Thầy không vợ, không con, không có gì hết, còn gì nữa, thì Thầy nghĩ tất cả những con người, những con cái, những người ở trong cái hành tinh này chứ không riêng gì dân tộc Việt Nam đâu, là con của Thầy đó. Làm sao cho nó có đạo đức đây, để cho nó đừng khổ? Thì mình là người tu mình phải nhìn cái rộng chứ không lẽ mình, còn cái người đời người ta nhìn ba bốn đứa con người ta trong nhà thôi, phải không. Nhưng mà người ta còn biết san sẻ miếng ăn, người ta còn biết đem đến cúng dường cho quý thầy, người ta bỏ ra từng mồ hôi nước mắt người ta phải không, còn mình mình tu hành rồi mình làm cái gì vậy. Hay mình ngồi trong mát mình ăn bát vàng đây?

Mình làm cái gì lợi ích hay là còn mượn những cái lời của những người này, họ đã gạt người xưa tới giờ, từ lâu tới giờ người ta cũng đã gạt như vậy, bây giờ mình cũng lấy cái này mình gạt lại người khác nữa. Mình làm được chưa mà dám nói cái này, phải không. Mình tu tới đâu, hay là mình học miệng lưỡi của chữ nghĩa này mình nói ra? Ai làm được, ai giải thoát được đâu? Hay hoặc là mình cũng đau khổ như mọi người rồi mà giờ mình lấy cái này cứ dạy người ta: “ Ờ Phật dạy vậy vậy”, cuối cùng người nào cũng khổ hết, có ai giải thoát đâu.

Bỏ hằng, người ta đến, người ta đến tu viện, hàng tháng người ta đến người ta thọ Bát Quan Trai, người ta bỏ công bỏ sức người ta chứ, nhưng mà cuối cùng người ta được những cái gì đây !? Mình phải thấy thương người ta chứ. Tại sao người ta muốn đi tìm cái an ổn, cái giải thoát, đời quá khổ rồi, người ta đến đây, người ta tập luyện, người ta bỏ bao công sức mà trong một ngày, hai ngày, hay một tháng, nửa tháng người ta tập luyện cuối cùng người ta được cái gì? Mình phải hỏi mình nè, mình có được những cái gì chưa mà mình dạy người ta đây, cái đó là cái quan trọng đó.

(21:24) Cho nên Thầy được rồi, Thầy thấy khó quá, thôi, Thầy ráng Thầy mở, Thầy mở cái tu viện chính thức vậy hen, mà từ đây ba mẫu đất, Thầy cất nhà trong đó hết, Thầy tập trung cho về tu, Thầy khép vô giới luật rồi họ buông, họ bỏ họ đi hết. Thầy thấy không được thôi, cái công của mình thiệt ra thì lấy cái công mình, mình lấy cái sức mình làm từng cái thất như thế này, rồi mà cho người ta, vô là Thầy không có cho làm cái gì hết, chỉ ăn rồi tu thôi, thế mà người ta không giữ nổi giới luật của Phật. Người ta đi chùa này ăn hai ba bữa, ở đây ăn ngày bữa người ta sống không nổi, người ta nói thiếu, thiếu chất bổ rồi. Trời đất ơi lo tu mà ở đó thiếu chất bổ, lo giải thoát ở đó còn bổ, thân này làm sao giải thoát, phải không, có tu nhiêu đó thôi.

Phật tử 1: Người ta chưa có quen với cái lối ăn một bữa Thầy, rồi tới buổi chiều đói bụng.

(22:09) Trưởng lão: Thì bởi vậy. Rồi các cư sĩ nghĩ coi, Thầy hôm đó Thầy có nói rồi mà. Nghĩa là khi mà Thầy khép vô ăn đó, họ đi phân nửa rồi, hơn nữa đó, tới Thầy khép vô ngủ, nghĩa là phải tập dần để cho tỉnh thức, chứ không có được tham ngủ. Bởi vì phá cái si của mình mà, mình ham ngủ là còn si, tập dần, tập dần, nó dật họ, từ mà Thầy từ tám giờ Thầy tăng lên chín giờ tới mười giờ Thầy mới cho đi ngủ. Tăng lên mười giờ cái là họ chới với nhau, họ bỏ họ bước đi, ngồi đâu gục đó. Trời nó ham ngủ quá vậy, Thầy nói thiệt tu hành mà còn ham quá vậy. Thầy bảo phải đi kinh hành, phải đi kinh hành, đừng có ngồi, nó ngồi nó ngủ gục, mà họ làm biếng cách gì, Thầy nói họ thích ngồi, ngồi đặng gục, mà đi thì họ không chịu.

Thầy nói chú Mật Hạnh đó, cái chú nhỏ nhỏ mà đi hôm đó với Thầy đó. Chú cũng bị, hồi đó cái nền đó là cái Tổ đường của Thầy đó, Tổ đường Thầy thờ Tổ, bên kia thờ Phật. Mà xung quanh có hành lang đồ đó, chú bị buồn ngủ, mọi thầy đều ngồi rồi gục ngủ hết, tới mười giờ là quý thầy gục hết à, ngủ hết. Chú, chú nói sao mà quý thầy mà tu vầy, còn mình mình cũng bắt chước vậy sao được. Chú mới lấy dầu chú trét vô mắt chú, nó cay xé lên, rồi nó cay quá nên chú lăn. Cái khi mà hôm sau cái chú Duy đó cũng nhỏ bằng chú cũng ở đây tu nè, chú mới nói lại, Thầy mới hay, Thầy mới kêu ra thất Thầy. Buổi tối Thầy kêu riêng ra ngoài thất Thầy, Thầy nói: “Con có nhiệt tâm, rất tốt”. Thầy ngồi giữa thất Thầy bắt, Thầy bảo hễ buồn ngủ, hễ buồn ngủ, hễ còn tâm mà chưa buồn ngủ đó thì ngồi tu, ngồi nhiếp hơi thở tu, luyện từng hơi thở, hơi thở, thở cho hơi thở nó nhẹ nhàng bình thường, phải không, đừng có thở mạnh mà đừng có thở nhẹ. Thầy tập cho nó luyện ba giây một hơi thở. Thở cứ khoảng ba giây vậy một hơi thở. Khi mà buồn ngủ rồi nói: “Bây giờ con buồn ngủ quá Thầy”, “được rồi, đứng dậy đi kinh hành”. Đi kinh hành một vòng như cái thất của Thầy vậy. Đi kinh hành một vòng rồi Thầy bảo lại ngồi, thở năm hơi thở đứng dậy đi kinh hành. Đi riết không còn buồn ngủ nữa. Thầy ngồi đó suốt đêm, Thầy ngồi xếp bằng đó suốt đêm. Thầy ngồi suốt đêm Thầy canh cho đi mà, hết ngủ phá luôn hôn trầm, không có ngủ được nữa.

Phật tử 1: Cái chú bữa đi ra ngoài Phước Hải…​?

(24:23) Trưởng lão: Hồi đó chú chút vầy mà chú ngồi thiền mà chú bị hôn trầm đó, con nít thì còn ham ngủ lắm, vậy mà Thầy phá sạch đó. Còn mấy thầy lớn không được, khó quá, mấy Thầy bị, đã có tu rồi, biểu không nghe. Thôi, thành ra tới khi mà khép vô ngủ thì quý thầy đi coi như gần hết còn có năm mười người à.

Bắt đầu đó Thầy khép vô độc cư. Bây giờ họ đã chiến đấu được cái ngủ thì phải chiến đấu độc cư. Sống không cho nói chuyện, không cho đọc kinh sách, không cho nghe băng, không cho nghe gì hết, không cho thậm chí mới đầu Thầy còn cho quét dọn, sau Thầy không cho quét dọn, ở không. Trời ơi lúc bấy giờ họ đi. Chịu không nổi, coi vậy chứ cô đơn chịu không nổi, cầm cây chổi mình quét đó thì nó không cô đơn.

Cái đầu của mình mà ngồi không trời ơi nó sanh ra đủ thứ hết, nó nhớ. Mấy thầy nói vầy nè: “Tụi con trời ơi từ hồi xưa tụi con học truyện Kiều, hồi nhỏ học lớp Đệ Tứ hồi trước đó, trời ơi bây giờ nó nhớ lại hết, không có câu, có kỳ nào mà nó không nhớ, nó tuôn ra hết, hồi nhỏ mà đánh lộn với thằng nào bây giờ cũng nhớ hết”. Đó nó tuôn trào, Thầy nói lấy cái đó đó mà quán xét xả, xả cho sạch, thì chừng mà nó sạch rồi bắt đầu cái tâm nó vắng lặng. Đó là chính bí quyết của các con bây giờ Thiền Định đó, nó không có gì hết, chỉ chịu sống như vậy thôi. Nó hay rất hay mà rất tuyệt.

(25:41) Bởi vậy đức Phật mới ca ngợi tán thán sự trầm lặng độc cư, mà mình thì bây giờ sống chắc không nổi. Thầy thấy tivi nè, truyền hình nè, cái gì đâu thôi đủ cách hết làm sao mà họ ngồi đây họ chịu nổi. Thầy nói chung là Thầy cũng cho vậy nhưng mà Thầy không có chấp nhận trên vấn đề đó. Bởi vì đức Phật cấm không có được xem ca hát, được ca hát, không chấp nhận. Khổ lắm.

Bởi vậy sau này rồi Thầy chọn người rất là kỹ Thầy mới cho vô tu chớ không phải đơn giản Thầy chấp nhận đâu, mất công mình. Con thấy từ trong năm ngày hay mười ngày, rốt cuộc hay một tháng nửa tháng tốn bao nhiêu gạo thóc của Phật tử, Thầy có mần cái hột lúa nào đâu Thầy nuôi. Nhiều khi mà tập trung đông đó,Thầy chỉ gọi điện thoại Thầy xin quý phật tử cho Thầy bao nhiêu gạo mỗi tháng thì họ họp nhau họ đem lại họ cho Thầy. Họ nuôi quý thầy, Thầy nói xin sữa là họ cho sữa, mà xin cái gì họ cho nấy, bởi vì Thầy xin đồ ăn, Thầy không xin tiền. Cho nên họ kéo lên cái nhà kho Thầy nè, kéo lên, sữa chất ngập đó. Thầy mới đem Thầy bố thí đó. Mà họ thương người tu lắm, cho nên phật tử Thầy nói thật họ quý trọng người tu thật. Họ thấy tu giới luật đức hạnh mà Thầy dạy đó, họ quý trọng lắm bởi vì chùa nào cũng không có vậy. Cho nên nói thiếu cái gì cái họ chở lên họ cho, nó rất đầy đủ.

Nhưng mà rồi tu không được, để làm hao tốn mồ hôi nước mắt người ta, Thầy đâu có chấp nhận đâu. Tu thì tu phải cho đúng, còn tu không đúng thì nhất định không làm hao tốn của đàn na thí chủ. Quý vị ăn uống ở đây cho đầy đủ, người ta cực khổ người ta làm từng đồng từng cắc, rồi quý vị ở đây còn đòi muốn cái này cái nọ cái kia cho sung sướng, trong khi người ta làm lao động quá khổ. Thì trong khi đó quý vị mà tu không được đó, Thầy mang gông đội đầu, Thầy nợ chứ không phải là quý vị. Vì Thầy mà người ta mới đổ vô đây, chứ đâu phải là vì quý thầy đâu. Thầy nói thẳng mà tu được thì tu không được thôi.

(27:32) Cho nên Thầy nói như hoà thượng Thiện Hòa hồi đó, không biết quý cư sĩ biết hòa thượng Thiện Hòa hồi đó ở, biết phải không !? Hoà thượng hồi đó cũng uy tín lắm đó, nhưng mà hoà thượng là người rất là tiết kiệm. Chứ còn quý thầy mà nuôi ở trong chùa Pháp Quang là quý thầy phí, phí vô cùng lận. Đi vô cầu hay hoặc là bồn tắm, tắm rồi không có khoá, xả nước mà nước ở thành phố phải trả tiền chứ đâu phải đâu, điện cũng vậy. Hòa thượng phải nửa đêm dậy phải đi coi mấy cái phòng tắm vệ sinh này kia vặn khoá lại. Chính trên Bồ Đề hồi đó mà Thầy ở bên đó Thầy cũng biết đó, hoà thượng cũng qua đi vô trong cầu, vô trong phòng tắm coi thử coi học sinh coi nó có khoá lại không. Sợ nó hao phí từng chút, thế mà hoà thượng phải lãnh cái quả rất lớn là tại vì đệ tử của mình mình phải chịu. Đó thì bán thân trong cái thời gian hoà thượng nằm gần hai năm trời chứ không phải ít đâu, mới chết đó chứ đâu phải ít đâu. Chết trong cái mê man không còn biết, khổ như vậy đó, mình phải trả cái quả đó, của đàn na thí chủ đâu phải chuyện dễ đâu.

(28:28) Nhưng mà cái câu nói như vậy để cho chúng ta quán xét coi mình tu được hay không, nếu mà được thì mình nỗ lực, mình nhiệt tâm mình tu để cho mình có đủ sức mình không có nợ đàn na thí chủ, mà không được thì mình đừng có thọ dụng của đàn na thí chủ. Còn bây giờ người ta xem thường rồi, người ta ăn của đàn na thí chủ, sung sướng chừng nào là người ta khoái. Nhưng mà cái quả đó phải trả chứ không có chạy khỏi đâu. Coi vậy chứ cái nợ nó lớn lắm chứ không phải thường. Đừng có nói ngồi không, ngồi trong mát ăn bát vàng đâu, không có sung sướng đâu, khổ lắm.

Cho nên đối với Thầy, mỗi lần mà Thầy suy tư đó, cái điều kiện hôm nay đó, mình phải nhìn được trong cái giai đoạn của con người, trong cái giai đoạn của con người. Người ta có cơm ăn áo mặc thì người ta mới giữ đạo đức được, người ta không có cơm ăn áo mặc, mình có nói đạo đức gì người ta cũng không thể giữ được, bởi vì cái sống người ta không có sống nổi rồi.

4- LÀM TỪ THIỆN ĐÚNG CÁCH

(29:20) Cho nên vì vậy đó, thì nhìn chung đó mình lại thấy rằng, khoa học mà tiến triển, người ta triển khai được cơm ăn áo mặc, thì một bên đó, thì mình trợ giúp cho như thế này để giữ vững cái nền đạo đức, khi mà có cơm ăn, áo mặc, có đạo đức nữa thì con người mới. Còn nó đi một góc độ nào thì không thành cái tâm Phật. Thí dụ bây giờ Thầy dạy đạo đức mà người ta đói quá Thầy dạy đạo đức không vô. Mà người ta no, người ta đầy đủ thì kèm theo cái sự đạo đức đó thì người ta sẽ, con người sẽ tốt lành. Đó thì nó phải hợp nhau như vậy. Cho nên Thầy mới nghĩ rằng nếu mà dạy đạo đức thì nó phải có một cái môi trường, có cái môi trường dạy đạo đức. Môi trường dạy đạo đức như thế nào để giúp người ta có cơm ăn áo mặc, dạy người ta đạo đức mới nghe. Cho nên Thầy mới nghĩ Thầy sẽ mở cái trung tâm an dưỡng, từ thiện, thì trong cái trung tâm đó có cái bệnh viện tu từ thiện, để trị bệnh thân bệnh người ta, rồi trong cái trung tâm nó có cái, bởi vì nó an dưỡng thì tức là nó về tinh thần nó mới có an dưỡng. Do đó vô đó mình dạy người ta tập Thiền Định, để cho người ta ngừa bệnh được, tức là dưỡng sinh đó, tới đó thì mình dạy người ta đạo đức.

Thì do đó khi mà đã ở trong trung tâm, ta vừa trị bệnh, sau khi ra người ta có được cái đạo đức. Bởi vì mình giúp người ta toàn bộ không để người ta hao tốn gì hết thì mình nói người ta dễ nghe, còn bây giờ người ta bỏ tiền vô người ta nằm bệnh viện, người ta bỏ từ chút, người ta bỏ hết thì bây giờ người ta ra rồi nói gì, ông nói đạo đức chỉ nói miệng thôi chứ cũng không giúp tôi được cái gì hết, phải không, người ta không tin mình. Còn người ta thấy đến đây mình nói đạo đức mà cái hành động mình làm đúng, biết thương người, biết chăm sóc, người ta từng đó người ta thấy người ta xúc động liền. Tại sao mà có người người ta đem đến cái sức lực, người ta không nghĩ đến cá nhân người ta mà người ta nghĩ cho mình? Rồi từng những bác sĩ mà phục vụ trong cái bệnh viện đó, mình cũng, Thầy cũng trả lương cho họ đầy đủ, họ không còn lo lắng gì hết, họ phải phục vụ bệnh nhân cho đầy đủ để mình dạy đạo đức người ta mới được. Chứ ông bác sĩ này ổng còn quà biếu này kia, bệnh nhân mà ổng quà biếu thì ổng coi ra gì thì, cái bệnh viện này nó từ thiện chứ thật không có từ thiện gì hết, phải không !? Cho nên những cái này được đều Thầy lưu ý hết. Một mặt cái người bác sĩ họ có cái tâm từ thiện, nhưng họ còn phải có cái đời sống đầy đủ họ mới từ thiện nổi chứ còn nếu làm đây đời sống gia đình họ thiếu miết làm sao họ hết tận tâm với bệnh nhân được. Đó, những cái đó là mình có thể làm làm.

(31:45) Nhưng mà Thầy định qua năm 2000 này bắt đầu Thầy xúc tiến. Thầy sẽ mở cái nhà máy xin làm lọc nước, nước thiên nhiên lọc cho nó trong sạch để mình lấy cái đó mình làm kinh tế mình sẽ làm cái bệnh viện. Cái thứ hai là mở cái nhà máy làm đồ chay, đồ hộp để giúp cho người ta có những cái đồ chay, đồ hộp người ta ăn. Ở trong nước mình sản xuất ra, hợp tác với Đài Loan, phải không. Rồi bắt đầu mình sản xuất cái đó ra thì mình sẽ bán cái này lấy cái tiền làm đi từ thiện trong vùng, cũng phải có nguồn kinh tế chứ không có nguồn kinh tế làm sao mà làm nổi. Cho nên hai cái nhà máy này phải ra đời. Vì cái nhà máy mà nước thiên nhiên này đó, nó không có cái đầu tư, cái vốn, tại lòng đất mình lấy cái khu đất nào mà nước tốt, mình sẽ khoan cái giếng mình lấy đó mình lên cái nhà máy mình lọc mình đóng vô chai, mình bán, người ta uống nước đó vẫn có cái tốt của họ. Họ mua cái chai nước này nhưng mà họ làm việc từ thiện với mình, phải không. Thì thử nghĩ coi, khi mà cái nhà máy Thầy ra làm việc từ thiện vậy, bây giờ quý cư sĩ nghĩ sao, đi mua nước Vĩnh Hảo hay là mua nước của Thầy, phải không, mình phải hiểu vậy chứ.

(32:46) Đó là cách thức của Thầy mà. Còn bây giờ mình đồ chay, đồ hộp thì ở trong nước mình có đậu phộng nè, đậu xanh, đậu nành rồi tất cả những loại đậu, núm cũng có nè, phải không. Mình lấy cái vật tư đó mình sẽ làm ra đồ hộp, bắt đầu từ đó mình bán cái này mình cũng làm cái việc từ thiện. Thì Thầy thấy hai cái này thì kể như là có thể làm được, xin phép chắc có lẽ nhà nước cho.

Phật tử 1: Cái đó là chánh nghiệp của Bát Chánh Đạo đó.

Trưởng lão: Ò, Chứ sao nữa đó là đúng đó.

Phật tử 1: Không có đụng chạm gì đến cái chuyện mà ác cả, hoàn toàn là từ thiện.

Trưởng lão: Không có ác.

Phật tử 1: Không có đụng chạm gì tới ai hết, của thiên nhiên mà, của trời cho nhưng mà mình làm mang ý nghĩa tinh thần là nước này là nước thanh tịnh, nước thanh tịnh ngay trên vật chất.

Trưởng lão: Mà nó mang được cái tâm niệm tốt.

Phật tử 1: Tâm niệm rồi có cái ý nghĩa.

(33:28) Trưởng lão: Bởi vậy Thầy nghĩ, Thầy sẽ làm. Nếu mà đủ duyên là sang năm Thầy xúc tiến làm cái nhà máy trước, rồi bắt đầu nó mới, cái cái, Thầy dự thảo cái phương án mà trung tâm an dưỡng từ thiện ở ngoài, nó mười chín mẫu đất của Thầy ở ngoài đó Thầy đã dự định làm cái chương trình đó rồi, ở ngoài Phước Hải đó. Một khu rừng Thầy trồng ở ngoài đó mười chín mẫu đó.Thầy Thông Luận đứng tên với Thầy ngoài đó bởi vì thầy Luận có hộ khẩu ở đó cho nên thầy đứng tên, còn Thầy là người ở địa phương khác, cho nên Thầy đứng tên, Thầy mua khu đất đó mà. Thầy đứng tên cái khu đất đó.

Phật tử 1: Ngay tịnh thất của thầy Thông Luận đi tới nữa hay sao?

Trưởng lão: Đi tới nữa, đi xuống dưới khu dưới khu Minh Đạm.

Phật tử 1: Qua khỏi chùa (không nghe rõ) không?

Trưởng lão: Khỏi, đi xuống dưới. Khu đất Thầy rộng lắm. Hồi đó Thầy cất khoảng độ chừng mười mấy, hai chục cái thất ở ngoài đó, Thầy tính Thầy làm cái tu viện chuyên tu ngoài đó. Hoà thượng Thanh Từ hồi đó đặt cái tên nó là Chơn Lạc, là cái tu viện Chơn Lạc ở ngoài đó, lấy cái tên của Thầy rồi lấy chữ “Chơn” mà đặt cái Chơn Lạc. Do vì vậy mà Thầy ra đó, nhưng mà thời đó, thời lúc bấy giờ Chơn Nguyên nó phát triển quá, xây dựng này kia Thầy …​(không nghe rõ) . Xây dựng cái bắt đầu Nhà nước nó quét ở đó cái nó quét Thầy luôn, thành ra thôi rút. Hồi đó Thầy đưa thầy Tôn Uyển về ở đó, biết thầy Tôn Uyển là Chơn Quang bây giờ đó, Tôn Uyển về đó. Sau đó quét rồi thầy Chơn Quang đó mới xuống ở dưới Bửu Long đó, ở dưới để chăm sóc cái khu đất đó. Nhưng mà Nhà nước đụng chạm với ở Bửu Long như thế nào đó, Nhà nước quét rồi mới đi về núi Vinh, mới cất cái Phật Quang ở đó.

(35:09) Hồi đó Thầy đưa một số đệ tử ra đó, mà chuẩn bị để mà làm cái trung tâm đó, mà chuẩn bị để ở đó để mà làm mà không thành, thôi rút. Rút rồi bây giờ cái chương trình đó thì còn nằm đó nhưng mà chờ năm tới này Thầy chuẩn bị cho mấy cái nhà máy này xong được rồi Thầy xin phép cái này tiếp tục làm. Tập trung cái số cư sĩ có cái cái kinh tế đó, bắt đầu xúc tiến mình làm. Thì trong cái đó thì coi như là tuy rằng cái trung tâm an dưỡng, nhưng nó có cái sự an dưỡng, cái sự tu tập của cái cái an dưỡng của giới chuyên tu ở trong đó, nhất là những cái người mà tu sĩ chuyên tu. Đó là cái gương hạnh tốt để cho những người mà người ta đến đó người ta trị bệnh, người ta đến đó người ta an dưỡng rồi người ta sẽ thấy được những cái hành động tu của Phật giáo tiêu biểu. Đó là cách thức của Thầy để người ta thấy được cái gương hạnh chơn tu.

Phật tử 1: Hay quá à

Trưởng lão: Khó lắm à con.

Phật tử 3: Khó lắm à Thầy, hơi khó đó

Phật tử 1: Nhân đây con xin cầu nguyện sao cho chư Bồ Tát giúp cho Thầy sức khoẻ còn đủ kéo dài đến thời gian Thầy thực hiện được. Cái người sau mà làm không đúng cái ý của Thầy.

(36:21) Trưởng lão: Nếu mà nói, nếu mà không có Thầy thì làm sao mà, sợ làm mà, nhiều khi nó lệch lạc đi đó. Bởi vì Thầy đang nghĩ đào tạo cái số người mà để sau này đứng ra điều hành với cái tâm phải xả của họ thật tốt. Chứ nếu mà, hôm đó mà, như các cư sĩ biết Thầy khi mà làm cái chuyện đó thì Thầy tiếp xúc với cái đoàn mà từ thiện của Đài Loan. Họ đến đây gặp Thầy bốn người mà, đến thăm khu đất đó rồi bắt đầu họ đồng ý rằng họ hợp pháp họ trợ giúp Thầy toàn bộ như nhà máy này kia đồ, họ ráp bên đó sẵn họ chở qua bên đây, cho một chiếc tàu chở qua bên đây. Đưa lên là họ, tự kỹ sư của họ ở bên đó họ qua họ ráp. Thậm chí như những cái ngôi nhà, cái ngôi nhà mà của mình xây cất bên đây, vật liệu bên đó nó mua ở bên đó nó chở qua bên đây nó đem lại ngay chỗ đó nó cất lên cho mình luôn. Nghĩa là nó bỏ ra một cái số vốn tiền nó vậy, nhưng mà có điều kiện là nó xin Thầy có một cái điều kiện là cho nó mở cái cái côi nhi viện ở trong cái tu viện đó để mà nó nuôi những trẻ mồ côi phụ Thầy trong phần đó.

(37:31) Thầy thấy tốt, nhưng mà Thầy sợ, Thầy sợ có một điều, có điều là sợ nó làm cái việc này rồi nó thế chánh trị vô đây. Thầy sợ nhiêu đó. Cho nên Thầy, trong khi đó Thầy mới liên hệ, liên hệ bên chính quyền bên công an đó, xét thử coi cái nhóm từ thiện này có phải là những người tốt hay không. Giúp giùm Thầy chứ còn không nó nó nó vô đây nó làm một cái là mình tan nát hết, Nhà nước đập hết không có để đâu. Cho nên mình phải đưa cái chính quyền vô đây để xem xét giùm mình, hỗ trợ cho mình thì nó mới được, như vậy nó mới được. Còn riêng mà đứng về mà độc lập mà riêng mình thì mình về mặt chính trị mình không thể nổi với những người làm chính trị đâu, họ có những cái thủ đoạn kinh lắm, họ xen vô rồi chừng mà nó lộ ra mình biết thì tan nát hết rồi. Đó, ngoài mặt là từ thiện đó chứ bên trong họ là cái gì đâu mình không có hiểu nổi.

Bởi vậy Thầy nói, khi làm rồi mình phải suy tư, trong cái gì mà vấn đề quan trọng như vấn đề tiền bạc đó, là mình phải phải đưa vào cái người phải quản lý chặt chịa chứ không khéo sơ sót trong đó cũng nguy hiểm lắm. Nó có nhiều cái mặt lắm, khó lắm. Bởi vậy Thầy nói số cư sĩ của Thầy chưa đủ mà nhiều, thành ra Thầy mong rằng sau này mà Thầy chọn được ai mà có nhiệt tâm mà quyết vì dân tộc, vì con người trên hành tinh này mà chúng ta làm việc này thì mới được. Chứ còn đừng có vì cá nhân của mình, có nhiêu đem hết mình vì con người trên hành tinh, vì hạnh phúc của họ, thì chúng ta chết bỏ nhất định là phải làm rốt ráo. Thứ nhất là mình phát triển nơi đất nước quê hương của mình, mình sanh đẻ ở đây, mình làm cho đất nước mình, cho dân tộc này cho tốt, thứ nhất, cái thứ hai đó là khi mà tốt ở đây được thì cả thế giới đều là người ta hướng đến, và cái sự tu tập của Thầy nó bảo đảm rồi, nó bảo đảm chắc chắn là Thầy sẽ thực hiện được những cái gì mà Phật đã dạy. Cho nên Thầy thấy những cái điều này để chứng minh cho Phật giáo được cái chỗ đó.

(39:30) Khi mà mình tiếp giao với các nước ở ngoại quốc ở trên thế giới thì cái hành động của mình sẽ thực hiện để chứng minh Phật giáo là như vậy, và Phật giáo chính làm những điều này chứ không phải cất những ngôi chùa. Những ngôi chùa là tại vì mình ảnh hưởng các cái tôn giáo khác trên bước đường đi mình ảnh hưởng mình cất thôi chứ còn Phật giáo thì nó có những cái cơ sở của nó, đơn giản rất đơn giản để mà thực tu, thực tập chứ không phải mà những cái nhà kiên cố như vậy. Đó là cách thức để mình nói lên được những cái lịch sử của Phật giáo ngày xưa, chứ còn bây giờ mình chưa làm gì được hết mình nói cũng như nói miệng.

Phật tử 1: Đó là Thầy muốn tạo cái môi trường để mà Thầy hướng dẫn về cái đạo đức. Phải có môi trường tốt.

Trưởng lão: Phải có cái môi trường. Cũng như bây giờ mình muốn đào tạo con em học tập mà không có trường học thì làm sao mà đào tạo. Đủ thứ cái điều kiện, mà bây giờ nếu mà mình muốn đào tạo vậy mà không có cái chi phí cho cái nguồn học cho những người mà dạy trong đó thì làm sao mà. Cũng như bây giờ thí dụ như trong đất nước mình, về đường xá giao thông đó thì nó cũng quan trọng, bởi vì đi lại mà vận chuyển kinh tế mà không có đường xá thì làm sao, thì cái đó là cũng quan trọng. Nhưng mà ngành giáo dục là quan trọng, thế mà đầu tư ít thì làm sao người ta đủ sức người ta lo phải không. Cô giáo gì mà đi dạy học về còn đi lặt đậu kiếm thêm thì làm sao người ta dạy, tháng có bao nhiêu tiền làm sao người ta đủ. Trời đất ơi làm sao !? Thì thử hỏi quý cư sĩ nghĩ sao khi mầm non của Tổ quốc là những con người phải có tài, nó mới điều khiển nổi cái đất nước, chứ không có tài làm sao điều khiển nổi, mà không điều khiển nổi đó thì nó loạn, nó trộm cướp rồi nó loạn đủ cách ở trong đó, phải không. Cho nên vì vậy mà mình không lo đào tạo, mấy ông già trong cuộc cách mạng đánh Mỹ đuổi giặc đó thì tốt rồi. Nhưng mà sau này kinh tế không phải chuyện dễ đâu. Họ nó sẽ loạn đó, bởi vì kinh tế, tiền bạc rồi cái tâm ông nào cũng tham hết thì hối lộ ai lo, lớn ăn lớn, nhỏ ăn nhỏ, mà không đào tạo những cái người mà có đạo đức thì chừng đó đất nước sẽ đi về đâu.

Đó, nó khổ như vậy. Mà nó đâu phải, bây giờ mấy ông coi vậy chứ mấy ông làm lớn thì mấy ông không khổ nhưng mà dân chúng khổ lắm. Đó bây giờ Thầy nói bây giờ thiên tai hoả hoạn như vậy, tại vì người ta đói người ta mới chặt rừng người ta phá chớ, người ta no làm sao người ta chặt rừng người ta phá !? Mà ta phá thì cái hậu quả nó để lại thì ai gánh đây !? Còn bây giờ ví dụ như bây giờ đó, mình cho tập trung các nhà máy nó vào trong đất nước mình nó sản xuất ra làm cái này, cái kia, bột ngọt hay hoặc là xà bông đồ vậy, nó thải, ở trong cái bầu trời đất nước Việt Nam này nó ô nhiễm hết trơn rồi thì thì dân tộc này phải bệnh không !? Làm bao nhiêu rồi bắt đầu bây giờ cứ uống thuốc bệnh đó nó cũng hết sạch không còn cái gì nữa làm sao mà sống nổi đây. Sao nước người ta người ta biết đưa nhà máy qua đây, còn mình mình nhận nó vô đây, bộ mình muốn chết sao !? Đó mình phải xét điều đó chứ, trời ơi bởi vậy mình đào tạo cho những tuổi trẻ của mình nó có những khả năng nó nhìn thấy khi mà nó lãnh đạo, nó gạt phắt đi, tôi tự phải làm lấy. Mà muốn có nhà máy mà đặt á thì phải phải phải thải những cái độ độc này phải có cái chỗ như thế nào chứ còn thải chung với nước như vậy không được, đó vậy nó mới được. Đó là những cái khó.

(42:50) Cho nên ở đây đó Thầy nói nhìn Thầy thấy cái gì quan trọng thì mình phải đầu tư cái đó, cũng như Thầy nghĩ cái trung tâm an dưỡng cái gì quan trọng Thầy đầu tư trước. Thầy sẽ đầu tư cái đó. Bởi vì đầu tư những cái nhà máy là cái kinh tế của mình chứ, đâu mình ngửa tay mình xin người ta cho mình hoài được sao, mình phải thấy điều đó. Ờ người ta thấy mình làm tốt người ta cho, cho làm sao đủ cái nhu cầu của mình được, phải không. Mình phải cung cấp cho cái cái bệnh viện mình như thế nào chớ, thành ra mình phải lo cung cấp trước. Thì cái nhà máy bây giờ, mình mở cái nhà máy thì mình thu được cái số nhân công, giải quyết được vấn đề xoá đói, người ta có nghề nghiệp người ta đâu có đói nữa, phải không, nó giảm cái sự nghèo lại. Cái nhà máy mở ra là mình đã thu được một số nhân công ở trong đó, mình giải quyết được một số thất nghiệp, mà hai cái nhà máy được bao nhiêu người mà mười cái nhà máy được bao nhiêu người, và cái số lợi đó để làm gì. Thì dân tộc này có phải hưởng được phần phước không?

Nhưng ở đây Thầy phải nói rằng dù sao đi nữa cũng là do nhân quả. Nếu dân tộc Việt Nam có đủ phước thì những cái này nó sẽ thực hiện được, mà không đủ phước thì Thầy giờ có muốn cũng không làm được. Bởi vì cái phước của người ta chứ đâu phải phước của mình Thầy, Thầy giờ cái phước của Thầy đầy đủ rồi, Thầy tu như thế này hay là Thầy có đói nữa đâu mà Thầy lo, phải không. Bây giờ có nước ngập đây là Thầy đi tới bên kia nó đâu có ngập Thầy nữa, Thầy đâu có nhà cửa đâu mà dính, làm sao mà Thầy dính. Mấy con có nhà cửa mấy con đi không được, mấy con bỏ không được nó mới bị nước trôi. Còn Thầy có gì đâu, nghe trời mưa là Thầy thấy nó ngập lụt là báo động là cái bát ở trên vai của Thầy, thì Thầy đi đến cái chỗ nào cao hơn Thầy ở chứ Thầy điên chi ở đây uống nước, phải không. Thấy có sự giải thoát rõ không, Thầy không dính. Còn mấy con dính hết, làm sao bỏ được, của cải, tài sản, rồi con cái, con đùm đùm đề đề, muốn đi đâu đơn giản, tới chỗ khác ở cũng đâu dễ. Còn Thầy tới đâu không được, tới đó tới cái chùa nào Thầy xin cơm ăn cũng được, có mình Thầy nó đâu có gì đâu.

(44:39) Phật tử 1: Cái chương trình của Thầy mà nếu mà thực hiện được thì đúng là trên thế giới này cũng có một người chứ không có hai à Thầy. Bởi vì các nước đó có những trung tâm thiền nhưng mà ai vô đó phải đóng tiền, ví dụ như ở đó ba mươi ngày ngày phải đóng tiền bao nhiêu đó chứ?

Phật tử 2: Ở Long Hải chứ không phải ở đây hả Thầy?

Trưởng lão: Không phải ở đây. Ở đây á thì bên chiến cơm Minh Đạm đó, ở ngoài đó thì hợp

Phật tử 2: Ở chỗ chùa Linh Quang.

Phật tử 1: Bây giờ có khu đất mười chín mẫu đó.

Trưởng lão: Ở ngoài đó thì thầy Thông Luận chạy tới, chạy lui coi dùm Thầy hết.

Phật tử 1: Hồi nãy giờ con cũng đang suy nghĩ về cái quá trình mà Thầy có một cái nội lực như vậy đó, nhưng mà bản thân Thầy là có một người, một người bây giờ thấy lộ thêm một ý nữa là phước của những đối tượng được giúp đỡ như thế nào, phước của người ta thì một mình phước của Thầy cũng không đủ để mà chuyển thành lập được. Con cũng xin nêu cái ý này nè, vậy thì Thầy có nghĩ đến cái chỗ là nếu mà cái nghị lực mình khấn lên cái chư Bồ Tát, chư Bồ Tát có thể hỗ trợ cho Thầy, thì cái điều này theo Thầy thấy có nhu cầu không, hay là thầy dựa theo nhân quả mà nếu người dân ở trong nước mình, những đối tượng mình đang nghĩ đến tương lai như vậy …​(không nghe rõ).

(46:05) Trưởng lão: Không, nhưng mà cái tâm tha thiết của Thầy, thì là nó cũng tuỳ vào cái phước của chúng sanh chứ không phải của Thầy. Cũng như bây giờ Thầy muốn độ người đó tu giải thoát mà người đó không có đủ phước bây giờ Thầy nói gì họ cũng không nghe, còn họ có đủ phước Thầy nói một họ nghe tới mười lận, phải không, Cái khó là khó chỗ đó. Cho nên ví dụ như bây giờ cái phước của họ nó mỏng nó ít quá mà Thầy muốn cho họ thêm phước không được, bởi vì mình giải quyết về nhân quả cho họ, chính cái bản thân của họ phải giải quyết.

Nhưng mà trong cái đất nước này có một người tu mà có tầm vóc nghĩ như vậy đó, thì cái dân tộc này cũng có phước rồi đó. Chứ nhiều nước người ta chưa có người nghĩ vậy sao, phải không. Nó phải có cái phước rồi đó, tức là cái nhân nó có rồi, nhưng mà cái quả của họ để hưởng đó có được ngay trong kiếp này hay là còn phải một trăm năm sau !? Nhưng mà cái điều kiện như bây giờ Thầy viết một cuốn sách, đâu phải cuốn sách trong cái đầu Thầy rồi nó mất đâu, cả bao nhiêu trăm năm sau nó còn. Cho nên đời Thầy đâu có phát triển được Phật giáo được, một trăm năm sau may ra nó có người phát triển, nhưng mà họ nắm được cái tài liệu này, còn nếu Thầy không để lại thì họ biết đâu họ phan, phải không, cho nên không mất.

Thầy để lại cái chương trình này nó sẽ không mất, Thầy tin rằng sẽ có người và phước của dân tộc Việt Nam sẽ đến. Khi mà cái giáo trình đạo đức nhân quả của Thầy đưa ra thì ít ra mười người họ cũng được một người giữ đạo đức chứ. Nó lại tăng thêm cái số người có đạo đức trong đó, thì cái phước báu nó lên, nó tăng lên, và nó càng ngày nó tăng lên thì nó đúng cái mức của nó, thì cái chương trình nó sẽ ra đời. Thầy phải đi từng bước chứ còn nếu, đây là cái điểm của Thầy đã nhìn nhưng mà phải làm từng cái bước một. Cái giáo trình đạo đức nhân quả Thầy sẽ đi ra với cái bước này, chứ nếu mà nói như vậy là không cần cái đạo đức này, mà Thầy chỉ đưa ra cái trung tâm rồi lo xây dựng trung tâm, thì như vậy sai mất, mất cái gốc đi. Thầy phải tạo cho họ có đủ cái phước để hưởng cái này thì nó mới đúng, còn không có dùng tha lực của Bồ Tát được.

(48:04) Phật tử 1: Con thấy quan điểm đó thì chính con muốn học Thầy, Thầy đã phát biểu cho con hiểu được theo quan điểm của Thầy, không cần tha lực, chính cái nhân quả nó tự, cái nghiệp nó tới, cái quả nó trổ. Rồi khi nó chưa đủ duyên nên cái quả nó chưa trổ. Cho nên cái duyên.. Với lại cái duyên mà ông Đài Loan nào đó thì cũng chưa phải là cái duyên chánh, nên thành ra nó cũng chưa thành tựu được, bởi còn kẹt đủ thứ chuyện, nào là chánh trị đồ gì

(48:31) Trưởng lão: Đó nó đủ thứ hết đó. Thành ra cái buổi họp đó thì họ nói tiếng Hoa, mà Thầy thì đâu có biết tiếng Hoa. Thì lại trong cái bữa đi đó thì lại có cái người đệ tử của Thầy là người Hoa, họ cũng rành tiếng họ lắm rồi cái họ làm thông ngôn, họ nói chuyện với mấy ông Tàu đó nói với Thầy. Trời ơi thành ra nó đỡ quá có người thông ngôn rồi. Trong cái may mắn đó, thì trong cái đoàn đó lại có cái ông Mỹ, cái người Mỹ, ông đó ổng đi, ổng đi trong cái đoàn đó thì ổng nói tiếng Mỹ nhưng mà cái người Hoa đó họ rành tiếng Mỹ, họ thông dịch lại cho ổng, ổng nghe. Ổng nói ổng sẽ về nước ổng, ổng sẽ củng cố những cái điều này và kêu gọi những cái hội từ thiện ở bên nước ổng sẽ hỗ trợ cho cái trung tâm khi mà nghe Thầy nói cái Thầy làm đó.

Sự thật nhưng mà Thầy dò xét rồi Thầy thấy chưa được, tại vì nó có chính trị trong đó. Bởi vì trong cái, trên bước đường đi đó thì, trong mấy cái ông Đài Loan đó thì họ có nhắc đến, nhắc đến Phật giáo Việt Nam Thống Nhất thầy Tuệ Hỉ với Mạnh Thá, hai cái người này, trong khi hai cái người này thì họ có những cái ý của họ về họ hiểu biết đó, về cái cái hệ tư tưởng của họ. Đó là cái tư tưởng của người ta rồi, thành ra Nhà nước này thì cho họ là có cái ý chống lại cách mạng chứ gì, vì vậy theo Thầy thấy nó cũng không phải, nhưng mà mấy người này họ lại có ý hướng đó.

Cho nên trong khi đó nếu mà Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đang ở ngoại quốc mà nếu mà làm cái gì thì họ bỏ tiền ra giúp mình nhưng có cái điều kiện là phải chống lại cái giáo hội này. Đó là giáo hội mình đây nè, chứ không phải chống Nhà nước, chống lại cái giáo hội mình đây thôi. Thầy không làm, Thầy nói làm như vậy là lộn xộn đất nước hết, dẹp mấy ông này qua bên, không được. Làm từ thiện mà kiểu này họ phân chia ra trong cái giáo hội của mình, không được. Bởi vậy Thầy mới, khi mà làm vậy Thầy mới mới nhờ mấy cái người ở bên ngành công an họ theo dõi thử coi mấy người này họ như thế nào, sau đó họ báo những người này họ đang ở bên chỗ Phật giáo Việt Nam Thống Nhất, bên Tịnh Độ. Thành ra coi vậy chứ ngoại quốc nó đủ mặt ở trong đó hết đó, khó lắm, nó làm từ thiện chứ chưa thiện đâu.

Phật tử 1: Thiện mà cũng có điều kiện gì đó trong đó hết, nó đặt điều kiện.

(50:55) Trưởng lão: Nghĩa là nói chung là khi mà Thầy mà cần mà bằng lòng một chút là tiền nó đổ vô. Nó nói nó gợi cho mình thấy rõ mà, nghĩa là nó vật tư này kia ở bên nước nó nó không cần qua bên đây nó mua bên đây đâu, bên đó nó sẽ kéo qua bên đây, nó xây dựng luôn cả nhà cửa cho mình luôn hết, nghĩa là công văn của mình như thế nào nó sẽ làm y thế hết.

Phật tử 1: Vì vậy điều họ làm dã dựt chừng nào, họ đổ đầu tư vào chừng nào thì đâm ra mình cũng nghi đến mức sau lưng đó có cái ý đồ

Trưởng lão: Đó, chính cái chỗ đó. Họ gợi cho mình ham muốn mà. Nếu mình còn cái ham muốn đó, mình thấy ham muốn cái số tiền vĩ đại như vậy mình ham muốn thì mình bị người ta xỏ mũi rồi, phải không, con thấy đúng không. Mình làm đem lại hạnh phúc cho mọi người chứ đâu phải đem lại chiến tranh cho mình đâu, đem lại cái sự náo động thì đâu được. Thầy, Thầy khi mà nói chuyện hơi mà ngồi đi lên trên đường ra ngoài tham quan khu đất mà, rồi trên xe rồi họ ngồi nói chuyện rồi cái ông Út ông gì đệ tử của Thầy đó, qua họ ổng thông dịch lại cho Thầy. Thầy làm thinh à, Thầy không nói gì hết. Sau đó rồi Thầy, tới chừng mà về rồi đó, nhờ bên ngành công an họ qua cái họ xem …​(không nghe rõ) như thế nào rồi thôi. Thầy nói thôi bây giờ mình không làm việc nữa. Họ nói những cái người này đó, đều Nhà nước đang theo dõi chứ chưa có nắm chắc, chừng nào mà người ta biết chắc người ta báo cho. Còn bây giờ người ta cũng chưa có xác định chắc nhưng mà người ta nghi ngờ.

Phật tử 1: Mà có khi nào Thầy những vị chuyên môn về kinh tế hay là ví dụ chiến lược kinh tế để biết cái tổng số chi phí cho tương lai về cái công trình có thể lên bao nhiêu tỷ hay như thế nào, có một người nào phân tích sau khi được hội ý với Thầy rồi đó, người ta phân tích ra, người ta tính sơ bộ số tiền lên đến bao nhiêu vậy chứ, ước chừng khoảng bao nhiêu?

Trưởng lão: Nó tới mười mấy hai mươi mấy tỷ đó, mười bảy, mười tám tỷ đó, chứ không phải ít.

Phật tử 2: Bằng số tiền cứu trợ miền Trung.

Trưởng lão: Bởi vì mà những cái máy móc này kia đồ ở về bệnh viện đồ máy y khoa đồ đó, thì người ta trang thiết bị cho cái bệnh viện của mình người ta gửi qua người ta cho mình đó. Mà Thầy thấy ở trong vấn đề đó là mình phải lo của mình, người ta cho mà nhiều khi nó có một cái gì mình sợ lắm.

(53:23) Phật tử 1: Thưa Thầy gần đây có nói cho Thầy nghe có nghe thầy Thông Luận báo cáo cho Thầy nghe về những cái dự án như bên mấy cái nước tiên tiến như Mỹ hay là Thuỵ Sỹ do một vị nào mà có cộng tác với bao nhiêu năm rồi, cựu giám đốc của đài Truyền Hình Việt Nam, thầy Thông Luận coi, một ông nào ổng cỡ tám mươi tuổi tên gì con quên rồi mà ổng có cái tinh thần là có tâm đạo, cùng với ông gì mà giám đốc đài Truyền Hình, và có mời thêm những đệ tử khác cùng hoạt động ở chỗ khu tịnh thất của thầy Thông Luận đó. Rồi có mời thầy Thông Luận ký tên, nhưng được có 2 chữ ký à, còn 2 chữ ký của một vị linh mục nào đó nữa với lại thầy Thông Luận. Thì Thầy Thông Luận nói thầy sẽ trình lại cho hoà thượng, hoà thượng ở Trúc Lâm đó, rồi sau này tiến hành, rồi thầy đưa thêm một cái dự án toàn là mấy chục tỷ đô la không à, mà ở nước ngoài nó đầu tư để nó khai thác cái khu vực đó, khu vực thuộc thầy Thông Luận. Rồi thầy Thông Luận kêu chùa đồ còn chừng khoảng hai ba mẫu một mẫu gì thôi, rồi còn lại bao nhiêu mà muốn đầu tư muốn làm cái cơ sở cũng mang cái tính xã hội từ thiện, là để cho thầy Thông Luận ở đó thi thoảng dòm ngó dùm. Nghe sao thấy lớn thế, mà số tiền cũng tiền tỷ đô la.

Trưởng lão: Ngán quá. Nghe mà thấy sợ.

Phật tử 1: Con nghe, hồi nãy giờ con chợt một nhớ ra một mẩu chuyện đó …​(không nghe rõ), đưa dự án ra, thì con thấy lớn quá mà không biết khi nào mới thực hiện mà trong đó quên cái mục chính trị sau khi giống như Thầy nghĩ tới đó. Bởi vì con nghĩ thì cũng khi mà nếu như đứng về phương diện xã hội từ thiện mà có miếng đất rồi cũng coi nhiêu năm ổng ký, mà cũng khó đó, vừa là tôn giáo mà vừa là tôn giáo phật giáo mà thiên chúa giáo

Trưởng lão: Mà có thiên chúa nữa, không được.

Phật tử 1: Có 1 vị linh mục, chuẩn bị ký tên, mà còn như là bốn chữ ký mà giờ là mới có 1 chữ ký một ông cụ này.

Phật tử 2: Nghe nói các cái khu đó đó, không phải, cái chỗ đó có nhà thờ, có của thầy Thông Luận, thì bây giờ cũng như là người ta hội ý để người ta xin một phần trên đó để người ta lấy để làm để người ta giúp cũng như là khi người ta lấy phần này người ta bồi thường lại để thầy Thông Luận có tiền để mà đầu tư vậy đó. Theo tui, tui nghĩ vậy đó, chứ không phải là, còn cái đó thì vẫn của người ta. Có nghĩa là bởi vì lớn quá thầy Thông Luận không quản lý nổi, mà thầy sẽ.

Trưởng lão: Không có tiền, không có tiền mà xây cất nữa.

Phật tử 2: Dạ không có tiền, thì có thể là người ta sẽ đền bù cho thầy Thông Luận một khoảng đó để thầy phát triển về Phật giáo của Thầy, còn người ta làm phần của người ta, mà ta dựa cái cơ sở là chỗ đó có cái thuỷ đó Thầy, đó, đó để đó để làm cái khu du lịch gì đó.

Trưởng lão: Ừ nhưng mà nó muôn mặt, con người muôn mặt lắm, Thầy thấy mà nó tổng hợp như vậy.

Phật tử 1: Bảo vệ môi trường thiên nhiên gì đó, đúng rồi, cái danh từ của cái hội đó.

Phật tử 2: Với con thấy cái chỗ mà có môi trường thiên nhiên người ta cũng đến tham quan dữ lắm đó, như coi cái đài Bình Dương hay có những cái chỗ mà nó.

Trưởng lão: Không, mình thì nghĩ tốt, nhưng mà người ta nó nó.

Phật tử 1: Có cái điều kiện sao đó.

Phật tử 3: Dĩ nhiên là họ sẽ tới đó, họ cũng tham quan là phải có tiền, có tiền họ đầu tư ra được họ phải thu hồi vốn chứ.

Trưởng lão: Bây giờ thật sự ra bây giờ mình cứ như vầy nè, mình muốn chắc ăn đó, mình muốn hợp tác với ai chắc ăn đó, mình cứ nhờ chính quyền, phải có chính quyền. Chứ không mình làm bậy họ bắt bẻ mình chết á, chỉ có mình đưa chính quyền vô nhờ thì mới được, nó mới êm thôi

Phật tử 3: Em nghĩ chắc cái ông gì đó tại vì ổng về hưu đương nhiên về mặt chính quyền ổng có quan hệ.

(56:52) Trưởng lão: Tôi làm tốt cho dân tộc, tôi làm tốt nhưng mà phải có Nhà nước xen vô trong vấn đề bảo vệ an ninh, chứ còn tôi làm sao tôi bảo vệ được cái điều này. Bởi vì muôn mặt của cái người ngoại quốc mình không biết được đâu. Cho nên mình cứ nhờ ngay cái mặt chính quyền người ta xem xét dùm mình, được thì mình xúc tiến không được thôi, thà là mình chồi tranh vách lá.

Phật tử 1: Bởi vì trong cái công trình nào mà lớn mà nói chuyện mấy chục tỷ tiền Việt Nam đó, thì thấy rằng nhiều cư sĩ Việt Nam mình góp lại rất là khó khăn, khó thành tựu được, mà khi có một cái nhân duyên mà nước ngoài chẳng hạn Đài Loan, cũng nhờ cái đạo tâm đó mà cũng như cái cơ sở hoà thượng Minh Châu, bốn trăm ngàn đô la.

Trưởng lão: Làm liền không có được đâu, Thầy thiết nghĩ mình phải làm từng bước.

Phật tử 1: Ban đầu là bốn trăm ngàn đô la, hôm bữa thầy Chơn Thiện đó, thầy Thích Chơn Thiện mới kêu lên cái ông Quảng Tâm mới đòi đi làm vận động là hai ba chục đô la, hay là hai ba chục ngàn gì đó, tui có nghe.

Phật tử 2: Tất cả là tám trăm ngàn đô la, nhưng mà vẫn còn thiếu. Bảy tỷ, bảy tỷ.

Phật tử 1: Bổ sung vô tầng một với tầng hai, gộp vô tầng ba rồi bây giờ vẫn tiếp tục còn đang trang trí nội thất tiếp tục.

(57:57) Trưởng lão: Bây giờ mình đừng có làm nhanh như vậy, mà mình làm thế này nó ngừa cái mặt chính trị, người ta sẽ đổ vô mình ngán lắm. Thôi mình làm như thế này nè, chẳng hạn bây giờ đó mình mở ra những cái nhà máy để cho có cái nguồn kinh tế đã, rồi bắt đầu mình làm cái trạm xá. Nó nhỏ bắt đầu từ từ xin cách thức của mình làm. Bởi vì khi cái nguồn tài chánh của mình đâu nhiều được mà làm, còn người ta đổ vô đó thì làm lớn ì xèo coi chừng ở trong đó nó có những cái mà nó xỏ mũi mình mất đi, mình nhận của người ta nhiều quá nói không được, rồi chừng đó ta sai mình làm cái gì cũng phải chịu hết, mất cái chủ quyền của mình, Thầy không chấp nhận điều đó. Thà là tự lực của Thầy, bây giờ các cư sĩ mình trong này một ít thì mình làm cái trạm xá nhỏ, mình tuần tự, mình lấy kinh tế này mình lần lượt mình triển ra.

Hồi đó Thầy về đây, cũng như cái tu viện hồi đó đâu phải mà Thầy xin phật tử, thật sự Thầy xin phật tử mà xây dựng cái này thì cũng nhanh lắm, nhưng mà Thầy không có làm điều đó đâu. Mỗi lần mà ăn uống thì Thầy dành dành dụm chút chút, chút chút, mỗi lần chút. Thí dụ như giờ một ngày thay vì mình ăn nhiêu đó, thì mình dành ra năm trăm, ba trăm hay ngàn hai ngàn, rồi bắt đầu bây giờ nó đủ số mình cất cái thất là cất cái thất. Không xin phật tử, không xin một đứa nào hết, Thầy không kêu gọi ai hết. Mà bây giờ coi đơn giản vậy chứ coi vậy chứ tiền không chứ không phải dễ đâu. Nhưng mà ỗi lần, mà mười năm trời mà Thầy mới hoàn thành được cái khu tu hành như thế này, thì đủ biết là cái dành dụm của mình phải khó rồi, thì mỗi lần cứ chút chút mình làm thôi. Chứ đừng có mà mình vẽ cái này rồi cái mình kêu phật tử: “Ừ bây giờ Thầy muốn cất cái này, cái này, cái này” rồi mỗi người xin đóng, người ta phải, ép buộc người ta phải bỏ tiền ra mình thấy đau khổ, Thầy không làm điều đó. Cho nên cái điều kiện Thầy làm là giữ giới, bởi vì từ cái phước duyên của chúng sanh mà Thầy làm.

(59:39) Bây giờ thí dụ như bây giờ Thầy có cái phước, thì có người ta thấy chuyện Thầy làm tốt, họ bỏ ra năm ngàn, ba ngàn, triệu hai triệu tuỳ cái lòng hảo tâm, có được nhiêu Thầy sẽ làm làm lần lượt từ triển khai, theo cái phương án mà Thầy đã, cái đồ án, phương án Thầy đã vẽ ra như thế nào thì bây giờ Thầy làm như vậy. Nghĩa là cái nào làm trước, xây dựng trước, cái nào làm sau, làm cái nào được, thu nhận người vô trị bệnh như thế nào. Thì ví dụ bây giờ Thầy chỉ có năm chục cái giường, thì Thầy sẽ thu năm chục người, người nào tới trước Thầy thu, mà người nào tới sau mà hết giường thì thôi, chờ chừng nào Thầy có dư Thầy thu nữa. Chứ giờ Thầy có đủ bây nhiêu thì thôi chứ không hơn nữa, nó vậy đó. Thầy làm cũng như là trái chuối mình lột mình ăn lần thì bảo đảm là chắc ăn. Mà ai có lòng tốt bỏ vô, xét thấy người ta tốt thật, vì từ thiện thì mình nhận, mà vì có mục đích gì trong đó thì không nhận.

Phật tử 3: Thí dụ giờ chương trình của Thầy là năm tới Thầy bắt đầu.

Trưởng lão: Thầy sẽ cố gắng Thầy làm mà, Thầy cố gắng, nhưng mà Thầy xét thấy nếu mà nó chưa được thì đình chỉ lại, chưa phải lúc.

Phật tử 1: Nếu mà thấy mà có đủ duyên tụi con cũng vận động một số phật tử trong nhóm ủng hộ cho Thầy phần nào hay phần đó.

Trưởng lão: Thôi, chưa cần lắm. Thầy nói bây giờ một đồng cũng quý nữa, nhưng mà phải ở chỗ cái tâm.

Phật tử 2: Dạ đúng rồi tui con là tâm thôi chứ đâu có.

(01:00:54) Trưởng lão: Biết thương người, biết lo thì cái giọt mồ hôi nước mắt mình nhỏ xuống đúng cái chỗ, cho nên đức Phật nói bố thí, cúng dường phải đúng chánh pháp. Đúng là như thế nào, nếu mà cái người đó họ lừa đảo mình, nhất định một đồng không bỏ, mà đúng thì coi như là cái chỗ này là cái chỗ phước báu rất lớn. Mình không đem hạt giống mình bỏ vô vùng đất giàu. Đúng như lời Phật dạy mà, mình làm cho đúng. Thì cái cái tư tưởng của mình vậy nhưng mà Thầy nghĩ rằng cái mà Thầy để lại, cái chương trình mà Thầy để lại, dù Thầy có đi rồi thì những người sau họ sẽ tiếp tục họ vì cái lợi ích chung. Đó, thì cái bây giờ mà Thầy đang lo là Thầy soạn thảo chương trình đó tới giáp năm.

Phật tử 1: Tụi con cầu mong làm sao cho Thầy có đủ sức khoẻ để mà khi nó hoàn thành, chứ Thầy đừng đi trước.

Trưởng lão: Không, cái chuyện làm không phải, bởi vì cái này là cái chuyện mình làm cái chuyện…​(không nghe rõ) làm cái nền thôi.

Phật tử 2: Dạ. Nhưng mà Thầy phải đào tạo tiếp cái người kế thừa chứ không là cái nền đó cứ là nằm hoài.

Trưởng lão: Nó không có lên cái nhà.

Phật tử 3: Dạ nó không lên cái nhà.

Trưởng lão: Nói chung là phải ráng chứ, phải ráng có người kế thừa. Thật sự ra thì đào tạo cái người mà thừa kế mà có những cái tâm thiện lớn thì nó cũng khó lắm, tâm danh, tâm lợi thì nó dễ, chứ cái tâm mà lo cho mọi người thì khó lắm. Phải cố gắng. Cho nên thật sự ra thì hiện giờ Thầy đang lo tìm những người mà tu chơn chánh mình giúp họ tu, rồi cái mặt thứ hai đó là tạo những cái điều kiện cho người ta có những cái sách vở người ta đọc về đạo đức, đó là những cái điều Thầy làm. Cái thứ ba là xây dựng những cái nhà máy để mà làm nước lọc thiên nhiên, lấy cái vật tư dưới lòng đất của mình đó, lấy cái đó bán. Bây giờ chưa, bây giờ nó có được cái vật này rồi, thì trong cái hoàn cảnh nào mình cũng có thể giúp người bất hạnh được, mình chưa có cái cái bệnh viện, chưa có cái này thì mình cũng có thể giúp được.

(01:02:50) Trong hoàn cảnh, mà trong xã hội làm sao không có người bất hạnh? Nghĩa là mình không lo gì cho mình hết, mà chỉ lo làm sao mà quyết được nỗi bất hạnh cho người cái đã, thì lần lượt thì nó đủ duyên thì cái bệnh viện tư từ thiện sẽ ra đời, trung tâm an dưỡng nó sẽ ra đời. Thì bà con mình thỉnh thoảng đến thăm Thầy có chỗ nghỉ ngơi trong tuần hay hoặc tháng, để mình vừa an dưỡng nghỉ ngơi, rồi cũng vừa học những đạo đức, rồi cũng nghe những cái lời của Phật dạy ngày xưa cái đạo đức nó như thế nào, mà người ta không biết đạo đức của đạo Phật.

Phật tử 1: Là an dưỡng vô điều kiện không tốn tiền.

Trưởng lão: Ừ nghĩa là vô an dưỡng nhưng không có tốn tiền, miễn phí. Ăn uống thì ở đó là được. Thí dụ như khả năng Thầy nhận được bao nhiêu người.

Phật tử 3: Cái đó là mình muốn làm y như thế, chứ thí dụ Thầy nói ai muốn tới an dưỡng thì đóng cái tiền ăn, thực chất người ta cũng hoan hỉ lắm Thầy, thì nó đỡ cái chi phí cho Thầy.

Trưởng lão: Ừ thì đúng, nhưng mà Thầy nghĩ rằng người ta đến đó.

Phật tử 3 : Bởi vì ở nhà người ta cũng ăn

Phật tử 2: Mà thầy muốn giúp những người khó khăn nhất trước cái đã, khó khăn nhất, còn những cái người đó thì họ chỉ có khi nào người ta thích tới đó để họ an dưỡng. Khó khăn nhất có nghĩa là Thầy muốn cảm hoá những người khó khăn nhất mà họ chưa có thiện duyên hướng tâm về đạo luôn nữa.

Trưởng lão: Lúc đó thì họ thấy được cái tình người, để họ.

Phật tử 1: Hôm nay tụi con tới đây, thứ nhất là thăm Thầy, cái nữa tụi con cũng muốn xin Thầy cho thỉnh cái bộ Đường Về Xứ Phật đó Thầy.

Trưởng lão: Nhưng mà mấy con thỉnh bây giờ thì Thầy thấy hả có cuốn nào Thầy cho cuốn nấy chứ còn, bởi vì cuốn một, cuốn hai này kia nó đã qua rồi, bây giờ chưa có in lại. Còn bây giờ cuốn bốn, cuốn năm, cuốn sáu. Có cái cuốn bốn, cuốn năm, cuốn sáu.

Phật tử 1: Con có coi được cuốn bốn, cuốn năm, cuốn sáu rồi.

Trưởng lão: Có rồi hả?

Phật tử 1: Dạ. Giờ cuốn một, cuốn hai, cuốn ba Thầy còn không Thầy?

Trưởng lão: Bây giờ Thầy không còn.

Phật tử 3: Còn cuốn nào không Thầy, tụi con về tụi con coi.

Trưởng lão : Hết rồi. Bây giờ coi như là cái tài liệu đó hết rồi, bây giờ nó chỉ còn có ở trên vi tính đồ thôi, để mà in nó ra rồi mới đem photo nữa.

Phật tử 1: Thấy ở trong đó hình như Thầy nói rằng đọc trong những cuốn vấn đạo để mà thấy cái pháp hành thiền của Thầy đó, sao con đọc con chẳng chưa thấy cuốn nào, cuốn nào nó có cái phần Thầy dạy thực hành đó Thầy.

(01:05:13) Trưởng lão: Ờ, bởi vì cho nên ở đây nó chỉ là người ta hỏi tới đâu đáp tới đó thôi, chứ nó chưa có vạch ra cái giáo trình mà trình tự bắt đầu tu từ cái mới bắt đầu như thế nào. Chưa, thì lần lượt rồi nó mới có chứ, mình Thầy mà trong vòng có hai năm mấy nay mà bao nhiêu sách vở Thầy viết ra như vậy là đủ biết là Thầy như thế nào. Từ nào tới giờ Thầy không có viết sách, kinh gì hết hà, mà cái thời gian gần đây đó Thầy viết như vậy là đủ biết rồi. Thầy nói sắp sửa mình ra đi rồi cố gắng ghi lại những cái gì mà mình đã biết. Mà do cái sự hỏi người ta chứ cỡ không hỏi thì Thầy không viết đâu, người ta hỏi. Và đồng thời khi mà hỏi ra rồi Thầy mới viết đây chỉ là trả lời lõm bõm theo câu hỏi người ta, chứ chưa phải mình vạch ra một cái giáo trình mà tu tập từ khó đến dễ, từ dễ đến khó như thế nào, chưa có. Coi như ai học tới đâu hiểu tới đó, chỗ nào đó được trúng bệnh của mình thì mình biết thôi chứ còn thật sự chưa có cái đường đi.

Nghĩa là bây giờ ví dụ như bây giờ các cư sĩ vào đây nói về Định Niệm Hơi Thở, Thầy nói không là phải mình vô tới mình ngồi hít thở rồi mà “hơi thở ra tôi biết rahơi thở vô tôi biết vô” như vậy hay hoặc là “quán ly tham, quán ly sân”, vậy không phải đâu. Nghĩa là mới đầu vô đây mà Thầy dạy hơi thở, à bắt đầu bây giờ mình làm quen với hơi thở chứ chưa chắc ai biết hơi thở như thế nào đâu. Rồi bắt đầu giờ Thầy dạy hơi thở bình thường mình thở như thế nào, bắt đầu Thầy cầm đồng hồ, cứ thở đi, coi cái thân rung động coi hít vô, thở ra nó bao nhiêu giây. Chứ còn mình mà chú ý nó rồi thì nó lại trật rồi, nó không đúng đâu. Thầy chú ý rồi, Thầy xác định nó là mấy giây, thì bắt đầu về tập luyện mấy giây đó cho Thầy. Bây giờ ở đây chỗ nào mỗi lần tập như vậy đó, mình đặt cái đồng hồ mình xem coi mình hít thở như vậy đó nó mấy giây, trong một phút mình thở được mấy hơi thở.

(1:07:01) Ờ Thầy bảo tập chừng trong một phút rồi đi kinh hành trở lại ngồi tập, cứ tập vậy đó trong một tuần lễ, thuần thì được, mà không thuần Thầy chỉnh đốn lại. Nó không đơn giản đâu, không dễ đâu. Rồi bắt đầu thở được cái hơi thở bình thường, mình lấy hơi thở bình thường làm cái chuẩn, chứ còn lấy hơi thở khác là sai hết. Đó, rồi bắt đầu bây giờ hơi thở bình thường làm chuẩn rồi đó, bắt đầu bây giờ Thầy dạy cho tập cái hơi thở gom tâm. Tức là hơi thở chậm rồi nhẹ, để cho tập sức, tập trung cái gom tâm của mình, chứ thuở giờ mình nói tập trung chứ mình tập trung chút cái mình nhớ tầm bậy à, phải không. Rồi bây giờ thở một hơi thở dài chậm thiệt chậm. Tâm bắt đầu đó mình, cái tâm của mình, hai con mắt mình phải ngó cái chóp mũi của mình, phải không, để cho mình thở chậm chậm theo đó cái tâm nó nương theo hơi thở, thở ra hết rồi mới hít vô chậm chậm cho hết vô, cái sức nó gom rất kỹ. Đó, bắt đầu mới luyện cái hơi thở cho gom tâm cho được, mà trước khi luyện như vậy thì mình phải hướng tâm “Tâm hai mắt phải nhìn chóp mũi nè”, “Tâm phải tập trung vô hơi thở, phải bám chặt vào nhân trung” mình ra lệnh nó như vậy, bắt đầu ngồi thở một hơi thở, rôi bắt đầu đứng dậy đi kinh hành chứ không được đi tầm bậy. Chứ không được thở hai ba hơi thở, hai ba hơi thở là mệt chết đó, bởi vì hơi thở chậm. Mình tập cho quen, quen cái sức gom tâm, sau khi tập mà quen rồi cái mình ra lệnh cái bắt đầu nó gom vô liền, cái tâm nó gom vô liền, cái bắt đầu mình hơi thở hơi thở bình thường cái nó theo hơi bình thường nó quen, nó bám vô được luôn.

Cách thức người ta dạy cho mình mà, người ta dạy cho mình, sau đó rồi người ta mới dạy cho mình “quán ly tham, quán ly sân, si”. Chứ không phải mà đơn giản đâu mà con đừng có tưởng mà dễ nha hông, phải tập từng chút đó. Phải không, Thầy nói coi có phải có không !? Còn ở đây nói chung là đó là Thầy nói về cái phần đó. Còn cái về cái phần mà về Định Vô Lậu, Thầy dạy tất cả những cái lý mà của Phật dạy trong kinh đều là lý “bất tịnh, vô thường, khổ không vô ngã” đều dạy thông suốt hết cái lý này. Để làm gì? Để khi quán nó, trong đầu mình thuộc hết rồi nó mới nhảy ra, từ đó mình mới còn nảy thêm những cái ý, mình tìm những cái bất tịnh như thế nào nữa khác nữa chứ không phải nội bao nhiêu đó đủ.

Nhưng mà khi mà cái tâm của mình tập được cái sức tỉnh thức rồi nó mới thoát ra, còn mình không mình nhai lại cái của Phật còn quên tới quên lui, chứ chưa đủ. Mình học những cái ý của ông Phật đó phải không, mình thuộc nó rồi đó, nhưng mà còn quên tới quên lui chưa hết làm sao mình phóng ra cái mới được. Còn cái này khi mình tỉnh thức rồi bắt đầu mình gom nó, nói về bất tịnh cái nó phóng ra, tự nó phát triển ra nó biết cái bất tịnh. Phải học như vậy, tu như vậy nó mới có kết quả chứ tu. Thầy nói thật sự ra hướng dẫn cả một vấn đề. Bắt ngồi đây rồi hít thở rồi Thầy coi quan sát hơi thở sao sao, rồi tập luyện cực lắm. Bởi vậy tìm người mà có duyên sẵn rồi nó dễ.

(10:09:40) Phật tử 1: Thưa Thầy, vậy thì trong quá trình tới nay, theo như cái Bốn Thánh Định mà Thầy đã đưa lên cái video như vậy, thì đã có đệ tử nào đi tới cái mức định thứ mấy không?

Trưởng lão: Thôi, thôi con ơi, Thầy nói Sơ Thiền họ xả chưa được, giới luật họ chưa sống được. Trời đất ơi.

Phật tử 1: Chưa có người nào lên Sơ thiền được hả Thầy?

Trưởng lão: Trời ơi Sơ Thiền họ chưa vô nổi, nội cái đời sống giới luật không còn chưa nổi làm sao mà nói gì Nhị Thiền.

Phật tử 1: Coi vậy chứ mà khó lắm.

Trưởng lão: Cho nên không phải, bởi vậy Thầy nói khi nào mà Nhị Thiền không phải bảo nó diệt Tầm Tứ cái nó diệt đâu, không phải đâu. Nghĩa là diệt Tầm Tứ nó đã diệt thì không tác ý ra được, hễ mà vô định đó nó không tác ý đâu. Còn mình vô mình ngồi nó không vọng tưởng mà mình tác ý được thì nó còn, nó còn Nhị thiền, bởi vì nó còn Tầm Tứ của nó mà. Phải không. Bây giờ Thầy ngồi đây nè: “Hít vô tôi biết tôi hít vô nè”, tác ý ra mà, tầm tứ chứ gì, phải không, thì rõ ràng là nó không vọng tưởng, nó có cái nhiếp tâm ở trong đó, nó không có cái niệm bậy nó xen vô, nhưng mà rõ ràng mình tác ý ra được, mình suy tư được theo cái chủ động của mình thì nó là Sơ Thiền thôi. Nhưng mà nói Sơ Thiền mình vô mình ngồi đó mình ức chế nó nói Sơ Thiền chứ mình xả ra nó có sơ được không. Nó chạy tùm lum ra hết mà nó sơ gì, chứ phải luôn luôn nó được vậy đó thì nó là sơ, hiểu không, con hiểu không. Cho nên nó đâu có sơ gì. Cho nên sống đời sống chưa đúng giới luật thì nó không có sơ được đâu.

(01:10:54) Còn Nhị Thiền là còn ra lệnh nó tịnh chỉ, nó tịnh chỉ Tầm Tứ, tức là nó diệt Tầm Tứ, mà Tầm Tứ nó diệt rồi mình vô cái cấp bậc mà định sanh hỉ lạc nó đâu phải như ở chỗ Sơ Thiền của mình còn chỗ Tầm Tứ nữa, nó khác. Cho nên bây giờ nói chung là cái Nhị Thiền cũng chưa ai biết cả chứ đừng nói. Nhưng mà Thầy sẽ dạy họ tới, họ sẽ tới được cái chỗ đó. Chỉ có ráng sống đúng cách độc cư để xả tâm, tâm quay vô rồi, tâm tịnh rồi bắt đầu chỉ, chỉ diệt Tầm Tứ tức là nó tịnh chỉ Tầm Tứ đó, nó diệt Tầm Tứ đó. Diệt Tầm Tứ rồi thì nó sẽ ly hỉ, ly hỉ tức là ly cái tưởng thức của mình, ly chiêm bao đó, gọi là ly hỉ. Nghe chữ ly hỉ, trú xả nhập Tam Thiền thiên hạ không ai biết hết á. Nó tưởng đâu ly hỉ là cái trạng thái hỉ mình đừng có chấp nó nữa, không phải, ly hỉ là nó ly cái tưởng thức của nó, cái mộng mị của mình trong ban đêm đó, cái đó nó ly đó, gọi là ly hỉ, là tưởng thức đó. Thì cái người mà nhập Tam Thiền là không còn chiêm bao nữa. Hết chiêm bao mới nhập Tam Thiền, bị ly hỉ hết rồi.

Thì cái cái Nhị Thiền á thì nó diệt Tầm Tứ phải không, nó diệt Tầm Tứ thì cái ý thức của mình nó không còn nữa phải không, mà cái Tam Thiền nó ly hỉ thì cái cái tưởng thức nó không còn nữa, hai cái này dẹp hết thì cái tâm thức mình nó hoạt động. Do đó thì nhập Tứ Thiền thân bất động, rồi cái thân mình nó nó không thở nữa, rồi thì bắt đầu hướng tâm Tam Minh thì cái tâm thức của mình hoạt động thì mình đưa Tam Minh về, tức là mình chỉ ghi nhận, hay biết. Nó đơn giản như vậy đó mà không ai làm được hết.

(01:12:26) Phật tử 1: Thưa Thầy lúc mình ngồi, lúc tâm mình nó hơi yên chút, xong rồi có những cái tiếng động nhỏ cũng giật mình nữa Thầy, cái đó là do.

Trưởng lão: Coi như bây giờ Thầy nói thật sự ra khi mà mình, Thầy nói cái giật mình đó là cái Tầm Tứ nó đánh thức cái mình, không biết các cư sĩ có đọc cái bài kinh mà đức Phật ngồi thiền mà trời sét mà không nghe không?

Phật tử 1: Dạ có có nghe giảng về.

Trưởng lão: Như vậy là rõ ràng là trong khi mình chỉ ngồi yên lặng mình ức chế cái tâm của mình yên lặng cho nên vì vậy nó chưa phải là định, cho nên khi mà một cái tiếng động gì nó giật mình mình liền, cũng như mình đang suy tư cái gì ai làm cái mình giật mình, phải không. Mình đang tập trung vào cái chỗ nào đó, ai làm gì động quá cái mình giật mình. Mình đang chú ý cái này mà ai làm gì cái mình giật mình đó. Cái tình trạng đó là tình trạng mình gom tâm, mình ức chế, sai, không đúng đâu. Nó không ức chế nó không bị gì hết.

Phật tử 1: Nó không bị.

Trưởng lão: Không bị, mà bị ức chế đó, ức chế là sai.

Phật tử 1: Tiếng động nhỏ, nhiều khi tiếng động nhỏ cũng giật mình.

Trưởng lão: Nó giật mình. Bởi vậy cái đó là nó ép nước ép đặng cho nó yên lặng đó. Thành ra nó ức chế, cho nên khi đó cái tâm nó duyên vào cái đối tượng bị ép đó đó, nó không có còn biết ở bên ngoài nữa phải không, thì lúc bấy giờ ai động cái nó giật mình đó,nó giật mình, nó không có gì hết, cái đó nó sai rồi. Vốn mình xả chứ không phải là vốn ức chế. Ức chế nó sẽ không đi tới đâu, nó chỉ yên lặng nó vậy thôi, rồi nó. Thầy nói đó là trạng thái tĩnh lặng, tĩnh mà nó lặng, rồi mình cũng còn biết chứ không phải mất cái biết đâu, cho nên vì vậy mà nó chăm chú trên một cái đối tượng của nó, cho nên ai mà làm cái khác cái nó giật mình ra để cho nó mới biết, đó là cái.

Phật tử 1: Còn anh xã rồi …​(không nghe rõ).

Trưởng lão: Xả rồi nó tự nhiên lắm

Phật tử 1: Động cách mấy nó cũng

(01:14:09) Trưởng lão: Động gì động, thí dụ như bây giờ cái tâm của Thầy mà nó ly dục ly ác pháp rồi đó, nó luôn luôn nó tự nhiên nó biết hơi thở Thầy ra, ai mà la làng, làm gì làm là nó không lưu ý. Tại vì tâm nó không muốn lưu ý điều nào nữa, đó là định rồi đó. Nó bắt đầu cái Sơ Thiền nó có cái dạng của nó vậy đó. Nó ly dục rồi nó không phóng dật, tức là nó định ở trên thân nó rồi, nó theo cái động. Cho nên Thầy nói đúng, tu đúng rồi mình không cần ngồi thiền không cần gì, tâm tự nó định rồi, cái tâm định không có tướng ngồi, mà cái thân định đó thì phải ngồi, ngồi nó bất động nó mới định, mà nó bất động luôn cả cái hơi thở nó không thở thì cái thân nó không động gì nữa, nó định. Còn cái tâm của mình đó nó không cần cái thân nó động tới động lui vậy chứ mà nó cứ ở trong cái thân của nó, nó ở trong cái hành động thân của nó, nó biết cái hơi thở nó ra vô, ra vô ra vô vậy đó, nó biết tới cái vi tế của nó như thế nào. Đầu tiên nó còn biết hơi thở, rồi mình cứ ngồi để cho coi nó biết tới đâu, sau đó cái hơi thở mất, chứ không phải nó cứ biết hơi thở, nó biết nhịp tim, chứ không thấy hơi thở nữa, cái nhịp tim nó vi tế hơn cái hơi thở. Sau đó cái nhịp tim nó lại mất nữa, nó không thấy nhịp tim nữa, mình đâu có chú ý, mình đâu có ức chế cho nên mình đâu có bị tim đứng. Cho nên khi đó nhịp tim không thấy nữa, mà lại thấy sự rung động trong cái bộ não, vi tế quá vi tế luôn đó.

Đó, cái mức độ mà của Sơ Thiền đến vi tế nó thấy những cái rung động đó. Mình bình thường mình cứ ngồi chơi vậy mà nó rung động. Cũng như là mình thấy cái hơi thở mình thở ra, thở vô, nó nhỏ nhẹ, còn mình thở cái hơi thở thô, thì bây giờ mình ngồi mình chú ý hơi thở mình thấy mình thở nghe coi nặng nề, thô, còn cái kia nó nhẹ. Đó tu, mình thấy từng cấp bậc chứ không phải mà tu thấy cái tưởng. Ở trong cái cuốn không biết là các cư sĩ đọc, Thầy có người hỏi Thầy mới nói về trong cái cuốn mà Giác Ngộ, thì xem Giác Ngộ có cái bài mà Quán Niệm Hơi Thở của một thiền sư nào dạy đó, mà Thầy thấy từ những cái hiện tướng như cái khói rồi bông gòn đồ đó, thật ra các ngài tưởng, sắc tưởng rồi. Mấy ông này tu, mấy cô, mấy bà này tu kiểu này tiêu rồi

Phật tử 1: Tức là thấy màu trắng nó hiện ra rồi

Trưởng lão: Thấy màu trắng đồ nó hiện ra tướng đó là bị tưởng.

HẾT BĂNG

Pháp Âm - 2000 - SƯ PHƯỚC NHẪN VẤN ĐẠO 01 - LỘ TRÌNH TU TẬP XUẤT HIỆN BẢY GIÁC CHI

2000 - SƯ PHƯỚC NHẪN VẤN ĐẠO 01 - LỘ TRÌNH TU TẬP XUẤT HIỆN BẢY GIÁC CHI

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 2000

Thời lượng: [1:32:31]

1- LỘ TRÌNH TU TẬP ĐỂ XUẤT HIỆN BẢY GIÁC CHI

(0:00) Phước Nhẫn: Trước đây, Thầy có giảng là Giác Chi là nó khó, sau khi mình tu tập các pháp khác.

Trong khi, kinh con đọc kinh Tương Ưng, quyển 5, ở Phẩm Tổng Nhiếp Giác Chi, trang 179, nó có đoạn như sau: “Trong khi tâm thụ động, này các Tỳ kheo, trong khi ấy, không phải thời là tu tập, phải thời là tu tập trạch pháp giác chi, tinh tấn giác chi, hỷ giác chi. Vì sao? Vì rằng, này các Tỳ kheo, trong khi tâm thụ động, thật dễ làm tâm phát khởi nhờ những pháp này”.

Như vậy các giác chi này thuộc loại nào? Thì trước đây Thầy nói giác chi khỏi tu, mà tự nhiên đây cái bài này đây phải nên tu tập các giác chi…​ (Không nghe rõ).

(0:47) Trưởng lão: Coi như là mình tu tập Tứ Niệm Xứ thì nó sẽ xuất hiện Bảy Giác Chi. Mà trong Tứ Niệm Xứ thì nó có cái Thân Hành Niệm. Thì Thân Hành Niệm nó xuất hiện cái Bảy Giác Chi, chứ không phải là tự mình tu tập giác chi mà được.

Nhưng mà điều kiện là khi mình tu Tứ Niệm Xứ đó, thì Bảy Giác Chi nó xuất hiện thì mình mới thấy như khinh an, hay là hỷ giác chi, khinh an giác chi hay niệm giác chi, định giác chi, xả giác chi và trạch pháp giác chi. Thì nó siêng nó xuất hiện, thì người ta thấy nó rõ ràng. Từ đó đó, mình mới tu tập nhưng mình thấy cái tâm của mình nó ở trong cái trạng thái.

Thí dụ như thụ động, thì mình không có nên tu cái giác chi nào đó, điều kiện nó thụ động thì không nên thực hiện cái giác chi đó mà phải bỏ cái giác chi đó mà phải chấp nhận cái giác chi khác, thì như trong kinh Tương Ưng đã nói.

Phước Nhẫn: Con muốn hỏi là cái giác chi là cái pháp tu hay là nó là cái kết quả?

Trưởng lão: Cái kết quả. Chứ không phải là cái pháp để tu.

Phước Nhẫn: Sao đây Phật nói là mình tâm dao động, phải thời của giác chi này, mà không phải thời của giác chi kia?

Trưởng lão: Hiểu. Khi mình đang ở trong cái pháp tu, mà cái giác chi nó xuất ra, mà khi bây giờ cái tâm mình nó bị dao động, thì mình không có được ở trong cái giác chi đó, mà mình phải ở trong cái giác chi khác. Nó có bảy cái giác chi.

Thì ví dụ như bây giờ, mình tu Tứ Niệm Xứ, nó xuất hiện trong Bảy…​ Khi đọc lại cái bài Tứ Niệm Xứ, thì mình thấy rõ ràng là khi sung mãn, khi tu Tứ Niệm Xứ rồi, thì Bảy Giác Chi, nó mới có hiện ra.

Phước Nhẫn: Con thấy cái phần đó.

Trưởng lão: Có không?

Phước Nhẫn: Cái bài kinh này, nhưng mà nó cũng hơi trái lại.

Trưởng lão: Rồi mới đầu, bây giờ tới…​

Phước Nhẫn“Trong khi tâm thụ động, này các Tỳ kheo, phải thời tu tinh tấn giác chi, hỷ giác chi”.

(2:12) Trưởng lão: Thí dụ như bây giờ, tâm thụ động, thụ động là nó bị động đó. Nó bị động thì mình, thì trong khi đó đó, thì mình thực hiện trên cái pháp Thân Hành Niệm đó, thì cái tinh tấn giác chi nó xuất hiện. Chứ còn nếu mình không thực hiện ở trên Thân Hành Niệm, thì tinh tấn giác chi nó không xuất hiện.

Cho nên trong khi đó, cái tâm mình thụ động, thụ động là nó bị động rồi, nó bị động một cái gì đó, cho nên vì vậy mà nó làm cho mình có thể nó lười biếng, làm cho mình không có siêng năng được. Thì bắt đầu đó, mình mới thực hiện…​ Không phải thực hiện cái tinh tấn giác chi được, bởi vì tinh tấn giác chi nó không có cho nên nó bị thụ động thôi. Mình phải hiểu chỗ đó hông?

Mà do đó đó bắt đầu mình phải ôm chặt cái phương pháp Thân Hành Niệm, thì khi mà ôm chặt pháp Thân Hành Niệm, mình tỉnh thức trên từng hành động của Thân Hành Niệm thì cái tinh tấn giác chi sẽ xuất hiện.

Mà tinh tấn giác chi nó xuất hiện thì mới khinh an, mới hỷ giác chi nó xuất hiện, chứ còn tinh tấn giác chi không xuất hiện thì khinh an, hỷ giác chi không xuất hiện. Nó ba cái đó, nó gần như là đi song sắt hơn, nó gần như xuất hiện song song nhau. Đó là mình, khi trên con đường tu tập, người ta mới có kinh nghiệm, người ta mới thấy nó rất rõ ràng.

Tâm nó thụ động, nó thụ động, tức là nó có cái vẻ nó lười biếng, nó không muốn tu rồi, nó ù lì rồi đó. Thì bắt đầu phải ôm chặt cái pháp Thân Hành Niệm, chứ không phải ôm tinh tấn mà mình tu được. Bởi vì mình có tinh tấn mà tinh tấn ở trên cái giác chi, thì giác chi nó đo là cái kết quả rồi, thì nó làm sao mà nó có được cho nên phải ôm cái pháp Thân Hành Niệm nó mới xuất hiện cái tinh tấn giác chi. Phải hiểu như vậy mới biết cách chứ còn không khéo…​

Phước Nhẫn: Mới đầu cái nó cũng giống nhau?

Trưởng lão: Nó giống nhau. Nhưng mà mình phải hiểu khi mà cái tâm mình bị thụ động rồi đó, thì bắt đầu đó có mình làm sao mình tinh tấn giác chi được? Tinh tấn giác chi là phải tự nó xuất hiện cái quả của nó, vậy thì phải ôm trở lại cái pháp nào mà xuất hiện cái tinh tấn giác chi.

Cho nên mình khi đó mình ôm lại cái pháp Thân Hành Niệm, ôm chặt pháp Thân Hành Niệm kiên cố như cỗ xe mà cho nó chạy như căn cứ địa thì cái tinh tấn giác chi xuất hiện …​ (Không nghe rõ), nó không còn thụ động nữa.

Phước Nhẫn: Ở trong này nói mình tu tinh tấn giác chi, cái phương pháp tu tinh tấn giác chi ở trong đó nói là cái quả mà…​

Trưởng lão: Nói cái quả thôi, chứ còn không có nói tới…​

Phước Nhẫn: Không nói cái thực.

Trưởng lão: Cái thực. Không nói cái phương pháp để mà có…​

Phước Nhẫn: Cái quả thôi.

(4:44) Trưởng lão: Tầm này mình lấy cái quả, mình làm cái pháp tu thì trật rồi. Phải không? Cho nên vì vậy mà tu không được. Cho nên cái kinh nghiệm nó lại, khi mà tu tập rồi cái kinh nghiệm nó biết, để rồi qua cái kinh nghiệm, chứ còn kinh sách mà nói vậy thì người ta ngơ ngẩn, người ta không …​ (Không nghe rõ).

Phước Nhẫn: …​ (Không nghe rõ).

Trưởng lão: Phải không? Cho nên khi mà ở trên cái pháp mà Tứ Niệm Xứ đó, thì đức Phật đã nói là Tứ Niệm Xứ nó mới có giác chi, phải không? Khi mà có giác chi là do Tứ Niệm Xứ, chứ không phải là tự mình tu Thất Giác Chi được mà phải tu Tứ Niệm Xứ.

Mà Tứ Niệm Xứ thì nó có bài pháp Thân Hành Niệm. Phải không? Mà do đó Thân Hành Niệm nó cấu kết nó thành cái cỗ xe, nó mới tạo thành cái căn cứ địa. Do như vậy, thì Thất Giác Chi nó sẽ xuất hiện ở tại nơi cái pháp Thân Hành Niệm đó.

Do đó muốn bây giờ tâm mình thụ động, tức là nó bị động rồi, nó lười biếng rồi, nó không có còn vậy thì bây giờ tinh tấn giác chi nó không có này. Mà muốn cho tinh tấn giác chi, thì ở trong đó nói mà mình phải tu tinh tấn giác chi chứ gì? Tức là phải làm cho xuất hiện tinh tấn giác chi, có nghĩa là như vậy nó mới đúng, chứ còn mình lấy tinh tấn giác chi, nó không xuất hiện lấy cái chỗ nào, nó là cái quả mà, cái quả của Tứ Niệm Xứ rồi.

Chứ không phải là cái giác chi nó có cái phương pháp khác tu, mà phải trên Tứ Niệm Xứ trở lại mà thực hiện nó thì cái tinh tấn giác chi nó mới xuất hiện, thì cái tâm thụ động nó mới hết.

Phước Nhẫn: Con mới đọc con cứ tưởng đâu là tinh tấn giác chi là mình tu tinh tấn, là mình siêng năng đó.

Trưởng lão: Không. Mà siêng năng là siêng năng sao?

Phước Nhẫn: Dạ.

Trưởng lão: Siêng năng sao mà gọi là…​

Phước Nhẫn: Thụ động mà làm sao siêng năng.

Trưởng lão: Làm sao mà siêng năng được? Chỉ còn mình ôm một cái pháp khác, mình tu tập ráng cố gắng ở trên cái pháp đó thì nó mới xuất hiện, cái này mới được thì nó mới là tinh tấn giác chi.

Phước Nhẫn: Chứ con tập, mới tập nó, hai cái này nó mâu thuẫn với nhau nó…​

Trưởng lão: Mình phải hiểu vậy nó mới đúng tập. Bởi vậy nếu mà thật sự ra Thầy mà không có kinh nghiệm này nè, kể như người ta không hiểu. Người ta không hiểu đâu, người ta nghĩ rằng giác chi là mình phải có pháp giác chi để mình tu tập. Chứ còn không ngờ là từ cái Tứ Niệm Xứ mà tu tập nó mới xuất hiện ra tinh tấn giác chi.

Rồi mình muốn có giác chi đó mình phải tu tập cái gì, tu tập ở trên Tứ Niệm Xứ mà tu tập cái gì không phải là…​ Cho đúng cách của nó thì nó xuất hiện ra, tự nó xuất hiện ra nó có…​ Bởi vì giác chi là, cái Thất Giác Chi là Thất Bồ Đề mà, bảy cái sự giải thoát của người ta mà, bảy cái năng lực, cái kết quả tu giải thoát của nó rồi. Sư thấy.

Cho nên vì vậy mà chúng ta tu chỉ cần Bảy Giác Chi này xuất hiện. Cho nên, đức Phật nói: “Tâm định tĩnh, nhu nhuyến dễ sử dụng”“Nhu nhuyến dễ sử dụng”, tức là Bảy Giác Chi. Mà “định tĩnh” là chỉ cái phương pháp tu ở trên Thân Hành Niệm hay hoặc là Tứ Niệm Xứ để cái tâm định tĩnh mà thôi. Tức là “định tĩnh” là không phóng dật, không phóng tâm.

(07:33) Cho nên vì vậy mình thấy được cái kết quả của nó và cái phương pháp tu của nó để mang đến kết quả đó, kết quả đó nó sẽ xuất hiện ra Bảy Giác Chi. Cho nên khi mà tâm định tĩnh mà không phóng dật rồi, thì Bảy Giác Chi nó mới có. Mà nó căn cứ vào trong cái thời gian mà phải quyết định rằng định tĩnh nó phải có cái thời gian nữa.

Cho nên, nó rất hay là cái chỗ, đức Phật đã xác định được cái thời gian là mười hai tiếng đồng hồ Nhất Dạ Hiền, mười hai tiếng đồng hồ đó thì Bảy Giác Chi nó mới xuất hiện đủ. Còn nếu mà cái tâm mà định tĩnh nó chỉ trong vòng chừng một giờ, hai giờ thì chưa xuất hiện đủ đâu.

Nó làm cái hay của đạo Phật là dạy cho chúng ta ôm cái pháp đó tu tập, mà cái sức định tĩnh của chúng ta nó phải căn cứ vào cái thời gian nhất định, nó sẽ đủ Bảy Giác Chi. Tức là nó khi mà “Tâm định tĩnh thì nhu nhuyến dễ sử dụng”, nhưng bây giờ mình cũng có định tĩnh nhưng mà định tĩnh tức là sao? “Nhu nhuyến dễ sử dụng” chỗ nào đâu? Mà đức Phật dám căn cứ vào cái chỗ Nhất Dạ Hiền, để rồi mười hai tiếng đồng hồ để rồi nó sẽ nhu nhuyến dễ sử dụng.

Thấy được cái chỗ đó và nếu mà cái tâm mà chúng ta mà xuất hiện Bảy Giác Chi, thì chỉ có phương pháp Thân Hành Niệm. Nhưng mà người ta tu pháp đó người ta, ai cũng bỏ cuộc hết, thấy hầu hết vậy. Họ không tu nổi.

Bởi vì, nếu mà không cấu kết nó thành một cái cỗ xe trong thân hành của mình mà cấu kết nó thành cái cỗ xe để mà nó chạy được, nó kiên cố để mà nó chạy được đó thì người ta thấy quá nhọc nhằn, quá khó khăn. Bởi vì từng cái hành động người ta phải lưu ý trên từng cái hành động của họ mà phải cấu kết, chứ không phải là tu quán ở trong hành động được.

Khéo léo là chỗ đức Phật nói, mình phải tu tập như thế nào để mà nó thành cái cỗ xe đó. Đó là cái kết hợp, kết hợp lại cái những cái Thân Hành Niệm của mình, để tạo thành một cái cỗ xe. Cái đó là cái khó! Mà người ta từ thuở giờ, là những cái nhà học giả mà đọc tới chỗ này họ không biết như thế nào mà thành cỗ xe.

Đọc lại cái bài Thân Hành Niệm là con thấy những cái lời đức Phật nói, rồi bây giờ đọc qua cái kinh Tương Ưng, thì con thấy như mình không biết đâu mà trở nữa. Ở trên Tứ Niệm Xứ, thì thấy nó đúng rồi ha? Thầy nói đúng rồi ha? Bây giờ bắt qua Tương Ưng cái thấy, bây giờ muốn tu tập tâm bị thụ động, thì phải tu tập mà tinh tấn giác chi. Nhưng mà tu tinh tấn giác chi mà nếu mà không nắm vững, không biết cái phương pháp nào tu để mà nó thực…​ Hay là mình phải nỗ lực, mình ráng mình tu, trong khi tâm mình thụ động là không làm được điều đó.

(10:24) Giác chi nó xuất hiện là tự nó tinh tấn chứ không phải là mình lấy cái cố gắng mà tinh tấn, mà làm tinh tấn được. Mà phải cố gắng tu một cái pháp gì đó, thì cái tinh tấn giác chi xuất hiện, thì như vậy trong kinh Tương Ưng gọi là tu tinh tấn giác chi là như vậy.

Nhưng mà nếu mà không nắm vững, không có kinh nghiệm chỗ này thì không biết cái pháp nào, mà để cho cái tinh tấn giác chi này nó xuất hiện ra. Mà trong kinh Tương Ưng gọi là tinh tấn giác chi phải tu tập. Đó.

Phước Nhẫn: Con nghe hơi lầm, cái tâm, cái ý, không có phân biệt hiểu rõ cái đó Thầy.

Trưởng lão: Đúng vậy! Khi mà cái câu kinh Pháp Cú nói: “Tâm dẫn đầu các pháp”, phải không? “Tâm tạo tác, tâm làm chủ”, phải không? Thì người ta không biết cái “Tâm” này là cái ý hay cái tâm, nhưng mà sự thật cái này là ý không phải tâm, cái ý thức của chúng ta.

Bởi vì mình mới vào nó, mình thấy rõ ràng cái ý của mình nó muốn cái gì, muốn thiện, muốn ác, cái dục tham, dục sân, dục si đều hoàn toàn cái ý không chứ đâu có cái tâm chỗ nào đâu? Cho nên cái này là cái ý, là cái nó chủ động đó.

Vì vậy mà chính cái chỗ này mà đức Phật xác định được cái pháp Như Lý Tác Ý, lấy cái ý mà tu. Cho nên, dẫn tâm vào đạo, chứ đừng dẫn đạo vào tâm. Đó là cái chỗ cái ý đó, mà con đường của đạo Phật là luôn luôn lấy cái ý mà tu chứ không có lấy cái tâm.

2- Ý CĂN CHỈ CÓ MỘT

(11:52) Phước Nhẫn: Câu số hai đó là, con thường gò bó, trói buộc bởi ý căn, bởi cái thức đó Thầy. Vậy làm sao, ý căn có một cái tâm thức nào khác không? Ví dụ ý mình muốn làm thiện hoặc làm pháp thiện, còn có cái gì biết cái ý muốn làm điều đó, còn cái căn nào …​ (Không nghe rõ).

(12:10) Trưởng lão: Cũng ở một ý căn thôi! Bởi vì trong cái ý căn đó nó có hai phần, cái bài mà kinh Pháp Cú đó, đức Phật cũng đều là có hết đưa ra hai cái bài kệ.

Một cái bài kệ thứ nhất đó là nói cái tâm tức là cái ý của mình đó, cái ý của mình nó làm chủ, nó tạo tác thì cái ý của nó nếu mà nó tạo tác thiện đó, phải không? Nó tạo tác ác chứ nó không có hai cái mà chỉ có một cái thôi. Thiện thì nó hạnh phúc đến với mình, mà ác thì nó sự khổ đau đến với mình. Phải không?

Trong cái bài kinh Pháp Cú xác định được cái ý của chúng ta rõ ràng là nó chỉ một chứ không còn cái nào mà biết ở núp sau đó, để mà đối chọi lại với cái ý của chúng ta hết, mà chỉ có cái ý thôi. Nếu ý thiện thì nó mang đến tốt, ý xấu thì nó mang đến cái xấu cho chúng ta, cái quả nó xấu. Rõ ràng đây là một chứ không hai.

(12:59) Qua cái bài Song Kệ này chúng ta thấy rất rõ à. Thấy không? Thấy rõ ràng đức Phật đã xác định được cái chỗ, cái ý của chúng ta, chứ không có cái thứ hai mà để đối lại. Mà bây giờ, có cái tâm thiện, mà có cái ý ác thì không bao giờ có, mà chỉ có cái ý này nó làm chủ, nó tạo tác thì do đó nó làm chủ, nó tạo tác thì nó thiện thì nó tốt mà nó ác thì nó phải thọ lấy khổ, ở trong này hai cái bài mà này chúng ta thấy rất rõ ràng phải không? Cho nên có một chứ không phải hai.

Phước Nhẫn: Con thắc mắc ở chỗ này, thấy chiếc Dream (xe máy) khởi ý mình tham, cái khởi ý tham nó thuộc ý căn.

Trưởng lão: Thuộc ý căn.

Phước Nhẫn: Dạ. Rồi một cái niệm khởi lên mình nói: “Vậy là tham rồi”.

Trưởng lão: Ừ.

Phước Nhẫn: Cái niệm sau khởi lên là cái đó là gì?

Trưởng lão: Đó thì hai cái bài kệ của đức Phật, cái trước cũng vẫn cái ý, cái sau cũng vẫn ý, mà cái trước là ý ác, mà cái sau là ý thiện. Trong cái bài Song Tầm là cái ý của chỗ này nè, Song Tầm. Tức là cái trước cũng là một tầm chứ gì? Tầm ác chứ gì? Cái sau là tầm thiện gì. Cũng một tầm thôi cho nên nó là ý chứ không có gì. Nó đọc ra bài Song Tầm với đọc cái bài kinh Pháp Cú có phải giống nhau không? Nó là bài Song Tầm rồi đó. Nó không có gì khác.

Phước Nhẫn: Vậy là cái ý nó thiện ác.

Trưởng lão: Ừ.

Phước Nhẫn: Ý ác nó cũng phát xuất ra.

Trưởng lão: Phát xuất ra mình cũng biết.

Phước Nhẫn: Còn ý căn, còn ý thiện cũng phát xuất ra.

Trưởng lão: Cũng phát xuất ra, cũng biết.

Phước Nhẫn: Vậy là thằng này một mình nó hai mặt.

Trưởng lão: Nó hai mặt à, một mình nó hai mặt.

Phước Nhẫn: Con thấy sao nó hai mặt. Nó…​

Trưởng lão: Đó, đó chính cái chỗ này mới biết được cái pháp của Phật tu. Nếu mà Phật thấy cái ý mà nó không làm chủ, nó không tạo tác thì chắc chắn là con đường đạo Phật không tu được rồi.

Nhưng mà thấy được cái ý nó làm chủ, nó tạo tác, mà chính nó thiện với ác nó cho nên cái bài Song Tầm nó mới xuất hiện. Có bài Song Tầm, mà bài Song Tầm thì có bài kinh Pháp Cú để xác định chúng ta thấy rõ rằng là, thằng này nó hai mặt, có một mình nó mà hai mặt thiện với ác thôi, chứ không có hai đâu.

Phước Nhẫn: Nó làm mà nó sửa luôn.

Trưởng lão: Nó làm nó sửa. Đó chính chỗ đó mà con đường đạo Phật nó mới xuất hiện. Chứ còn nếu mà nó làm mà nó không sửa thì chắc chắn là coi như là không còn ai mà có thể sửa cho nó hết, thì coi như là ác không chứ không có thiện nữa. Cái chỗ đó là chỗ hay của đạo Phật, đã tìm thấy được cái đường đi của nó.

(14:47) Cho nên trong Bát Chánh Đạo thì mới Chánh Kiến, Chánh Tư Duy. Đó là cái chỗ này. Phải không? Nếu mà cái tà, tức là ác pháp chứ gì? Tà kiến, tà tư duy chứ gì? Thì nó có cái Chánh Kiến, Chánh Tư Duy nó mới dẹp tà. Thì đó, rõ ràng là cái tầm thiện và tầm ác, nếu tầm thiện nó là Chánh Tư Duy phải không? Chánh Kiến, Chánh Tư Duy rồi, mà cái tầm tà ác là tà kiến, tà tư duy chứ gì? Đúng không?

Cho nên, nó nằm ở trên Bát Chánh Đạo rồi, nó không sai. Mà Bát Chánh Đạo là một cái chân lý trong Bốn Chân Lý của đạo Phật. Cho nên cái bài kinh Pháp Cú cũng đúng nè ha, rồi tới cái bài Song Tầm ở trong kinh Trung Bộ mình thấy cũng đúng rồi, nó xác định rất rõ cái nghĩa đó luôn. Đó có hỏi như vậy, mới thấy được cái đường đi của mình.

Phước Nhẫn: Vậy con tưởng là thí dụ cái ý sau đó là ý thiện đó …​ (Không nghe rõ).

Trưởng lão: Không phải.

Phước Nhẫn: …​ (Không nghe rõ).

Trưởng lão: Cũng biết vậy đó. Nó cũng có cái ý, họ cũng biết thiện ác. Nhưng mà vì cái tâm mà tham muốn đó, thành ra nó nặng hơn cho nên nó lôi cái ý thiện của họ, họ cũng…​

Cũng như thằng ăn trộm, nó cũng biết rằng ăn trộm là xấu, thì như nó không biết sao? Nhưng mà vì nghèo đói hay hoặc là vì cái thói quen nó, rồi nó bỏ không được, nó phải đi ăn cướp, ăn trộm của người ta thôi. Chứ nó biết, chứ đâu phải nó không biết đâu. Thật sự ra nó biết mà.

3- SONG TẦM TỨC LÀ TRÊN TÂM QUÁN TÂM

(16:23) Phước Nhẫn: Với cái phần trình bày Tứ Niệm Xứ, vừa rồi có một cái mà con chưa có nói Thầy, đó là quán tâm trên tâm, …​ (Không nghe rõ) không phải là cái thân, tứ quán trên cái thân…​

Trưởng lão: Tứ Niệm Xứ.

Phước Nhẫn: …​ (Không nghe rõ) như cái tâm đầu tiên đó, tâm tham, sân si, tâm sân rất nhiều. Như mình đang ngồi cái con chuột chạy ngang, họ nói nặng mình, họ chửi mình, cái tâm sân nó xuất hiện, cái tâm thứ nhất là mình đang tu, đó mới ban đầu nó vậy.

Tâm sân thứ nhì, kế đó có cái tâm Chánh Niệm là cái tâm giận nó sân …​ (Không nghe rõ) mình quán tâm trên tâm. Thì cái tâm thứ ba đó là quán cái tâm thứ nhì, đó là khi người ta quan sát, nên cái tâm này quán trên cái tâm kia là tâm …​ (Không nghe rõ) là ba cái, cái thứ nhất …​ (Không nghe rõ) cái tiếp thu. Đó cái thứ nhất là tâm tiếp thu, rồi cái tâm thứ hai đó là tâm Chánh Tri Kiến là tâm tiếp thu, tâm thứ ba là tâm quan sát …​ (Không nghe rõ) vì vậy mà nó quán tâm trên tâm đó là cái quán cho tâm …​ (Không nghe rõ).

(17:33) Trưởng lão: Cái đó là cũng là các cái nhà này giáo dục cũng như là nhà tâm lý học phân cái tâm mình ra cho nhiều. Mà theo Thầy thiết nghĩ thì coi như vậy thì nó cũng được chứ không phải không. Nhưng mà nó trở thành cái xốn cho người tu.

Bây giờ đó trong cái đứng ở trong về phương diện mà bài Song Tầm đó, thì chúng ta thấy ở trên tâm quán tâm đó, thì cái tâm của chúng ta nếu bình thường đó, thì nó không có cái niệm gì, thì coi như đương nhiên là mình không thấy cái tâm của mình, để mà sự thật ra mình không biết nó là thanh thản, an lạc, vô sự. Tức là cái tâm mình nó vẫn thanh thản chứ nó…​

Còn có cái niệm mới thấy rõ cái tâm, khi nó có một cái niệm nó rõ tâm. Nhưng mà có cái niệm đó thì trong đó có cái bài Song Tầm, thì đức Phật đã nói rồi, tầm tức là mình có sự tư duy ở trong đó rồi. Thì khi mà có một cái niệm thì tức cái tầm rồi, mà cái tầm cái niệm này nó thiện hay là ác. Tức là cái tâm của chúng ta nó thực hiện qua cái tâm hành đó.

Thí dụ như mình giờ nói thân hành, Thầy đưa cánh tay ra, Thầy bước đi, thì đó là thân hành. Mà nói tâm hành là cái gì? Thì tức là cái niệm của nó khởi ra, nó có hoạt động rồi, thì lúc bấy giờ trúng khi mà nó hoạt động rồi thì nó phải có tư duy rồi, thì dù là ác, dù thiện đều là có tư duy hết.

Cho nên khi đó đó, thì trong khi đó cái bài Song Tầm thì đức Phật dạy, khi một cái niệm mà khởi ra nó…​ Khi đó chúng ta thấy nó là ác thì chúng ta dừng nó lại, mà nó thiện thì chúng ta tăng trưởng chứ không có gì hết.

Là do như vậy, thì chúng ta thấy nó rất rõ ràng ở trên cái phương pháp tu của đạo Phật đó, thì trên tâm quán tâm chẳng qua là Song Tầm chứ không có gì hết. Có đúng không? Còn bây giờ mình chia chẻ ra nó nhiều tâm thì nó cũng hay, chứ nó cũng không phải là cái gì nhưng mà rốt cuộc rồi cũng trên tâm quán tâm thôi, có gì đâu.

Còn bây giờ, ngay bây giờ ở trên bài Song Tầm thì cũng là trên tâm quán tâm, chứ không có gì hết. Bởi vì cái tâm này nó khởi ra một cái niệm tức là tâm hành rồi. Thì bắt đầu bây giờ đó, mình mới quan sát cái này, coi nó thiện hay ác.

Thấy nó là ác, thì tức là dừng nó lại, diệt nó chứ không có cho nó tác động vào cái tâm của chúng ta. Tức là làm cho chúng ta phiền não đau khổ, cho nên vì vậy mà chúng ta không cho nó đi vào ác pháp nó rồi, tức là ngăn diệt nó. Mà khi mà ngăn diệt nó thì nó là, có cái sự tư duy mà để ngăn diệt nó tức là nó là tầm thiện rồi.

(19:53) Như vậy là trên tâm quán tâm trong cái bài Song Tầm, là tức là đức Phật đã dạy mình trên tâm quán tâm chứ gì? Để khắc phục tham ưu chứ gì? Ác không còn có thì tham ưu còn không? Có nghĩa là trên tâm quán tâm để khắc phục tham ưu, có phải ở trong bài Tứ Niệm Xứ đức Phật đã nói vậy không? Mà nói vậy, tức là cái bài Song Tầm, thì cũng là trong mục đích đó chứ gì sai nữa. Cho nên, bài Song Tầm tức là trên tâm quán tâm chứ không có gì hết.

Chúng ta thấy rõ ràng, những cái điều mà đức Phật đã xác định chúng ta tu Tứ Niệm Xứ là có những cái bài pháp rất cụ thể, rõ ràng. Còn chúng ta lý luận bằng cách này, cách kia nó làm thêm rắc rối. Phải không? Nó rắc rối làm cho mình phải hiểu cái này kia, nhưng mà rốt cuộc rồi thì nó cũng nằm ở trên Song Tầm, chứ không thể nào đi ra ngoài khỏi Song Tầm.

4- THỨC TRONG TỨ NIỆM XỨ VÀ THỨC TRONG NGŨ UẨN

(20:44) Phước Nhẫn: Trên tâm quán tâm, cái tâm thứ nhất trên tâm hành là cái thứ nhất mà…​

Trưởng lão: Nó xuất hiện.

Phước Nhẫn: Tâm này là tâm tham. Tâm tham rồi, cái ý căn nó quán cái tâm tham đó Thầy.

Trưởng lão: Cái ý, cái ý.

Phước Nhẫn: Ý căn nó quán cái tâm tham, nó biết cái tâm này nó tham. Đó, rồi còn cái Thầy nói là cái thân mà Tứ Niệm Xứ, nó quán cái Thân Ngũ Uẩn là thật …​ (Không nghe rõ).

(21:07) Trưởng lão: Thầy nói thì, bây giờ cái tâm này là cái tâm gì? Tâm của chúng ta này, bây giờ nó khởi cái niệm là cái tâm gì? Có phải là tâm ngũ uẩn không? Nó thuộc về cái ý thức của chúng ta, tức là thuộc về ý thức là thuộc về cái sắc thức của chúng ta. Thì nó thuộc về cái phần mà tâm của sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Sắc coi thọ, tưởng, hành, thức.

Sắc, thì trong sắc nó có cái sắc thức, phải không? Thì nó có cái tâm của chúng ta chứ gì? Cái biết đó, cái biết là ý thức đó, phải không? Thì bây giờ nó khởi ra một cái niệm, phải không? Khi mà nó khởi ra cái niệm đó, thì chúng ta có cái sự tư duy để mà xem xét cái niệm, thì đó không phải là trên tâm quán tâm sao? Xem xét cái niệm đó tức là trên tâm quán tâm chứ gì? Có phải không?

Bây giờ, nó khởi ra một cái niệm, mà trong khi cái niệm này mình chưa có biết nó thiện, ác. Cho nên, mình mới quan sát, tư duy cái niệm này, rồi mới thấy nó là tâm mình tham.

Có nhiều khi nó tham rất rõ ràng thì mình biết ngay liền, có nhiều khi nó tham mình không biết. Cho nên bây giờ trên tâm quán tâm của mình, tức là trên cái tâm hành có cái niệm ra, chúng ta mới quan sát cái niệm đó. Cho nên chúng ta mới thấy nó là ác hay hoặc là nó là thiện.

Nếu ác thì chúng ta ngăn diệt nó, không có cho nó tác động chúng ta. Vì vậy mà chúng ta không có tham ưu, tức là khắc phục tham ưu. Như vậy là, không phải là trên cái tâm của ý thức của chúng sao? Trên cái tâm của sắc thức của chúng ta đó, là sáu thức của chúng ta.

(22:35) Thì rõ ràng là mình luôn luôn mình ở trên cái ý thức không, chứ cái tâm của mình, nói tâm chứ sự thật là ý thức chứ không phải là cái gì khác hơn hết. Thì bấy giờ ở trong này chúng ta rõ ràng nè, ở trong cái Thân Ngũ Uẩn của chúng ta đó, sắc, thọ, tưởng, hành, thức.

Còn cái thân Tứ Niệm Xứ thì nó có Thân - Thọ - Tâm - Pháp, phải không? Thân - Thọ - Tâm - Pháp, vậy thì cái tâm này là nó thuộc về ý thức, chứ nó đâu có cái tâm gì đâu, chúng ta đâu còn có cái tâm gì nữa khác hơn hết.

Thì nó bốn chỗ Thân - Thọ - Tâm - Pháp, mà cái tâm này hiện bây giờ chúng ta là cái tâm ý thức, chứ không thể nói cái tâm Tam Minh được. Bởi vì Tam Mình mình chưa có làm được, mình chưa có nhập định, mình chưa có thực hiện được Tam Minh, thì đâu có nói nó là cái tâm Tam Minh được.

Bây giờ chỉ ở trên Tứ Niệm Xứ để tu Tứ Niệm Xứ thì chỉ có…​ Nói về tâm thì chỉ có ý thức mà thôi. Tức là cái biết của ý thức thôi. Chứ không thể nói hoàn toàn ngoài cái ý thức được. Không thể nói là thức uẩn được ở chỗ này đâu. Còn nói về Thân Ngũ Uẩn đó, thì cái sắc thức của nó là cái tâm của Tứ Niệm Xứ này.

Cho nên, Tứ Niệm Xứ là trên thân quán thân, mà trên tâm quán tâm, thì quán tâm là quán về cái tâm ý thức, chứ không phải là quán tâm về cái tâm khác được. Cho nên trên Tứ Niệm Xứ thì phải thấy cái ý thức là cái tâm của nó, chứ không thể nào mà ngoài cái ý thức mà gọi có cái tâm khác ở trên Tứ Niệm Xứ này được.

Phước Nhẫn: Vậy ý thức nó thuộc về ý căn?

Trưởng lão: Ý căn.

Phước Nhẫn: Nó nằm trên là sắc thức.

Trưởng lão: Ờ sắc thức.

Phước Nhẫn: Còn sắc, thọ, tưởng, hành, thức, cái thức nó không phải là ý thức Thầy?

Trưởng lão: Không. Nó không phải là ý thức đâu. Nó lại khác rồi.

Phước Nhẫn: Cái thức là không phải ý thức?

Trưởng lão: Không phải ý thức. Khi nào mình đóng cái ý thức của mình lại, mình đóng cái tưởng thức mình lại. Tức là trong giấc ngủ mình thấy mình có nằm chiêm bao mình biết đó, mình cũng đóng dẹp nó lại. Thì bắt đầu mình nhập Tứ Thiền, thì nó tịnh chỉ các hành hết. Lúc bấy giờ thì cái tâm thức nó mới xuất hiện được.

Nó ba cái thức ở trên cái chỗ mà Ngũ Uẩn, cái sắc thức đầu tiên là thuộc về ý thức, cái tưởng thức là cái mộng mị của mình chứ gì? Còn cái tâm thức nó hoàn toàn chưa có hoạt động. Mà một cái người mà nhập Tứ Thiền, mà thực hiện Tam Minh thì cái tâm thức này nó mới hoạt động nè. Nó khác rồi.

Phước Nhẫn: Mình như vậy, mình đang nói về phần sắc thức là ý thức?

Trưởng lão: Ý thức không à.

Phước Nhẫn: Chứ còn cái thức trên cuối cùng là nó không dính dấp.

(25:19) Trưởng lão: Nó không dính dấp gì, nó không có hoạt động gì chỗ này, vô trong chỗ này được hết. Cái này là đợi khi mà chúng ta sắp sửa mà chúng ta thực hiện Tam Minh rồi, nhập được Tứ Thiền rồi, thì nó mới xuất hiện được, nó mới hoạt động.

Phước Nhẫn: Bảo giảng cái thức đó là cho biết đó hả? Nó không đúng?

Trưởng lão: Không biết, không đúng. Cái biết này hoàn toàn là ý thức của chúng ta. Chứ nó không còn sắc thức. Còn cái biết của tưởng thức là trong mộng mị thì dễ thấy rồi, bởi vì cái ý thức của chúng ta lúc bấy giờ nó không hoạt động rồi, nó ngủ rồi. Phải không? Cái phần mà ý căn của chúng ta đó, là cái phần trong đó nó có nằm cái phần ý căn chúng ta là nó tổng, nó tổng thể của nó, nó có chia ba nhóm tế bào.

Cái nhóm thứ nhất đó thuộc về ý thức, ý thức là tức là mình hoạt động trong cái cuộc sống hằng ngày của mình đang tỉnh táo như thế này nè. Rồi khi mình ngủ, thì nó có cái nhóm tế bào để hoạt động cái phần mà chiêm bao. Rồi khi mình nhập Tứ Thiền đó, thì nó cái phần hoạt động của cái tâm thức để mà thực hiện Tam Minh. Thì cái nhóm tế bào này nó lại hoạt động của cái biết của nó về cái phần khác.

Cho nên, nó có từng nhóm ở trong cái ý thức của chúng ta, chứ không phải hoàn toàn ở ngoài cái ý thức của chúng ta, mà đi tìm cái để hoạt động cái này thì không bao giờ có. Nó cũng nằm ở trong cái phần mà ý căn của chúng ta.

Cho nên ý căn là cái bộ não của chúng ta, mà cái bộ não của chúng ta thì nó có cái nhóm tế bào ý thức, nhóm tế bào tưởng thức và nhóm tế bào tâm thức. Mà trong cái ý căn thì nó có ba nhóm, cho nên nó cũng là cái biết, nhưng mà cái biết của cái nhóm nào thì nó biết theo nó hoạt động theo cái nấy, chứ nó không thể nào mà nó hoạt động giống nhau được.

Đó cũng như bây giờ cái nhóm mà tế bào của tưởng thức đó, nó hoạt động đó thì không cần tai chúng ta cũng nghe, không có cần cái lỗ tai, cái nhĩ căn nó cũng nghe, không cần cái nhãn căn nó cũng vẫn thấy. Bởi vì lúc bấy giờ mình ngủ, thì tai mình nó không nghe rồi, mà mắt mình thì không thấy, nhưng mà khi mà trên mộng, thì mình vẫn thấy, vẫn nghe. Có đúng không?

Như vậy là nó nghe, nó thấy không phải cần cái sáu cái căn kia đâu. Nó không cần sáu…​ Thậm chí như cái ý thức nó cũng không cần nữa. Có phải không? Bởi vì nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức là sáu cái thức của sắc thức. Phải không? Của sắc.

Cho nên vì vậy mà lúc bấy giờ nó hoạt động cái tưởng thức, nó hoạt động thì nó không cần cái thứ này nữa. Phải không? Do đó mà cái ý thức, cho nên cái ý thức mà nếu nó ở trong cái mộng của mình nó còn ý thức thì nó phải có tai nghe, mắt thấy của nó luôn. Bởi vì sáu cái thức của nó một chùm của nó mà. Còn cái này, cái tưởng thức, nó chỉ có một chứ nó không có một chùm, phải không? Một mà nó hoạt động, nó cũng nghe thấy biết, nó cũng y như một chùm của sáu cái thức này.

(27:15) Phước Nhẫn: Tưởng thức là không phải tưởng uẩn?

Trưởng lão: Không. Tưởng thức là tưởng uẩn đó. Còn sắc thức là sắc uẩn đó. Sắc thức là sắc uẩn, còn tưởng thức là tưởng uẩn đó.

Phước Nhẫn: Nó kiểu một nhóm à Thầy? Hay độc lập?

Trưởng lão: Thì nó coi như là nó…​ Không. Nó cũng nhóm ở trong cái Thân Ngũ Uẩn. Cái Thân Ngũ Uẩn là sắc, thọ, tưởng, hành, thức phải không? Đó là một cái nhóm của cái thân. Nhưng mà bây giờ về những cái biết của nó, nó có từng nhóm riêng ra, chứ không thể nào nó nhóm này nó, cái nhóm này nó hoạt động chung cho cái Thân Ngũ Uẩn của nó.

Nhưng mà khi mà nó hoạt động từng cái phần ngũ uẩn của nó thì nó hoạt động phận riêng. Như sắc uẩn thì nó hoạt động cái thức của nó riêng, mà tưởng uẩn đó thì cái biết của tưởng uẩn lại nó làm riêng chứ nó không có chơi chung với cái anh sắc uẩn này được.

Rồi bây giờ cái thức uẩn đó thì nó lại biết riêng, nó không có chơi chung với hai cái anh này nữa, hai anh này dừng thì nó mới làm việc, còn hai anh này không dừng thì nó không làm việc, cái thức uẩn này không làm việc. Cũng như cái anh sắc uẩn này, anh dừng thì cái tưởng uẩn anh mới…​ Cái biết của cái tưởng uẩn anh mới làm việc, cho nên nó chung nhưng mà nó có những cái làm việc riêng của nó, chứ không phải nó hợp chung nhau đâu.

5- NĂNG LỰC NGHE CỦA TƯỞNG

(28:54) Phước Nhẫn: Cái sắc uẩn thì nó cần cái lỗ tai nó nghe được?

Trưởng lão: Ờ.

Phước Nhẫn: Còn cái tưởng uẩn đó nó không cần lỗ tai vẫn nghe được.

Trưởng lão: Nó không cần đâu, nó vẫn nghe được.

Phước Nhẫn: …​ (Không nghe rõ) tu Mật tông, mà ở nhà ông biết mấy người công sở nói gì hết trơn hết, vô công sở ở nhà nói gì ông nghe hết trơn. Ông cũng không tin nữa, đến khi bạn hỏi thì nó nói y chang vậy đó, đâu có lỗ tai đâu.

Trưởng lão: Đâu có lỗ tai.

Phước Nhẫn: Hồi đó là sau ông đi tu cái lỗ tai ông điếc luôn.

Tu sinh: Sao kỳ vậy.

Phước Nhẫn: Còn tu thì cứ ai nói gì nghe hết trơn hết, nói xấu cũng nghe…​ (Không nghe rõ).

Trưởng lão: Đó là cái…​

Phước Nhẫn: Cái đó là nó không cần.

(29:37) Trưởng lão: Nó không cần cái căn của cái lỗ tai nữa rồi. Nó nghe bằng cách khác rồi. Do đó, sau cái thời gian mà nó, cái đó hoạt động rồi. Thì lúc bấy giờ, nó nghe bằng cái sức của cái nhóm tế bào đó. Mà tới khi, mà cái nhóm tế bào mà nó hoạt động với cái lỗ tai mình nghe đó, tức là những cái thần kinh mà nó hoạt động vô cái lỗ tai mình nghe đó, thì sau cái thời gian mình tu tập thì cái này bị tê liệt, nó không hoạt động nữa rồi. Bởi vì mình nghe kiểu đó, thay vì cái lỗ tai mình nghe thì nó có hạn cuộc cái không gian và thời gian, phải không?

(30:05) Cho nên, cái xa xôi người ta nói không nghe, mà gần thì mình mới nghe được. Còn cái này xa mà vẫn nghe, thì nó không phải là nghe ở trong cái nhóm tế bào đó, cho nên cái nhóm tế bào mà nghe mà như Thầy đi, con mà ngồi mà tiếp chuyện nhau đó, thì đó là thuộc về cái nhóm của tế bào ý thức rồi. Cho nên, nó nghe với nhau sát với nhau, còn cách xa quá nó không nghe.

Còn cái ông này, nói bao xa cũng nghe, thì tức là nó hoạt động kiểu khác, cho nên cái nhóm mà nghe gần này hoàn toàn nó ngưng, nó không hoạt động. Sau đó cái nhóm này nó không hoạt động, ông nghỉ, cái này nó cũng không hoạt động nữa cái ông điếc luôn, có phải vậy không?

Tức là tại vì nó ngưng hoạt động, để cho ông nghe cái nghe của một nhóm hoạt động khác, bây giờ ông không tu nữa, thì cái nhóm mà hoạt động nghe này nó lại không nghe nữa, nó không nghe nữa bây giờ ông thành điếc, có vậy thôi chứ có gì đâu. Tức là hai cái nhóm này đi đều ngừng lại hết, nó ngưng lại hết. Còn nếu mà ông tu thì ông còn được nghe, phải không?

Mà giờ ông không tu nữa, ông thấy ông sợ quá, ông không tu nữa thì tức là cái nhóm kia nó không hoạt động thì cái nhóm này nó cũng không thèm hoạt động nữa, rốt cuộc rồi thì cái lỗ tai ông bây giờ nó không nghe thật sự, nó dừng lại nó điếc.

Phước Nhẫn: Cái tưởng có cái năng lực của nó, nó nghe.

Trưởng lão: Có chứ con, cái tưởng nó có năng lực nghe. Bởi thường thường như là mình, cái suy nghĩ không tưởng đó thì nó vẫn nghe bằng cái hoạt động của cái tưởng của nó, chứ không phải là nghe cái lỗ tai đâu.

Đó cho nên, thí dụ, như một cái người mà tu mà lọt vào cái thiền tưởng rồi, thì con kiến mà đi ở trên cái mặt này là nghe được cái tiếng động, chứ còn cái lỗ tai, căn tai của chúng ta, cái hoạt động của căn tai thì không nghe tiếng động đó đâu, nhưng mà cái tưởng nghe, nó nghe nó đi “xộc xộc xộc”.

Cho nên có một lúc mà Tứ Tổ mà nằm ngủ mà hai cái con rệp mà nó giành máu của Tổ nó ăn, nó rớt xuống, nó té rồi nó rên la đó, Tổ đều nghe hết, thì đó là Tổ chỉ ở trong cái thế giới tưởng thôi, nó mới nghe. Chứ không phải là chứng đạo đâu, mà đó là Tứ Tổ Đạo Tín ngày xưa đó, chứ không phải là bây giờ đâu.

Nhưng mà khi mà tu tập tới đây rồi, Thầy mới thấy rõ rằng, bởi vì mình có cái trường hợp xảy ra với mình, mình mới lấy kinh nghiệm mình mà mình suy lại Tổ, mình mới thấy được cái chỗ đó bây giờ tưởng.

Chứ còn cái mà cái tuệ mà Tam Minh, nó cũng thông suốt, nó cũng nghe được âm thanh rất nhỏ. Nhưng khi nào mà nó phải ở trong một cái trạng thái của định là nó mới xuất hiện, chứ còn không có thì nó không phải vậy, nó bình thường thì nó không xuất hiện.

(32:39) Khi mình muốn mình sẽ vào định tức là mình sẽ thực hiện nó, thì nó nghe cái gì nó cũng nghe, bởi vì nó có cái sự điều khiển. Còn cái tưởng đó, nó ngoài cái vấn đề điều khiển của mình. Khi mình nhập vào cái định tưởng rồi, thì lúc bấy giờ tự động nó nghe, nó làm như có cái sức tự động thôi. Cho nên nó hoàn toàn nó ngoài cái sức của mình.

Cho nên, trong cái con đường của đạo Phật, là chúng ta phải có Bảy Giác Chi xuất hiện rồi chúng ta mới làm được cái chuyện này. Nếu Bảy Giác Chi không xuất hiện chúng ta không làm được.

Nhất là cái Trạch Pháp Giác Chi, tức là cái Dục Như Ý Túc đó. Bởi vì Trạch Pháp Giác Chi nó xuất hiện thì chúng ta coi như là chúng ta có bốn cái Ý Như Ý Túc. Thì bốn cái Như Ý Túc đó là chúng ta có cái Dục Như Ý Túc, cái Định Như Ý Túc, cái Tuệ Như Ý Túc, cái Tinh Tấn Như Ý Túc.

Thì lúc bấy giờ, chúng ta muốn cái gì là nó sẽ làm cái nấy được. Đó là cái chỗ mà cái người đó thực hiện được cái Tâm Thức của họ rồi. Còn mình bây giờ thì hoàn toàn chưa có nếm được cái mùi vị đó. Cho nên mình không làm được đâu.

6- PHÓNG TÂM, PHÓNG DẬT TRONG THÂN HÀNH NIỆM

(33:44) Phước Nhẫn: Còn cái liên quan đến cái Thân Hành Niệm á Thầy, bên Miến, bên ta thì cũng có dạy là đi kinh hành Thất Giác Chi. Thì là tác ý trong mỗi bước, tác ý trong mỗi hành động cái khoảng đường đi không được xa, là mình bước hai chục bước trở lại thôi. Nhưng mà cái tâm mình vẫn rịt vô đó hết, toàn bộ cái tâm chú ý tất cả các hành động hết, hay là đi trở bước đạp, coi di chuyển của nó, coi cái cảm giác của bước chân.

Đó rồi xong mình biết ra cái “Đất, Nước, Gió, Lửa”, xong rồi mình đi. Đó rồi mình đi, mình chú ý tất cả vậy đó, mình quên ở ngoài hết rồi. Tất cả mình gom vô cái hành động đi, tất cả ở ngoài mình quên hết. Thấy cái đó với cái pháp mà năm hơi thở …​ (Không nghe rõ).

(34:45) Trưởng lão: …​ (Không nghe rõ). Theo Thầy thấy nó có khác. Là tại vì cái phương pháp mà Thân Hành Niệm mà Thầy cấu kết cho nó trở thành một cái cỗ xe như trong kinh Thân Hành Niệm, mà đức Phật đã nói đó, phải tạo thành một cái cỗ xe. Thì lúc bấy giờ Thầy đã rút tỉa từ cái kinh nghiệm tu tập của mình, mà cấu kết lại thành cái cỗ xe thì nó phải có khác như thế này.

Khi bắt đầu vào tu đó, thì cái mục đích mà cái người tu thì tập cho đúng cách, tác ý trước khi những cái bước, những cái hành động thân của nó, nghĩa là trước khi những hành động thân của nó làm. Thì lúc bấy giờ khi mà tập đúng như vậy, thì trong vòng khoảng ba mươi phút hoặc là cao hơn thì nó có một cái tinh tấn giác chi nó xuất hiện. Nên nhờ những cái đó mà có thể nó đẩy mình đi tới nữa, chứ còn nếu mà không có thì kể như cái người tu không bao giờ mà tu tập nổi pháp này.

Là cho nên, số người mà tu mà không có tinh tấn giác chi mà xuất hiện, thì họ sẽ bỏ cuộc, họ bỏ cuộc, họ không có tu nổi nữa. Cho nên vì vậy mà cái tinh tấn giác chi như thế này, khi nó xuất hiện đó thì nó làm như cái hành động thân của chúng ta, nó cứ bắt cái hành động thân của chúng ta.

Thí dụ như đứng lên ngồi xuống, co tay, duỗi chân hay hoặc hít thở, nó làm nó bắt buộc chúng ta phải làm, nó cứ thúc đẩy nó làm như có cái lực nó đẩy, cũng như mình đi đi vậy đó. Nó đẩy mình là phải giở chân lên, bước lên bước xuống mà rất là nhịp nhàng. Kiểu đó là tinh tấn giác chi nó xuất hiện.

Thì lúc bấy giờ, nó làm cho mình siêng năng. Mà lúc khi mà cái tinh tấn giác chi nó xuất hiện mà làm cho mình thấy nó có cái lực đẩy đẩy mình đó, thì lúc bấy giờ đó thì mình thấy nó chừng khoảng độ chừng mười giây, năm giây hay hoặc là một phút thôi, thì cái thân của chúng ta nghe nó nhẹ nhàng, nó an ổn. Nó có cái trạng thái đặc biệt, nó thay đổi liền, nó không có còn mà như mình giở chân là mình phải dùng cái sức của mình, còn không cái này nó nhẹ bâng lên, nó khác nó thay đổi liền thì cái đó là khinh an giác chi xuất hiện rồi.

Mà nếu mà không có khinh an giác chi chúng ta không làm nổi. Tức là đi mà cứ giở chân lên xuống hay hoặc là ngồi co tay, co chân làm từng động tác mà từng ra lệnh như vậy thì chúng ta làm không nổi. Nhưng mà nó có những cái này thì chúng ta làm nổi.

Thì bắt đầu từ đó, nó có cái hỷ giác chi nó xuất hiện, cái hỷ đó nó làm cho mình hoan hỷ trên cái hành động đó, nó nhịp nhàng nữa. Tác ý đâu nó ra đó, thì cái này, cái phương pháp của chúng ta tập đầu tiên là để cho nó tập trên cái Thân Hành Niệm này, nó phải xuất hiện ra cái tinh tấn giác chi, rồi cái khinh an giác chi, hỷ giác chi.

Ba cái này nó xuất hiện, thì nó giúp chúng ta tu từ một giờ, hai giờ, ba giờ mà không thấy mỏi mệt. Có thể đi suốt đêm không có mỏi mệt. Nhưng mà nó vẫn còn có phóng tâm, phóng dật chưa phải hết. Cho nên trong cái vấn đề quan trọng của cái sự tu tập này, là chúng ta tu ít mà không được tu nhiều, cái phương pháp này tu ít để chất lượng cao, không có phóng tâm, phóng dật.

(37:30) Chứ còn chúng ta tu thì thấy nó cũng có an, nó cũng có thích thú đó, nhưng vẫn có phóng tâm, phóng dật, chứ không phải là kiên cố hoàn toàn. Cho nên, đối với cái người tu mà thấy nó xuất hiện rồi, cứ tu cho nhiều lên, thì cái kẽ hở này họ cũng không bao giờ đạt được cái định giác chi hết.

Bởi vì, có định thì nó không phóng tâm, phóng dật mà không định thì nó sẽ phóng tâm, phóng dật. Cho nên nó chỉ có cái niệm giác chi nó xuất hiện, nó có cái niệm tức là cái hành động nó vẫn biết, nhưng mà bị phóng tâm cho nên nó không định. Niệm giác chi có mà định giác chi không có.

Cho nên khi mà tu ít, để khi mà cái định giác chi nó xuất hiện, tức là tâm định tĩnh ở trên cái thân hành của nó rồi, thì lúc bấy giờ mới cái xả giác chi và cái trạch pháp giác chi nó mới có xuất hiện. Cho nên trong cái vấn đề tu, tu cái pháp này tu ít chứ không được tu nhiều.

Thí dụ như bây giờ chúng ta, cái sức của chúng ta tu năm hơi thở, đi kinh hành hai mươi bước, thì tu cái sức đó đừng có để phóng tâm, phóng dật ở trên cái pháp Thân Hành Niệm không được. Mà nếu mà chúng ta tu tập kỹ lưỡng thì cái thân hành của chúng ta, chúng ta ôm cái tâm vào cái thân hành nó sẽ cán nát, cán nát tất cả, tức là nhiếp phục tất cả các cái chướng ngại pháp ở trên thân thọ của chúng ta liền tức khắc. Hoàn toàn là không có cái gì mà xâm chiếm được nó hết.

Cho nên vì vậy mà cái này phải cần phải tu kỹ và tu đúng. Cho nên Thầy nhắc nhở rất nhiều về cái phương pháp Thân Hành Niệm. Nhưng mà hầu hết người ta không nghe, người ta cứ để tâm phóng dật trong cái phương pháp này. Khi thấy khinh an, hỷ giác chi với tinh tấn giác chi là họ tu nhiều, họ tu một, hai giờ ba, bốn giờ.

Phước Nhẫn: Con kẹt cái chỗ này, con định hỏi Thầy, Thầy nói đó, là con thấy khinh an, nhẹ nhàng đi, nó thoải mái lắm! Nhưng mà đồng thời cái tâm phóng dật nó có, nó xuất hiện con không biết làm sao vượt qua cái đó, con tưởng đâu con lọt vô tưởng. Mà hễ mỗi lần đi một tiếng đồng hồ với con không có nhằm gì hết trơn hết, nó nhẹ nhàng lắm. Nhưng mà cái tâm phóng dật nó vẫn xuất hiện.

Trưởng lão: Không được. Cái đó là tu sai rồi, tu quá, quá sức tỉnh thức của mình. Cho nên, mình phải tu ở trong cái sức của mình, cho nên vì vậy mới đầu vô tu mình tu…​ Thầy nói tu một vòng bánh xe của nói thôi.

Tức là đứng lên ngồi xuống, hít thở năm hơi thở hai mươi bước thôi, chứ không được tu nhiều. Để xem coi cái kết quả của cái sự tu này là có phóng tâm, phóng dật ở trong này không. Nếu mà không có phóng tâm, phóng dật thì mình tiếp tục một chu kỳ thứ hai. Y như vậy lặp lại y như vậy, mà nếu không có thì tăng thêm, mà có thì dừng lại tu cho kỹ, rất kỹ từng hành động.

Bởi vì trong cái bài mà Nhất Dạ Hiền, thì đức Phật đã nói về cái vấn đề đó phải nhiệt tâm từng cái hành động của mình mà, nhiệt tâm như là bây giờ mình còn sống, lát nữa mình chết mà. Cho nên, mình tu rất nhiệt tâm đó, thì tu Thân Hành Niệm là phải tu ở trên cái phương pháp này rồi, thì không có thể nào mà tu, mà kêu là tu lấy có được. Tu rất là nhiệt tâm từng cái hành động của mình, chứ không phải là tu chơi được, cái này là tu thật.

(40:07) Còn hầu hết là người ta không nghe lời Thầy, người ta tu chơi đó, tu kêu là lấy có tu, với có thời gian dài, thấy nó an ổn, thấy nó khinh an rồi cứ tu, tu bừa vậy thì phóng tâm, phóng dật nó sẽ có.

Phóng tâm như thế nào? Nghĩa là cái tâm của mình tự nó phóng ra một niệm, thì gọi là phóng tâm. Còn bây giờ phóng dật là có một cái tiếng động, có gì nó làm cho tai chúng ta nghe, mắt chúng ta thấy rồi từ đó tâm chúng ta khởi niệm ra cái đó là phóng dật. Thầy phân tích cái này để hiểu được phóng tâm, phóng dật vậy.

Phóng dật là có đối tượng bên ngoài đánh vô mà phóng tâm. Còn tự mình đi mà không có vật gì hết nó vẫn thanh tịnh, yên lặng không có cái pháp ngoài tác động, mà nó có khởi niệm ra đó là phóng tâm.

Phân tích được cái chỗ này mới thấy được trong cái phương pháp mà tu Thân Hành Niệm, mới nhận xét rõ. Nếu mà còn phóng tâm, thì chắc chắn là phóng dật phải có thôi không thể nào trật. Bởi giờ phóng dật là bị cái các ác pháp ngoài nó tác động mạnh lắm, cho nên làm chúng ta phải phóng niệm ra.

Đó cho nên trong lúc đó đó, mà người tu mà nếu mà nghe lời Thầy tu ít thôi, rồi lần lượt mình tập dần. Tức là mình tăng tới đâu, như đức Phật nói: “Như căn cứ địa”, phải không? Cái xe mình chạy tới đâu, thì nó là trở thành căn cứ địa, cái phương pháp đức Phật đã nói rồi.

Tại vì mình không lưu ý, mình tu cái sức của mình cái xe của mình bây giờ mới có ráp được à, mà nó đâu có chạy được nhiều đâu. Thế mà mình chạy cả giờ đồng hồ, thì thử hỏi làm sao cái căn cứ địa này có được? Cho nên, phóng tâm, phóng dật nó có, vô trong này thì căn cứ địa này hoàn toàn là hư hại hết rồi, nó không thành căn cứ địa rồi. Đúng không?

Còn bây giờ Thầy tu ít, nhưng mà nó thành căn cứ địa đó, nó chạy một vòng thôi. Nhưng mà cái vòng của nó, tức là cái khoảng thời gian nó là cái căn cứ địa của Thầy. Mà nếu Thầy tăng hai vòng, thì nó lại trở thành căn cứ địa. Cho nên, khi mà Thầy tăng đúng mười hai tiếng đồng hồ, là Nhất Dạ Hiền đó, thì Thầy đã tâm định tĩnh hoàn toàn, Bảy Giác Chi xuất hiện đủ.

Còn bây giờ, mình tu mà cứ phóng tâm, phóng dật vậy bây giờ mình tu, bây giờ con có tu bây giờ một tháng mà cứ đi liên tục như vậy, cũng không xuất hiện đâu. Nhất bị phóng tâm, phóng dật là không xuất hiện, tức là tâm không định tĩnh.

Đó là trong cái vấn đề mà Thầy dạy rất kỹ, nhưng mà mọi người tu là tại vì họ tu sai, họ nghĩ sai, họ ham hoặc là họ không hiểu được ý của Thầy. Cái kinh nghiệm của Thầy nó đã rõ rồi. Nhưng mà dạy người ta, người ta không nghe, thậm chí người ta ngồi nhiều để cho người ta thấy, không cần phải đi kinh hành nhiều.

(42:24) Chứ sự thật ra cái phương pháp Thân Hành Niệm, mà khi Thầy dạy, là phải tu tập đầu tiên, là tu tập một chu kỳ mà thôi. Nghĩa là ngồi xuống hít thở năm hơi thở, đứng dậy hai mươi bước dừng lại, tu cái khác chứ không tu nó nữa. Nhưng mà một lát nữa mình lại tu, tu phải kỹ lưỡng, hẳn hòi từng cái hành động, chứ không phải là tu để lấy có không được đâu, tu lướt lướt qua là không được. Mà trước khi mỗi hành động, đều là phải tác ý kỹ lưỡng hẳn hòi, tác ý rồi mới làm lại.

Để khi mà tâm nó định tĩnh, Thầy nói khi mà nó xuất hiện cái thân mà nó được định tĩnh đó, cái thân của chúng ta chưa có làm đâu mà nó biết cái thân sẽ làm đó. Là nó lúc bấy giờ, nó xuất hiện cái trạch pháp giác chi, nó biết trước hết rồi, cái thân bây giờ Thầy chưa có, cái ý của Thầy chưa có muốn đi, vậy mà nó biết cái thân Thầy sẽ đi đó, nó ra lệnh nó: “Cái thân đứng dậy đi”. Thì bây giờ Thầy chống lại, Thầy ngồi lại nó cũng không được nữa. Cái sức định tĩnh của nó vậy, nó định tĩnh trên thân nó, nó điều khiển rồi đó.

Cho nên vì vậy mà cái pháp mà tác ý của chúng ta, nó trở thành một cái trạch pháp giác chi sau này. Cho nên, nó biết trước tất cả những hành động của thân. Thì bởi vì, nó định trên thân của nó, cho nên nó phải biết, nó biết trước.

Cho nên về cái thân Thầy chưa có, Thầy cho có ý, trong cái ý của Thầy này, chưa có muốn đưa cánh tay ra đâu. Còn bây giờ Thầy tác ý là tại vì Thầy muốn, cái ý của Thầy muốn đưa cánh tay ra, Thầy nói: “Cánh tay mặt đưa ra”, thì lúc bây giờ Thầy đưa ra. Thì đó là nó có sự điều khiển của ý, còn cái này không. Tự nó ở trong này, nó biết cánh tay này sẽ đưa ra, thì nó bảo: “Cánh tay đưa ra đi”, thì nó sẽ đưa. Nó biết trước hết.

Khi mà mình tu đúng rồi, bắt đầu mình thấy nó định tĩnh rồi, nó biết trước hết, nó biết trước cái thân nó sẽ làm cái gì, làm cái gì nó biết hết. Nó biết rồi, nó ra lệnh. Thì cái thân không có chịu cưỡng, chống lại được cái gì hết.

Nghĩa là bảo đứng dậy là nó cứ cái thân đứng dậy. Y như một cái lệnh của một cái người lính ở trong quân trường. Bảo thì cứ phải làm thôi, trườn là trườn chứ không có được mà nằm đó mà chống lại không có được. Bảo bò, trườn hay hoặc là chạy là phải xách súng chạy, chứ còn không bao giờ mà có thể chống lại. Y như là cái người lính mà ở trong quân trường.

Cho nên, Thầy nói tu pháp Thân Hành Niệm là tuyệt vời, nhưng mà điều kiện là Thầy biết mười người chưa đậu một, vì tu sai. Cho nên, con chứ nhìn xung quanh đây, mọi người ở đây, họ có tu thật, nhưng mà tu không đúng.

Phước Nhẫn: Dạ con thấy. …​ (Không nghe rõ).

Trưởng lão: Thầy biết hết. Chứ còn tu đúng, thì kết quả vẫn…​ Tu sai. Đó bây giờ, ở đây có một cái người đang tu, những giác chi nó xuất hiện rất tốt.

(45:09) Con đọc trong cuốn cái bốn, con thấy cái cô Nguyên Thanh không? Cái cô đó tu đúng đó. Tu đúng nhưng mà cô này sẽ trật, nếu mà Thầy không chỉnh đốn lại đó, cô này coi vậy chứ phóng tâm, phóng dật có trong đó. Cô trình bày là nó rất là thích thú đó, nhưng mà sự thật ra chưa phải là kiên cố đâu. Mà trong cái pháp Thân Hành Niệm, nó là rất kiên cố, chứ nó không thể nào mà tu như vậy được đâu.

Cho nên, lui trở lại chứ không có được mà tu cái thời gian dài, thời gian dài vậy là, Thầy bảo đảm cái người mới tu, tuy rằng nó có những cái tinh tấn giác chi, cái khinh an giác chi, hỷ giác chi, cái niệm giác chi nó có xuất hiện, vậy chứ cái định giác chi chưa xuất hiện đâu. Nó sẽ phóng tâm, phóng dật tùm lum ở trong đó hết đó.

7- HAI GIAI ĐOẠN CỦA PHÁP THÂN HÀNH NIỆM

(45:52) Phước Nhẫn: Con thấy con cũng kẹt ở chỗ con phóng dật đó. Bởi vì có những thường ta đi, mình phóng dật người ta không để ý, con phóng dật cái con biết liền, con tìm cách con khắc phục cũng không được.

Vì trong cái thời giờ mà đi kinh hành mười lăm phút, một tiếng mà trong vòng mười lăm phút có khi nửa tiếng là nó bay, nó phóng dật tùm lum hết rồi. Đó rồi xoay lại họ nói thiền quán không có sợ những điều đó. Đó, thí dụ nó khởi niệm, cái mình biết nó khởi niệm mình biết.

(46:24) Trưởng lão: Một pháp tu nói Thân Hành Niệm chứ nó có hai pháp tu. Một cái pháp đầu tiên, chúng ta tu cái định gọi là đi biết đi, đứng biết đứng, ngồi biết ngồi đó, nằm biết nằm đó. Thì cái định đầu tiên mà chúng ta tu đó là định Chánh Niệm Tỉnh Giác, chứ không phải Thân Hành Niệm. Cũng Thân Hành Niệm nhưng mà nó thuộc về định Chánh Niệm Tỉnh Giác, nó tu khác rồi đó, nó không giống rồi ha.

Bắt đầu bây giờ Thân Hành Niệm là cái phương pháp rốt ráo cuối cùng của Tứ Niệm Xứ rồi. Cho nên, nó không phải còn như là cái Chánh Niệm Tỉnh Giác định đó nữa đâu, nó khác rồi, cái hành động tu tập nó cũng sai khác hết, nó không giống đâu. Cũng ở trên cái thân hành của nó, nhưng mà cái lối tu nó hoàn toàn khác, nó kiên cố lắm.

Còn cái kia nó không kiên cố, nó có niệm, mình biết niệm thôi và đồng thời mình cứ tu rất là tự nhiên để tỉnh thức trên mọi cái hành động. Nhưng mà sự thật cái phương pháp này chỉ là cái giai đoạn đầu của Thân Hành Niệm, chứ không phải là cái giai đoạn cuối cùng của Thân Hành Niệm đâu. Phải hiểu như vậy, mình mới biết được cái giai đoạn nào tới cái giai đoạn nào, chứ còn nếu mà không thì mình thấy sao nó giống nhau hết vậy, coi như là mình lầm.

8- TU TỪ THẤP ĐẾN CAO

(47:25) Phước Nhẫn: …​ (Không nghe rõ) tỉnh đó là con nói nó có hai giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất là sao mình mới vô …​ (Không nghe rõ), giai đoạn hai mới vô nhảy chỗ đó tu đâu có được …​ (Không nghe rõ), nó còn dính tùm lum mà chưa có gì hết trơn, mình tu…​

Trưởng lão: Chưa có xả đó.

Phước Nhẫn: …​ (Không nghe rõ) đó rồi. Nó đụng đủ thứ hết trơn, nào thọ, nào tưởng, nó dính tùm lum hết. Đó, còn cái vấn đề mà phóng dật trong lúc mình đi kinh thành đó, con vướng cái đó. Mà trở lại cái giai đoạn mà tu chậm, con không biết, nếu mà đưa chậm chậm diệt tầm tứ một phút, hai phút, năm phút đó, đó thì mình làm cái đó nó chậm lại. Nhưng mà thời gian sau, không có khó, thường mình vô tập trung …​ (Không nghe rõ).

Trưởng lão: Ừ, …​ (Không nghe rõ).

Phước Nhẫn: Đi đúng bừa đó tiếng, nó phóng dật tùm lum.

Trưởng lão: Nó phóng bừa tùm lum.

Phước Nhẫn: Dạ, con sợ cái đó nhất, trong khi mình quán họ nói không có sợ, nói thí dụ như mình thở thì mình biết, còn phóng dật tâm, phóng dật khởi lên mình biết. Thì những cái đó là nhè nhẹ, cường độ nhỏ, mình biết nó ngưng, nhưng mà cái nào nó niệm lớn với cường độ mạnh đó thì không có ngưng được.

Cũng như trong cái phẩm Cấu Uế trong kinh thì có nói là lúc nào mà khởi tâm tham, biết tâm tham là tối thượng, đó còn tâm tham mà khởi tâm tham không biết là hạ liệt. Đối với con, con nói không được nữa. Người tâm tham biết tâm tham mà làm sao cho nó đừng tham đó.

Trưởng lão: Đừng tham.

Phước nhẫn: Cái đó mới rốt ráo. Chứ mình mới biết là cái người tối thắng, người tối thắng chưa có rốt ráo được. Phải tâm mình tham, mình biết tâm mình tham phải làm sao cho nó đừng tham.

Trưởng lão: Đúng vậy, đúng vậy, có vậy à.

Phước nhẫn: Chẳng hạn như mình quán, con nói thí dụ tâm mình khởi lên, mình biết nó khởi, thì nó vẫn khởi nhưng nó không ngưng, nó không ngưng đó tại mình. Đó tại mình, mình nhìn nó, mình nhìn chưa có đủ sức.

Đó, thí dụ có một cuộn băng, ông Nguyên Thế Dũng giảng ở bên Cam, thì có nói, một cư sĩ đến đó tu, …​ (Không nghe rõ), ái dục khởi lên, là nhớ chồng, nói tu chưa Chánh Niệm, ngủ dậy cô Chánh Niệm liên tục, thì tiếp tục cái thời gian sau đợi nó không được, đừng tiếp tục Chánh Niệm nữa. Đó, rồi cái thời gian sau cái trở lại, cô cuốn gói Tu viện.

Đó con nói cái này mình Chánh Niệm nó không có qua, cũng như tâm tham biết khởi tâm tham, tâm sân khởi tâm sân, nhưng mà nó đâu có qua đâu.

Trưởng lão: Đâu qua.

Phước nhẫn: Đó thành ra cái quan niệm mà mình nhìn nó mà nó hết, cái đó đối với cường độ nó nhỏ, thì nó hết.

Trưởng lão: Cường độ nhỏ.

Phước nhẫn: Với lại cái giai đoạn Tứ Chánh Cần đó là mình chưa có rốt ráo, mà làm sao mình qua giai đoạn Tứ Niệm Xứ nó hết được.

Trưởng lão: Đúng rồi.

Phước nhẫn: Đó phải là nó có cái sự lỡ dở hay mình biết được hết rồi. Cái giai đoạn tu Tứ Chánh Cần họ không biết, xong nhảy vô Tứ Niệm Xứ thì cái thể lực cũng chưa có. Nên họ quan niệm chưa có định lực, tuệ lực cho nên nhìn sai, nhìn không hết thì đó họ nói đúng. Nhưng mà muốn định lực, tuệ lực có thì phải làm sao, rồi mới tu Tứ Chánh Cần chứ, không tu cái nhảy vô cái làm liền đâu có được.

(50:27) Trưởng lão: Đúng rồi. Nó phải vào tu bài Song Tầm trước tiên, Tứ Chánh Cần nó trước này. Còn này nó chưa có Tứ Chánh Cần được mà nhào vô Tứ Niệm Xứ, thì không có làm sao mà nhìn nó, mà nó xả được hết.

Phước Nhẫn: Thành ra chưa có đủ lực, nhìn nó không hết. Thành ra họ nói không sao, cứ nhìn nó đi, nó hết, nhiều khi nó hết…​

Trưởng lão: Ức chế nó. Cái đó vô, nhào vô cái Tứ Niệm Xứ ngay liền tu là bị ức chế tâm đó. Bởi cứ mình nhìn là tưởng nó hết, nhưng không ngờ cứ ức chế cái tâm của mình. Tới cuối cùng mà cái lực nó không có còn nhìn nó nổi nữa, thì bắt đầu cuốn gói đi thôi.

Phước Nhẫn: Dạ.

Trưởng lão: Đó, cái đó là mình đã sai rồi.

Phước Nhẫn: Nên đối với cái niệm nó khởi đó, nhìn nó, nó hết. Nhiều khi mình nhìn nó, nó hết nhưng mà một thời gian sau, nó trở lại. Trong khi xài Định Vô Lậu thì nó hết, mà nó cũng tái đi tái lại một, hai năm sau, nó cũng trở lại nữa. Cho nên, phải diệt hết, họ mới quan niệm họ nói cái đó là thiền định rồi, thiền quán không cần. Đó, cứ nhìn nó là nó hết, nhìn nó là nó hết. Đó, nó hai cái quan niệm khác nhau.

Trưởng lão: Hai quan niệm coi như là thiền quán với thiền định, không phải đâu. Thiền của đạo Phật, đầu tiên là vào cái Định Vô Lậu là quán rồi. Quán cho nó giảm bớt, tất cả những cái cường độ tham, sân, si của chúng ta nó giảm bớt cường độ xuống, nó còn yếu.

Bây giờ nó mới nhìn nó đó, tức là Tứ Niệm Xứ mà đẩy lui chướng ngại pháp là mới nhìn nó đó. Ngồi quan sát bốn chỗ, mà để đẩy lui chướng ngại của nó trên đó đó. Thì lúc bây giờ, nó mới có đi vào cái chỗ mà vi tế của nó được. Vậy chứ mà nó chưa hết đâu.

Cho nên, mới buộc người ta phải qua Thân Hành Niệm mà. Tức là Nhất Dạ Hiền rồi, không có thể nào mà còn ở chỗ mà Tứ Niệm Xứ, mà trong cái giai đoạn mà Tứ Niệm Xứ trên Tứ Niệm Xứ nữa rồi mà bước qua cái Thân Hành Niệm, để nó cán nát hết, nó không có còn cái chỗ phải ức chế tối đa.

Mà ức chế tối đa thì cái người mà, nếu mà mới vào tu, mà ức chế là người đó bị rớt hết, không có làm sao mà rớt. Bị ức chế nó bị, cái phương pháp ức chế tối đa như Thân Hành Niệm đó, thì Thầy nói rằng cái người mà nếu mà chưa có bao giờ xả tâm đó, thì vô đây ức chế là kể như người đó là bị bệnh hay hoặc là người đó phải căng thần kinh phải điên thôi, chứ còn không cách nào khác hơn hết.

Đó là nó đi từng cái giai đoạn, giai đoạn Tứ Chánh Cần là cái giai đoạn, chúng ta tu Định Vô Lậu rồi tập Chánh Niệm Tỉnh Giác, rồi Định Niệm Hơi Thở để dắt tâm mình từng chút, từng chút huấn luyện cái tâm nhỏ nhẹ đó, kêu là an ủi nó.

(52:49) Đến cái Tứ Niệm Xứ mà trên Tứ Niệm Xứ để quán, để khắc phục tham ưu là cái giai đoạn này là có đánh roi nó rồi đó. Kêu là huấn luyện, dỗ dành nó là trên Tứ Chánh Cần, mà đến Tứ Niệm Xứ là có la, có rầy nó rồi mà nhẹ nhẹ, chứ chưa dám đâu. Mà tới chừng mà Thân Hành Niệm, là ra lệnh, chứ còn không có để cho cái tâm chúng ta cãi chúng ta được chút nào hết. Nó khác rồi!

Cho nên ở đây, mình huấn luyện cái tâm của mình, giai đoạn đầu là vỗ về, còn vỗ về cho nó ăn cái này, kia rồi này kia nọ, thuộc về Tứ Chánh Cần rồi. Mà trên Tứ Niệm Xứ thì có lúc đánh, mà có lúc răn mà có lúc vỗ về, chứ chưa phải làm thẳng tay được đâu.

Rồi đến Thân Hành Niệm là thẳng tay rồi, lệnh đâu ra đó, cũng như là mình cầm cái roi điện mà bảo con sư tử phải làm gì thì phải làm, chứ không cãi được. Đó là lúc này không còn vỗ về nó nữa mà ra roi rồi. Thì nó có những cái phương pháp từ thấp đến cao rõ ràng.

Chứ không khéo mà chúng ta lầm, lấy cái con người mới vô tu, mà lấy pháp cao tu là không bao giờ đạt được, bắt ức chế hết, thì coi như là tiêu hết rồi, rớt vào định tưởng hết rồi. Nếu mà không điên thì cũng rớt vào định tưởng.

Còn cái người mới tu mà lại…​ Cái người mà tu có cái khả năng tu cao mà lại không biết pháp tu cao, thì coi như giậm chân tại chỗ rồi. Không còn cách nào đi vô được nữa.

Cũng như bây giờ, con tu tới Tứ Niệm Xứ rồi, con thấy cái tâm của mình, những cái niệm vi tế nó vừa tác động vô cái tâm của con thì con tỉnh ngay liền, cái niệm nó chưa có thành hình, mà con đã biết nó đã phóng vô rồi. Thì những cái người này, thì chỉ còn bước tới cái giai đoạn mà tu Thân Hành Niệm. Chứ không thể nào ở trên Tứ Niệm Xứ mà dẹp nó được. Nghĩa là người ta tỉnh, rất tỉnh, người ta tỉnh thức, rất tỉnh thức, một niệm vừa nhá vô là người ta biết.

Còn cái người mà còn mê đó, tức là nó niệm, nó khởi ra nó lôi họ đi một đoạn, cái người đó còn phàm phu quá. Thì cái người này phải tu ở trên Tứ Chánh Cần, tu Định Vô Lậu rồi, chứ không có thể nào mà vào Tứ Niệm Xứ mà ngồi tu được hết.

Rồi bắt đầu bây giờ trên Tứ Niệm Xứ đó, mà thấy nó, bây giờ cái niệm nó vừa đến, mà cái hình dáng của cái niệm nó rõ ràng, thì chúng ta còn có thể tu Tứ Niệm Xứ được. Còn nó mê, nó lôi mà chúng ta mê đi, mà chúng ta một lúc chúng ta mới hay đó, thì cái người tu Tứ Chánh Cần, chứ không thể mà tu Tứ Niệm Xứ. Còn hết cái mê, nó vừa nhá vô mà chúng ta biết cái hình dáng, cái niệm nó rõ thì chúng ta tu Tứ Niệm Xứ.

Còn tới mà cái niệm nó vừa nhá vô cái, chưa có thành hình của nó, cái tâm của chúng ta nó sáng, nó định tĩnh đó, nó tỉnh thức rồi đó, cái niệm nó vừa nhá vô vậy, động đến chúng ta biết liền, nó chưa có thành hình được cái niệm, chúng ta chưa biết được cái niệm nó gì, nhưng mà chúng ta biết nó có tác động. Đó là lúc bấy giờ nó vi tế rồi, thì cái người này phải tu Thân Hành Niệm, không thể nào mà tu pháp khác được.

(55:13) Coi vậy chứ, tu Tứ Niệm Xứ rồi, chúng ta mới thấy được cái sự nhá, cái kết quả của Tứ Niệm Xứ chúng ta mới thấy được cái niệm, cái niệm ở trong đầu chúng ta nó tác động vô. Nó vừa nhá vô cái biết liền, nó không có thành hình, còn cái kia nó thành hình. Mà tu đến đỗi mà nó không thành hình, nó còn niệm chứ không phải là nói: “Tôi tu hết niệm”, không có ai mà làm nó mà một lần mà hết niệm hết.

Đi từng bước, từng bước, mỗi cái niệm đầu tiên, nó lôi mình đi một đoạn, rồi mình mới hay, mới biết nó, mình còn mê nhiều. Sau khi cái sức tỉnh nó tăng dần lên rồi, thì nó vừa nhá cái mình thấy cái niệm đó liền ngay tức khắc. Nghĩa là cái niệm nó có, biết được tên họ nó rồi.

Rồi sau cùng, nó nhá vô mà mình không biết, tức là cái sức tỉnh của mình nó vừa xẹt cái, nó dừng ra ngoài rồi nó, bởi vì cái sức tỉnh của mình nó làm cho nó đứng ở ngoài, nó không vô được, cho nên cái niệm nó không thành hình. Thì cái này, chúng ta sẽ tu đến cái giai đoạn Thân Hành Niệm là dễ dàng rồi nó sẽ mau, mau tiến lắm.

Đó, cho nên, trên cái bước đường mà tu tập, mà nếu mà biết rõ được từng tâm của chúng ta thì chúng ta biết chúng ta ở trên pháp nào chúng ta tu thì kết quả lắm.

9- LÝ DO THẦY GIẢNG PHÁP THÂN HÀNH NIỆM

(56:22) Thầy coi như là…​ Trên cho đường mà dạy tu, thì thật sự ra Thầy nghĩ rằng Thầy cũng không còn bao lâu nữa, cho nên vì vậy mà Thầy không có chờ đợi. Do đó trên những cái lúc mà Thầy thấy có những người mà tu khá được, Thầy mới đem cái pháp Thân Hành Niệm ra Thầy dạy thôi.

Cho nó, khi mà người ta biết được những cái phương pháp, cái đường đi cho nó cụ thể. Rồi một mai mà Thầy có ra đi đi nữa, thì người ta cũng còn thấy được cái lộ trình của đạo Phật, người ta biết người ta tu. Chứ còn không khéo thì lỡ mà Thầy phục hồi mình không được, Thầy ra đi thình lình thì lúc bấy giờ giảng không kịp nữa thì…​ Giảng không kịp cái phương pháp Thân Hành Niệm, không phải dễ đâu.

Thầy nói thật sự, nó không dễ đâu. Bởi vì từng cái sai, phải chỉnh lại. Cũng như bây giờ, mà nếu mà Thầy, trong khi mà Thầy gần chết, mà Thầy giảng, Thầy nói về pháp Thân Hành Niệm vậy vậy đó, thì tức là người ta sẽ tu sai. Còn bây giờ, cho người ta tập, người ta tập rồi cái sai, nhắc nhở người ta, thì người ta thấy được cái sai.

Cũng như bây giờ, Thầy cho người ta tu một tua của nó thôi, năm hơi thở, đi kinh hành hai mươi bước, rồi tác ý như thế nào. Thì lúc bấy giờ, người ta tu một giờ, hai giờ, thì người ta sai, Thầy mới nhắc lại, mới chỉ những cái điểm lại.

(57:27) Do đó, khi mà Thầy còn mạnh khỏe, Thầy chỉ như vậy, người ta tập, thì người ta thấy có những cái kết quả thật sự, người ta đã hàng phục được những cái vọng tâm và cái phóng dật của người ta. Thì do đó, cuối cùng thì có những cái kinh nghiệm để lại, dù Thầy có mất đi thì các thầy, các sư, có cái kinh nghiệm tu, mặc dù là chưa đạt, nhưng mà vẫn có kinh nghiệm vậy đấy, được nghe thấy tận tai nghe Thầy giảng sự thật. Chứ không khéo để mất.

Đó là cái điều mà Thầy, hôm nay Thầy nói cho các sư, các thầy biết cái kinh nghiệm trên cái con đường tu của đạo Phật là như vậy. Cách thức như vậy để mà chúng ta đạt được, chứ không cách nào mà chúng ta muốn vào nhập các định khác, mà không có Bảy Giác Chi, mà chúng ta thiền định được. Đó nó có cái khó như vậy.

10- CHỈ CÓ Ý THỨC MỚI THỰC HIỆN CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT CỦA ĐẠO PHẬT

(58:07) Và đồng thời, Thầy cũng xác định cho biết ngoài cái ý thức của chúng ta, để mà thực hiện con đường mà giải thoát của Phật thì không có. Nghĩa là đi tìm một cái tâm thức khác, để mà tu tập, thì cái này không có. Chỉ có lấy ý thức của chúng ta mà đi vào.

Còn nếu mà chúng ta dùng tưởng thức là chúng ta lạc đường. Chúng ta ngồi tưởng được chứ, chúng ta dừng cái ý thức của chúng ta, để mà chúng ta vào cái tưởng thức, chúng ta hoạt động, do cái tưởng thức của chúng ta. Nhưng mà cái đó là con đường lạc, chứ không đúng của đạo Phật. Nó sẽ không được giải thoát, không làm chủ được sanh tử và cũng không chấm dứt được luân hồi đâu.

Chỉ có ý thức của chúng ta mà đưa vào, để tới chừng mà Bảy Giác Chi nó xuất hiện. Thì bảy cái năng lực này, nó giúp chúng ta để mà chúng ta nhập các định. Tức là ba cái loại định sau đó và kế đó Tam Minh. Cái Bảy Giác Chi nó giúp chúng ta thực hiện được những cái bước sau.

Cho nên, đối với cái, từ cái Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền, Tam Minh, thì đức Phật có nói rằng không có khó khăn, không có mệt nhọc. Có phải không? Tâm nhu nhuyến dễ sử dụng, thì không có khó khăn, không có mệt nhọc. Thế mà nó có cái khó khăn, có mệt nhọc là trong cái Sơ Thiền của chúng ta mà thôi. Chúng ta phải đạt được cái tâm định tĩnh, không phóng dật, thì lúc bây giờ, chúng ta mới đi vào những cái thiền định khác, thì nó không khó khăn nữa.

Bởi vì nó có Bảy Giác Chi xuất hiện rồi, thì nó đâu còn khó khăn, mệt nhọc chúng ta nữa. Còn nếu chưa có bảy cái này, thì bây giờ ông có tu cách gì mà ông không có thấy được Bảy Giác Chi này thì ông không có đi đúng con đường của đạo Phật đâu. Đó bảy cái giác chi là bảy cái bồ đề, tức là bảy cái trạng thái giải thoát của tâm của chúng ta khi thực hiện pháp Tứ Niệm Xứ. Rõ được như vậy, thì chúng ta mới thấy được cái chỗ tu tập của chúng ta.

Nhất là hồi nãy, con hỏi về cái trong cái kinh Tương Ưng mà về cái tâm thụ động đó. Thì cái đó là rất quan trọng. Nếu mà không hỏi cái chỗ này, thì không thấy để mà chúng ta lấy cái cố gắng tinh tấn để mà tu, để gọi là giác chi thì trật rồi, không đúng đâu. Để làm cho nó thành cái giác chi thì không có rồi. Mà phải trở lại cái pháp Tứ Niệm Xứ mà tu tập trên Thân Hành Niệm, thì cái tinh tấn giác chi nó mới xuất hiện ra, nó mới có.

(1:00:19) Muốn cho có tinh tấn giác chi, thì phải thực hiện Thân Hành Niệm thì tinh tấn giác chi mới có. Đó là cái quan trọng lắm đó chứ không phải rằng là…​ Thầy nói nếu mà không có hỏi chỗ này, thì ngày mai này tới cái bài kinh này, người ta sẽ ngơ ngẩn, người ta không biết đâu là đúng, đâu là sai đó. Đó là một cái phần rất quan trọng.

Cho nên ngay trong khi mà Thầy còn sống, các con có những cái gì mà đọc ở trong kinh sách Nguyên Thủy của Phật đó, có gì thắc mắc thì hỏi Thầy giải thích cho, chứ còn không khéo tới chừng mà Thầy chết rồi thì không còn ai giải thích nổi đâu. Thầy tin rằng người ta sẽ giải thích bằng cách lạc hướng đi, chứ không có đúng được đâu. Và bây giờ, con còn hỏi thêm gì nữa không?

11- DÙNG ĐỊNH NIỆM HƠI THỞ ĐỂ TẬP TỈNH THỨC

(01:00:56) Phước Nhẫn: Cái phần phóng dật đó, con trình bày với Thầy, có lúc nó khởi, chưa thành hình, con biết. Có thời gian nó phóng tâm hay phóng dật đó thì chưa biết nó cuốn theo. Chứ không thể là suốt ngày nó khởi mình biết hết, không phải suốt ngày mà nó phóng dật là con biết hết. Đó, nghĩa là nó lộn xộn, có lúc nó vừa nhá mình biết, có lúc cái mình bị nó lôi cuốn theo. Giai đoạn là như thế nào?

(1:01:19) Trưởng lão: Cái giai đoạn đó, là thật sự ra mình có lúc mê, mà có lúc tỉnh. Tức là mình có tu tập, cho nên, mình có tỉnh rồi. Thì mà có tỉnh nhưng mà không được liên tục tỉnh. Cho nên, có lúc bị mê.

Vì vậy, mà nó nhá vô, nó lôi mình đi một đoạn hay hoặc là nó nhá vô, một lúc mình biết được, thì cái đó là lúc bị mê. Cho nên cái sức tỉnh mình nó chưa trọn, để nó xác định được cái điều, mà mình đã nhận qua cái tâm của mình đó. Thì cái sức tỉnh mình, tức là cái tỉnh thức của mình nó chưa trọn, phải tu tập sức tỉnh thức nhiều.

Cho nên, bây giờ, chưa có định tĩnh được mà phải tu tập tỉnh thức. Cho nên phải tập ở trên cái Chánh Niệm Tỉnh Giác, cái phương pháp mà Chánh Niệm Tỉnh Giác. Chứ tập Thân Hành Niệm thì chưa được, bởi vì Thân Hành Niệm là phương pháp định tĩnh rồi, nó khác rồi.

Còn mình tập cái Chánh Niệm Tỉnh Giác và mình tập 18 cái đề mục hay 16 cái đề mục Định Niệm Hơi Thở, để dắt cái tâm mình, để cho nó định tĩnh, chứ không gì. Mình muốn dắt cái tâm mình vào một cái gì đó, mà mình dắt được thì nó mới định tĩnh.

Cái phương pháp Định Niệm Hơi Thở đó, là phương pháp dắt tâm định tĩnh chứ không có gì và đồng thời cái Chánh Niệm Tỉnh Giác cũng là cái phương pháp tỉnh thức ở trên cái thân hành của mình, đi, đứng hay hoặc đi kinh thành để biết mình đi đó. Cũng là cái phương pháp tỉnh thức mà thôi.

Cho nên khi mà nó được tỉnh thức rồi, thì nó, cái niệm nó phóng vô, mình đều biết. Mà nó nhá vô biết liền. Nó vẫn có niệm, nhưng mà niệm biết. Chứ không phải nói tôi tỉnh thức nó hết niệm. Không phải đâu, tại vì cái tâm tham, sân, si của mình nó chưa hoàn toàn ly hết mà. Cho nên, nó phải có niệm thôi. Và có niệm mình biết hay không biết đây, cái đó là cái quan trọng của đạo Phật.

(1:02:50) Cho nên, khi biết được thì đó là may mắn, mà không biết được, mê đó, nó lôi mình vào trong một khoảng thời gian thí dụ như: Một phút, hai phút, năm phút, mười phút hay một giờ không chừng. Hay hoặc là ba mươi phút không chừng, cái vấn đề đó, nó lôi mình dài, ngắn mà mình mê thì nó lôi mình dài, mà mình ít mê thì nó lại lôi mình thời gian ngắn, có vậy thôi.

Cho nên vì vậy mà mình biết được cái tâm của mình, cái sức tỉnh thức còn kém thì mình phải tu những cái pháp dạy cho mình tỉnh thức. Thì Thầy dạy tỉnh thức, Thầy đã nhắc mà, Định Niệm Hơi Thở là dạy tỉnh thức.

Bởi vì dạy cách thức mình dẫn cái tâm để tỉnh thức chứ gì: “Hít vô, tôi biết tôi hít vô, thở ra, tôi biết tôi thở ra”. Tức là dạy cho mình tỉnh thức trên cái hơi thở ra vô vậy. Rồi dạy cho mình cảm giác được cái thân, cũng như: “Cảm giác toàn thân, tôi biết tôi hít vô, cảm giác toàn thân, tôi biết tôi thở ra”. Nương vào cái thân hành của hơi thở, để mà cảm giác cái thân của mình. Thì đó là dạy cho mình cách thức tỉnh thức chứ gì.

Con thấy rất rõ chứ gì? Vậy thì mình phải tu tập cái này, cái sức tỉnh thức mình còn mê mà. Tức là niệm nhá vô, mình có khi mình nhớ, có khi mình không thấy, có khi nó lôi mình một lúc, thì tức là mình còn mê. Cho nên, mình phải tập cái này. Vì vậy mà tập cái này mình chưa có sung mãn. Coi như là Định Niệm Hơi Thở chưa sung mãn, phải không? Nếu mà sung mãn thì nó không có bị mê nữa rồi.

Còn mà nếu mà nó không mê, tức là niệm nhá vô, nó còn nhá vô chứ hoàn toàn nếu mà chúng ta ức chế cho nó hết niệm, như bây giờ mình nhìn vào hơi thở, để mình quán hơi thở, mình sổ tức, để cho nó đừng có niệm, thì coi chừng mình bị ức chế, sai pháp rồi. Không đúng. Trật rồi. Để cho có niệm, mà niệm đó cái sức tỉnh thức của mình, mình nhận ra được niệm hay là mình đang mê nè.

Nếu mê, thì mình tu những cái phương pháp này, để cho cái sức tỉnh thức mình gia tăng. Sức tỉnh thức mình gia tăng thì cái niệm nó nhá vô thì mình biết liền, thì lúc bấy giờ, nó tới những cái pháp khác, để mình khắc phục nó khác. Đó, chứ không phải là nội cái phương pháp này, nội cái hơi thở không mà để ức chế nó không được.

Bởi vì, trên con đường của đạo Phật nó nhiều pháp để chúng ta tu, chứ đâu phải một pháp, nhưng mà nó, cái giai đoạn tu của nó ở chỗ nào. Chúng ta nắm được cái lộ trình này rồi, cách thức tu tập này rồi, thì chúng ta không sợ lạc đường, mà chúng ta cứ càng ngày cứ đi dần lên cái lộ trình, càng cái…​ sự tu tập càng cấp độ càng cao lên.

Thì những cái niệm, từ đó những cái tâm chúng ta ly dục, ly ác pháp, ly tất cả những cái vi tế của nó thì nó không niệm nữa. Chứ không phải chúng ta ức chế nó mà chúng ta ly, do cái phương pháp tu tập mà ly. Ly từ cái thô cho đến cái vi tế của nó, ly tất cả những cái tâm ly dục, ly ác pháp, những cái tâm của chúng ta lìa ra hết. Đó là cách thức ly.

(1:05:12) Đầu tiên thì chúng ta còn quán, sau đó thì chúng ta…​ Đầu tiên thì chúng ta quán ngay cái niệm của nó, tức là Định Vô Lậu đó, quán ngay niệm để mà xả nó, phải không? Ngăn ác, diệt ác ngay Tứ Chánh Cần đó, là cái chỗ mà quán ở trên đó để mà xả nó. Cuối cùng, thì bây giờ chúng ta quán một cách khác mà chúng ta lại xả nó. Đó là trên Tứ Niệm Xứ mà quán Tứ Niệm Xứ là quán cái Tứ Niệm Xứ để mà xả, để mà ly dục, ly ác pháp đó, cho nên nó khắc phục tham ưu. Mình quán cái này mà xả cái kia.

Còn hồi mà Tứ Chánh Cần thì quán ngay cái niệm của nó mà để xả nó. Có phải đúng không? Tức là Song Tầm đó, quán ngay cái tầm thiện, tầm ác, để mà xả nó, thì đó là Tứ Chánh Cần. Còn bây giờ Tứ Niệm Xứ, thì quán cái Tứ Niệm Xứ mà lại khắc phục tham ưu, tức là xả nó, có khác phải không? Mình phải thấy cái phương pháp tu khác rồi chứ đâu có giống nhau được đâu. Mà cho đến khi mà tu tới Thân Hành Niệm thì nó lại khác rồi. Mà chính nó xả, bởi vì nó xả giác chi nó mới hiện ra, để nó xả.

Đây là xả giác chi, tới cái xả giác chi là cái xả mà vi tế nhất. Hồi đầu đó, mình thấy Định Vô Lậu, mình ngồi mình quán cái niệm tham, sân, si của mình, ái kiết sử phải không? Mình quán, mình thông suốt cái mình xả. Thì đây là cái xả nó không giác chi đâu, mà do mình quán cái tri kiến, nó làm cho mình giải thoát, cái ác pháp, mình diệt ác pháp, làm cho tâm mình nó được thanh thản, an lạc, vô sự thôi, chứ chưa phải là xả ngay, chưa phải là xả giác chi đâu.

Rồi kế trên Tứ Niệm Xứ, nó khắc phục thôi, chứ nó cũng chưa có xả đâu. Nhưng mà tới cái Thân Hành Niệm rồi đó, chính nó, nó mới xả, xả giác chi nó mới…​ Đó là xả sạch, nó ly hết đó. Chừng đó, nó sẽ không niệm, nó định tĩnh nó sẽ không niệm.

Đó, Thầy nói như vậy là con sẽ hiểu được cái lộ trình đi rồi. Sau này, mà nếu mà Thầy còn duyên, Thầy sẽ soạn thảo cái giáo trình, mà Thầy không có duyên, thì Thầy tin rằng mấy con sẽ hiểu biết, mấy con sẽ soạn thảo được cái giáo trình tu tập, nó không có khó đâu. Chỉ cần hiểu đúng là soạn được.

12- DÙNG PHƯƠNG PHÁP ỨC CHẾ ĐỂ GIÁC CHI XUẤT HIỆN?

(01:06:46) Phước Nhẫn: Con thắc mắc ở cái chỗ là mình phải ly các pháp, mình phải xả hết mình mới …​ (Không nghe rõ) được.

Trưởng lão: Ừ.

Phước Nhẫn: Mà Thầy dạy cái bài Thân Hành Niệm, ức chế tối đa. Thì như vậy ức chế tối đa, nó nghịch lại với cái mà xả. Thì con mới biết là tâm tâm mình để xả giác chi nó xuất hiện.

Trưởng lão: Để xả giác chi xuất hiện.

Phước nhẫn: Cũng như mà mình tu cái Thân Hành Niệm để có tinh tấn giác chi xuất hiện.

Trưởng lão: Ừ.

Phước Nhẫn: Cái hồi mà đầu con nghe đó, con nói: “Ủa! Sao mà cái kia nó nghịch lý rồi”. Phải diệt ngã xả tâm, ly dục, ly ác pháp mới nhập Sơ Thiền được. Còn này khi không nhảy vô ức chế rồi làm sao nhập được, lỡ lọt qua cái thiền tưởng sao?

(1:07:21) Trưởng lão: Bây giờ người mới đầu mà vô, mà ức chế theo kiểu pháp Thân Hành Niệm là không xả. Trái lại, cái người mới đầu vô là phải tu Định Vô Lậu ha, phải tu Định Niệm Hơi Thở ha, phải tu Chánh Niệm Tỉnh Giác ha. Đó là phương pháp xả, đúng hết chưa? Thấy rõ ràng là chúng ta phải quán xả trên Song Tầm rõ ràng rồi mà, đâu có gì khác đâu.

Nhưng mà trên Tứ Niệm Xứ là cũng phải xả đó, nhưng mà chúng ta lại quan sát Tứ Niệm Xứ mà khắc phục tham ưu, tức là xả chứ không có gì khác hơn hết. Nghĩa là không còn chướng ngại ở trên đó thì nó xả chứ gì?

Mà đó là, cũng là cái phương pháp xả, chứ không phải đến cái khi Thân Hành Niệm rõ ràng là cái phương pháp ức chế thực sự, nhưng mà ức chế để mà xả, chứ không phải ức chế để mà…​ Bởi vì ức chế nó để xả giác chi nó mới xuất hiện, thì xả chứ còn nếu mà không có vậy thì làm sao mà xả được.

Mà cái này là phải, người phải đến cái mức độ nào người ta mới dám tu cái này, chứ còn người chưa tu gì hết, nhảy vô ức chế coi thử coi, thử coi tu Thân Hành Niệm của họ, là người nào cũng bật ngửa ra hết sao. Phải không? Rõ ràng là bây giờ mình còn một cái một khối kêu là tham, sân, si một cái khối nó cũng như một cái núi Tu Di vậy đó, mà vô ức chế nó thì thử hỏi, ức chế nổi không? Nó không quật lại sao?

Còn người ta nó mòn, người ta tu từ Tứ Chánh Cần, người ta tu nó bốn cái loại định, nó mòn rồi, nó kêu là cái khối tham, sân, si nó mòn mỏi nó rồi, nó còn có phân nửa rồi. Tới Tứ Niệm Xứ là bây giờ, nó mười phần nó chỉ còn có một phần à, phải không? Nhưng mà cái phần này quá vi tế rồi, quá vi tế để mà ly dục, ly ác pháp. Cái dục, ác pháp ở đây vi tế quá rồi. Cho nên, cái pháp mà Tứ Chánh Cần đó với cái pháp Tứ Niệm Xứ trên Tứ Niệm Xứ không khắc phục nổi nó. Cho nên bây giờ, chỉ còn cái phương pháp ức chế này mà, có thể mà giác chi nó xuất hiện ra, nó xả ra hết. Chứ còn không ai làm nổi trong cái chỗ này.

Cũng như bây giờ, cái hơi thở, mình thở như thế này nè, thì chỉ có Bảy Giác Chi nó xuất hiện thì nó mới có thể tịnh chỉ hơi thở, chứ không ông nào mà làm được nó được. Còn cái vi tế mà xả cái chỗ này, thì không có ai mà xả được nữa hết, không có quán mà xả được hết. Vì càng quán thì nó lại càng động nó, nó không có xả hết cái vi tế của nó được.

Cho nên buộc lòng phải đi vào cái pháp Thân Hành Niệm, để mà cái xả giác chi nó xuất hiện, thì nó quét ra hết coi như mình ly dục, ly ác pháp hoàn toàn thanh tịnh. Có đúng không? Có bị ức chế không? Không bị. Ức chế mà không ức chế. Nó đi từ cái thấp cho đến cái cao, cái lộ trình của nó như vậy, nó mới chứng quả A La Hán nổi, chứ đâu phải dễ.

(1:09:46) Thấy cái lộ trình mà chứng quả A La Hán kinh không? Cái phương pháp rõ ràng và cụ thể. Không Thầy giảng rồi, sau này, mấy con còn cái tuổi trẻ rồi mấy con mà cái duyên, mấy con sẽ kết hợp lại, mấy con sẽ lập thành cái giáo trình, thì không còn ai mà bắt bẻ mấy con nổi. Nghĩa là rất đúng, không còn sai cái chỗ nào được hết. Ai mà bắt bẻ con mà nói: “Ờ bây giờ cái này sai”, không có nữa.

Phước Nhẫn: Con cũng đang nghĩ, tại vì bây giờ thân thể nó khác bớt đi, sau này giáo trình để lại …​ (Không nghe rõ).

Trưởng lão: Cái giáo án là coi như là chỉ nó tổng quát, chứ nó chưa phải là cái giáo trình. Cái giáo trình nó tuần tự từ thấp đến cao, nó có lớp lang.

Phước Nhẫn: …​ (Không nghe rõ).

Trưởng lão: Nhưng mà Thầy nói mấy con mà có khả năng thì mấy con cũng có thể viết được, nhưng mà điều kiện chưa có kinh nghiệm, coi chừng cũng sai đó. nó hỏng đó. Hỏng bởi vì nhiều khi mình không có kinh nghiệm đó, là chưa có đi qua được đó, rồi mình chỉ nghe thôi. Rồi mình biết cái đó tưởng, mình tưởng đó, tập đúng cái tầm vóc của cái người tu tập ở đó, nhưng mà lại nó cao, nó cao hơn người ta tu không vô, đâu có dễ.

Còn Thầy bây giờ, Thầy giảng tới đâu là Thầy có cái kinh nghiệm tới đó hết, Thầy biết được cái thấp, cái cao, Thầy soạn Thầy sẽ đưa vào được. Còn nhưng mà điều kiện là Thầy nghĩ rằng, không phải riêng mình Thầy đâu, Thầy dành cho mấy con chứ không lẽ là làm hết mình Thầy. Nghĩa là mấy con phải tu rồi, mấy con sẽ rút tỉa kinh nghiệm của mình, rồi sẽ giảng cái giáo trình này chứ. Chứ không lẽ bây giờ mỗi cái cũng Thầy hết sao?

Phước Nhẫn: Cái con thắc mắc rằng về ức chế hổm rày mấy bữa rồi. Nói sao mà Thầy xét cao độ, mà xét cao độ làm sao xả tâm?

Trưởng lão: Ừ.

Phước Nhẫn: Nó vừa dính nó vừa ức chế nó mới xả tâm được.

Trưởng lão: Ừ. Cái chỗ đó là cái chỗ mà xả giác chi nó mới xuất hiện.

Phước Nhẫn: Cái đó đâu có ai ngờ tới đâu, ức chế rốt cuộc nó phải giống qua theo nghe ngoại đạo.

Trưởng lão: Ngoại đạo rồi.

Phước Nhẫn: Vậy làm sao mình xả được.

Trưởng lão: Mà đúng cái pháp Thân Hành Niệm là pháp ức chế cao độ lắm rồi con. Nhưng mà cái người mà ở cái mức độ nào, người ta mới dám đưa cái pháp này ra. Chứ còn lơ mơ, mà cái mức độ mà chưa có qua được Tứ Niệm Xứ, để khắc phục tham ưu của nó, mà nhào vô cái Thân Hành Niệm thì không có tu nổi.

(1:12:23) Phước Nhẫn: Bởi trong cái bài này giảng, thì có câu: “Hôm nay nhiệt tâm làm, đêm ngày không mệt mỏi”, cái đó hoàn toàn ức chế rồi còn gì nữa?

Trưởng lão: Ức chế đó.

Phước Nhẫn: Chứ nếu câu đó mình đọc không kỹ, thì làm sao mà mình đêm ngày không mệt mỏi là mình ức chế rõ ràng rồi, làm sao mà được vậy?

Đó thành ra con mới sau này, con chế ra cái câu là: “Bằng tất cả tấm lòng”, tức là hễ mình vô tu là nhớ câu đó, vô tu nhớ câu đó …​ (Không nghe rõ) mà phóng dật đó, con thử hỏi Thầy, cái giai đoạn nào …​ (Không nghe rõ) hay là hoàn toàn hết phóng dật, Tứ Niệm Xứ hay là mình chỉ còn phóng dật ít, …​ (Không nghe rõ).

13- KHI NÀO TU TỨ NIỆM XỨ, THÂN HÀNH NIỆM, ĐỊNH NIỆM HƠI THỞ?

(01:13:07) Trưởng lão: Coi như là hoàn toàn là khi nào mà cái tâm của mình tu ở trên Tứ Chánh Cần đó, ngăn ác, diệt ác mà thấy mỗi niệm nó xẹt vô, mình đều nhận ra được, không còn mê, nó có vọng, nhưng mà vọng đều thấy được liền, đừng có mê để cho nó lôi mình thì có thể mình đi vào Tứ Niệm Xứ tu được rồi.

Còn nếu mà còn mê thì thôi đừng có rớ tới Tứ Niệm Xứ. Không được đâu. Mà nếu mà khi mà Tứ Niệm Xứ, mà thấy còn niệm nhưng nhá, vừa nhá vô chưa thành hình của cái niệm, nó còn niệm khởi nhưng mà nhá vô. Thì lúc bấy giờ đó thì chúng ta tu Thân Hành Niệm được.

Còn nhá vô mà còn thấy hình của cái niệm, tức cái niệm nó còn hình, biết ờ nó là kiết sử hay hoặc là nó là cái niệm đó là dục lậu, hữu lậu hay vô minh lậu gì đó, mình còn thấy được cái niệm đó, mình thấy được cái tâm mình tham nè, thấy được cái tâm mình này kia rồi thì mình còn thấy được cái niệm như vậy đó, khi mà cái niệm nó khởi mình còn thấy được rõ cái này, thì mình khoan tu Thân Hành Niệm đã.

Nó phải từng cái cấp của nó, coi như là mình phải tốt nghiệp được cái lớp học này rồi thì mới vào cái lớp khác chứ còn mình chưa tốt nghiệp được, tức là cái trình độ mình còn kém, mình lên lớp cao thì mình chới với đó.

Phước Nhẫn: Nghĩa là mình là hoàn thành cái giai đoạn mà mình chưa khởi niệm…​

Trưởng lão: Ừ.

Phước Nhẫn: Mà mình biết.

Trưởng lão: Biết.

Phước Nhẫn: Tu vô Tức Niệm Xứ được.

Trưởng lão: Tứ Niệm Xứ được.

Phước Nhẫn: Mà nếu nó vừa nhá niệm, nó chưa thành hình.

Trưởng lão: Chưa thành hình.

Phước Nhẫn: Mà mình biết.

Trưởng lão: Mình biết.

Phước Nhẫn: Tu Thân Hành Niệm.

Trưởng lão: Thân Hành Niệm được. Tức là sức tỉnh thức của mình đủ rồi đó, để mình đi tới Thân Hành Niệm để mà tập định tĩnh, chứ nó không phải là tập tỉnh thức nữa mà định tĩnh rồi, đó là mới được.

(1:14:49) Còn bây giờ nó còn nhá, với vả lại mình thấy như thế này nữa. Cái tâm của mình khi mà mình thấy trên Tứ Niệm Xứ của mình đó, mình tu tập đó, mà mình thấy cái tâm mình còn phóng dật. Tức là nó thấy người đi ngang qua cái nó, lưu ý người ta, nó thấy. Đó hoặc là bây giờ nó ngồi trong thất nó tu, mà thấy cái thất đó nó không có bật đèn lên, mà giờ này giờ tu mà, mình biết nó phóng dật, nó nói: “Cái ông này bây chắc giờ ngủ”. Thì nó phóng dật như vậy là đừng có tu Thân Hành Niệm.

Tu Thân Hành Niệm không có kết quả gì đâu. Nó mất công lắm. Coi như mình ngồi, mà mình không có phóng dật, ai làm gì làm nó không lưu ý, thì mình có thể tu Thân Hành Niệm được. Mà nó còn lưu ý ra ngoài, nó còn phóng dật điều đó không được.

Rồi còn nó phóng tâm, thì cái niệm nó khởi ra, nó vừa nhá, nó chưa thành hình, thì mình biết cái tâm sẽ phóng dật nó sẽ không có phóng dật. Mà cái tâm nó thành hình được cái niệm nó rồi, thì cái tâm này con ngồi ở đây, chứ mà ai làm ngoài kia nó đều, thoáng qua thấy họ là nó đã lưu ý rồi. Tức là nó phóng dật ra, ra pháp rồi. Thì cái này là thôi tu Thân Hành Niệm không có được đâu. Đó cho nên vì vậy mà lưu ý những cái phần này, là biết cái trình độ của chúng ta, nó sẽ tu pháp nào.

Ở đây, Thầy nói rất rõ ràng, rất cụ thể chứ không phải là muốn tu pháp nào, tu đại đâu. Nhưng mà người ta ham, người ta muốn tu cho mau, chứ thiệt ra cũng tập cho biết vậy thôi, chứ còn cái kết quả nó chưa có. Như bây giờ con tập Thân Hành Niệm để mà tập cho biết thôi, để cho nó quen, coi như mình mới rắp thử cái xe này thôi, chứ chưa dám cho nó chạy chỗ nào đâu.

Còn cái phần của mình tu là như thế nào? Như bây giờ, tu Tứ Chánh Cần đó thì Định Niệm Hơi Thở là quan trọng nhất. Nó tỉnh thức đó, bởi vì nó…​ Theo Hòa thượng Minh Châu, thì ông ghi là 16 cái đề mục của nó. Tức là ông kết hợp lại đó, chứ nó trong cái bài mà: “Xuất tức, nhập tức”, cái về cái bài hơi thở đó thì nó tới hai mươi mấy cái đề mục, chứ không phải là 16 cái đề mục.

Nhưng Hòa thượng Minh Châu thì kết hợp nó 16 cái đề mục, gọi là 16 cái đề mục thiền của Phật đó, Nguyên Thủy đó, thì Hòa thượng Minh Châu kết nó là 16. Thầy thì kết nó là 18, 18 cái đề mục của tu Định Niệm Hơi Thở. Cho nên do vì vậy đó, thì bây giờ thì các con hoặc các con tu 16 hoặc các con tu 18, chứ còn hơn nữa thì nó thừa.

Phước Nhẫn: Ráng là nó thêm hai cái đề mục nào?

Trưởng Lão: Nó thêm hai đề mục nữa. Hai đề mục là: “Với tâm giải thoát đó”.

“Với tâm giải thoát, tôi biết tôi hít vô, với tâm giải thoát, tôi biết tôi thở ra”.

“Với tâm định tĩnh, tôi biết tôi hít vô, với tâm định tĩnh, tôi biết tôi thở ra”, đó.

Thì cái đề mục định tĩnh. Bởi vì trước khi định tĩnh đó, thì chúng ta hướng tâm để cho cái tâm mình nó định tĩnh ở trong cái hơi thở, nó định tĩnh. Để cho sau khi mà chúng ta bước qua một cái giai đoạn mà tu Thân Hành Niệm nó dễ dàng.

Nghĩa là khi mà con hít thở năm hơi thở là nó định tĩnh ngay liền đó, con dẫn nó, nhắc có một cái thì nó vô định tĩnh liền. Đó là cái về tu tập Định Niệm Hơi Thở mà nó trợ giúp cho chúng ta sau này, khi mà chúng ta tu Thân Hành Niệm nó cũng có cái lợi ích cho chúng ta tu rồi.

14- LỢI ÍCH CỦA PHÁP ĐỊNH NIỆM HƠI THỞ

(1:17:36) Cho nên đức Phật nói tu Định Niệm Hơi Thở nó sẽ có lợi ích rất nhiều mà, nó có lợi ích rất lớn khi mà chúng ta tu Định Niệm Hơi Thở. Thì khi chúng ta tu pháp nào ở trên Định Niệm Hơi Thở nó cũng giúp chúng ta rất nhiều, chứ không phải không.

Bây giờ thí dụ như mình ngồi tu Tứ Niệm Xứ nè, mà cái thân mình không an nè, nó bị kiến, bị ngứa, bị này kia thì mình nhắc: “An tịnh thân hành, tôi biết tôi hít vô, An tịnh thân hành, tôi biết tôi thở ra”. Thì lúc bấy giờ con nhắc như vậy chừng một chút xíu, thì cái thân con nó an ổn trở lại liền. Nó không bị ngứa ngáy, nó không bị trạo cử ở trong này.

Còn cái tâm của con mà nó cứ phóng dật, ngồi mà tu Tứ Niệm Xứ mà nó cứ phóng dật, nó phóng niệm ra đó. Nó phóng niệm này, lát nó phóng niệm kia. Bởi vì tu Tứ Niệm Xứ nó không có pháp, chỉ quan sát Tứ Niệm Xứ thôi, cho nên nó đâu có pháp nào.

Nhưng mà khi mà, không có pháp thì cái tâm mình nó ở trên hơi thở, mà ở trên hơi thở rất tự nhiên, chứ không phải định trên hơi thở đâu. Nó rất tự nhiên ở trên hơi thở, do đó khi đó đó, mà cái tâm của mình nó cứ bị trạo cử hoặc là trạo hối cái điều gì mà nó không dừng được. Do đó chúng ta nói, nhắc nó: “An tịnh tâm hành, tôi biết tôi hít vô, an tịnh tâm hành tôi…​”. Nhắc một chút xíu cho nó, cái tâm nó hoàn toàn nó không có niệm, nó an ổn trở lại.

Bởi vì cái phương pháp đó, mình đã tu ở trong cái Định Niệm Hơi Thở, mình đã quen rồi, cho nên bây giờ mình thấy cái tâm mình nó…​ Bây giờ tu Tứ Niệm Xứ mà cái tâm nó bị vậy, cái nhắc nó lại liền. Dẫn nó vô liền, cái chỗ an tịnh của nó liền, thì cái tâm nó an tịnh liền tức khắc! Bởi vì phương pháp hay lắm.

Cho nên Thầy nói tu mà cái Định Niệm Hơi Thở, mà tu mà nó nhuần nhuyễn nó, kết quả nó rồi, sau khi tu các pháp khác là chúng ta dùng cái Định Niệm Hơi Thở rất nhiều trong phương pháp khác. Khi cái thân tâm chúng ta nó có bị cái gì, là chúng ta trở với cái Định Niệm Hơi Thở, mà chúng ta lôi nó ra, thì chúng ta sẽ đạt được kết quả. Đó là cái phương pháp tu mà.

Phước Nhẫn: Con kẹt ở cái chỗ mà trạo cử, phóng dật nhiều quá Thầy.

Trưởng lão: Thì đó, đó nó có hai phương pháp dẫn tâm đó, trạo cử với phóng dật. Thì đó là cái phương pháp “An tịnh tâm hành” đó, “An tịnh tâm hành, tôi biết tôi hít vô, an tịnh tâm hành…​”. Tập cái đó cho nó nhuần, để mình dẫn cho được cái tâm của mình nó giao cái trạng thái đó, thì lúc bấy giờ, nó bị trạo cử hay bị một cái điều kiện gì, thì mình cứ dẫn nó vậy, cái nó an ổn liền à.

Nó có hai cái đề mục đó để mà dẫn cho nó vào cái an ổn. Chứ mình bây giờ đâu có giác chi đâu, đâu có khinh an giác chi, hỷ giác chi đâu mà an ổn được. Chỉ có vấp cho nó được an ổn thôi, nhắc nó vậy chứ mà nó an ổn lắm. Cứ làm đi! Rồi tu tập đi!

Thầy nói tu tập cái bài Định Niệm Hơi Thở mà tu tập cho kỹ 18 cái đề mục này rồi, nó toàn bộ nó có lợi ích. Cho nên, khi mà Thầy rút tỉa kinh nghiệm của Thầy đó, Thầy mới kê ra 18 cái đề mục là nó đủ cho chúng ta tu. Gặp cái trường hợp nào là chúng ta dẫn cái tâm chúng ta vào đó liền.

(1:20:28) Phước Nhẫn: Bởi vì mình không có biết cái đề mục nào đó, áp dụng cho cái trường hợp nào. Ví dụ như cái tâm trạo cử, phóng dật đó thì áp dụng cái câu: “Với tâm định tĩnh, tôi biết tôi hít vô tôi biết tôi thở ra”. Đó mà hợp mình, cái mình chuyển cái ca khác, áp dụng cái đề mục nào cho phù hợp? Để mình …​ (Không nghe rõ).

Trưởng lão: Đề mục nữa, nó có những cái đề mục nó chứ sao.

Phước Nhẫn: Mà nên trong kinh mình không có nói cái vụ đó, mà chỉ nói tổng quát thôi.

Trưởng lão: Cái đó là cái kinh nghiệm của người tu rồi.

Phước Nhẫn: Dạ.

Trưởng lão: Cho nên mình biết khi mà tu tập nó nhuần nhã rồi, lúc bấy giờ nó bị cái gì đó, thì bắt đầu dẫn nó vô liền cái đó…​ Dùng cái pháp Định Niệm Hơi Thở là dẫn nó vô. Thì lúc bấy giờ chúng ta tu pháp gì, mà chúng ta dẫn nó vô, nó an ổn đúng rồi, cái bắt đầu chúng ta tu nó dễ. Chứ không nó bị trạo cử, trạo hối nó khó lắm. Nó làm cho chúng ta mất thì giờ vô ích.

Phước Nhẫn: Con nhớ Thầy viết cái bài mà 16 cái đề mục của nó …​ (Không nghe rõ) không biết sao mà thấy cái tâm…​

Trưởng lão: Không biết áp dụng.

Phước nhẫn: …​ (Không nghe rõ).

Trưởng lão: Thầy thì, Thầy nghĩ rồi mấy con, có bệnh gì thì Thầy chỉ cho phải dùng nó thôi. Cũng như bây giờ có bệnh rồi Thầy mới chỉ thuốc. Còn bây giờ mà Thầy viết sẵn cũng như là Thầy làm một cái cuốn, coi như là viết ra cái bộ sách thuốc để mà, toa này trị bệnh gì, bệnh gì mấy con coi, thì đúng rồi nếu mà có thì giờ thì cũng nên viết chứ không phải là không. Nhưng mà ngặt vì chưa có thì giờ, chứ phải có thì giờ Thầy đã viết rồi.

Phước Nhẫn: Trong kinh nói là tâm thụ động phải thời tu giác chi nào?

Trưởng lão: Ờ.

Phước Nhẫn: Mà tâm dao động thì phải thời tu giác chi nào?

Trưởng lão: Tu giác chi nào?

Phước Nhẫn: Con nói thẳng, thí dụ mình tụng cái ca đó, cái mình …​ (Không nghe rõ) ra đó, mình biết được.

Trưởng lão: Biết mà biết cái chỗ đó mình tu tập, thì cái giác chi nó sẽ xuất hiện thôi.

Phước Nhẫn: Dạ.

Trưởng lão: Ờ đúng vậy đó. Đúng là nếu mà một cái người mà như Thầy đó, mà bây giờ mà được cái thì giờ mà rảnh rang, mà không có bị tiếp khách, không bị này kia nọ đó, không bị mất phí như vậy đó. Thầy ngồi Thầy soạn thảo ra, sau này mấy con có cái tài liệu rất là quý. Bởi vì, Thầy biết áp dụng nó vô.

(01:22:12) Phước Nhẫn: Con thấy, thì con không biết thì Thầy nói sao, riêng con thấy vấn đề mà Thầy tiếp khách, Thầy ra Thầy tiếp mấy cái chuyện này đó, nó cũng quan trọng, nhưng mà nó không quan trọng bằng viết giáo trình tu tập.

Trưởng lão: Ừ đúng vậy.

Phước Nhẫn: Con thấy cái kia nó nặng hơn. Thầy hướng dẫn khách một thời gian đó, thà Thầy ghi …​ (Không nghe rõ) tốt hơn.

Trưởng lão: Ừ.

Phước Nhẫn: Còn cái phần mà cái tâm phóng dật đó, con nằm ưu tư cái đó hoài, cái đó mình quán đó, mà nó khởi tâm phóng dật. Đó, cái tâm phóng dật đó mình nhìn thì nó hết. Đó thì con thấy nó kiểu như là không có dục, thì qua kinh nghiệm …​ (Không nghe rõ) mà trạo cử hoặc phóng dật tùm lum, mà không biết.

Trưởng lão: Ừm.

Phước Nhẫn: Tưởng đâu có đâu. Cái đó nhiều người biết, cái nhìn nó hết, mà nhiều người biết nhìn nó không hết …​ (Không nghe rõ) cái tâm nó gần như chống lại.

Con thấy cái trường hợp cái phóng dật là cái quan trọng nhất, mà mình quán là nó không …​ (Không nghe rõ) không phân tích, không ưu tư thì nó có, mình làm vậy cái nó hết, cho đến giai đoạn …​ (Không nghe rõ) Như Lý Tác Ý rồi, mà kinh Phật có nói là thành ra tác ý nó hết, nó đúng, cái lực của mình tu tập cái đó mình đâu có đủ lực tu tập cái đó đâu.

Mình giờ mình nếu mình áp dụng cái phương pháp đó, để mình áp dụng vào …​ (Không nghe rõ) không có được. Ví dụ như mình đang phóng dật …​ (Không nghe rõ), Phật nói: “Ta thành Chánh Giác là nhờ không phóng dật”, mà nói cái gì nó hết thì nó hết, nó có hết đâu. Nó có mức độ nó nhẹ, thì nó hết. …​ (Không nghe rõ) hết đâu.

(01:23:44) Trưởng lão: Đúng vậy. Cái nghĩ con là cái nghĩ đúng đó. Nó không phải đơn giản đâu. Bởi vì cái tâm phóng dật, khi nào cái tâm định tĩnh được, nó mới không phóng dật. Tâm không định tĩnh thì không phóng dật. Bởi vậy nó định tĩnh, mà bây giờ nó làm sao cách nào mà định tĩnh được đây? Chỉ có phương pháp Thân Hành Niệm nó mới định tĩnh, chứ hoàn toàn các pháp kia không đủ sức nó định tĩnh.

Thầy nói từ Tứ Chánh Cần cũng không đủ sức để định tĩnh, nó không định tĩnh mà nó chỉ nó tỉnh thức thôi. Tỉnh thức trên từng niệm để mà xả nó, còn tỉnh thức Tứ Niệm Xứ là tỉnh thức ở trên Thân Hành Niệm của nó để đẩy lui chướng ngại pháp. Nó cũng tỉnh thức, chứ nó đâu có định tĩnh được.

Nhưng mà chính cái pháp Thân Hành Niệm nó mới định tĩnh. Mà định tĩnh mới không phóng dật. Bởi vì nó định, cho nên nó không có ai lôi nó ra được. Còn mình không định, mình tỉnh thức thì nó bị lôi à. Cái pháp ở ngoài nó đập vô thì mình phải phóng dật ra thôi, không có làm sao mà chạy khỏi nó nữa.

Cho nên nó định rồi thì không có ai kéo nó được hết, nó định mà. Cho nên định mà tỉnh, chứ không phải là định mà mê đâu, định tỉnh. Cho nên cái định tỉnh mới nhu nhuyến dễ sử dụng. Đức Phật đã ghép ba cái danh từ này liền nhau định tĩnh, nhu nhuyến, dễ sử dụng. Nhưng mà cái tâm định tĩnh phải cái phương pháp nào, chứ đâu phải muốn nói định tĩnh là định tĩnh đâu.

Còn nói tâm phóng dật, mình đừng có…​ Đâu trời, tâm phóng dật đâu phải dễ các pháp, bởi vì trên thân, trên pháp quán pháp, các pháp nó luôn, nó vây quanh mình. Mà nó vây quanh mình nó làm gì? Mục đích của nó là nó làm tạo cho tâm mình phóng dật chứ cái gì. Mà vì vậy, cho nên vì vậy mình không thành Chánh Giác được, là tại vì các pháp đang vây quanh mình, mà tâm mình luôn luôn bị phóng dật.

(1:25:14) Do đó, muốn không phóng dật, thì tâm phải định tĩnh. Mà cái phương pháp tu định tĩnh thì phải biết, mà không biết thì coi như là chúng ta chỉ nói: “Bây giờ không có lo nó” và chúng ta chỉ nhận nó thôi thì nó cũng hết. Sự thật bây giờ nhận ngàn lần cũng không hết đâu. Phải không nó…​

Phước Nhẫn: Họ quan niệm cái đó không quan trọng mà mình nói là: …​ (Không nghe rõ). Họ nói cứ tối ngày, cứ quán ba cái niệm này hoài là…​

Trưởng lão: Nó không định tĩnh.

Phước Nhẫn: Sao tùm lum. Đó …​ (Không nghe rõ) mới nói: “Định là gì? Định là chánh đạo, mà không định là tà đạo”. …​ (Không nghe rõ) mà hai, ba cái quan điểm, con không biết sao. Là hiểu có một phần ba là vậy …​ (Không nghe rõ) mà tâm phóng dật chắc cũng không có được. Ta nói: “Không có sao”, nói: “Không có được”, cái đó là quan trọng, chính cái đó nó lôi, nó làm mình đi xuống, mà làm sao nó không có sao.

Trưởng lão: Ừ, đúng rồi. Cái đó không phải đâu, phải có phương pháp.

Bây giờ, tâm mình phóng dật nè, tâm mình trạo cử nè, tâm mình trạo hối nè. Tất cả những cái tâm mà nó phóng như vậy đó, thì có cái phương pháp của Định Niệm Hơi Thở, mình dẫn dắt nó vô. Một lần mình dắt chưa được, hai lần dắt chưa được, ba lần dắt chưa được, bốn dắt chưa được, năm lần, mười lần sẽ được. Hễ mình tập dắt nó, dắt nó vô được. Bởi vì cái phương pháp đó là cái phương pháp, nó xoa dịu cái tâm của mình để dẫn nó vào cái mình muốn.

Thí dụ như: “An tịnh thân hành, tôi biết tôi hít vô, An tịnh thân hành, tôi biết tôi thở ra”. Bắt đầu bây giờ mình hít vô, thì trước khi mình nhận ra được cái cảm giác của mình chứ gì? Bởi vì: “Cảm giác toàn thân, tôi biết tôi hít vô, cảm giác toàn thân…​”, tức là cái đề mục đó mình phải, khi mình hít vô mình có cái cảm giác thì mới có an tịnh được. Chứ còn nếu mà chưa có cảm giác thì mình dẫn vô không được đâu. Phải không?

Đó cho nên bây giờ khi mình tu tập, mình cảm giác được rồi, thì bắt đầu đó mình mới: “An tịnh thân hành, tôi biết tôi hít vô”, khi mình hít vô, mình cảm giác, cảm giác cái gì? Cảm giác sự an ổn. Có đúng không? Thì cảm giác được, một chút xíu thì nó thực hiện ra cái cảm giác đó liền tức khắc. Cái cảm giác an tịnh đó là …​ (Không nghe rõ), cái tâm cũng vậy, cái thân cũng vậy.

Cho nên bây giờ cái tâm mình bị trạo cử, cho nên cái…​ Hầu hết là người ta cứ lo ức chế để mà cho nó đừng có niệm khởi thôi, chứ sự thật người ta không biết dắt nó. Còn cái phương pháp của Phật dạy chúng ta có cái phương pháp dắt nó.

(1:27:50) Cho nên nói mình thấy phóng dật không sợ, lẽ đương nhiên là chúng tôi không sợ rồi, nhưng mà chúng tôi phải đạt được kết quả chứ, chứ bây giờ cứ để tâm phóng dật vậy rồi tôi đi tới đâu? Ngồi đó suốt, bây giờ mười năm, hai chục năm mà tâm tôi còn phóng dật như vậy, thì làm sao tôi thành Chánh Giác được?

Cho nên, phải có cái phương pháp làm sao cho không phóng dật chứ. Như vậy là rõ ràng là muốn không phóng dật phải có phương pháp tu chứ. Chứ bây giờ mình cứ nói rằng: “Không sợ nó”. Không sợ nó mình cứ quán, chưa chắc đã là hết. Cứ quán là động, làm sao hết được.

Tất cả những cái phương pháp tu, thì chúng ta phải có từng cái kết quả của cái pháp đầu tiên, rồi kế cái pháp kế rồi kế cái pháp kế nữa, nó phải kết quả, từ kết quả này nó dẫn dắt chúng ta đi vào cái chỗ tu tập, chúng ta mới có kết quả giải thoát.

15- TÁC Ý VÀ TỰ KỶ ÁM THỊ

(01:28:36) Phước Nhẫn: Còn trong cái bài kinh Thân Hành Niệm đó, con có một cái rắc rối nữa Thầy.

Trưởng lão: Ừ.

Phước Nhẫn: Trong kinh Tương Ưng Bộ Kinh, mục V, cái Phẩm Bất Tử, trang 287, có nói như thế này: “Sự tập khởi của tác ý là sự tập khởi của các pháp. Sự đoạn diệt của tác ý là sự chấm dứt của các pháp”. Đó trong lúc hồi nãy, Thầy nói ba cái pháp nó vây quanh mình.

Trưởng lão: Ừ.

Phước Nhẫn: Nó làm cho mình phóng dật, thì bây giờ mình cứ tác ý hoài, thì cái pháp nó còn hiện đó, nó hiện lên nhiều, bao quanh mình nó làm mình phóng dật.

(01:29:06) Trưởng lão: Mình phải biết rằng cái chỗ mà đức Phật nói đó. Một cái người mới tu đó, là phải dùng cái pháp tác ý, coi như là nó vây quanh mình, để tác ý cho nó, nó không có xâm chiếm mình, là cái giai đoạn kêu là không có cho xâm chiếm mình. Vì các pháp ở ngoài nó xâm chiếm vô, thì mình chỉ dùng cái loại vũ khí tác ý đó, để cho nó không có xâm chiếm vô mình được thôi.

Chứ còn hoàn toàn nó chưa yên, chúng nó còn bắn mình, chứ chưa yên đâu. Đó đó là cái phương pháp đầu tiên, chúng ta tu là cái pháp tác ý. Coi như là động nhưng mà nó vẫn là ngăn được giặc. Bởi vì, chúng bắn mình thì mình phải bắn, thì phải động rồi, không có thể nào, hai bên đang giao chiến rồi, nó chưa phải là thanh bình đâu.

Đó là cái phương pháp đầu tiên là phải tu tập như vậy, chứ không thể nào khác hơn hết. Cho nên pháp này phải đối trị với pháp này rồi, cho nên nó động rồi, chứ nó không thể…​ Chứ đó là cái phương pháp quán là phương pháp động thôi, chứ không có thể nào định tĩnh được hết. Định tĩnh là khi nào, mà giặc nó lui rồi mới định tĩnh, chứ còn giặc nó còn thì không định tĩnh được. Đã hiểu chưa?

Phước Nhẫn: Cái tác ý trong thân nó, nó qua đó.

Trưởng lão: Ừ.

Phước Nhẫn: Nó không sao hết.

(01:30:14) Trưởng lão: Nó không sao. Bởi vì, cái tác ý đó, để mà nó thực hiện cái trạch pháp giác chi. Mà không tác ý cái này thì trạch pháp giác chi không có. Bởi vì cái xả giác chi rồi mới tới trạch pháp giác chi. Chứ không phải là trạch pháp giác chi trước nghe.

Thấy bây giờ Thầy nói nè, cái tinh tấn giác chi nó xuất hiện trước nè. Bởi vì trên cái phương pháp Thân Hành Niệm tu tập sẽ thấy lần lượt nó xuất hiện từng cái, từng phần của nó ra.

Cái tinh tấn giác chi nó xuất hiện trên cái pháp hành của chúng ta, tức là trên Thân Hành Niệm. Thì lúc bấy giờ tinh tấn giác chi thì khinh an giác chi, rồi hỷ giác chi, ba cái này nó xuất hiện nè, rồi mới tới cái niệm giác chi, rồi mới định giác chi, rồi mới xả giác chi, mới trạch pháp giác chi, cái trạch pháp sau cùng. Trạch pháp là Dục Như Ý Túc rồi.

Cho nên vì vậy mà, cái tác ý của chúng ta để mà luyện nó, để trở thành cái trạch pháp giác chi, chứ không phải gì hết. Nếu mà không luyện tác ý từng hành động, không truyền lệnh nó, thì sau này nó Dục Như Ý Túc đâu được. Nó khác, còn kia tác ý để đẩy lui chướng ngại pháp kia thôi là nó, nó cũng là luyện tập, nó nội lực, nhưng mà đầu tiên chúng ta tu tập vậy đó gọi là tự kỷ ám thị.

Còn bây giờ cái pháp mà Thân Hành Niệm này, nó không phải tự kỷ ám thị, mà nó là trạch pháp giác chi. Bắt đầu, khởi sự tu tập trạch pháp giác chi, tức là chúng ta phải tác ý từng hành động của chúng ta, để cho nó tỉnh thức ở trên đó mà tạo thành cái cỗ xe, nó tạo thành căn cứ địa của nó rồi, nó khác rồi, nó trở thành cái lực, nội lực rất mạnh của nó rồi.

Cho nên cái tác ý này nó khác hơn mà những cái tác ý kia rồi, nó tác ý này nó không còn tự kỷ ám thị. Còn cái mà chúng ta mới đầu mà chúng ta vô tu, coi như là tự kỷ ám thị. Cho nên nó có hiệu quả, nó có kết quả, nhưng mà gặp cái khó khăn, nó không kết quả nổi.

Nó có kết quả, nó ám thị nó có kết quả đó, nhưng mà kết quả những cái lực nhẹ thôi, chứ mà cái lực mà cao thì cái sức của nó không đủ. Cho nên đến khi mà tới pháp Thân Hành Niệm, nó mới tạo thành cái trạch pháp giác chi, tức là cái lực rất mạnh, lực màu nhiệm.

Cho nên đức Phật đưa cái bài Thân Hành Niệm, con đọc mà cái bài Thân Hành Niệm, năm cái điều kiện sau, một cái người mà có đủ bảy cái giác chi, cái trạch pháp giác chi nó xuất hiện rồi, thì cái ý muốn là rờ mặt trời, mặt trăng, là nó ngồi đây, nó rờ được mặt trời, mặt trăng mà. Nó biến hóa tàng hình cái gì cũng được.

Bắt đầu mà chúng ta tu:

“Đưa tay ra”“Để tay lên đùi” nè.

“Để tay mặt lên”“Để tay trái lên” nè.

“Hai chân đứng dậy” nè. “Co tay” nè.

“Hai chân bước”“Chân trái bước”“Chân mặt bước”“Bước, bước, bước, bước”.

Đó là những cái lệnh của nó để trạch pháp giác chi đó. Nó không còn ám thị đơn sơ nữa đâu, kia con ám thị: “Tâm như cục đất, ly tham, sân, si hết đi, tâm là tham là khổ, tham, sân, si là khổ”. Đó là ám thị. Phải hiểu được cái phương pháp chứ.

Phật giáo nó có cái phương pháp Như Lý Tác Ý, là tại vì nó có cái chiều sâu, cho nên nó không gọi là tự kỷ ám thị, mà nó gọi là Như Lý Tác Ý. Cho nên Như Lý Tác Ý, cái lúc mà Như Lý Tác Ý đầu tiên là tự kỷ ám thị. Nhưng mà khi mà…​

HẾT BĂNG

Pháp Âm - 2000 - SƯ PHƯỚC NHẪN VẤN ĐẠO 02 - CÁC TRẠNG THÁI THIỀN ĐỊNH

2000 - SƯ PHƯỚC NHẪN VẤN ĐẠO 02 - CÁC TRẠNG THÁI THIỀN ĐỊNH

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 2000

Thời lượng: [1:32:58]

1- CÁC PHÁP TU CỦA PHẬT

(00:00) Trưởng lão: Bởi vậy mới thấy được cái phương pháp của Phật nó từ cái thấp cho đến cái cao chứ, mới đầu thì nó tự kỷ ám thị hết, thật sự ra mình tác ý: “Cái tâm như cục đất ly tham, sân, si hết đi. Tham, sân, si là khổ, mai mốt không có giận nữa nha”, đó là mình ám thị cái tâm của mình, để khi nó có xảy ra cái chuyện gì đó, thì ngay đó nó tác ý ra nó làm cho tâm mình nó giảm đi cái phiền não, không còn đau khổ nữa, đó là cái ám thị nó có kết quả hẳn hòi.

Như cái thân mình đau này: “Cái thọ là vô thường này, cái tay đau phải đi đi không có được ở đây”. Thì mình tác ý như vậy thì nó vẫn đẩy lui được cái thọ đó, nó vẫn hết đó nhưng mà đó mới tự kỷ ám thị thôi. Nhưng mà Trạch Pháp Giác Chi nó xuất hiện rồi, cái thọ này nó vừa ra lệnh một cái là không thấy còn nhức, còn cái kia nó còn nhức, kéo dài một thời gian năm, mười phút rồi nó hết. Còn cái Trạch Pháp Giác Chi mà nó xuất hiện đó, tức là cái lệnh đó, lệnh bảo đứng, đi, ngồi nó làm đó, bảo hết là hết liền tức khắc.

(0:56) Cái thọ không có làm chủ được nó đâu nó làm chủ, nó hoàn toàn cái lệnh nó mạnh lắm, nó màu nhiệm đến cái sức màu nhiệm mình không ngờ được. Đó là cái chỗ mà tu cái Thân Hành Niệm mà bắt đầu vô mà ra lệnh từng ra lệnh của nó, đó là tập luyện Trạch Pháp Giác Chi chứ không phải là gì hết, để cho nó xuất hiện cái Trạch Pháp Giác Chi. Nếu mà không luyện cái này không Trạch Pháp Giác Chi, không vô. Mà nhờ cái này nó mới có cái sức định tĩnh, mà nhờ tác ý nó có sức định tĩnh, chứ nếu mà không tác ý không định tĩnh nổi.

Sư Phước Nhẫn: Như Lý Tác Ý giai đoạn đầu là ám thị?

Trưởng lão: Ám thị từng cái.

Sư Phước Nhẫn: Giai đoạn thứ nhì kêu bằng cái gì Thầy?

Trưởng lão: Giai đoạn thứ nhì nó mới là pháp Như Lý Tác Ý, mới Như Lý Tác Ý thật sự của Phật đó. Cho nên, đức Phật gọi là Như Lý Tác Ý là gọi chung thôi, chứ nó phân hai giai đoạn.

Sư Phước Nhẫn: Dục Như Ý Túc phải không Thầy?

Trưởng lão: Như Ý Túc đó.

Sư Phước Nhẫn: Thưa hỏi.

Trưởng lão: Nó Dục Như Ý Túc đó, đó là như ý túc rồi, nó thành ra Tứ Như Ý Túc đó, tức là cái giai đoạn hai nó là Tứ Như Ý Túc rồi. Tứ Như Ý Túc.

Sư Phước Nhẫn: Cái bài kinh này con thấy nó cũng như cái bài kinh hồi nãy, bài kinh Tương Ưng thấy bên này nói, thì bên này nói vậy hai cái nó đụng với nhau.

Trưởng lão: Bởi vậy cho nên nếu mà mình đọc mà mình không hiểu, nhiều khi cái người mà nó kết tập kinh sách đó, hầu như là cái người sau kết tập, người mà chưa chứng đó nên nó lộn xộn. Thay vì cái bài kinh này phải nói, nhắc cho người ta ở cái giai đoạn đầu. Còn cái này nó đưa vào chỗ này mình không biết cái bài kinh này nó nằm ở cái giai đoạn nào của trong ba giai đoạn tu cái Tứ Niệm Xứ này, thành ra mình lộn xộn, mình không biết, phải không?

Cho nên vì vậy mà cái thí dụ như cái bài kinh này, ở trong Tương Ưng nó nói cái bài kinh này, nếu một người có kinh nghiệm thì người ta biết, ờ cái bài kinh này đức Phật muốn nói là mình giai đoạn mình tu Tứ Chánh Cần. Còn cái bài kinh này đức Phật nói ở trong cái chỗ này đây là cái giai đoạn tu Tứ Niệm Xứ. Cái người có kinh nghiệm người ta biết, còn cái người không kinh nghiệm, dường như nó mâu thuẫn, dường như nó đối chọi nhau.

Sư Phước Nhẫn: Cảm thấy nó kỳ.

Trưởng lão: Nó kỳ. Chứ không ngờ là người ta ở trong cái giai đoạn nào, thì nó có những cái cách thức tu của nó như vậy, cho nên đức Phật mới nhắc nó chỗ đó.

Sư Phước Nhẫn: Trong một bài kinh mà đức Phật nói một niệm khởi lên thì mình Như Lý Tác Ý.

Trưởng lão: Ừ.

Sư Phước Nhẫn: Đó là cái pháp hành. Trong cái bài kinh ở Tương Ưng này thì nói, Như Lý Tác Ý là tập hợp các pháp.

Trưởng lão: Ừ. Thế hay…​

Sư Phước Nhẫn: Tập hợp các pháp, là pháp nó bao vây rồi mình sao tu?

Trưởng lão: Thì đó, thì bắt đầu bây giờ mình tác ý ra để nó tập hợp các pháp chứ gì? Nhưng mà trái lại mình tác ý ra, tức là nó…​ Tuy rằng nó không có vô được, nó không có xâm chiếm mình được, nó tập hợp lại các pháp nhưng mà nó xâm chiếm không được, mình tác ý là mình động rồi, cho nên nó tập hợp các pháp. Nhưng mà không tác ý thì coi như nó xâm chiếm, mà tác ý nó bao vây chứ nó không xâm chiếm mình được, nó ở ngoài.

Bởi vì mình tác ý là động rồi, còn nếu ngay đầu tiên đó mình không tác ý đó thì tức là mình tịnh đó, thì chúng nó sẽ đánh mình. Khi mà nó đánh mình thì mình không có chỗ đòn đỡ, nhờ cái pháp tác ý đó mà nó bao vây ở ngoài, chứ còn nó không có tác ý động được mình. Cho nên hai cái, cho nên mình nếu mà không hiểu đó, thì coi như là mình không biết cách thức nào mà tu tập được hết.

Sư Phước Nhẫn: Thưa hỏi.

Trưởng lão: Hết rồi chưa?

2- TRẠNG THÁI CỦA SƠ THIỀN

(04:02) Sư Phước Nhẫn: Còn. Cái này con hỏi lại Thầy, cái diễn tả trạng thái Sơ Thiền đó. Là thứ nhất là tâm định trên hơi thở, con thấy cái hơi thở nó tự động, trong lúc đó mình đang thở bình thường, tự nhiên lúc đó cái hơi thở nó tự nhiên nó tự động. Mình không có thở mà mình thấy nó sượt vô cái ra mình thấy tự động liền. Cái đó đúng không Thầy?

(04:21) Trưởng lão: Không. Bởi vì con dẫn tâm lên trên hơi thở. “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”, mà bây giờ mình biết hít vô thở ra tự động, tự động rồi thì mình không tác ý, thì tức là mình cũng sai rồi đó. Bây giờ mình dẫn nó trong năm hơi thở hay là mười hơi thở, thí dụ năm hỏi thở thì mình dẫn nó, mình chỉ cần mà chú ý cái hơi thở, coi thử coi cái nó có biết hơi thở hay không thôi, hoàn toàn là không cần biết gì nữa hết. Còn nó mà nó thay đổi thì không được, mà khi mà nó thay đổi là tới cái đề mục thứ hai, thì mới được.

Sư Phước Nhẫn: Còn nếu cái thứ nhất là tâm định trên hơi thở là chỉ xả đó hả Thầy?

Trưởng lão: Tâm định trên hơi thở là khi mà tu Tứ Niệm Xứ mới thấy nó định trên hơi thở, chứ còn bây giờ thì không có…​

Sư Phước Nhẫn: Cái trạng thái đó là sao Thầy?

Trưởng lão: Cái trạng thái của nó là bao giờ nó cũng khinh an, nhẹ nhàng, nó an ổn hết thì nó mới là…​

Sư Phước Nhẫn: Cái trạng thái hơi thở nó sao Thầy?

Trưởng lão: Hơi thở thì nó thông suốt lắm, nó nhẹ nhàng, nó thông suốt lắm. Là khi đó đó, mình sẽ tu tới cái đề mục thứ hai của Định Niệm Hơi Thở mới thấy được cái hơi thở này.

Sư Phước Nhẫn: Bởi vì con thấy như thế này, con thấy nó nhẹ nhàng, nó thông suốt mình biết, mình biết thở đàng hoàng mà mình không có chú ý nó, mà mình thấy mình bị ghịch vô đó.

Trưởng lão: Nó bị ghịch vô đó là Tứ Niệm Xứ rồi, cái tâm nó định vô hơi thở.

Sư Phước Nhẫn: Mình bị ghịch vô đó (Không nghe rõ). Dạ. Con bị nghịch vô đó, thấy thở vô thở ra, thở vô thở ra mình hoàn toàn yên ổn lắm.

Trưởng lão: Ừ. Đó là nó định hơi thở. Nhưng mà trong cái giai đoạn này là giai đoạn Tứ Niệm Xứ, chứ còn Định Niệm Hơi Thở thì nó chỉ cái chỗ mình dẫn vô cái: “Hít vô dài tôi biết tôi hít vô dài” đó, tức là nó thông suốt mà hơi thở dài hoặc là nó thông suốt trong hơi thở ngắn. Thì nó thông suốt tức là tự động nó có ra vô rồi, thì tức là mình đã đề mục này, đã mình đạt được rồi.

Sư Phước Nhẫn: Chỉ mới cách đây ba năm con có ngồi trên cái băng đó, tự nhiên cái nó vô, tự nhiên nó ghịch, ghịch vô.

Trưởng lão: Ghịch vô, tức là nó định lên trên hơi thở.

Sư Phước Nhẫn: Dạ. Nó thở vô, thở ra, thở vô, thở ra mình biết nó thở vô, thở ra nhưng mà mình rất an ổn.

Trưởng lão: Ừ.

Sư Phước Nhẫn: Và nó kéo dài và lúc đó không có phóng tâm.

Trưởng lão: Ừ.

Sư Phước Nhẫn: Không có phóng niệm nữa.

Trưởng lão: Ừ.

Sư Phước Nhẫn: Lúc đó cũng không bị phóng dật nữa.

Trưởng lão: Nhưng mà nó lưu ý cái phần này nữa, Thầy nhắc phần này nữa, trong cái thời gian đó nó thông suốt như vậy đó, bắt đầu cái hơi thở nó nhỏ nhiệm lần, nếu mà kéo dài cái thời gian mà nó không niệm, không gì hết đó thì bắt đầu nó thay đổi hơi thở.

Sư Phước Nhẫn: Con thấy nó cứ y vậy.

(06:25) Trưởng lão: Nó thông suốt. Nếu nó y thì đúng, mà nó thay đổi thì là nó lọt vô thiền tưởng rồi, tưởng thức rồi, nó thay đổi, nó chậm nhẹ, chậm nhẹ, lần lần nó chậm nhẹ, chậm nhẹ. Và nó càng chậm nhẹ thì nó lại càng an ổn nhất, nó an ổn nhất tức là bị rơi vào xúc tưởng hỷ lạc.

Thay vì đầu tiên thì nó thông suốt và nó ra vô đều đều vậy đó là đúng, thì chúng ta bỏ nó đi chúng ta đi tới cái giai đoạn khác, chứ nếu mà chúng ta kéo dài cái trạng thái này ra thì chúng ta sẽ bị định tưởng. Cho nên, khi mà nó thông suốt rồi thì từng ba mươi phút thôi chứ trên ba mươi phút là không được, nghĩa là nó thông suốt đó mà kéo dài một tiếng đồng hồ là bị rơi rồi, trật rồi, đi trật đường rồi, không đúng rồi.

Cho nên, khi mà cái định niệm mà hơi thở đức Phật nói: “Hít vô dài tôi biết tôi hít vô dài, thở ra dài tôi biết tôi thở ra dài”, nó thông suốt rồi đó, là cái chỗ thông suốt của hơi thở rồi đó nhưng mà không được kéo dài đâu, thay đó, lúc bây giờ đó thì chúng ta mới: “Cảm giác toàn thân tôi biết tôi hít vô, cảm giác toàn thân…​”, tức là thay đổi liền chứ không có ở chỗ này để thông suốt đâu. Cho nên, khi mình hít vô cái hơi thở nó thông suốt đó thì mình có cái cảm giác toàn thân nó mới dễ, hiểu chưa? Còn nó chưa thông suốt đó mình cảm giác rất khó á.

Thầy nói từng cái kinh nghiệm này rồi tu tập, rồi tới thấy biết mà, nó hay lắm chứ không phải không. Bây giờ dẫn nó vô được cái hơi thở thôi chứ chưa, nó chưa có thông suốt cái hơi thở đâu. Sau khi cái đề mục thứ hai đó, mới là thông suốt hơi thở tức là tự động rồi đó hơi thở ra vô, nó dài là nó dài mà nó nghe nhẹ nhàng, nó an ổn lắm rồi thì bắt đầu xả liền, không được kéo dài thêm cái này nữa. Tức là, đạt được cái kết quả này rồi thì lấy kết quả của cái trạng thái thông suốt của hơi thở này thì tu tới cảm giác toàn thân. Dùng cái cảm giác với cái hơi thở đó, chứ không phải cảm giác cái hơi thở mới dẫn vô, đó phải hiểu. Mà khi có cảm giác rồi đó, có cảm giác rồi đó thì mới: “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô”.

Con thấy cái đề mục tuần tự nó đi từng giai đoạn của nó để mà nó vô không? Có nhận thấy cái Định Niệm Hơi Thở mà từng cái đề mục của Phật dạy đó, nó đi vô, khi mà cái cảm giác được rồi thì cũng không ở trong cảm giác. Nếu mà cảm giác này mà nếu mà chúng ta ở chúng ta kéo dài thì nó sẽ sinh ra cảm giác của tưởng nữa, nó không có yên ở chỗ này đâu mà nó đưa ra những cái loại tưởng ra, nó không do mình dẫn mà nó hiện ra.

(08:33) Cho nên vì vậy mà khi mình nhận ra được cảm giác hít vô, mình cảm giác được từ dưới chân lên đỉnh đầu mình rồi, thở ra cũng vậy rồi thì bắt đầu thay đổi đề mục liền, tức mình đạt được kết quả đó rồi thì mình thay đổi. Thay đổi thì nó an tịnh, rồi cảm giác toàn tâm, rồi cảm…​ An tịnh tâm hành, lần lượt cho tất cả những cái này nó hoàn toàn mình đạt được kết quả rồi thì mới quán ly tham, quán ly sân.

Sư Phước Nhẫn: Còn cái lúc mà cái mình luyện hơi thở nó tự động, mà nó không thay đổi nó y như vầy, lúc đó cái trạng thái thân mình nó bừng sáng, nó nhẹ nhàng lắm, rất là bình thường không có gì khác hết trơn hết. Nó kéo dài thời gian cái …​ xả bỏ rồi cái trạng thái đó.

Trưởng lão: Mất.

Sư Phước Nhẫn: …​ cái máy tự động như vậy. Cái đó là trúng hay trật hả Thầy?

Trưởng lão: Trúng không trật, cái đó đúng nhưng mà điều kiện là phải tới đó thôi chứ đừng có dài nữa. Thì…​

Sư Phước Nhẫn: Con định ngồi suốt ngày nữa…​

Trưởng lão: Ôi! Trời! Trời! Không có được đâu. Đừng, cái đó là nó sẽ đi chết.

Sư Phước Nhẫn: Thưa hỏi.

Trưởng lão: Không có được. Mà ngồi suốt ngày là tiêu.

Sư Phước Nhẫn: Trạng thái như vậy là định sâu, là không phóng dật. Trong lúc mình không phóng dật là lúc đó định sâu hả Thầy?

(09:53) Trưởng lão: Cái tâm là không phóng dật đó là cái tâm mình bất động, nó mới không phóng dật, chứ không phải là định, mà cái tâm định, chứ không phải là lúc bấy giờ mình định sâu. Không phải sâu đâu.

Sư Phước Nhẫn: Bởi vì bữa hổm Thầy có nói bằng bài kinh, khi mà mình định vô sâu rồi đó nó không phóng dật nữa, nó nhập cái Sơ Thiền đó.

Trưởng lão: Ờ thì đúng rồi, muốn nói định sâu không có nghĩa là mình ngồi đó hay hoặc là mình nhiếp tâm này kia đâu, mà phần nhiều đó là Thầy muốn nói định sâu là Thầy muốn nói cái tâm mình định, định sâu là nghĩa nó ly dục ly ác pháp hết rồi, nó bất động tâm đó. Thì bắt đầu bây giờ nó định sâu, nó không phóng dật đó là tại vì lúc bấy giờ nó định tỉnh rồi, cho nên mọi tiếng động, mọi cái các pháp bên ngoài tác động nó, nó không phóng ra, thì lúc nó bất động tâm nó mới đi được như vậy, cho nên nó gọi là định sâu, định sâu là tâm định chứ không phải thân mình định đâu.

Cho nên Thầy muốn nói cái này cho rõ ràng đó, để không khéo người ta hiểu một cách không đúng đó. Người ta định sâu, người ta tưởng đâu là ngồi suốt cả ngày nó định sâu thì…​ Có nhiều người người ta nghĩ rằng mình ngồi nhiều nó sẽ định sâu, cái đó sai mất rồi. Cái này không, định sâu có nghĩa là trong vòng một phút, mười phút, mười lăm, hai mươi phút mà cái tâm định sâu là cái tâm không phóng dật, có nghĩa là nó bất động, các pháp nó tác động mà nó không có lưu ý ra ngoài nữa, thì đó là định sâu. Hiểu như vậy là mới hiểu đúng đó.

Sư Phước Nhẫn: Còn cái người ở trạng thái Sơ Thiền là sinh hoạt bình thường?

Trưởng lão: Bình thường.

Sư Phước Nhẫn: Hay là mình ngồi xếp bằng?

Trưởng lão: Nghĩa là nó có ba cách của nhập Sơ Thiền, ba cách Sơ Thiền.

Cách thứ nhất là đức Phật nói thiện xảo nhập định, kêu là mình khéo léo đó để mình ly dục ly ác pháp, thì cái đầu tiên mình vào được cái trạng thái hỷ lạc của cái Sơ Thiền. Tức là bây giờ Thầy ngồi đây, Thầy: “An tịnh thân hành”“An tịnh tâm hành” đó thì Thầy có cái trạng thái hỷ lạc rồi, thì đó là Thầy khéo léo Thầy nhập định.

Rồi bây giờ khéo léo để an trú. Bây giờ, Thầy kéo dài được cái trạng thái đó ra trong một tiếng, hai tiếng hay nửa tiếng đồng hồ thì gọi là an trú, khéo léo an trú, thiện xảo an trú trong định.

Rồi bây giờ đó, Thầy lại thiện xảo để sống trong định, bây giờ Thầy xả ra Thầy sống, vẫn cái trạng thái hỷ lạc có, cho nên coi như là luôn luôn Thầy sống ở trong cái Sơ Thiền. Có đúng không?

Phật dạy mà: Thiện xảo nhập định, Thiện xảo an trú trong định, Thiện xảo sống trong định. Ba cái điều kiện thiện xảo của người ta mà, chứ không phải là, con có thiện xảo con mới vào được, chứ con không thiện xảo con không…​ Mỗi thiện xảo phải tu tập pháp nào nữa.

Sư Phước Nhẫn: Giai đoạn hai của Sơ Thiền.

Trưởng lão: Ừ đó.

Sư Phước Nhẫn: Giai đoạn ba là gì?

(12:16) Trưởng lão: Giai đoạn ba là giai đoạn mới sống ở trong cái Sơ Thiền đó, nghĩa là giai đoạn ba là giai đoạn để mà tập luyện, để mà thiện xảo, để mà sống trong định đó, sống trong Sơ Thiền đó.

Sư Phước Nhẫn: Vậy tóm lại ba giai đoạn hả Thầy?

Trưởng lão: Ba giai đoạn đó.

Sư Phước Nhẫn: Thứ nhất là mình ngồi.

Trưởng lão: Thứ nhất là nhập vô, thiện xảo nhập vô đó. Thứ hai đó là thiện xảo an trú kéo dài thời gian ra, là giai đoạn thứ hai. Giai đoạn thứ ba là sống ở trong định. Đó là ba giai đoạn, có những cái phương pháp để mà mình thiện xảo chứ.

Sư Phước Nhẫn: Vậy là mình vô Sơ Thiền là mình sống bình thường, mình vẫn đi tới, đi lui hoài.

Trưởng lão: Đi tới, đi lui nhưng mà…​

Sư Phước Nhẫn: Không có ngồi.

Trưởng lão: Tâm rất là an lạc. Tầm tứ người ta đủ mà nhưng mà tầm tứ thiện không ác, không ai làm động tâm họ được hết, cho nên họ thiện xảo chứ không phải là không thiện xảo đâu, mới an trú mới sống ở trong đó được chứ còn không thiện xảo là không sống trong đó được.

Sư Phước Nhẫn: Như vậy mình đi tới đi lui vậy là có người lại tiếp duyên với mình, là mình có bị phóng dật không Thầy?

Trưởng lão: Không. Không phóng.

Sư Phước Nhẫn: Cái đó không phải là phóng dật?

Trưởng lão: Không phóng dật. Bởi vì đó là tầm…​ Mình còn tầm tứ mà, cho nên cái tầm tứ của mình hoạt động, chứ không phải là mình phóng dật đâu.

Sư Phước Nhẫn: Như không thì là thôi.

Trưởng lão: Ờ như không…​

Sư Phước Nhẫn: Bị phóng dật. Còn có người lại nói chuyện với mình, yêu cầu mình làm cái gì.

Trưởng lão: Ờ. Yêu cầu mình làm gì đó mình làm, mình hoàn toàn, mình trả lời này kia, tất cả mọi chuyện hết, sau đó tầm tứ của mình xong rồi thì tâm mình nó trở về liền. Trở về cái trạng thái bất động của nó liền, tức là cái trạng thái hỷ lạc của nó liền, nó không mất.

Hồi nó tác động ra vẫn hỷ lạc nó, tầm tứ nó vẫn có đó mà cái hỷ lạc nó vẫn có, nó tác động ra, nó giải quyết. Thí dụ như bây giờ con hỏi Thầy gì đó, mà Thầy sống ở trong cái Sơ Thiền rồi, thì cái hỷ lạc của Thầy không mất, mặc dù là Thầy giải quyết cho con cái này kia, nhưng mà thân và tâm Thầy nó khinh an, nó hỷ lạc, hoàn toàn nó đầy đủ ở trong này chứ nó không mất. Còn con nếu mà người ta lôi ra cái nó mất liền à.

Sư Phước Nhẫn: Cái trạng thái Sơ Thiền nó ở với mình suốt đời hay là có một lúc đó thôi Thầy?

Trưởng lão: Suốt đời đó. Suốt đời coi như là cái thế giới mà Phật nói là Sơ Thiền Thiên đó, nếu mà nhập ở trong cái Sơ Thiền, thì cái Sơ Thiền Thiên nó suốt đời mình sống ở trong đó thôi. Cho nên, khi mà cái người nhập Sơ Thiền là cái cuộc sống người ta rồi.

Sư Phước Nhẫn: Vậy sao có cái bài kinh đức Phật nói là sau khi ông giảng một bài pháp xong, cái ông trở về ông ở trong trạng thái Sơ Thiền lại? Như vậy lúc ông giảng pháp là không ở trạng thái Sơ Thiền?

(14:02) Trưởng lão: Ngày nào có ở trạng thái Sơ Thiền, nhưng mà khi mà mình động là coi như là không ở, chứ sự thật nó ở trong đó à. Bởi vì nó tầm tứ nó có ở trong đó tầm tứ, không lẽ bây giờ tầm tứ hoạt động cái nó mất cái hỷ lạc của người ta sao? Người ta cũng vẫn còn nhất tâm của người ta, luôn cái năm chi thiền của người ta có mà. Rồi mình giảng rồi cái mình trở lại thì cái điều đó là cái điều không đúng rồi, Thầy không tin cái điều đó đâu, Thầy biết. Nghĩa là khi mình bị động mình mất thôi, như là phàm phu rồi sao? Không có đâu.

Sư Phước Nhẫn: Bởi vì nói sau khi giảng bài kinh đó rồi, đức Phật trở lại cái trạng thái Sơ Thiền là thân sống lâu là không có chết. Ý muốn nói vậy đó, nghĩa là, con muốn hỏi là như vậy là trong lúc mà giảng đạo, nghĩa là không ở trạng thái Sơ Thiền sao?

Trưởng lão: Có. Cái trạng thái Sơ Thiền nó luôn luôn, cái…​

Sư Phước Nhẫn: Vậy thì đâu có trở lại được.

Trưởng lão: Đâu có trở lại. Coi như là mình đang sống rồi, bởi vì cái…​

Sư Phước Nhẫn: Thưa hỏi.

Trưởng lão: Cái câu kinh của Phật nói thiện xảo sống trong định mà, bởi vì người ta sống ở trong đó luôn luôn liên tục, người ta đâu có trở ra, trở lại. Cho nên, gọi là cái Sơ Thiền là cái định mà không xuất, không nhập rồi, không có nhập xuất rồi. Nghĩa là khi mà người vào trong đó người ta sống trong đó rồi thì không xuất nhập.

Còn nếu mà nói giảng đạo, đó là Bà La Môn nói, theo Thầy nói là Ba La Môn nói cái này, chứ không phải là Phật nói đâu. Cái Sơ Thiền của Phật là cái Sơ Thiền người ta sống cuộc sống người ta hoàn toàn rất rất an ổn. Người ta giải quyết, mặc dù bây giờ cái chuyện gì đi nữa, giải quyết vẫn cái trạng thái hỷ lạc vẫn còn, không mất con.

Sư Phước Nhẫn: Vậy là cái Sơ Thiền nó vẫn ở với mình suốt đời?

Trưởng lão: Nó suốt đời con. Bởi vì cái đó là cái bánh giải thoát của người ta ly dục ly ác pháp rồi.

Sư Phước Nhẫn: Vậy là cũng giống giống với cái định mà bên Bắc Tông, nói là định không xuất, không nhập đó hả?

Trưởng lão: Ừ nó y như vậy, cho nên nó lấy cái Sơ Thiền nó làm cái chỗ nó, là nó gọi là thiền tối thượng của nó, Tối Thượng thừa đó.

Sư Phước Nhẫn: Không xuất, không nhập hả Thầy?

Trưởng lão: Không xuất, không nhập nhưng mà không ngờ là cái Sơ Thiền người ta thôi. Bởi vậy hồi Thầy giảng cái bài mà Trở Về Đạo Phật, Thầy so sánh giữa cái Sơ Thiền với cái thiền của Đông Độ đó. Nghĩa là mấy anh nói mấy anh nhập cái thiền anh không xuất nhập, thì tụi tôi cũng có cái thiền nhưng mà cái thiền tụi tôi là Sơ Thiền thôi, đâu có gì cao đâu, mới ly dục ly ác pháp thôi, đâu có cái gì đâu. Chúng tôi cũng không xuất, không nhập, rõ ràng là cái thiền này không xuất nhập mà.

Sư Phước Nhẫn: Thì vô đó ở luôn?

Trưởng lão: Vô đó ở luôn. Nghĩa là người ta an, người ta thiện xảo, người ta sống ở trong đó luôn, người ta sống trong định mà.

Sư Phước Nhẫn: Bởi vì trong mới ban đầu cũng phải nhập vô đó rồi mới ở luôn chứ.

Trưởng lão: Thì lẽ đương nhiên. Trời đất ơi! Nó cả vấn đề đó, thiện xảo nhập định nè, rồi thiện xảo an trú, có từng giờ, từng phút rồi đàng hoàng đó, chứ không phải lơ mơ mà mình dẫn vô mình cho được đó, là một cái điều khó rồi đó, thế mà người ta dẫn cho được cái tâm người ta sống ở trong đó, sống trong thứ định đó, điều đó là con phải biết rằng phải là cái pháp Thân Hành Niệm rồi, chứ còn không còn không có cái pháp nào mà có thể dẫn nó vô được đâu.

3- TRẠNG THÁI CỦA DIỆT THỌ TƯỞNG ĐỊNH VÀ CỦA LẬU TẬN MINH

(17:02) Sư Phước Nhẫn: Còn cái này con xin hỏi qua cái phần mà vô sắc một chút. Thì trong cái bài kinh này, nói là cái Tứ Thiền đó, nó cũng còn sắc tưởng, qua cái vô sắc đó nó mới đoạn cái sắc tưởng. Đó trong cái bài kinh này, nó nói trong quyển bốn đó, Tăng Chi Bộ Kinh, cái bài kinh Niết Bàn có đoạn viết như thế này:

“Này Chư Hiền, Tỳ kheo vượt khỏi Phi Phi Tưởng Xứ một cách hoàn toàn chứng và trú Diệt Thọ Tưởng Định, vị ấy sau khi thấy với trí tuệ, các lậu hoặc được đoạn tận, với pháp môn này thì Chư Hiền cần phải hiểu Niết Bàn là lạc”.

Như vậy, cái trạng thái Diệt Thọ Tưởng Định này giống với trạng thái của Lậu Tận Minh không Thầy?

Trưởng lão: Lậu Tận Minh là khác rồi. Bởi vì bên đây là tuệ rồi, bên đây là định rồi hai cái nó làm sao ăn nhập vô được. Lậu Tận Minh là cái tuệ rồi, thì rõ ràng là con đường mà Tứ Thiền đó, thì người ta đi vào Lậu Tận Minh nè, rồi con đường Tứ Thiền thì nó…​ Bởi vì cái năng lực mà Thất Giác Chi nó sẽ nhập Diệt Thọ Tưởng Định rồi, thì vô trong này định rồi làm sao mà còn biết được.

Sư Phước Nhẫn: Bởi vì, cái người mà nhập Phi Phi Tưởng Xứ đó.

Trưởng lão: Ừ.

Sư Phước Nhẫn: Với trí tuệ họ đoạn diệt được cái lậu tận.

Trưởng lão: Ừ.

Sư Phước Nhẫn: Cũng như là, ở đây nói: “Các lậu hoặc được đoạn tận”. Còn lúc trước Thầy nói qua cái minh thứ ba đó.

Trưởng lão: Thì mới lậu tận.

Sư Phước Nhẫn: Ờ thì mới lậu tận.

Trưởng lão: Lậu Tận Minh.

Sư Phước Nhẫn: Thì hai cái minh thứ ba với cái diệt tưởng định thì nó cũng có một kết quả là đoạn tận lậu hoặc.

Trưởng lão: Nó kết quả nó khác nhau. Cái kết quả kia nó bằng cái tuệ, còn cái kết quả này nó bằng cái định. Nó diệt lậu tận định hay hoặc là Diệt Thọ Tưởng Định đó, nó diệt cái thọ với cái tưởng nó diệt sạch đi cho nên nó không còn lậu hoặc mà nó…​ Bây giờ nó ngồi đó thành cái gộc cây đó thôi, chứ nó xả ra thì lậu hoặc nó còn.

Sư Phước Nhẫn: Dạ.

Trưởng lão: Nó trật rồi. Bởi vì nó ngồi vô thì nó bất động đó, nó không có lậu hoặc bởi vì nó Diệt Thọ Tưởng Định của nó rồi, nó diệt thọ của nó rồi, cho nên nó không còn lậu hoặc. Còn cái này người ta hoàn toàn, người ta sống bình thường nhưng mà lậu hoặc người ta diệt bằng cái tuệ người ta, cho nên nó khác, cho nên đây mới giải thoát, con đường này không giải thoát. Con đường này chỉ ngồi vô đó nó hết còn mà xả ra nó bị.

Sư Phước Nhẫn: Cái chỗ này con thấy nó cũng hơi hơi nè…​ Cái chỗ này nè, nếu mình diệt thọ, diệt tưởng thì tại sao thì ở đây nói là: “Vị ấy sau khi thấy với trí tuệ…​”?

Trưởng lão: Làm sao thấy trí tuệ được, khi mà diệt rồi.

Sư Phước Nhẫn: Ở đây nói: “Vị ấy sau khi thấy với trí tuệ các lậu hoặc được đoạn tận”, mình diệt thọ, diệt tưởng rồi, trí tuệ đâu mà thấy mà…​

Trưởng lão: Không có. Bởi cái đó là vô lý rồi. Không có trí tuệ đâu, chỉ có Lậu Tận Minh là cái trí tuệ người ta mới thấy, người ta diệt, phải không? Lậu Tận Minh là người ta…​ Cái minh đó người ta mới thấy, người ta hiểu được cái lậu hoặc người ta hết gọi là Lậu Tận Minh. Còn cái này mình diệt rồi, mình còn cái gì đâu mình thấy, nó diệt nó ở trong định rồi nó còn cái gì nó thấy đâu, nó đâu có thấy được cái gì đâu mà gọi là lậu hoặc nó hết. Nhưng mà khi mà chúng ta xét thì nó diệt cái đó thì nó ở trong đó, thì nó không có lậu hoặc đâu. Bởi vì lậu hoặc là cái phiền não, cái đau khổ, cái mầm tái sanh của nó thôi, mà giờ nó nhập cái định đó thì nó làm sao nó tái sanh? Nó là sao nó…​

(19:53) Sư Phước Nhẫn: Con thấy ở cái định nó diệt thọ, nó diệt tưởng.

Trưởng lão: Ừ.

Sư Phước Nhẫn: Hết thọ, hết tưởng thì đâu còn lậu hoặc nữa.

Trưởng lão: Nó đâu còn lậu hoặc.

Sư Phước Nhẫn: Nó đâu có sinh hoạt nữa đâu mà.

Trưởng lão: Nó không có sinh hoạt, nó hết rồi.

Sư Phước Nhẫn: Ờ mà ở đây nói: “…​ với trí tuệ”.

Trưởng lão: Làm sao có trí tuệ?

Sư Phước Nhẫn: Bởi vậy con mới bị chỗ này.

Trưởng lão: Định làm sao có trí? Làm sao có tuệ được?

Sư Phước Nhẫn: Dạ. Bởi vậy con mới hỏi so sánh với cái Lậu Tận Minh, Lậu Tận Minh là thấy nó …​

Trưởng lão: Nó, thành ra từ cái mà bốn cái loại định vô sắc này đó, bốn cái loại định tưởng này đi đến cái Diệt Thọ Tưởng Định này, đều hoàn toàn nó nằm ở trong cái định mà nó không đúng cách rồi.

Cho nên cái này, coi như là được bỏ qua một bên rồi, không đúng. Đó cho nên cái này là các vị Tổ xen vô mà lừa đảo mình, chứ không ai đâu. Mặc dù trong cái bài kinh đó, kinh Nguyên Thủy nhưng mà các ông Tổ kiến giải mà viết vô, chứ không ai đâu. Cho nên không có kinh nghiệm rồi. Vì vậy mà chúng ta vẫn xét thấy, bây giờ ông nhập Diệt Thọ Tưởng Định rồi, ông làm sao ông biết cái gì nữa mà ông biết rằng nó, lậu hoặc ông hết, cái tuệ ông ở chỗ nào? Ở trong định nó còn tuệ được sao?

Sư Phước Nhẫn: Nó mâu thuẫn. Bởi vì ở bên Tứ Thiền thì xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh.

Trưởng lão: Ừ.

Sư Phước Nhẫn: Như là xả thọ, xả niệm thanh tịnh, cũng như là xả cái tưởng phải không Thầy?

Trưởng lão: Cái tưởng.

Sư Phước Nhẫn: Thì bên đây tới cái giai đoạn thứ nhì là diệt thọ, diệt tưởng nó cao hơn một cấp. Nghĩa là Tứ …​

Trưởng lão: Cái kia người ta xả thôi còn cái này thì nó diệt.

Sư Phước Nhẫn: Cái Diệt Thọ Tưởng Định là nó mới diệt.

Trưởng lão: Ừ.

Sư Phước Nhẫn: Tức là nó cũng một lộ trình, một cái xả, một cái diệt. Đó, mà nó diệt hết, lấy cái gì đâu mà còn trí tuệ?

Trưởng lão: Thì bởi vậy bên đó thì coi như là cái sai của chúng ta hiểu là nó sẽ sai.

Sư Phước Nhẫn: Con đọc đoạn văn con thấy nó hơi lộn xộn sao.

(21:28) Trưởng lão: Nó không đúng rồi. Còn ở bên đây khi người ta vào Tứ Thiền thì người ta đánh thức được cái thức uẩn của người ta, bắt đầu người ta dẫn nó bằng cái lực của Thất Giác Chi tức là cái Túc Mạng Minh đó, thì bắt đầu người ta dẫn tâm người ta bằng cái trí tuệ của người ta, bằng cái thức của người ta biết, chứ người ta đâu có diệt. Cho nên vào đó, bắt đầu bây giờ người ta mới biết nhiều đời nhờ Túc Mạng Minh, rồi Thiên Nhãn Minh rồi Lậu Tận Minh, do đó cái biết của người ta biết lậu hoặc người ta hết.

Còn anh, anh Diệt Thọ Tưởng Định rồi anh đâu còn biết đâu mà gọi là anh tuệ đâu, làm sao biết lậu hoặc anh hết. Tức là cái mầm tái sanh anh, làm sao anh biết nữa đâu. Chỉ bây giờ anh ngồi cứng ngắc đó, anh không tái sanh thôi chứ anh xả ra anh còn tái sanh đó. Nghĩa là anh đâu có diệt nó bằng tuệ mà anh diệt nó bằng định nè, cho nên vì vậy mà anh rời khỏi định anh, anh bị. Còn tôi, tôi diệt bằng tuệ cho nên tôi thường sống ở trong tuệ mà, cho nên tôi đâu cần định đâu. Vì vậy mà tôi biết là tôi chấm dứt tái sinh luân hồi. Đó thấy con đường giải thoát không?

4- BỐN THIỀN HỮU SẮC CÓ CÒN SẮC TƯỞNG KHÔNG?

Sư Phước Nhẫn: Bốn cái thiền mà hữu sắc là nó còn sắc tưởng không Thầy?

Trưởng lão: Nó còn sắc tưởng, cho nên vì vậy mà nó đi qua cái tuệ nó mới Tam Minh, lậu tận nó mới diệt sạch, chứ còn cái định nó không có diệt đâu. Nó mới xả thôi, con thấy cái định Tứ Thiền nó mới xả thôi, nó đâu có diệt đâu, cho nên nó nhờ cái tuệ mà nó diệt, nó lậu tận đó, nó diệt.

Sư Phước Nhẫn: Thì nó cũng nói là cái Không Vô Biên Xứ nó cũng lọt vào sắc tưởng.

Trưởng lão: Không. Cái chỗ mà Tam Minh đó thì nó không có diệt cái tưởng đâu. Tại sao?

Tại vì Tam Minh là cái tuệ, nhưng mà nó ở trong cái Tam Thiền nó ly hỷ trú xả, tức là nó ly mười tám cái loại tưởng, nó ly chứ nó không có diệt. Nó ly để mà nó thực hiện cái tuệ Tam Minh của nó, cho nên ở trong Tam Minh thì không có tưởng nữa, nó lìa ra rồi, cho nên nó không có tưởng mà nó không cần diệt. Còn ở bên đây định thì nó diệt, nó diệt thọ tưởng, cho nên nó diệt, còn ở bên đây nó không có diệt nhưng nó chỉ lìa ra.

Sư Phước Nhẫn: Nhưng nó Không Vô Biên Xứ là diệt sắc tưởng, nhưng mà Thức Vô Biên Xứ là diệt …​

Trưởng lão: Tức là nó ngưng cái…​ Coi cái sắc tưởng. Cái Không Vô Biên Xứ…​

Sư Phước Nhẫn: Đoạn diệt sắc tưởng.

(23:46) Trưởng lão: Không. Cái tưởng thì nó diệt cái sắc, khi nào cái sắc nó ngưng thì cái tưởng nó mới hoạt động, cũng như mình ngủ thì nó mới chiêm bao, nó không ngủ thì không chiêm bao, cho nên cái tưởng nó diệt cái sắc.

Sư Phước Nhẫn: Cái đó con biết rồi, nhưng mà cái này trong bài kinh nó có nói là chín loại thiền, thì khi mà mình chứng tới giai đoạn thiền thứ tư, nó còn sắc tưởng mà lại qua chứng cái Không Vô Biên Xứ thì lại là cái bài kinh này chín thứ là diệt. Thì sau khi mà nhập vô Không Vô Biên Xứ đoạn diệt sắc tưởng.

Trưởng lão: Không. Không có. Cái đó là cái sai. Cái luận nó sai bởi vì nó sắp lớp, nó coi như là ở trong Tứ Thiền nó còn tưởng, chứ sự thật Tứ Thiền không có tưởng, nó ly rồi. Nó ly ở Tam Thiền rồi, Tứ Thiền không còn tưởng nữa, nếu mà còn tưởng thì không thể thực hiện được cái thức uẩn nó hoạt động được.

Sư Phước Nhẫn: Dạ, vậy nó mới đúng, bởi vì ly hỷ trú xả.

Trưởng lão: Đó. Ly hỷ trú xả tức là trú ở trên cái xả của nó.

Sư Phước Nhẫn: Là mình đâu còn tưởng nữa.

Trưởng lão: Đâu còn tưởng.

Sư Phước Nhẫn: Mà qua Tứ Thiền thì hết rồi.

Trưởng lão: Hết rồi.

Sư Phước Nhẫn: Hết rồi xả niệm thanh tịnh rồi.

Trưởng lão: Thì qua bên đây nó xả hết cái này rồi.

Sư Phước Nhẫn: Thì qua bên đây nó mới đoạn diệt sắc tưởng, cũng như là bên Tứ Thiền còn sắc tưởng, bên hữu sắc còn sắc tưởng.

Trưởng lão: Không.

Sư Phước Nhẫn: Thưa hỏi.

Trưởng lão: Nó…​ Bởi vì bên tưởng nó tưởng ra thôi chứ bên đây người ta không còn có nữa.

Sư Phước Nhẫn: Bởi vì nó ly hỷ trú xả ra đâu còn tưởng nữa.

Trưởng lão: Nó không tưởng. Nó không còn tưởng nữa.

Sư Phước Nhẫn: Rồi bên đây, trong khi trong bài kinh thì nói rằng là khi mình nhập Không Vô Biên Xứ thì đoạn diệt sắc tưởng.

Trưởng lão: Cái đó là cái luận của nó.

Sư Phước Nhẫn: Vậy thì đương nhiên nói là hữu sắc là còn tưởng.

Trưởng lão: Còn tưởng nhưng mà sự thật ra người ta muốn nhập được cái định đó, thì người ta đã ly cái tưởng người ta rồi, không còn đâu. Cái đó, một cái sai rồi, bởi vì khi mà kê ra những cái bài kinh này rồi rút ra cái kinh nghiệm thì mình thấy rõ ràng nếu còn tưởng thì không thể nào mà thực hiện Tứ Thiền được.

(25:15) Trưởng lão: Còn sắc tưởng là không thể mà thực hiện nó, bởi vì phải Tam Thiền nó phải ly sắc tưởng rồi. Sắc rồi thinh, hương, vị, xúc, pháp sáu cái tưởng của người ta trong này người ta ly ra hết rồi.

Sư Phước Nhẫn: Ba nhân sáu mười tám.

Trưởng lão: Mười tám cái rồi còn, nó còn sáu cái thông nữa rồi sáu cái thức tưởng nữa, rồi cộng với sáu cái trạng thái coi như là ở bên ý thức của chúng ta nó có sáu căn, sáu trần chứ gì? Sáu thức diệt. Bên đây nó cũng có sáu cái tưởng của nó, sáu căn, sáu trần của tưởng chứ đâu phải không, cho nên nó cộng là mười tám cái đó. Nó ly ra hết, mà bây giờ mình nói ly về cái phần mà sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp tức là sáu cái tưởng đầu tiên chứ gì?

Sáu cái tưởng đầu tiên khi mình tu vào cái định tưởng, thì nó xuất hiện ra sáu cái tưởng đầu tiên, thì do đó sáu cái tưởng đầu tiên này, con thấy xuất hiện ra mà người ta ở trong cái Tam Thiền nó ly sạch ra hết rồi, thì nó mười tám cái chứ không phải là sáu cái này đâu, thì nó còn làm sao mà gọi Tứ Thiền là còn tưởng. Thì đó là luận sai rồi, không đúng rồi, không chấp nhận rồi.

Sư Phước Nhẫn: Con đọc tới cái bản này con định lên xin Thầy chỉ cho con…​

Trưởng lão: Bởi vậy Thầy nói kinh sách Phật sau này nó có cái dịp mà mình chỉnh đốn lại tất cả những cái này, chứ không khéo người ta sẽ rối ren, người ta không có hiểu nổi.

Sư Phước Nhẫn: Nó mâu thuẫn nhau.

Trưởng lão: Nó mâu thuẫn nhau, rõ ràng là mâu thuẫn. Ngay cả Tứ Thiền là nó nếu mà còn tưởng thì làm sao mà gọi nhập Tứ Thiền được, mới ly ở Tam Thiền rồi.

Thế mà bây giờ trên cái định vô sắc, thì nó đã xác định rằng Tứ Thiền còn sắc tưởng. Làm sao còn được sắc tưởng? Sắc tưởng là cái khởi sự đầu tiên người ta ly mười tám cái loại tưởng là sắc tưởng người ta ly hồi đó rồi. Người ta ly hồi cái sắc tưởng hồi đó ở chỗ Tam Thiền. Bước lên Nhị Thiền rồi thì bắt đầu muốn đi vào Tam Thiền, người ta lo người ta ly hết tất cả những cái loại này ra hết rồi, người ta đâu có để. Người ta lìa ra rồi thì nó đâu còn, mà khi Tứ Thiền thì nó phải sạch trong rồi, thì vậy mà nói còn sắc tưởng thì nó lìa sao?

Sư Phước Nhẫn: …​ mà mình quán đó họ nói là cái bên thiền định là cái bộ kinh Đại Tạng Kinh đó.

Trưởng lão: Ừ.

Sư Phước Nhẫn: Cái này là không có chính thống. Con mới thấy kỳ, tại sao cái Đại Tạng Kinh người ta kết tập lần thứ ba mà ghi lên bia đá, làm sao tất cả thế giới biết hết? Họ bác họ không chịu, họ nói không có giá trị. Thì thôi cái chuyện đó mình không biết là sao, cho nên, còn cái bài kinh này đó, con thấy trong Đại Tạng mà lại nói là cái Không Vô Biên Xứ là đoạn diệt sắc tưởng, đoạn diệt cái …​

Trưởng lão: Cái Tứ Thiền đó.

Sư Phước Nhẫn: Khi đạt vô Không Vô Biên Xứ là tức là đoạn diệt sắc tưởng của Tứ Thiền.

Trưởng lão: Ừ.

Sư Phước Nhẫn: Hữu sắc, tức là sắc còn, còn sắc tưởng. Đó cho nên, con mới có ý là con muốn gặp Thầy, để Thầy chỉ con nhập Không Vô Biên Xứ có được không Thầy?

Trưởng lão: Cái Không Vô Biên Xứ hả?

Sư Phước Nhẫn: Dạ. Chỉ con cách nhập vô.

5- CÁCH NHẬP KHÔNG VÔ BIÊN XỨ

(27:53) Trưởng lão: Cái Không Vô Biên Xứ rất dễ không khó gì hết. Con cứ ngồi mình tưởng không là mình lọt vô Không Vô Biên Xứ chứ không có gì hết. Như là người ta dùng trí tuệ Bát Nhã đó, Không đó. Mỗi cái niệm đều thấy nó là không hết thì nó…​ Đức Phật có dạy trong cái bài mà cái gì…​Tiểu Không thì phải.

Sư Phước Nhẫn: Tiểu Không, Đại Không đó Thầy?

Trưởng lão: Ừ. Đức Phật có nói là khi mình giữ gìn…​ Khi mình giữ cái không đó. Bây giờ đó mình nghĩ, bây giờ cái nhà này nè nó không có cột kèo, không có rừng, không có gì hết, toàn là không mình cứ tưởng nó không đi, thì nó lại sẽ không chứ gì? Mình sẽ tưởng không là mình sẽ nhập vô Không Vô Biên Xứ.

Bây giờ con ngồi đây nè, con giữ cái tâm của con nè không nè. Đừng, niệm vào con cũng xả ra hết có niệm gì xả ra hết. Con ngồi đây con giữ nó không nè. Cho nên con thấy cái Thiền Đông Độ là nó giữ cái Không Vô Biên Xứ đó, mà chừng rốt cuộc rồi nó không thật sự, nó không đó, nó hoàn toàn nó không…​ Không mà biết, chứ không phải không mà không biết đâu. Không mà biết, nó không niệm không gì hết, hoàn toàn nó không thấy nhà, cái cửa, nó không phân biệt gì nữa hết, nó không ngơ đó, nhưng mà nó không phải không mà không biết, nó biết không, rõ ràng nó ngồi biết không. Thì con cứ ngồi, con giữ cái y như Thiền Đông Độ là con sẽ không. Thầy bị cái này rồi, nghĩa là con dùng cái pháp Tri Vọng đó, con biết vọng liền buông, cứ buông hết, buông hết là nó không.

Sư Phước Nhẫn: Còn cái trạng thái nó ra sao Thầy? Mình ở trong cái định mà Không Vô Biên Xứ đó, mình thấy ra sao Thầy?

Trưởng lão: Nó cũng có lúc nó an ổn lắm nhưng mà cũng có lúc nó không an ổn, nhưng mà khi nó rớt trong Không rồi nó an ổn, kêu là mình Không rồi đó thì nó an ổn.

Sư Phước Nhẫn: Cái trạng thái nó kéo dài ngày này qua ngày kia hay trạng thái nó trong lúc mình ngồi?

Trưởng lão: Không. Nó nhiều lắm, nó không phải là nó liên tục đâu, khi mà nó Không rồi thì nếu mà nó xảy ra những cái tướng trạng khác như sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, tưởng nó xuất hiện. Bởi vì nó thuộc về không tưởng, cho nên trong cái không tưởng nó nó xuất hiện tất cả những cái này ra, khi mà cái tâm dục của con còn, cái gì trong này nó muốn cái gì đó thì nó sẽ xuất hiện cái đó ra hết. Còn nếu mà con không muốn gì hết thì nó không được đó. Còn nếu mà con muốn thì nó không kéo dài con đâu, nó sẽ xuất hiện ra những cái mà con muốn.

Sư Phước Nhẫn: Xuất hiện ra là sao Thầy?

(29:59) Trưởng lão: Thí dụ như bây giờ con rắc rối một cái câu công án nào đó con chưa hiểu, thì khi mà con ở trong Không thì bắt đầu cái công án đó nó sẽ hiện ra trong đầu, như cái vọng tưởng của con, con sẽ phá nó, con sẽ hiểu nó, đó là rớt trong Không. Bởi vì nó thuộc về không tưởng, cho nên vì vậy những cái sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp những cái không của nó sẽ xuất hiện ra trong này, nhất là những cái pháp, pháp tưởng của nó xuất hiện ra, thì lúc bấy giờ con sẽ phá, những câu kinh tưởng như kinh Kim Cang hay hoặc là kinh Pháp Hoa hay hoặc là kinh Duy Ma Cật, nói chung là kinh Đại Thừa.

Những cái câu kinh nào chưa hiểu thì con lọt vào được trong cái Không này rồi, thì con phá quá vỡ nó hết, con hiểu hết. Nghĩa là tự đó con tự, tự con, con ngồi đó nó khởi ra cái niệm của cái câu kinh đó thì con phá, con hiểu ngay liền, đó là con lọt được ở trong cái trạng thái Không, kéo dài từ một giờ hoặc là hai giờ trong cái Không này, thì con sẽ phá vỡ tất cả những công án của thiền Đông Độ hết, cái này Thầy biết rồi.

Sư Phước Nhẫn: Vậy thì mình muốn nhập nó mình ngồi xếp bằng hay đi tới đi lui Thầy?

Trưởng lão: Ngồi xếp bằng, ngồi nhiều là càng tốt, không có đi tới đi lui, nó không phải như là con đường thiền của Phật mà đi nhiều đâu.

Sư Phước Nhẫn: Ngồi nhiều tốt.

Trưởng lão: Nó ngồi nhiều tốt.

Sư Phước Nhẫn: Mình tưởng Không.

Trưởng lão: Ờ. Mình tưởng Không.

Sư Phước Nhẫn: Một chữ Không thôi.

Trưởng lão: Ờ. Cứ đặt ở trên đầu một chữ Không thì nó nhanh.

Sư Phước Nhẫn: Y tham thoại đầu vậy đó?

Trưởng lão: Y như thoại đầu đó, là giữ chữ Không. Còn nếu không thì cứ có vọng liền buông, buông sạch thì nó trở không.

Sư Phước Nhẫn: Cái tâm mình lúc đó thân tâm mình chuẩn bị sao Thầy?

Trưởng lão: Cái thân tâm của mình, cái thân của mình thì ngồi kiết già, lưng thẳng, đau thì mặc nó mình cứ thấy không thôi. Cứ giữ cái tâm không của mình thôi và cứ giữ riết nó sẽ không, mà nó không thì nó lại không không đâu, nó lại có. Nó lại có tức là nó hiện ra tướng này, tướng kia, tướng nọ đủ thứ ở trong này hết chứ không phải là một.

Sư Phước Nhẫn: Cứ tưởng không luôn.

Trưởng lão: Ừ. Cứ mình ngồi cứ giữ không thôi nhưng mà khi mà mình thấy những cái hiện tượng nó xảy ra trong cái không đó, nó thành có đó, thì mình xả cho sạch cái này thì nó mới hoàn toàn không.

Sư Phước Nhẫn: Vậy chứ trong lúc mình mới ngồi nó xuất hiện nhiều cái…​

(31:53) Trưởng lão: Nó xuất hiện nhiều lắm, khi mà nó không được một chút thời gian dài ra thì nó có xuất hiện, nó xuất hiện ra thì mình cứ xả, cứ coi như là hầu như là cái phương pháp Biết Vọng Liền Buông, nó từ cái thấp đến cái cao, đầu tiên thì mình vọng của pháp phàm phu, sau đó cái vọng của tưởng. Sắc, thinh, hương của tưởng mà, nó xuất hiện ra thì cũng phải buông hết.

Sư Phước Nhẫn: Tới giai đoạn nào mình mới biết chín muồi để nhập vô đó Thầy?

Trưởng lão: Tới khi mà tất cả những cái công án đều là thông suốt hết rồi đó thì, tức là con hoàn toàn được cái không của nó.

Sư Phước Nhẫn: Dạ.

Trưởng lão: Không của nó. Thì khi mà công án con hết rồi, thì con buông cái không thì nó vào cái Thức Vô Biên Xứ, tức là con xả cái không. Cái phương pháp đó cũng không khó đâu, nó không khó, tu về cái định tưởng thì dễ, tưởng không nó sẽ lọt trong Không.

Sư Phước Nhẫn: Là khoảng bao lâu mình mới vô được trong Không?

Trưởng lão: Nghĩa là con cố gắng mà tu đó thì trong cái khoảng thời gian, nó cũng không dài lắm đâu. Nghĩa là nếu mà tu về cái không tưởng của nó, thì con dùng cái tưởng mà tu, thì nó khoảng một tháng là con vô. Tu đúng cách đó, nó vô.

Trưởng lão: Có gì không con? Cái thơ của ai vậy?

Phật tử: Bức thơ này Thầy đọc rồi Thầy gọi điện thoại liền.

Trưởng lão: Của ai vậy? …​

6- Ý THỨC TƯỞNG VÀ TƯỞNG

(33:15) Trưởng lão: Trời đó, tức là cái dòng sông trời đó. Con thấy cái lá cây như là cái chiếc buồm hay chiếc ghe, con tưởng ra như là chiếc ghe, nó đang bơi ở trên cái dòng nước trong xanh của cái bầu trời xanh, thì đó là tưởng chứ còn…​ Ý thức tưởng chứ không phải là tưởng. Nó ý thức tưởng nó khác con, con tưởng tượng ra như các nhà văn, nhà thơ đều là ý thức tưởng chứ chưa phải tưởng đâu, còn tưởng khác.

Bây giờ tưởng nó hoạt động con đó, thí dụ như bây giờ con không nghĩ có một cái đó, mà con nghĩ có cái đó, à bây giờ thí dụ như con nghĩ rằng bây giờ không có cái không của con được, nhưng mà con nghĩ tưởng cái không, thì bắt đầu con thấy cái trạng thái không nó hiện ra trước mắt của con, con không thấy nhà cửa, không thấy mọi vật gì hết, nó hiện ra cái tướng không của nó đó, thì đó là tưởng nó hoạt động. Nó không phải là…​

Nó bắt đầu nó khởi sự, con muốn tu cái tưởng đó đó thì con phải hoạt động, con tưởng không bằng cái ý thức tưởng của con. Con tưởng không nhưng mà cái ý thức tưởng của con nó chưa phải là tưởng. Thầy muốn nói ha. Bắt đầu muốn khởi sự vào cái không tưởng này thì con phải lấy ý thức tưởng của con mà con tưởng ra không, rồi từng đó đó nó sẽ không, nếu mà nó cái tưởng của con nó hoạt động mạnh thì nó nhanh, mà nó không hoạt động mạnh, mà cái ý thức con nó cứ bị vọng tưởng nó xen ra, xen vô hoài thì nó tưởng không, nó không vô, bởi vì tưởng ý thức mà, cho nên nó còn nằm trong ý thức. Cho nên bây giờ, con phải dừng hết tất cả các vọng tưởng này, thì cái không tưởng này nó mới có phát triển ra, thì nó có mới hoàn toàn là không.

Sư Phước Nhẫn: Vậy là mình ngồi, mình tu liên tục suốt ngày?

Trưởng lão: Tu liên tục đó, coi như là biết vọng liền buông, con phải tu liên tục con mới vô cái không tưởng này.

Sư Phước Nhẫn: Giống như tham thoại đầu thôi?

Trưởng lão: Ừ, y như là tham thoại đầu vậy đó, tức là bắt buộc nó không có niệm, nghĩa là con cứ khởi cái nghi tình của nó, để cho nó không niệm thì nó rớt vô không đó, có vậy thôi.

(35:13) Sư Phước Nhẫn: Vậy là mình có cái tưởng đó thì mới mau tới.

Trưởng lão: Nó mau. Còn có cái tưởng nó mau. Còn nếu mà không thì rất lâu, cũng có thời gian, đó nó như vậy. Nếu mà có cái tưởng nó hoạt động thì con tưởng ra không thì ngay đó nó dễ lắm, muốn nhập vào trong tưởng.

7- SỰ LỢI ÍCH CỦA BẢY GIÁC CHI

(35:48) Sư Phước Nhẫn: Câu hỏi thứ nhất xin Thầy giải thích sự lợi ích của Bảy Giác Chi. Mỗi giác chi nó lợi ích sao? Mỗi cái lợi ích sao?

Trưởng lão: Cái Bảy Giác Chi nó rất có lợi ích, khi mà cái Tinh Tấn Giác Chi nó xuất hiện đó, nó tự động nó làm cho chúng ta siêng năng, chứ không có cố gắng, mà mình cố gắng quá sức cố gắng của mình, tự động nó thúc đẩy trên cái pháp hành của mình trong tu tập, thì nó là Tinh Tấn Giác Chi.

Thì khi Tinh Tấn Giác Chi nó xuất hiện, nó làm cho chúng ta siêng năng thì cái Khinh An Giác Chi nó làm cho cái thân của chúng ta rất an ổn, tuy rằng chúng ta tập luyện nhưng mà cái thân nghe nó nhẹ nhàng, nó an ổn, đó là cái Khinh An Giác Chi.

Rồi, cái Hỷ Giác Chi khi mà Khinh An Giác Chi nó xuất hiện thì nó làm cho cái thân an ổn, thì cái Hỷ Giác Chi nó xuất hiện, thì Hỷ Giác Chi nó xuất hiện nó làm chúng ta rất là hoan hỷ ở trên cái phương pháp tu tập, vui vẻ trên cái phương pháp tu tập, chứ nó không có thấy chán nản, nó không thấy nhàm chán cái phương pháp tu tập, nó làm chúng ta thích thú ở trên cái phương pháp tu tập, đó là cái Hỷ Giác Chi.

Mà khi mà cái Hỷ Giác Chi có thì cái Niệm Giác Chi nó xuất hiện, cho nên nó luôn luôn nó ở trên cái Chánh Niệm của nó. Cho nên thí dụ như cái niệm Thân Hành Niệm, luôn luôn cái thân hành của chúng ta luôn luôn nó tỉnh thức ở trên cái thân hành của nó.

Mà khi mà nó tỉnh thức thân hành của nó, nó không phóng ra một cái niệm, nó không khởi ra một cái niệm thì cái Định Giác Chi nó mới xuất hiện, thì khi mà cái Định Giác Chi xuất hiện thì tâm nó không phóng dật, còn nếu cái Định Giác Chi nó không xuất hiện cái tâm chúng ta sẽ còn phóng dật.

Mà khi mà cái Định Giác Chi xuất hiện đó thì cái Xả Giác Chi nó mới có xả hết, nó mới ly hết cái tâm tham, sân, si của chúng ta, nó mới ly hết tất cả những cái dục, còn nếu không có cái Xả Giác Chi đó thì nó không bao giờ ly cái vi tế, nó chỉ cái thô mà chúng ta có thể mà tu tập các pháp khác hoặc là giữ gìn giới luật thì nó có thể nó ly cái thô, chứ nó không thể nào ly cái vi tế ở trong tâm của nó được. Cho nên, cái Xả Giác Chi là cái ly những cái vi tế.

Mà khi nó ly được tất cả những các vi tế thì nó mới có cái Trạch Pháp Giác Chi nó mới xuất hiện, cái Trạch Pháp Giác Chi tức là nó mới thực hiện được cái Tứ Như Ý Túc của nó, tức là nó có bốn cái như ý túc.

Cái như ý túc của đầu tiên nó là Dục Như Ý Túc, cái Định Như Ý Túc rồi cái Tinh Tấn Như Ý Túc, nó xuất hiện cái Tinh Tấn Như Ý Túc rồi cái Dục Như Ý Túc, rồi cái Định Như Ý Túc và cái Tuệ Như Ý Túc, nó bốn cái Như Ý Túc của nó. Thì khi mà có Bảy Giác Chi nó xuất hiện thì cái Trạch Pháp Giác Chi xuất hiện đầu tiên đó là cái Dục Như Ý Túc, cho nên mình muốn gì thì nó sẽ thân tâm của mình nó sẽ làm theo cái đó gọi là Dục Như Ý Túc.

Cho nên vì vậy, Bảy Giác Chi nó rất có lợi cho chúng ta, nếu mà khi một cái người thực hành mà không đúng pháp, thì Bảy Giác Chi nó không xuất hiện đủ hoặc là nó xuất hiện một hoặc hai mà nó không xuất hiện đầy đủ, còn nếu mà chúng ta thực hành đúng cách, giữ gìn tâm không phóng dật thì nó mới xuất hiện đầy đủ. Nếu mà cái tâm mà còn phóng dật thì không bao giờ, nó xuất hiện đầy đủ Bảy Giác Chi này.

(38:24) Cho nên, cái mục đích mà tu tập Tứ Niệm Xứ thì từ cái giai đoạn đầu của Tứ Niệm Xứ cho đến cái giai đoạn cuối cùng của Tứ Niệm Xứ cũng là cái mục đích để giúp cho Bảy Giác Chi này xuất hiện ra để mà chúng ta thực hiện Tứ Như Ý Túc, tức là bốn cái như ý túc. Sau này chúng ta mới thực hiện, mới tu tập mới được bốn như ý túc. Còn nếu chưa có Bảy Giác Chi thì không bao giờ mà tu tập Tứ Như Ý Túc được. Đó thì nó có cái lợi ích ở chỗ Bảy Giác Chi là như vậy.

Mà Bảy Giác Chi cũng là bảy cái trạng thái giải thoát của một cái tâm, của một người mà hành giả khi mà ly dục ly ác pháp hoàn toàn thì nó mới có ly dục ly ác pháp, nếu mà tâm chưa ly dục ly ác pháp thì không bao giờ có Bảy Giác Chi. Là vậy, không thể nào mà người ta lấy Bảy Giác Chi mà tu tập, mà người ta chỉ cần tu Tứ Niệm Xứ mà nó khi mà sung mãn được Tứ Niệm Xứ thì Bảy Giác Chi nó mới xuất hiện. Cho nên phải nhớ rằng khi mà muốn thực hiện có được Bảy Giác Chi thì phải thực hiện Tứ Niệm Xứ, ngoài Tứ Niệm Xứ ra thì không có cái phương pháp nào có thể Bảy Giác Chi này xuất hiện được.

8- CÁCH THỨC TU TẬP ĐỂ CÓ BẢY GIÁC CHI XUẤT HIỆN

Sư Phước Nhẫn: Dạ xin Thầy chỉ cho cái phương pháp tu tập để có một giác chi nó xuất hiện? Thí dụ như muốn có Niệm Giác Chi xuất hiện thì phải tu tập những pháp nào? Định Giác Chi xuất hiện thì phải tu tập pháp nào? Rồi tinh tấn và v.v…​

(40:00) Trưởng lão: Khi mà cái người mà muốn mà tu tập cho Bảy Giác Chi này xuất hiện, thì đầu tiên nó là phải có cái sự cố gắng tu tập ở trên pháp Tứ Niệm Xứ.

Nhưng mà pháp Tứ Niệm Xứ thì nó có ba giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất thì Bảy Giác Chi nó chưa có xuất hiện, giai đoạn thứ hai thì Bảy Giác Chi nó cũng chưa có xuất hiện, đến cái giai đoạn thứ ba của nó là tu Thân Hành Niệm.

Thân Hành Niệm thì theo cái phương pháp mà hành của nó thì nó không có giống như cái Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, mà nó phải mỗi một cái hành động của nó đều phải có cái sự tác ý, cái ý thức đi trước cái hành động nó đi sau, thì do đó nó mới đúng cái cách mà phương pháp Thân Hành Niệm và khi tu tập Thân Hành Niệm đó, thì nếu một cái người mà cố gắng, nỗ lực mà tập cho đúng cái phương pháp của nó.

Nghĩa là ý thức chủ động điều khiển từng thân hành của nó, thì bắt đầu Tinh Tấn Giác Chi sẽ xuất hiện, nó làm cho chúng ta siêng năng, rất là hoan hỷ ở trên cái sự tu tập, nó làm cho chúng ta không thấy chán nản, không thấy nhàm chán cái phương pháp tu tập, không thấy cực nhọc ở trên cái phương pháp tu tập. Mà do đó chúng ta, cái đầu tiên của cái sự tu tập của cái Thân Hành Niệm đó, cái phương pháp Thân Hành Niệm thì cái Tinh Tấn Giác Chi xuất hiện đầu tiên. Đó là mình muốn cho có được cái Tinh Tấn Giác Chi thì phải tu tập Thân Hành Niệm, thì Tinh Tấn Giác Chi mới xuất hiện.

Sư Phước Nhẫn: Vậy cái Niệm Giác Chi ở đâu nó xuất hiện Thầy?

Trưởng lão: Cái Niệm Giác Chi nó xuất hiện là khi nào mà cái Khinh An Giác Chi và cái Hỷ Giác Chi nó xuất hiện, thì cái Niệm Giác Chi nó mới xuất hiện, còn nếu mà cái Khinh An Giác Chi với cái Hỷ Giác Chi chưa có thì cái Niệm Giác Chi chưa xuất hiện.

Bởi vì Niệm Giác Chi là niệm trên thân hành của nó, mà nó luôn luôn nó tỉnh thức ở trên thân hành nó được đó, thì đó là mới giác chi, còn nếu mà lúc thì nó có cái niệm này, lúc thì có niệm khác thì không phải là, lúc bây giờ chúng ta cũng tỉnh thức, có khi tỉnh thức được một vài phút, có khi được năm, mười phút nhưng mà rồi không có liên tục được, thì cái đó chưa phải là Niệm Giác Chi mà đó là cái niệm tập luyện, chúng ta mới tập mà thôi.

Còn cái Niệm Giác Chi nó xuất hiện, thì luôn luôn lúc nào chúng ta cũng tỉnh thức ở trên cái Thân Hành Niệm của nó, cho nên nó luôn luôn nó biết hành động của nó rất là kỹ lưỡng và rõ ràng, đó gọi là Niệm Giác Chi.

Sư Phước Nhẫn: Như vậy là các giác chi nó xuất hiện thứ tự, chứ không phải là mình có phương pháp là mình tu tập để cho mỗi giác chi nó xuất hiện riêng hả Thầy?

(42:28) Trưởng lão: Không. Mà mình phải tu tập ở trên cái Thân Hành Niệm thì nó lần lượt nó đúng cái cách thức của tu tập của nó trên cái pháp Thân Hành Niệm, thì mỗi cái giác chi nó xuất hiện tuần tự, chứ nó không thể nào mà mình tu tập riêng của từng pháp để mà từng cái giác chi nó xuất hiện, nó không có.

Nếu mà thí dụ như chúng ta đang tu một cái Định Niệm Hơi Thở, mà chúng ta dẫn tâm mình: “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra”, mà khi mà thấy có một cái trạng thái an tịnh của thân thì nó không phải là giác chi đâu, mà đó dẫn tâm vào đó thì nó có một cái trạng thái cái hỷ lạc, cái khinh an của nó, thì đừng có nghĩ đó là giác chi mà đó là do cái sự dẫn tâm của chúng ta mà cái tưởng của chúng ta nó xuất hiện ra, để nó làm cho chúng ta an ổn trong cái phương pháp đó mà thôi.

Còn cái pháp Thân Hành Niệm, nó mới chính nó mới giúp cho chúng ta xuất hiện bảy cái giác chi, mà nó cũng phải theo thứ tự của nó chứ nó không thể nào mà nó đi ngoài cái thứ tự. Thí dụ như tinh tấn, nó có tinh tấn thì nó mới có khinh an, nó có khinh an nó mới có hỷ, nó có hỷ thì nó mới có niệm, nó có niệm thì nó mới có định, chứ còn nó chưa có Chánh Niệm thì nó nói nó định thì không bao giờ có. Cho nên vì vậy nó phải có cái sự tuần tự của cái pháp Thân Hành Niệm, nó giúp cho chúng ta nó xuất hiện từng cái giác chi, từng cái Niệm Giác Chi của nó ra. Còn nếu mà chúng ta tu sai thì không bao giờ nó có đâu.

Thí dụ bây giờ chẳng hạn không có Tinh Tấn Giác Chi thì không bao giờ có cái Khinh An Giác Chi. Mà không có Khinh An Giác Chi thì không bao giờ có Hỷ Giác Chi. Mà không có Hỷ Giác Chi thì không bao giờ có Niệm Giác Chi. Mà không có Niệm Giác Chi thì không bao giờ có Định Giác Chi. Và không có Định Giác Chi thì không bao giờ có Xả Giác Chi. Xả Giác Chi không có thì không bao giờ có cái Trạch Pháp Giác Chi.

Bởi vậy, nó phải theo trình tự, mà nhưng mà trên cái pháp Thân Hành Niệm nó mới xuất hiện chứ còn hoàn toàn như, thí dụ như trên Tứ Niệm Xứ để khắc phục tham ưu, nhưng mà khi mà tâm mình không chướng ngại nó cũng không xuất hiện nữa. Bởi vì cái sức định tỉnh nó chưa đủ, cho nên nó không xuất hiện được Bảy Giác Chi này.

Cũng như chúng ta tu cái giai đoạn đầu của Tứ Niệm Xứ đó, tu Tứ Chánh Cần ngăn ác diệt ác, sanh thiện, tăng trưởng thiện có bốn cái loại định: Định Niệm Hơi Thở, Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, Định Sáng Suốt và Định Vô Lậu, bốn cái loại định này thì Bảy Giác Chi nó cũng chưa xuất hiện. Mà nó có xuất hiện cái khinh an, cái Hỷ Giác Chi đi nữa thì cái đó không phải khinh an, Hỷ Giác Chi mà đó là cái trạng thái hỷ lạc của dục tưởng của chúng ta xuất hiện mà thôi. Là do cái sự tu tập kiên cố, miên mật, ức chế tâm của chúng ta mà nó xuất hiện ra cái trạng thái hỷ lạc, thì cái trạng thái hỷ lạc đó không phải là giác chi mà là cái xúc tưởng hỷ lạc của chúng ta mà thôi.

9- NGUYÊN NHÂN CỦA SỰ PHÓNG TÂM VÀ PHÓNG DẬT

(45:18) Sư Phước Nhẫn: Dạ câu hỏi số hai xin Thầy cho biết là phóng tâm do nguyên nhân nào mà có?

Trưởng lão: Phóng tâm do cái tâm si của chúng ta mà do phóng tâm. Bởi vì khi chúng ta không có tỉnh thức được, không có sáng suốt được cho nên cái tâm của chúng ta nó phóng ra cái niệm thì nó phóng ra, phóng tâm ra cái niệm đó là do cái tham, sân, si chúng ta chưa có ly, cho nên vì vậy nó phải khởi ra một cái tâm, nó khởi ra cái niệm, cái niệm đó nó hoặc vui, hoặc buồn hoặc tham muốn, hoặc sân hận, hoặc phiền não thì đó là gọi là phóng tâm.

Hoặc là thương nhớ nó cũng đều là phóng tâm, hay là chúng ta ngồi coi như là thiếu tỉnh thức mà tâm nó phóng, chứ không có gì hết, nếu mà chúng ta có tỉnh thức thì tâm nó sẽ không phóng, vì một chút, một sát na, một giây mà chúng ta thiếu tỉnh thức, cho nên cái phóng tâm nó liền xen vào chỗ đó, chỗ mà thiếu tỉnh thức đó gọi là si đó, thì tâm nó mới phóng ra. Còn nếu mà chúng ta tỉnh thức thì nó không phóng.

Sư Phước Nhẫn: Vậy thì mình tập cái phương pháp nào để bớt cái phóng tâm này?

Trưởng lão: Muốn tập cái phương pháp cho bớt phóng tâm đó, thì chỉ có cái Định Niệm Hơi thở là giúp chúng…​

Tới cái đề mục cuối cùng của cái Định Niệm Hơi Thở đó: “Với tâm giải thoát tôi biết tôi hít vô, với tâm giải thoát tôi biết tôi thở ra” hay hoặc là: “Với tâm định tĩnh tôi biết tôi hít vô, với tâm định tĩnh tôi biết tôi thở ra”, thì lúc bấy giờ là phóng tâm nó sẽ hết rồi.

Sư Phước Nhẫn: Dạ, còn phóng dật thì do nguyên nhân nào mà có Thầy?

Trưởng lão: Phóng dật là do nguyên nhân sáu pháp trần tác động vào sáu căn mà tâm phóng niệm ra. Do các pháp trần mà do đó mà tâm phóng dật, nếu không có pháp trần bên ngoài thì tâm không phóng dật, có pháp trần bên ngoài cho nên tâm phóng dật.

Sư Phước Nhẫn: Mình tập cái pháp nào để bớt phóng dật Thầy?

Trưởng lão: Muốn tập cho nó không phóng dật thì chỉ duy nhất có pháp Thân Hành Niệm, tập trung trên từng hành động của nó, mỗi hành động đều là phải có cái ý thức trước khi cái hành động đó thì tâm sẽ không phóng dật.

Sư Phước Nhẫn: Vậy mình tập Thân Hành Niệm giai đoạn một hay giai đoạn hai Thầy?

Trưởng lão: Giai đoạn Thân Hành Niệm thì phải tập giai đoạn cuối cùng của nó thì nó mới hết, nó mới có tâm…​ Khi mà nó có cái Định Giác Chi đó, nó xuất hiện thì nó mới hết phóng dật, chứ còn chưa có Định Giác Chi thì nó sẽ còn phóng dật. Nhưng mà nhờ cái phương pháp Thân Hành Niệm thì nó mới có Định Giác Chi nó xuất hiện, mà do đó mà nếu mà muốn cho tâm đừng phóng dật thì chỉ có cái Thân Hành Niệm, mới tu tập mới có hết phóng dật mà thôi.

10- CÁC PHƯƠNG PHÁP TU TẬP TỨ CHÁNH CẦN

(47:54) Sư Phước Nhẫn: Dạ câu hỏi số ba, xin Thầy trình bày tất cả các phương pháp tu tập Tứ Chánh Cần. Cái phương pháp nào trước thì phương pháp nào sau, có những gì đặc biệt trong mỗi giai đoạn?

Trưởng lão: Trong Tứ Chánh Cần thì cái phương pháp mà tu đầu tiên là cái phương pháp mà Định Vô Lậu, là cái phương pháp đầu tiên, bắt đầu thì cái người đó vào tư duy, suy nghĩ, phải học hiểu về cái đường lối của Phật, phải biết nhân quả, phải biết ngũ triền cái, thất kiết sử, phải biết thân bất tịnh, phải biết thân vô thường, khổ, vô ngã, phải biết thực phẩm bất tịnh, phải tu tập các pháp như Quán Bất Tịnh, Quán Xương Trắng, tất cả những cái điều kiện mà tập đầu tiên là phải vào tập Định Vô Lậu.

Cái kế thứ hai đó thì phải tập Định Niệm Hơi Thở theo mười tám cái đề mục của Định Niệm Hơi Thở.

Cái phương pháp mà thứ ba để tập mà trên cái Tứ Chánh Cần đó, là cái phương pháp Chánh Niệm Tỉnh Giác.

Cái phương pháp thứ tư của nó là cái phương pháp thư giãn được gọi là Định Sáng Suốt. Cho nên bốn cái phương pháp thì cái Định Sáng Suốt là cái Định Thư Giãn đó, thì cái định đó là cái định cuối cùng.

Cho nên, Thầy xin nhắc lại là cái định mà Vô Lậu là tu trước, Định Niệm Hơi Thở là tu thứ hai, Định Chánh Niệm Tỉnh Giác là tu thứ ba và Định Sáng Suốt là tu thứ tư, tu cuối cùng.

Sư Phước Nhẫn: Như vậy là chỉ có bốn cái phương pháp, bốn cái định để tu là pháp là Tứ Chánh Cần?

Trưởng lão: Tứ Chánh Cần.

Sư Phước Nhẫn: Vậy còn có gì đặc biệt phụ trợ thêm nữa không Thầy?

Trưởng lão: Không còn gì hết. Bởi vì không có gì hết, nội đó là tạm đủ cho cái phương pháp Tứ Chánh Cần ngăn ác diệt ác, sanh thiện tăng trưởng thiện rồi, không cần phải pháp gì hết.

Sư Phước Nhẫn: Dạ. Mình căn cứ vào đâu mình biết mình tròn Tứ Chánh Cần để mình qua Tứ Niệm Xứ?

(50:00) Trưởng lão: Mình căn cứ mình biết mình tròn Tứ Chánh Cần, để qua Tứ Niệm Xứ là mình không hề vi phạm cái lỗi lầm ở trong giới luật của Phật, thì biết những cái thô nó đã lìa ra được rồi, thì do đó ngăn ác diệt ác đã tạm được rồi, thì do đó mình chuyển qua Tứ Niệm Xứ và đồng thời khi mà mình tu trên cái Định Niệm Hơi Thở đó, mình thấy kết quả của cái Định Niệm Hơi Thở, khi mà dẫn tâm mình vào một cái đề mục nào mà của Định Niệm Hơi Thở, mà thấy dẫn được rõ ràng và cụ thể thì lúc bấy giờ chúng ta đã chuyển qua Tứ Niệm Xứ được rồi.

Sư Phước Nhẫn: Như vậy là mình tu bốn cái định này, đồng thời mình giữ giới luật.

Trưởng lão: Giới luật nghiêm chỉnh.

Sư Phước Nhẫn: Mà khi nào mình cảm thấy mình tròn giới luật là bắt đầu qua Tứ Niệm Xứ?

Trưởng lão: Qua Tứ Niệm Xứ được. Mà thấy nó còn vi phạm trong giới luật, tức là những cái lỗi nhỏ nhặt mà mình còn vi phạm trong ý của mình, thì chưa nên chuyển qua cái Tứ Niệm Xứ trên Tứ Niệm Xứ, tức là qua giai đoạn thứ hai của Tứ Niệm Xứ.

Sư Phước Nhẫn: Như vậy cái người qua Tứ Niệm Xứ thì chắc hiếm lắm, chứ đâu có Thầy, bởi vì tròn giới luật làm sao ai tròn cho nổi?

Trưởng lão: Đúng rồi, thì lẽ đương nhiên là rất khó chứ không phải dễ, cho nên vì vậy mà cái Định Niệm Hơi Thở nó xác định được cái người đó có tròn hay không là vì nó vậy, do cái giới luật mà nó nghiêm chỉnh đó thì họ mới dẫn được những cái đề mục đó, họ mới đạt được cái kết quả của từng đề mục của Định Niệm Hơi Thở, còn nếu giới luật mà không có, còn vi phạm đó thì họ dẫn không vô, họ dẫn không kết quả. Tức là dẫn cái tâm mình vào một cái đề mục đó, mà cái trạng thái mà chúng ta đạt được của cái đề mục đó thì chúng ta không đạt được.

Ví dụ như ở trong đó là mười sáu hay mười tám cái đề mục, thì chúng ta chỉ dẫn nó được năm hay là sáu cái đề mục, còn mấy cái đề mục nữa thì chúng ta dẫn không được, tức là chúng ta bị phạm những cái lỗi ở trong cái giới luật rồi, cho nên nó không thanh tịnh cho nên dẫn không đi.

Sư Phước Nhẫn: Cũng như giữ 250 giới làm sao mà giữ hết, nói lý thuyết chứ thật tế đâu có ai giữ nổi, thành ra mà qua cái Tứ Niệm Xứ chắc qua không nổi hả Thầy?

(51:55) Trưởng lão: Nó không phải là giữ không nổi, là nhưng mà tại vì mình có pháp mình giữ được là vì như thế này: Tại vì mình chưa có biết cách tu thì mình thấy rằng rất khó, khi một cái ý của chúng ta khởi lên mà nó phạm cái giới luật gì, thì khi cái ý mà nó khởi lên tức là phải có cái niệm, mà khi có cái niệm thì chúng ta đã có cái Định Vô Lậu nó quán xét, nó ngăn và nó diệt cái niệm đó đi, thì do đó một thời gian dài mà trong khi chúng ta tu Tứ Chánh Cần đó thì cái Định Vô Lậu nó giúp cho chúng ta rất là nghiêm chỉnh giới luật, cho nên nó không hề mà nó có cái ý niệm ở chúng ta, nó phạm giới nữa.

Mà do đó, khi đó thì chúng ta đồng thời chúng ta tu cái Định Niệm Hơi Thở, thì chúng ta thấy chúng ta lại dẫn cái tâm mình nó đạt được kết quả của từng cái đề mục của Định Niệm Hơi Thở, vì vậy mà chúng ta thấy giữa cái pháp hành này và giữa cái pháp quán này, nó hỗ trợ cho nhau mà chúng ta thấy cái tâm chúng ta lần lượt thanh tịnh mà giới luật nó không có vi phạm nữa, nó cụ thể và rõ ràng.

Mà do đó, mà chúng ta chuyển qua cái giai đoạn thứ hai mà tu Tứ Niệm Xứ trên Tứ Niệm Xứ để khắc phục tham ưu thì kết quả rất là lớn, nó nhờ cái Định Niệm Hơi Thở và cái Định Vô Lậu mà nó giúp ở trong cái giai đoạn ngăn ác diệt ác, nó rất là cụ thể.

Cho nên, một cái người mà chuyên cần, siêng năng mà tu tập cho đúng pháp rồi thì cái thời gian nó cũng không có dài, mà nó cũng không có khó khăn tại vì chúng ta tu không đúng thôi. Tu không có chịu kết hợp giữa hai cái pháp này, cái Định Vô Lậu và cái Định Niệm Hơi Thở chúng ta không có chịu câu hữu kết hợp lại, chứ nếu mà chúng ta câu hữu kết hợp lại thì coi như là chúng ta xây dựng cái tường thành, tường thành rất kiên cố cho nên vì vậy mà chúng ta không còn vi phạm giới luật nữa.

11- TÁM ĐỀ MỤC CỦA ĐỊNH NIỆM HƠI THỞ

(53:31) Sư Phước Nhẫn: Sang kế xin Thầy chỉ cách tu mười tám đề mục hơi thở. Rồi mình áp dụng lúc nào, trường hợp nào như Thầy vừa nói đó Thầy. Mỗi đề mục hơi thở nó có một cái lợi ích riêng, là do cái vấn đề mà mình giữ giới nó tròn. Thì mình dẫn đề mục nó vô cái mục đích, thì xin Thầy trình bày thứ tự từ số một đến số tám. Ví dụ như ban đầu thì: “Hít vô biết hít vô, thở ra biết thở ra”, đề mục thứ nhì là mình: “Cảm giác toàn thân”, thứ ba là: “An tịnh thân hành v.v…​”.

(54:05) Trưởng lão: Bây giờ để Thầy hướng dẫn cho từng cái đề mục, để thấy cái sự dẫn tâm vào những từng cái đề mục của Định Niệm Hơi Thở.

Cái đề mục thứ nhất của Định Niệm Hơi Thở là mục đích dẫn tâm cho nó biết cái hơi thở, chứ không phải là quán cái hơi thở, không phải là đếm cái hơi thở để mà tập trung gom tâm vào hơi thở, mà mục đích chúng ta chỉ dẫn nó vào hơi thở mà thôi. Thì do đó, bổn phận của chúng ta là cái phương pháp của Phật là Như Lý Tác Ý, lấy cái ý của chúng ta để mà dẫn nó vào.

Cho nên trong cái kinh Pháp Cú, cái bài kinh mà Song Yếu đó, thì đức Phật có nói: “Tâm làm chủ, tâm tạo tác…​”, cho nên vì vậy cái tâm tức là cái ý của chúng ta nó làm chủ, nó tạo tác, vì vậy mà bây giờ chúng ta muốn nó làm chủ, nó tạo tác cái pháp thiện, cho nên chúng ta cách thức là xác định cho chúng ta biết cái ý thức của chúng ta là cái vấn đề quan trọng, cái phương tiện quan trọng để giúp chúng ta đạt được cái đạo giải thoát, cho nên chúng ta dùng ý thức để dẫn tâm vào.

(55:03) Mà do cái Định Niệm Hơi Thở là phải sử dụng cái ý thức chúng ta trọn vẹn, cho nên vì vậy mà chúng ta bước đầu vào một cái mục đầu tiên thì chúng ta nên nhớ rằng, chúng ta dẫn nó vào để cho nó biết cái hơi thở, chứ không phải là chúng ta quán hơi thở hay là tập trung trong hơi thở.

Mà do đó thì cái đề mục đầu tiên thì đức Phật đã dạy: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”, đó là mình dẫn cái tâm của mình để cho nó biết cái hơi thở ra vô, mà do đó khi mà chúng ta đã tác ý như vậy rồi, thì chúng ta bắt đầu chúng ta mới hít thở, hít thở trong năm hơi thở để mà lắng nghe từng hơi thở, chúng ta coi cái tâm của chúng ta nó có biết cái hơi thở hay không.

Nếu mà nó biết được cái hơi thở trong năm cái hơi thở rồi, thì chúng ta lại dắt nó một lần, tức là nhắc nó một lần nữa: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”, và như vậy chúng ta tu cái sức của chúng ta tu, thí dụ như bây giờ chúng ta tu, lần thứ nhất có năm hơi thở mà chúng ta thấy dẫn cái tâm của mình trong năm hơi thở này rất là miên mật, rất là cẩn thận, kỹ lưỡng, gọi là tu rất nhiệt tâm từng hơi thở của nó, như vậy là cái người này sẽ tu kết quả rất lớn.

Còn bây giờ chúng ta dẫn tâm vào cái hơi thở, mà chúng ta tu mười hơi thở, hai mươi hơi thở hoặc là ba mươi phút, thì trong khi cái sức của chúng ta và cái khả năng của chúng ta không thể nào mà mới tu tập, mà dẫn vào một lèo như vậy mà cả năm, mười phút hay hoặc là cả ba mươi phút thì như vậy là chúng ta tu hỏng rồi, sai rồi, không đúng mà chúng ta chỉ dẫn nó vào năm hơi thở, rồi chúng ta xả nghỉ đi, xả nghỉ một chút xíu rồi chúng ta trở lại, chúng ta dẫn nó vào năm hơi thở thì chúng ta thấy cái chất lượng rất cao và cái tâm nó vẫn biết cái hơi thở rất rõ ràng.

Sau một ngày chúng ta tu tập thì ngày hôm sau chúng ta tăng lên hai lần, hai lần có nghĩa là như thế nào? Hai lần nghĩa là lần thứ nhất thì tác ý nó lần thứ nhất năm hơi thở, lần thứ hai năm hơi thở liên tục chúng ta thấy dẫn hai lần nó vẫn có một cái chất lượng rất tốt là nó không có phóng niệm, nó không có một cái niệm gì xen vào ở trong đó được, tức là chúng ta đi được hai lần và khi đó tới cái ngày thứ ba thì chúng ta dẫn nó ba lần và lần lượt chúng ta sẽ tăng dần lên với cái khả năng tu tập thuần thục của mình, tiến tới thì chúng ta khoảng độ chừng cao lắm là ba mươi phút, mà ít lắm thì chúng ta khoảng mười lăm phút.

(57:26) Rồi sau khi chúng ta thấy chúng ta vẫn đạt được cái hơi thở và lúc bây giờ chúng ta nhận ra được cái hơi thở chúng ta lúc nó ngắn hay hoặc nó dài, nếu là cái hơi thở tức mà phải biết cái hơi thở nào, dài là cỡ mức độ nào mà ngắn mức độ nào nữa, chứ không khéo nghe nói dài chúng ta cũng chẳng biết cái hơi thở dài như thế nào. Khi mà chúng ta dẫn nó như vậy mà nó luôn luôn năm hơi thở mà dẫn nó như vậy, thì chúng ta thấy nó có xuất hiện ra cái, rõ ràng là cái đặc tướng của hơi thở chúng ta, chúng ta đã nhận biết nó.

Nếu nó dài, nó chậm đó thì khoảng một phút đồng hồ của nó đó thì khoảng độ mười hơi thở, nghĩa là một phút đồng hồ thì chúng ta dẫn ra, dẫn vô vậy là mười hơi thở, mà nó ngắn là hai mươi hơi thở, nó một phút. Tức là nó ngắn là hai mươi hay hoặc hai mươi mấy hơi thở, nó là một phút, còn nó dài thì nó cái độ dài của nó thì nó mười hay hoặc là năm hơi thở, nó là một phút thì đó là dài.

Cái hơi thở nó dài, tức là nó chậm, nhẹ và nó kéo dài ra, thì đó là nó dài. Nếu mà nhận thấy được cái hơi thở dài thì đề mục thứ hai là chúng ta phải điều khiển dẫn cái hơi thở dài, cho nó liên tục hoài hoài chứ đừng có lúc ngắn mà lúc dài. Thường thường chúng ta có khi thở ngắn hoặc cũng có khi thở dài, cho nên chúng ta phải điều phục cái hơi thở chúng ta bằng cái đề mục thứ hai, mà đề mục thứ hai thì nếu mà hơi thở dài thì chúng ta nhắc như thế này: “Hít vô dài tôi biết tôi hít vô dài, thở ra dài tôi biết tôi thở ra dài”, đó là cái đề mục thứ hai.

Nếu là hơi thở ngắn thì khoảng hai mươi hơi thở nó một phút, hay hai lăm hơi thở, hai ba hơi thở thì đó là hơi thở ngắn, cho nên vì vậy mà tôi nhắc cái tâm của tôi, tôi dẫn cái tâm tôi cho nó biết cái hơi thở của nó, để nó điều phục được cái hơi thở cho nó ngắn: “Hít vô ngắn tôi biết tôi hít vô ngắn, thở ra ngắn tôi biết tôi thở ra ngắn”. Sau khi cái hơi thở mà tôi nhắc như vậy nó cứ, nó giữ đều đều đều tốt được đó là cái kết quả của cái đề mục thứ hai.

Khi mà nó thông suốt được cái hơi thở ngắn nó cũng thông suốt, mà hơi thở dài khi mà tôi nhắc như vậy đều tôi thở nghe nó thông suốt, nó không ngăn ngại, ở trong ngực của tôi nó không tức hay hoặc là nó không căng ở trên đầu của tôi, thì tức là tôi biết rằng nó đã thông suốt được cái hơi thở. Do đó, tôi tiến qua cái đề mục thứ ba.

Cái đề mục thứ ba thì mới là: “Cảm giác toàn thân tôi biết tôi hít vô, cảm giác toàn thân tôi biết tôi thở ra”. Lúc bây giờ nó không còn tập trung ở trong hơi thở nhiều nữa, mà bây giờ nó có cái cảm giác của nó, khi hít vô nó nghe từ cái hơi thở, nó đi khắp từ ở trên đầu nó, nó đi tới dưới chân và khi thở ra thì nó nghe từ dưới chân nó, nó thở ra tới trên đầu của nó đều thở ra, đó là cái cảm giác đầu tiên của cái người tu Định Niệm Hơi Thở, chứ không phải tập trung biết hơi thở ra vô ở chỗ mũi hay hoặc là ở chỗ cơ bụng hay hoặc ở chỗ bất cứ một cái chỗ nào, mà đây là cái cảm giác toàn thân của cái hơi thở khi hít vô, thì như vậy là người tu Định Niệm Hơi Thở nó mới đúng, chứ còn người tu Định Niệm mà, hơi thở mà không có cảm giác như vậy là không đúng.

(1:00:01) Khi mà chúng ta tập luyện một thời gian thì chúng ta mới cảm giác được, chứ không phải là nói cảm giác là chúng ta cảm giác liền. Trong khi tập luyện thì một thời gian chúng ta mới hít vô, chúng ta mới thấy được cái cảm giác đó, mà khi thấy được cái cảm giác, có cái cảm giác rồi suốt trong cái thời, một buổi mình tu tập mười phút hay hoặc hai mươi phút hay ba mươi phút mà thấy có cái cảm giác từng hơi thở đều có cảm giác, chứ không phải có hơi thở có cảm giác, mà có hơi thở không cảm giác thì chưa thuần. Là vậy cho nên khi nào mà hơi thở mà chúng ta đã nhắc một cái là chúng ta thấy cảm giác được thì chúng ta tiến qua cái giai đoạn thứ tư chúng ta tu tập.

Tới giai đoạn thứ tư tu tập thì: “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh thân hành tôi biết…​”, khi mà chúng ta đã có cảm giác và đồng thời chúng ta dẫn nó vào cái sự an tịnh thì nó rất dễ cảm, nó rất dễ cảm giác cái an tịnh của cái thân của nó, cho nên cái thân của nó, nó an ổn, rất là an ổn mà nhẹ nhàng, nó làm cho chúng ta ngồi tu rất thoái mái, dễ chịu, nó không có còn khó khăn, không có còn nhọc nhằn nữa, nó làm cho chúng ta thấy rất là thích tu.

Mà do đó, khi dẫn tâm vào cái sự an tịnh được, thì chúng ta thấy kết quả của sự an tịnh suốt cái thời gian tu, ví dụ như ba mươi phút hay mười lăm phút mà thấy nó, khi nhắc nó một lần, hai lần mà thấy ngay cái thân chúng ta có cái cảm giác an tịnh đó, thì bắt đầu bây giờ chúng ta mới qua cái đề mục thứ năm chúng ta tu tập, thì…​

Sư Phước Nhẫn: Cảm giác, cảm giác hỷ thọ.

Trưởng lão: Cảm giác toàn thân hết. Chưa.

Sư Phước Nhẫn: Cảm giác hỷ thọ.

Trưởng lão: Chưa. Ở đây theo Thầy thấy nó từ cái cảm giác, đọc qua lại cái bài mà Thân Hành Niệm mà đức Phật dạy về cái Định Niệm Hơi Thở, thì nó mới cụ thể hơn là trong cái bài Xuất Tức Nhập Tức.

Sư Phước Nhẫn: Dạ.

Trưởng lão: Bởi vì ở trong cái bài Thân Hành Niệm thì nó có cái Thân Hành Niệm nội, thì đức Phật dạy về hơi thở thì những cái đề mục đó rất cụ thể hơn là cái bài mà Xuất Tức Nhập Tức, mà khi những cái đề mục ở trong cái bài Xuất Tức Nhập Tức thì nó hơi có những cái lộn xộn mà nó không có, bởi vì cái người kết tập nó không có đúng cách, cho nên sau khi đọc lại cái bài Thân Hành Niệm, Thầy thấy những cái đề mục nó có thứ tự rõ ràng.

Từ khi cái thân nó được an tịnh rồi, thì bắt đầu nó mới dạy chúng ta đến cái đề mục mà thứ tư đó là phải: “Cảm giác toàn tâm tôi biết tôi hít vô, cảm giác toàn tâm…​”, khi mà cảm giác toàn thân rồi thì mới an tịnh thân hành, rồi bây giờ mới cảm giác toàn tâm, cảm giác được cái tâm mình rồi thì mình mới: “An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô”, thì cái đó là cái rất là cụ thể, bởi vì cái thân nó dễ hơn, cái cảm giác của cái thân nó dễ hơn là cảm giác của cái tâm.

Đó là theo Thầy xét thấy cái lịch trình mà thứ tự, để mà chúng ta tu tập theo cái phương pháp Định Niệm Hơi Thở, thì nó phải đi tuần tự như vậy nó đúng cách, chứ không khéo nó lộn xộn là cái thân mình rối, nó trật đi, nó không khó mà đạt được kết quả. Cho nên, Thầy có cái sắp xếp nó rất là cụ thể trên cái phương pháp khi mà đọc lại cái bài Thân Hành Niệm, thì Thầy thấy tất cả những cái đề mục mà ở trên cái Định Niệm Hơi Thở thì nó có cụ thể và rõ ràng hơn, cho nên vì vậy mà Thầy sắp xếp theo cái Thân Hành Niệm.

Sư Phước Nhẫn: Xin Thầy giảng sau cái an tịnh thân hành rồi cái…​

(01:03:09) Trưởng lão: Khi mà cảm giác được thân rồi. “Cảm giác toàn thân tôi biết tôi hít vô” rồi, thì bắt đầu bây giờ mới: “An tịnh thân hành”. Cái thân nó được an ổn rồi, thì bây giờ mới bắt đầu qua cái đề mục nữa đó là: “Cảm giác toàn tâm tôi biết tôi hít vô, cảm giác toàn tâm tôi biết tôi thở ra”, khi mình hít vô thì cái cảm giác của thân nó an tịnh rồi, thì có cái an tịnh của cái thân thì mới lắng nghe được cái tâm của mình, mới lắng nghe được cái tâm.

Khi mà cái thân nó an ổn, khi mà hít vô thì cái cảm giác của cái thân nó an ổn, thì trong khi đó mình lắng nghe thì cái tâm của mình, tức là cảm giác toàn tâm là lắng nghe. Lắng nghe cái trạng thái của tâm, thì lúc bấy giờ chúng ta mới lắng nghe được cái người mà chưa có cái thân an tịnh thì không thể lắng nghe được cái cảm giác toàn tâm, tức là lắng nghe cái tâm của mình thì không lắng nghe được.

Sư Phước Nhẫn: Thí dụ nó sao Thầy?

Trưởng lão: Ừ. Thí dụ bây giờ cái thân chúng ta nó đang nhẹ nhàng, khinh an, nó không bị đau, không bị nhức, không bị trạo cử, không bị mệt mỏi, không bị khó chịu, nó có cái an lạc vô cùng lận, nó làm cho chúng ta thấy cái sự an lạc đó. Mà cái người có an lạc rồi thì bắt đầu bây giờ người ta cảm giác cái tâm người ta, tức người ta lắng nghe được cái tâm người ta nó đang thanh thản như thế nào, người ta thấy được cái trạng đó.

Còn bây giờ mình chưa biết, mình chưa có cái kết quả này mà mình muốn biết, lắng tâm mình thì mình rất khó, rất khó cảm giác được cái tâm của mình. Còn cái này người ta cảm giác được cái tâm là người ta nhờ cái thân người ta an ổn quá, cho nên vì vậy người ta cảm giác được cái tâm. Khi mà người ta cảm giác được cái tâm, bây giờ càng đi tới những cái đề mục, càng xa thì nó càng khó, cũng như hồi đầu mình vô: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”, nó dễ. Phải không?

Rồi tới cái hơi thở mà dài, ngắn nó dễ, ai cũng nhận được hết, những cái đề mục đầu nó dễ rồi, rồi tới cảm giác cái thân nó cũng hơi khó khó rồi đó, mà bây giờ hít vô mà cảm giác được nó cũng dễ rồi đó. Nhưng mà cái thân mà an tịnh bắt đầu nó hơi khó, dẫn cho nó được an tịnh nó khó rồi đó, chứ không phải dễ đâu, tới cái tâm rồi mới thấy cái khó, rồi tới cái quán ly tham, quán ly sân nó mới khó đó.

Sư Phước Nhẫn: Vậy là mình thấy mấy cái trạo cử cũng là cảm giác tâm hành?

(1:05:11) Trưởng lão: Tâm hành đó, nó là trạo cử, cảm giác tâm hành, hoặc là nó loạn tưởng cũng là tâm hành đó. Tất cả những cái đó nó đều sai hết rồi, cho nên vì vậy mà lúc bây giờ đó mình dẫn nó vào cảm giác toàn tâm, thì bắt đầu nó trạo cử hay hoặc là nó cái gì mình cũng nhận ra được hết nó rồi, bởi vì mình lắng nghe được cái tâm của mình rồi.

Sư Phước Nhẫn: Tâm hành nghĩa là như cái ý của tâm hả Thầy?

Trưởng lão: Cái ý của tâm đó. Cái ý nó ý khởi của nó là tâm hành, nó khởi ra đó, nó hành đó, nó khởi ra thì mình đã lắng nghe mình nghe được hết.

Sư Phước Nhẫn: Vậy nó khởi sao cũng được hết mà mình cảm giác được ý khởi?

Trưởng lão: Mình cảm giác được ý khởi. Tức là cảm giác được nó, đó cho nên khi mình dẫn vào đó thì nó cái cảm giác của nó trong khi nó thanh thản, an lạc, vô sự thì mình cũng nhận ra được cái cảm giác của cái tâm của mình, mà nếu nó hành ra một cái gì thì mình thấy rõ ràng.

Sư Phước Nhẫn: Cái tâm ở đây thì mình nói chung là cái ý nó mới chắc.

Trưởng lão: Cái ý chứ không phải là cái tâm đâu, cái ý đó.

Sư Phước Nhẫn: Cảm giác tâm hành rồi.

(01:06:05) Trưởng lão: Rồi bắt đầu bây giờ cảm giác được cái tâm rồi, bây giờ mới: “An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh tâm hành tôi biết tôi thở ra”, mình nương vào cái hơi thở mà cái sự an ổn của cái tâm của mình, mình thấy rất rõ ràng. Rồi mình dẫn nó hơi cái mình thấy nó hoan hỷ lắm, nó niềm vui ở trong lòng của mình nó khởi ra. Tức là nó đúng là cái hỷ của nó rồi. An tịnh tức là cái tâm hoan hỷ chứ không phải là gì khác hơn hết, đó khi mà dẫn nó được tới đó, rồi mới quán ly tham, quán ly sân, quán ly si thì nó mới có cái cảm giác mà ly tham, sân, si nó mới ly tham, sân, si ra được.

Sư Phước Nhẫn: Thầy chỉ lại cái khoảng mà: “An tịnh tâm hành”, cách thực tập nó ra sao Thầy?

Trưởng lão“An tịnh tâm hành” phải không?

Sư Phước Nhẫn: Dạ. Thực tập đó Thầy.

Trưởng lão: Bắt đầu bây giờ đó, thí dụ như cách về thực tập của nó thì mình nhắc như thế này: “An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh tâm hành tôi biết tôi thở ra”. Thì bắt đầu đó mình nhắc nó rồi, mình hít thở rồi mình nương theo cái hơi thở đó, mình mới cảm giác cái tâm của mình coi nó có an tịnh hay không, nó chưa an tịnh thì mình cảm giác như nó có một cái sự an tịnh của nó, có sự hoan hỷ của nó trong đó thì mình cứ mình nhắc nó vậy một chút xíu cái nó hiện ra cái tướng hoan hỷ của nó. Cái tướng hoan hỷ của nó tức là nó an tịnh rồi nó mới hiện ra cái tướng hoan hỷ, còn nếu nó chưa an tịnh đó thì chắc chắn là nó còn cái tâm hành nào đó nó chưa, nó còn có phóng dật thì nó không có đâu.

Trước khi mà nó sẽ có cái tâm hoan hỷ nó xuất hiện đó, thì hoàn toàn nó không có một cái niệm gì mà phóng vô trong này được hết, thì lúc bây giờ nó mới…​ Nhưng mà dẫn cái này là nó có niệm rồi, hễ mình nhắc nó: “An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh tâm hành tôi biết tôi thở ra”, rồi bắt đầu mình hít vô, thở ra, hít vô, thở ra mỗi hít vô, thở ra mình lắng nghe cái cảm giác của cái sự an tịnh của cái tâm của mình.

Bởi vì mình cảm giác toàn tâm rồi mà, mình đã cảm giác được, nhận được cái cảm giác rồi, thì bây giờ mới mình nhận cái cảm giác của nó thì khi nó xuất hiện cái niềm hoan hỷ của nó là nó đã an tịnh, cái tâm hành nó đã an tịnh rồi. Nó an tịnh là nó thanh tịnh, nó an ổn của cái tâm rồi, nó không còn một cái niệm gì sót ở trong đó mà nó lén lén nó phóng ra đâu. Dẫn tới cái chỗ này rồi mới thấy cái tâm của mình nó mới thanh tịnh thật sự, chứ còn nếu mà không khéo tu, không có tu cái Định Niệm Hơi Thở, không có biết cái tâm thanh tịnh của mình đâu.

Sư Phước Nhẫn: Là cảm giác tâm hành đó là còn khởi niệm?

Trưởng lão: Còn, mình còn, mình tác ý nó, nó còn khởi đó.

Sư Phước Nhẫn: Còn khởi niệm?

Trưởng lão: Ờ. Còn khởi niệm.

Sư Phước Nhẫn“An tịnh tâm hành” là mình cũng còn cảm giác?

Trưởng lão: Còn cảm giác.

Sư Phước Nhẫn: Nhưng mà hết khởi niệm?

Trưởng lão: Hết khởi niệm.

Sư Phước Nhẫn: Dạ. Rồi cái trạng thái lúc đó là nó khinh an, nó nhẹ nhàng hả Thầy?

Trưởng lão: Cái khinh an là nó, cái đầu tiên là cái thân hành rồi, bây giờ nó còn cái hỷ nữa, tức là cái hỷ của tâm của mình khi nó an tịnh được thì cái hỷ nó xuất hiện. Cái niềm vui nó làm cho mình hoan hỷ lắm, nó làm cho mình vui trong cái lòng của mình, nó phấn khởi ở trên cái phương pháp mình đang tu, cái hơi thở đó, hơi thở mình hít vô nó phấn khởi trên cái hơi thở.

(1:09:07) Sư Phước Nhẫn: Theo Thầy trình bày lại cái trạng thái mà khi mà mình dẫn cái tâm vô “An tịnh tâm hành” đó Thầy.

Trưởng lão“An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh tâm…​”.

Sư Phước Nhẫn: Cái tâm lúc đó ra sao Thầy? Trạng thái tâm lúc đó ra sao Thầy?

Trưởng lão: Cái trạng thái thân thì nó là nhẹ nhàng, nó an ổn, nó không bị đau nhức, không bị ngứa ngáy. Còn cái trạng thái mà “An tịnh tâm hành” là lúc bấy giờ nó không có một cái niệm phiền não, nó không có cái gì mà xen vô đó đâu, không có niệm nhớ thương, không có cái gì mà nó làm cho mình lo lắng, sợ hãi gì hết thì đó là nó an tịnh được cái tâm.

Bởi vì cái phần thọ của tâm và phần thọ của thân, phần thọ của thân nếu mà nó an tịnh về cái thân thì nó không bị ngứa, không bị đau, không bị nhức chỗ này, chỗ kia, còn về cái phần tâm mà nó an tịnh được đó, thì nó sẽ không có phiền não, nó không có khởi niệm giận, niệm thương, niệm ghét, niệm gì trong này hết thì đó là an tịnh được nó rồi. Hễ có nhận ra được cái chỗ mà cái thọ của tâm và cái thọ của thân không? Mà khi mà cái tâm mình đang ngồi mình nương vào cái hơi thở mình thấy hoàn toàn là nó không bị cái thọ này nè, tức là nó không bị một cái niệm nào mà khởi ra, nó làm cho nó phiền não, nó lo lắng, nó sợ hãi, nó thương nhớ thì đó là nó đã an.

Còn nó còn có cái niệm này, thì ví dụ như bây giờ mình dẫn năm hơi thở nó không có, tức là nó năm hơi thở là không có thì như vậy nó an tịnh rồi, thì bắt đầu cái tâm nó an tịnh rồi, thì bắt đầu bây giờ mình dẫn năm hơi thở nữa mà nó có thì nó không an tịnh đâu, nó mất cái an tịnh của nó rồi. Bắt đầu mình dẫn năm hơi thở nữa mà mình rất là nhiệt tâm từng hơi thở thì nó sẽ không có, mà nó không có thì tới năm hơi thở nữa không có cho đến khi mà ba mươi phút mình xả ra không có, như vậy là tôi đã dẫn tâm tôi được an tịnh ở trong đó ba mươi phút.

Con hiểu chỗ Thầy muốn nói không? An tịnh tức là nó không có một cái niệm gì khởi ra, còn nó có cái niệm là nó không an tịnh.

Sư Phước Nhẫn: Dạ.

Trưởng lão: Cũng như cái thân mình nó không có cái đau đớn gì trong này, không có ngứa, nhức gì trong này, không có mỏi mệt thì nó là an tịnh. Chứ bây giờ, nếu mà trong khi đó, cái thời gian mà nó kéo dài nó một phút, hai phút, ba phút mà nó an ổn vậy thì nó có cái trạng thái khinh an của nó rồi. Còn nếu nó còn có một cái gì đau đớn, nhức thì nó không bao giờ nó có khinh an được đâu. Hiểu Thầy muốn nói không?

Nó đầu tiên là mình có nhận ra được cái cảm giác an tịnh đó, nhưng mà cái an tịnh đó mà nếu kéo dài thì nó, cái thân của chúng ta nó sẽ nhẹ nhàng, mà cái tâm nó cũng vậy, nó không có cái trạng thái mà phiền não đâu, tức là không có cái niệm nào mà đánh vô nó nữa.

(01:11:19) Cái đề mục mà đã thân tâm nó an ổn rồi, phải không? Thì cái đề mục đó là: “Quán ly tham tôi biết tôi hít vô, quán ly tham tôi biết tôi thở ra”. Tham, sân, si rồi quán vô ngã, quán không phải ta, không phải này kia thì tiếp tục tới những cái đề mục ly rồi.

Mà khi mà nó ly rồi đó thì mới tới mà: “Với tâm định tĩnh tôi biết tôi hít vô, với tâm định tĩnh…​”, tức là phá tham, sân, si, si là định tĩnh đó, hễ nếu cái tâm mà nó định tĩnh là nó không si, nó phá si. Bắt đầu ly tham này ha, ly sân này tới ly si là định tĩnh đó. Bây giờ thay vì mình quán ly si chứ gì? Nó không đúng đâu, không đúng cách, cho nên vì vậy mà: “Với tâm định tĩnh tôi biết tôi hít vô, với tâm định tĩnh tôi biết tôi thở ra”, đó là nó định tĩnh là nó không si, mà nó không định tĩnh nó si, nó sẽ mê, nó sẽ có niệm vô. Hiểu chỗ Thầy nói không?

Bây giờ đầu tiên thì mình quán ly tham nè, khi mà cái thân tâm mình nó được an ổn rồi, an tịnh rồi thì bắt đầu: “Quán ly tham tôi biết tôi hít vô, quán ly tham…​”, từng hơi thở hít vô tôi mới cảm thấy rằng cái sự an tịnh thân và tâm của tôi, nó đẩy lui tất cả những cái tâm tham ở trong thân của tôi ra, rồi tôi thở ra nó cũng vậy, nó cũng đẩy ra và cứ mỗi hơi thở mà cứ có cái cảm giác của mình nó đẩy cái tâm tham ra thì lúc đó là: “Quán ly tham tôi biết tôi hít vô, quán ly tham tôi biết tôi thở ra”, mà khi mà cái tâm tham mình thấy nó ly ra rồi, thì nó không có còn mà khởi ra cái niệm tham đó nữa.

Tức là trong khi mình tu tập đó hay hoặc là mình xả ra mình không có nghĩ mình ham muốn cái này, tới thậm chí như cái ăn nó cũng không tham ăn nữa, tức là nó ly rồi. Rồi bắt đầu bây giờ nó quán ly sân nè, mà khi mà ly sân được rồi, người ta chửi mình không giận, mà nội tu cái Định Niệm Hơi Thở không, nó đã bất động tâm rồi, nó ly rồi đó, nó lìa ra rồi, mình tu cái này, mình tu cái Định Niệm Hơi Thở trong vòng chừng mười ngày, mười lăm ngày, mình xả ra coi, ai nói nặng nhẹ mình coi, mình như cục đất vậy, nó không có giận đâu, đó là cái sân của mình nó ly rồi.

Nó ly rồi thì bắt đầu, cái tâm nó bắt đầu nó có chút ít định tĩnh, chứ nó chưa. Bắt đầu mình dùng cái Định Niệm Hơi Thở này mà dẫn nó, mình dẫn nó: “Với tâm định tĩnh tôi biết tôi hít vô, với tâm định tĩnh…​”, tức là mình phá cái si đó. Cái si nó phá cuối cùng đó, mà cái tâm mà định tĩnh được thì Bảy Giác Chi nó xuất hiện đó. Chứ không phải dễ, cái đề mục thiền của Định Niệm Hơi Thở nó rất hay nhưng mà vì mình không thể nào nương ở trên hơi thở này mà nó hoàn toàn nó định tĩnh được, cho nên buộc lòng phải đi qua cái Thân Hành Niệm. Thì trong cái bài Thân Hành Niệm thì nó có năm hơi thở và nó có hành động đứng, đi của mình.

Đó là cách tất cả những cái đó là nó cấu kết thành cái cỗ xe, thành căn cứ địa rồi, nó là chuyên nhất rồi, nó không có còn mà có kẽ hở nữa. Còn mình quán định tĩnh nó còn kẽ hở, nó không có chuyên được, cho nên phá cái si nó rất khó, phá cái si cuối cùng thì chỉ qua Thân Hành Niệm mới phá, nhưng mà ở trong Định Niệm Hơi Thở nó có cái phương pháp phá, nhưng mà phá cái thô để cho nó được tỉnh giác thôi, chứ nó định tĩnh chưa nhưng mà vẫn nhắc nó định tĩnh, vẫn tác ý nó định tĩnh.

Cho nên: “Với tâm định tĩnh tôi biết tôi hít vô, với tâm định tĩnh tôi biết tôi thở ra”, và cái đề mục cuối cùng của nó: “Với tâm giải thoát tôi biết tôi hít vô, với tâm giải thoát…​”, nghĩa là thân tâm của mình nó có cái trạng thái giải thoát hoàn toàn. Khi nó định tĩnh rồi nó giải thoát, nó giải thoát mình thấy rất rõ. Đó là cái phương pháp về cái Định Niệm Hơi Thở, mà mười mấy cái đề mục của nó mà nếu mà tu kỹ lưỡng thì nó lợi ích rất lớn, đức Phật đã nói mà.

Sư Phước Nhẫn: Xin Thầy giảng lại là cái phần mà: “Quán ly tham tôi biết tôi thở vô, quán ly tham tôi biết thở ra”, Thầy vừa nói là thí dụ mình thở vô hoặc thở ra.

Trưởng lão: Ừ.

Sư Phước Nhẫn: Thì mình có cái cảm giác tham nó đi ra.

Trưởng lão: Ừ.

Sư Phước Nhẫn: Con chưa hiểu cái cảm giác tham nó đi ra như thế nào?

Trưởng lão: Bây giờ Thầy sẽ dạy lại cho thấy cụ thể ha. Khi mà hít vô đó thì mình có cái cảm giác là thân tâm của mình, mình đã dẫn nó vào cái sự an tịnh rồi. Phải nhớ đầu tiên không?

Sư Phước Nhẫn: Dạ.

(1:14:57) Trưởng lão: Hít vô thì tôi nghe cái thân của tôi, tôi hít vô thì đầu tiên tôi đã cảm giác được thân và tâm tôi rồi, cho nên vì vậy mà tôi dẫn nó vào cái sự an tịnh của thân tâm tôi, cho nên khi tôi cảm giác cái sự an tịnh đó, khi mà tôi hít vô thì theo cái luồng hơi thở, thì cái cảm giác an tịnh đó nó từ ở trên đầu tôi nó chạy tới dưới chân.

Nhưng mà cái cảm giác an tịnh đó nó đi tới đâu, thì cái đề mục mà quán ly tham đó thì tôi cảm thấy như là cái tâm tham của tôi ở trong nó bị đẩy theo cái trạng thái hỷ lạc đó đó, nó bị đẩy cái tham nó ra. Phải không? Rồi bây giờ tôi thở ra, thì tôi thấy như là nó đẩy cái tâm tham nó, nó đi theo cái luồng hơi thở tôi nó đi ra. Do đó, tôi ngồi tôi tu mà tôi cảm giác lên xuống, lên xuống, lên xuống như là một cái ống thổi, mà cái ống bễ mà thổi theo cái hơi thở, nhưng mà cái thân tôi, toàn thân tâm của tôi nó an ổn, mà nó an ổn tới đâu thì cái tâm tham tôi nó lìa ra tới đó.

Bây giờ hít vô thì nó cũng đẩy ra, lìa ra theo dưới chân tôi ra hết mà tôi thở ra thì nó dồn lại nó đẩy lên trên miệng tôi, trên mũi tôi nó cũng đẩy ra hết những cái tham tham. Cho nên cái an ổn này nó đẩy lui, đẩy tới làm như là cái pít-tông mà nó đẩy cái hơi ra vậy, thì cái cảm giác tôi ngồi đây mà tôi thấy hoàn toàn cái tâm tôi nó bị đẩy cái tham ra hết, rồi nó đẩy cái tham trở ra, đẩy tới, đẩy lui nó đẩy ra hết, hoàn toàn nó như là một cái người cầm cây chổi mà quét tới, quét lui, quét tới, quét lui nó làm cho cái tâm tôi quá sạch sẽ, nó không còn tham nữa.

Mà tôi ngồi tôi tu ba mươi phút thì tôi thấy sao nó nhẹ nhàng vô cùng lận, rồi tôi tiếp tục tôi tu vậy trong một ngày hay tuần lễ tôi thấy cái tâm tham nó vắng bóng rồi, nó không còn muốn gì nữa hết, nó không còn tham muốn ăn, uống gì nữa. Đó là tôi đã tu tập đúng cách rồi.

Sư Phước Nhẫn: Mà cái chữ tham ở đây thì nó, nói chung là nó trừu tượng chứ nó không có hình ảnh nào.

Trưởng lão: Nó không có hình ảnh nào hết. Nó là nó như nó tượng trưng cho cái dục của mình thôi.

Sư Phước Nhẫn: Dạ.

Trưởng lão: Cái lòng ham muốn của mình.

Sư Phước Nhẫn: Cái này cũng như mình tưởng ly tham vậy đó.

Trưởng lão: Tưởng ly tham đó. Coi như luôn luôn lúc nào bây giờ mình từ cái chỗ mà cảm giác là mình đã cũng dùng tưởng rồi. “Cảm giác toàn thân tôi biết tôi hít vô, cảm giác…​”, là có cái cảm giác là có cái tưởng chứ không có cái tưởng thì nó không có đâu.

Sư Phước Nhẫn: Dạ.

Trưởng lão: Đó là cái tưởng rồi.

Sư Phước Nhẫn: Nên cái “An tịnh tâm hành” cũng có cảm giác.

Trưởng lão: Cảm giác.

Sư Phước Nhẫn: Rồi qua cái quán ly tham cũng có cảm giác.

Trưởng lão: Con cũng cảm giác.

Sư Phước Nhẫn: Nói chung là cái chữ “cảm giác” nó theo mỗi cái đề mục.

(01:17:12) Trưởng lão: Mỗi cái đề mục của nó, tới cuối cùng của nó là nó dẫn bằng cái cảm giác nó thôi đó. Cho nên nó không có tập trung gom vào một cái đối tượng, vì vậy mới đúng là cái Định Niệm Hơi Thở. Chứ còn nếu mà nó gom vào thì nó là Quán Niệm Hơi Thở chứ không thể nào nói Định Niệm Hơi Thở.

Cho nên cái người mà tu dạy, mà tu Định Niệm Hơi Thở mà dạy mà ngồi mà nhìn hơi thở mà để ức chế cái tâm mình, thì coi như là tu không đúng cái phương pháp của Định Niệm Hơi Thở của Phật rồi. Sai rồi cho nên hầu hết là các Tổ là nhìn, nghĩ tưởng ra là cái phương pháp đó tưởng là tập trung trong hơi thở để cho hết vọng tưởng chứ không phải. Ở đây đức Phật mục đích là dạy chúng ta nương vào hơi thở để ly tham, sân, si để cho tâm định tĩnh hơn, đó là cái chính.

Sư Phước Nhẫn: Con thấy đây cũng là cái bài thuốc để trị bệnh Thầy.

Trưởng lão: Ừ.

Sư Phước Nhẫn: Thí dụ như mà: “An tịnh tâm hành tôi biết tôi thở vô, an tịnh tâm hành tôi biết tôi thở ra”, là cũng như cái tâm mình lúc mình trạo cử đó thì mình dùng cái này, dùng cái đề mục này mình tu thì nó hết trạo cử.

Trưởng lão: Đúng vậy. Đó là cái phương pháp mà, để đối trị.

Sư Phước Nhẫn: Dạ.

Trưởng lão: Khi mà cái tâm mình trạo cử thì mình sử dụng nó, mình nhắc nó vài ba lần thì nó hết trạo cử, vì nó an tịnh rồi, nó hết.

Sư Phước Nhẫn: Nhưng mà khi mình trạo cử, mình muốn dùng cái này mình để mình trị cái trạo cử, mình có nên đi từ đầu đến đây hay là mình nhảy vô liền?

Trưởng lão: Không. Mình nhảy vô liền.

Khi nào mình tu tập tới thuần rồi, mình dẫn nó được an tịnh rồi, thì ngay gặp cái trường hợp nào là xách nó ra sử dụng ngay. Xách ra sử dụng ngay liền cái đề mục đó, chứ không phải là phải đi từ đầu chí đuôi cho tới chỗ đó rồi mới được, không phải đâu.

Mỗi đề mục bây giờ con thấy cái tâm con mất định tĩnh, tức là con tu ở trên cái pháp Thân Hành Niệm đi, mà con thấy sao nó không định tĩnh, con nhắc liền, nương vào hơi thở bắt nó định tĩnh liền, thì lúc nó định tĩnh rồi bắt đầu ở trên thân hành mà xả cái đó ra, cái nó luôn luôn định tĩnh trên thân hành. Hay lắm! Bởi vì nó lợi ích, mình biết sử dụng nó là lợi ích lắm.

Sư Phước Nhẫn: Nó cũng kết hợp với Như Lý Tác Ý…​

Trưởng lão: Nó kết hợp đó. Nó kết hợp hay lắm.

Sư Phước Nhẫn: Rồi cái: “Cảm giác tâm hành” nó trị bệnh gì Thầy?

Trưởng lão: Cái “cảm giác tâm hành” nó trị bệnh tham dục của mình chứ. Can tâm hành đó, tức là: “Cảm giác tâm hành tôi biết tôi hít vô, cảm giác tâm hành tôi biết tôi thở ra”, tức là cái tâm mà dục của mình nó, coi như là cái tâm của mình là cái quả đó, cái kết quả của nó, nó ham muốn cái gì mà nó đã xả không được của nó, thì mình dùng cái đó để mình xả nó được.

Thí dụ như bây giờ mình có cái đó mà người ta hỏi xin mình, mình không muốn cho mà mình bây giờ mình muốn xả được cái tâm mà không muốn cho này đó, để mình cho người ta mà mình thấy mình không tiếc đó, thì cái mà còn kiết sử đó, thì cái đó nó là cái hữu tham kiết sử nó còn có đó, thì phải dùng cái đó để mà đối trị nó mới được, nó mới hết.

(1:19:50) Trưởng lão: Nói chung là cái phương pháp nó mà tâm hành đó, mà để mà xả nó thì đó là cái phương pháp để diệt kiết sử thôi. Cái gì mình có mà mình bị dính mắc mình không xả được nó đó, thì cái đó dùng nó. Biết áp dụng thì Thầy nói nó kết quả, mà không biết áp dụng thì không kết quả.

Sư Phước Nhẫn: Rồi cảm giác tâm hành là trị mấy cái bệnh về dục?

Trưởng lão: Dục.

Sư Phước Nhẫn: Còn cái: “An tịnh thân hành” trị bệnh nào Thầy?

Trưởng lão: Nó trị về bệnh thọ, thân khổ của nó, đau nhức bệnh tật. Cái kia nó thuộc về tâm còn cái này nó thuộc về thân mà.

Sư Phước Nhẫn: Dạ.

Trưởng lão: Cho nên, thí dụ như bây giờ cái thân con nó đau nhức chỗ này, chỗ kia thì con nhắc nó chút xíu nó hết, nó hết đau ngay.

Sư Phước Nhẫn: Là “An tịnh thân hành”?

Trưởng lão: An tịnh thân hành.

Sư Phước Nhẫn: Còn: “Cảm giác toàn thân”, thì nó trị bệnh nào Thầy?

Trưởng lão“Cảm giác” thì chỉ nó là mới tập để cho cảm giác, đặng sau khi mình sử dụng được cái thân hành, tâm hành thôi.

Sư Phước Nhẫn: Bắt đầu đề mục thứ tư nó mới trị bệnh được?

Trưởng lão: Ừ. Đó mới là trị. Chứ còn mấy cái kia nó không trị, nó chỉ cảm giác thôi. Mà nhưng mà có cái cảm giác được thì mới có cái nhận ra được cái “An tịnh thân hành”“an tịnh tâm hành”.

Sư Phước Nhẫn: Còn cái “quán đoạn diệt” với “quán từ bỏ” nó trị bệnh gì Thầy?

Trưởng lão“Quán đoạn diệt” đó, “quán từ bỏ” đó là, coi như là nó trị tất cả mọi cái.

Thí dụ như về tâm hay hoặc về thân đều là phải đoạn diệt hết. Mình muốn, thí dụ như bây giờ, khi mà nó ly rồi, nó lìa rồi bây giờ đoạn diệt nó đừng có cho nó tới lui nữa thì mới dùng cái này, còn nếu mà mình không có đoạn diệt, mình ly thôi thì mình “quán ly tham”“quán ly sân” được rồi, mà bây giờ nếu mình muốn đoạn diệt nó thì phải dùng cái này mà đoạn diệt, quán đoạn diệt nó.

Sư Phước Nhẫn: Còn “với tâm định tĩnh” thì mình trị bệnh gì Thầy?

Trưởng lão“Với tâm định tĩnh” là mình trị tâm loạn động, để cho nó định với trị cái phóng dật. Hễ định tĩnh nó mới không phóng dật.

Sư Phước Nhẫn: Dạ. Còn “tâm hân hoan” là trị cái bệnh gì Thầy?

Trưởng lão: Trị bệnh chán nản, bệnh bi quan đó. Nó hân hoan thì nó mới trị cái bệnh chán nản.

Sư Phước Nhẫn: Còn lúc mà mình xài cái “tâm giải thoát” sao?

(01:21:51) Trưởng lão“Tâm giải thoát” là thân tâm của mình nó có cái trạng thái hỷ lạc của cái Sơ Thiền ly dục ly ác pháp đó, ly dục, do ly dục sanh hỷ lạc thì đó là cái trạng thái giải thoát của nó.

Sư Phước Nhẫn: Thành ra cái bài này, cũng như cái hơi thở này đó là mình xài, thí dụ như mình bị một trường hợp trạo cử đi.

Trưởng lão: Ừ.

Sư Phước Nhẫn: Thì mình dùng, áp dụng cái đề mục: “An tịnh tâm hành”, mình ngồi mình thở hay là mình đi mình thở Thầy?

Trưởng lão: Mình đi…​ Nếu mà trong khi đó đó mình thấy rằng nó trạo cử, nó có nhiều cách, thí dụ mình trạo cử mà về nó hôn trầm, nó cứ thùy miên, nó cứ gục tới, gục lui hoài đó thì mình nên đi, mà mình dùng nó. Dùng cái hơi thở mà mình, chứ mình không có tác động dưới bàn chân của mình, mình đi. Mình biết mình đi, mình dùng hơi thở để mình tác động nó: “An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh tâm hành…​” hít vô thở ra đó thì mình có thể phá nó.

Bây giờ nó loạn tưởng thì mình ngồi, nó không có buồn ngủ thì mình ngồi thì nó dễ hơn, mình đi nó động cho nên mình ngồi đó, cái mình nương vào cái mình ngồi dễ cảm giác lắm. Cảm giác để cho nó đẩy lui ra.

Cho nên mình ngồi xếp bằng lại đàng hoàng, gom tâm đàng hoàng, lưng thẳng đàng hoàng, bắt đầu: “An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh tâm hành tôi biết tôi thở ra”, thì mỗi hơi thở mình rất kỹ lưỡng, mình cảm giác cái tâm hành của mình thì một chút xíu sau nó an tịnh được liền, nó không có trạo cử nữa.

Chứ còn không khéo mình hàng phục trạo cử không nỗi đâu. Có nhiều người cứ ngồi hít thở, hít thở mà tới chừng nó không bám được ở trong hơi thở rồi bắt đầu nó trạo cử, cái này nó nghĩ tới cái kia, nghĩ tùm lum à, mà không có dùng được cái câu pháp hướng, cái đề mục này thì kể như là mình bị loạn rồi, không thắng được nó đâu.

Sư Phước Nhẫn: Thành ra mình ngồi cũng được, đi cũng được, tùy theo trường hợp.

(01:23:32) Trưởng lão: Đi cũng được, tùy theo trường hợp. Bởi hễ trường hợp mà mình buồn ngủ, mình nghe nó khuya rồi hay buồn ngủ, mình ngồi coi chừng nó gục đó. Hễ nó vừa lặng, nó không có trạo cử nữa thì nó gục mình, còn hễ mà nó trạo cử mình cứ ngồi đi, mình ngồi mình tu thì nó mau lắm. Thì Thầy nói đây là nói hai cái trường hợp khi mà chúng ta dùng cái “an tịnh tâm hành” chúng ta phá cái trạo cử này rồi, mà khi nó dừng cái trạo cử rồi coi chừng cái hôn trầm nó sẽ tới. Nó tới thì bắt đầu đó mình đứng dậy mình cũng dùng cái hơi thở để mình phá nó đi, phá luôn cái si đó.

Sư Phước Nhẫn: Thành ra như cái lý là tức là cái kiểu cái câu là: “An tịnh cảm giác” đó là mình tác ý.

Trưởng lão: Ừ.

Sư Phước Nhẫn: Mình Như Lý Tác Ý là mình dùng cái đề mục mình tác ý.

Trưởng lão: Tác ý.

Sư Phước Nhẫn: Rồi cái hơi thở nào mà để vô Sơ Thiền Thầy?

Trưởng lão: Cái hơi thở Sơ Thiền đó thì…​

Sư Phước Nhẫn: Không mình…​ Cũng như chìa khoá mình vô Sơ Thiền là dùng Định Niệm Hơi Thở?

Trưởng lão: Coi như là cái hơi thở mà nó sẽ vô Sơ Thiền là cái hơi thở tự khi mà ly dục ly ác pháp hoàn toàn, nó thay đổi toàn bộ hơi thở đó nó sẽ vào, chứ còn bây giờ nó mình không có cái hơi thở nào mà vào hết. Hiện bây giờ cái hơi thở mình không có cái hơi thở Sơ Thiền, cũng như chưa có nó thì không có làm sao mình tu được hết, mà hễ mình ly dục ly ác pháp hoàn toàn hết rồi, thì tự nó xuất hiện cái hơi thở nó Sơ Thiền đó.

Sư Phước Nhẫn: Cũng như hồi đó Thầy nói cái hơi thở là cái chìa khoá để vô Sơ Thiền.

Trưởng lão: Ừ.

Sư Phước Nhẫn: Cái hơi thở đó là tự nó có hay là mình tu tập nó?

(1:24:52) Trưởng lão: Mình tu tập nó sẽ có, bây giờ mình tu tập, mình có nương vào cái hơi thở mình đang có của bình thường của mình đây, thì mình tu tập. Cho nên nó là cái chìa khoá để mình mở vào cái ổ khoá của cái hơi thở mà Sơ Thiền. Con hiểu không?

Bây giờ đây là cái chìa khoá nè, cái hơi thở mình đang thở đây là chìa khoá, cho nên mình điều khiển nó dài hay ngắn theo cái ý của mình rồi. Mà khi đó đó mình điều khiển cho cái cả thân tâm của mình theo những cái đề mục của Định Niệm Hơi Thở đó, thì mình đều nương vào hơi thở, rõ ràng nó là cái chìa khoá rồi, có phải đúng không?

Sư Phước Nhẫn: Dạ.

Trưởng lão: Rồi bắt đầu bây giờ tới mình mở cửa thì nó là cái ổ khoá của nó, tức là cái hơi thở này là hơi thở của Sơ Thiền, cái ổ khoá của nó để mình vào cửa.

Sư Phước Nhẫn: Vậy là mình phải thực tập hết mười tám cái đề mục.

Trưởng lão: Mười tám cái đề mục. Do đó nó mới ly dục ly ác pháp hoàn toàn, thì bắt đầu cái hơi thở của Sơ Thiền nó mới xuất hiện. Khi mà nhập Sơ Thiền thì cái hơi thở nó mới xuất hiện.

Sư Phước Nhẫn: Mình mới hướng tâm nhập Sơ Thiền?

Trưởng lão: Ừ. Thì lúc bấy giờ nếu mà tâm mình, khi mà nó cái Trạch Pháp Giác Chi đó, cái Trạch Pháp Giác Chi tức là cái ý muốn của mình nó khởi ra rồi, thì mới bảo là bây giờ đó cái thân và tâm phải nhập vào cái Sơ Thiền thì ngay đó cái hơi thở nó xuất hiện liền. Tức là nó ly dục ly ác pháp, do ly dục sanh hỷ lạc rồi thì ngay đó, thì ngay cái hơi thở nó xuất hiện để cho mình nhập vô. Thì chỉ có cái Trạch Pháp Giác Chi nó mới chỉ định cho mình vào Sơ Thiền nó mới là trọn vẹn thôi, chứ còn sự thật mình tập chứ mình chưa nắm vững đâu, tới cái Trạch Pháp Giác Chi nó muốn nhập cái nào, định nào đó Dục Như Ý Túc, mà Định Như Ý Túc, nó chỉ định vô cái Sơ Thiền thì bắt đầu đó mới thấy được cái hơi thở liền thôi. Chứ còn bây giờ thì mình không làm được đâu.

Sư Phước Nhẫn: Thành ra lúc trước con nghe nói cái hơi thở là cái chìa khoá để nhập Sơ Thiền, mà không biết hơi thở nào?

Trưởng lão: Thì đó hơi thở của bài Định Niệm Hơi Thở đó.

Sư Phước Nhẫn: Nghĩa là hết mười tám cái đề mục?

Trưởng lão: Hết mười tám cái đề mục này.

Sư Phước Nhẫn: Rồi mình mà muốn vô Sơ Thiền là mình phải nhuần nhã mấy cái này hết?

Trưởng lão: Nhuần nhã hết.

Sư Phước Nhẫn: Rồi mình ngồi lại cái mình nhuần hết cái này, cái chừng nào cái trạch pháp nó xuất hiện rồi mình mới tác ý vô liền.

Trưởng lão: Mình tác ý vô cái nó vô liền, chứ không phải là mình tu rồi mình phải còn đi hết mười tám cái đề mục thiền này mình mới được, thì không phải vậy, nó có trạch pháp rồi, nó xuất hiện rồi thì bắt đầu mình cứ sử dụng nó, giờ muốn Sơ Thiền cái mình ra lệnh cái nó vô.

Sư Phước Nhẫn: Ủa vậy thì còn cái đường đi mà Tứ Niệm Xứ đi vô Sơ Thiền nữa là sao Thầy?

(01:27:02) Trưởng lão: Thì cái đường đi Tứ Niệm Xứ coi như là hoàn toàn là cái Định Niệm Hơi Thở này nó nằm ở cái giai đoạn đầu của Tứ Niệm Xứ rồi. Con thấy không? Cái giai đoạn đầu là Tứ Chánh Cần chứ gì? Ở trên Tứ Niệm Xứ, sau đó mình tu tập đâu phải chuyện dễ đâu, nói vậy chứ đâu phải chuyện dễ. Mười sáu cái đề mục này chưa chắc là mình đã đạt trọn vẹn đâu. Cho nên vì vậy đó sau khi mình đạt được cái phần nào đó ở trên cái này thì nó trợ giúp cho mình, để mình tiến tới cái giai đoạn thứ hai của nó, mình tu Tứ Niệm Xứ trên Tứ Niệm Xứ, thì mình khắc phục thì sau đó mình mới trở lại cái Định Niệm Hơi Thở, thì mình mới hoàn tất được những cái kết quả của trên những cái mà đề mục của nó mình chưa có đạt được. Chứ không phải là con đạt hết nổi đâu.

Sư Phước Nhẫn: Nói vậy chứ cũng phải câu hữu Tứ Niệm Xứ.

Trưởng lão: Câu hữu hết đó, Tứ Niệm Xứ chứ không phải tu riêng nó nổi mình nó đâu. Nó cả một cái hệ thống của người ta mình đâu có lấy riêng ra được, mặc dù nó đưa cái Định Niệm Hơi Thở này nó như vậy đó, nhưng mà sự thật ra thì mấy con phải tu với Định Vô Lậu, con câu hữu với nó con mới thấy con mới đạt được những kết quả của đề mục nó. Rồi như vậy mà chưa đâu, chưa có đạt được kết quả của cái đề mục của Định Niệm Hơi Thở này trọn vẹn đâu, vì vậy mà con phải câu hữu đến Tứ Niệm Xứ, con phải tu Tứ Niệm Xứ nè.

Rồi mới có đạt được một phần nào đó tới Thân Hành Niệm mới là: “Với tâm định tĩnh” chứ đâu có ở trên cái Định Niệm Hơi Thở mà con tác ý: “Với tâm định tĩnh tôi biết tôi hít vô, với tâm định tĩnh tôi biết tôi thở ra”, nó làm sao có định tĩnh nổi, nó phải đi tới Thân Hành Niệm của nó, nó mới định tĩnh được, nó Bảy Giác Chi mới xuất hiện từ ở chỗ này. Cho nên đâu có…​ Nếu mà riêng nó thì ông Phật ông cho mình cái Định Niệm Hơi Thở rồi, mình tới “Tâm định tĩnh” nó xuất hiện Bảy Giác Chi thì cần gì phải tu Tứ Niệm Xứ, Thân Hành Niệm nữa làm gì? Con hiểu chỗ đó không?

Sư Phước Nhẫn: Cái này cần phải cái giáo trình Thầy ơi. Chứ còn như vậy con rối quá …​

(01:28:33) Trưởng lão: Bởi vậy nó đâu có đơn giản đâu. Nó cái hệ thống của nó, hệ thống Định Niệm Hơi Thở thì nó luôn vậy đó, chứ mà tới cái đề mục đó mà muốn đạt được thì phải qua cái tu tập cái gì nó mới đạt được cái đó, chứ không phải là muốn vô cái đó mà nó kết quả được liền đâu. Nhưng mà cái hệ thống của nó là hệ thống Định Niệm Hơi Thở là nó như vậy đó.

Mà tới đó mình thấy mình vô cái đó không được đó, thì mình phải trình với Thầy: “Bây giờ con vô cái chỗ này, cái đề mục của Định Niệm Hơi Thở này, con tác ý mà sao nó không có đạt được cái này”. Thì bắt đầu cái ông thầy người ta biết, người ta dẫn cho con phải tu cái này nè, để cho nó hoàn thành được cái này, cái đề mục này.

Sư Phước Nhẫn: Dạ. Chứ không phải là mình vô là được?

Trưởng lão: Không phải vô là được, Thầy nói nội dẫn mà nó cảm giác, rồi dẫn mà an tịnh nó Thầy thấy nó cũng mất hết cái hơi mình rồi. Chứ chưa nói “quán ly tham”“quán ly sân" đó, mà Thầy nói nhiều khi chưa chắc đã là có cái cảm giác đẩy được rồi. Coi thì nó vậy đó, chứ mà tu tập nó cả một cái quá trình đó và đồng thời phải có một vị thầy người ta hướng dẫn cho mình, người ta biết được trong lúc đó mình bị kẹt ở cái chỗ này, mình không kết quả. Mà mình phải thành thật, chứ mình nói mình cứ kết quả, kết quả cuối cùng đó mình không kết quả cái gì hết.

Sư Phước Nhẫn: Kết quả tưởng không.

Trưởng lão: Kết quả tưởng đó, nó không có kết quả đâu. Phải kết quả thật sự, mình thấy thật sự, thì mình mới dám xin Thầy lên cái đề mục khác.

Còn nếu mà trong cái đề mục đó mình tu thời gian một tuần lễ hay hoặc là nửa tháng mình thấy không kết quả, bây giờ mới xin Thầy bây giờ con tu sao nó chưa kết quả thì Thầy sẽ biết cách Thầy đưa cho cái pháp, rồi con tu cái pháp đó cho có kết quả cái đề mục đó. Rồi bắt đầu mới tới cái đề mục khác, nó mới có đi qua được, chứ còn không khéo đi qua không nổi cái đường này.

(1:30:02) Sư Phước Nhẫn: Con cũng thích tu mấy cái này lắm, hồi nào chưa có hoàn cảnh là cái này này.

Trưởng lão: Tu hay lắm, tu pháp nào nó có kết quả pháp nấy rõ ràng à. Con tu cái đề mục thiền đó kết quả, mà nếu không kết quả thì phải thưa thầy: “Bây giờ con tu sao nay một tháng rồi mà sao nó không có kết quả cái đề mục này, làm sao cho nó có kết quả?”. Thì lúc bây giờ đó cái người thầy, người ta biết là bây giờ tu cái đề mục này mà không kết quả thì người ta dẫn mình lại cái chỗ này.

Còn thí dụ như mới vô đầu mà con dẫn tâm mà sao nó cứ có vọng tưởng hoài thì người ta dạy cho con, nghĩa là cách thức người ta dạy cho con bằng từng hơi thở, với con phải là tập trung kỹ lưỡng từng hơi thở thì nó sẽ, con dẫn tâm vào được hơi thở. Cách thức của người ta hướng dẫn mà người ta phải có trải qua cái kinh nghiệm, người ta hướng dẫn cho mình đạt được cái chất lượng của nó, để sau khi cái chất lượng được cái kết quả của cái đề mục đầu, thì mình mới đi qua được cái đề mục thứ hai. Chứ còn đề mục đầu mà chưa kết quả, mà nhào qua đề mục thứ hai thì kể như là có ăn nhằm nhò gì đâu, nó không kết quả thì cái đề mục thứ hai thì tu chơi vậy mà không tới, không nổi.

Sư Phước Nhẫn: Nghĩa mình cái giai đoạn mà tu tập Tứ Chánh Cần đó Thầy, thì cái tu xả tâm đó cái đời sống mình là như thế nào? Có cần phải là độc cư hay là tiếp duyên hay là vẫn bình thường?

Trưởng lão: Coi như là bắt đầu vào tu mà trên Tứ Niệm Xứ thì coi như là chúng ta độc cư hoàn toàn hết.

Sư Phước Nhẫn: Tứ Chánh Cần hết?

(01:31:19) Trưởng lão: Tứ Chánh Cần chúng ta cũng độc cư rồi đó, vô tu là bắt đầu mà tu Tứ Chánh Cần là độc cư rồi, bởi vì cái phương pháp độc cư là phòng hộ rồi, mình giữ tâm mình đừng có phóng dật, chứ còn mà nếu mà mình vô tu mà mình không phòng hộ mình giữ tâm mình thì kể như nó bị phóng dật, rồi mình nhiếp vô nó không vô đâu.

Sư Phước Nhẫn: Thành ra xả tâm là cũng phải độc cư luôn?

Trưởng lão: Phải độc cư luôn hết.

Sư Phước Nhẫn: Nghĩa là toàn bộ là phải độc cư? …​

Trưởng lão: Phải độc cư luôn hết mình mới vô được, chứ còn mà nếu không độc cư vô không được.

Sư Phước Nhẫn: Còn tiếp duyên là không có tu được?

Trưởng lão: Ờ, không được rồi. Tiếp duyên không được. Bởi vậy hội họp nói chuyện này kia thì coi như là không được rồi, phóng dật hết, mà nó phóng rồi thì khó tu lắm, nó không vô, tu không kết quả đó. Tu không kết quả.

(01:32:00) Sư Phước Nhẫn: Còn câu hỏi số năm, kỳ rồi con chưa có rành, xin Thầy diễn tả chi tiết hai cái trường hợp. Cái trường hợp thứ nhất là: Tâm định trên hơi thở, còn trường hợp thứ nhì là: Cũng như tâm định trên thân, thân định trên tâm đó.

Trưởng lão: Ừ.

Sư Phước Nhẫn: Tâm định trên thân là như thế nào, cái trạng thái sao?

Trưởng lão: Tâm định trên thân tức là nói về trạng thái, thì khi nào mà người nào mà ly dục ly ác pháp người ta mới thấy được cái trạng thái đó. Còn mình chưa ly dục ly ác pháp thì mình không thấy, mà tâm định trên thân tức là cái Sơ Thiền chứ không có gì hết.

Nghĩa là cái tâm của mình nó định ở trên cái thân, mà nó định ở trên cái thân lúc bây giờ thì nó định trên thân hành của nó, cho nên ví dụ như bây giờ mình ngồi đây, mà luôn luôn cái tâm mình nó luôn luôn ở trên cái hơi thở của mình mà nó không phóng tâm, phóng dật thì đó là tâm định trên thân. Cho nên vì vậy nó là cái Sơ Thiền rồi, khó, khi mà nó đã định như vậy rồi, thì hoàn toàn là cái người đó phải ở trong cái trạng thái hỷ lạc của cái người ly dục rồi, cho nên vì vậy mà cái trạng thái rất tuyệt vời. Thầy nói, người nào mà chưa có nếm được cái mùi vị này thì chưa có biết cái Sơ Thiền ra cái ôn gì hết đâu. Còn cái người nào mà đã nếm được cái mùi vị này, mới thấy được thân tâm của chúng ta khi mà ở trong cái trạng thái này rồi, nó nhẹ bâng.

HẾT BĂNG

Pháp Âm - 2000 - SƯ PHƯỚC NHẪN VẤN ĐẠO 03 - THIỀN CỦA ĐẠO PHẬT

2000 - SƯ PHƯỚC NHẪN VẤN ĐẠO 03 - THIỀN CỦA ĐẠO PHẬT

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 2000

Thời lượng: [1:25:31]

1- TÂM ĐỊNH TRÊN THÂN

(0:00) Sư Phước Nhẫn: Hơi định trên thân, là lúc đó cái hơi thở mình nó bị ghịch vô. Còn cái trạng thái Khinh An Giác Chi, Hỷ Giác Chi nó xuất hiện. Mà cái đó cũng là một cái khía cạnh nhỏ thôi.

Trưởng lão: Cái khía cạnh nhỏ thôi. Tức là…​

Sư Phước Nhẫn: Như là nói ai cũng nhập Sơ Thiền được hết, mà nó chưa sung mãn mà mình được một, hai phút hay một tiếng, hai tiếng vậy đó.

Trưởng lão: Cái đó mới tu, nó mới xuất hiện bằng cái trạng thái tưởng, nhưng mà cũng là khinh an…​

Sư Phước Nhẫn: Cái đó cũng là cái trạng thái Sơ Thiền?

Trưởng lão: Cũng cái trạng thái Sơ Thiền.

Sư Phước Nhẫn: Con nghĩ đó là Sơ Thiền tưởng thôi.

Trưởng lão: Sơ Thiền tưởng đó. Nó chưa có ly hết hoàn toàn, cho nên cái tưởng nó phải hiện ra thôi. Chứ không có gì hết, nhưng mà nó chưa có chắc đâu, nó phải đi tới cái giai đoạn cuối cùng của nó mới trạch được.

Sư Phước Nhẫn: Thấy cái bóng dáng của nó…​

Trưởng lão: Đó, cái đó là cái bóng dáng đó. Đó, cái đó là cái đúng rồi. Cái bóng dáng của Sơ Thiền.

Sư Phước Nhẫn: Thì ba năm trước con cũng có cái trường hợp đó, con muốn hỏi Thầy là: Mình đang ngồi vậy không có dùng pháp tác ý, mình thanh thản tự nhiên cái nó ghịch vô hơi thở. Đó nó ghịch vô hơi thở mình thấy lạ, sao kỳ tự nhiên hơi thở nó ghịch vô. Mà mình muốn ra, ra cũng không được nữa.

Trưởng lão: Nó định. Nó định vô hơi thở.

Sư Phước Nhẫn: Rồi cái bắt đầu cái thân nó nhẹ nhàng, nó tươi sáng lắm, mà như nó bình thường, chứ không thấy nó lạ. Đó, mình: “Ủa, sao cái này ngộ dữ vậy?”. Đó rồi con mới chắc: “Chắc nó vô rồi”.

Trưởng lão: Thì đó, nó vô Sơ Thiền đó, nhưng mà Sơ Thiền tưởng.

Sư Phước Nhẫn: Dạ.

Trưởng lão: Bởi vì trong Bốn Thiền, nó có bốn cái thiền của ngoại đạo và bốn cái thiền của Phật.

Sư Phước Nhẫn: Nhưng mà con không có tác ý. Tự nó vô à.

Trưởng lão: Không có tác ý. Bởi vậy, khi mà tác ý, mình mới làm chủ, mình vô. Còn không có tác ý mà nó vô đó là bị tưởng. Đó phải hiểu chỗ đó.

Sư Phước Nhẫn: Sao nó vô rồi mà…​

Trưởng lão: Cho nên vì vậy mà nó vô rồi, mà bây giờ mình muốn nữa thì không được.

Còn khi mà ta dùng cái pháp tác ý đó, người ta vô đó, do cái ý thức người ta điều khiển nó vô, cho nên vì vậy người ta muốn vô hồi nào nó cũng được là vì người ta có cái đường đi.

Còn cái kia nó không có đường đi, bỗng dưng nó mình ngồi yên tịnh chơi vậy thôi, cái bắt đầu nó vô. Nó vô rồi cái nó hết hạn của nó, nó hết thời hạn của nó cái nó ra. Nó ra, giờ mình muốn vô, vô cũng không được. Cái đó nó thuộc về cái…​

(01:52) Sư Phước Nhẫn: Cái ông Sư Nghiệp, ông cũng diễn tả cái lúc ông vô là ông nói: Lúc đó nhìn cái tâm mình như cái khối kim cương vậy đó, không thể phóng dật được.

Trưởng lão: Đúng rồi đó.

Sư Phước Nhẫn: Ở ngoài nó không có tác động vô mình được. Nó làm như kim cương vậy đó.

Trưởng lão: Đúng vậy.

Sư Phước Nhẫn: Nên mình an trú cái đó, không có cái nào ở ngoài mà tác động mình phóng dật được hết trơn. Nên kéo dài đến được hai tiếng, sau nó xuất.

Trưởng lão: Nó mất. Cũng nó, nó cũng ra à, bởi vì nó không có cái cách thức để làm chủ đưa nó vào. Còn cái phương pháp của Phật rõ ràng mình thấy trên cái Định Niệm Hơi Thở của Đức Phật đã dạy mình cách thức, để cho mình vào là mình làm chủ mình đi vào.

Sư Phước Nhẫn: Con muốn biết trạng thái nó thôi. Là cái trạng thái lúc đó, là cái hơi thở nó ghịch mình vô, làm như nó buộc mình thở theo nó vậy đó.

Trưởng lão: Đúng vậy.

Sư Phước Nhẫn: Chứ nó không có theo mình.

Trưởng lão: Tức là nó bắt cái tâm nó định trên cái hơi thở.

Sư Phước Nhẫn: Dạ.

Trưởng lão: Nó định trên hơi thở, tức là tâm định trên cái thân nó.

Sư Phước Nhẫn: Mà mình nhẹ nhàng lắm.

Trưởng lão: Đúng rồi. Thì lẽ đương nhiên là hễ nó chịu đựng ở trên đó thì bất kỳ tưởng hay là mình dẫn nó vào mà nó được rồi, thì nó cũng y như nhau, cái trạng thái như nhau. Nhưng mà tưởng là mình không có chủ động được, khi có khi không, cho nên Thầy mới nói nó tưởng.

2- THÂN ĐỊNH TRÊN TÂM

(02:55) Sư Phước Nhẫn: Cái trạng thái thứ nhì là cái thân định trên tâm nè.

Trưởng lão: Thân định trên tâm là khi nào mà cái thân nó không còn thở nữa. Tức là Tứ Thiền rồi mới là gọi là thân định trên tâm.

Sư Phước Nhẫn: Chứ không phải là Sơ Thiền?

Trưởng lão: Không phải Sơ Thiền đâu. Sơ Thiền thì không bao giờ mà cái thân định được. Cho nên cái thân mà nó không thở nữa, không hoạt động được nó mới gọi là định. Cho nên nó định lên chỗ nào? Nó định lên chỗ cái tâm của nó. Cái tâm mà nó không tham, sân, si đó. Còn cái tâm tham, sân, si thì nó không có định được đâu.

Cho nên vì vậy mà cái tâm của chúng ta còn tham, sân, si thì không bao giờ mà chúng ta nhập được Nhị Thiền. Tức là cái thân nó không định được ở trên cái tâm đó đâu. Mà phải cái tâm hoàn toàn ly dục, ly ác pháp, hoàn toàn là cái tâm nó đã thanh tịnh rồi, thì lúc bấy giờ cái thân nó mới tịnh chỉ được hơi thở nó mới nhập được. Đó hiểu được như vậy thì mới thấy được cái đặc biệt của đạo Phật.

Sư Phước Nhẫn: Thân định trên tâm.

Trưởng lão: Ừ.

Sư Phước Nhẫn: Là trạng thái của Tứ Thiền?

Trưởng lão: Trạng thái Tứ Thiền hết.

Sư Phước Nhẫn: Nhị Thiền với Tam Thiền nó không có gì hết?

Trưởng lão: À nó không có đâu. Sơ Thiền thì tâm định ở trên thân, tức là định trên cái hành của cái thân, tức là định trên hơi thở.

Sư Phước Nhẫn: Nhị Thiền.

Trưởng lão: Còn Nhị Thiền nó diệt rồi, đâu còn nữa. Bắt đầu Nhị Thiền nó thuộc về thân rồi, nó thuộc về định thân rồi.

Sư Phước Nhẫn: Diệt tầm tứ.

Trưởng lão: Nó mới diệt tầm tứ, nó diệt sáu căn của nó rồi: Mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý nó hết. Nó diệt, nó không có hoạt động, cho nên nó rơi vào toàn bộ là nó rời vào ở trong cái hệ tưởng rồi. Coi là Nhị Thiền là khi mà mình nhập Nhị Thiền là mình rơi vào cái thế giới tưởng. Toàn bộ là cái tâm của mình, lúc bấy giờ tâm tưởng, chứ nó không phải là còn ý thức nữa.

Sư Phước Nhẫn: Thân định trên tâm là cái trạng thái Tứ Thiền?

Trưởng lão: Trạng thái Tứ Thiền.

Sư Phước Nhẫn: Nhưng mà, bốn cái câu mà nhập Tứ Thiền, hai câu chót con không hiểu Thầy.

Trưởng lão: Hai câu chót như nào?

Sư Phước Nhẫn:

Như đèn sáng chợt tắt

Tâm giải thoát Niết Bàn

“Như đèn sáng chợt tắt” là sao? Cái tâm lúc đó viết con thấy kỳ quá.

(04:46) Trưởng lão: Bởi vì, “Như đèn sáng chợt tắt” như mình đây, mình đang sống, đang biết rõ ràng, đang hiểu, đang nghe, bỗng dưng nó tối thui ra, tức mất luôn hết đó, như đèn sáng chợ tắt. Tắt là tối thui hết rồi.

Sư Phước Nhẫn: Vậy là nó không có nghĩa bóng?

Trưởng lão: Nó không có cái nghĩa bóng gì, nó tối thui hết hoàn toàn, nhưng mà nó không mất. Nó hay là cái chỗ đó.

Bởi vì thí dụ như bây giờ, Thầy nói như thế này thấy rõ nè. Nhập vào cái Tứ Thiền đó, nó cái trạng thái của nó như thế này. Mình đang biết, đang rõ ràng cũng như cái ngọn đèn đang sáng. Đức Phật đã ví dụ, đã so sánh được cái chỗ này rất rõ. Như cái ngọn đèn nó đang cháy, ánh sáng nó tỏa khắp mọi nơi, đang rõ ràng mình đang biết mà. Mà khi hơi thở nó vừa ngưng một cái là nó tối đen hết, hoàn toàn nó không có còn cái chỗ nào mà gọi là biết nữa hết, nó chỉ còn cái tác ý thôi, nó chỉ còn cái pháp hướng thôi. Lúc bấy giờ nó hướng ra cái mình biết có, mà nó không hướng thì nó mất hết, không còn gì hết. Nhưng mà nó không phải là nó…​ Cái trạng thái của nó lúc bấy giờ nó tuyệt vời, nó gấp trăm ngàn lần cái trạng thái của Sơ Thiền, hỷ lạc của Sơ Thiền.

Sư Phước Nhẫn: Là mình thật cảm giác cái đó…​

Trưởng lão: Nó cảm giác chứ. Bởi vì cái cảm giác mà chúng ta luyện, cảm giác toàn thân, cái cảm giác nó còn.

Sư Phước Nhẫn: Rồi qua Tam Thiền nó đã xả thọ rồi…​

Trưởng lão: Nó xả thọ, nó xả tưởng rồi, nó ly tưởng rồi. Cái cảm giác này là cảm giác của thức uẩn rồi. Bởi vì con thấy cái tưởng nó cũng còn có cái cảm giác của tưởng khi mình nằm chiêm bao chứ gì? Thì cái thức uẩn này nó hoạt động rồi, thì ở Tứ Thiền thì nó mới sống dậy, nó hoạt động thì cảm giác của thức uẩn, chứ đâu phải là của tưởng uẩn, của ý thức nữa đâu. Con hiểu chỗ này chưa?

Bởi vì cái thọ của cái tâm này nó vẫn còn, chứ nó đâu có diệt được. Nó cái thọ của tưởng nó cũng còn, khi mà ý thức con ngủ ha, thì con chiêm bao thì cái thọ của cái tưởng nó có mà. Cho nên mình đánh thức được cái tâm thức, thức uẩn đó, thì khi mà thức uẩn nó hoạt động là khi nhập Tứ Thiền, cái thức uẩn nó mới sống dậy, nó mới hoạt động, cho nên nó có cái cảm giác của nó, cho nên nó tuyệt vời hơn là tất cả những cái…​

Sư Phước Nhẫn: Tưởng.

Trưởng lão: Bởi vậy.

Sư Phước Nhẫn: Vậy là Tứ Thiền …​ (Không nghe rõ).

(06:47) Trưởng lão: Nó không phải tưởng, nó thuộc về tâm thức của nó rồi. Nó thuộc về tâm thức chứ không phải tưởng. Tưởng là dừng, ly rồi. Ly hồi ở Tam Thiền nó ly cái tưởng rồi. Cho nên cái cảm giác tưởng nó không còn nữa, mà đây là cái cảm giác của tâm thức, thức uẩn đó, cảm giác của tâm. Đây bây giờ mới nói tâm, chứ không phải ý nữa rồi.

Hồi đầu tiên thì chúng ta dùng ý phải không? Là sắc, thọ, tưởng, hành, thức, ý thức đó. Thì tới cái tưởng là chiêm bao chứ gì? Bây giờ tới cái thức uẩn nè, là tâm rồi đó. Bây giờ cái này mới thật sự gọi là tâm, mà cảm giác của tâm rồi đó. Đó chính cái chỗ này là mới cái chỗ mà dẫn tâm vào Tam Minh: Túc Mạng Minh, Thiên Nhãn Minh…​

Sư Phước Nhẫn: Vậy là cũng có cái thọ, mà thọ của tâm?

Trưởng lão: Thọ của tâm, nó không phải thọ của tưởng, mà không phải thọ của ý thức nữa.

Sư Phước Nhẫn: Vậy nó chia làm ba phần: Thọ của sắc, thọ của tưởng và thọ của tâm. Vậy là ba cái thọ.

Trưởng lão: Ba cái thọ. Bởi vậy Thầy nói ba cái biết rõ ràng mà. Mà thọ với hành nó đều mang theo hết. Thí dụ như bây giờ về ý về sắc thức của mình đó thì nó có cái thọ với cái hành của sắc, cho nên cái thân mình có cảm thọ đó. Rồi về tưởng đó thì nó cũng có cái hành và cái thọ của tưởng. Rồi về cái tâm thức đó thì nó cũng có cái hành và cái thọ của tâm thức, chứ làm sao mình bảo diệt cái này. Mấy cái uẩn này nó còn đeo theo nhau đó.

Cho nên khi mà vào Tứ Thiền nói tôi mất, đâu mà mất, không có mất đâu. Tôi, cái tâm thức tôi còn tuyệt vời hơn nữa. Lúc bấy giờ, mình mới sống là không có không gian, thời gian mà với thực tế, còn cái tưởng nó, nó chỉ là cái ảo giác thôi, nó không thực. Bởi vì đến chỗ này, tôi đến chỗ này mới thấy tuyệt vời.

3- THIỆN XẢO NHẬP ĐỊNH - THIỆN XẢO AN TRÚ - THIỆN XẢO SỐNG TRONG ĐỊNH

(08:15) Sư Phước Nhẫn: Câu số sáu, Thầy bữa hôm Thầy có nói là có ba cách nhập Sơ Thiền:

Thứ nhất là: Thiện xảo nhập định.

Thứ nhì là: Khéo léo an trú.

Thứ ba là: Thiện xảo sống trong định.

Cái pháp thứ nhất là Thiện xảo nhập định đó Thầy.

Trưởng lão: Bây giờ: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”, đó là cách thức thiện xảo để nhập định, để tức là cái tâm mình biết hơi thở ra vô, chứ không gì. Đúng không?

Sư Phước Nhẫn: Cái thiện xảo nhập định, mà Thầy nói là khéo léo ly dục, ly bất thiện pháp để vào Sơ Thiền.

Trưởng lão: Ừ. Thì mình khéo léo đó. Mình khéo léo mà thôi bây giờ mình dẫn cái tâm của mình, rồi bắt đầu đó bây giờ mình dẫn vào biết cái hơi thở. Đây là cái giai đoạn đầu của mình để mà thiện xảo, để mà nhập định đó ha, thì đây là cái đề mục thứ nhất nè.

Rồi tới cái đề mục thứ hai nè là hơi thở thông suốt nè, cũng là thiện xảo nè, mà để mà nhập định nè. Rồi cái: “Hơi thở…​ cảm giác toàn thân” nè, cũng là cái thiện xảo để mà nhập định nè. Chứ chưa phải nó…​ Đâu phải một cái pháp, một cái đề mục này mà nhập được liền đâu. Cho nên nó chưa khinh an, chưa có hỷ lạc thì nó làm sao mà gọi là nhập vào Sơ Thiền được.

Nó nhập vô nó phải có khinh an, hỷ lạc. Cho đến khi mà an tịnh thân hành, an tịnh tâm hành đó, bắt đầu đó nó mới có nhập được đó. Thấy chưa? Nó có hỷ lạc rồi đó. Đó mình dẫn cho tới đó đó, nó mới có được cái hỷ lạc của nó, mà hỷ lạc của nó là bắt đầu mình mới nhập thôi. Nhưng mà mình an trú được nó, là phải ly tham, sân, si cho sạch hết nó mới an trú được. Nó an trú được cái khoảng thời gian nó vậy chứ nó sống chưa được đâu. Phải không?

Rõ ràng là đầu tiên đó, thiện xảo mà nhập định phải không? Đó bây giờ thiện xảo nhập định, thì nó mấy cái đề mục đầu tiên cho tới khi mà: “An tịnh tâm hành, tôi biết tôi hít vô. An tịnh tâm hành, biết thở ra”. Đây là nó mới thiện xảo mà nhập được định thôi. Sáu, bảy cái đề mục của Định Niệm Hơi Thở mà mình thiện xảo mình vô chứ chưa chắc đã là mình, khó vô chứ không phải dễ đâu.

Rồi bắt đầu bây giờ vô được cái Sơ Thiền rồi, mới có nhập vô thôi, nhưng mà bây giờ an trú kéo dài ra chứ đâu phải nhập vô rồi cái nó mất liền, chút cái nó mất á. Không khéo mình không có thiện xảo mà để an trú nó thì nó sẽ mất. Nhập vô được mà không thiện xảo là nó mất. Phải không? Có đúng không? Rồi bây giờ đó mình thiện xảo để kéo dài nó thì phải quán ly tham, quán ly sân đó. Đó là cách thức thiện xảo để cho nó an trú.

Sư Phước Nhẫn: Tiếp tục vầy dùng hơi thở …​ (Không nghe rõ).

(10:30) Trưởng lão: Dùng hơi thở mà để mà ly tham, ly sân, si. Cho nó đến khi mà nó định tĩnh được đó, thì lúc bây giờ nó mới là an trú ở trong cái định một giờ hay hoặc hai giờ tùy theo. Khi mà dùng cái phương pháp này đó mình mới an trú được. Rồi bây giờ mới xả ra, mà cách thức mà để thiện xảo đó, để mà cho nó sống ở trong định là cái khó nhất đó, chứ không phải dễ. Mình sống mình không có nhập định, không có gì hết mà luôn luôn nó sống, nó sống ở trong cái trạng thái của Sơ Thiền.

Sư Phước Nhẫn: Cái đó tu pháp nào Thầy?

Trưởng lão: Đó bắt đầu mới tu cái Thân Hành Niệm, nó mới là thiện xảo, nó mới Bảy Giác Chi xuất hiện, mới mình mới sống được. Chứ không phải dễ đâu, nó thiện xảo, nó có pháp đàng hoàng, chứ không phải là nó thiện xảo là mình khéo léo như thế nào mà vô được đâu. Nó có pháp để mà thiện xảo. Thầy nói vậy con có hiểu chưa? Đó nó có từng pháp chớ, thiện xảo để nhập, phải biết cái pháp nào mình thiện xảo để nhập.

Sư Phước Nhẫn: Thành ra con, ý con muốn hỏi Thầy ba cái giai đoạn thì mình có ba pháp, để mà nhập ba cái giai đoạn, là cái giai đoạn thứ nhất là thiện xảo nhập định là mình tu cái pháp nào?

Trưởng lão: Thiện xảo mà nhập định đó thì mình tu từ cái đề mục mà thứ nhất đó, cho đến cái đề mục mà an tịnh tâm hành. Đó là mình thiện xảo, mình nhập định rồi.

Sư Phước Nhẫn: Rồi giai đoạn thứ hai là khéo léo an trú là tu cái pháp nào?

Trưởng lão: Mình khéo léo mà thiện xảo để cho mình an trú được đó, thì bắt đầu tiếp tục từ cái quán ly tham, quán ly sân cho đến khi mà với tâm giải thoát, hay với tâm định tĩnh đó, thì đó là cái giai đoạn an trú.

Sư Phước Nhẫn: Rồi đó mình xả ra.

Trưởng lão: Xả ra. Rồi bắt đầu bây giờ đó mình xả ra, mà mình muốn sống ở trong cái thiền định đó, thì mình thiện xảo, khéo léo thiện xảo để cho mình sống được ở trong cái thiền định. Thì lúc bấy giờ đó tập cái pháp Thân Hành Niệm thì nó sẽ Bảy Giác Chi nó xuất hiện ra, thì tức là mình thiện xảo, mình sống ở trong định được rồi. Thấy chưa? Thấy cái pháp chưa? Nó rõ ràng.

Sư Phước Nhẫn: Thành ra lúc đó là mình, Thân Hành Niệm mà nó tròn rồi là dẹp luôn, lúc đó…​

(12:28) Trưởng lão: Là coi như là mình, coi như là Thân Hành Niệm mà tròn rồi, coi như là mình thiện xảo là sống trong định rồi.

Sư Phước Nhẫn: Vậy là mình ở đó luôn?

Trưởng lão: Ở luôn. Coi như là luôn luôn…​

Sư Phước Nhẫn: Khỏi xuất gì hết?

Trưởng lão: Khỏi xuất khỏi nhập gì hết. Bởi vì sống mà. Cho nên kinh sách của Phật dạy rất cụ thể rõ ràng lắm: thiện xảo nhập định nè, thiện xảo an trú nè, thiện xảo sống trong định nè. Có đúng không? Mà người ta không biết pháp nào. Có phải thuở giờ con đọc kinh con biết pháp nào mà thiện xảo nhập định chưa? Chưa biết nè.

Sư Phước Nhẫn: Dạ.

Trưởng lão: Mà định của Sơ Thiền thì nó phải do ly dục sanh hỷ lạc, mới nhập Sơ Thiền. Mà giờ mình không hỷ lạc, làm sao mình gọi mình nhập cho được, mình nhập được Sơ Thiền. Cho nên người ta dẫn tới an tịnh tâm hành, an tịnh thân hành thì người ta mới có hỷ lạc. Hỷ lạc do đó người ta mới nhập được rồi. Có phải đúng không?

Rồi bắt đầu bây giờ quán ly tham, quán ly sân cho tới tâm định tĩnh của mình, thì như vậy là cái khoảng thời gian đó mà dẫn được cái tâm mình an trú được ở trong cái trạng thái hỷ lạc này chứ gì? Đúng chưa? Thì vậy là an trú chứ gì?

Có gì không con?

(13:23) Con thấy tới cái thiện xảo để mà sống trong định. Phật khéo thiệt đúng, bởi đức Phật nói, mà Thầy là con người có thực tập, cho nên Thầy mới biết được phải dùng cách nào. Cho nên tới cái pháp Thân Hành Niệm Thầy mới thấy đúng là bây giờ Bảy Giác Chi nó xuất hiện mình mới sống được, chứ còn nếu không có cái này làm sao sống được.

Có Bảy Giác Chi tức là con thấy luôn luôn, Bảy Giác Chi nó xuất hiện thì luôn luôn cái Khinh An Giác Chi, Hỷ Giác Chi luôn luôn nó có mình thì cái trạng thái hỷ lạc của Sơ Thiền, chứ đâu phải là cái gì khác hơn hết. Mà đó là cái trạng thái nó xuất hiện để mà nó luôn luôn nó sống mà. Bảy Giác Chi là bảy cái bồ đề của người ta, bảy cái sự giải thoát của đạo Phật rồi, chứ đâu còn gì nữa, mà nếu mà Bảy Giác Chi nó xuất hiện thì coi như cái người đó đã luôn luôn họ sống với cái năng lực kinh khủng đó, chứ đâu có thường nữa. Cái Sơ Thiền của người ta mà, chỗ mà cái tâm nó hết tham, sân, si nó thiệt là đúng là cái tâm thanh tịnh vô cùng rồi.

Sư Phước Nhẫn: Ở trong kinh có nói là “ly dục ly ác pháp nhập Sơ Thiền”, chỉ nói đại khái thôi.

Trưởng lão: Đại khái.

Sư Phước Nhẫn: Còn cái phương pháp vô như hơi thở với Như Lý Tác Ý là không có nói, mà nói mấy bài kinh khác. Chứ còn cái phương pháp tổng quát thì không có nói.

Trưởng lão: Không có nói. Qua cái kinh nghiệm người tu, người ta mới biết.

4- TRONG ĐỊNH CÓ TUỆ KHÔNG?

(14:25) Sư Phước Nhẫn: Còn trong, lúc băng trước Thầy có nói là trong định nó không có trí tuệ. Sao kỳ vậy Thầy?

Trưởng lão: Trong định thì nó định, nó không có trí rồi.

Sư Phước Nhẫn: Nhập định mà không có trí?

Trưởng lão: …​ (Không nghe rõ) không có trí. Mình xả ra rồi, nó mới có trí. Chỉ có cái Sơ Thiền là nó, cái định của nó, tâm định đó nó trí tuệ vô cùng lận, nó tầm thiện không à. Cho nên con thấy cái Sơ Thiền thì nó có năm cái chi thiền: Tầm, tứ, hỷ, lạc đó, nó mới nhất tâm đó.

Sư Phước Nhẫn: Chứ không phải định Thầy?

Trưởng lão: Ờ. Cho nên nó không phải định của thân mà nó định của tâm, cho nên nó còn tuệ người ta.

Sư Phước Nhẫn: Bởi vì nhiều người nói là tầm, tứ, hỷ, lạc, định. Con nói không phải, tầm, tứ, hỷ, lạc, nhất tâm.

Trưởng lão: Nhất tâm.

Sư Phước Nhẫn: Họ không chịu, họ đọc kinh …​ (Không nghe rõ).

Trưởng lão: Định sao được. Nhất tâm mà làm sao định.

(15:02) Sư Phước Nhẫn: Dạ, bởi vì trạng thái Sơ Thiền là trạng thái tâm, chứ đâu phải thân đâu. Bởi vì con định nghĩa như này: Cái chữ định nó có hai phần, phần tâm là nhất tâm, còn phần thân mới gọi là định. Chứ còn bình thường hiểu chữ định là nó gọn lại một nghĩa, là ngồi một cục đó, thành ra không phải.

Trưởng lão: Là ngồi giống ông Phật, không đúng.

Sư Phước Nhẫn: Thành ra Sơ Thiền đâu phải là ngồi một cục đâu.

Trưởng lão: Đúng rồi. Không phải đâu.

Sư Phước Nhẫn: Mình vẫn đi tới đi lui sinh hoạt.

Trưởng lão: Đi tới đi lui sinh hoạt.

Sư Phước Nhẫn: Cho nên gọi nhất tâm mới đúng.

Trưởng lão: Ừ, nói nhất tâm mới được.

Sư Phước Nhẫn: Còn nói mà tầm, tứ, hỷ, lạc, định đó thì nó trật, bởi vì chữ định nó có nghĩa là ở một chỗ.

Trưởng lão: Sai rồi. Cái đó không đúng. Dùng cái chữ định chỗ đó nó không đúng đâu.

Sư Phước Nhẫn: Nó ở một chỗ, nó không có thay đổi là về thân thì thành chữ định được, còn về tâm thì không được.

Trưởng lão: Không. Thầy thấy ở trong kinh sách Phật thì nói nhất tâm, chứ ít có nói định, nhưng mà người ta hiểu, cách thức hiểu người ta nói vậy.

Sư Phước Nhẫn: …​ (Không nghe rõ) con thấy trong kinh Nikaya cũng là nhất tâm, chứ không phải định.

Trưởng lão: Nhất tâm chứ không phải định. Cho nên cái kiến giải, cái hiểu người ta, người ta tưởng là nhất tâm là định.

Sư Phước Nhẫn: Dạ.

Trưởng lão: Thành ra cái đó là sai không đúng.

Sư Phước Nhẫn: Vậy đó thuộc về phần tâm. Còn định đó thì nó thuộc phần thân.

Trưởng lão: Phần thân. Thân mới đúng.

Sư Phước Nhẫn: Nói vậy là trong định nó không có trí tuệ hả Thầy?

Trưởng lão: Không có trí tuệ. Bởi vì khi mà Diệt Thọ Tưởng Định rồi, nó đâu có tuệ Tam Minh được.

Sư Phước Nhẫn: Còn mấy định Nhị Thiền đến Tứ Thiền?

Trưởng lão: Định Nhị Thiền, Tứ Thiền nó đâu có tuệ đâu. Hễ mà nhập định rồi nó đâu có tuệ.

Sư Phước Nhẫn: Nó không có trí hả Thầy?

Trưởng lão: Nó không có trí trong đó. Nó làm sao trí trong đó, trí nó động làm sao định được.

Sư Phước Nhẫn: Hồi nãy Thầy nói vô Tứ Thiền nó cũng còn sáng suốt mà.

Trưởng lão: Nó vẫn còn sáng suốt, nhưng mà khi đó, cái tâm thức của mình nó hoạt động rồi thì bắt đầu mình mới dẫn nó đi thôi. Mình dẫn đi nó mới có tuệ Tam Minh của nó, chứ còn mình không dẫn nó thì coi như hoàn toàn nó ở trong cái định của Tứ Thiền, thì coi như nó hoàn toàn nó nằm im lìm đó à. Nó một cục đó thôi, chứ nó không có hoạt động gì hết, nhưng mà nhờ cái pháp mà tác ý, Như Lý Tác Ý của mình, nó trở thành lực của nó, nó mới tác ý ra thôi.

Cho nên thành ra khi mà vô đó thì như đèn sáng mà chợt tắt. Đức Phật đã nói, cái bài kệ nó đã nói vậy đó: “Như đèn sáng chợt tắt”, cho nên nó tối thui hết hoàn toàn nó hết. Nhưng mà lại cái tâm thức mình nó hoạt động liền. Lúc bấy giờ, cái pháp hướng mà nó cái Trạch Pháp Giác Chi đó, nó tác ý một cái là cái tâm thức nó hoạt động liền. Nó muốn Túc Mạng Minh là ngay đó nó sáng rỡ, nó ở chỗ nào nó cũng biết hết, coi như nó không tối nữa. Mà hễ khi mà nó không tác ý ra rồi thì nó như đèn sáng mà chợt tắt, nó nằm định cục, nó định ở trong cái định nó cục, nó cục cứng ngắc không có gì hết, nó không biết gì hết, nó không có tuệ đâu. Nhưng mà khi mà đó nó cái pháp, cái Trạch Pháp Giác Chi là cái tuệ đó, nó tác ý ra một cái là nó thực hiện cái tuệ Tam Minh của nó liền, nó soi chỗ nào nó cũng thấy hết.

5- TÂM THỨC LÀ CÁI LỰC HAY SỰ HOẠT ĐỘNG CỦA TẾ BÀO NÃO?

(17:44) Sư Phước Nhẫn: Con muốn hỏi cái câu số 9 này là cái tâm thức đó, cái tâm thức Thầy nói đó là cái lực hay là cái sự hoạt động của tế bào não Thầy?

Trưởng lão: Nói chung là cái tâm thức của chúng ta, tức là thức uẩn đó ha, là cái sự hoạt động của tế bào não, của cái nhóm của nó ở trong đầu của chúng ta.

Sư Phước Nhẫn: Chứ không phải là cái lực?

Trưởng lão: Chứ không phải là cái lực nữa. Bắt đầu đó khi mà chúng ta nhập vào cái định đó rồi, thì tất cả những cái nhóm tế bào kia nó đều dừng lại hết. Nhóm tế bào của ý thức nó dừng ha, nhóm cái tế bào của tưởng thức nó cũng dừng ha, cho nên nó không còn mộng mị, chiêm bao. Phải dừng tất cả này thì cái nhóm tế bào mà, cái thức uẩn này nhóm tế bào này nó mới hoạt động. Nó hoạt động mình mới hướng tâm được nè.

Sư Phước Nhẫn: Như vậy là cái tâm thức Thầy nói đó là cái phần thứ ba, cái biết cái thứ ba là cũng do sự hoạt động của tế bào não?

Trưởng lão: Của tế bào não.

Sư Phước Nhẫn: Như vậy là khi mà mình dẫn tâm nhu nhuyễn, dễ sử dụng để mà hướng tâm về Tam Minh đó thì cũng phải xài cái tế bào não?

Trưởng lão: Tế bào não á.

Sư Phước Nhẫn: Nói vậy là khi mà mình nhập Niết Bàn rồi thì tế bào não nó không còn?

Trưởng lão: Không còn nữa.

Sư Phước Nhẫn: Không vô Tam Minh nữa được.

Trưởng lão: Không. Hết rồi.

Sư Phước Nhẫn: Lúc đó hết Tam Minh rồi …​ (Không nghe rõ).

Trưởng lão: Hết rồi. Không còn nữa. Tức là…​

Sư Phước Nhẫn: Là mình nhập Niết Bàn không có Tam Minh?

Trưởng lão: Không có Tam Minh. Tức là hết cái bộ phận, cái máy móc của mình hoạt động rồi.

Sư Phước Nhẫn: Dạ. Như vậy là thí dụ như đức Phật bây giờ là cũng không có Tam Minh luôn?

(18:42) Trưởng lão: Không phải không có Tam Minh, nhưng mà điều kiện mình nói không có Tam Minh thì không đúng. Bởi vì bây giờ đức Phật muốn có một cái cỗ máy, mà chỉ sử dụng nó thì đức Phật làm được mà.

Sư Phước Nhẫn: Nhưng bây giờ Ông nhập Niết Bàn, Ông …​ (Không nghe rõ).

Trưởng lão: Bây giờ Ông nhập Niết Bàn rồi, nhưng mà cái lực tu của cái pháp mà Trạch Pháp Giác Chi đó, Ông chỉ cần mà hợp các gen (gene) này nó thành cái hệ thống của cái cỗ máy này, rồi Ông sử dụng, Ông hoạt động Tam Minh chứ.

Sư Phước Nhẫn: Vậy là Ông làm ra một cái thân khác?

Trưởng lão: Thân khác dễ dàng lắm.

Sư Phước Nhẫn: Mà bây giờ không làm thì không …​ (Không nghe rõ).

Trưởng lão: Bởi vậy, người ta nói muốn tái sanh hay hoặc muốn làm gì nó làm được hết hết à.

Sư Phước Nhẫn: Dạ thành ra nếu …​ (Không nghe rõ).

Trưởng lão: Còn bây giờ nếu ở Niết Bàn thì thôi khỏi, khỏi nói.

Sư Phước Nhẫn: Không có Tam Minh.

Trưởng lão: Không có Tam Minh gì hết, hoàn toàn nó ở trong cái trạng thái an ổn của nó nhất thôi. Mà khi mà ở trong đó, nó có cái lực của nó còn, cái lực của nó luyện còn, nó hễ nó khởi muốn một cái gì đó, nếu cái lực đó nó muốn kết hợp, thì ngay đó nó các gen ở trong cái môi trường sống này nó hợp lại, thành nó trổ ngay.

(19:54) Sư Phước Nhẫn: Cái chỗ này con thấy nó cũng kỳ. Bởi vì cái câu cái bài Người Chiến Thắng, nó có cái câu nói, Thầy trả lời là, Thầy nói: “Niết Bàn đâu mà nhập, chỉ có mình an ổn ra đi thôi”. Cái chỗ ra làm sao Thầy?

Trưởng lão: Thì cái đó là cái sợ người ta chấp vào cái Niết Bàn. Nhưng mà cái đó là cái trạng thái của cái…​

Sư Phước Nhẫn: Chấp có, chấp không hả Thầy?

Trưởng lão: Chấp có, chấp không. Thành ra Thầy muốn phá cái chỗ đó thôi. Chứ còn sự thật ra thì khi một cái người mà ở trong cái trạng thái mà bây giờ mình thanh thản, an lạc, vô sự đó, thì khi mà cái người mà người ta nhập vào cái trạng thái đó, thì cái trạng thái nó vĩnh viễn rồi. Chứ nó không phải là cái cõi giới Niết Bàn, cái trạng thái tâm của chúng ta, hiện là chúng ta đã nhận ra được thì khi chúng ta mất thì nó cũng ở đó, nó không đi chỗ nào khác được.

6- SỰ LIÊN HỆ GIỮA Ý CĂN VÀ CÁC NGHIỆP QUÁ KHỨ

(20:31) Sư Phước Nhẫn: Con còn hai câu hỏi nữa là cái câu này. Thành ra con cũng thắc mắc ở chỗ này hoài. Cái sự liên hệ giữa ý căn và cái nghiệp quá khứ nó ra sao Thầy?

Bởi vì ở đời ta nói người này trả nợ người kia, người kia trả nợ người nọ. Mình không có chứng minh được cái thực tế, thực tế mình có cái ý căn. Ý căn nó phát khởi ra cái niệm. Đó thì từ đó mình mới nói rằng nào là do cái nghiệp. Thì con muốn hỏi là giữa sự liên hệ với ý căn và cái nghiệp quá khứ nó có liên hệ sao?

Trưởng lão: Có, có liên hệ. Bởi vì hầu hết là cái ý căn của chúng ta nó đều làm sau cái nghiệp. Cái nghiệp của nó đi trước, nó dẫn trước. Cũng như bây giờ, mình đưa cánh tay ra, là dường như là vô thức, chứ không phải ý thức của chúng ra đưa cánh tay. Coi như là bây giờ Thầy nói khi mà tập Thân Hành Niệm rồi, chúng ta mới thấy rõ là chúng ta làm sau cái hành động của chúng ta, nghĩa là cái ý thức nó đi sau cái hành động của nó. Cho nên gọi là cái hành động đó là cái thói quen của chúng ta thôi. Cũng như giờ, hai cái chân mình bước đi vậy, thì rõ ràng là cái biết của mình nó sau cái bước của mình, chứ không phải là cái biết của mình trước, tức là ý thức sau cái biết.

Cho nên vì vậy, mà cái bước của chúng ta nó là cái nghiệp. Hiểu Thầy muốn nói chưa? Cho nên vì vậy mà, nếu mà cái ý của chúng ta, nó tập mà nó làm chủ được cái nghiệp của nó thì nó chuyển được cái nghiệp của nó, nó không còn khổ nữa.

Còn trái lại, bây giờ chúng ta làm theo cái hành động thói quen, mà cái thói quen đó gọi là nghiệp. Cho nên vì vậy, mà nó làm trong cái vô minh của nó, cho nên do đó nó tạo ác, nó tạo khổ mà nó không biết, rằng nó thọ khổ rồi nó than thân nó vậy, chứ còn sự thật ra thì nó hoàn toàn nó ngoài cái ý thức chủ động. Nếu mà cái ý thức của chúng ta, mặc dù cái ý thức của chúng ta nó có những cái điều kiện, nó tạo thành nghiệp. Nó có điều kiện, cái ý thức nó tạo thành nghiệp.

Thí dụ như bây giờ, cái ý thức con nè muốn bắt con vật này cắt cổ nè, muốn hại cái người này, muốn ăn trộm này, thì cái ý thức nó có chủ động, nhưng mà ngầm ở trong đó có cái nghiệp, cái nghiệp nó làm cho con phải trở thành có cái ham thích đó mà làm cái chuyện đó.

Sư Phước Nhẫn: Thành ra cái nghiệp điều khiển ý căn?

Trưởng lão: Nghiệp nó điều khiển ý căn. Cho nên Thầy đã nói rằng cái ý căn nó đi sau cái nghiệp.

Sư Phước Nhẫn: Cái nghiệp quá khứ nó tác động mình sao Thầy? Thí dụ như trong gia đình, vợ chồng, anh em nhau, cha mẹ rồi nó có cái sự liên hệ nghiệp với nhau.

Trưởng lão: Có sự liên hệ nghiệp nhau.

Sư Phước Nhẫn: Cái ý căn nó khiến cho mình, cái ý căn để mình làm.

Trưởng lão: Để mình làm, để mình…​ Để đời này, đời kia, nó cấu kết nhau để nó trả những cái nghiệp này.

Sư Phước Nhẫn: Nó có sự vô hình ở trong đó.

(22:58) Trưởng lão: Nó có sự vô hình trong này. Cho nên vì vậy nó, thí dụ như chẳng hạn là trong cái đời trước, nó cũng như là những cái người bạn quen mình, có tạo những cái điều hay hoặc là những người hàng xóm của mình thôi trong cái đời trước, nó tạo những cái điều vui buồn với nhau, nó gieo cái nhân quả với nhau trong này. Sau khi kiếp này, kiếp tới thì nó sẽ trở thành con cái nhà này trong nhà này, để nó mà vay nợ hoặc là trả nợ nó.

Thí dụ như đứa con nó hiếu, nó lo cho cha mẹ nó, thì cha mẹ nó thì lại là không có thương đứa con này mà hay dường như là không ưa nó như thế này thế khác. Còn không thì một đứa con sanh ra nó phá của cải, tài sản mà cha mẹ luôn luôn thương đứa này. Đó là những cái mà vay trả của cái nhân quả của nó mà trong cái tiền kiếp, là hồi là cái kiếp trước của mình nó tạo như thế nào, để kiếp này nó sẽ gặp nhau ở trong cái gia đình của mình như vậy để mà vay trả như vậy thôi.

Sư Phước Nhẫn: Cái này nó trừu tượng quá Thầy.

Trưởng lão: Nó trừu tượng, nhưng mà sự thật ra nó coi như là cái nghiệp nó điều khiển cái ý của chúng ta, chớ không phải là cái ý.

Cho nên đạo Phật dạy chúng ta lấy cái ý mà điều khiển cái nghiệp, là chuyển nghiệp, nó rõ ràng. Bây giờ, thí dụ như cái tình cảm mà chúng ta nó khởi lên, nó thương nhớ cha mẹ, anh em đi nữa, thì chúng ta thấy đây là cái nhân quả, tức là nó đã chuyển được, mà chúng ta không thấy nó nhân quả thì chúng ta thương nhớ. Thì tức là nó thương nhớ, đó là nó cái nghiệp nó đã chuyển cái ý của mình để làm cho thương nhớ vậy. Đó là cái nghiệp nó làm chủ cái ý.

Còn trái lại, bây giờ đạo Phật dạy chúng ta lấy cái ý mà làm chủ cái nghiệp. Thì hai cái này nó mới được, có hiểu như vậy thì mới có thể nó là tu mới chính xác được, mới giải thoát được. Nó mơ hồ lắm, nhưng mà điều kiện chúng ta tư duy suy nghĩ kỹ, chúng ta cũng hiểu được.

Sư Phước Nhẫn: Dạ, đây con thấy cái thời gian này thì nó quá dài. Rồi cái đi tái sanh đâu phải là một tái sanh một đâu. Rồi một cái hình thức để mà trả đó, rồi ai mà ghi chép đó, sắp nó vô trong cái khung, để mà mai mốt mình trả lại.

(24:46) Trưởng lão: Bởi vì mỗi cái nó đều thảy ra nó không bao giờ nó mất. Một hành động thiện, một hành động ác của mình, mình thảy ra nó không bao giờ mất. Hoàn toàn là nó lưu giữ lại, nó lưu giữ lại hoàn toàn những cái đó, nó không có mất một cái hề gì. Chứ không ai ghi chép nó hết, không có ai mà ngồi đó mà tính sổ, ghi chép nó hết, nhưng mà nó lưu giữ, tự nó lưu giữ hết.

Cho nên một cái người mà có cái tưởng mà mạnh mẽ, người ta giao cảm được những cái hình ảnh đó, người ta nói lại không sai, không có trật. Nếu mà nó không lưu giữ thì anh làm sao anh giao cảm được. Vì có lưu giữ, cho nên vì vậy mà anh nói ra, anh thảy ra thì cái từ trường anh không mất đâu. Cho nên đó là nó trở thành cái lực của nghiệp rồi.

Sư Phước Nhẫn: Nó có hai phần, một phần đi tái sanh, cái nghiệp đi tái sanh, một phần còn lưu giữ lại trong không gian.

Trưởng lão: Nó luôn hoài hoài nó ở trong không gian này, nó có những cái từ trường, nó tham, sân, si nó luôn luôn nó giữ.

7- THIỀN LÀ GÌ?

(25:37) Sư Phước Nhẫn: Còn cái câu hỏi cuối cùng là cái câu hỏi này, trong vấn đề thiền. Cái này định nghĩa về giáo. Con lâu rồi con đọc sách nhiều cái một người là trả lời một cái, một người định nghĩa một cái. Mà con muốn hỏi Thầy coi định nghĩa chắc lại là cái thiền là gì? Định nghĩa như thế nào cho nó chính xác nhất? Mà bình thường ta nói tu thiền, tu thiền, mà trong kinh thì đâu có nói, dùng cái chữ thiền nhiều.

Trưởng lão: Thực sự ra thì những cái danh từ mà người ta dùng thì kẻ thì chú giải, chú thích cái nghĩa này, người chú thích nghĩa khác, nó làm cho chúng ta nó rất là khó hiểu. Cho nên nói Sơ Thiền, tức là ở trong kinh sách của Phật nó có Bốn Thiền đó: Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền chứ đâu có nói nó là bốn định đâu. Phải không? Nói nó thiền. Vậy thì cái thiền của nó là gì?

Tức là chúng ta phải hiểu nghĩa qua cái thực của cái sự tu hành của chúng ta. Thì nói thiền tức là nói cái tâm của mình nó không còn tham, sân, si, nó thanh tịnh là thiền. Mà nếu mà cái tâm nó còn ô trược, nó uế trược thì nó không có thiền. Và cái thân của mình mà nó còn ô trược, uế trược thì nó không có tịnh chỉ hơi thở được, thì nó không có định được, thì do đó nó không coi là thiền.

Cho nên vì vậy mà trải qua cái thời gian, mà cái người tu mà cái tâm ly dục, ly ác pháp tức là lìa tham, sân, si ra, thì cái tâm này nó thanh tịnh đó, thì nó là thiền. Cái tâm đó là tâm thiền, cho nên mới gọi là Sơ Thiền.

Bây giờ cái thân của chúng ta nó chuyển tất cả cái nhân quả khổ đau, tức là những cái ô nhiễm của nó mà từ nhiều đời nó, bây giờ nó mang thành thân nghiệp của nó, nay đau cái này, mai đau cái khác đó. Cái người mà cái nghiệp nặng đó, họ đau bệnh lu bù, nhưng mà khi mà họ chuyển hết những cái đau này đó, thì cái thân của họ nó mới thanh tịnh. Chứ còn nó đau là nó không thanh tịnh.

Cho nên nó thanh tịnh hoàn toàn thì nó mới nhập được định. Vì vậy mà định nó sẽ làm chủ được cái bệnh. Nó chuyển được cái quả của nó rồi. Cho nên vì vậy một cái người mà gọi là thiền đó, là nó về cái tâm là nó không có tham, sân, si mà về cái thân thì coi như nó làm chủ được bệnh, làm chủ được sự sống chết. Thì như vậy gọi là thiền. Còn nếu mà cái thân mà mình không làm chủ được sự sống chết, không thể gọi là cái thân thiền.

(27:32) Còn người ta chỉ nói bây giờ cái thân mà ngồi đây như cục đá, cục gạch đó thì họ là thiền định. Thì cái đó là họ chỉ nghĩ cái sự bất động của nó, ở của cái thân thôi, chứ họ không nghĩ sự thanh tịnh của nó. Còn đạo Phật thì nghĩ cái sự thanh tịnh của tâm và thanh tịnh của thân. Cái thân còn bệnh là cái thân còn nghiệp nhân quả, thì nó làm sao nó thanh tịnh? Mà cái tâm nó còn tham, sân, si thì nó còn cái nghiệp nhân quả, thì làm sao nó là thanh tịnh? Cho nên cái tâm phải hết tham, sân, si nó mới là thiền, là thanh tịnh nó mới thiền.

Con hiểu chỗ chữ thanh tịnh thì mới xác định được chữ thiền. Chứ còn không khéo mình không hiểu chữ thanh tịnh. Mà thanh tịnh thì nó có hai phần: Phần của tâm và phần của thân. Phải không? Cái thân mình còn ô nhiễm, cái thân mình còn bệnh tật, thì nó còn một đống nghiệp nên như thế này thì nó làm sao nó gọi là thanh tịnh? Đó cho nên vì vậy, mà cái người mà tu thì người ta, vốn người ta phải có cái năng lực gì đó mà người ta làm cho cái thân được thanh tịnh, tức là nó làm chủ được cái bệnh nó chứ gì? Thì nó vậy nó mới thanh tịnh. Còn mình, cái tâm của mình, ít ra mình phải có cái trí tuệ, tri kiến như thế nào đó, mình mới làm chủ được cái tâm mình, mới ly tham, sân, si, mình mới không phiền não, đau khổ nữa. Là do cái chỗ này mình mới có thể nói là tâm mới thanh tịnh, thì nó mới thiền.

Cho nên mới nói nhập Sơ Thiền thì phải ly dục, ly ác pháp mới nhập Sơ Thiền. Rõ ràng ly dục, ly ác pháp thì nó không còn tham, sân, si chứ còn tham, sân, si làm sao mà nhập Sơ Thiền? Thì đó phải lấy cái sự thanh tịnh của thân, tâm mà xác định được cái nghĩa của thiền, thì nó mới đúng nghĩa. Còn nếu mà chúng ta không xác định được sự thanh tịnh của thân tâm mà định nghĩa thiền định thì coi chừng sai.

(29:06) Sư Phước Nhẫn: Con định nghĩa theo bốn cái câu: “Chư ác mạc tác…​”, thành ra hơi thiếu Thầy.

Trưởng lão: Ừ.

Sư Phước Nhẫn: Con định nghĩa thiền là phương pháp làm cho ý căn hoàn toàn thanh tịnh.

Trưởng lão: Ừ.

Sư Phước Nhẫn: Hay là không còn tham, sân, si đó, cũng giống như Sơ Thiền rồi.

Trưởng lão: Cũng y như Sơ Thiền.

Sư Phước Nhẫn: Nhưng mà thiếu cái phần…​

Trưởng lão: Phần thân. Coi như là nó hai cái: Thân định trên tâm và tâm định trên thân, nó mới đủ cái nghĩa của nó thiền định, của cả thân tâm, vì nó là một khối của nhân quả rồi.

Sư Phước Nhẫn: Mà nếu vậy thì phải xài chữ thiền định nó mới chính xác hơn chữ thiền.

Trưởng lão: Đúng rồi. Chữ thiền thì chỉ có nói về cái phần tâm thôi. Còn nếu mà nói luôn cả định thì luôn cả thân thì không có nói.

Sư Phước Nhẫn: Thì người ta hỏi mình định nghĩa chữ thiền thành ra mình cứ định sai.

Trưởng lão: Chỉ định nghĩa chữ thiền. Nhưng mà đúng là mình định nghĩa chữ thiền của tâm thì nó là Sơ Thiền. Mà định nghĩa của thiền của thân đó thì nó là phải Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền.

Sư Phước Nhẫn: …​ (Không nghe rõ).

Trưởng lão: Coi như là mình cũng chỉ dùng chữ thiền thôi, còn định đó thì chắc chắn là người ta ghép sai. Cho nên trong khi Bốn Thiền thì đức Phật nói, Bốn Thiền, Tứ Thánh Định đó thì tức là Bốn Thiền là bốn cái định của Thánh. Cho nên cái định của Thánh là cái tâm thanh tịnh, là định đó, cho nên gọi là định là cái tâm thanh tịnh. Vì vậy mà khi mà mình dùng chữ thiền thì mình chỉ là Bốn Thiền định. Cho nên mình ghép chữ thiền định thì cũng được, mà mình giải thích từng cái chữ của nó hay thiền không thì cũng được, không có gì khác hết.

(30:23) Sư Phước Nhẫn: Cho nên sau này con mới triển khai nôm na là muốn tu thiền đó, là mình tu theo bốn cái câu:

“Chư ác mạc tác

Chúng thiện phụng hành

Tự tịnh kỳ ý…​”

Trưởng lão: Tự tịnh kỳ ý.

Sư Phước Nhẫn: Dạ cái đó là mình nói gọn lại cái…​

Trưởng lão: Đó là Sơ Thiền đó.

Sư Phước Nhẫn: Dạ.

Trưởng lão: Cái câu đó, cái câu mà bốn câu này là để chỉ Sơ Thiền đó.

Sư Phước Nhẫn: Nó gọn. Nói dông dông dài dài nó không vô.

Trưởng lão: Nó không vô, với vậy khó hiểu.

Sư Phước Nhẫn: Vì con thấy ba, bốn cái câu đó là cái gốc đó Thầy.

Trưởng lão: Cái câu đó đúng đó con. Chính chỗ đó là để mà chúng ta ly dục, ly ác pháp, mà chúng ta nhập Sơ Thiền được. Bước đầu vào tu thì phải, bốn cái câu kinh Pháp Cú đó là cụ thể nhất đó: “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành…​”, đó.

Sư Phước Nhẫn: Thành ra con dựa vào đó con định nghĩa thiền là cái phương pháp làm cho ý căn hoàn toàn thanh tịnh.

Trưởng lão: Thanh tịnh. Đó chỉ thanh tịnh là đúng là thiền đó. Ở chỗ đó con giải thích chỗ đó đúng. Còn thiếu về cái phần thân thanh tịnh.

Sư Phước Nhẫn: Dạ thiếu phần thân.

Trưởng lão: Bởi vì chưa biết thân thanh tịnh làm sao mà nó thanh tịnh. Khi nào mà nó không bệnh đau đó, nó làm chủ được bệnh đau của nó đó thì nó là thanh tịnh. Mà nó chưa làm chủ được bệnh đau thì nó chưa thanh tịnh đâu. Mình còn bị cái thọ của cái thân nó làm cho mình chuyển, làm cho mình đau khổ.

Sư Phước Nhẫn: Con có mấy câu hỏi đó thôi.

Trưởng lão: Rồi hết rồi ha.

8- CÁCH GIỮ GIỚI TRỌN VẸN

(31:49) Sư Phước Nhẫn: Bữa nay con có mấy câu hỏi. Câu hỏi thứ nhất là về phần giới. Là Thầy có nói đến trì giới, rồi nói đến ly dục, ly ác pháp, mà cái mấu chốt để nhập Sơ Thiền là phải giữ giới.

Trưởng lão: Ừ. Đúng rồi.

Sư Phước Nhẫn: Nó giữ giới mới ly dục, ly ác pháp được.

Trưởng lão: Ừ.

Sư Phước Nhẫn: Cái này là căn bản nhất. Còn cái bài tập Thân Hành Niệm đó, tức là cái giai đoạn chót hơn, chứ bây giờ đâu có tập Thân Hành Niệm trước được.

Trưởng lão: Phải rồi, đúng rồi, cái đó là phải hẳn nhiên. Bởi vì giới, nếu mà Thầy soạn thảo, cũng như con cũng lưu ý nữa. Thầy biết con có khả năng có thể làm được. Cho nên Thầy có thể nói là cái giáo trình mà tu tập đó, thì đầu tiên mà cái người mới tu vào thì mình phải dạy người ta cái giới đức, cái giới luật trước tiên, bởi vì nó là cái hạnh ly.

Sư Phước Nhẫn: Dạ.

Trưởng lão: Con phân biệt nó là cái hạnh ly, chứ không phải là cái pháp ly.

Sư Phước Nhẫn: Dạ.

Trưởng lão: Còn cái Tứ Niệm Xứ, Tứ Chánh Cần hay là Thân Hành Niệm, nó là cái pháp ly để chúng ta đạt được cái Sơ Thiền. Còn cái hạnh ly, cái này là cái hạnh, chúng ta sống cái đúng đức hạnh đó thì nó ly dục. Mình sống không đúng thì coi như mình tu pháp gì nó không ly đâu.

Sư Phước Nhẫn: Dạ.

Trưởng lão: Đó hiểu vậy. Khi mà vào mà hướng dẫn người ta tu hành, mà lập thành một giáo trình đó, thì tức là cái giới là quan trọng nhất. Nó là cái hạnh, người ta sống được cái hạnh thì người ta tu nó mới có ly. Còn người ta sống không được cái hạnh là coi như người ta không lo tu ly.

Mà cái người mà lấy giới mà giữ cái hạnh mà không có pháp tu thì bị ức chế. Mình ôm chặt giới, mình không có cho phạm, nhưng mà mình không có cái pháp tu đó thì bị ức chế. Ức chế lâu ngày phải đổ vỡ, rồi lén vụng làm cái chuyện phạm giới, nó phi pháp, không có đúng.

Còn có cái pháp tu, cái pháp nó ly, nó làm cho chúng ta thanh thản, làm chúng ta an lạc.Thí dụ cũng như bây giờ, mình muốn ly, mình muốn lìa ra cái tâm tham dục, cái tham sân của mình, thì mình sống đúng cái hạnh, tức là mình bị ức chế rồi đó. Thì lúc bấy giờ, mình dùng cái pháp như pháp Thân Hành Niệm, nó hóa giải được nó làm cho tâm mình thoái mái, dễ chịu.

(33:45) Đó lấy thí dụ, Thầy nói ví dụ vậy để cho thấy được cái pháp nó cũng quan trọng và cái giới nó cũng quan trọng. Cho nên khi mà thành lập cái giáo trình thì chúng ta nhớ đừng có bỏ giới, phải lấy cái giới làm cái hạnh ly. Còn kia là pháp ly, pháp mình tu để ly dục, ly ác pháp. Còn cái đó là cái hạnh để ly dục nó. Cho nên một tu sĩ mà sống phạm giới thì không nên tu.

Cho nên khi nhớ, khi mà một ngoại đạo mà đến xin đức Phật đó, thế là đức Phật cho ở bốn tháng. Bốn tháng không có nghĩa là ông này tu như thế nào, đức Phật không quản ông, nhưng mà ông chỉ cần sống đúng giới thì Phật cho làm đệ tử Phật. Mà sống không đúng giới là đức Phật không cho làm đệ tử Phật. Thì cái ông ngoại đạo, tức ông hứa là bốn năm cũng dám nữa. Sự thật ra nếu mà bốn tháng được thì bốn năm cũng phải được rồi.

Sư Phước Nhẫn: Dạ.

Trưởng lão: Thì con hiểu cái đó là chỗ thử thách ở chữ giới, chứ không phải là đời sống phạm hạnh đó.

Sư Phước Nhẫn: Dạ.

Trưởng lão: Chứ không là chỗ mà ông thử thách, ông vô, ông tập tu đâu, không phải đâu. Đó, mình hiểu vậy, làm sao khi soạn được cái giáo trình thì nó căn bản lắm.

Sư Phước Nhẫn: Thì con thấy nhiều người họ không có quan niệm cái giới, họ chỉ vô cái bắt đầu họ tập Thân Hành Niệm đi tới đi lui và mục đích để vô Sơ Thiền cho sớm. Thì con thấy như vậy nó trật cùi chìa rồi, cái gốc mà không đi, đi cái ngọn. Đó rồi con thấy là cái giữ giới là cái căn bản, bởi vì giới tròn thì tâm nó mới thanh tịnh, tâm thanh tịnh là nó mới có cái lực đạo để nhập Sơ Thiền được. Thành ra giới mà không tròn thì tâm đâu có thanh tịnh, mà bây giờ mình tập cái kiểu mà Thân Hành Niệm để ức chế mà vô thì phải mình lọt vô cái tưởng rồi.

Trưởng lão: Thì nó bị lọt vô tưởng rồi.

Sư Phước Nhẫn: Dạ, một thời gian nó cũng bị bung ra. Thành ra vấn đề giữ giới thì nó quan trọng mà con cũng thấy còn có nhiều cái mắc múi những điều này. Giới thì nó quá nhiều, khoảng 250 giới, không phải là 1, 2 giới, nó quá nhiều chứ không phải là một giới. Mà cái con xin Thầy chỉ cái kỹ thuật cốt lõi nhất để giữ giới, nghĩa mình phải có cái kỹ thuật mình nắm để mình giữ giới mới được, chứ còn không thể giữ giới.

(35:30) Trưởng lão: Thì mình, nếu mà mình có cái kỹ thuật mà nắm được giới, trước tiên mình phải học những cái giới đức làm người. Nó có trong bộ giới, nó 250 giới thì nó chia ra làm giới đức làm người và còn lại một số thì nó là giới đức làm Thánh.

Sư Phước Nhẫn: Dạ.

Trưởng lão: Cho nên khi người ta học hiểu được à cái này là giới đức làm người nè, thì người ta biết làm người là phải giữ gìn những giới luật này, thì cái hạnh đức, cái hạnh của người ta là cái hạnh của riêng một người làm con người. Còn những cái giới đức này là một vị Thánh Tăng, vị Tăng là phải giữ gìn cái giới đức Thánh này, bởi vậy gọi là Thánh Tăng thì phải có đức hạnh của Thánh. Thì lúc đó là cái mấu chốt, cái quy chốt để người ta nắm, người ta hiểu được, người ta muốn làm Thánh Tăng thì người ta phải sống cho đúng cái giới này. Thì do đó, người ta không phạm. Chứ còn nếu không, người ta không thấy được, người ta không hiểu giới luật như là pháp luật, bắt buộc người ta, coi như người ta mới đầu vô thì người ta ráng mà trong không có hiểu nó. Mà do đó, người ta sau này người ta phạm hết.

Còn khi người ta thấy bây giờ mình có thể, mình học được hết cái giới này rồi, mình có thể mình làm được Thánh Tăng hay không. Mình làm được thì mình giữ giới, mình xin thọ, mà mình làm không được thì thôi. Còn bây giờ mình thọ rồi, mình mới tu học tập giới thì coi chừng mình phạm hết. Đó là một cái khó. Nếu mà, nhất là cái giới đức mà làm người đó, thì mình phải căn bản đầu tiên, khi bước vào thì bổn phận con người của mình theo những cái đức hạnh đó. Mà trong khi 100 giới chúng học là 100 giới đức Phật dạy đầu tiên cho chúng Tỳ kheo, tức là giới đức làm người đó.

(37:12) Sư Phước Nhẫn: Vậy mình căn cứ vào đâu để mình luôn luôn mình giữ giới Thầy? Thí dụ mình có một cái chỗ dựa nào đó để mình luôn luôn mình giữ giới được?

Trưởng lão: Thì mình có cái chỗ dựa. Cái chỗ mà mình dựa chắc chắn đó là những cái giới luật nó sẽ giúp cho mình không làm khổ mình, không làm khổ người để mà cho mình được giải thoát. Mình hiểu chỗ đó là cái chỗ dựa của mình vững chắc, mà nó cũng là cái chỗ dựa chắc chắn của nhân quả nữa. Đó là sống: “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành…​” đó. “Các pháp ác không nên làm, nên làm các pháp thiện…​”. Tức là cái chỗ dựa chắc chắn.

Các cái lời nói, cái bốn cái câu kinh Pháp Cú đó đó, là cái lời nói để làm cái chỗ dựa cho chúng ta biết là mình, khi mình đi vào chỗ đạo Phật, mà giữ gìn giới thì mình phải thấy rằng luôn luôn lúc nào mình, các pháp ác mình không làm, mà làm các pháp thiện. Vậy thì làm các pháp thiện thì phải hiểu giới luật này toàn là các pháp thiện, đó là cái chỗ dựa vững chắc cho mình. Nếu mà muốn giải thoát mà mình sống ở trong pháp ác, mình làm các pháp ác thì chắc chắn là mình không giải thoát. Đó là cái chỗ dựa vững chắc.

Sư Phước Nhẫn: Vậy là mình phải có một chỗ để mà mình luôn luôn mình nhớ. Chứ không thôi nó hay quên, làm sao giữ Thầy?

Trưởng lão: Bởi vì, mình phải mình phải thấy được những cái đường đi của cái nghiệp của mình. Tức là cái đường đi của nó, nó có ba nơi: Thân, miệng, ý. Mà thân của mình, cái hành động thân của mình, hành động ý của mình và cái hành động khẩu của mình (miệng của mình). Thân, khẩu ý ba cái nơi nó xuất phát. Cho nên mình dựa vào ba cái nơi đó. Mà một khi, mỗi khi mình nói hoặc suy nghĩ hoặc làm một cái điều gì, đều phải có sự chín chắn, đều có sự suy tư chín chắn, bởi vì nếu mà không suy tư chính chắn thì coi như mình bị phạm giới.

Cho nên đừng có làm mà vô thức đó, mình làm đừng có làm theo thói quen, mà mình phải làm theo cái sự chủ động của mình. Khi mình muốn suy nghĩ cái gì đó thì mình phải suy nghĩ chín chắn rồi sau đó mình mới nói ra. Mà thấy chưa suy nghĩ chín chắn thì chưa nên đừng nên nói. Phải tập những cái hạnh đó là cái căn bản để làm chỗ dựa của mình. Chứ nếu mà mình không có sử dụng cái đó mình, dục để ăn, dục nói đó thì coi như là mình nói, mình ăn theo cái nghiệp thức của mình hay hoặc cái nghiệp lực của mình. Thì đương nhiên là coi như là mình sẽ đi nhầm vào pháp ác mà không biết.

Sư Phước Nhẫn: Theo ý con nghĩ như vầy không biết có đúng không Thầy?

Trưởng lão: Con cứ nghĩ.

(39:28) Sư Phước Nhẫn: Trước tiên là mình phải tập cái tỉnh thức. Tỉnh thức thì mình mới nhớ được, mình mới giữ được, mình dựa vào cái ý căn mình giữ. Chứ còn mình không có tỉnh thức cái mình đâu có nhớ được, tại nó lu bu hoài không có nhớ cái giới này giới kia. Thành ra, cái người hành giả vô đầu tiên muốn giữ giới thì phải tập tỉnh thức trước. Theo ý con vậy, tập tỉnh thức cho nó tròn rồi mình giữ giới nó dễ. Chứ còn ai chưa tỉnh thức thì mình giữ có giới mình nhớ, giới mình không, có lúc mình nhớ lúc mình không.

Trưởng lão: Đúng vậy. Bởi vì cho nên cái phương pháp mà của Phật dạy chúng ta phương pháp tu đó, là trong khi mình giới thì nó là đầu tiên, là sau khi mình học giới, mình thông suốt rồi, mình biết cái giới đức làm người, giới đức làm Thánh như thế nào, mình thông suốt rồi, rồi bắt đầu bây giờ đó, thì bắt đầu mình muốn mà để giữ gìn giới cho nghiêm túc, cho giữ gìn cho trọn vẹn thì trong cái thời gian mình học tập đó, thì mình biết được cái nhân quả, những cái hành động của nó từ đâu mà nó xuất phát những cái lỗi lầm của mình, từ đâu mà nó phạm giới, thì mình biết là từ do thân, miệng, ý của mình. Vậy thì từ cái thân, miệng, ý của mình đó mà muốn mà cho nó đừng phạm giới thì mình phải có tỉnh thức.

Vậy thì tỉnh thức, thì cái phương pháp mà tu tập tỉnh thức đó, thì cái phương pháp nó có nhiều cái phương pháp, chứ không phải một phương pháp. Và đồng thời, thì chỗ cái phương pháp mà Định Niệm Hơi Thở cũng là một phương pháp trong những cái phương pháp để tập tỉnh thức. Thì do đó, chúng ta phải tập tỉnh thức là nó mới giúp chúng ta, thì cái cơ sở mà chúng ta để mà giữ giới cho trọn vẹn đó, thì nó là cái sức tỉnh thức của chúng ta, cái sự tỉnh thức của thân hành.

(41:01) Thì cái ý của con nói, thì con hiểu, nhận xét con hiểu đó thì đó là đúng rồi, nó không sai. Bởi vì ngoài tỉnh thức, nếu mà chúng ta không tỉnh thức thì chắc chắn là chúng ta sẽ không bao giờ giữ giới trọn vẹn. Bởi vì khi mà không tỉnh thức đó, thì chúng ta làm một cái hành động chúng ta thì chúng ta vô tình mà chúng ta làm, chứ chưa phải là chúng ta làm theo cái sự tỉnh thức của mình.

Còn khi mà mình tỉnh thức đó, thì lúc bấy giờ mình làm cái gì mình cũng phải có sự tư duy chín chắn rồi mình mới làm. Đó là tỉnh thức, nhưng mà tỉnh thức thì nhớ phải có nhiều pháp tập, chứ không phải là một pháp. Nó thuộc về thân hành rồi. Tập tỉnh thức thì nó phải trên Thân Hành Niệm, trên thân của mình rồi. Hoàn toàn ngoài cái thân hành của mình, thì tập tỉnh thức không bao giờ có được, đó cái sức tỉnh thức của mình.

Nhưng mà tỉnh thức chúng ta phải lưu ý, tỉnh thức đầu tiên thì chúng ta tập tỉnh thức, nhưng mà sau đó thì nó trở thành định tỉnh. Vậy thì cái phương pháp mà tập định tỉnh thì nó là cái phương pháp Thân Hành Niệm mà cấu kết nó trở thành một cái cỗ xe, hay căn cứ địa thì cái đó nó mới trở thành định tỉnh.

Còn như mà chúng ta, thí dụ như tập mà Định Niệm Hơi Thở, Định Chánh Niệm Tỉnh Giác đều là những cái định mà chúng ta tập tỉnh thức mà thôi, chớ không phải là tập định tỉnh đâu. Bởi vì nó không có cấu kết kiên cố như cỗ xe, nó không cấu kết được các cái thân hành của chúng ta, nó như căn cứ địa được, cho nên nó không có định tỉnh, còn nó tỉnh thức.

Cho nên chúng ta đi từ cái chỗ tỉnh thức để mà chúng ta giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh. Rồi đến khi mà chúng ta đi tới cái chỗ mà định tỉnh đó, để mà chúng ta quét sạch những cái vi tế ly tham, sân, si trong tâm của chúng ta, tới cuối cùng để chúng ta nhập được cái Sơ Thiền. Nói cuối cùng chúng ta nhập được Sơ Thiền, nó không phải là nhập được Sơ Thiền liền. Mà cuối cùng nhờ cái sức tỉnh thức đó thì tâm nó mới nhu nhuyến, dễ sử dụng, mà tâm nhu nhuyễn dễ sử dụng tức là nó nằm trọn ở trong Bảy Giác Chi.

Khi Bảy Giác Chi nó xuất hiện đó, thì chúng ta mới có nhập được Sơ Thiền, chứ chưa phải là nhập Nhị Thiền đâu. Nghĩa là lúc Bảy Giác Chi nó xuất hiện đầy đủ rồi đó, lúc bấy giờ cái Dục Như Ý Túc tức là Trạch Pháp Giác Chi đó nó khởi ra, chúng ta: “Nhập Sơ Thiền” là nó sẽ vào Sơ Thiền. Phải hiểu chỗ đó, chứ không phải là chúng ta ở trên cái Tứ Niệm Xứ mà chúng ta tu tập, mà chưa có Thất Giác Chi mà chúng ta gọi là mình nhập Sơ Thiền cái người đó đã sai. Không đúng, chưa nhập Sơ Thiền đâu. Nó còn ở trong cái pháp tu, cho nên nó chưa phải có Sơ Thiền đâu.

Nhưng mà cái trạng thái mà chúng ta thiện xảo, khéo léo thì chúng ta thấy nó có khinh an, hỷ lạc thì chúng ta cho nó là Sơ Thiền, chứ chưa phải đâu. Bởi vì khi mà nó nhu nhuyễn, dễ sử dụng rồi chúng ta mới nhập Sơ Thiền đó, thì chúng ta nó trạch pháp ra, tự trong tâm nó trạch pháp, nó bảo: “Ly dục, ly ác pháp, nhập Sơ Thiền”, thì ngay đó nó hoàn toàn nó vô Sơ Thiền liền, bởi vì đó là cái sức của tâm. Còn cái tâm của mình nó còn dục, còn vi tế thì nó không có nhập Sơ Thiền được. Bởi vì nó phải ly dục, ly ác pháp, nó rất là thanh tịnh nó mới nhập được Sơ Thiền. Còn mình hiện giờ, mình có tu đi nữa, chứ mình chưa có…​ Mình thấy những cái cảm giác hỷ lạc thì có đó, nhưng nó không phải Sơ Thiền đâu, nó còn ở trong cái dục tưởng. Chưa phải.

(44:05) Sư Phước Nhẫn: Cái lúc trước, con nghe Thầy có nói đó, giới luật thì nó rất nhiều, mà mình giữ, thì mình biết cách thì mình giữ rất dễ. Hình như con nhớ, không biết đúng không, Thầy nói dựa vào ý căn thì mình giữ thì nó dễ lắm. Nhưng mà lâu quá rồi, con không biết phải vậy không?

Trưởng lão: Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng vậy! Cái đó Thầy có nói rồi. Bởi vì dựa vào cái ý căn thì luôn luôn lúc nào đó, mà nếu mà ngoài cái ý mà phân biệt cho chúng ta để giữ giới thì không bao giờ mà làm được. Cho nên trong cái ý căn thì đức Phật, trong kinh Pháp Cú đức Phật có nói là: “Ý làm chủ, ý tạo tác, ý dẫn đầu các pháp”“Ý làm chủ, ý tạo tác”, do cái ý của chúng ta, do như vậy mà chúng ta dẫn nó vào thiện hay dẫn nó vào ác. Vì vậy mà cái bia đá mà đầu tiên mà Thầy ghi ở trong Tu viện này đó, thì Thầy nói: “Dẫn tâm vào đạo, chứ đừng dẫn đạo vào tâm”, tức là lấy câu đó đó mà để mà nói ra cái ý này. Thì nhớ rằng cái ý của chúng ta rất là chủ động. Nếu mà chúng ta bỏ ý mà tu cái khác thì coi chừng chúng ta sai. Cho nên phải ý, chúng ta mới dẫn nó được.

Sư Phước Nhẫn: Thành ra con nghĩ, mình dựa vào cái ý mình giữ giới.

Trưởng lão: Ừ.

Sư Phước Nhẫn: Thành ra phải, muốn dựa vào ý mình giữ giới thì phải có sự tỉnh thức.

Trưởng lão: Phải có sự tỉnh thức. Đúng. Đúng vậy.

Sư Phước Nhẫn: Đó, mình tỉnh thức thì mình dựa vào ý mình giữ. Đó, nhưng mà cái ý này đó thì mình phải hiểu nó kèm cái giới, là mình phải quan niệm là có hai thiện ác đi, hai cái tầm là tầm thiện, tầm ác. Hễ một niệm khởi lên thì nó thiện thì mình theo, ác mình bỏ.

Trưởng lão: Ừ.

Sư Phước Nhẫn: Thì như vậy thì nó cũng gồm hết ba cái giới này.

Trưởng lão: Gồm hết luôn.

Sư Phước Nhẫn: Bởi vì giới thì nó chỉ cho cái thiện. Đó mà hễ một tầm mà hiện lên thì mình biết đó là thiện hoặc mình biết nó ác. Thì tức nhiên là lúc đó mình theo thiện là mình giữ rồi. Chứ còn 250 giới mình đâu có thuộc lòng hết đâu mà mình nhớ được.

(45:48) Trưởng lão: Coi như là mình không học thuộc lòng, nhưng mà mình hiểu được giới. Mình hiểu được nó.

Sư Phước Nhẫn: Riêng về phần giáo thì mình biết rồi. Còn qua phần hành thì mình chỉ còn cái…​

Trưởng lão: Thì còn thiện với ác thôi. Đúng là tầm thiện, tầm ác thôi, tức là cái pháp rồi. Nó không thuộc về cái hạnh.

Sư Phước Nhẫn: Chứ nó quá nhiều, làm sao mà mình nhớ từng cái được.

Trưởng lão: Đúng rồi, không có nhớ. Nói chung là, sau khi một cái người mà học được những cái giới đức Thánh giới, 250 giới rồi, thì mỗi một cái hành động khi mà người ta tỉnh thức đó thì người ta biết là cái hành động này nó thuộc về cái giới nào, nó phạm giới nào người ta biết liền.

Sư Phước Nhẫn: Dạ, dạ.

Trưởng lão: Nhưng mà mình chưa thông, mình chưa thuộc đó, mình phạm, mình không biết nhưng mà mình vẫn biết nó là ác pháp, mình biết nó là tầm ác, nhưng mà mình chưa có biết nó là cái giới nào. Nhưng mà cái người đã học thông suốt giới rồi, thì ngay đó là đức Phật đã xác định cho rõ là cái tầm ác này là nó thuộc về giới gì hết. Đó thí dụ như…​

Sư Phước Nhẫn: Thuộc lòng thì nó, mình nhớ được.

Trưởng lão: Nó thuộc lòng là nó nhớ được, còn không thuộc lòng thì mình không nhớ.

(46:48) Sư Phước Nhẫn: Cho nên cái ưu tư của con là làm sao mà mình có cái chìa khóa để mình giữ giới được luôn đó. Chứ còn không có cái chìa khóa đó chứ mình cứ lung tung, lung tung hoài.

Trưởng lão: Thì đó cái bài Song Tầm là chìa cái khóa mà đức Phật dạy cho chúng ta giữ giới đó. Đó là pháp hành, mà Thầy gọi là cái giới hành đó. Trong khi đó Thầy gọi cái bài Song Tầm với bài An Trú Tầm đó là cái giới hành, tức là nó thuộc về cái pháp hành để mà chúng ta giữ giới cho thanh tịnh, để cho ly dục, ly ác pháp.

Sư Phước Nhẫn: Tại vì cái cách giữ giới đó thì …​ làm người 100 hay 110, còn nhiêu là giới đức làm Thánh.

Trưởng lão: Ừ.

Sư Phước Nhẫn: Đó thì như vậy là mình học thuộc hết. Rồi thỉnh thoảng thì mình ôn lại thì mình mới nhớ luôn. Một niệm khởi lên mà mình nhớ cái tổng quát thôi, cái chi tiết mình không nhớ. Thành ra ý con muốn nắm cái chìa khóa để mình biết là mình luôn luôn, mình một niệm ác khởi lên, nó thuộc cái phạm cái giới nào.

Trưởng lão: Phạm giới nào.

Sư Phước Nhẫn: Đó. Là bị cái phạm giới thì nó nhiều cái. Mà còn cách giữ giới thì mỗi vị thì chỉ một cách khác nhau. Người nói giữ giới thì ráng giữ giới.

Trưởng lão: Nói vậy thì làm sao người ta biết được.

Sư Phước Nhẫn: Dạ, nó không có kỹ thuật.

Trưởng lão: Nó không kỹ thuật.

Sư Phước Nhẫn: Đó cũng như mình muốn bắn con chim phải có cái giàn thun hay cái có con súng.

Trưởng lão: Cái súng.

Sư Phước Nhẫn: Đó cũng như quét sân phải có cái chổi mới quét rác được. Đến khi đi quét sân mà không đưa cái chổi làm sao quét.

Rồi cũng như kêu giữ giới thì phải chỉ cách giữ giới, hay cái kỹ thuật giữ giới. Rồi cái lúc nào giữ giới, lúc nào không, lúc nào làm sao, lúc nào nhớ, lúc nào quên, phải nói hành mới được. Còn này, bình thường không có được chỉ, cứ kêu giữ giới, giữ giới hoài mà cái kỹ thuật giữ giới thì không có phổ biến cái đó. Mà cái kỹ thuật đó thì trong sách vở thì con ít có gặp lắm. Thì kêu giữ 250 giới thôi, còn kỹ thuật để mà giữ giới, cách làm sao mà nó tròn, ít có người biết cái đó.

Trưởng lão: Ít có người biết. Tức là khi mình học giới, thì mình giới bổn, rồi mình học về giới đức, rồi sau đó mình học về giới hành.

(48:24) Giới hành tức là mình học 37 phẩm trợ đạo đó là giới hành đó. Còn mình học về giới bổn là cái bổn giới 250 giới đó, để cho mình biết là: 4 giới Ba La Di nè, 2 giới bất định nè, 13 giới tăng tàng nè, 90 giới xả đọa nè. Mình phải học hết những cái giới này cho thuộc những cái giới nó nằm thuộc về cái hệ thống nào, hệ thống nào hết, rồi trong những cái hệ thống của nó, những cái giới của nó đều là mình thuộc hết như vậy.

Sau khi đó, mỗi khi mình học tới cái giới hành đó, thì lúc bấy giờ mình học tới cái bài Song Tầm đó thì mình có cái chỗ mình dựa vào. Cái tầm này tầm thiện nè, thì tức là nó không phạm giới này. Mà cái tầm ác thì mình quan sát, cái mình thấy cái này nó thuộc về giới tăng tàng nè, giới bất định nè, giới Ba La Di nè. Tức là mình biết rõ ràng là cái pháp của nó, nó khởi ra trong ý của mình, tức là cái ý của mình nó phạm giới đó thì ngay đó nó khởi lên cái niệm là mình đã thấy nó thuộc cái giới nào rồi.

Nó loanh quanh ở trong những cái giới đó, chứ nó không có chạy ra khỏi ngoài đâu. Có những cái ác pháp mà nó khởi trong đầu chúng ta mà phạm giới đều là nó ở trong những cái giới đó. Cho nên một cái người mà đã học về cái giới bổn rồi, người ta học về cái giới đức rồi, rồi người ta được học về cái giới hành rồi thì người ta áp dụng vô, thì người ta thấy nó rõ nó hiện ra cái tướng nó rõ.

Cho nên cái bài Song Tầm chúng ta dễ dàng tu lắm. Trong lúc đó, chúng ta lại tập Định Niệm Hơi Thở nó làm cho sức tỉnh thức của chúng ta rất cao. Cho nên mỗi cái niệm nó xẹt đến cái chúng ta biết mặt nó liền. Con thấy đó là cái phương pháp, cái cách thức để mà người ta giữ gìn giới nó trọn vẹn. Chứ giữ gìn giới, cứ bảo mình giữ gìn, mà rốt cuộc rồi không có cái phương pháp thì làm sao người ta biết đâu người ta giữ gìn. Còn cái này người ta có phương pháp hẳn hòi đàng hoàng, cho nên giới luật người ta nghiêm chỉnh. Do giới luật mới ly dục, ly ác pháp, giới mới sanh định. Có phải không?

Đức Phật nói: “Giới sanh Định, Định sanh Tuệ”, mà giờ mình chưa có giới làm sao mình sanh định được? Cho nên khi mà giới mà sanh định, thì lúc bấy giờ, giới luật chúng ta nghiêm chỉnh đó, là cái phần thô rồi, thì lúc bấy giờ đều tâm định tỉnh nó mới có. Tâm định tỉnh nó có nó mới xuất hiện Bảy Giác Chi. Bảy Giác Chi rồi đó, bắt đầu chúng ta sử dụng Bảy Giác Chi đó, chúng ta mới nhập cái Sơ Thiền. Nó phải đi tới mức đó, nó mới nhập Sơ Thiền, chứ không phải là nó dễ dàng mà ngồi ức chế tâm mà vô Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền đâu. Nên phải thấy cái đường đi của đạo Phật. Cho nên, cái giáo trình này, sau này nếu mà Thầy có dịp Thầy sẽ viết nên nó rất rõ ràng, cụ thể, cho thấy được cái đường đi của nó, cách thức tu tập nó vậy mới đúng.

Hôm nay thì con hỏi thì Thầy nói, để nếu mà lỡ mà Thầy có ra đi, mà Thầy làm không kịp cái này, thì mấy con còn có được những cái lời nói của Thầy, mấy con ghi lại, mấy con có thể mà sử dụng nó sau này, cho cái người sau người ta tu tập.

(50:52) Sư Phước Nhẫn: Với con muốn hỏi cái kỹ thuật đó, tại vì cái kỹ thuật mà giữ giới thì ít có người đề cập tới, ít có người dạy trong sách vở. Thành ra, sau này Thầy có, nếu được Thầy triển khai cái đó. Thí dụ mà viết không kịp Thầy có một cái thời lúc nào, Thầy nói trong băng nó lẹ Thầy.

Trưởng lão: Thì đó. Thì coi như là Thầy nói như thế này đó.

Sư Phước Nhẫn: …​ (Không nghe rõ).

Trưởng lão: Rồi sau này, rồi mấy con soạn thảo ra, mấy con mới viết. Chứ còn bây giờ mà Thầy ngồi mà Thầy viết thành văn thì nó mất thời giờ rất nhiều.

Sư Phước Nhẫn: Dạ ý con muốn nói là nói…​

Trưởng lão: Còn cái nói, nói đại khái để cho mình hiểu cái ý thôi, rồi sau đó, mình lấy cái ý đó mình biên tập để thành một cái giáo trình. Nó đỡ Thầy.

Sư Phước Nhẫn: Nhưng mà nó không có kinh nghiệm, thành ra sợ nhiều khi nó không trúng đó Thầy.

Trưởng lão: Đúng rồi, nếu mà sự thật còn Thầy, mà các con soạn rồi, Thầy đọc trở lại, Thầy mới chỉnh lại. Chứ còn nếu mà không còn Thầy, kể như ai cũng làm. Coi như là kết tập theo kiểu của mình rồi. Mình có nghe, nhưng mà mình kết tập lại theo cái kiểu của mình, chứ không thể nào theo của Phật được.

Sư Phước Nhẫn: Thành ra đi, mình đi, thấy con đi cái đường vòng vòng hoài, mà cái cốt lõi vô không có được.

Trưởng lão: Ừ.

9- CÁCH PHÒNG HỘ SÁU CĂN

(52:05) Sư Phước Nhẫn: Câu hỏi số hai là con xin Thầy chỉ cho cái kỹ thuật phòng hộ sáu căn. Thì có nhiều người chỉ phòng hộ sáu căn kiểu này, người chỉ phòng hộ sáu căn kiểu kia, nhưng mà cái cốt lõi của nó để mình giữ cho nó, cũng như giữ giới đó. Giữ giới cũng có cốt lõi, dựa vào cái ý. Còn mà cách phòng hộ sáu căn thì xin Thầy chỉ cho cái kỹ thuật đó luôn Thầy.

Trưởng lão: Dường như là Thầy tuyên bố cái này rất lâu rồi, về cái vấn đề mà phòng hộ sáu căn này tuyên bố rất lâu. Vì có một người hỏi Thầy đó, bí quyết thành công của thiền định là như thế nào? Thầy nói là, nó chỉ là: “Độc cư là mới là bí quyết thành công của thiền định”. Mà sự thật đó là cái phương pháp phòng hộ sáu căn của mình. Nghĩa là cái người sống độc cư là cái người phòng hộ sáu căn …​ (Không nghe rõ). Còn mình không sống độc cư là không phòng hộ sáu căn.

Mà không phòng hộ sáu căn thì tâm dễ phóng dật. Mà tâm dễ phóng dật thì coi như là nó có niệm ác, niệm thiện liên tục ở trong đầu của chúng ta, thì coi như con đường tu chúng ta rất là vất vả, mà chúng ta khó mặc tình, kết quả. Và nếu mà có kết quả đi, cũng chẳng qua là kết quả của định tưởng thôi chứ không bao giờ…​ Cho nên một cái người mà phòng hộ mà sáu căn nó đầy đủ đó, thì khi đi, khi đứng, khi nằm, ngồi đều là người ta sống một mình hết, người ta ít có duyên ra ngoài hết. Vì vậy mà cái hạnh độc cư rất là khó, không phải dễ.

Đó cái hạnh phòng hộ. Mà nếu người nào phòng hộ được là tốt. Mà người nào phòng hộ không được thì tu lâu, tu tới nỗi không bao giờ đạt được, rất khó. Phải hiểu cái bí quyết đó. Thầy đã dám nói là bí quyết thì đủ biết nó như thế nào rồi. Thì cái phương pháp phòng hộ sáu căn là độc cư, không có cái gì khác hết.

Sư Phước Nhẫn: Vậy là căn bản là mình phải biệt cư?

Trưởng lão: Phải biệt cư.

Sư Phước Nhẫn: Chứ còn mà nếu mình sống chung là không được?

Trưởng lão: Sống chung không được. Nghĩa là độc cư, độc bộ, độc hành đó mà.

Sư Phước Nhẫn: Con đọc trong kinh, con thấy mấy cái vị mà tu, mà đắc A La Hán thì cũng phải vô rừng một thời gian…​

Trưởng lão: Vô rừng. Không có ông nào mà không vô rừng hết, phải độc cư hết.

Sư Phước Nhẫn: Đa số các vị A La Hán ngày xưa vô rừng thời gian là chứng, chứ không có sống trong chúng. Nếu mà sống trong chúng ít có người nào đắc.

(54:00) Trưởng lão: Ít lắm. Phải vô rừng hết. Ba vị tôn giả con thấy: Ông …​, ông Kim tôn giả, ông A Na Luật tôn giả (tôn giả Nan Đà, tôn giả Kimbila, tôn giả A Na Luật). Ba vị đó sống trong khu rừng Sừng Bò đó. Mà ba vị đó, mà người ta sống người ta không nói chuyện với nhau. Ba vị đều là phải tách rời chúng, người ta sống riêng đó. Đức Phật đến thăm đó thì đủ biết. Còn ông Mục Kiền Liên là khi muốn chứng quả A La Hán, là ông xin đức Phật vào cái khu rừng hoang vắng tu một mình đó.

Sư Phước Nhẫn: Dạ.

Trưởng lão: Mình đọc lại rõ ràng là các vị A La Hán đều là độc cư hoàn toàn, chứ không phải là sống ở trong chúng mà tu được đâu. Trong chúng, cái người này đến động, người kia đến động đủ thứ, tu khó lắm. Thầy nói chung là Thầy cũng là nhờ độc cư trọn vẹn, cho nên Thầy biết đó là cái bí quyết rồi.

Sư Phước Nhẫn: Chứ con nghĩ là mình còn tiếp duyên, còn sống chung là mình không được.

Trưởng lão: Không được. Coi như không có.

Sư Phước Nhẫn: Vậy là mình phải có cái thất riêng, có cái chỗ riêng?

Trưởng lão: Ừ.

Sư Phước Nhẫn: Với có người cung cấp thức ăn, vậy mình tu vậy mới được.

Trưởng lão: Tu mới được.

Sư Phước Nhẫn: Chứ còn mình sống mà còn dựa vào chúng là kể như là rồi, không tới đâu hết.

Trưởng lão: Hỏng. Không tới đâu. Cứ hễ người này không làm động thì người khác làm động. Làm động rồi rốt cuộc rồi cái tâm mới bị phóng dật. Riết. Thầy nói bây giờ mình ở thất đây thôi…​

Con mắt của mình nó đâu có đui, cái lỗ tai của mình nó đâu có điếc. Ở ngoài kia họ la một cái, là trong này nó là tiếp nhận rồi, nó đã phóng ra rồi hoặc là…​

Sư Phước Nhẫn: Hoặc là mình không nhận cái nó đã nhận rồi.

Trưởng lão: Nó đã nhận rồi.

Sư Phước Nhẫn: Rồi lúc nào nó khởi lên, chứ đâu phải là…​

Trưởng lão: Mà bây giờ thì nó nhận vô, chứ nó chưa khởi đâu. Rồi một lát nữa mình ngồi tu yên rồi nó mới khởi lại, nó khó lắm chứ không phải dễ. Mà bí quyết của nó để thành tựu là độc cư, cho nên nó phòng hộ sáu căn kỹ lắm.

Sư Phước Nhẫn: Có nhiều người nói bên thiền quán nó cứ, không có sợ cái đó. Con thấy có lúc mà thời gian bỗng dưng tâm nó lắng đó, là khởi lên dữ lắm.

Trưởng lão: Đó nó tuôn trào.

Sư Phước Nhẫn: Bởi vì, như nước nó trong, nó đâu có, đục nó đâu có thấy gì đâu.

Trưởng lão: Ừ.

Sư Phước Nhẫn: Chừng như nước nó trong mình mới thấy con lăng quăng, rồi mới thấy con súng nước.

Trưởng lão: Đúng rồi.

Sư Phước Nhẫn: Họ nói không sợ, không sợ bởi vì ly nước nó đục rồi làm sao.

Trưởng lão: Nó đâu có thấy gì đâu.

Sư Phước Nhẫn: Bởi vì cũng như họ chưa tới cái nước trong, nước trong mới thấy sợ mấy cái đó.

(55:53) Trưởng lão: Khi mà con sống, mà con phòng hộ nó, con đừng có tiếp duyên ra ngoài rồi con mới thấy tất cả những cái tâm nó tuôn trào ra. Đó là nó thấy lăng quăng, nào là những cặn cáo gì của nó, nó thấy rõ hết rồi.

Sư Phước Nhẫn: Dạ.

Trưởng lão: Còn nếu mà con cứ quậy đục hoài thì còn không thấy cái gì hết. Coi như là mình bình thường không thấy có vọng tưởng gì được. Nhưng mà không có đâu. Ngồi độc cư rồi một thời gian, sau rồi mới thấy nó tuôn, nó tuôn dữ lắm. Nghĩa là mình thấy rõ cái tâm của mình nó không có đứng yên đâu. Rồi nó tuôn riết rồi nó hết, nó hết rồi, nó mới thanh tịnh lại, rồi tới đáy.

Đó như vậy là cái cách thức tu. Thầy nói người nào mà cột chân mình cho chặt ở trong độc cư đi, mà nếu mà chịu đựng nổi, không có pháp mà chịu đựng nổi thì thời gian sau đó, nghĩa là thời gian sau người này họ cũng thành tựu hết. Nó tuôn ra hết rồi. Nó tuôn ra, mình chịu không nổi, mình phải phóng dật thôi. Còn mình chịu nổi thì coi như là xong.

Cũng như thầy Chân Trí hồi đó về đây tu. Thầy vô trong rừng thầy ở trong cái thung lũng, có một mình thầy. Thầy nói nếu mà khu vực này mà nếu mà chuyên tu, mà quyết mà tu cho đạt được đó thì đừng có đi đâu hết, ở trong này không ai tới, coi mình đó, thì coi như là mình chỉ sống với cọp, beo, với vượn khỉ. Mình cứ sống vậy đi, rồi mình cứ nỗ lực theo những cái pháp mà Thầy dạy tu, thì một thời gian thì mình sẽ chứng đạo, mình sẽ ra.

Còn cái ông Chân Trí này, ông vô đây, ở đây chừng tuần lễ, ông buồn quá cái ông đi ra. Ông đi ra ngoài mấy cái chùa này ông chơi một vòng, cái ông vô đây ông ở. Ông nói ông sống độc cư ông tu. Thầy nói tu kiểu đó một ngàn năm cũng không tới nữa.

Sư Phước Nhẫn: Như nấu cơm mà bắc lên, bắc xuống hoài …​ (Không nghe rõ).

Trưởng lão: Vậy đó, thôi thôi ở yên đó thôi. Cứ bắc lên bắc xuống thì cứ để nồi cơm nó chưa có nóng mà để nó xuống rồi. Để xuống rồi cái, rồi đi vòng rồi cái về mới bắc lên, thì ông nội cái nồi cơm này nó không chín.

Sư Phước Nhẫn: Dạ. Thành ra con nghĩ cái cách phòng hộ sáu căn đó thì cái cách hay nhất là mình không có tiếp duyên.

Trưởng lão: Ừ.

Sư Phước Nhẫn: Mà không có tiếp duyên là phải sống biệt cư, mà như vậy là nó khó cái trường hợp để cho hành giả dạy lại cái đó. Thì như hoàn cảnh bây giờ nó khác hoàn cảnh hồi xưa.

Trưởng lão: Ừ. Khó.

Sư Phước Nhẫn: Vô rừng thì bị chúng bắt, đâu có ở được.

Trưởng lão: Cho nên Thầy có nghĩ đến cái vấn đề đó. Cho nên Thầy cũng ước ao rằng, Thầy có được cái khu vực ở Phước Hải, Thầy tạo cho mỗi người một cái hang riêng biệt trong cái khu vực đó, coi như là để vô trong đó thì kể như là cuộc đời của mình một là chứng đạo, hai là chết luôn ở trong đó. Thì Thầy có đề nghị với chú Tâm lo làm công chuyện đó, nhưng mà đến bây giờ thì vẫn chưa hoàn thành được nữa. Thì đây cũng là cái duyên thôi, chứ Thầy cũng không ước ao điều đó.

(58:22) Ngày xưa thì đức Phật có ông Cấp Cô Độc, ông lo lắng cho khi mà đức Phật đã chứng đạo, thì ông ấy đã tạo ra cái cơ duyên cho đức Phật. Còn Thầy thì có chú Tâm, nhưng mà cuối cùng thì nó chưa có đủ duyên, cho nên chú gặp nhiều cái thất bại trong cái giai đoạn mà kinh tế mở ngõ của Nhà nước đó, thì coi như chú làm không lên được nữa, cho nên nó chỉ đứng đó. Còn nếu mà chú làm nên được thì chắc chắn là hoàn thành được cái duyên của mọi người tu để đào tạo được những bậc A La Hán. Cho nên Thầy thấy đây cũng cái duyên. Vì vậy mà khi mà Thầy về Thầy trụ đây thì tạm thời một cái cái thất để chọn lấy một, hai người thôi.

Mà cuối cùng thì con thấy rồi, có nhiều người vừa tu rồi làm động rồi, thành ra cuối cùng Thầy phải đuổi thầy Chơn Tịnh, Từ Minh rồi chú Điền (Thanh Điền), là đuổi ba người này bằng cách là phạm cái kỷ luật mà độc cư đó. Mà do đó, khi mà Thầy đuổi đi Thầy thấy rất thương, nhưng mà sau khi đó thì Thầy thấy cái hận thù của mấy vị đó còn quá độ cao, bởi vì người ta là phàm phu mà. Cho nên đối với hiện bây giờ thì Thầy thấy thôi ai tu được tu, không được thôi, không đuổi ai nữa hết.

Cho nên khi đó, Thầy biết rằng cái duyên chúng sanh chưa đủ để mình đào tạo cho họ trở thành những bậc A La Hán. Chứ còn nếu mà khép chặt cho họ vào độc cư đừng có…​ Cái nơi nào đó, thí dụ như trong khu rừng như thế này, Thầy cho một người ở trong đây, cất một cái thất thôi, cho đây một cái thất ở gốc sau này, cái thất ba người Thầy đào tạo được hết.

Chứ còn ở đây liên tục thì không được. Thầy thấy không có được. Thà là cái mình nhận ít thôi, một người thôi, hai hay ba người thôi. Mình chia cái khu rừng của mình ra ba người, cũng như là cho họ sống, cũng như là ba vị tôn giả mà trong thời đức Phật.

Sư Phước Nhẫn: Dưới đây máy móc, rồi mình cũng ồn quá, nhạc ca, rồi đám ma, đám giỗ.

Trưởng lão: Đúng rồi, mấy cái đó là cũng khó phòng hộ lắm con.

Sư Phước Nhẫn: Dạ.

Sư Phước Nhẫn: Bây giờ chỉ còn có cách người ta tỉnh thức, giữ gìn để mà quán xét, để mình xả cái tâm của mình, chứ còn cách thức mà để mà đi sâu vào định là khó lắm. Như cái hạnh độc cư mà phòng hộ mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình, nhất là con mắt của mình hay là cái lỗ tai của mình rất khó.

10- NGHIỆP LÀ GÌ VÀ PHƯƠNG PHÁP CHUYỂN NGHIỆP

(01:00:27) Sư Phước Nhẫn: Câu hỏi số ba của con đó là vấn đề nghiệp. Cái này cũng là vấn đề mà nó, nhiều người bàn á Thầy.

Trưởng lão: Ừ.

Sư Phước Nhẫn: Thứ nhất xin Thầy định nghĩa nghiệp là gì? Thứ nhì, người ta nói tu là chuyển nghiệp? nhưng mà tu chuyển nghiệp là chuyển làm sao? Cũng như quét sân, không chỉ cây chổi, quét không được, sao tu …​ (Không nghe rõ).

Trưởng lão: Bởi vì chuyển nghiệp mà họ chỉ nói bằng cái danh từ, bởi vì chuyển nghiệp nó phải có những cái pháp chuyển, chứ nó không phải là không có cái pháp chuyển mà chuyển được.

Sư Phước Nhẫn: Cũng như ba cái này, bao nhiêu người con thấy cũng tội nghiệp cho người ta. Ta nói tu là chuyển nghiệp, cái bắt đầu họ vô chùa, họ làm công quả, họ quét sân, cái họ đi bố thí, họ nói vậy là chuyển nghiệp. Đó là con thấy cũng hơi kẹt vấn đề đó. Cho nên ngày hôm nay con muốn Thầy, thứ nhất là định nghĩa nghiệp là gì?

Trưởng lão: Bây giờ, đức Phật đã có định nghĩa nghiệp như thế này rất rõ ràng. Đức Phật nói rằng: ý nghiệp, khẩu nghiệp, thân nghiệp. Có không?

Sư Phước Nhẫn: Có.

Trưởng lão: Vậy thì ý nghiệp, khẩu nghiệp, thân nghiệp để xác định cho nó là ý hành, khẩu hành, thân hành, vì cái hành động của nó, nó tạo thành cái nghiệp nó không phải là gì khác hơn hết.

Cho nên cái mục đích mà cái người tu mà Thân Hành Niệm đó, là họ tu để cái ý thức họ làm chủ cái nghiệp của họ, làm chủ cái hành động của nó. Thân Hành Niệm là tu tập trên cái thân hành của nó chứ gì? Mà cái ý phải làm chủ cái hành động của nó, tức là làm chủ cái nghiệp của nó. Như vậy Thầy xác định đã rõ nghĩa chưa? Cho nên vì vậy gọi là chuyển nghiệp.

Còn nếu mình không làm chủ thì không chuyển nghiệp. Hầu hết là mình làm theo nghiệp, chứ không phải là mình làm chủ nghiệp. Còn cái người tu, người ta tập Thân Hành Niệm rồi người ta thấm thấy rõ ràng là cái hành động của mình, nó phải đi sau cái ý thức của mình. Cho nên đó là mình chuyển nghiệp. Đúng chưa? Cho nên vì vậy mà luôn luôn ở trong tầm thiện, chứ không có ở tầm ác được. Nó chuyển hết nghiệp rồi.

(01:02:11) Cho nên trong cái cuộc đời tu, cái người tu đúng đó, Thân Hành Niệm rồi, người ta hiểu được như vậy đó, thì người ta sẽ chuyển hết cái nghiệp khổ người ta, người ta không còn khổ nữa, tâm hồn người ta thanh thản, tâm bất động rồi. Chính cái pháp Thân Hành Niệm nó mới dạy chúng ta nhập Bất Động Tâm Định. Đó là chuyển hết nghiệp. Thấy chưa? Thấy rõ chưa? Nó ngay phương pháp chuyển nghiệp.

Cho nên ai nói mà tu chứng rồi mà còn bị nghiệp như ông Mục Kiền Liên rồi đó thì, đã còn nghiệp phải trả, chứng quả A La Hán mà không chuyển nghiệp, Thầy nói là sai. Trong cái bài tập Thân Hành Niệm là chúng ta đã từng làm chủ cái nghiệp của chúng ta rồi chứ gì? Nghiệp là thân hành, ý hành, khẩu hành chứ gì? Ý nghiệp, khẩu nghiệp, thân nghiệp chứ gì? Thì đó là cái hành động của nó chứ gì? Vậy thì cái người tu Thân Hành Niệm này là tức làm chủ từng cái hành động của người ta, làm sao người ta còn nghiệp? Có đúng không? Cái bài Thân Hành Niệm đã xác định rất rõ ràng, nó chuyển hết cái nghiệp. Cho nên vì vậy mà cuối cùng Bảy Giác Chi nó xuất hiện ra, nó mới làm chủ sanh tử, chấm dứt luân hồi. Thấy cái chỗ đó chưa? Cái pháp, cái mấu chốt của đức Phật là chỗ đó đó.

Sư Phước Nhẫn: Con cũng hiểu là mình dựa vào ý căn để mình làm chủ các hành động, như vậy gọi là chuyển nghiệp. Đó, còn người khác thì họ không hiểu vậy, họ nói cũng như mình đi làm phước, làm lành, quét sân chùa, như làm công quả đó là chuyển nghiệp. Vì cái nghiệp họ xấu đó, họ làm vậy họ tạo phước. Nên nó khác ý.

Trưởng lão: Cái đó là họ tạo cái phước hữu lậu, chứ không phải chuyển nghiệp. Cái nghiệp họ là còn cũ, nhưng mà tạo thêm cái phước này để mà họ hưởng cái lậu hoặc thêm, chứ không phải là cái gì hết, cho nên luôn luôn còn. Còn cái chuyển nghiệp đó, là người ta phước vô lậu rồi, cho nên nó không còn lậu hoặc nữa.

Sư Phước Nhẫn: Thành ra cái này nó là cái cốt lõi, chứ còn nhiều người viết bài tu là chuyển nghiệp, con thấy nó không có đi sâu vô gốc.

Trưởng lão: Cái đó sai.

Sư Phước Nhẫn: Rồi có một cái nữa là nghiệp, con hỏi Thầy, nghiệp là gì? Tại vì nhiều người định nghĩa nghiệp nhiều kiểu. Cũng như nói nghiệp là thói quen, đó là một cái. Còn như nghiệp đó là họ nói là cái này do nhiều đời nhiều kiếp mình tạo ra cái nhân, giờ mình hưởng cái quả, cái quả đó cũng là cái nghiệp. Đó cho nên con muốn Thầy định nghĩa cái nghiệp như thế nào cho nó chính xác, mình chuyển nó mới được.

(01:04:15) Trưởng lão: Cái nghiệp, phải nói rằng, để cho nó rõ được cái nghĩa của cái chữ nghiệp của nó đó, là như thế này. Khi mà một cái hành động lần đầu tiên thì nó mới bắt đầu, nó là cái nhân. Cái hành động thứ hai thì nó tiếp tục một cái nhân thứ hai, rồi hành động thứ ba gọi cái đó là gọi là cái danh từ gọi là huân, huân nghiệp.

Cũng như bây giờ, lần đầu tiên đó mà mình chất chứa vô đó. Lần đầu tiên người ta mới chọc mình, mình có sân có một cái thôi, rồi cái đó là cái nhân của mình thôi, nó chưa có thành cái nghiệp đâu. Cái thứ hai, thứ ba mình huân riết nó mới thành một cái lực của nó, cái lực của nó mới gọi là cái nghiệp. Thầy muốn nói ở đây, tới khi mà nó đã thành cái thói quen rồi đó, thì cái thói quen rồi nó mới thành nghiệp.

Cũng như bây giờ Thầy mới uống ly rượu đầu tiên, thì Thầy chưa có quen đâu, cho nên nó Thầy có thể Thầy bỏ nó dễ dàng lắm, Thầy thấy đắng quá, thôi không cần uống nữa. Một ly rượu đầu tiên chưa thấm Thầy được cái gì đâu. Nhưng mà Thầy uống ly thứ hai, ly thứ ba, thứ tư, thứ năm nó huân rồi, bây giờ Thầy bỏ là vấn đề khó. Mà cái nghiệp là cái bỏ rất khó, là cái nghiệp.

Cũng như bây giờ tham, sân, si là nó gọi là nghiệp tham, sân, si của mình đó, là khó bỏ, là tại vì mình huân quá nhiều rồi, bây giờ nó thành cái lực. Cho nên nói nghiệp, tức là người ta còn nói là nghiệp lực. Phải hiểu chỗ đó.

Còn bây giờ mà tôi mới hành động, một hành động đầu tiên thì không thể nói nó là nghiệp được, nó không tạo cho tôi được cái gì khổ đâu. Cũng như bây giờ tôi cầm điếu thuốc tôi hút chơi, một lần đầu tiên tôi chưa ghiền đâu. Nhưng mà lần thứ hai coi chừng, lần thứ ba, thứ tư coi chừng đó tôi sẽ bị ghiền đó, nó huân gọi là huân nghiệp.

Cho nên cái nghiệp thì chúng ta phải nói có cái thời gian huân nó, chứ còn nếu mà nói cái nghiệp mà một lần đầu tiên mà nói nó cái thành nghiệp, không thành. Nó mới chỉ có thân hành thôi, hay là khẩu hành, ý hành chúng ta chưa phải, là một đầu tiên. Nhưng mà thân hành, khẩu hành nhiều lần thì nó thành nghiệp thật. Nghiệp nó sẽ dẫn mình đi, nó dẫn mình đi trong cái ham mê, trong cái thích thú, trong cái dục lạc của nó. Đó là cái nghiệp, gọi là nghiệp dẫn đi luân hồi đó. Đó là nó theo cái thói quen đó mà nó dẫn mình đi vào cái sự đau khổ, cho nên gọi là nghiệp dẫn đi luân hồi.

Thì trong khi định nghĩa chữ nghiệp, thì chúng ta phải hiểu rằng nhiều lần trong cái hành động ý, khẩu và thân của chúng ta mà tạo thành cái nghiệp, chứ không phải trong một lần. Thì người ta nói thói quen đúng đó. Cái thói quen là nghiệp, nghiệp là thói quen thì đúng. Nhưng mà mình phải hiểu cho nó rõ ràng là huân nhiều cái hành động, thì nó mới trở thành cái lực, nếu quá nhiều thì cái lực nó quá mạnh. Cái đó gọi là nghiệp.

(01:06:50) Sư Phước Nhẫn: Thì bình thường con thấy cái thân mình thường thường nó hoạt động theo cái thói quen, theo thói quen của nó. Rồi mình dùng cái ý căn để mình làm chủ cái thói quen đó, như vậy gọi là chuyển nghiệp.

Trưởng lão: Chuyển. Đó. Mình vơi lần, vơi lần cho cái hành động của mình càng ngày nó càng ở trong thiện, mà nó chuyển cái ác đi, nó làm cho mình thoát khổ. Đó gọi là…​

Sư Phước Nhẫn: Như vậy muốn chuyển nghiệp là phải làm chủ các cái hành động của mình?

Trưởng lão: Làm chủ các hành động.

Sư Phước Nhẫn: Làm chủ các thói quen của mình?

Trưởng lão: Ừ. Đó vậy đó.

Sư Phước Nhẫn: Như vậy mới là chuyển nghiệp?

Trưởng lão: Chuyển nghiệp.

Sư Phước Nhẫn: Nó mới chính xác. Con nghĩ chính xác tức là mình đi làm phước, làm này, làm kia đó đâu phải là chuyển nghiệp.

Trưởng lão: Không phải đâu, làm phước đó là mình tạo cái phước hữu lậu.

Sư Phước Nhẫn: Bởi vì có cái ý vầy, thành ra nói bây giờ, thí dụ mình sanh ra, cái mình ở trong cái nhà nghèo, mình sanh ra mình ở trong cái nhà giàu, rồi nói tại cái nghiệp. Hồi đó mình làm đó, mình giờ mình hưởng.

Trưởng lão: Ừ.

Sư Phước Nhẫn: Đó. Thành ra bây giờ thì họ nói cái đó là bây giờ mình nghèo đi, thành ra mình bị cái nghiệp, mình hễ đi quét sân, quét rác, đi làm công quả rồi mai mốt mình giàu.

Trưởng lão: Mình giàu…​

Sư Phước Nhẫn: Nó đâu có liên quan đến nghiệp mình.

Trưởng lão: Cái nghiệp đó, cái nghiệp khổ. Mình huân cái đó để mình lọt trong cái nhà giàu, lọt trong nhà giàu đó để mà thọ lấy những cái khổ của nhà giàu, chứ đâu phải nhà giàu mà hết khổ. Người ta hiểu rằng cái giàu là sướng khi mình ở trong cái nghèo, mình nhìn cái giàu là sung sướng. Nhưng mà sự thật lọt ở trong cái nhà giàu rồi, sự thật nhà giàu không sung sướng đâu, cũng còn khổ hà.

Đức Phật là vua kia mà, còn bỏ ngai vàng mà đi tu. Thì thử nghĩ tạo cái phước, mà bây giờ mà đi làm như vậy để cho cái phước hữu lậu, cho nó cao vời vợi để nó có hạnh phúc ở chỗ nào không? Người ta làm vua kia mà người ta còn thấy người ta bỏ, còn mình bây giờ đi cào nó để hốt ba cái này vô để mà làm giàu, để kiếp này tôi nghèo, kiếp sau tôi sanh vô nhà giàu, tôi đã hưởng của này cho nó sung sướng. Mấy cái người này, mấy người ngu nhất. Càng giàu càng khổ nhất. Chớ đừng có nói sung sướng, bởi vì đó là cái phước hữu lậu người ta.

(01:08:38) Bây giờ Thầy đặt thành vấn đề để cho thấy. Thí dụ như một vị Hòa thượng ở trong hàng giáo phẩm của chúng ta, bây giờ được đệ tử, được Phật tử, được người uy tín này kia, tôn xưng này kia, thì cái ông này có được giải thoát không? Bằng một vị tu sĩ ở trong rừng? Đâu có giải thoát được. Ông này đau này thì đệ tử này đến khóc, đến lôi, đến mời đi bệnh viện này kia, khổ sở. Còn ở trong rừng ông này ông tu, ông đau bệnh thì ông dùng thiền định ông đẩy lui, không ai quấy rầy ông chút nào hết. Thì cái người này là vô lậu mà cái người kia là hữu lậu rồi. Được người hầu kẻ hạ, mà người hầu kẻ hạ có để họ yên không? Đó mình so sánh như vậy là biết mình đi tạo chi một cái thêm những cái hữu lậu cho đau khổ này. Giàu đâu phải là hạnh phúc đâu.

Sư Phước Nhẫn: Thành ra chỉ cách tu là chuyển nghiệp mà họ chỉ ba cái lòng vòng đó…​

Trưởng lão: Ba cái lòng vòng để chuyển cái khổ thêm, chứ đâu phải là chuyển nghiệp.

Sư Phước Nhẫn: Thành ra mấy hành giả họ không biết, họ cứ đi lún lún vô hoài.

Trưởng lão: Ừ, lún vô, lún vô hoài. Thành ra tạo bây giờ cái…​ Hầu hết là Phật tử chúng ta đều bị lún vô. Từ cái nghiệp nghèo để tạo thành cái nghiệp giàu. Nghiệp giàu đâu phải là phước vô lậu đâu, nó là hữu lậu mà. Nó càng giàu nó lại càng khổ, chứ đâu phải là sung sướng.

Sư Phước Nhẫn: Thấy đầy đủ, người ta có xe mình cũng có xe, thực tế thì nó rõ ràng …​ (Không nghe rõ).

Trưởng lão: Thực tế thì nó rõ ràng đó. Nhưng mà cứ nhìn lại thì trong cái tâm trạng của cái người giàu đó, họ chưa hết. Bây giờ cái người mà không xe này, họ đi ít cái xe mà tai nạn giao thông. Còn cái người giàu này họ có xe, coi chừng tai nạn giao thông xảy ra. Một cái mất mát mà cũng là đau khổ rồi. Họ còn đau khổ hơn nhiều cái người nghèo nữa. Khi mình suy tư, mình nghĩ thì mình mới thấy được. Còn không suy tư, tức là ở trong tà kiến thì thấy hạnh phúc thiệt. Nhưng mà trong Chánh Kiến rồi thì thấy cái này không hạnh phúc đâu.

Bởi vì đức Phật dạy Bát Chánh Đạo mà Chánh Kiến, Chánh Tư Duy. Nếu mà Chánh Kiến, Chánh Tư Duy đúng thì người ta đâu có ham cái xe. Nên người mà tà kiến, tà tư duy mới ham cái xe, cũng như người mà ham chùa to, Phật lớn, cũng như người không ham chùa to, Phật lớn thì hai người này người nào tà kiến, người nào chánh kiến, chúng ta biết. Đó là những cái mà xác định được để mà chúng ta không khéo, mà chúng ta chuyển nghiệp mà lại chúng ta lại huân thêm nghiệp, chứ không phải là chuyển nghiệp.

11- TU THÂN HÀNH NIỆM TỚI LÚC NÀO MỚI BIẾT CÓ KẾT QUẢ TRÒN?

(01:10:45) Sư Phước Nhẫn: Tới câu hỏi số bốn là con hỏi về tu Thân Hành Niệm. Mình tu tới cái lúc nào mới biết nó có kết quả tròn?

Trưởng lão: Mình sẽ tu mà tới cái tâm của mình không phóng dật, hoàn toàn nó định tĩnh trên thân hành của nó, mà các pháp, sáu pháp trần ở ngoài là sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, sáu cái pháp nó tác động vào, như thinh trần hay hoặc là như sắc trần hay hoặc là vị trần mà tác động vào, mà cái tâm nó vẫn biết trên hành động, nó không phóng theo những cái sắc pháp đó thì coi như là tâm không phóng dật là nó đã là xong cái pháp Thân Hành Niệm. Kết quả xong của đó. Còn nếu nó còn phóng thì chưa được.

Sư Phước Nhẫn: Mình tu trong bao lâu mình mới biết kết quả đó Thầy?

Trưởng lão: Nghĩa là mỗi lần tu đó, thì mình sẽ thấy nó có kết quả, bởi vì Bảy Giác Chi nó xuất hiện lần lượt, nó xuất hiện cho chúng ta thấy. Nếu một người tu đúng đó, thì trong cái Thân Hành Niệm mà tu đúng đó, thì chỉ có đi vòng thứ nhất qua vòng thứ hai thì có cái Tinh Tấn Giác Chi, cái Hỷ Giác Chi và Khinh An Giác Chi xuất hiện liền ba cái này, nếu tu đúng. Còn tu sai thì không xuất hiện. Nghĩa là mình tu sai là không xuất hiện, nghĩa là tu thấy mệt mỏi, tu thấy cực khổ quá. Còn người ta tu đúng, nó xuất hiện, mà người ta thấy phơi phới.

Nghĩa là trời nóng, thì nó quân bình được, nó làm cho khí hậu trong cái người tu lúc bấy giờ không có cảm giác nóng, mà trời lạnh thì nó không lạnh, là cái người đã tu đúng rồi, bởi vì Khinh An và Hỷ Giác Chi nó xuất hiện rồi. Rồi Tinh Tấn Giác Chi nó làm cho cái thân của chúng ta mềm mại, dẻo dai, nó nhẹ nhàng phơi phới ở trên những cái thân hành, đi, đứng, nằm, ngồi của nó rất nhẹ nhàng. Đó là nó xuất hiện ba cái đầu tiên là chúng ta biết là kết quả của Thất Giác Chi đã có, đã xuất hiện rồi.

Rồi cái kế đó thì cái Niệm Giác Chi, rồi tới cái Định Giác Chi, cái Định Giác Chi tức là cái tâm nó, coi như nó không phóng dật ra rồi, tiếng động nhỏ này kia là hoàn toàn nó không có lưu ý nữa rồi, ai làm gì nó không lưu ý nữa rồi. Đó là cái Định Giác Chi nó xuất hiện. Còn lưu ý là cái Niệm Giác Chi thì chúng ta mới niệm được ở trên cái thân hành của nó đang hành động thôi, nó niệm đúng cách của nó, chứ không phải là niệm theo cái nghiệp, nó không phải đâu.

(01:12:49) Thường thường là người ta tu cái Chánh Niệm Tỉnh Giác đó, là người ta, thường thường người ta tỉnh trên hành động người ta, đồng thời một lượt. Nghĩa là bước thì cái biết của nó bước đi hay hoặc là đưa cánh tay nó vừa biết được nhau, thì đó là Chánh Niệm Tỉnh Thức. Thì cái tỉnh thức của nó là khi mà cái Niệm Giác Chi mà nó xuất hiện đó, thì người ta nó không có cái hành động nào mà người ta bỏ sót hết, là cái niệm nó không có bỏ sót cái thân hành của nó, thì đó là Niệm Giác Chi nó xuất hiện.

Còn cái Định Giác Chi mà nó xuất hiện đó thì hoàn toàn mỗi một cái ý của nó, cái thân hành nó, nó chưa có làm mà cái ý của nó đó, nó ra lệnh hay hoặc là nó biết trước cái thân hành nó phải làm cái điều đó, thì lúc nào cái này nó cũng không có đồng thời một lượt. Khi mà cái Niệm Giác Chi mà nó xuất hiện đó thì nó đồng thời một lượt với cái thân hành, nó biết đồng thời với một lượt thân hành. Mà cái Định Giác Chi mà xuất hiện đó, thì cái biết nó trước cái thân hành nó đi sau, nó không có trước nữa. Tự động nó, cái biết này nó phải trước, rồi cái thân hành nó đi sau, thì cái đó là Định Giác Chi. Và đồng thời, thì chúng ta lưu ý rằng lúc bấy giờ nó không có phóng ra ngoài theo pháp trần, thì chúng ta biết là Định Giác Chi có.

Thì trong cái thời gian mà có được cái Định Giác Chi rồi thì chúng ta phải kéo dài cái Định Giác Chi này, nó phải có cái thời gian dài là 12 tiếng đồng hồ như cái bài Nhất Dạ Hiền mà Phật đã dạy đó, là một đêm là 12 tiếng đồng hồ. Thì lúc bấy giờ đó phải, mình thấy được mình có Định Giác Chi rồi thì mình mới kéo dài 12 tiếng đồng hồ. Còn nó chưa có Định Giác Chi mà kéo dài 12 tiếng đồng hồ là bị phản ứng. Thầy dặn, cho nên mà là rất rõ, mà nó phản ứng, nó làm chúng ta gặp những cái khó khăn, gặp cái vô ký, hay hoặc là hôn trầm, hay hoặc là thân của chúng ta bị cảm thọ, cảm thọ rất là khổ. Nó sẽ gặp những cái khó khăn.

Còn nếu mà nó định tĩnh được rồi, thì lúc bấy giờ đó, tức là Định Giác Chi mà xuất hiện được rồi thì lúc bấy giờ đó chúng ta có thể kéo dài nó 12 tiếng đồng hồ. 12 tiếng đồng hồ thì hai giác chi sau cùng là Xả Giác Chi và Trạch Pháp Giác Chi nó sẽ xuất hiện. Trạch Pháp Giác Chi tức là Dục Như Ý Túc, tức là Tứ Như Ý Túc nó xuất hiện là Trạch Pháp Giác Chi đó chứ không gì hết. Còn Xả Giác Chi là nó phải xả trước, cho nên khi mà định rồi, thì trong khi mình định thì tức là cái tâm vi tế của mình tự nó quét ra, cho nên cái Xả Giác Chi bắt đầu nó xuất hiện.

Sư Phước Nhẫn: Chữ xả đây nghĩa là sao Thầy?

(01:15:06) Trưởng lão: Nghĩa là nó không bao giờ mà nó phóng dật ra ngoài, là xả. Nó không phóng nữa là xả đó. Còn nó phóng, nó huân vô là nó không xả. Còn bây giờ nó không có chấp nhận huân vô nữa tức là nó xả. Mà Xả Giác Chi nó hiện đó thì nó không huân vô. Cho nên mình có định rồi, mà bây giờ mà thấy nó không phóng ra nữa thì mình biết rõ ràng. Định là mình lưu ý trước tiên là cái ý thức của mình, nó trước cái hành động, rồi cái hành động mới sau, là mình biết có định rồi. Còn mà nó lượt lượt đó thì nó mới Niệm Giác Chi thôi. Phải không? Phải lưu ý cái phần này.

Mà khi mà nó không phóng dật ra là Xả Giác Chi, bởi vì nó không tiếp nhận vô là nó xả. Còn nó đang tiếp nhận vô là nó không xả đâu. Thường thường mình còn bị phóng dật là mình không xả tâm mình đâu. Mà phải lưu ý cái phần này ha. Mà khi cái Xả Giác Chi nó xuất hiện đó, là cái tâm không phóng dật, nó không tiếp ở ngoài vô, là ở trong này nó quét ra nó mới sạch. Đó là cái Xả Giác Chi nó xuất hiện. Mà Xả Giác Chi mà nó xuất hiện đó, suốt trong 12 tiếng đồng hồ là cái Xả Giác Chi mà chúng ta thấy nó không phóng dật rồi, 12 tiếng đồng hồ, thì bắt đầu nó, cái Trạch Pháp Giác Chi xuất hiện, tức là Tứ Như Ý Túc. Thì lúc bấy giờ chúng ta, cũng như là muốn lấy cái gì đó thì cũng như đồ trong túi chúng ta lấy ra rồi, dễ rồi.

Sư Phước Nhẫn: Khi đó có quay trở lại Tứ Niệm Xứ tu lại không Thầy?

Trưởng lão: Không, không cần tu lại nữa, hết rồi. Bởi vì nhờ Tứ Niệm Xứ mà cái đoạn cuối cùng là Thân Hành Niệm đó là nó, Tứ Niệm Xứ đã nó sung mãn Bảy Giác Chi rồi. Tức là sung mãn Tứ Niệm Xứ tức là Bảy Giác Chi xuất hiện, tức là Bảy Giác Chi nó hiện ra.

Sư Phước Nhẫn: Vậy là mình khỏi ngồi Tứ Niệm Xứ lại?

Trưởng lão: Khỏi ngồi Tứ Niệm Xứ hết. Hoàn toàn là tu cái Thân Hành Niệm rồi, thì khi mà Bảy Giác Chi xuất hiện rồi, thì bây giờ chúng ta bắt đầu mà chúng ta nhập các định rồi thực hiện Tam Minh thôi. Là xong công chuyện rồi. Cái này nó nhanh rồi, hết gọi là tu. Chỗ này, Tứ Niệm Xứ bỏ luôn hết, không có chơi Tứ Niệm Xứ nữa.

Sư Phước Nhẫn: Cũng như trong này, con thấy đa số người ta tu Thân Hành Niệm. Con định xin Thầy cái bài Thân Hành Niệm, như cái bài đó con quên rồi, không có chép lại. Chứ con thấy đa số, con thấy tu cẳng hành niệm thôi, chứ có Thân Hành Niệm đâu Thầy. Không có ích gì cả, tu cẳng hành niệm không à. Bởi vì chú ý hai cái chân, con mắt thì ngó qua ngó lại, cái tay thì chống nạnh. Rồi họ chỉ chú ý thôi, trong khi cái thân mình phải tu hết chứ phải tu hai chân không đâu. Đó thành ra chú ý cái chân, mà chú ý chân trái, chân mặt, chân trái, chân mặt cái bước, còn cái tay không để ý, cái mình không để ý, cái mặt không để ý. Thành ra con chế nó cẳng hành niệm.

(01:17:24) Trưởng lão: Thật sự ra thì trong cái bài Thân Hành Niệm, khi mà đọc cái bài Thân Hành Niệm, thì coi như nó là toàn diện của cái bài Tứ Niệm Xứ chứ không phải gì hết. Trong đó nó có Định Niệm Hơi Thở, nó có quán vô lậu, rồi nó có quán bất tịnh rồi nó đủ thứ ở trong này hết à. Rồi nó chỉ dạy những cái thân hành mình đi, đứng, nằm ngồi tất cả đó là cái…​

Sư Phước Nhẫn: Đó là cái cuốn nào Thầy? Trung Bộ hay…​

Trưởng lão: Trung Bộ.

Sư Phước Nhẫn: Cuốn mấy Thầy?

Trưởng lão: Mà Thân Hành Niệm cuốn Trung Bộ, hình như trong cái bộ Trung Bộ mà tập hai thì phải.

Sư Phước Nhẫn: Tập hai, con quên ghi nó luôn.

Trưởng lão: Để Thân Hành Niệm. Lật cái bộ Trung Bộ nó ba tập, thì mình lật cái tập hai ra mình xem, thì nó nằm ở trong tập hai. Còn…​

Sư Phước Nhẫn: Chứ còn Đại Niệm Xứ thì mình nên đọc trong cuốn nào?

Trưởng lão: Đại Niệm Xứ thì nó ở trong cái Trường Bộ. Còn ở trong Trung Bộ nó cũng có Niệm Xứ nữa. Cho nên khi mà lật cái bài Thân Hành Niệm, thì khi mà đọc cái bài Thân Hành Niệm này rồi, thì mới đọc qua cái bài mà Nhất Dạ Hiền, cũng ở trong Trung Bộ, A Nan Nhất Dạ Hiền hay là Ca Chiên Diên Nhất Dạ Hiền đó. Mình đọc lại cái bài kệ đó, rồi mình mới quan sát lại cái bài Thân Hành Niệm, rồi mình mới cấu kết nó lại thành một cái cỗ xe y như cái lời mà trong cái bài Thân Hành Niệm, đức Phật đã nói đó thì mình mới thực hiện mới được. Chứ còn không khéo nó tổng quát quá thì mình không biết đâu mà tu.

Cho nên vì vậy mà Thầy dám cấu kết nó từ năm hơi thở, 20 bước, rồi đứng lên, ngồi xuống, tất cả những cái oai nghi hành động này, mới ghép lại nó thành một cái cỗ xe. Đó là cái cách thức Thầy kết nó lại trở thành cái cỗ xe để cho nó chạy đi Nhất Dạ Hiền đó, tức là nó sẽ sử dụng ở trong một đêm. Đó là cách thức như vậy, nhưng mà tu tập thì Thầy đã chỉ cách thức tu cho mấy vị này rồi, nhưng mà Thầy biết là có sai. Cho nên cứ đi tu như vậy mà Bảy Giác Chi không xuất hiện. Có người không xuất hiện, ráng tu chứ không xuất hiện. Cũng như cô Trí, cô gì mà cư sĩ tu hôm trước này cô hỏi Thầy rất kỹ, nhưng mà cuối cùng thì cũng tu tập nhiều nhưng mà không có xuất hiện.

Sư Phước Nhẫn: Như con thấy cái, họ đi đốt giai đoạn Thầy, bởi cái phần mà Tứ Chánh Cần mình mà giới chưa có tròn.

Trưởng lão: Cái thứ nhất là cái bài Định Niệm Hơi Thở chưa có đạt được.

Sư Phước Nhẫn: Như không nhảy vô tu pháp Thân Hành Niệm.

(01:19:30) Trưởng lão: Vô nghe nói tới Thân Hành Niệm là nó kết quả vậy cái họ ham, họ vô, họ nhào tu, chứ họ thật sự, sự thật ra cái bài mà 16 cái đề mục mà của cái bài mà Định Niệm Hơi Thở, con thấy chưa có đạt chất lượng của nó đầy đủ đâu.

Sư Phước Nhẫn: Con thấy mấy cái người mới mà tập cái Thân Hành Niệm mất thời giờ. Mà tập cái Định Niệm Hơi Thở với hay là tỉnh thức thì nó quan trọng hơn. Còn như không vô chưa tới đâu hết, Tứ Niệm Xứ chưa tới đâu, nhảy Thân Hành Niệm. Bởi có lúc con đi, con kinh nghiệm con biết, trong vòng một tiếng đồng hồ nó rất là nhẹ nhàng. Tinh Tấn Giác Chi, Khinh An Giác Chi nó có, nhưng mà là nó bị phóng dật. …​ (Không nghe rõ).

Trưởng lão: Nó không chịu đâu. Nó không chịu…​

Sư Phước Nhẫn: Mà cái giai đoạn đầu mình, nó đâu có tròn đâu.

Trưởng lão: Mình mất rồi. Mình mất cái giai đoạn đầu, mình không căn bản rồi, mình nhảy vô đây thì bị phóng dật thôi.

Sư Phước Nhẫn: Đi chừng là một tiếng không có nhằm gì hết trơn hết.

Trưởng lão: Thành ra cái chỗ mà cái Niệm Giác Chi và cái Định Giác Chi nó không có rồi, nó sẽ không xuất hiện rồi, bởi vì nó phóng dật là làm sao xuất hiện được. Nó phóng tâm rồi.

Sư Phước Nhẫn: Dạ. Thành ra bởi vì cái giai đoạn đầu mình không có căn bản.

Trưởng lão: Còn giai đoạn đầu mình có căn bản thì nó không phóng dật cái chỗ này. Còn mình không căn bản thì vô đây mình dễ.

Sư Phước Nhẫn: Ở ngoài phóng dật tùm lum hết trơn, tu Tứ Niệm Xứ chưa tròn nhảy vô Thân Hành Niệm rồi, kêu là cẳng hành niệm không là đâu có được.

Trưởng lão: Ừ. Với lại như thế này nữa, khi mà mình bắt đầu vô tu Tứ Chánh Cần đó, thì mình còn tiếp duyên để có những cái đối tượng mình xả tâm của mình, mình dùng mình ngăn ác diệt ác pháp của cái pháp Tứ Chánh Cần ha. Rồi sau khi mà Tứ Chánh Cần bước qua Tứ Niệm Xứ là độc cư trọn vẹn đó, phải độc cư 100% mà mới bước vào Tứ Niệm Xứ.

Tứ Niệm Xứ thì nó nhẹ nhàng lắm, nhưng có cái điều kiện là nó chưa có cái lực mà gọi để cho nó định tỉnh được, nó chưa có đến cái lực mà để nó quét những cái vi tế ở trong tâm của mình, mình ly dục, ly ác pháp vi tế đó, nó không có quét nổi nhưng mà nó rất là an lạc.

Mà khi mà cái người mà tu Tứ Chánh Cần mà nó nghiêm chỉnh, nó có căn bản rồi, đi sang qua cái Tứ Niệm Xứ, mà trên Tứ Niệm Xứ để mà đẩy lui chướng ngại pháp của nó đó, thì nó rất dễ. Khoảng thời gian mà tu nó không lâu đâu thì người ta chuyển qua cái Thân Hành Niệm là người ta kết quả dữ lắm rồi.

(01:21:22) Và Thân Hành Niệm người ta tu tập chỉ trong vòng chừng tuần lễ là người ta có thể đạt được kết quả, chứ không phải là tu không đến, quá chậm như mấy cô này đâu. Mất căn bản. Thật sự ra Thầy dạy Thầy biết mà, mấy người này đều là mất căn bản hết, mất căn bản từ nơi cái Định Niệm Hơi Thở bắt đầu dẫn tâm đầu tiên để mà vào từng cái đề mục của nó, mà dẫn cách thức cũng sai, nó không đúng nữa đó. Thầy cũng biết vậy đó.

Sư Phước Nhẫn: Bởi vậy kinh nghiệm quan trọng lắm mà không để ý. Con kinh nghiệm, cái lúc mà nước nó trong rồi, lúc nó khổ lắm rồi, lúc nó hiện lên đủ thứ chuyện hết trơn hết.

Trưởng lão: Với nếu mà mình không có tu tập cái bài mà Xuất Tức Nhập Tức đó, thì khi mà cái thân của mình, Thầy nói thật sự cái thân, thí dụ như bây giờ cái thân của Thầy này, nó bị ho này, nó bị mệt này, mà Thầy chỉ cần nhắc vầy thôi, cái lúc nó đưa Thầy, cái thân Thầy an lạc liền: “An tịnh thân hành, tôi biết tôi hít vô. An tịnh thân hành, tôi biết tôi thở ra”. Thầy nương vào hơi thở, năm hơi thở Thầy tác ý một lần, bỗng dưng nó nhẹ nhàng, nó không có còn mệt nhọc nữa. Nó hay đến cái mức độ Thầy nói không có lường được, cái thân nó khổ sở mà hướng tâm dẫn nó, nó vô.

Còn cái tâm của mình mà nó phiền não, nó trạo hối, nó trạo cử, nó làm cái gì đủ thứ hết đó, cứ nhắc nó: “An tịnh tâm hành, tôi biết tôi hít vô. An tịnh tâm hành…​”. Rồi nương vào hơi thở, mình lặng lẽ mình nương vào hơi thở, thì mình cảm giác, bởi vì cảm giác toàn thân mình có cái cảm giác đó rồi, mình cảm giác bằng hơi thở mình. Một chút, nó làm như nó quên tất cả những cái điều kiện mà xảy ra cho cái tâm của mình, nó không còn nhớ nữa, thì từ đó nó có an lạc liền, trở lên an lạc. Thầy nói những cái phương pháp tuyệt vời để con người ta giải thoát mà người ta không sử dụng, không biết.

Mỗi cái đề mục của nó mà tu đúng rồi nó đều giúp chúng ta dữ lắm, giúp chúng ta rất là an ổn. Cho nên vì vậy mà trong Tứ Niệm Xứ, mà khi mà ngồi như vậy mà có cái gì chướng ngại của nó mà đẩy lui vậy, hoàn toàn là người ta sử dụng cái pháp Định Niệm Hơi Thở. Người ta sử dụng từng cái đề mục của nó, khi mà tâm nó xảy ra cái gì đó, cái chướng ngại gì đó, bắt đầu người ta dùng cái đó, người ta dẫn nó vô cái liền nó im ngay phăng phắc ngay.

(01:23:20) Cái tâm của mình nó lăng xăng, nó không được định tĩnh, nên: “Tôi biết tâm định tĩnh, tôi biết tôi hít vô. Với tâm định tĩnh, tôi biết tôi thở ra”. Mình thở ra thở vô vậy, mà một hơi cái tâm nó định tĩnh, nó không có phóng dật nữa. Sống độc cư nó tuôn trào ra, mà kiểu như dùng nó là định tĩnh trở lại, nó không tuôn nữa.

Còn hầu như là sư Bửu Ái với sư Hiệp, đến đây, nó tuôn trào ra, tuôn trào kiềm không lại được. Bởi độc cư nó vô ôm quá pháp rồi, ôm Thân Hành Niệm chọc tức nó, nó tuôn ra, tuôn ra chịu không nổi. Tuôn ra loạn rồi mà, mà không có biết dùng cái Định Niệm Hơi Thở.

Sư Phước Nhẫn: Phải học cái Định Niệm Hơi Thở trước.

Trưởng lão: Cái Định Niệm Hơi Thở cho nó thuần trên cái 16, 18 cái đề mục này, cho nó rất thuần. Nó thuần rồi, tới chừng mình qua tu qua mấy cái kia, nó xảy ra cái gì là mình có cái Định Niệm Hơi Thở, mình…​ Bởi vì đức Phật nói Định Niệm Hơi Thở lợi ích rất lớn.

Sư Phước Nhẫn: Chứ Tứ Niệm Xứ còn phóng dật không mà nhảy qua Thân Hành Niệm là nó bể rồi.

Trưởng lão: Bể hết. Cho nên tu phải tu căn bản. Bởi vì cái phương pháp của Phật, cái giáo trình của nó con phải biết đi từ căn bản vô. Chớ mà nếu mà thiếu căn bản thì đi vô hỏng chân rồi.

Cho nên hầu hết bây giờ tu sĩ đều hỏng chân, tu thiếu căn bản. Giới luật con thấy thiếu ha, rồi kế đó, trên Tứ Niệm Xứ mà Tứ Chánh Cần thiếu nè, Định Niệm Hơi Thở không đủ nè. Tu cái kiểu mà kêu như là niệm, Định Niệm Hơi Thở mà tu niệm đó, thành ra không có kết quả này. Rồi cái Định Vô Lậu quán cũng chưa có tới, cũng như mình quán thân bất tịnh mà quán chưa có tưởng ra được cái thân bất tịnh, thì như vậy là quán sơ sơ, chưa có thâm, như vậy là rõ ràng là quán bất tịnh chưa có nè. Thấy không? Phải không? Rồi chưa căn bản nè. Mà bây giờ vào Tứ Niệm Xứ mà để ở trên đó, mà khắc phục đẩy lui chướng ngại pháp làm sao nổi. Lấy gì mà đẩy lui nổi nó?

Sư Phước Nhẫn: Dạ. Không đủ khả năng.

Trưởng lão: Không đủ cái lực để mà đẩy lui rồi. Rồi bây giờ bước qua Thân Hành Niệm thì chỉ tập chơi, chứ làm gì? Nó phóng dật lia lịa. Nó phóng tâm, phóng dật lia lịa trên đó, còn cái nghĩa lý gì mà gọi là Thân Hành Niệm.

Sư Phước Nhẫn: Thì cái giai đoạn đó mình chỉ tập tỉnh thức thôi thì được.

Trưởng lão: Ừ.

Sư Phước Nhẫn: Dùng cái Thân Hành Niệm để tập tỉnh thức thì được.

Trưởng lão: Ừ. Coi như là Thân Hành Niệm mà tỉnh thức đó.

Sư Phước Nhẫn: Dạ. Giai đoạn một …​ (Không nghe rõ).

Trưởng lão: Giai đoạn một được. Chứ giai đoạn hai cuối cùng nó thì không được. Con phải tu đúng đó. Giai đoạn mà Nhất Dạ Hiền thì không được.

Sư Phước Nhẫn: Dạ.

Trưởng lão: Rồi bây giờ còn gì nữa con?

Sư Phước Nhẫn: Dạ hết rồi.

Trưởng lão: Ừ.

HẾT BĂNG

Pháp Âm - 2000 - SƯ TUỆ TĨNH VÀ PHƯỚC NHẪN VẤN ĐẠO 01 - KINH KHU RỪNG SỪNG BÒ

2000 - SƯ TUỆ TĨNH VÀ PHƯỚC NHẪN VẤN ĐẠO 01 - KINH KHU RỪNG SỪNG BÒ

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Ngày giảng: 2000

Thời lượng băng: [46:04]

Tên cũ: 2000-Sư Tuệ Tĩnh và Phước Nhẫn-1A - Kinh khu rừng Sừng Bò - Tứ Niệm Xứ

https://thuvienchonnhu.net/audios/2000-su-tue-tinh-va-phuoc-nhan-van-dao-01-kinh-khu-rung-sung-bo.mp3

1- BÀI KINH KHU RỪNG SỪNG BÒ

(00:01) Sư Phước Nhẫn: Con có đọc qua, kinh Trung Bộ tập I đó Thầy, bài kinh “Khu rừng Sừng Bò”, các thầy Tỳ kheo hỏi nhau: “Làm thế nào cho sáng chói? Mỗi người trả lời một cách.

Khi ấy, Tôn giả Sariputta (Xá-lợi-phất): Bạch Thế Tôn, vị nào đã trả lời câu hỏi đã được đặt ra?

Này các ông, hãy nghe ta nói. Hạng tỳ kheo nào có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga?

Ở đây, này Xá-Lợi-Phất, Tỳ kheo sau buổi ăn, sau khi đi khất thực về ngồi kiết già lưng thẳng, đặt niệm trước mặt và nghĩ rằng: “Ta sẽ không bỏ ngồi kiết già này cho đến khi tâm của ta được khéo giải thoát, các lậu hoặc không có chấp thủ”.

Này Xá Lợi Phất, Tỳ kheo như vậy có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga.”

Thưa thầy, đặt niệm trước mặt như thế nào, và nghĩ rằng những gì? Nhờ thầy từ bi chỉ dạy cho con được rõ! Mỗi lúc con ngồi thiền, thì con dùng câu pháp hướng, con đặt niệm trước mặt, có khác với câu pháp hướng hay giống nhau?

(01:46) Trưởng lão: Ở đây, chứ “niệm” á, đức Phật nói đặc niệm trước mặt là muốn khuyến khích cho các vị mà tu ở các…​, bởi vì trong bài kinh này đó các vị muốn làm sáng khu rừng này, cho nên con đọc cái bài kinh đó thì mỗi vị nêu ra 1 cái ý của mình trong cái sự tu tập, nhưng mà cuối cùng thì Đức Phật kết luận cho biết mình đặt cái niệm.

Vậy thì cái niệm đó là Tứ Niệm Xứ đó con. Nói là niệm, tức là Tứ Niệm Xứ rồi. Mình phải đặt Tứ Niệm Xứ, chứ không phải đặt cái niệm nào hết. Nếu mà đặt cái niệm nào là nó sai Tứ Niệm Xứ. Bị vì nó một cái chùm niệm: Thân, Thọ, Tâm, Pháp của mình rồi.

Ờ, phải hiểu vậy. Cho nên mình đặt niệm, Đức Phật nói: “phải ngồi lưng thẳng, rồi đặt niệm trước mặt”. Vậy thì nói về cái niệm, vậy thì bây giờ mình muốn hiểu cái niệm này là cái gì? Cái niệm nào? Bây giờ niệm Phật, niệm Pháp, hay niệm Tăng, niệm Giới? Nhưng mà rõ ràng Đức Phật đã xác định niệm là Tứ Niệm Xứ rồi.

Thì trong Bát Chánh Đạo, thì con thấy rõ ràng đức Phật nói: Chánh niệm, cái nẻo mà Chánh niệm đó, rồi mới tới Chánh định chứ gì. Mà Chánh niệm thì nó là Tứ Niệm Xứ, thì không thể nói niệm Phật là Chánh niệm được.

Ở đây muốn nói niệm, thì mình phải đặt niệm; thì đặt cái niệm đó, là cái niệm nào cho đúng? Chớ nếu đặt niệm sai, tu sai sao?

Cho nên niệm đúng, thì chỉ có Tứ Niệm Xứ thôi là đúng. Bởi vì Tứ Niệm Xứ nó mới xác định được 7 ngày, 7 tháng, 7 năm mà chứng đạo. Cho nên mình đặt niệm đúng thì sẽ là đúng; mà đặt niệm sai nó sẽ là sai.

Cho nên bây giờ ví dụ như con nói bây giờ, con đặt cái niệm con là cái hơi thở đi, để mà biết hơi thở ra vô thì cái hơi thở đâu phải là niệm. Phải không?

Bây giờ con đặt cái câu “Nam mô bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật” con lấy cái đó con làm cái niệm; thì con mới niệm cái câu đó. Con nói đặt niệm trước mặt, tức là mình phải để cái niệm đó luôn luôn mình niệm chứ gì, mình nhớ nghĩ nó chứ gì. Do đó cái niệm Phật là không đúng cái niệm, nó là sai!

2- NIỆM TỨ NIỆM XỨ NHƯ THẾ NÀO LÀ ĐÚNG?

(03:46) Phải không? Mà bây giờ niệm đúng, là niệm Tứ Niệm Xứ. Niệm Tứ Niệm Xứ như thế nào đúng?

Bây giờ Thầy ngồi xếp bằng nè, phải không? Thầy mới tác ý ra. Bời vì mình muốn sử dụng cái niệm đó thì nó luôn luôn nó phải nhớ nghĩ, phải tỉnh trên cái niệm đó. Vậy thì mình phải tác ý nó ra mình mới nhớ chớ, không tác ý hơi mình ngồi, mình quên niệm đó sao. À, bây giờ mình tác ý ra, mình phải có cái câu dẫn tâm mình để mình tỉnh giác ở trên cái niệm đó, để luôn nó biết được cái niệm đó, nó mới chánh niệm được ở trên đó.

Đó vậy thì bây giờ mình biết chánh niệm tức là Tứ Niệm Xứ rồi. Bây giờ mình đặt Tứ Niệm Xứ, mình lấy cái niệm Tứ Niệm Xứ để mình quan sát. Vậy thì mình nhắc, bây giờ Thầy nói con thấy nè, Thầy tu tập đúng ý của Phật nè. Bây giờ Thầy nhắc nè, ờ bây giờ đó Thầy ngồi kiết già, lưng thẳng hẳn hòi đàng hoàng rồi. Thầy mới đặt cái niệm trước mặt của Thầy. Bị vì mình ngồi thẳng rồi mình mới đặt niệm, coi như là mình trịnh trọng trên cái pháp đó con, cách thức mà đức Phật nói. Chứ còn nếu mình ngồi ghế vầy mình coi nó không có trịnh trọng. Có phải không? Cách thức mình ngồi kiết già, lưng thẳng hẳn hòi là trịnh trọng lắm mới ngồi vậy chứ còn nếu mà ngồi ở trên cái ghế dựa lưng là mình không trịnh trọng cái pháp tu rồi. Mà đây đức Phật muốn nói mình phải tôn trọng và cung kính cái pháp giải thoát của Phật, cho nên mình trịnh trọng lắm, khi mình ngồi lại. Bời vì cái người nào trịnh trọng với pháp tu của mình, mình biết chắc cái pháp này sẽ đưa đến giải thoát, thì mình trịnh trọng lắm; mình không tu thì thôi chứ mình tu là nghiêm chỉnh. Đó là cái sự trịnh trọng! Thầy muốn nhắc lại cái bài Kinh này hay lắm à con, mà tại vì không có dịp mà Thầy giảng ra thôi, chứ còn Thầy có dịp giảng người ta sẽ thấy được cái phương pháp tu.

(05:22) Bây giờ đây Thầy mới đặt cái niệm nè, cái chánh niệm của nó là niệm như thế nào? Niệm Tứ Niệm Xứ là chánh niệm, Đức Phật đã xác định rồi. Không thể ngoài cái Tứ Niệm Xứ tìm cái niệm khác gọi là chánh niệm được! Cho nên niệm của nó như thế nào? Thầy mới tác ý ra: “Cái tâm phải quay lại nhìn bốn chỗ Thân, Thọ, Tâm, Pháp coi có chướng ngại trên đó không?” Phải không? Như vậy là rõ ràng là Thầy xem lại coi cái niệm này nó có chướng ngại hay không? Mà nó không chướng ngại thì Thầy mới hướng tâm, Thầy nhắc: “Bốn chỗ Thân, Thọ, Tâm, Pháp không chướng ngại, thì cái tâm phải định vô hơi thở, phải biết hơi thở!”. Thì lúc bây giờ biết hơi thở ra vô.

Thì bắt đầu bây giờ nó biết hơi thở ra vô, có nghĩa là đâu phải cái niệm đâu. Cho nên Thầy thỉnh thoảng một lát, khoảng độ chừng 1 phút, Thầy nhắc lại: “Cái tâm phải quan sát trên bốn chỗ Thân, Thọ, Tâm, Pháp” tức là quan sát lại cái niệm của nó; tức là niệm phải đặt trước mặt mà, phải quan sát nó nữa. Quan sát nữa, bây giờ nó không chướng ngại, thì thầy nói: “Thân, Thọ, Tâm, Pháp không chướng ngại, thì cái tâm phải định vô hơi thở!”, thì bắt đầu bây giờ biết hơi thở. Phải không?

(06:27) Đó, Thầy nhắc nữa: Bây giờ, “cái tâm phải quan sát Thân, Thọ, Tâm, Pháp.” Bây giờ có cái thọ đây đau; cái tay Thầy bị đau nè. Tức là Thầy, ở, bây giờ trên thọ nó có chướng ngại rồi, nó đau rồi; hay hoặc con muỗi cắn nó rồi. Phải không? Thí vụ bây giờ nó ngứa ở đây phải không, thì bắt đầu bây giờ Thầy biết nó ngứa đây rồi, tức là thọ nó bị chướng ngại rồi. Vậy thì bắt đầu bây giờ Thầy đuổi con muỗi đi, Thầy gãi chỗ này hết ngứa, Thầy bảo: “Cái thọ là vô thường, phải không có ngứa nữa, lui đi! Cái tâm phải quay vô, định vô hơi thở!.” Thì bắt đầu nó vô hơi thở, thì Thầy đâu có nhớ đây nữa. Có đúng không?

Rồi bắt đầu bây giờ nó yên ổn rồi, bắt đầu Thầy nhắc: “Cái tâm phải quan sát trên bốn chỗ Thân, Thọ, Tâm, Pháp coi có chướng ngại không?”. Thì bắt đầu cái ý của Thầy nó quan sát Thân, Thọ, Tâm, Pháp. Ờ hoàn toàn không có chướng ngại, thì bắt đầu Thầy kêu nó: “Cái tâm phải quay vô, định vô hơi thở!”, bị vì hồi đó nó mắc quan sát đây, bây giờ mới gọi nó trở lại, nó định vô hơi thở. Phải không, bây giờ nó định vô hơi thở, nó biết hơi thở ra vô. Thì bắt đầu nó biết hơi thở ra vô, thì khoảng độ chừng 5 hay 10 hơi thở hay hoặc 1 phút, khoảng thời gian đó thì nó chưa có vọng tưởng đâu; mà khi mà có vọng tưởng đến: “Đây là dục lậu, Mày lìa khỏi đây đi! Mày là lậu hoặc, ra khỏi đây đi!” Thì khi mà nó ra khỏi rồi; cái niệm đó nó bị đẩy lui rồi, bằng cái tác ý của mình nó lui ra rồi, thì bắt đầu mình gọi: “Cái tâm định vô hơi thở!”. Có gì đâu, nó định vô hơi thở; nó biết hơi thở nó, thì như vậy là rõ ràng mình tu đặt niệm trước mặt mà tu mà thanh tịnh, thanh tịnh tâm. Mà đuổi hết chướng ngại pháp là thành tựu chứng đạo! Tức là đuổi hết chướng ngại pháp, thì tâm biết gì? Biết hơi thở ra vô là không phóng dật nữa rồi; không phóng dật thì “Ta thành chánh giác là nhờ tâm không phóng dật”. Có bao nhiêu đó tu, có gì đâu mà…​ (. . .).

Sư Phước Nhẫn: Con nhờ thầy nói con mới hiểu được.

Trưởng lão: Vậy thì mới làm sáng tỏ được cái rừng, ờ cái rừng Go-si gì đó?

Sư Phước Nhẫn: Gosinga.

Trưởng lão: Con thấy không, phải không? Chỉ có cái tu như vậy mà cái rừng nó sẽ sáng tỏ, không còn đêm tối nữa!

Sư Phước Nhẫn: Dạ, Hay quá! Con thấy cái này con hơi thắc mắc nó Thầy, cũng nhờ con hỏi Thầy con mới biết được. Dạ, cái đó Thầy giảng xong rồi Thầy hả?

Trưởng lão: Giảng xong rồi!

3- ĐỊNH NIỆM HƠI THỞ, TRIỀN CÁI VÀ KIẾT SỬ

(08:22) Sư Phước Nhẫn: Dạ! Con còn 1 chút nữa Thầy.

Thưa thầy, con ngồi thiền, con hay hướng tâm con 30 phút xả thiền, hướng tâm như vậy đó Thầy. Rồi con theo dõi hơi thở vô ra khoảng 15, 20 hơi thở, cái con tác ý 1 lần. Nhưng nói 5 hoặc 7 phút có lúc hơi thở nhỏ dần, chừng 5 phút hay 10 phút, mà trong lúc đó con quên tác ý; chừng con nhớ con tác ý thì hơi thở nhỏ nó mất.

Thưa Thầy, như vậy trong lúc hơi thở nhỏ dần, con phải nhớ tác ý hay là con tác ý nữa? Hoặc là con tác ý: “Ly tham tôi thở vô, ly tham tôi thở ra; ly sân tôi thở vô, ly sân tôi thở ra; ly si tôi thở vô, ly si tôi thở ra”. Cái khó của con là con làm thế nào cho có định?

Trưởng lão: Rồi Thầy sẽ chỉ cho. Ở chỗ này là tập cái sức tỉnh. Bây giờ mình đang thở ra, thở vô mà cái hơi thở bắt đầu nó đang yên lặng, thì bắt đầu nó thay đổi hơi thở, nó nhẹ dần và có thể chậm nữa. À, mình cảm thấy, lát thấy rõ ràng là hơi thở mình đang nhẹ, mình biết.

Thì bắt đầu bây giờ đó mình nhắc, mình hướng tâm, bởi vì đức Phật dạy cho mình cái bài Định Niệm Hơi Thở, tức là bài xuất Tức, nhập Tức đức Phật có nhắc cho mình: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”. Đó là cái câu thứ nhất bước đầu vô định niệm hơi thở. Phải không?

Cái câu thứ hai thì đức Phật nói: “Hít vô ngắn, tôi biết tôi hít vô ngắn; mà thở ra ngắn, tôi biết tôi thở ra ngắn”.

Rồi câu kế, câu thứ ba thì đức Phật dạy: “Hít vô dài, tôi biết tôi hít vô dài; thở ra dài, tôi biết tôi thở ra dài.”

Bây giờ cái hơi thở bình thường của mình ở mức độ nào? Hồi nãy mình thở bình thường, mình thấy rõ ràng là đang ở cái độ này, mà bây giờ nó nhẹ như vậy là trật! Nhắc trở lại, nhắc hơi thở cho nó trở về với dạng bình thường của nó chứ không được để nó nhẹ. (Sư Phước Nhẫn: Không cho nó nhẹ?) Không có cho nó nhẹ, nó nhẹ, nó không phải định, mà nó vô trong trạng thái định tưởng. Bởi vì định của Phật xác định được, là do cái tâm ly tham, sân, si; cái tâm không phóng dật là định. Chứ không phải chỗ mà nó lặng lẽ lần lần, nó nhẹ hơi thở để đi vô sự yên lặng của nó trong đó gọi là định, cái đó là định tưởng.

(10:46) Cho nên mình không dại gì mình rớt trong cái đường cùng đó. Vì vậy cho nên mình nhắc lại: “Hơi thở phải bình thường, thở lại không được nhẹ nữa!”. Thì nó sẽ trở lại, chớ con không nhắc nó ấy…​ Còn con nhắc “quán ly tham, quán ly sân” nó không có đúng cái đối tượng nó đâu. Thì do đó bây giờ cái hơi thở con nó bình thường, nó không có thay đổi nữa, thì bắt đầu con có thể nhắc “quán ly tham, ly sân, ly si” được, để cho nó tỉnh trong hơi thở mà nó ly được cái tham, sân, si mà từng hơi thở nó có tham, sân, si trong đó.

Mỗi hơi thở của mình thở ra chứ nó có tâm tham ở trong đó rồi. Rồi mình hít vô nó có tham sân si trong đó rồi. Bởi vì ngũ triền cái nó che cho nên mình không thấy trong hơi thở tham sân si của mình, nhưng mà khi gặp kiết sử đó thì nó lòi ra mặt nó hết, nghĩa là lòi ra mặt của tham sân si. Cho nên vì vậy kiết sử là thất kiết sử đó. Cái Sân kiết sử đó; rồi cái Hữu tham kiết sử; cái Ái kiết sử; cái Kiến chấp kiết sử nữ, cái Kiến kiết sử đó, tất cả những cái này là những cái kiết sử. Cho nên khi cái Sân kiết sử nó hiện ra, bây giờ mình bình thường bị nó che mình không thấy cái sân của mình, nhưng có người nào đó chửi mình cái bắt đầu đó thấy nó hiện ra rồi; mà hiện ra rồi đó là Sân kiết sử chứ không phải là còn Sân triền cái nữa, mà nó Sân kiết sử. Còn bây giờ con ngồi đây mà con thấy tâm mình không có sân vậy, đó là con bị triền cái, bị Sân triền cái nó che, cho nên mình không thấy, nó bị cái màn sân đó nó che, không thấy cái sân của mình. Đó cho nên vì vậy đó, khi mà nó lòi mặt ra thì mình biết nó kiết sử, mà nó chưa lòi mặt nó ra thì nó là triền cái. Hiểu vậy đó, con hiểu không?

Bị vì hôm đó con có hỏi Thầy để mà soạn, mà Thầy không có thì giờ để mà Thầy soạn, Thầy giảng về Thập thất kiết sử và Ngũ triền cái. Mà vì không có thời gian cho nên Thầy không có soạn, không có viết ra được. Chứ lẽ ra thì phải viết ra được, để cho người ta biết Thập thất kiết sử, tới 17 kiết sử chứ không phải là có 7 kiết sử đâu. Nhưng mà 7 kiết sử này nó rất quan trọng, còn 5 hạ phần kiết sử với 5 thượng phần kiết sử thì nó cũng quan trọng, nhưng mà nó không quan trọng lắm.

4- PHƯƠNG PHÁP TU VÀO ĐỊNH

(12:47) Sư Phước Nhẫn: Như vậy thì mình ngồi thiền đó, mình cứ theo dõi mà mình cứ nhắc hoài, mình thở mình cứ thở mình biết vô biết ra. (Trưởng lão: Biết vô biết ra) Rồi chừng nào mới được định Thầy?

Trưởng lão: À, bây giờ đây, bây giờ Thầy mới dạy cho con mới được định đây.

Bây giờ con đã thở, con biết thở ra, thở vô được rồi. Rồi con biết phương pháp phá hôn trầm, thùy miên. Biết phá hôn trầm, thùy miên là thở 5 hơi thở, rồi đứng dậy đi kinh hành 1 vòng 20 bước, rồi ngồi lại 5 hơi thở đứng dậy đi kinh hành 1 vòng. Con biết cái pháp đó rồi? Biết rồi, rồi bây giờ con tập luyện con thuần pháp đó rồi, bây giờ nó có hôn trầm là con phá; mà nó có hơi lười biếng con cũng dùng cái pháp này con phá nó cũng hết lười biếng liền hà. Con hiểu không? Đó là con nhớ cái pháp đó rồi.

Vậy thì bây giờ đó, nó tới từng cái giai đoạn, bây giờ con tu hơi thở con cũng thấy cái sức tỉnh thức của mình trong hơi thở nó khoảng chừng 5 hay là 10 phút nó không có niệm nó xen vô đó, thì con thấy cái sức tỉnh mình cũng tới, mình không cần đi thêm nữa đâu.

Bây giờ con mới tu Tứ Niệm Xứ nè, cái đó là cái phương pháp ngăn ác, diệt ác của Tứ Chánh Cần chứ không phải của Tứ Niệm Xứ đâu. Phải không, bây giờ tới giai đoạn mà con muốn tu Tứ Niệm Xứ đó, là cái giai đoạn mà con vừa hỏi cái câu chuyện mà trong cái rừng sáng chói đó. Thì đó, đó là cái câu chuyện con sẽ tu Tứ Niệm Xứ rồi. Đây là tới cái giai đoạn tu Tứ Niệm Xứ chứ không phải là còn Tứ Chánh Cần nữa.

Vậy thì tu bây giờ, trong cái thời gian mà con ở đây tu với Thầy, thì lẽ ra cái thời gian đó thì cái cơ thể con nó còn hơi yếu, với tiếp nhận vào ăn 1 bữa đó, cũng làm sức khỏe con nó cũng giảm. Nhưng mà con đừng sợ, bình tĩnh, không chết chóc đâu sợ!

(14:24) Bây giờ đó, con tiếp tục con tu Tứ Niệm Xứ, con vẫn giữ giới hạnh đàng hoàng, tu Tứ Niệm Xứ. Thì như hồi nãy mà Thầy nói rồi đó, thì nó không có gì hết. Nghĩa là con, bình thường con ngồi chơi, thì nó có niệm gì thì con quán xét con đuổi, mà không có thì thôi, chứ con cũng không tu, không gì hết. Nhưng mà khi vô ngồi tu Tứ Niệm Xứ rồi, thì con ngồi xếp bằng hẳn hòi đàng hoàng, coi như là trịnh trọng với cái pháp Tứ Niệm Xứ.

À, bắt đầu bây giờ đặt niệm trước mặt, thì đặt niệm trước mặt tác ý ra: “Thân, thọ, tâm, pháp; tâm phải quan sát Thân, Thọ, Tâm, Pháp!”, tức là đặt niệm đó; cách thức con đặt niệm chứ gì? À, đó bắt đầu bay giờ nó hoàn toàn con quan sát thấy không có chướng ngại, bảo: “Tâm phải định vô hơi thở, không được phóng dật!”. Bắt đầu con biết hơi thở ra vô, bởi vì con đã tu tập hơi thở nó đã quen rồi. Thì khoảng độ chừng 1 phút hay hoặc là 10 hơi thở, thì con lại nhắc, đặt niệm lần nữa: “Tâm phải quan sát Thân, Thọ, Tâm, Pháp xem có chướng ngại pháp không!”. Bây giờ con quan sát hết rồi không có chướng ngại gì hết, thì con bảo: “Thân, Thọ, Tâm, Pháp không có chướng ngại, tâm phải quay vô định hơi thở!”, con truyền lệnh nó đi. Khi mà truyền lệnh nó quay vô rồi, nó không phóng dật, mà nó luôn luôn nó biết hơi thở con ra vô vậy đó là con đã định rồi đó, con đã nhập định rồi đó. Cái phương pháp tu nó vô định đó.

(15:38) Bây giờ con muốn vô định sâu hơn, bây giờ nó quay vô rồi, con thấy 24 tiếng đồng hồ không buồn ngủ đó; nó không có buồn ngủ, nó ngồi mà nó tỉnh bơ, mà nó an lạc lắm, nó khỏe lắm, nó không có mệt nhọc. À, bắt đầu con thấy được rồi, “24 tiếng đồng hồ mà mày không ngủ chắc mày tốt rồi, tao muốn tin tưởng mày thêm coi mày có còn được vậy không? Tao cho mày 7 ngày đêm cho mày tu, mày định ở trong đó”. Con sẽ cho nó định 7 ngày đêm con không buồn ngủ chút nào đâu con, nó tỉnh bơ hà. À, nó vẫn sống bình thường như thế này nè, ai nói gì cũng nghe, cũng biết hết mà nó luôn luôn nó định vô hơi thở, nó không có lưu ý ở ngoài đâu.

Tới giờ ăn cơm, thì nó bưng cơm vậy chứ nó cũng luôn luôn nó biết hơi thở hà, đó là nó định đó. Con thấy cái định của nó chưa? Đó là cái định của Sơ thiền đó. Nó quay vô, nó không phóng dật nó quay vô đó; nó ly dục ly ác pháp rồi bắt đầu nó định đó. Con không có ngồi định, con không có nương vô hơi thở đâu, tại vì con quan sát niệm của con, con thấy không chướng ngại, con bảo nó: “Định vô hơi thở!” thì nó định chứ còn con không có tập trung hơi thở. Còn cái kia, con tập trung hơi thở cho nên nó lặng xuống, nó phá hơi thở của con nó lặng đặng nó vô định tưởng. Nó nhỏ nhẹ nó vô định tưởng.

Nó ví dụ nó không vô định tưởng đi, mà nhỏ nhẹ nó sẽ vô hôn trầm con, con ngủ đó. Chớ không phải không đâu. Nó chưa vô định tưởng thì nó sẽ vô hôn trầm, thùy miên, vô ký, nó cũng sẽ làm mất con đó. Đường của nó trật rồi! Chúng ta tu tỉnh thức khúc thôi, không có tu nó nữa.

5- TỨ NIỆM XỨ NHẬP CÁC ĐỊNH, HƯỚNG TÂM ĐẾN TAM MINH

(16:53) Bây giờ mới trở về Tứ Niệm Xứ, là niệm của nó mà để tui đi vào định nè, đó là đây con đường đúng, còn bên kia con trật! Con hiểu chưa? Rồi bắt đầu con mới đi đúng, con ở trên Tứ Niệm Xứ mà không có chướng ngại pháp đó, con tu theo cái thời khóa tu tập của ông Phật dạy mà chúng Tỳ kheo tu đó, đuổi chướng ngại pháp, đó là Tứ Niệm Xứ đó. Bây giờ cái bài kinh này cũng để cho chúng ta đặt niệm Tứ Niệm Xứ để mà tu, để mà đi tới rốt ráo đó, để nhập định chứ không có gì. Đó con thấy rõ phải không?

Cho nên hầu hết là, những cái bài kinh đều ở trên cái mục đích của nó là dẫn chúng ta tới Tứ Niệm Xứ thôi, Tứ Niệm Xứ để mà thực hiện thiền định. Nó chỉ có Tứ Niệm Xứ mới định được. Bời vì đức Phật nói Chánh niệm rồi mới tới Chánh định mà. Mà Chánh niệm là Tứ Niệm Xứ, mà Tứ Niệm Xứ xong thì nó mới vô định. Thì Tứ Niệm Xứ xong là định rồi; mà nó vô định, cái định đầu tiên là Sơ thiền nè. Do đó bây giờ mình muốn vô nhị thiền nè, thì mình thấy, mình phải xét coi nó định ở trong cái Sơ thiền này nó trong 1 cái thời gian 7 ngày đêm là nó quá trời rồi! Chứ 24 tiếng đồng hồ là người ta thực hiện các định khác được rồi. Nó có định này nó mới thực hiện tới các định khác được nè.

Bây giờ nó bảo: “diệt tầm tứ!”, ngay đó diệt liền. Cũng như hồi đó con bảo: “Tâm quay vô định trên hơi thở!” thì nó định vô hơi thở là nó định; mà bây giờ nó định rồi, như vậy bây giờ nó định tới, nó định tới diệt tầm tứ. Mà nó diệt tầm tứ rồi, thì con định cái Nhị thiền xong thì con bảo: “Ly hỷ, trú xả nhập Tam thiền đi!”, thì con ra lệnh vậy cái nó ly hết tất cả các trạng thái tưởng, nó không còn ma phá con được bị cái lực của tâm con mạnh lắm rồi. Bắt đầu bây giờ đó, con qua cái Tam thiền rồi, bắt đầu con nhập Tứ thiền liền con bảo: “Tịnh chỉ hơi thở ngưng, nhập tứ thiền!” Cái nó ngưng nó nhập Tứ thiền liền, cái hơi thở nó ngưng liền. Rồi bắt đầu bây giờ tiếp tục là ở trong cái trạng thái Tứ thiền đó con hướng tâm đến Tam minh liền, con dẫn về Túc Mạng Minh. Thì ngay trong đó Tam minh con thực hiện, chứng quả A La Hán liền tức khắc! Không có gì, bời vì Tứ Niệm Xứ nó là chứng quả A La Hán rồi, nó vô định đó. Nó có bao nhiêu đó thôi, bởi vậy Thầy nói đơn giản, pháp Phật đơn giản không lòng vòng gì hết!

(18:47) Sư Phước Nhẫn: Mà nó khổ cái là, mình phải nhiếp tâm cho nó thật kỹ.

Trưởng lão: Thật kỹ! Nó có cái đó thôi.

Bây giờ mình đâu có gì, đặt niệm trước mặt, là Thân, Thọ, Tâm, Pháp mình quan sát nó nè, là đặt niệm trước mặt rồi. Rồi bây giờ nó có chướng ngại thì đuổi, tác ý ra đuổi, mình có pháp tác ý mà. Chứ đâu phải, như cái lý để mà suy tư, để mà tác đuổi đâu. Mà tác ý là mình đã đúng biết cái lý của nó rồi, tác ý ra đuổi liền tức khắc, nó đi liền hà. “Thọ là biết vô thường, đi đi không được ở đây nữa”.

Sư Phước Nhẫn: Cái đó là Như lý tác ý đó hả Thầy?

Trưởng lão: Như lý tác ý đó con. Nó cứ như vậy đó mình tác ý ra đuổi nó nhanh chóng, không có quán.

Sư Phước Nhẫn: Còn mình nhắc là tác ý?

Trưởng lão: Ờ, mình nhắc là tác ý đó.

Sư Phước Nhẫn: Dạ! Còn nó có Thân, Thọ, Tâm, Pháp nó có cái gì thì mình cứ Như lý tác ý?

Trưởng lão: Như lý tác ý đuổi ra, đuổi ra rồi bắt đầu bảo cái tâm định vô hơi thở, định hơi thở thì cái chỗ đó là mình đuổi đi rồi. Bởi vì nó yên lặng, nó biết hơi thở ra vô thì những cái niệm đó nó mất hết rồi, nó đâu có còn nghĩ ngợi được. Mà nó có nữa, thì tức là mình đuổi nữa, đuổi nữa thì nó lại thanh tịnh liền. Ngay liền chứ không có dừng đâu, không ngắt ngang nó đâu, mà đuổi đàng hoàng, tôi đuổi có phương pháp à. Nó cho nên vì vậy mà Thân, Thọ, Tâm, Pháp tôi nó hoàn toàn nó yên tịnh, đây là tôi định chứ gì, tôi định cả thân và tâm, mà cả thọ luôn nữa chứ. Định hết bốn chỗ mà, chứ tôi đâu có cần định cái tâm không đâu, định luôn hết 4 chỗ. Bời vì 4 chỗ này là cái niệm của tôi mà, tôi đặt niệm trước mặt mà. Nó thấy không, đúng pháp không? Mình tu giải thoát liền!

6- TỨ NIỆM XỨ PHẢI TU SAU TỨ CHÁNH CẦN

(20:16) Sư Phước Nhẫn: Hôm nay con hỏi Thầy, biết được cái này hay quá Thầy.

Trưởng lão: Thì cái duyên nó tới rồi, nó tới con mới hỏi Thầy, đúng là chỗ Thầy sắp sửa dạy con, chớ không phải không đâu; nhưng mà cái duyên nó tới con hỏi, hỏi đúng chỗ.

Thành ra nỗ lực về tu! Thì Thầy nói đạt kết quả, không có gì hết. Bời vì tới cái giai đoạn này là mình phải trải qua một thời gian mình tu những cái pháp kia, nó có cái thuần quen rồi, chứ còn chưa thuần quen mà vô chỗ này tu không nổi, coi vậy chứ đâu phải dễ đâu! Nó phải trải qua ngăn ác, diệt ác, nó đủ thứ chướng ngại hết, mình đuổi được hết, cái tâm mình giờ nó thanh thản được, mình mới vô đây mình tu cái này nè. Tứ Niệm Xứ nó phải sau Tứ Chánh Cần chứ nó đâu có trước được. Thầy dạy nó đâu nó có thứ lớp, thứ lớp mà đúng y như cái lộ trình của Phật dạy đó.

Sư Phước Nhẫn: Dạ! Hổm rài đó thì mình lo tu Tứ Chánh Cần.

Trưởng lão: Tứ Chánh Cần không đó.

Sư Phước Nhẫn: Bây giờ mới bắt đầu?

Trưởng lão: Mới bắt đầu Thầy dạy Tứ Niệm Xứ.

Rồi còn vậy chứ mình tu rồi mình còn bị những cái chuyện khó khăn lắm. Bị vì Tứ Chánh Cần mình tu nó chưa trọn vẹn đâu, nó còn.

Sư Phước Nhẫn: Là mình cũng còn câu hữu với Tứ Chánh Cần hả Thầy?

Trưởng lão: Thì lẽ đương nhiên là mình chưa hoàn toàn mà ở trong Tứ Niệm Xứ nổi đâu, cho nên mình phải có những cái chuyện gì đó, phải ở trong Tứ Chánh Cần mình dẹp nó.

7- TỨ NIỆM XỨ, TRÊN THÂN QUÁN THÂN

(21:26) Sư Phước Nhẫn: Dạ, cũng như bữa nay con hỏi Thầy con mới biết rõ,…​(. . .). Quán thân trên thân, con không hiểu quán thân trên thân như thế nào?

Trưởng lão: Máy (thu âm) con xong chưa?

Sư Phước Nhẫn: Dạ xong Thầy.

Trưởng lão: Quán thân trên thân có nghĩa là như thế này nè. Cái pháp Tứ Niệm Xứ đó, con hiểu không? Cái pháp Tứ Niệm Xứ thì nó có Thân, Thọ, Tâm, Pháp. Phải không? Bởi vì trong pháp Tứ Niệm Xứ nó dạy cho chúng ta biết cái Thân, Thọ, Tâm, Pháp của Tứ Niệm Xứ.

Dó đó mà chúng ta trên cái thân của chúng ta, quán cái thân của chúng ta. Vậy thì trên cái thân của chúng ta thân tứ đại này nè, rồi chúng ta quán cái thân tứ đại của mình đi; rồi mình quán cái thân Tứ Niệm Xứ mà Phật dạy đó, để rồi mình quan sát lại cái thân mình coi nó có giống nhau vậy không? Phải không, “trên thân quán thân để khắc phục tham ưu”; trên cái thân của mình quán cái thân Tứ Niệm Xứ, để coi Đức Phật nói: ờ bây giờ thì thân Tứ Niệm Xứ thì vô thường, khổ, không, vô ngã. Thì cái thân của mình mình quán xét coi nó phải có vô thường, khổ, không, vô ngã không?

Mình quán xét, à đúng rồi, đức Phật dạy Tứ Niệm Xứ là thân của Tứ Niệm Xứ là cái thân nó khổ; vậy cái thân của mình đây nó khổ hay là không khổ? Phải không, mình xét vậy đó. Thì mình thấy rõ ràng là cái thân của mình cũng khổ y như cái pháp Tứ Niệm Xứ. Như vậy cho nên gọi trên thân quán thân; trên cái thân của mình, quán cái thân của mình coi thử coi nó như thế nào. Thì cho nên mình so sánh giữa cái thân Tứ Niệm Xứ và cái thân của mình đó, là mình thấy nó giống nhau quá. Do đó, đó là giai đoạn thứ nhất, đem pháp mà quán pháp; đem cái pháp Tứ Niệm Xứ mà quán cái pháp Tứ Niệm Xứ của mình. Phải không, đó là trên pháp quán pháp.

(23:20) Bây giờ đó mình đã hiểu nó được rồi. Vậy thì mình đem, trên thân quán thân. Nghĩa là trên cái thân của mình, rồi mình phải suy xét cái thân của mình; gọi là trên cái thân này suy xét cái thân này, coi thử coi cái động dụng của nó như thế nào? Bây giờ nó thở nè, mạch máu nó chạy nè, rồi chỗ này nó ngứa nè, chỗ này nó đau, chỗ này nhức nè. Đó là trên thân quán thân. Con hiểu chưa?

Bây giờ đó, mình lại ngồi xếp bằng mình nhìn nè, mình đặt niệm trước mặt, đặt cá niệm thân của mình, bởi vì thân Tứ Niệm Xứ mà, thân trước mặt. Vậy thì mình đặt niệm trước mặt mới quan sát, trên thân quán thân mà, tức là quan sát cái thân của mình coi; bây giờ mình ngồi đây mình quan sát cái thân, mình thấy nó có đau chỗ này, cái tay này đau thì biết là trên thân có bị thọ, chỗ tay này đau. Vậy thì đau là chướng ngại pháp phải đẩy lui nó đi. Mà nó không có gì hết, bây giờ nó không đau, nó không nhức, nó không gì hết; trên thân mình quán cái thân, mình thấy nó không có đau, không nhức, không gì hết thì nó an lạc. Thì mình biết cái thân an lạc, không có chướng ngại pháp. Và như vậy khi mà cái thân mà nó an lạc chướng ngại pháp, thì nó không có làm cho mình tham ưu, phiền não, buồn rầu; nó làm cho mình an ổn, vui vẻ. Cho nên đức Phật dạy: “trên thân quán thân để khắc phục tham ưu”, khi có chướng ngại pháp ở trên cái thân đó, thì nó làm cho mình ưu phiền; mà không có thì không có ưu phiền, tức là mình khắc phục được tham ưu. Bây giờ nó có ưu phiền thì mình phải đẩy lui cái chướng ngại pháp đó, thì cái ưu phiền nó sẽ hết, gọi là khắc phục tham ưu ở trên thân. Đó cho nên con thấy dễ dàng không?

(25:07) Cho nên bây giờ mình đặt cái niệm thân thân của mình, bây giờ mình nói 4 chỗ, nhưng mà mình đặt cái niệm thân thôi. Để mình trên thân quán thân, như câu hỏi con hỏi để mà mình biết cách thức mình quán thân chứ gì. Thì mình quan sát mình ngồi đây, bây giờ mình đặt mà mình tưởng ra có cái hình dáng của cái thân của mình nằm ở trước này, coi như có 1 cái con người bằng xương, bằng thịt nằm đây thì cái bóng dáng nằm đây đó là mình dùng tưởng, đó là sai.

Vậy thì bây giờ mình ngồi đây, mình nhìn xuống, mà mình lắng nghe, mình cảm giác toàn cái thân của mình thì đó là mình đặt cái niệm thân trước mặt. Bây giờ mình không thể nào mà mình thấy được, mà mình tưởng ra có cái thân người nằm trước mặt mình, tức là cái niệm thân trước mặt của mình mà, là do bị tưởng, thì không nên, mình sống ở trong tưởng.

Sư Phước Nhẫn: Mình phải nghĩ cơ thể của mình.

Trưởng lão: Ờ, rồi bắt đầu bây giờ đó mình không thể nào mình thấy được, cho nên vì vậy đó mình mới lắng nghe, rồi mình cảm nhận coi ở trên thân của mình nó có cái gì xảy ra hay không? Nó không có gì, bây giờ mình ngồi đây, mình cũng nhìn chăm chăm xuống đây, mình mới cảm nhận, cảm giác, cảm nhận được cái thân của mình nó đang có cái thọ hay là không có cái thọ; nó đang có chướng ngại trên đó hay không có chướng ngại? Vì vậy cái mà mình ngồi, mình lắng nghe, mình cảm nhận đó, cái đó là trên thân quán thân.

8- TỨ NIỆM XỨ TRÊN TÂM QUÁN TÂM

(26:37) Sư Phước Nhẫn: Pháp tới tâm.

Trưởng lão: Rồi trên tâm mà quán tâm.

Bởi vì mình quán cái thân, mà cái thân nó không có cái cảm thọ gì hết đó, bởi thân là phải có thọ. Phải quán thân, thì tức là kiềm chỗ đó là có cái thọ rồi, cho nên đương nhiên là quán thọ, gọi là thân thọ. Đó, thành ra khi quán thân tức là quán thân thọ rồi, đi đôi nhau chứ không thể nào tách lìa, bởi vì nó có cái thọ nó mới có cảm giác; nó mới cảm giác mới có ưu phiền, còn nếu mà không có thì đâu có ưu phiền. Đó hễ thọ thì thân thọ.

(27:18) Rồi bây giờ quán tâm thì phải có thọ tâm, thân - thọ - tâm đó, nó phải có thọ với tâm, nó cặp với nhau. Thọ với tâm, còn này thọ với thân.

Bây giờ thọ với tâm đó, là khi mà quán trên tâm quán tâm tức là quán thọ với tâm. Thì cái thọ của tâm, ví dụ bây giờ cái tâm mà nó khởi ra cái niệm thì nó có cái tâm, mà nó không khởi ra cái niệm gì hết thì tức là cái thọ nó không có, cái thọ của tâm nó không có; mà hễ nó có cái niệm thì tức là nó phải có cái thọ của tâm.

Cũng như cái thân của mình, bây giờ mình ngồi đây cái thân nó thanh thản, an lạc; thì nghe nó an lạc thì nó không có cái thọ của thân. Mình thấy mình quan sát cái thân của mình, mình không thấy có gì hết, mà không có gì hết thì tức là cái thọ của thân nó không có.

Còn bây giờ mình quan sát cái tâm, cái tâm nó thanh thản, nó an lạc, nó vô sự thì nó không thấy cái tâm, nhưng mà sự thật nó thanh thản đó là cái tâm chứ không có gì, nó thanh thản là nó an cái tâm đó. Mà bây giờ mình muốn thấy được cái tâm mà nó có cái thọ của tâm đó thì nó phải có cái niệm; nó khởi cái niệm nào đó, thì cái niệm đó là cái thọ của tâm rồi. Niệm của nó là nó nhớ, nó thương hay hoặc là nó phiền não cái gì đó, hay hoặc nó nhớ lại cái chuyện gì đó nó vui, nó thọ lạc của nó mà; nó vui, nó mừng gì đó, nó nhớ lại những chuyện gì đó. Nó thì đó là cái thọ của tâm, bắt đầu cái tâm nó có cái niệm. Thì như vậy rõ ràng là quán tâm trên tâm, để tìm thấy cái thọ của tâm, tức là tìm thấy cái tâm phóng dật. Phải không? Mà tìm thấy cái tâm phóng dật, thì tức là quán tâm trên thọ của tâm. Nó mình sẽ thấy rõ ràng. Đó là thân-thọ, rồi tâm- thọ…​

(29:22) Trên thân, rồi thọ của thân; rồi trên tâm, thọ của tâm, để mình quán. Trong cái bài Kinh Tứ Niệm Xứ, thì Đức Phật dạy: “Trên thân quán thân; rồi trên tâm quán tâm; rồi trên thọ quán thọ”, không ngờ rằng trên thân quán thân là nó có quán thọ; rồi trên tâm quán tâm thì lại có quán thọ. Nó! Thì bắt đầu bây giờ, mình lại trên pháp quán pháp. Thân nè, rồi thọ nè, thì thân có thọ; tâm có thọ, là ba cái rồi đó. Thì bây giờ pháp cũng có thọ nữa. Bởi vì cái gì nó cũng có thọ nó mới là chướng ngại, chứ còn cỡ không có thọ thì không có chướng ngại. Bởi vì có cái thọ nó động lắm.

9- TỨ NIỆM XỨ, TRÊN PHÁP QUÁN PHÁP

(30:12) Bây giờ trên pháp quán pháp. Mình ngồi nó đang yên ổn như thế này, cái có 1 trận gió thổi vô, nó làm cho cái thân của mình cảm giác nghe mát, thì mình biết mát. Cho nên mình biết đây là cơn gió là pháp, pháp nó đã tác động ở trên thân - thọ của mình nó mát, nó làm cho mình thấy thích; ưa thích, phải chi gió mà thổi vầy mát ngồi khỏe quá! Thì lúc bây giờ mình biết: “À, đây cái tâm tham dục, nó chạy theo dục”. Như vậy là mày còn ham muốn mát, biết là mày phóng dật theo pháp. Cho nên vì vậy mà trên pháp quán pháp để biết được cái thọ của thân, tâm của mình nó đang dính vào cái pháp nào, nó đang phóng dật.

Bây giờ mình đang ngồi tu, thì bình thường nó không có gì hết, bỗng dưng nó có 1 cái tiếng hát radio, hay hoặc là ti vi, hay cát-sét gì của ai đó; nó đang ca vọng cổ, hay hoặc là nó ca tân nhạc gì đó, nó làm cho tâm mình nó duyên ra. Thì mình trên cái pháp đó, mình quán: “À, như vậy là cái lời ca, tiếng nhạc này nó làm cho cái tâm mình phóng dật, nó phóng dật. Nó nhớ lại hồi đó mình hồi còn đi học, nó khởi ra cái niệm, cho nên nó phóng tâm ra nó niệm là hồi đó mình đi học mình có ca bài này.” (Sư Phước Nhẫn: Nhớ lại) Nhớ lại đó, nó làm cho mình hồi ức lại. Thì như vậy là mình bị pháp tác động làm cho tâm phóng dật, để rồi cái tâm nó phóng ra cái niệm hồi ức.

(31:37) Như vậy mình trên pháp quán pháp, mà nó sanh ra như vậy, nó làm cho chướng ngại thân và tâm của mình nó không thanh thản, an lạc nữa. Cho nên mình biết đây là cái pháp này nó làm chướng ngại. Vậy thì mình muốn đẩy lui cái chướng ngại pháp này bằng cách nào? Thì mình nhắc: “Tâm phải quay vô, định ở trên hơi thở, đừng có lắng nghe âm thanh đó nữa, nó là pháp trật! Mày lắng nghe, mày phóng tâm ra không có được!” đó mình nhắc nó, mình tác ý vậy. Bắt đầu mình nương vào hơi thở, mình biết hơi thở ra vô thì nó quên đi cái âm thanh đó. Con hiểu không?

(32:17) Bây giờ có 1 cái cây, trời chuyển mưa gió, cái cây nó làm rắc rắc, cái bắt đầu mình tâm nó phóng ra: “Không biết chừng cái cây này nó gãy, nó đè lên cái thất của mình”, nó làm cho mình sợ! Đó là mình bị pháp chứ gì. Vậy thì mình quán pháp: Mình thấy, “đây là nhân quả, nếu quả chăng mà cái cây này vì cơn gió mà nó đè mình thì đây là cái quả, mình cũng vui vẻ mình chịu đi, chứ sao lại mình chưa có gì mà mình ngồi đây mình phóng tâm, mình sợ?!” Phải không, mình quán vậy đó, tức là mình đẩy lui cái chướng ngại, mình ngồi yên ổn. Ờ, bây giờ “cái tâm mày không có được phóng theo sự sợ hãi đó nữa! Mặc nó, ruổi có đè chết cũng là sống ở trong thiện pháp, trong chánh pháp chứ không có sợ, mày sợ là bị ác pháp. Do đó mày phải định vô hơi thở, im lặng!”

Sư Phước Nhẫn: Nhắc nó hoài?

Trưởng lão: Mình nhắc nó chớ, mình nhắc đặng cho nó riết rồi nó mới quen, nó không phóng dật. Chứ không lúc nào nó cũng dễ phóng hết. Bị pháp mà, coi vậy chớ mình ngồi đây bị pháp. Thân, Thọ, Tâm mình thì nó an rồi, nhưng mà con muỗi lại bò vô cắn mình nó cũng bị pháp rồi. Đó, thì tất cả những cái này mình thấy đây là trên pháp quán pháp để đẩy lui chướng ngại ở trên thân, thọ, tâm chúng ta. Con hiểu chưa? Cách thức tu vậy đó, dễ vậy!

Mà nếu mà mình không cảnh giác, mình không biết cách, thì mình không biết làm sao nói về pháp người ta không biết cách nào mà quán pháp, không lẽ cứ ngồi đó quán vô thường, khổ, vô ngã; ờ các pháp là vô thường, thân là vô thường,

Sư Phước Nhẫn: Dạ, đúng rồi đó, cái đó mình cứ đọc đi đọc lại hoài.

Trưởng lão: Đọc đi đọc lại hoài có gì đâu. Quán vậy có nhằm nhò gì! Mà chính pháp nó tác động mình bất an đây. Phải không?

Một trận gió, trận mưa nó tạt ướt là nó làm cho mình bất an rồi, tại pháp. Mà bây giờ mình không đẩy lui cái chướng ngại pháp này thì cái tâm nó đâu có yên. Cái thân tâm nó không yên. Con hiểu chưa? Cho nên quán pháp trên pháp để đẩy lui chướng ngại, nó làm cho cái tâm mình nó không còn tham ưu nữa, nó không sợ hãi nữa. Nó cách thức mình tu vậy, mình mới thấy mình đẩy lui chướng ngại pháp trên bốn chỗ.

(34:29) Sư Phước Nhẫn: Dạ, như vậy bữa nay Thầy nói con mới hiểu rõ, chứ không thì hổm rài con cũng mù mờ. Bởi vì thọ thì con biết rồi, thì hôm đó Thầy có giảng đó Thầy. Còn cái tâm với pháp với thân, thân thì cũng biết hơi hơi, nhưng mà cái tâm với cái pháp chưa biết. Bữa nay nhờ Thầy nói con mới hiểu rõ ra. Vậy giờ con phải theo cái đó để mà quán cái đó đó.

Trưởng lão: Quán! Mình đang có cái gì mà ở ngoài nó tác động vào nó thì bị pháp, tác động ở trên thân - thọ của mình, hay tâm - thọ của mình.

Còn ở trên thân - thọ của mình nó luôn luôn nó có những cái niệm của nó, nó khởi ra. Chẳng hạn bây giờ mình đang ngồi vậy, trong thân mình bỗng dưng nó nhức cái chân, tự nó nó nhức mà. Bởi vì nó vô thường nó thay đổi trong này mà, thân mình là thân tứ đại nó vô thường, nó thay đổi. Cho nên nó thay đổi, hôm qua nó đâu có nhức, bữa nay thay nó đổi nhiều quá rồi nó mới nhức đây nè, nó nhức đặng nó hoại diệt nó chết mà. Thành ra hôm qua không có đau mà nay nó nhức cái chân quá, vậy thì bây giờ nó bị chướng ngại rồi. Thì trong thân nó cũng có những cái sự thay đổi của nó, thì nó cũng có những cái chướng ngại của nó. Bây giờ con mạnh khỏe chưa có đau ốm gì hết thì mình tu dễ, chứ khi mà đau rồi biết mình đẩy lui được nó không?! Nhất là cái thọ của thân, nó khổ lắm!

Rồi bắt đầu cái tâm của mình coi vậy chớ nó ngồi đây nó 1 mình, nó cô đơn, nó buồn rồi nó cũng sinh ra nó nhớ tầm bậy tầm bạ, rồi nó cũng bị hôn trầm đồ nó cũng sanh ra chứ đâu phải không. Cho nên vì vậy mình phải đề cao cảnh giác mọi mặt, cho nên vì vậy mà gọi là trên thân quán thân, hay trên tâm quán tâm. Tức là luôn luôn mình phải tỉnh giác, mình xem xét nó coi nó có cái gì xảy ra hay không? Nếu nó không có cái gì xảy ra hết thì tức là nó không phóng dật; tức là tâm thanh thản, an lạc, vô sự. Mà nó nó cứ, cái tâm mình luôn luôn nó thanh thản, an lạc, vô sự vậy thì cái tâm nó sẽ định lên trên cái hơi thở của nó, nó cứ biết hơi thở tự động chứ mình không có tập trung mình gom trong hơi thở đâu mà tự nó biết. Nó biết hơi thở nó một cách nhẹ nhàng, thành ra cái thân của mình nó càng lúc nó an lạc lắm! Con ngồi suốt 1, 2, 3 tiếng đồng hồ con không thấy mỏi mệt. Nó không có mỏi tức là nó an lạc. Còn nếu mình ngồi mà mình không an lạc đó, thì mới đầu ngồi nó yên đó chứ chút rồi nó mỏi; nó mỏi thì nó có chướng ngại pháp. Còn khi mà cái tâm tự động nó định vô hơi thở rồi, thì nó có sự an lạc đó, nó làm cho cái thân…​ (mất tiếng).

10- TU TỨ NIỆM XỨ KHÔNG CẦN CANH GIỜ

(37:05) …​Tới nó yên con được tới chỗ nào thì con cứ ngồi thêm, mà hễ nó có chướng ngại, nó tê hay nhức thì con xả nó ra. Cứ vậy đó con cứ ngồi, hễ yên con ngồi dài thêm.

Sư Phước Nhẫn: Cứ yên, mình cứ ngồi được bao lâu…​

Trưởng lão: Cứ yên, cứ ngồi được bao lâu thì ngồi bao lâu. Chứ mình không có định nói: “ờ giờ này phải ngồi 1 giờ, giờ sau phải ngồi 1 giờ, hay này kia.” Không có định, mình đừng có định! Định như vậy là mình bị chướng ngại rồi.

(37:23) Sư Phước Nhẫn: Như vậy thì mình, thí dụ trường hợp mà mình muốn canh cái giờ đó Thầy, thì mình có cần canh nó không Thầy?

Trưởng lão: Nói chung mình tu Tứ Niệm Xứ thì không cần canh giờ nữa. Tứ Niệm Xứ là lúc nào mình tu cũng được hết. Mình đi mình cũng tu được; mình ngồi cái thế nào mình cũng tu được hết, mình ngồi kiết già cũng tu được hết. Cho nên ăn thua nó ở chỗ tâm, cái chỗ này là chỗ tâm rồi, nó không phải chỗ thân rồi.

Sư Phước Nhẫn: Hổm rài con cứ sợ mình không có quen cái dụ mà để ngồi được, thí dụ mấy tiếng đồng hồ đó Thầy, chẳng hạn như Thầy nói là mình ngồi tới cái lúc mà Nhị thiền đó Thầy, ra lệnh cho nó 2 tiếng đồng hồ là 2 tiếng đồng hồ đó, thành ra con canh cái đó hoài.

Trưởng lão: À, sau này khi nào mà tới mà nhập Nhị thiền, Thầy sẽ dạy cho mấy con ra lệnh cho nó nó tịnh chỉ đó, trong mấy tiếng đồng hồ, bắt đầu cho nó tịnh chỉ trong nửa tiếng, hay hoặc là 1 tiếng, hay hoặc là cái thời gian bao nhiêu Thầy xác định khi mà tâm mình nó quay vô rồi, thì Thầy sẽ dạy mấy con cách thức nhập Nhị thiền đó, thì bắt đầu con sẽ ra lệnh nó trước, rồi bắt đầu nó sẽ…​

Sư Phước Nhẫn: Bây giờ mình không cần hả Thầy?

Trưởng lão: Bây giờ mình không cần. Bây giờ mình lo mình ly dục, ly ác pháp mình tu Tứ Niệm Xứ.

Cho nên khi mà mình trong cái giai đoạn này, mình lo tu Tứ Niệm Xứ để cho mình đẩy lui các chướng ngại pháp trên đó suốt 24 tiếng đồng hồ. Mà hễ mà khi cái tâm mà nó tự nhiên mà nó định vô hơi thở rồi, tự biết hơi thở thì hơi thở của mình nó nhẹ nhàng lắm, nó an lạc lắm; nó làm cho cái thân của mình thấy nó an ổn vô cùng, nó không có bị mỏi mệt, không gì. Thậm chí như 1 con muỗi mà nó bay đến nó cắn mình mình cũng không thấy ngứa nữa, nó không hay nữa, nó an lạc đến đỗi mình không hay mà. Bởi vì nó an lạc mà, nó làm cho cái thân mình lạc mà. Do ly dục sanh hỷ lạc, do mình ly được đó, cái tâm mình nó không phóng dật ra thì nó ly được. Cho nên vì vậy mà nó an ổn cái thân lắm, ngồi lâu nó không mỏi.

11- CÓ THỂ THAY ĐỔI OAI NGHI

(39:16) Sư Phước Nhẫn: Dạ, vậy thì để con bớt cái chuyện mà canh giờ lại, con không canh nữa.

Trưởng lão: Bây giờ tới cái giai đoạn này đó, thí dụ như con thọ bát quan trai, bắt đầu con định 7 giờ con phải tu cái gì; rồi 8 giờ con tu gì; 9 giờ con tu gì thì con vô con tu cái giờ đó rồi trong cái khoảng thời gian tu đó, thì con không phải là bắt buộc con phải chuyên môn ngồi không, hoặc là chuyên môn đi không, nó không phải đâu, mặc dù giờ đó là giờ đi kinh hành thí dụ vậy. Nhưng mà con đi, con luôn luôn con tu Tứ Niệm Xứ, con đi con cũng quan sát trên thân, thọ, tâm của con. Rồi bắt đầu bây giờ trong cái giờ đi đó vậy, con cũng quan sát vậy nhưng bây giờ nó mỏi chân rồi thì tức là chướng ngại pháp ở trên thân của con rồi, thay gì con còn 30 phút hay là 10 phút nữa là nó mới hết giờ, nhưng mà con không có ráng đâu, con ngồi nghỉ liền, ngồi trên ghế nó bình thường để cho mình nghỉ chân vậy, nhưng mà luôn lúc nào cũng quan sát thân, thọ, tâm của mình để đẩy lui. Tức là mình giữ cái tâm ở trên Tứ Niệm Xứ nó luôn liên tục trong giờ. Nhưng mà cái oai nghi đi đứng tùy theo mình, nó không cần thiết. Hễ nó có chướng ngại là mình thay đổi oai nghi để nó không chướng ngại nữa là được. Đẩy lui chướng ngại ra.

12- CÁCH THỨC NGUYỆN KHI TỰ MÌNH THỌ BÁT QUAN TRAI

(40:37) Sư Phước Nhẫn: Dạ! Vậy thì con xin Thầy cho con thọ bát quan trai ngày mai Thầy. Dạ, Thầy chỉ cách thức nguyện cho con.

Trưởng lão: Ngày mai đó thì con…​

Sư Phước Nhẫn: Khuya nay nè.

Trưởng lão: Ừm. Ở trong thất con thì con không có thờ tượng Phật, tượng gì hết, nhưng mà đúng giờ con dậy để mà con thọ bát quan trai. (Thầy nói chuyện với cô Trang)

Khì mà con thọ bát quan trai thì con chắp tay như thế này, con quỳ gối lên, con chắp tay hướng về tượng Phật, bất kỳ cái hình ảnh Đức Phật ở đâu thì con hướng về đó, hay hoặc là con hướng nhìn ra cửa, chắp tay còn nhìn ra. Con nguyện với chư Phật chứng minh “hôm nay con xin thọ bát quan trai tám giới giữ gìn nghiêm túc để con thực hiện pháp tu Tứ Niệm Xứ. Xin chư Phật chứng minh cho con.” Con nguyện rồi thì con đảnh lễ Phật 3 lạy, tức là mình đảnh lễ Phật là mình thọ nhận giới pháp đó, rồi bắt đầu con tiếp tục con tu. Có vậy thôi!

(42:13) Sư Phước Nhẫn: Rồi sau này, thí dụ mình thọ một mình mình được không Thầy?

Trưởng lão: Được con, khỏi cần người nào bởi vì mình thọ, mình tu mà.

Sư Phước Nhẫn: Dạ!

Trưởng lão: Rồi bắt đầu tới chừng mà mình tu xong trong 1 ngày thọ bát quan trai đó, hay hoặc là 2 ngày, thì mình xả đó thì mình cũng quỳ gối, mình chắp tay lên nguyện: “Hôm nay, con đã giữ gìn tám giới nghiêm chỉnh. Tu tập pháp Tứ Niệm Xứ, con thấy thân tâm con rất là thanh tịnh, mong chư Phật chứng minh cho con. Giờ này con xin xả bát quan trai.” Đó đơn giản thôi, không có gì hết!

Bởi vì mình đã thuộc 8 giới đó rồi, và mình cũng hiểu 8 giới đó rồi thì cần gì ai truyền. Phải không? Mình chỉ nhận thọ giới này để Chư Phật chứng minh để cho mình sống những ngày đó mình nghiêm túc trong cái con đường tu tập cho mình, nó không bị lơi lỏng. Đó mình giữ gìn cho nó chặt chịa, rồi mình tập dần, tập dần cho nó quen dần rồi mình sẽ sống suốt đời mình 8 giới chớ. Chớ đâu phải mình có thọ không. Thọ là thọ trong 1 ngày, 2 ngày đầu tiên như vậy, chứ sau này mà nó đã thuần quen rồi thì ở trong Sơ thiền thì kể như là mình sống luôn ở trong 8 giới đó.

Bây giờ thì con chưa đủ sức, cho nên con nguyện Phật chứng minh cho con con giữ gìn. Đó vậy thì con cứ làm như vậy thì Thầy nói đơn giản, mà nó nhẹ nhàng lắm! Chỉ có tâm mình nhiệt tâm, mình quyết tu thôi. Thì mình phát nguyện như vậy thì mình sẽ tu tốt.

13- LỜI PHẬT DẠY RẤT KỸ, TU KHÔNG ĐẠT ĐẠO DO TU KHÔNG KỸ

(43:44) Sư Phước Nhẫn: Cái tâm mình nó kỳ lắm Thầy. Con thì không muốn cho người ta đến, mà người ta không đến cái thấy nhớ nhớ Thầy.

Trưởng lão: Nó vậy đó con.

Sư Phước Nhẫn: Nó lạ vậy đó. Bởi vậy rồi cái con nói với nó con nói: “Mày, như vậy là mày đâu có đúng, mày còn muốn nữa phải không?”. Thấy người ta không tới cái mình thấy cũng nhớ nhớ, muốn người ta tới nữa.

Trưởng lão: Cái tâm nó kỳ lắm!

Cũng như mình ở trong cảnh yên tịnh cô đơn mình tu đó, thì mình sao mình thấy muốn nói chuyện, mình muốn động. Còn mình ở trong cảnh động thì mình lại muốn tịnh, nó làm ngược.

Sư Phước Nhẫn: Chừng nào mình hết nhớ thì mới được hả Thầy?

Trưởng lão: Hết nhớ mới được. Mình cố gắng khắc phục, lần lượt mình hết nhớ, cái mình tốt hà.

(44:31) Sư Phước Nhẫn: Con thấy trong bài kình trong Kinh Tăng Chi cuốn thứ ba đó Thầy, trang 270 đức Phật có nói: “ưa thích công việc, ưa thích nói chuyện, ưa thích ngủ nghỉ, ưa thích hội chúng, không phòng hộ 6 căn, không tiết độ trong sự ăn uống”. Cái đó phải đoạn tận cho nó hết cái đó mới được hả Thầy?

Trưởng lão: Đoạn tận đó con. Mới được đó con. Ông Phật dạy kỹ lắm à con!

Sư Phước Nhẫn: Cái này con viết ra đây để con nhớ đó Thầy.

Trưởng lão: Ở trong Những Lời Phật Dạy đó, Thầy cũng ghi những lời này để mà Thầy giải thích, chú thích ra cho chúng sau này, nhưng mà Thầy không có dịp mà Thầy soạn thảo mấy cái tập Kinh này. Nhưng mà đã đánh những cái lời của Phật dạy ngắn gọn đó trên vi tính hết rồi. Sáu pháp, hay là bảy pháp, hay năm pháp, đặc biệt cho mình người tu đó, thì Thầy đã cho Mật Hạnh đánh trên vi tính lên hết rồi, mà Thầy không có giờ mà Thầy chú thích ra. Chứ Thầy chú thích ra mấy cái này…​

Sư Phước Nhẫn: Thầy chú thích ra rõ thì người ta dễ hiểu.

Trưởng lão: Chú thích ra rõ dễ hiểu lắm.

Con đọc con thấy đức Phật dạy mình kỹ lắm phải không? Nhưng mà tại mình tu không kỹ, cho nên mình không đạt đạo là tại mình, chứ đâu phải tại Phật. Rõ ràng là Phật có dạy, mà Thầy nói người ta không tin. Con thấy Như Minh Tông đó, Thầy nói độc cư ông không nghe, đó là Phật dạy rõ ràng mà.

Sư Phước Nhẫn: Bởi vậy. Thích nói chuyện, rồi thích làm việc. Bởi vậy mấy ông nào còn làm việc hoài đó, cứ làm việc hoài con thấy chưa được.

Trưởng lão: Đâu có được! Con học cái này rồi con thấy ai tu được con biết. Ông Phật nói đúng, nghĩa là con còn lấy cuốc ra con đi trồng trỉa, hay hoặc vẫy cỏ là mấy người không có được đâu, tu không tới. Chứ đừng nói chặt cũi hay này kia nói tui tu tu, mấy người nói dóc, nói láo không đúng đâu!

HẾT BĂNG

Pháp Âm - 2000 - SƯ TUỆ TĨNH VÀ PHƯỚC NHẪN VẤN ĐẠO 02 - KINH NIKAYA - TU TẬP VỪA SỨC

2000 - SƯ TUỆ TĨNH VÀ PHƯỚC NHẪN VẤN ĐẠO 02 - KINH NIKAYA - TU TẬP VỪA SỨC

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Ngày giảng: 2000

Thời lượng: [45:47]

1- BÀI KINH KHẤT THỰC THANH TỊNH

Sư Phước Nhẫn: Bởi vậy mình nói người ta, mình thấy người ta như vậy nó chưa có đi đúng hướng.

Trưởng lão: Chưa có đi đúng. Mình thấy họ nói chuyện người này, lại thất người kia nói chuyện mình biết mấy người này tu không tới đâu. Mình chắc chắn bảo đảm mấy con! Con đọc trong kinh này rồi con sẽ thấy lời Phật dạy.

A- NĂM DỤC TRƯỞNG DƯỠNG

(00:19) Sư Phước Nhẫn: Bởi vậy con có thấy mấy bài kinh này con chép nó ra, để nằm lòng đó Thầy.

Còn cái khất thực mà thanh tịnh đó Thầy, đức thế tôn Ngài có giảng cho ông Xá-Lợi-Phất nghe đó. Cái bài kinh mà gồm nơi an trú đi khất thực: “đối với các sắc do mắt nhận thức nếu có khởi lên tham, sân, si, hận tâm không? Ta đã đoạn tận 5 dục trưởng dưỡng chưa?”. Ổng hỏi mình đó Thầy, 5 dục trưởng dưỡng là…​?

Trưởng lão: 5 dục trưởng dưỡng là Danh, Lợi, Sắc, Thực, Thùy. 5 cái trưởng dưỡng đó.

Sư Phước Nhẫn: Dạ, mình đừng cho nó trưởng dưỡng hả Thầy?

Trưởng lão: Đừng cho nó trưởng dưỡng đừng có sống theo kiểu đó được. Thí dụ như bây giờ nó thực, nó muốn ăn thì mình đừng có trưởng dưỡng nó, theo nó mình ăn. Đó, bây giờ nó muốn ngủ mà giờ này chưa phải ngủ thì mình đừng có trưởng dưỡng ngủ theo nó. Hễ nó buồn ngủ cái mình đi ngủ theo nó, mình trưởng dưỡng đó. Bởi vậy nó thuộc về năm cái dục lạc của nó mà. Năm dục trưởng dưỡng đó.

Rồi bây giờ người ta cho mình cái này kia, quần áo đồ mình đừng có tham; mình tham thí dụ như người ta cho cái y, hay cái này kia nó tốt cái mình ham đồ đó, cái đó là mình trưởng dưỡng cái tham. Rồi người ta khen mình tu hành tốt cái mình mừng, vui đó mình trưởng dưỡng cái danh; kêu tu tinh tấn thì mình ráng mình tu, nghe người ta khen mình cái rồi mình thấy mình tu coi như là mình tu vì người ta khen đó, mình trưởng dưỡng cái danh. Tất cả những cái điều này mình phải đừng có trưởng dưỡng nó, phải diệt nó!

B- NĂM TRIỀN CÁI

(02:16) Sư Phước Nhẫn: Còn đức Phật hỏi: “Ta đã đoạn tận 5 triền cái chưa?”

Trưởng lão: 5 triền cái, 5 cái màng che đó Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi đó.

Sư Phước Nhẫn: Cái đó là 5 triền cái hả Thầy?

Trưởng lão: 5 triền cái.

C- NĂM THỦ UẨN

Sư Phước Nhẫn: Rồi đức Phật còn nói: “Ta có liễu tri 5 thủ uẩn chưa?”

Trưởng lão: 5 cái thủ uẩn thì mình có hiểu nó chưa. Mình có thông suốt nó chưa con.

Sư Phước Nhẫn: Hiểu được mới…​

Trưởng lão: Hiểu được mới được, chứ còn chưa hiểu được thì không được đâu con. Mình hiểu 5 cái thủ uẩn mình chưa đã.

Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức đó. 5 cái uẩn đó, mình phải hiểu. Chứ bây giờ mình chưa hiểu 5 cái thủ uẩn này coi chừng mình lầm lạc nó chết à.

D- TỨ NIỆM XỨ

Sư Phước Nhẫn: Còn ở đây Ổng nói: “Ta đã tu tập Bốn Niệm Xứ chưa?”. Mình đang tu cái đó hả Thầy?

Trưởng lão: Đó, đó mấy câu đó đó con.

E- TỨ CHÁNH CẦN

Sư Phước Nhẫn: Rồi đức Phật hỏi là: “Ta đã tu tập Bốn Chánh Cần chưa?”. Cái đó thì mình cũng đang tu.

Trưởng lão: Đang tu đó, ngăn ác diệt ác đó.

F- TỨ NHƯ Ý TÚC

Sư Phước Nhẫn: Ổng hỏi nữa Thầy: “Ta đã tu tập bốn Như Ý Túc chưa?”.

Trưởng lão: Bốn Như Ý Túc chưa tức là Dục Như Ý Túc, Tinh Tấn Như Ý Túc, Định Như Ý Túc, Tuệ Như Ý Túc. Bốn cái đó Tứ Như Ý Túc đó.

G- NGŨ CĂN

Sư Phước Nhẫn: “Ta đã tu tập 5 căn chưa?”.

Trưởng lão: 5 căn là Ngũ Căn đó con. Mắt, Tai, Mũi, Miệng, Thân đó.

H- NGŨ LỰC

(04:01) Sư Phước Nhẫn: “Ta đã tu tập 5 lực chưa?”.

Trưởng lão: 5 lực đó là Ngũ lực con. Tín lực, Tấn lực…​ Tức là nói về 5 lực thì con tu Tứ Bất Hoại Tịnh chưa nè; Tấn lực con tu Tứ Chánh Cần chưa nè; Niệm lực là con tu Tứ Niệm Xứ chưa nè; Định lực con tu Tứ Thánh Định chưa nè; rồi Huệ lực con tu Tứ Diệu Đế chưa nè. Đó nó 5 lực đó.

I- THẤT GIÁC CHI

Sư Phước Nhẫn: Còn “Ta đã tu tập 7 giác chi chưa?”.

Trưởng lão: Ờ, Thất giác chi đó.

J- BÁT CHÁNH ĐẠO

Sư Phước Nhẫn: “Ta đã tu tập Thánh đạo Tám ngành chưa?”.

Trưởng lão: Bát Chánh Đạo đó.

K- CHỈ VÀ QUÁN

Sư Phước Nhẫn: “Ta đã tu tập Chỉ và Quán chưa?”.

Trưởng lão: Chỉ và Quán đó là mình tu, cách thức mình hướng tâm để cho nó ngưng các hoạt động đó, Chỉ. Và Quán là mình tu quán Tứ niệm xứ đồ đó, trên thân quán thân đó.

L- MINH VÀ GIẢI THOÁT

Sư Phước Nhẫn: “Ta đã chứng ngộ Minh và Giải thoát chưa?”.

Trưởng lão: Minh, Giải thoát chưa đó là Tam minh đó con.

Sư Phước Nhẫn: Dạ! Cái đó là con hỏi Thầy để cho biết sơ sơ vậy thôi, chứ chưa tới đó Thầy.

Trưởng lão: Nhưng mà nói chung là toàn bộ các pháp nó đều có một cái sự kết hợp nhau rất là chặt chẽ, cụ thể. Ví dụ nói Ngũ lực là nó gồm trọn vẹn hết đó con; nói Ngũ căn là nói về phòng hộ đó. Nói về pháp phòng hộ, thì trong đó nó gồm có độc cư; nó gồm có đi nói chuyện; nó gồm có đừng có thích hội họp; đừng có thích ngủ nghỉ; đừng có thích làm việc. Đó nó gồm đủ, đức Phật nói 1 cái chớ mình hiểu nó nhiều góc ở trong đó lắm.

Thành ra cái bài đó là coi như đức Phật gồm hết tất cả mà mình phải tu tập. Nghĩa là mình tu Thất giác chi nó sẽ có cái gì, cái gì ở trong Thất giác chi; mà nói về Bát Chánh Đạo thì nó có cái gì, cái gì, pháp gì, pháp gì ở trong Bát Chánh Đạo.

Sư Phước Nhẫn: Tới chừng sau đó con cũng hỏi thăm lại Thầy nữa mới được, tới đó là phải hỏi thăm Thầy.

Trưởng lão: Cho nên bây giờ mình đang tu Tứ Chánh Cần nè, Tứ Niệm Xứ nè. Thì nó nằm trong cái gì, cái gì nó có.

Cũng như bây giờ con Thọ bát quan trai đó là con tu Tứ Bất Hoại Tịnh đó con. Giữ gìn nghiêm túc như Phật đó. Đó là Tứ Bất Hoại Tịnh.

2- THỌ BÁT QUAN TRAI LÀ TU TỨ BẤT HOẠI TỊNH

(06:34) Sư Phước Nhẫn: Hổm rày con nói với Thầy để con thích là tu Bất Hoại Tịnh đó, nhưng mà con chưa được gì hết à. Con biết vậy thôi, chứ còn chưa có tu được. Bây giờ bắt đầu hả Thầy?

Trưởng lão: Bắt đầu đó. Tức là mình Thọ bát quan trai là mình tu Tứ Bất Hoại Tịnh rồi.

Thứ nhất là mình sống y như Phật là Niệm Phật đó.

Cái thứ hai mình ôm Pháp Tứ Niệm Xứ, Tứ Chánh Cần mình tu đó là mình Niệm Pháp rồi.

Rồi mình giữ 8 giới nghiêm chỉnh đó là mình niệm giới rồi. Con thấy không?

Niệm Tăng đó là mình sống mình độc cư, mình không có nói chuyện với ai hết thì nó hòa hợp rồi, nó Niệm Tăng rồi. Bởi vì mình nói chuyện là nó không hòa hợp đâu, nó có trái ý; còn mình không nói chuyện tức là hòa hợp. Tức là Niệm Tăng đó con.

Mà mình vô mình Thọ bát quan trai rồi thì đâu có ai nói chuyện với mình, do đó là mình hòa hợp hết chúng, người nào cũng như người nào.

Sư Phước Nhẫn: Bữa hổm con Thọ bát quan trai tự con đó Thầy, con viết cái bảng để lên cái mấy ổng lại mấy ổng thấy mấy ổng đi hết à Thầy.

Trưởng lão: Đúng là hòa hợp Tăng rồi đó, không có phân biệt người này nói chuyện mà người khác không nói chuyện. Cho nên nó hòa hợp. Mình thấy cái hạnh Tăng nó hòa hợp là cái chỗ độc cư. Tức là để cái bảng lên thì hòa hợp Tăng đó, bình đẳng như người nào không có nói chuyện riêng ai. Đúng là giải thoát!

Sư Phước Nhẫn: Con thấy ở đây con thấy thích quá!

Trưởng lão: Bởi vì mình tu đúng đó con, mình tu đúng mình thấy an lạc lắm!

Nhưng mà cái người nào không thích tu họ thấy buồn lắm. Họ thấy buồn họ chạy đi nói chuyện hoài, mấy người đó tu Thầy nói không biết cái đời nào mà tu cho nó rồi!

3- THẦY KHÔNG DẠY SAI LỜI PHẬT

(08:20) Sư Phước Nhẫn: Thưa Thầy để con ráng con lo, nếu mà con có gì nhờ Thầy nhắc giùm nha Thầy.

Trưởng lão: Được rồi. Thầy sẵn sàng Thầy giúp mấy con hết, để mà tu cho nó được. Chớ không có gì hết, Thầy đã đi qua rồi Thầy biết. Phải làm như thế nào, thế nào Thầy biết. Mà hễ Thầy dạy gì thì con cứ lật trong kinh sách Phật y chang, không có cái gì mà Thầy dạy sai! Cứ đọc lại kinh Nguyên Thủy mấy con thấy Thầy nói không có trật.

Sư Phước Nhẫn: Bởi vậy Thầy nói đúng trong kinh mà.

Trưởng lão: Không ai mà nói gì Thầy được. Không có bắt Thầy được gì hết. Bởi vì Phật sao Thầy dạy vậy, vì Thầy cũng tu vậy, Thầy cũng làm được vậy mà Thầy được giải thoát! Bây giờ Thầy muốn tất cả mọi người cũng được như Thầy. Vì vậy mà những cái gì Thầy dạy không sai của ông Phật.

Sư Phước Nhẫn: Thấy hổm rài cũng không có ai nói gì hết Thầy. Vậy cũng mừng đó!

Vậy thì thôi Thầy hả.

Trưởng lão: Thôi con!

4- NGỒI THIỀN NHIỀU SẼ LỌT VÀO ĐỊNH TƯỞNG

(09:12) Sư Phước Nhẫn: Thưa Thầy hổm rày con cũng bớt hôn trầm Thầy. Nghe theo lời Thầy chỉ đó Thầy, con cũng có thêm 1 vài cái trường hợp mà cái đặc tướng của con như thế nào đó, thì con cũng uyển chuyển chút. Nhưng mà nó không phải nó hôn trầm thường, 5 3 bữa nó mới có 1 bữa, chút vậy đó. Nhưng bữa nay thì bớt nhiều rồi Thầy, con thấy nó giảm nhiều lắm, thành ra con mới xuống con hỏi thăm Thầy, con cho Thầy hay vậy đó.

Còn con ngồi thiền thì nó cũng yên tịnh, nó cũng bớt phóng tâm. Nhưng mà có lúc con ngồi cả tiếng đồng hồ nó không có gì hết, nhưng mà mình ngồi im thấy nó cũng không tiện, ngồi chừng nữa tiếng thôi hả Thầy.

Trưởng lão: Phải rồi, đúng rồi. Không có nên ngồi nhiều, bởi vì ngồi nhiều thì nó có trạng thái tưởng nó xen vô, mình đâu có hay. Nó yên lặng là nó dễ xen lắm, tức là nó lọt vào trong tưởng đó.

Sư Phước Nhẫn: Như vậy là mình cứ tiếp tục ngồi hay là mình còn có cái cách nào nữa không Thầy?

Trưởng lão: À, mình có những cái phương cách mình tu như đức Phật dạy đó để cho cái thời gian nó được thu ngắn lại. Tức là tu theo cái pháp Thân Hành Niệm đó. Nhưng mà mình phải tu theo cái sức của mình thôi. Khi mà nó được cái sức tỉnh như vậy rồi, thì mình rất sợ là khi mình ngồi lâu đó nó sẽ kéo dài nó lọt vào cái định tưởng.

Sư Phước Nhẫn: Còn như không có định tưởng thì ngồi lâu được không Thầy?

Trưởng lão: Bởi vì cái định tưởng khi ngồi lâu thì bị định tưởng hà.

Sư Phước Nhẫn: À, luôn luôn nó vậy.

5- THÂN HÀNH NIỆM - BÀI KINH ANAN NHẤT DẠ HIỀN

(10:42) Trưởng lão: Nó luôn luôn nó vậy. Bởi vì trong giai đoạn này là giai đoạn rất khó! Giai đoạn ly dục, ly ác pháp đó. Khi mình ly dục, ly ác pháp được phân nửa thì nó hay có cái trạng thái tưởng nó ra, vì vậy khi mình ngồi yên thì nó dễ vô lắm. Cho nên buộc lòng mình phải động thân hoài. Cho nên có cái phương pháp Thân Hành Niệm đó, mình tu ở trên cái thân hành của mình. Thì trong cái bài “ANAN NHẤT DẠ HIỀN” đó, 1 đêm làm thánh hiền đó. Thì “quá khứ không truy tìm, vị lai không ước vọng”…​, tức là nói về cái tâm mình đó về cái niệm mà khỏi về quá khứ thì không có cho nó khởi. Vì cái phương pháp Thân Hành Niệm nó làm cho cái niệm quá khứ nó không có khởi ra được. Cho nên “quá khứ không truy tìm” đó, tức là nó không có khởi cái niệm quá khứ. “Vị lai không ước vọng”, tức là về cái niệm vị lai cũng không có. Mà nó chỉ có cái niệm hiện tại, mà hiện tại thì “tuệ quán chính là đây”, cái trí tuệ mình quán chính ngay nơi cái hành động của mình, hành động Thân Hành Niệm đó, thì chính là đây, chính là cái nơi chỗ này.

Cho nên vì vậy đó cái hành động thân của mình nó cứ động, tới động lui cho đến luôn cả cái hơi thở nữa. Mà đều không có cái hành động nào mà nó kéo dài thật dài, cũng như đi không vậy đó, đi kinh hành không thì cái hành động nó dài. Cho nên khi mình đi chừng 5, 10 bước gì đó cái mình đứng lại, rồi mình ngồi xuống, mình ngồi xuống cái hành động co chân ngồi xuống, để tay, rồi lại hít thở mấy hơi thở, rồi cái đứng dậy đi kinh hành 1 vòng, rồi trở lại đứng lại, rồi ngồi xuống, rồi cứ như vậy đó ở trên cái hành động gọi là Thân Hành Niệm.

Sư Phước Nhẫn: Mình cứ làm sao mà cho nó tỉnh thức luôn luôn.

Trưởng lão: Nó tỉnh thức, đi như vậy là nó tỉnh thức luôn luôn không bao giờ nó có niệm hôn trầm xen vô được hết. Mà khi mình đi vậy đó, mình chú ý kỹ trên từng cái hành động đó thì những cái niệm quá khứ, cái niệm vị lai nó không có nữa. Nó không có vô nó chỉ còn niệm hiện tại trên hành động thôi, vì vậy mà 1 đêm làm thánh hiền. Tức là nó không phóng dật, nó hết phóng dật luôn.

6- TU TẬP THÂN HÀNH NIỆM MIÊN MẬT, KỸ LƯỠNG THÌ THẤT GIÁC CHI XUẤT HIỆN

(12:36) Sư Phước Nhẫn: Như vậy mình cứ ngồi chừng nửa tiếng thôi hả Thầy?

Trưởng lão: Nữa tiếng thôi, rồi bắt đầu đó mình đi kinh hành. Thí dụ như mình đi, thì trong cái giai đoạn này mình tu tập có thể mình đi chừng nửa tiếng thôi, chớ đừng đi hơn. Trong khi đó mình thực hiện cái pháp mình đứng lên ngồi xuống 5 hơi thở 20 bước, 5 hơi thở 20 bước đó, cái sức mình tu tập được bao nhiêu mình tập đừng có ráng. Bởi vì mình đứng lên ngồi xuống nó cũng mệt mỏi mình lắm. Cho nên mình cứ tu theo cái sức của mình thôi, lần lượt nó quen rồi tăng dần lên.

Trong khi mình tu vậy đó, mình tu kỹ lưỡng, miên mật vậy đó, tức là nó không kẽ hở đó. Thì lúc bây giờ cái Tinh tấn giác chi nó xuất hiện, nó làm cho mình thấy thích tu cái pháp đó, tức là cứ thích đứng lên ngồi xuống, đứng lên ngồi xuống mà nó tỉnh bơ trên cái pháp đó đó.

Rồi bắt đầu cái Khinh an giác chi nó hiện ra; Thất giác chi nó xuất hiện ra đó. Khinh an giác chi nó xuất hiện làm cho cái thân mình an ổn, tuy đứng lên ngồi xuống vầy mà nó an lạc lắm, nó làm cho thích lắm!

Do đó thì cái Hỷ giác chi nó xuất hiện nữa, nó làm cho mình hoan hỷ, hoan hỷ trên cái hành động tu đó.

Rồi bắt đầu cái Niệm giác chi nó xuất hiện, cái sức tỉnh nó cứ luôn luôn ở trên hành động, nó nhịp nhịp trên cái hành động, luôn luôn mình làm cái gì nó cũng biết hết, thì cái Niệm giác chi nó xuất hiện.

Cái Niệm giác chi nó xuất hiện rồi thì bắt đầu cái Định giác chi kế đó nó xuất hiện, thì luôn luôn lúc nào cái tâm nó cũng định ở trên cái thân con, con làm cái gì thì nó biết liền hà, vì nó định trên thân thì cái thân con hoạt động cái gì nó biết. Nó biết liền cái hành động đó mà khỏi cần phải nhắc gì hết.

Rồi cái Xả giác chi nó xuất hiện, xuất hiện để nó ly dục ly ác pháp hết. Cho nên cuối cùng thì mình tâm không phóng dật, ở bên ngoài ai làm gì làm hoàn toàn cứ luôn luôn nó ở trong thân, cái tâm nó ở trong thân. Cho nên con tu tập cái đó lần lượt tâm con vô.

7- TÂM ĐỊNH TỈNH NHU NHUYẾN DỄ SỬ DỤNG MỚI NHẬP NHỊ THIỀN

(14:26) Sư Phước Nhẫn: Rồi thí dụ trường hợp đó mình tu mà không có nghe tiếng động đó Thầy, thì lúc nào?

Trưởng lão: Ờ, khi mà cái tâm quay vô rồi nó định vậy đó, nó định vô thì cái tâm đức Phật nói: “Định tỉnh”. Định tỉnh tức là nó định tỉnh, cho nên cái hành động của mình đưa cái tay vầy cái tự nó biết cái đưa tay, nó biết cái hành động của mình hết là nó định tỉnh ở trên đó rồi. Mà nó định tỉnh thì cái tâm nhu nhuyến, nó nhu nhuyến con nhắc cái gì cái nó làm nấy, nhắc cái gì nó làm nấy. Nó nhu nhuyến, nó mềm mại lắm, nó dễ sử dụng lắm! Cái tâm mình dễ xài thì lúc bấy giờ đó con mới nhập Nhị thiền, con bảo: “diệt tầm tứ” tai không còn nghe nữa.

Sư Phước Nhẫn: Chừng đó mới nhập?

Trưởng lão: Chừng đó mới nhập được con. Cái tâm mình nó định tỉnh, nó nhu nhuyến rồi mới nhập được cái Nhị thiền con. Chứ còn lơ mơ nhập không được đâu. Đó tới đó rồi nó mới nhập vô.

Sư Phước Nhẫn: Còn cái trong thái mà Sơ thiền trước khi đó nó sao Thầy?

Trưởng lão: Cái Sơ thiền, nó ly dục ly ác pháp rồi con thấy nó thanh thản, an lạc và vô sự. Nó không có cái niệm gì hết thì con tu trên cái Thân Hành Niệm đó, trong cái hành động con đứng lên ngồi xuống đó, thì nó Khinh an giác chi, Hỷ giác chi, Tinh tấn giác chi nó hiện ra đó là cái trạng thái Sơ thiền con. Nó đủ hết 7 giác chi của nó là cái trạng thái Sơ thiền con.

Rồi cái Trạch pháp giác chi là cái giác chi mà nó xuất hiện cuối cùng đó, là con nhắc cái gì nó làm nấy là Trạch pháp giác chi nó xuất hiện, tức là nó vâng lệnh con hết. Con muốn cái gì đó là cái Trạch pháp đó, cái đó là Trạch pháp là chọn cái pháp, mà cái tâm con nó chọn tức là nó muốn. Nó muốn ờ bây giờ nhập Nhị thiền bảo: “Diệt tầm tứ, nhập!” Cái Trạch pháp giác chi nó xuất hiện cuối cùng đó con. Mà nó xuất hiện con vừa muốn cái đó cái nó vô gọi là Trạch pháp giác chi. Tức là cái pháp Bồ đề đó, cái ý mình muốn cái nó thuộc về Bồ đề, muốn cái nó thành cái giải thoát liền. Theo cái chủ động của nó mà. Cho nên Trạch pháp giác chi.

Cho nên trong cái 7 giác chi đó, cái người học giả họ không biết họ nói Trạch pháp giác chi là ở đầu, chớ Trạch pháp giác chi là cuối cùng. Định giác chi, Xả giác chi rồi mới Trạch pháp giác chi con.

(16:42) Sư Phước Nhẫn: Như vậy tu bây giờ nó đang ở trong cái Thất giác chi hả Thầy?

Trưởng lão: Ờ, coi như là mình thực hiện Thân Hành Niệm là mới bước vào Thất giác chi, tập luyện để mà bước vào Thất giác chi. Thì cái Tinh tấn giác chi nó xuất hiện trước con, nó làm cho mình siêng năng ở trong cái hành động đứng lên ngồi xuống, cái Thân Hành Niệm đó nó làm cho mình siêng năng, nó làm cho mình tu tập mình thấy không có lười biếng nữa. Chớ còn chưa có đó con thấy đứng lên, ngồi xuống hơi nó muốn nghỉ con, nó lười biếng lắm!

Sư Phước Nhẫn: Có nhiều đêm con cũng bị muỗi đó Thầy, cái con dở mùng lên để đi lên đi xuống cho nó dễ. Dạ con đi lên đi xuống như Thầy nói đó thì mới được, chứ còn không thì dở mùng chung vô chung ta thấy nó cực quá, thôi con dở mùng bỏ.

Trưởng lão: Rồi bắt đầu cái đứng lên ngồi xuống tu Thân Hành Niệm đó, thì muỗi nó theo nó đeo con không kịp nữa.

Sư Phước Nhẫn: Thí dụ trường hợp đó mình kéo dài thời gian xíu được không Thầy?

Trưởng lão: Được, Không sao.

Sư Phước Nhẫn: Thí dụ cái tâm mình thấy yên tịnh đó, nó không có hôn trầm, không có lôi thôi nữa đó thì có thể mình thêm 5, 10 hơi thở nữa cũng được?

Trưởng lão: Được, sau đó rồi mình cứ giữ đúng thôi. Còn bây giờ mới đầu đó mình nó ấy hơn…​

8- THÂN HÀNH NIỆM, TỈNH THỨC TRÊN TỪNG HÀNH ĐỘNG

(18:20) Sư Phước Nhẫn: Con đi kinh hành đó Thầy, mặc dù trước khi con đi con tác ý: “Tôi đi tôi biết tôi đi”, nhưng sao con đi đó con bị nó quen cái dụ mà con tác ý theo hơi thở đó, con ngồi chơi cũng tác ý theo hơi thở, cái rồi đi sao nó cũng biết đi vậy nhưng mà sao nó cứ theo hơi thở hoài, như vậy thì mình theo cái nào Thầy?

Trưởng lão: Con nên theo cái bước đi, hễ mình đi mình cắt ra đừng có cho nó đi mà nó biết hơi thở, mà đi thì biết bước đi thôi. Cho nó cái phần nào nó ra phần nấy, nó tỉnh thức trên mọi hành động, mà hành động nào…​ (băng mất tiếng)…​ nó bị tưởng đó. Còn mà nó trở thành thói quen nữa, cũng như bây giờ con quen hơi thở, con đi mà nó vẫn biết hơi thở là tại thành thói quen hơi thở. Cho nên cái đó nó trật! Nó thành thói quen, nó bỏ khó.

Đó cho nên vì vậy mà hay chỗ Thân Hành Niệm là mình đi mình biết đi, mà mình đưa tay thì mình biết đưa tay, mình xách cái gì lên thì mình biết xách cái đó lên chứ mình không còn nhớ cái hành động khác. Cứ cái hành động nào đó trong cái hiện tại của nó, cứ nó làm cái gì hiện tại của nó thì nó xuất phát ra. Còn cái hơi thở mình thì coi như là chỉ có duy nhất ngồi lại thì biết hơi thở thôi. Còn nếu mình không có ngồi thì tức là đi thì hành động nào phải theo hành động nấy. Nó như vậy nó rõ ràng lắm, nó cụ thể, mà nó tỉnh thức từng hành động nó mới đúng là cái sự tỉnh thức.

Còn bây giờ vừa đi mà mình lại tỉnh thức ở trên cái hơi thở của mình như vậy là mình bị cái thói quen của hơi thở. Phải không?

Sư Phước Nhẫn: Nói chung lại là mình làm cái gì mình phải biết cái nấy.

Trưởng lão: Mình làm cái gì biết rõ cái nấy, cái hành động đó. Gọi là Thân Hành Niệm đó. Cái pháp nó tuyệt vời lắm!

Cho nên đầu tiên mà Thầy dạy mấy con vô đó, Thầy dạy trong sách là dạy bảo mấy con đó tu tập Thân Hành Niệm, phải không?

Nhưng mà thật sự ra mấy con tu tập 5 hơi thở đi kinh hành 20 mươi bước các con làm các con thấy sao nó nhọc nhằn quá, cực các con tập sơ rồi bỏ. Phải không? Nhưng hôm nay Thầy quay trở lại…​(băng mất tiếng)…​

Các con tập thời gian nó thuần mấy cái kia rồi, bắt đầu quay trở lại Thân Hành Niệm “Nhất Dạ Hiền” con, cái bài pháp tuyệt vời của Phật đó! Chớ nó không phải là cái thứ lơ mơ đâu.

Sư Phước Nhẫn: Như vậy là nói chung lại là tất cả mọi thứ nó gom lại chỉ có bao nhiêu đó thôi. Chớ không có nhiều nữa. Đó giờ lu bu, lu bu vậy đó là cái duyên hạnh…​(. . .). Gom lại chỉ có…​

Trưởng lão: Có bao nhiêu đó thôi con. Chớ không có nhiều nữa. Cái Thân Hành Niệm thôi. Bởi vì Thân Hành Niệm nó nằm ở trên Tứ Niệm Xứ. Vì Tứ Niệm Xứ nó phải có hành động, mà nhờ cái hành động đó mà mình mới khắc phục được hôn trầm, thùy miên, vô ký cho đến loạn tưởng hay vọng tưởng, thiện ác gì đều là quét sạch ra!

9- ĐỐI TRỊ TÂM PHÓNG DẬT TÙY THEO PHÁP ĐANG TU

(21:25) Sư Phước Nhẫn: Thưa Thầy còn mình đang ngồi thiền mà cái tâm mình nó phóng dật này kia nọ đó thuộc về tâm phải không Thầy? Mình cắt nó bằng cách nào Thầy?

Trưởng lão: Thuộc về tâm. Ờ, mình đang ngồi thiền mà nó phóng dật đó, thì đó là ở trên cái pháp nào? Nếu là mình ngồi thiền mà đang tu ở trong cái Tứ Chánh Cần, thì nó có 4 pháp định, cái Định Niệm Hơi Thở nó khởi ra thì tức là ở trên đó mình phải dùng Định Vô Lậu mình quán mình đuổi đi; còn nếu mà mình tu Tứ Niệm Xứ thì tác ý đuổi đi, chứ không có quán nữa. Chỉ có cái Tứ Chánh Cần mình mới quán thôi.

Thí dụ như con đi kinh hành mà cái niệm nó khởi ra, thì con đi như vậy chứ con đưa cái niệm đó ra con quán xét cái niệm đó là con tu Tứ Chánh Cần. Tức là ngăn ác mà diệt ác đó. Còn hễ nếu mà Tứ Niệm Xứ thì đẩy lui chướng ngại pháp chứ không có quán nữa. Nó không có dùng Định Vô Lậu nữa.

Sư Phước Nhẫn: Thí dụ mình đang ngồi thiền phóng tâm nó vô thì mình cứ đuổi nó đi?

Trưởng lão: Tác ý đuổi đi! Ờ, “mày là ái kiết sử; mày là hữu tham kiết sử; mày là dục lậu; mày là hữu lậu; hay mày là nhân quả gì đó…​” Tác ý cái đuổi đi liền! Chớ không có quán, không có tư duy suy nghĩ. Đó nó khác hơn cái Tứ Chánh Cần. Cái này Tứ Niệm Xứ trong khi đẩy lui chướng ngại pháp thôi.

Sư Phước Nhẫn: Bây giờ thì mình đang tu Tứ Niệm Xứ hả Thầy?

Trưởng lão: Ờ mình đang tu Tứ Niệm Xứ đó, thành ra mình tác ý thôi.

Sư Phước Nhẫn: Cũng như hổm rày con cũng ngồi mà sao nó con thấy đau…​ ( băng mất tiếng).

Trưởng lão: …​(băng mất tiếng) nó không vô được, con lưu ý nó phóng tâm. Nó vừa tán vô, mà con vừa tỉnh thức ở trên Thân, Thọ, Tâm, Pháp con đó thì nó văng liền khỏi cần tập. Nhưng mà nó lại lôi con, tức là nó hiện ra cái hình tướng rồi, thì tức là nó đã xâm nhập vô rồi thì do đó mình tác ý liền đuổi ra, thì trở lại tâm thanh thản hoàn toàn. Phải không?

Còn cứ trong Thân Hành Niệm thì coi như là con cán nát nó luôn, nó không có vô được đâu.

10- TẦM VÀ TỨ

(23:10) Sư Phước Nhẫn: Còn thí dụ mình đang ngồi thiền mà thí dụ mình đang tác ý đó là Tầm phải không Thầy?

Trưởng lão: Tầm đó. Tức là mình tác ý là Tứ của nó rồi. Mình đang ngồi thiền vậy mình tác ý, mình nhắc: “Tâm phải thanh thản, an lạc, vô sự” đó là mình tác ý, để mình dẫn tâm mình nó đi vào chỗ đó hoài hoài.

Sư Phước Nhẫn: Còn cái suy nghĩ này kia nọ…​

Trưởng lão: Suy nghĩ là Tầm.

Sư Phước Nhẫn: Mà mình còn suy nghĩ trước khi mà mình tác ý đó, mình có cái suy nghĩ chút chứ Thầy. Lựa cái câu nào cho nó hợp với cái đặc tướng.

Trưởng lão: Cái đó là Tầm, Tầm rồi mới Tứ.

Sư Phước Nhẫn: Trong lúc mình đang chưa có được Sơ thiền đó là mình còn tu trong Tầm, Tứ.

Trưởng lão: Tầm, Tứ. Phải lấy Tầm, Tứ mà tu.

Cho nên mình Tầm rồi mới Tứ. Tứ tức là an trú trong Tầm thiện đó con. Cái bài “Song Tầm” đó là con chọn lấy cái Tầm thiện. Rồi bắt đầu cái bài “An trú Tầm” đó, thì con tác ý con đuổi đi. Con hiểu chưa? 2 cái bài kinh Phật dạy bài “Song Tầm” với bài “An trú Tầm” đó.

Mình luôn luôn mình sống trong 2 bài kinh đó là 2 cái bài thực hành mà. Thực hành ở trên các pháp Phật dạy mà, để cho mình biết cách mình tu.

Sư Phước Nhẫn: Con chỉ hỏi Thầy bao nhiêu đó thôi Thầy, để cho con về con tập. Bởi vì con tập con sợ nó không đúng đó thành ra con hỏi lại.

Trưởng lão: Ờ, cứ hỏi lại, khi nào mà tập cái gì không đúng hỏi lại kỹ.

11- TU TẬP PHÁP THÂN HÀNH NIỆM KỸ LƯỠNG

(24:34) Sư Phước Nhẫn: Bạch Thầy, nếu mà Thầy có thấy cái gì trong lúc con tu đây đó, Thầy hiểu rồi thì Thầy coi con có sơ sót cái gì thì Thầy nhắc giùm con nha.

Trưởng lão: Rồi, được rồi Thầy sẽ nhắc cho. Nhưng mà bây giờ đó thì con tập thêm cái pháp Thân Hành Niệm đi. Con tập Tứ Niệm Xứ rồi, con ngồi con giữ tâm thanh thản con đuổi chướng ngại pháp ra hén, rồi con tập Thân Hành Niệm.

Sư Phước Nhẫn: Thân Hành Niệm như thế nào Thầy?

Trưởng lão: Con tập, thí dụ như con hít thở 5 hơi thở con đứng dậy đi kinh hành.

Sư Phước Nhẫn: Có Thầy, con có tập cái đó hổm rài Thầy.

Trưởng lão: Ờ, thuần chưa? Con tập được mấy phút? 10 phút, 20 phút chưa?

Sư Phước Nhẫn: Con tập tới nửa tiếng rồi Thầy.

Trưởng lão: Nửa tiếng rồi hả? Con tập cho kỹ nó con! Tập hoàn toàn phải cho nó biết từng cái hành động, hành động của nó, đừng có lướt qua con.

Thí dụ như bây giờ con tập, con ngồi xuống thì 2 cái chân con co xuống con lưu ý 2 cái chân co xuống, cái con ngồi xuống cái đít con đụng đất rồi hén con cũng lưu ý hé. Rồi bắt đầu cái chân con co lên, thì thay vì cái chân co lên thì con vén cái y…​

Sư Phước Nhẫn: Mình cứ theo dõi…​

Trưởng lão: Theo dõi từng cái hành động cho kỹ nó con! Con tu ít mà chất lượng cao nó sẽ đạt con. Con tu tới nửa tiếng đồng hồ nó nhiều sợ nó không kỹ đó.

Sư Phước Nhẫn: Như vậy thì không kỹ Thầy, không có giống như Thầy nói. Bị vì kỹ thì chắc chừng 5, 10 phút hà.

Trưởng lão: Kỹ cho thiệt kỹ mới được con! Con nghe cái bài Thân Hành Niệm bảo mình tu nó phải kiên cố, nó phải như cổ xe, nó phải như căn cứ địa. Phải kỹ lưỡng lắm đó con! Cái pháp đó phải kỹ, chớ lướt lướt qua không được.

Sư Phước Nhẫn: Vậy về con tập lại.

Trưởng lão: Rồi, Thầy nhắc nhở lại tập kỹ. Chớ để không con tu lướt qua cái nó không có chất lượng. Mà tu nó kéo dài hoài thì giờ mà nó không có chất lượng đâu!

Thà là tu ít, thí dụ như con tu chừng mấy phút thôi mà cái chất lượng nó cao, nó có kết quả.

Sư Phước Nhẫn: lâu lâu làm lại.

Trưởng lão: Lâu lâu làm lại, cứ lâu lâu làm lại, cái chất lượng nó cao.

Con về tập lại cái pháp đó kỹ, rồi Thầy lần lượt Thầy hướng dẫn lần lần cho nó chính xác cái pháp này thì nó sẽ đi tới con. Bởi vì mình tu cái gì tu, tới chừng phải trở về cái pháp này mà mà đi vô đạo giải thoát.

Sư Phước Nhẫn: Vậy thôi Thầy hé, con cám ơn Thầy!

12- TÂM ĐỊNH TỈNH KÉO DÀI 12 GIỜ THÌ 7 GIÁC CHI XUẤT HIỆN

(26:50) Sư Phước Nhẫn: Hôm nay con thấy con bớt hôn trầm nhiều rồi Thầy. Con tập bớt lại, nhưng mà rồi mình bớt vậy đó, rồi mình tiếp tục hay là mình có tu cái gì khác nữa không Thầy?

Trưởng lão: Có chớ, có những cái phương pháp khác nữa chớ con. Chớ không phải mình chỉ tu có nhiêu đó, mình còn những cái pháp cho tới cuối cùng, những cái pháp nó rốt ráo, để cho nó xuất hiện 7 cái giác chi nữa.

Sư Phước Nhẫn: Thí dụ trường hợp đó muốn nó xuất hiện đó là lúc nào nó xuất hiện Thầy?

Trưởng lão: Khi mà cái sức mà định tỉnh thì nó sẽ xuất hiện đủ 7 giác chi. Còn mình mới có tỉnh giác hay mới tỉnh thức đó thì nó mới xuất hiện chừng khoảng độ 5 hay là 3 cái giác chi thôi, nó không xuất hiện đủ. Còn khi mà cái tâm mình nó định tỉnh được rồi nó mới xuất hiện đủ. Mà nó định tỉnh phải suốt cái thời gian định tỉnh của nó, chớ mình định tỉnh nó mới trong 1 tiếng hay nửa tiếng đồng hồ thì nó chưa xuất hiện đủ đâu, nó phải 12 tiếng đồng hồ kìa nó mới xuất hiện đủ.

Cho nên trong cái bài kinh mà “Nhất Dạ Hiền” đó, tức là 1 đêm làm thánh hiền đó, thì nó mới xuất hiện đủ. Cho nên căn cứ vào cái bài đó mà mình rằng đức Phật đã xác định được cái thời gian, khi mà cái tâm nó bắt đầu định tỉnh đó thì nó phải kéo dài cái thời gian là 12 tiếng đồng hồ, tức là 1 đêm.

13- TU TẬP VỪA SỨC, TU ĐÚNG PHÁP, DẪN TÂM ĐÚNG CÁCH SẼ PHÁ ĐƯỢC HÔN TRẦM

(28:10) Sư Phước Nhẫn: Dạ, theo con nghĩ đó Thầy, bây giờ con tu tập cho nó hết hôn trầm cái đã, rồi chừng đó mình mới tu tập giống như nãy giờ Thầy nói vậy.

Trưởng lão: Đúng rồi!

Sư Phước Nhẫn: Cho nó hết hôn trầm, bởi vì hôn trầm đó lúc nào nó mới hết Thầy ha?

Trưởng lão: Mình tập vừa với sức của mình, đừng có tập quá sức, quá sức nó cũng bị hôn trầm. Mà tập vừa sức của mình, tập đúng pháp, dẫn dắt tâm mình đúng cách thì nó sẽ hết. Rồi sau đó khi mà nó hết đó thì lúc bây giờ đó mình muốn tăng cái thời gian lên dài để cho cái sức định tỉnh đó, thì mình sử dụng pháp khác, chớ không phải cái pháp đó.

Thí dụ như bây giờ mình tu Định Niệm Hơi Thở thì nó có 18 cái đề mục của Định Niệm Hơi Thở, thì mình tập dần lần lượt từng cái đề mục để cho nó viên mãn từng cái đề mục của nó cho đến khi mà cuối cùng. Thì mình thấy là cái thời gian mình tu chừng 30 phút hay 1 giờ thôi chứ đừng tăng lên, và mỗi thời vậy mình tu trong 1 lần hay hoặc là 2 lần thôi chứ không có tu nhiều. Mình tu quá sức của mình nó cũng bị hôn trầm nữa. Cho nên tu vừa sức của mình thì không bị hôn trầm.

Sư Phước Nhẫn: Như vậy thì con đợi cho nó hết hôn trầm rồi con tu mới ổn định hơi thở hả Thầy?

Trưởng lão: Đúng rồi, bây giờ con tập hết hôn trầm đó thì nó có những cái cách thức tập. Thí dụ như mình tập tỉnh thức, Chánh Niệm Tỉnh Giác đó. Mình đi kinh hành nó cũng hết. Hoặc là mình dẫn dắt cái tâm của mình trên cái hơi thở, mà vừa với cái sức của mình thì nó cũng hết, chứ mình quá sức là nó bị hôn trầm.

Sư Phước Nhẫn: Dạ, hổm rài con tập theo cái ý của Thầy đó, thì lúc nào bị hôn trầm nhiều mà nặng đó con đi, con ngồi 5 hơi thở rồi con đi 1 vòng, rồi lúc nào mà nó bớt đó con ngồi dài hơn.

Trưởng lão: Được, con tập vậy là khéo léo đó. Nghĩa là nó bớt, nó không có thì mình ngồi nhiều. Còn nếu mà nó có thì mình 5 hơi thở đi kinh hành 20 bước, cứ y vậy để cho mình phá, làm riếc cho nó hết.

(30:25) Sư Phước Nhẫn: Như vậy thí dụ trường hợp mà, đến cái lúc mà nhập vô Sơ thiền đó Thầy nó còn hôn trầm không Thầy?

Trưởng lão: Hết! Nó định tỉnh rồi nó đâu còn. Bởi vì mình ly dục ly ác pháp nó định tỉnh rồi; nó không còn tham sân si, thì tức là si nó hết thì hôn trầm nó hết à con. Nó định tỉnh, tới chừng mình cho nó ngủ là nó ngủ ngon, nó không có ngủ tầm bậy tầm bạ, không có si nữa!

Sư Phước Nhẫn: Lúc này con ngủ thấy được lắm Thầy, thí dụ như lúc nào ngủ thì ngủ, lúc nào muốn thức thì thức hà.

Trưởng lão: À, cái đó là nó tốt rồi đó.

Sư Phước Nhẫn: Ý con là con tập không ngủ trưa nữa. Bởi vì ngủ trưa nằm xuống mình nói là mình không ngủ, nhưng mà nó ngủ hồi nào không hay. Rồi nó ngủ mê Thầy, bị trời nóng á, thành ra ngồi khó ngồi quá! Thành ra con bỏ, con không ngủ nữa.

Trưởng lão: Cũng tốt, để cho tối mình ngủ, nó khỏe hơn.

Sư Phước Nhẫn: Dạ, tối con ngủ đúng giờ, con vặn đồng hồ có khi thức sớm hơn nữa 5, 3 phút.

Trưởng lão: Ờ con thấy bây giờ cái hôn trầm của mình nó cũng lui dần, nó giảm lần lần là thấy cũng tiến bộ.

Sư Phước Nhẫn: Dạ, có giảm Thầy. Con chưa dám tu theo cái lối của Thầy nói là Định Niệm Hơi Thở đó, chưa dám bởi vì nó còn đó.

Trưởng lão: Nó còn, nó sẽ phá mình đó.

Sư Phước Nhẫn: Mình sợ nó tái đi tái lại. Thành ra con muốn cự tuyệt cái hôn trầm.

Trưởng lão: Ờ đúng rồi, con vậy là con tu cẩn thận, tu kỹ! Coi như là mình phải cho tỉnh thức hoàn toàn.

Thì nó có những cái phương pháp mình tập, tức là 5 hơi thở mình đi kinh hành đó, mình đi 1 cách Chánh Niệm Tỉnh Giác đó, mình phá nó.

14- BỀN CHÍ TU TẬP PHÁ CÁC KIẾT SỬ, KHÔNG NÊN QUÁ VỘI VÀNG DỄ BỊ ỨC CHẾ

(32:03) Sư Phước Nhẫn: Với bây giờ đó con cũng đang bị kiết sử đó Thầy. Kiết sử với cái chuyện này, cái đó nguy quá!

Trưởng lão: Đúng rồi con.

Sư Phước Nhẫn: Cái lúc mà mình ở trong thất đó thì không có sao. Mà gặp cái tiếp duyên ra ngoài đó, cái nó trở lại.

Trưởng lão: Nó sống lại.

Sư Phước Nhẫn: Rồi với có khi tự mình ở trong thất nó cũng phóng ra. Thành ra con phải lìa cái đó trước.

Trưởng lão: Đúng rồi con, cái đó là cái Ái kiết sử nó nặng lắm con!

Sư Phước Nhẫn: Ái kiết sử với rồi cái 5 triền cái đó Thầy. Con tu tập như vậy được hả Thầy?

Trưởng lão: Được con, cái đó là cái chính, cái gốc của nó mình phải đi vô. Cái đó con nghĩ đúng rồi. Bây giờ mình còn thiện xảo để cho mình quán xét để mình xả cho được, khi nó đến thì mình xả chứ đừng chấp nhận theo nó.

Sư Phước Nhẫn: Dạ, con mỗi lần nó đến là con quán xét cái rồi con xả, thấy hổm rài con bớt nhiều cái đó lắm.

Trưởng lão: Xả riếc thì nó sẽ thành tịnh. Con nếu mà bền chí mình tu tập vậy là nó sẽ hết. Chứ còn mình hễ khi mà nó khởi cái mình tiếp thì nó huân, nó nuôi lớn thêm. Còn mình xả tức là mình không có nghe theo nó nữa, buộc lòng nó phải thưa dần nó chết!

Sư Phước Nhẫn: Cái nào mà nó nghịch với mình là mình bỏ.

Trưởng lão: Phải bỏ! Đó là mình dùng cái Vô lậu để mình xả cho hết nó. Quán, tư duy, suy nghĩ mình tu. “Thân mình còn có 1, 2 ngày nữa mà ở đây mình nghĩ nhớ thương tiếc làm gì?! Tất cả đều bỏ hết!”. Thì mình nghĩ như vậy là mình sẽ xả được. Chớ còn nếu mình không nghĩ đúng thì nó làm cho cái tâm mình nó sống, nó sống lại trong cái kiết sử đó.

(33:55) Sư Phước Nhẫn: Với mình thấy cái tuổi của mình cũng lớn rồi đó Thầy. Mỗi 1 ngày mà nó trời chiều xuống cái mình thấy buồn, hết 1 ngày.

Trưởng lão: Sợ nó không kịp! Mất cái thời gian không kịp.

Sư Phước Nhẫn: Con cũng cố gắng dữ lắm Thầy!

Trưởng lão: Đó, đó là những cái cố gắng đúng con. Thấy 1 ngày qua, nó mất đi mình 1 ngày, mình sợ tu không kịp! Cho nên vì vậy mình cố gắng hàng phục những cái ái kiết sử; những cái tâm niệm của mình nó thế gian, mình cứ ngăn chặn mình diệt nó, riếc nó hết! Nó không phải là 1 cái chuyện mà tập trong 1 ngày, 2 ngày mà nó đòi hỏi phải bền chí, nó cứ hiện ra, rồi mình cũng thấy nó thưa dần.

Sư Phước Nhẫn: Thấy có thưa Thầy, thành ra vì vậy mà mình thấy mình vui. Mặc dầu lớn tuổi rồi nhưng mà thấy có kết quả, thì con chỏi hỏi (tức là khỏe khoắn, khỏe mạnh) giống như mấy người trẻ vậy!

Trưởng lão: Đúng vậy đó! Bị vì cuộc đời của mình mình đã trải qua huân vào nhiều quá! Bây giờ mình xả ra cũng từ từ chứ không thể nào mà vội được. Vì vậy mình thấy, nói là có giảm bớt, cái đó là cái kết quả của mình.

Sư Phước Nhẫn: Chớ còn mà mình vội quá đó thì có khi gấp cái có vấp Thầy.

Trưởng lão: Nó ức chế, nó gấp quá là mình bị ức chế. Nó phản công lại, nó làm cho mình rối.

Sư Phước Nhẫn: Thành ra ở con thấy mấy người vô,…​ (. . .).

Trưởng lão: Vội vàng đó, nó bung ra liền. Cũng như Sư Bửu Quán hôm đó, với Sư Hiệp 2 ông sư nhỏ nhỏ đó, với ông Sư già già vô vội vàng quá, ôm pháp chặt đánh nó cái nó phản công lại chịu không nổi.

Phải từ từ mình hợp dần, đại không được đâu. Với mình tu tập từ lâu tới giờ mình tu mình ức chế, mà mình chưa có xả nữa, rồi mình vô mình lại ôm pháp mình ức chế lần nữa thì nó phải phản công rồi, thành ra chịu không nổi. Cho nên cái trường hợp đó là xảy ra quý sư, quý thầy cũng muốn tu giải thoát nhưng mà không thiện xảo, khéo thiện xảo. Cho nên lần lượt mình tu tập thấy cơ thể mình nó an ổn được với cái môi trường, nó mạnh khỏe đó. Thầy thấy con bây giờ nó đỡ hơn hồi về đó con.

15- TRẠNG THÁI SƠ THIỀN CƠ THỂ TỰ PHỤC HỒI

(36:17) Sư Phước Nhẫn: Nó đỡ Thầy, nó đỡ. Tại vì nói ngây con cũng uống ly sữa giống của Thầy.

Trưởng lão: Vậy đó con, không sao đâu. Tốt Thôi!

Sư Phước Nhẫn: Trong lúc ăn đó Thầy, ăn rồi uống thấy đỡ lắm.

Trưởng lão: Cứ mình như vậy cho nó bồi dưỡng được cái cơ thể mình đặng nó khỏe mạnh mà tu. Chớ còn mình ăn khô khan quá đó chắc chắn là mình tiêu mau. Bị vì nó không có cái chất bổ, già rồi! Già rồi con biết nó mất xuống 1kg là mình thất khó lắm. Thầy vừa rồi Thầy mất 5kg đó. Rồi mấy bữa rồi lấy lại được bình thường.

Sư Phước Nhẫn: Thầy như vậy là Thầy có ngồi thiền trong lúc tối đồ để lấy lại sức không Thầy?

Trưởng lão: Nhờ đó phục hồi lại, chứ còn không có thì chắc tiêu luôn. Nhất là buổi khuya Thầy ngồi.

Sư Phước Nhẫn: Thầy ngồi Thầy có ngồi cái Sơ thiền, Nhị thiền đồ đó Thầy?

Trưởng lão: Không Thầy ít có vô Nhị thiền lắm. Bởi vì Nhị thiền coi như nhập định rồi. À, mình ngồi ở trong cái Sơ thiền, cái tâm bất động để cho mình tác ý mình phục hồi những cái tế bào của mình cho nó tươi nhuận, nó sống lại.

Sư Phước Nhẫn: Cái đó là Thầy ngồi nhập Sơ thiền hả Thầy?

Trưởng lão: Nhập Sơ thiền để giữ cái tâm bất động, thanh thản, an lạc, vô sự. Thay vì mấy con tu thì nó còn cái niệm nó phóng dật, nó phóng ra còn Thầy thì nó hết rồi. Cho nên thỉnh thoảng Thầy tác ý cơ thể nó phục hồi lại, sức khỏe nó phục hồi. Mình giữ yên lặng tự nó phục hồi lại, nó nhờ cái sự yên lặng mà nó phục hồi.

Sư Phước Nhẫn: Như vậy thì mình lâu lâu mình tác ý.

Trưởng lão: Tác ý, để mình dẫn nó, mình dẫn cho nó phục hồi.

Sư Phước Nhẫn: Chứ không tác ý nó không phục hồi?

Trưởng lão: Mình không tác ý thì mình ngồi đó nó cũng phục hồi chứ không phải không, nhưng mà tác ý nó mau hơn, đặng sáng hôm sau mình làm việc. Còn nếu mình ngồi đó mà phục hồi đó thì ngày nay, ngày mai, ngày mốt mình ngồi liên tục vậy ngày nào cũng giữ tâm thanh thản, bất động vậy trong Sơ thiền đó thì tự nó phục hồi khỏi cần nhắc, nhưng mà phải có cái thời gian dài. Cò mình nhắc cho nó phục hồi mau để đó hôm sau mình làm. Mình làm nó tiêu hao rồi mình ngồi nó phục lại nữa. Cũng như mình sạc điện thêm.

Sư Phước Nhẫn: Mình phục hồi là mình chỉ ngồi Sơ thiền?

Trưởng lão: Ngồi Sơ thiền con. Còn nhập kể như là thân của mình hoàn toàn nó bất động rồi.

16- TRẠNG THÁI NHỊ THIỀN

(38:32) Sư Phước Nhẫn: Như vậy thì thí dụ như mình ngồi cái Nhị thiền là mình diệt tầm tứ, tại diệt tầm tứ hả Thầy?

Trưởng lão: Không, mình ngồi Nhị thiền đó tức là tầm tứ mình còn nhưng mà tâm mình nó thanh thản, an lạc. Mình không nghĩ thì nó mình thanh thản, an lạc; mà có nghĩ thì nghĩ thiện chứ không nghĩ ác.

Sư Phước Nhẫn: Còn âm thanh Thầy?

Trưởng lão: Âm thanh ở ngoài tác động mình nghe thì vẫn nghe chứ không sao, còn diệt tầm tứ là hết nghe rồi. Nó không nghe, không gì hết; cái thân của mình gần như là nó, 6 cái thức của mình mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý nó không hoạt động nữa.

Sư Phước Nhẫn: Mà trong, không biết ở đâu con không nhớ rõ. Mấy ổng nói là Nhị thiền là tầm tứ không còn.

Trưởng lão: Tầm tứ diệt con. Bởi vì nó diệt tầm tứ nó mới nhập Nhị thiền. Mà nó diệt tầm tứ tức là diệt ý thức rồi, mà diệt cái ý thức thì nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức nó diệt hết, 6 cái thức này nó diệt hết. Hễ nó diệt ý thức thì nó diệt hết 6 cái này; lỗ tai nó cũng diệt; con mắt nó cũng diệt; cái lỗ mũi cũng diệt; cái vị ở trong đói bụng nó cũng diệt, nó không còn đói khát, không còn gì hết.

Sư Phước Nhẫn: Cứ ngồi yên lặng.

Trưởng lão: Ngồi yên tịnh bất động đó thôi, mà nó ở trong cái thế giới khác. Coi như nhập Nhị thiền là nó không có ở trong cái thế giới mình nữa. Cái biết của mình nó ở trong cái thế giới khác, thế giới tưởng.

Sư Phước Nhẫn: Chứ không phải không tưởng hả Thầy?

Trưởng lão: Coi như là mình diệt cái ý thức của mình rồi, tức là tầm tứ diệt rồi thì bắt đầu nó ở trong toàn bộ tưởng trong thức. Lúc bấy giờ mình ở trong cái thế giới khác, chứ không phải cái thế giới của mình nữa.

Cho nên khi trong cái thế giới tưởng, trong khi ở đó trong ý con vừa khởi tưởng cái gì thì nó có cái đó nó hiện ra liền. Thí dụ như con ở cái thế giới đó, con tưởng cái ổ bánh mì cái nó có cái ổ bánh mì liền. Thấy liền hà, ờ ăn liền. Coi như là con muốn ăn mì ăn liền cái nó có tô mì ăn liền, nó có tô mì hơi nó bốc lên ngùn ngục thơm phức hà.( Thầy cười) Trong cái thế giới đó hay lắm! Khi nào mà con nhập được Nhị thiền rồi, con vô trong thế giới tưởng rồi con tưởng ra cái có, tưởng ra cái có hà.

Ờ bây giờ con tưởng, thí dụ như bây giờ con đang ở trong nhà này con tưởng đây là khu rừng già, nguyên là cây rừng đồ không hà, con thấy coi như là ở trong rừng chứ cái nhà mất rồi. Cái thế giới đó nó hay lắm, tự nó biến, tự nó hiện miễn là mình muốn có, muốn có, muốn có thế giới tưởng đó.

(40:55) Sư Phước Nhẫn: Nhưng mà mình không nên giữ nó hả Thầy?

Trưởng lão: Ờ thì mình biết rằng cái đó là cái thế giới tưởng, tại vì mình hiểu cho nên mình biết nó là cái ảo thôi. Cho nên vì vậy mình không có…​

Thật sự ra thì trong cái thế giới đó con muốn ăn 1 bữa cơm ngon thì nó có dọn lên 1 mâm cơm ngon, nó biến hóa ra liền. Rồi con ngồi con ăn cũng ngon ngào vậy. Nhưng mà tưởng, ăn rồi mình không có no bụng! Xuất định ra thì nó không có no, nó cũng đói hà. Vì nó tưởng!

Cũng như con nằm chiêm bao mà con thấy ăn cơm rồi, nhưng mà con hết chiêm bao con ra trong bụng mình cũng đói. Nhưng mà ở trong đó thì nó no, nhưng mà đi ra thì nó không có no. Thế giới nó hay lắm!

Bởi vậy Thầy nói khi mà tới cái giai đoạn khác thì mình thấy nó cũng có cái lạ lắm. Bây giờ con tập con ly dục ly ác pháp thì con cũng thấy có những cái lạ, là khi cái thân mình đau gì đó, hay gì đó mình nhắc mình tác ý, với cái ý thức của mình tác ý thấy nó cũng làm chủ được, thấy nó cũng được được. Phải không? Nhưng mà tới cái thế giới khác thì nó lại khác. Thế giới tưởng nó lại khác. Rồi khi mà xả thế giới tưởng thì nó đến cái thế giới mà Tứ thiền, hay là Tam thiền nó lại khác con. Mỗi mỗi cái nó đều có cái trạng thái khác nhau.

17- THẦY DẶN DÒ, SÁCH TẤN

(42:21) Sư Phước Nhẫn: Cái đó để chừng đó con mới hỏi Thầy thêm.

Trưởng lão: Cái đó, chưa đâu! Để tới chừng đó rồi mình nếm được cái mùi vị đó rồi mình thấy thích.

Sư Phước Nhẫn: Bây giờ mong được cái Sơ thiền.

Trưởng lão: Nói chung là cái Sơ thiền này nó khó! Nhưng mà làm được cái Sơ thiền là thấy khỏe rồi.

Nhưng mà nó không khó, mình tập như con đó tập phá lần cái si, tức là cái hôn trầm, thùy miên đó mình phá dần, thấy nó giảm dần…​

Sư Phước Nhẫn: Cái đó con thấy nguy hiểm quá! Với Ái kiết sử đó Thầy, Kiết sử với Triền cái. Mấy cái đó còn dính mắc với mình không được, phải vứt bỏ hết!

Trưởng lão: Ừm! Đúng rồi. Phải xả hết đó con.

Sư Phước Nhẫn: Xả hết không có còn gì trong người hết.

Trưởng lão: Đó thì đó nó mới ly đó. Nó mới hoàn toàn là nó mới nhập được Sơ thiền.

Sư Phước Nhẫn: Nếu mà con tập như vậy đúng pháp thì con nên giữ cái đó.

Trưởng lão: Nền giữ cái đó, giữ cái đó để đẩy lui hôn trầm, thùy miên trước. Hễ hôn trầm, thùy miên nó lui thì sức tỉnh con thấy con tăng. Hễ cái này nó lui thì nó tăng cái tỉnh lên. Cứ vậy nó tăng dần, nó tăng cái sức tỉnh lên tăng đến nó định tỉnh con. Tới nó định tỉnh là con hết phóng dật.

Sư Phước Nhẫn: Với con cũng xin phép Thầy đó, là thứ tư tuần tới con đi xin phép thử coi.

Trưởng lão: Vậy hả con, ờ cứ đi đi.

Sư Phước Nhẫn: Xin phép thử coi coi cho được bao lâu. Tới chừng đó con mới tính được nữa. Bị vì bữa nay con cũng ở 6 hay 7 tháng rồi, cũng dài rồi. Ráng cố gắng để xin thêm…​

Trưởng lão: Được con đi không sao đâu. Ráng tập vậy Thầy mừng đó chứ. Tuy là cái kết quả nó nho nhỏ, thấy nó chắc ăn.

Sư Phước Nhẫn: Nhỏ nhỏ hà Thầy con thấy nó chắc ăn chứ con đừng có kéo dài mà ngồi 4, 5 tiếng đồng hồ mà ngồi quá không được.

Trưởng lão: Không được, nó gục tới gục lui cũng không có cái chất lượng gì hết. Thành ra tu từ từ, từ từ. Nói chung là cái phương pháp nào Thầy dạy cứ tập kỹ lưỡng từ từ thì cái kết quả của nó là cái khích lệ lớn nhất. Còn mình tu mau, vội vàng tu coi chừng nó vật mình trở lại. Hoàn toàn nắm cái số không.

Sư Phước Nhẫn: Ông Bửu Quán lúc nào ổng lên Thầy?

Trưởng lão: Kỳ này ổng về ổng nói với Thầy, khi mà con thấy cái Ái kiết sử của con mà nó bớt thì con mới trở lại con tu chứ sao mà con vô tu nó mạnh quá trời! Nó nhớ vợ, nhớ con ôi thôi! Đủ thứ hết. Thành ra con chịu không có nỗi. Bị vì không có chọc nó thôi, chọc nó bắt đầu nó ra dằn không có được. Nó tuôn ra mà, nó nhớ vợ, nhớ con rồi nó nghĩ chuyện này kia xảy ra cho vợ con, ôi thôi! Nó tùm lum, nó đủ thứ, chuyện không có nó cũng nghĩ cho có.

Sư Phước Nhẫn: Như vậy là bị Ái kiết sử Thầy hả? Ái kiết sử với Triền cái.

Trưởng lão: Ừm! Rồi nó còn tính vầy nữa, nó ẩm thực cho Thầy nghe mà. Nó tính bây giờ mình phải về mình độ vợ con mình đi tu, mấy ông sư con này ổng không có biết đường đây rồi, ổng bậy bạ đây rồi ổng đi theo ba cái ông Đại thừa. Ôi thôi! Nó lý luận đủ thứ, nó bị Ái kiết sử.

Thành ra ổng về đây ổng cố gắng khắc phục con cái ổng rồi bắt đầu nó chống lại ổng đủ thứ, ổng còn tức bực nữa. Mình chưa có tu chứng đó con, về gặp kiết sử vợ con mà về khuyên tu hành này kia nó nghe thì không nói gì, mà nó . . .i nó chống lại, rồi nó đâm tới điên đầu, điên óc.

HẾT BĂNG

Pháp Âm - 2000 - SƯ TUỆ TĨNH VÀ PHƯỚC NHẪN VẤN ĐẠO 03 - BẤT ĐỘNG TÂM VÀ THIỀN ĐỊNH

2000 - SƯ TUỆ TĨNH VÀ PHƯỚC NHẪN VẤN ĐẠO 03 - BẤT ĐỘNG TÂM VÀ THIỀN ĐỊNH

SƯ TUỆ TĨNH VÀ PHƯỚC NHẪN VẤN ĐẠO 03 - BẤT ĐỘNG TÂM VÀ THIỀN ĐỊNH

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Ngày giảng: 2000

Thời lượng: [30:26]

Tên cũ: 2000-Sư Tuệ Tĩnh và Phước Nhẫn-1C - Bất động tâm và Thiền định

https://thuvienchonnhu.net/audios/2000-su-tue-tinh-va-phuoc-nhan-van-dao-03-bat-dong-tam-va-thien-dinh.mp3

1 - VIỆC TU TẬP CẦN TRẢI QUA NHIỀU GIAI ĐOẠN

(00:00) Tu sĩ: Theo con thấy thì bây giờ ổng lo cho ổng trước đi, kết quả xong rồi nói người ta mới nghe.

Trưởng lão: Đó! Đúng vậy đó, xong rồi, nói mới nghe. Chứ còn không xong, về ma chướng nó gạt mình; Coi vậy chứ ra rồi, nói nó không nghe đâu, nó phản công lại nó làm cho mình tức tối. Cho nên mình vô tu đừng có để cho ba cái Kiết sử, Ái kiết sử này nó hiện ra, nó hiện ra nó đánh mình chết - bắt đầu nó nghĩ, nó thương nhớ đủ thứ hết, rồi sau đó nó lo, nó lo rồi nghĩ: "Mình tu được mà để cho những người thân của mình, nhất là vợ con mình, nó không có biết đường, tội!”- rồi về mình dẫn nó đi.

Tu sĩ: Theo con thấy thì, ví dụ sau này người ta xin vô thất Thầy nên hỏi, nên hỏi cách thức tu tới đâu, rồi Thầy hướng dẫn cho họ, chứ Thầy mà nói chung chung quá, họ không hiểu, họ vô, họ ức chế.

Trưởng lão: Đúng rồi. Bởi vì họ đến như ông Bửu Quán và ông Phu Sư Hiệp, ổng đến ổng nói: "Ổng tu ở ngoài Phước Sơn lâu rồi, bây giờ xin Thầy cho một cái pháp, một cái pháp duy nhất để tu cho nhanh".

Thầy nói: "Chịu nổi không? Thầy cho pháp năm hơi thở đi kinh thành theo Thân Hành Niệm, tác ý mỗi hành động làm. Nếu tu mà muốn nhanh thì một đêm làm Thánh hiền. Làm đi!".

Về làm một đêm rốt cuộc hoảng hồn, nó phản công trở lại, nó tuôn! Đêm thứ nhất, đêm đó ráng đi suốt đêm, đóng cửa lại, đi trong thất suốt đêm; Rồi nó chưa đâu, bắt đầu nó đánh - hôn trầm, hôn trầm. Ráng một ngày chống lại nó - đi; Đi thì nó mất, nó không có hôn trầm nữa; Cái bắt đầu nó tỉnh, nó tỉnh nó không ngủ. Bây giờ nó tuôn những ái kiết sử, những loạn tưởng gì nó tuôn ra, tuôn ra dừng không có được.

Nó tỉnh quá tỉnh rồi nó tuôn, mà hồi nó buồn ngủ thì nó không tuôn. Rồi cũng nghĩ, cũng quán, cũng này kia mà quán không nhằm nhò gì nữa hết.

Tu sĩ: Dạ, lúc đó nó mạnh quá!

Trưởng lão: Nó mạnh quá rồi, nó đổ ra rồi nên là chịu không nổi. Mà vậy mà ráng cả nửa tháng đó, chịu không thấu; Xin Thầy , nói: "Thôi con về, để chừng nào nó giảm bớt, chứ còn bây giờ ở đây trong cô đơn mà độc cư kiểu này chắc chắn nó tuôn quá trời. Chịu!".

Tu sĩ: Tại vì độc cư nó phân ra cũng nhiều giai đoạn.

Trưởng lão: Nhiều giai đoạn chứ một giai đoạn là ức chế.

2- TÂM CÓ ĐỊNH TĨNH THÌ BẢY GIÁC CHI MỚI XUẤT HIỆN

(02:20) Tu sĩ: Bây giờ con cũng đi về bển đó Thầy. Con bây giờ nhà cửa cũng còn, cho con của con ở; Con mua cái Caravan - cái xe nhỏ nhỏ mà không có cái máy, nó để cho kéo đi như đi cắm trại đó Thầy - nhỏ nhỏ, ngang cũng hai thước hai, hai thước ba gì đó, dài năm thước, trên đó nó có lò, có bếp, có đủ hết để mình xài. Thành ra con để ở sau hè con ở, cho nó yên.

Trưởng lão: Được chứ con, nó không có động.

Tu sĩ: Dạ con ở riêng một mình trong đó. Con ở bên đây con thấy tốt mà có cái “hãng” nên bắt buộc phải về.

Trưởng lão: Phải về, bởi vì cái “hãng”.

Tu sĩ: Dạ, con về bển con cũng tập, cái vấn đề mà giới luật Phật con cũng sẽ ráng giữ, không có cho vi phạm.

Trưởng lão: Ừ, giữ đi con, đúng đó con, ráng! Cứ giờ trưa mình ăn, rồi mình uống cái gì thêm, cái gì bổ mình cứ ăn đúng buổi trưa thôi. Thay vì mình giảm bớt cái phần kia thì mình ăn cái chất bổ thêm, để cho cơ thể mình nó được khỏe mạnh. Rồi đặng mình tiếp tục mình xả cái hôn trầm, thùy miên, những cái ái kiết sử của mình. Tiếp tục mình quán, mình xả sạch riết diệt sạch hết. Coi vậy…​.

Tu sĩ: Dạ diệt sạch rồi thì con mới tu theo cách mới.

Trưởng lão: Ừ, rồi! Sau đó rồi mới dùng cái đó mình đi vô sâu hơn. Để mà Bảy Giác Chi cho nó định tĩnh quá định tĩnh thì Bảy Giác Chi nó mới xuất hiện, chứ còn mình chưa định tĩnh thì chưa xuất hiện. Cho nên đức Phật nói: “Định tĩnh nhu nhuyễn dễ sử dụng”.

Nó định tĩnh thì Giác Chi nó xuất hiện thì nó nhu nhuyễn nó dễ sử dụng, chứ Bảy Giác Chi nó không xuất hiện thì nó không nhu nhuyễn, không dễ sử dụng nổi đâu. Mà hễ nó định tĩnh- nó đúng cái thời gian, đúng cái thời gian nó rồi nó xuất hiện đủ- nó xuất hiện từ cái đầu của con nè, từ cái đầu ở trong này nó. Nó xuất hiện ra rồi, con biết cái Trạch Pháp Giác Chi nó xuất hiện ra rồi, cái thân của con chưa có biết, con chưa có muốn đưa cánh tay đâu mà nó đã biết cái thân con sẽ đưa cánh tay đó.

Nó nói: "Cánh tay đưa", cái nó đưa ra, con! Mình chưa có đưa ra, mình làm trong hữu thức không à. Nghĩa là mình làm, cái hành động của thân mình làm ở trong cái biết của mình trước.

Con muốn đi, thí dụ như Thầy ngồi nè, nó biết, nó sẽ biết Thầy muốn bước đi rồi đó, nó biết trước đó, nó bảo: "Đi" thì Thầy bước xuống đi. Còn mọi lần mình đi vậy chứ mình chưa có biết đâu, mình bước đi rồi mình mới biết, mình biết sau, mình làm việc trong vô thức. Mà khi nó định tĩnh rồi nó biết con, nó biết hết!

Thì mình biết rằng nó mà nó biết vậy đó là nó muốn cái gì là nó làm được cái đấy, nó muốn diệt tầm tứ là nó diệt đó. Cái định tĩnh nó thực hiện ra mình sẽ thấy nó rõ lắm con. Cái thân của mình ngồi vầy, mà nó muốn ngó cái gì là nó biết con mắt sẽ ngó. Nó biết tướng rồi con mắt mới ngó, còn cái này mình ngó rồi mình mới biết sau. Con lưu ý cái phần đó, con! Nó định tĩnh, nó định tĩnh vậy đó, đó là mới gọi là định tĩnh.

(05:30) Tu sĩ: (nghe không rõ)

Trưởng lão: Tốt đó con. Khi mà mình tác ý là cái Tứ của nó rồi, mình đang ngồi thiền như vầy mình tác ý, mình nhắc vầy: “Tâm phải thanh thản, an lạc vô sự”, đó là mình tác ý để mình dẫn tâm mình nó đi vào chỗ…​.

Tu sĩ: (nghe không rõ)

Trưởng lão: À, cái đó là cái. Cái đó thì cái tầm, tầm rồi cho nên mới tứ, tầm rồi tứ.

Tu sĩ:(nghe không rõ)

Trưởng lão: À tầm tứ đó con, tầm tứ ta lấy tầm tứ. Cho nên mình tầm rồi, tầm rồi mới tứ. Tứ tức là an trú trong tầm thiện. Cái bài “Song Tầm” đó là con chọn lấy cái tầm, tầm thiện đó. Rồi bắt đầu cái bài “An Trú Tầm” thì con tác ý rồi mới đi, con hiểu chưa? Hai cái bài kinh đức Phật dạy, bài "Song Tầm với bài An Trú Tầm" đó.

3- HAI GIAI ĐOẠN THIỀN ĐỊNH PHỤC HỒI SỨC KHOẺ

(06:30) Tu sĩ: Hôm nay là ngày mười sáu tháng bảy, tu sinh hỏi: Khi mình tu xong, tức là nhập được Tứ Thiền rồi mình mới ngồi thiền để phục hồi sức khỏe mới được phải không Thầy?

Trưởng lão: Cái vấn đề phục hồi sức khỏe, nó có hai cái giai đoạn phục hồi sức khoẻ.

Phục hồi sức khoẻ cái giai đoạn thứ nhất, là khi cái tâm mình ly dục, ly ác pháp, nó bất động thì coi như mình nhập vào cái trạng thái Sơ Thiền, cho nên tầm tứ mình còn và cái sự ăn uống mình còn nhưng mà nó luôn luôn nó định tĩnh trên cái thân hành của nó. Thì lúc bây giờ vừa phục hồi sức khỏe mà vừa bồi dưỡng cho cái thân. Thì khi mà trong vòng nửa tháng, một tháng mà phục hồi sức khoẻ bằng cái thiền định của Sơ Thiền thì khi ra con người sẽ đầy đủ sức khỏe trở lại.

Còn cái người mà nhập Tứ Thiền để mà phục hồi cái sức khoẻ của họ, kéo dài cái tuổi thọ của họ thêm, bởi vì nó quá cằn cỗi rồi họ mới nhập Tứ Thiền. Trong Tứ Thiền là coi như là tất cả những cái tế bào của họ hoàn toàn nó ngưng hoạt động. Rồi ở trong cái trạng thái Tứ Thiền đó thì có cái mục đích, trong cái đầu của họ có cái mục đích là họ sẽ phục hồi tất cả những tế bào, từ nó già để cho nó trẻ trở lại, tức là nó đủ cái sức nó trở lại. Sau khi mà xả Tứ Thiền ra thì cái cơ thể họ không có mập, họ không có lên cân, nó vẫn giữ bình thường mà rất khoẻ và cái sức lực của họ nó trở lại rất là khỏe. Rồi từ đó ra họ ăn uống thì nó mới có lên cân trở lại.

(08:17) Nó có hai cách. Một cách thì dùng cái sức Thiền định của Tứ Thiền để phục hồi các cái tế bào nó cằn cỗi, nó quá mỏi mệt, nó sắp sửa nó hoại diệt. Còn cái cách mà vừa nhập Sơ Thiền ở trong cái trạng thái tâm bất động nó có tầm tứ. Bởi vì Sơ Thiền nó còn tầm tứ, tức là nó còn ở trong cái ý thức. Cho nên vừa giữ gìn cái tâm rất là thanh thản, an lạc, vô sự. Lúc bấy giờ đó thì muốn phục hồi nó lại, thì mình chỉ cần ăn uống cho nó đủ cái chất bổ dưỡng của nó nhưng mà một ngày cũng chỉ ăn một bữa. Nhưng mà cái thực phẩm mà ăn một bữa đó, nó phải đầy đủ cái chất bổ hơn, để cho nó nuôi dưỡng cái thân của nó. Nhưng mà cái tâm nó rất là thanh thản, an lạc, chứ mà cái tâm mà nó bận rộn, hay hoặc nó làm cái này, cái kia, nó suy tư đó, thì coi như là nó không có phục hồi được. Đó là có hai cách phục hồi.

Tu sĩ: Nhưng mà lúc đó, mình ngồi thiền mình có tác ý gì nữa không Thầy? Hay là cứ ngồi yên tịnh đó?

Trưởng lão: Trong khi vào Sơ Thiền, bởi vì cái tầm tứ nó còn, mình muốn phục hồi thì mình dùng tác ý, mình cứ nhắc: "Cái thân phải phục hồi lại để cái sức sống cho nó kéo dài thêm ra", mình cứ nhắc, mình tác ý mình nhắc nó. Thỉnh thoảng mình nhắc chứ không phải là không nhắc, mình nhắc tức là mình tạo thêm một cái lực của nó; Ở trong cái Sơ Thiền mình tác ý, mình nhắc. Cho nên cái Sơ Thiền nó không mất cái tầm tứ là cái chỗ mình còn tác ý được, nhưng mà thỉnh thoảng chứ không phải liên tục.

Tu sĩ: Nhưng mà mình có thể mình ngồi lâu được không Thầy? Thí dụ một ngày đêm vậy được không, mà mình cứ tỉnh thức luôn luôn vậy hay sao?

(10:03) Trưởng lão: Nó sẽ tỉnh thức, nhưng nó không phải ngồi lâu, bởi vì cái tầm tứ nó còn, cái thân nó sẽ bị mỏi mệt. Mà mình ráng mình ngồi lâu thì nó mỏi mệt, nó làm cho cái cơ thể của mình không có phục hồi mà lại hao sức khỏe. Cho nên trong khi cái người mà phục hồi bằng cái Sơ Thiền thì họ có thể đi, đứng, nằm, ngồi, bốn cái oai nghi họ thực hiện nhưng mà cái tâm họ nó định, chứ không phải là cái thân định.

Còn cái Tứ Thiền cái thân định nó mới ngồi tại một chỗ mà ngày này qua ngày khác, nó bất động. Còn cái Sơ Thiền thì chỉ có cái tâm nó định thôi, nó bất động cái tâm thôi, chứ nó không phải bất động cái thân. Cho nên nếu mà cứ ngồi lâu quá thì cái thân nó sẽ bị mỏi mệt. Nếu mà cố gắng chịu đựng cái mỏi mệt thì nó hao, nó hao cái sức rất nhiều. Do đó chúng ta sử dụng bốn cái oai nghi để tâm nó bất động mà thôi, mục đích đó là phục hồi của cái Sơ Thiền, chứ không phải là cái của Tứ Thiền.

4 - PHÂN BIỆT BẤT ĐỘNG TÂM ĐỊNH VÀ SƠ THIỀN

(11:01) Tu sĩ: Thưa Thầy bây giờ mình tập, phải tập cho mình hết hôn trầm, thùy miên, rồi mới nhập được Sơ Thiền có phải không Thầy?

Trưởng lão: Mình tập để phá cho được cái hôn trầm, thùy miên là để giúp cho cái tâm của mình nó tỉnh thức. Tại vì nó hết hôn trầm, thùy miên nó mới có tỉnh thức được. Chứ còn mình đang tu như vầy bắt đầu nó thùy miên, nó hôn trầm nó gục thì nó mê rồi nó mất, nó không có tỉnh thức được. Cho nên cái mục đích mình phá được cái hôn trầm, thùy miên là cái mục đích mình tỉnh thức.

Mình tỉnh thức đó là cái giai đoạn đầu, cái giai đoạn đầu gọi là tỉnh giác, nó là giai đoạn đầu. Còn cái giai đoạn kế của nó để mà cho nó xuất hiện Bảy Giác Chi để mà nhập Sơ thiền thì tâm nó phải định tĩnh. Chứ còn cái tỉnh thức, với cái tĩnh giác thì nó chưa có xuất hiện đủ Bảy Giác Chi đâu. Cho nên nó còn phải đi qua một cái giai đoạn để định tĩnh thì nó mới xuất hiện Bảy Giác Chi. Do có Bảy Giác Chi mới nhập được cái Sơ Thiền, chứ không có Bảy Giác Chi thì cũng không có nhập được Sơ Thiền.

Mặc dù chúng ta dùng cái pháp Tứ Niệm Xứ, đầu tiên thì chúng ta dùng Tứ Chánh Cần, rồi Tứ Niệm Xứ, rồi Thân Hành Niệm thì trong giai đoạn tu những cái pháp như vậy là chúng ta tu tập để ly dục, ly ác pháp, chứ nó chưa có nhập Sơ Thiền. Nhưng mà khi nó nhập được Sơ Thiền thì nó phải có Bảy Giác Chi, do đó cái Trạch Pháp Giác Chi nó mới ra lệnh, nó bảo: “Ly dục ly ác pháp, nhập Sơ Thiền!” thì lúc bấy giờ tâm chúng ta mới ly dục, ly ác pháp từ cái thô đến vi tế, nó mới thật sạch, nó mới không còn nữa.

(12:32) Chứ còn nếu mà bây giờ mình đang tu, chưa chắc mình biết là mình đã ly dục, ly ác pháp hết, mình đang ở trong cái pháp tu thì chưa chắc đã là hết. Trừ ra nó bảo chứng mình ly dục, ly ác pháp hết khi Bảy Giác Chi xuất hiện đủ. Bảy Giác Chi xuất hiện đủ là biết rằng cái tâm chúng ta đã ly dục, ly ác pháp.

Nó ly dục, ly ác pháp như vậy rồi đó, muốn nhập Sơ thiền - thì chúng ta khi mà ly hết rồi, đương nhiên là chúng ta ở trong Sơ thiền chứ gì?

Nhưng không! Nó phải còn có một cái lệnh, cái lệnh của Trạch Pháp Giác Chi; Cái lệnh nó bảo: "Bây giờ nhập Sơ Thiền! Ly dục, ly ác pháp nhập Sơ Thiền!”. Thì lúc bây giờ tâm của chúng ta sẽ hoàn toàn nó ở trong cái Sơ Thiền, nó đầy đủ năm cái Chi Thiền.

Chứ không khéo thì chúng ta ở trong Bất Động Tâm chứ không phải là Sơ Thiền. Cũng như bây giờ mình tu tập cái tâm ly dục, ly ác pháp rồi có Bảy Giác Chi rồi thì cái người này đang ở trong Bất Động Tâm Định chứ không phải ở trong Sơ Thiền. Bởi vì cái Bất Động Tâm Định nó khác, nó không có giống Sơ Thiền: Sơ Thiền nó có năm Chi, còn Bất Động Tâm Định nó không có năm Chi, nó khác nhau chỗ đó.

Tu sĩ: Nhưng mà cái lợi ích của nó ra sao Thầy?

Trưởng lão: Cái lợi ích của Bất Động Tâm Định thì coi như mình sống luôn luôn lúc nào tâm cũng thanh thản, an lạc, vô sự, không có cái ác pháp bên ngoài nó tác động vào nó làm cho tâm mình động, gọi là Bất Động Tâm; Cũng như các cái cảm thọ làm cho cái thân có gặp đau nhức cách gì nó cũng không có động, nó không dao động, cho nên gọi là Bất Động Tâm Định.

Còn Sơ Thiền thì nó ly dục, ly ác pháp, nó mới nhập Sơ Thiền thì nó hiện ra năm cái Chi Thiền của nó. Tức là một trạng thái của Sơ Thiền Thiên, cái trạng thái đó đức Phật gọi là cái cảnh giới của Sơ Thiền Thiên, cái cảnh giới của cõi trời Sơ Thiền.

Thì lúc bây giờ nó hai cái: Bất Động Tâm Định nó khác chứ nó không giống Sơ Thiền Thiên; Nó cũng ly dục, ly ác pháp nhưng mà hai cái này nó khác nhau; Một cái nó có năm Chi Thiền, còn một cái nó không có năm Chi Thiền.

(14:25) Mà Bất Động Tâm thì nó cũng có tầm tứ. Còn cái kia (Sơ Thiền Thiên) thì nó cũng có tầm tứ, nó thêm hỷ lạc và nhất tâm. Còn cái này (Bất Động Tâm) nó hoàn toàn nó thanh thản chứ nó không có ở trong cái nhất tâm. Cái Bất Động Tâm thì nó không có nhất tâm, nó luôn luôn nó thanh thản, an lạc, vô sự chứ nó không có nhất tâm ở trong cái đối tượng gì của nó.

Sơ Thiền ly dục, ly ác pháp và Bất Động Tâm, hai cái này vẫn là ly dục, ly ác pháp hết. Nhưng một cái nó hiện ra cái trạng thái của cảnh giới Sơ Thiền Thiên. Còn một cái thì nó Bất Động Tâm nó hiện ra cái trạng thái của Niết Bàn.

Cho nên khi người mà nhập vào Bất Động Tâm Định rồi thì ở trong đó tại sao nói Bất Động Tâm Định còn gọi là Vô Tướng Tâm Định; Vì nó không có ba cái tướng Dục lậu, Hữu lậu và Vô minh lậu, nó không có ba cái tướng này; Mà người ta không có ba cái tướng này thì tâm người ta giải thoát hoàn toàn, cho nên người ta ở trong cái trạng thái tâm Niết Bàn.

Còn bây giờ chúng ta ở trong cái Sơ Thiền Thiên thì chúng ta kẹt ở trong cái Thiền Thiên rồi, cái cõi trời của Sơ Thiền rồi. Cho nên nếu mà bỏ cái thân này thì chúng ta phải lọt vào cái trạng thái của cõi trời Sơ Thiền, chứ nó không phải là Niết Bàn. Cho nên chúng ta ở trong Bất Động thì chúng ta bỏ thân này thì chúng ta sẽ ở trong Niết Bàn. Cái nào sướng hơn? Sơ Thiền Thiên nó còn phải tu nữa.

Hiểu như vậy, nên khi mà chúng ta tu tập pháp Tứ Niệm Xứ mà nó ly dục, ly ác pháp, khi nó ly dục, ly ác pháp thì chúng ta có đủ Bảy Giác Chi. Và khi đủ Bảy Giác Chi thì chúng ta ở trong cái chỗ Bất Động Tâm Định là đủ rồi, chúng ta không cần vào cái Sơ Thiền.

Bây giờ chúng ta muốn nhập Sơ Thiền chơi, thì chúng ta bảo nó, ra lệnh nó thì Trạch Pháp Giác Chi nó sẽ làm cái nhiệm vụ đó cho mình. Và mình sẽ, cái tâm của mình nó sẽ ở trong cái Sơ Thiền. Là nó có năm Chi Thiền hẳn hòi, hoàn toàn không có sai cái Chi nào ở trong đó hết, không có mất cái Chi nào hết.

Đó thì như vậy nó rõ ràng lắm.

(16:28) Tu sĩ: Vậy thì mình nên ở trong Niết Bàn hơn chứ Thầy, nó khoẻ hơn.

Trưởng lão: Lẽ đương nhiên người tu thì luôn luôn ở trong Bất Động Tâm thì hay hơn.

Tu sĩ: Nhưng mà mình ở trong Niết Bàn - hiện tại đây, mà mình còn sống ở đây - thì mình cũng vô ra được như thường hả Thầy?

Trưởng lão: Như thường! Coi như là mình luôn luôn mình sống ở trong đó. Bởi vì khi mà mình ly dục, ly ác pháp rồi, nó có Bảy Giác Chi rồi thì mình ở trong Bất Động Tâm, cái Niết Bàn rồi. Mặc dù mình còn sống, còn mang cái thân nhân quả, nó còn bị những nhân quả tác động như đau đớn hay hoặc là những cái nhân quả người ta chửi mắng, người ta nói nặng, nói nhẹ nhưng mà nó bất động rồi, nó lại thực hiện ở trên Niết Bàn của nhân quả rồi.

Cho nên khi chết đi thì mình cũng ở trong đó, mà mình sống mình cũng ở trong đó, luôn luôn sống chết mình ở trong Niết Bàn, chứ không phải là đợi tới chết mới nhập Niết Bàn. Cái đó là Niết Bàn tại thế của mình rồi.

Tu sĩ: Mà lúc mà mình hoại thân ra thì mình nhớ tới đó là mình vô Niết Bàn luôn phải không Thầy?

Trưởng lão: À thì cái tâm mình nó vẫn bất động thì nó ở trong Niết Bàn rồi. Cho nên cái thân hoại mặc hoại, nó đâu có lo lắng, đâu có gì nữa, hết rồi!

Tu sĩ: Bây giờ thì con đang phá hôn trầm, đang phá hôn trầm thì bây giờ con tác động thường thường, con tác ý thường thường. Nhưng mà tới chừng đó, tới chừng mình gần tới cái lúc mà mình muốn nhập Sơ Thiền thì mình có cần tác động thường không Thầy? Hay là mình phải để yên lặng nó như vậy?

Trưởng lão: Không! Bây giờ mình tác động để cho cái tâm mình nó tỉnh thức. Rồi tác động cho cái tâm của mình nó định tĩnh. Đến khi mà nó định tĩnh được hoàn toàn, nó không còn phóng một cái niệm nào hết, nó không còn phóng tâm, phóng dật thì lúc bấy giờ Giác Chi nó xuất hiện. Rồi Giác Chi nó xuất hiện thì đó là bảy cái năng lực giải thoát của Đạo Phật. Khi mà mình đã tu đến đây nó có những cái này rồi thì nó không có mất nữa. Lúc nào nó cũng có Bảy Giác Chi mình muốn sử dụng lúc nào cũng được hết. Cũng như là đồ trong túi mình, mình muốn lấy ra mình xài.

Tu sĩ: Mình khỏi phải cần tác ý gì nữa hết hả Thầy?

(18:14) Trưởng lão: Mình không có tác gì hết, bởi vì như là đồ vật trong túi của mình rồi. Nhưng mà Bảy Giác Chi nó chưa được xuất hiện thì mình tu tập có lúc nó xuất hiện mà có lúc nó không xuất hiện. Tại sao? Tại vì cái tâm mình lúc nó thanh tịnh thì nó xuất hiện, mà lúc không thanh tịnh là không xuất hiện. Nhất là cái người mà phá giới thì không bao giờ nó xuất hiện, nó không thanh tịnh.

Tu sĩ: Thí dụ lúc mà chưa có gì hết thì mình cũng còn phải tác ý, chừng nào mà nó được thì khỏi?

Trưởng lão: Mình tác ý. Nó được rồi thì thôi. Tự nó, nó sẽ tác ý ra, nó làm cái việc gì nó tác ý ra chứ mình không có tác ý nữa.

Tu sĩ: Bây giờ qua cái Thân Hành Niệm đó Thầy? Trước khi mà mình được nhập Sơ Thiền thì mình phải tập, tu tập cái Thân Hành Niệm cho nó thuần thục mới được chứ, phải không thưa Thầy?

Trưởng lão: Trước khi mà muốn nhập Sơ thiền thì mình phải tập Thân Hành Niệm cho nó được định tĩnh. Mà nó được định tĩnh, tức là thuần thục rồi chứ gì! Nó được định tĩnh thì Bảy Giác Chi xuất hiện, Bảy Giác Chi xuất hiện thì mới nhập Sơ Thiền. Bắt đầu mình nhập Sơ Thiền rồi nhập Nhị Thiền rồi Tam Thiền, Tứ Thiền. Cho nên cái câu mà Đức Phật nói: “Tâm định tĩnh nhu nhuyễn dễ sử dụng”.

Mình đang tu đây, mình tu để cho tâm mình định tĩnh thôi, chứ còn cái nhu nhuyễn dễ sử dụng thì mình chưa có thấy. Nhưng khi mà Bảy Giác Chi nó xuất hiện, tức là nó nhu nhuyễn dễ sử dụng, nên đức Phật nói nhập Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền cho đến Tam Minh thì nó không có khó khăn, không có mệt nhọc. Bởi vì nó có Bảy Giác Chi này, nó giúp cho mình nhập mấy cái định đó nó dễ quá rồi, nó không còn khó.

Cho nên cái Sơ Thiền - mình tu trên Tứ Niệm Xứ - Từ cái giai đoạn đầu của Tứ Niệm Xứ là Tứ Chánh Cần, cho đến cái giai đoạn giữa của Tứ Niệm Xứ để khắc phục tham ưu, cho đến cái Thân Hành Niệm là cái pháp cuối cùng của Tứ Niệm Xứ để cho chúng ta tập cho tâm chúng ta được định tĩnh mà thôi, chứ chúng ta chưa có nhập được cái gì hết. Mà khi cái tâm nó định tĩnh rồi thì Bảy Giác Chi nó xuất hiện.

Bây giờ chúng ta mới thấy rằng khi Bảy Giác Chi xuất hiện, thì tâm chúng ta mới bất động. Coi như chúng ta nhập cái định đầu tiên là Bất Động Tâm Định, còn gọi cái tên là Vô Tướng Tâm Định. Chúng ta có Bảy Giác Chi rồi, bắt đầu chúng ta muốn đi tới con đường nữa - Bảy Giác Chi, người ta gọi là Thất Bồ Đề. Mà Bồ Đề tức có nghĩa là giải thoát, bảy cái trạng thái giải thoát hay là bảy cái năng lực giải thoát - mà mình có được bảy cái năng lực này rồi, thì mình sử dụng cái năng lực này để cho mình làm chủ được sự sống chết và chấm dứt luân hồi.

(20:38) Do đó thì mình phải trải qua một cái giai đoạn là mình dùng bảy cái năng lực này mình nhập từ cái Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền và mình thực hiện luôn Tam Minh - là nhờ bảy cái năng lực này. Mình có bảy năng lực này thì mình nhập Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền rất là dễ dàng. Còn không có bảy cái năng lực này thì không có nhập được, không có vô được. Đó là như vậy, cái năng lực nó dữ như vậy!

Thầy dạy như vậy thì thực sự ra nó quá rõ rồi. Mình tu có thì mình vào được, mình tu không có thì đừng có nói mình nhập Sơ Thiền, Nhị Thiền gì được hết. Người nào mà nói: “Tôi nhập Sơ Thiền, Nhị Thiền” mà anh không có Bảy Giác Chi là anh nói láo rồi, anh nói không trúng rồi, anh nói ở đây là anh nói “tưởng” rồi, anh nói sai!

Tu sĩ: Dạ, như giữ giới luật mà không kỹ, là mình thấy không được rồi hả Thầy?

Trưởng lão: À cũng không được, cũng không bao giờ ly được. Cái giới mà! Cái hạnh ly - anh giữ giới không được thì anh không có tu pháp gì mà ly được hết; Nó nhờ cái giới mà mình ly - tức là cái hạnh ly.

Thí dụ như mình ăn ngày một bữa, tức là mình ly, mà mình ăn ba bữa là nó không ly. Do vậy mình thấy một người ăn ba bữa, hay hai bữa, mình biết cái người này nói: "Tôi nhập Sơ Thiền, Nhị Thiền", mình biết cái người này nói trật, không đúng rồi: "Anh sống như vậy làm sao anh nhập được. Cái tâm anh chưa có ly dục, ly ác pháp, rõ ràng anh còn tham ăn kia mà".

Đó thì mình thấy cái hạnh thì mình biết cái người đó tu có nhập thiền định hay không? Bởi vì thiền định của đạo Phật nó xác định được "Giới Sanh Định". Mà giới anh không nghiêm túc thì làm sao anh có cái Định được, có phải không?

Tu sĩ: Bởi vậy mình muốn kiểm soát mấy người đó thì mình coi mấy cái đó thì mình biết.

Trưởng lão: Ngó coi cái đó là thấy rõ. "Anh, mà sáng mai tôi thấy anh còn ngồi uống một ly sữa hay là còn uống một ly trái cây hay chiều anh còn uống một ly nước gì đó thì tôi thấy anh còn phạm rồi. Như vậy mà anh nói anh nhập Sơ Thiền thì chắc chắn là thiền này không phải rồi, không phải của Phật".

5 - NHỮNG KINH NGHIỆM TU TẬP CỦA THẦY

Tu sĩ: Thưa Thầy, cái lúc mà Thầy nhập được Thiền Thứ Tư đầu tiên một ngày đó Thầy, Thầy thử đó! Đó là Thầy vô Tứ Thiền chưa? Hay là Thầy mới có thử thôi.

(22:35) Trưởng lão: Cái thiền mà Thầy thử, đó là cái Nhị Thiền, diệt tầm tứ. Thầy thử rồi Thầy thấy con đường mình dùng cái Thất Giác Chi, mình trạch pháp mình đưa nó vô, cái nó nhập vô. Mình thử coi một ngày coi được không: "À! mình được". Mình ra lệnh cái nó làm một ngày mình nhập định. Cho nên vì vậy mà sau khi Thầy thử được rồi Thầy mới xuất định ra. Thầy mới đến nhắc nhở với bà mẹ Thầy: "Khi nào mà thấy Thầy không ăn, thì bà cứ dọn dùm và bà đừng có đem chôn Thầy đi. Thầy nhập định, đừng có sợ, Thầy không có chết đâu".

Sợ bà thấy khi mà Thầy nhập tới Tứ thiền - tịnh chỉ hơi thở - bà thấy không còn thở nữa, bà nói chết rồi bà đem chôn, sợ! Mình dặn, cho nên dặn trước, thấy không ăn thì biết rằng Thầy nhập định. Do đó bà cứ thấy không ăn là bà biết rằng nó nhập định, chứ còn nếu mà mình không dặn trước, người ta thấy không thở nữa là người ta đem chôn.

Và con đường mà Thầy mới vô đó, thì coi như cái Nhị thiền là nó diệt Tầm, Tứ, Ý thức - nó diệt - âm thanh nó không còn nghe, mắt không còn thấy biết, mình vào trong một cái trạng thái nó đặc biệt rồi. Vì vậy mà mình sẽ nhập tới các cái định khác, nó có thể nó sâu hơn. Do đó ở ngoài người ta không biết, thì người ta sẽ đem chôn mình mất đi. Cho nên Thầy dặn mẹ Thầy trước, đừng có sợ. Chứ không, sợ! Người ta thấy "một tuần lễ mà nó không thở nữa, thôi đem chôn chứ để làm chi đây, nó chết rồi". Vì vậy Thầy đã căn dặn mẹ Thầy, rồi bắt đầu Thầy mới nhập định kéo dài thời gian dài ra hai, ba tháng trời.

(24:12) Tu sĩ: Nhưng mà Thầy vô ra Nhị Thiền, Tam Thiền trở lại hay là Thầy cứ đi luôn một lần như vậy?

Trưởng lão: Bắt đầu, Thầy mới đầu vô cái Sơ Thiền được rồi thì Thầy thấy nó có năm Chi Thiền rất rõ. Sau đó Thầy vô thử cái Nhị Thiền thì Thầy thấy nó diệt tầm tứ cụ thể rồi thì Thầy biết rằng Tam Thiền, Tứ Thiền Thầy cũng sẽ vô được. Cho nên Thầy mới chuẩn bị cho mẹ Thầy cái tinh thần đừng có sợ. Khi mà Thầy chuẩn bị được tinh thần rồi đó thì bắt đầu Thầy mới vô, Thầy không phải nhập tới, nhập lui nhiều lần, Thầy nhập rồi Thầy thấy được Thầy đi tới, Thầy cứ tới luôn, tới luôn cái này rồi tới luôn; Tới khi Tứ Thiền là Thầy trụ ở trong Tứ Thiền một thời gian dài.

Nhưng mà nói chung là khi mà trụ ở trong Tứ Thiền, Thầy cũng vô Tứ Thiền rồi Thầy dẫn tâm mình Tam Minh. Nhưng mà Thầy nghĩ rằng: "Trong cái thời gian này thì mình cũng nên nhập một cái thời gian dài để coi thử coi nó ra sao, coi đúng hay trật". Cho nên Thầy ở trong cái Tứ Thiền mà Thầy kéo dài cái thời gian đôi ba tháng.

Tu sĩ: Lúc đó hai tháng?

Trưởng lão: Hai tháng đó chứ không phải ít đâu, chứ không phải là mấy bữa hay hoặc tuần lễ đâu! Hai tháng trời không ăn uống gì hết, ngồi bất động mà vẫn khoẻ như thường, cơ thể không có chết. Ai cũng kinh hết. Đó! Thì mấy con thấy là nó vi diệu như vậy chứ không phải ít đâu.

Tu sĩ: Cái đó theo cái hiểu biết của con thì cái đó cũng tùy theo đặc tướng hả Thầy? Đặc tướng của mỗi người?

Trưởng lão: Tùy theo đặc tướng.

Tu sĩ: Nhưng mà mình làm sao đừng có đi ra ngoài cái kinh sách, đi đúng trong kinh sách.

Trưởng lão: Đúng rồi.

Tu sĩ: Nhưng mà theo cái đặc tướng đó thì theo con thấy cái đặc tướng của mỗi người nó khác nhau. Nếu mà Thầy trong cái kinh nghiệm của Thầy mà nhập đó, Thầy hiểu được cái gì Thầy chỉ cho con. Để tụi con biết để con tùy theo cái đặc tướng của con mà con làm theo đó Thầy.

Trưởng lão: Bây giờ đầu tiên mình tu là mình theo cái đặc tướng của cái hơi thở, hơi thở của mình ngắn hay dài để mình nương vào cái hơi thở. Tức là cái lực của nội tâm của mình là nó do cái Thân Hành Nội. Cái Thân Hành Ngoại thì cái lực nó yếu lắm. Mặc dù mình có tập trung tỉnh thức, hay định tĩnh trên cái Thân Hành Ngoại, nhưng nó không bằng cái hơi thở. Cái hơi thở là cái Thân Hành Nội; Mà cái Thân Hành Nội nó có lực rất mạnh. Do đó nếu mà chúng ta nương vào cái hơi thở, với cái đặc tướng của hơi thở mình, tùy theo cái đặc tướng của hơi thở

Thí dụ như hơi thở của mình hơi thở dài hoặc hơi thở của mình thở ngắn, thì mình tùy theo cái hơi thở dài, ngắn của mình thôi, chứ đừng có tạo tác cái hơi thở hoặc dài, hoặc ngắn theo mình tạo ra thì không có được, rồi nó sẽ thành cái hơi thở tưởng mất đi.

(26:42) Cho nên tùy theo cái cơ thể của mình thở. Nó ngắn thì mình cứ sử dùng cái hơi thở ngắn để cho mình đi vào thôi. Mình nương vào cái hơi thở tức là mình nương vào cái nội lực của cái sự sống của cái thân thể của mình mà mình tu tập thì mình sẽ đi vào rất là tự nhiên, rất dễ dàng. Đó là một cái kinh nghiệm bản thân của Thầy lấy cái hơi thở bình thường, chứ không được luyện cái hơi thở nó sai khác của cái đặc tướng của mình.

Đồng thời thì luôn luôn lúc nào trong cái sự tu tập, luôn luôn lúc nào nó cũng phải cần cái pháp Như Lý Tác Ý. Cái pháp đó là cái pháp duy nhất để dẫn cái tâm mình vào cái chỗ nào mà mình muốn. Do đó cái đặc tướng của mình phải nắm vững, tức là cái hơi thở, tức là cái Thân Hành Nội nó có cái nội lực dữ lắm. Đó là mình phải nắm vững.

Cho nên Định Niệm Hơi Thở, cái đề mục thứ hai thì đức Phật dạy: “Hít vô dài, tôi biết tôi hít vô dàiThở ra dài, tôi biết tôi thở ra dài”. Hay “Hít vô ngắn, tôi biết tôi hít vô ngắn. Thở ra ngắn, tôi biết tôi thở ra ngắn”. Là cái mục đích để cho chúng ta ổn định được cái hơi thở với đặc tướng của mình - cái đề mục đó đó. Cho nên khi mà người tu thì người ta nhìn vào cái hơi thở dài, ngắn, chứ không phải là biết hơi thở ra, biết hơi thở vô như cái đề mục đầu tiên.

Cho nên bây giờ hơi thở này nó ngắn với cái đặc tướng của mình, thở ra cũng vậy, mà thở vô cũng vậy. Mà bây giờ nó có dài ra thì nhất định là phải tác ý lôi nó trở lại cho nó vừa đúng với cái đặc tướng của nó. Chứ không có được cho nó dài hay hoặc nó chậm lại, không có cho ra mà cứ giữ đúng cái mực như vậy. Cho nên cái đề mục đó giúp cho chúng ta điều khiển được cái hơi thở đúng với cái đặc tướng hơi thở của mình mà nó không bị lệch.

(28:21) Khi mà điều khiển được rồi thì mới tu tập được các cái đề mục khác. Nếu điều khiển cái hơi thở này chưa được thì không có nên tu tập các cái đề mục khác. Vì tu tập các đề mục khác thì cái hơi thở nó sẽ thay đổi; Nó thay đổi rồi mình chạy theo cái hơi thở, thay vì hơi thở mình ngắn mà mình chạy theo cái hơi thở dài. Bởi vì nó hiện tướng cái hơi thở dài, nó thở chậm và nhẹ, mình thấy nó an lạc rồi mình cứ theo đó thì mình bị cái trạng thái của tưởng.

Bởi vì cái hơi thở đó nó không phải là hơi thở đặc tướng riêng của mình. Mà hơi thở này do sự tu tập của tưởng mà nó xuất hiện ra. Cho nên mình phải lôi cái hơi thở mình về cái tướng riêng của mình để cho mình thực hiện cái pháp mà mình đang tu để cho nó ly, nó xả gì đây chứ nó không phải cần cái này. Đó cái mục đích là làm cho nó ổn định cái hơi, cái đề mục thứ hai là làm cho ổn định được cái Thân Hành Nội, chứ không có để cho cái Thân Hành Nội lúc nó chuyển biến như thế này, thế khác. Đó là cái điều kiện mà đức Phật đã dạy chúng ta rất là rõ ràng và cụ thể.

Tu sĩ: Nhưng mà buổi sáng đó Thầy, con thở, con thấy nó hơi dài, nó dài nên nó khoẻ. Rồi cái buổi trưa trưa chút, con cảm thấy nó ngắn lại. Con thấy vậy mà không biết làm sao Thầy? Bây giờ mình theo cái nào? Hoặc là mình theo lúc nào nó ngắn thì kệ nó, mà nó dài thì kệ nó?

Trưởng lão: Bây giờ trong cái vấn đề mà tùy theo cái thời tiết. Buổi sáng nó mát, nó khác, rồi buổi trưa nó khác, buổi chiều nó khác. Thành ra nó cũng ảnh hưởng trên cái đặc tướng Thân Hành Nội của cái thân của chúng ta. Do như vậy chúng ta cũng biết được cái điều này, vì vậy mà sáng nó tu tập như vậy nhưng mà sự thật ra nó không phải dài quá dài mà nó cũng không phải ngắn quá ngắn mà nó dài hơn cái hơi thở kia một chút.

Ví dụ như bình thường nếu mà mình lấy căn cứ vào buổi sáng thì hơi thở mình nó sẽ dài hơn cái buổi trưa. Ví dụ buổi trưa phải thở hai mươi mốt hơi thở nó là một phút. Mà buổi sáng chỉ thở chừng mười sáu, mười bảy hay hoặc mười tám hơi thở, chênh lệch như vậy nó vẫn là hơi thở ngắn. Còn cái này thay vì bây giờ mình thở hai mươi hơi thở.

HẾT BĂNG

Pháp Âm - 2000 - SƯ TUỆ TĨNH VÀ PHƯỚC NHẪN VẤN ĐẠO 04 - TU TẬP TỈNH THỨC

2000 - SƯ TUỆ TĨNH VÀ PHƯỚC NHẪN VẤN ĐẠO 04 - TU TẬP TỈNH THỨC

SƯ TUỆ TĨNH VÀ PHƯỚC NHẪN VẤN ĐẠO 04 - TU TẬP TỈNH THỨC

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Ngày giảng: 2000

Thời lượng: [45:10]

Tên cũ: 2000-Sư Tuệ Tĩnh và Phước Nhẫn-2A - Tu tập tỉnh thức

https://thuvienchonnhu.net/audios/2000-su-tue-tinh-va-phuoc-nhan-van-dao-04-tu-tap-tinh-thuc.mp3

1- CÁCH THỨC TU TẬP TỈNH THỨC CĂN BẢN TRONG HƠI THỞ, VÀ BƯỚC ĐI KINH HÀNH

Trưởng lão: Kéo cái ghế ngồi đi, ngồi gần Thầy đi, ngồi gần, cái tai nó điếc, lớn rồi nó không nghe rõ đâu.

(00:14) Sư Phước Nhẫn: Dạ! Con muốn hỏi thăm Thầy rõ cái về vấn đề số 5, nói về vấn đề ngồi thiền 1 phút đó Thầy. Nhờ Thầy nói rõ cho con nghe, để con nhớ.

Trưởng lão: Khi mà ngồi Thiền trong 1 phút để mình tập cho nó có cái căn bản đó. Để cho cái sức tỉnh của mình điều khiển làm chủ nó. Lúc nào mình ngồi mình cũng làm chủ được, như cái ý mình muốn luôn liên tục nó phải tỉnh thức, nó không được cái tạp niệm xen vô; nó không được có cái trạng thái lười biếng nó xen vô trong đó, thường trạng thái vô ký đó.

Muốn như vậy đó, khi mà mình ngồi, mình khoanh chân mình ngồi xuống bán già hay kiết già. Mình ngồi xuống rồi, rồi phải coi cái thân mình cho yên ổn hết, chứ đừng có lật đật, vội vàng. Ngay đó rồi mình lo mình hít thở liền thì không được, để cho cái thân nó ngồi nó bình tĩnh, nó yên ổn. Nghe nó an ổn rồi thì bắt đầu mình mới hướng tâm mình nhắc: “Cái tâm tỉnh thức ở trong hơi thở, biết hơi thở ra, biết hơi thở vô”. Rồi bắt đầu đó mình mới ngồi mình hít thở, mình hít thở.

Thì khi mình nhắc nó rồi, thì mình nhìn cái kim đồng hồ, nếu mình có đồng hồ. Mình nhìn nó cái kim dài, nó chỉ số 12 thì trong khi đó mình cứ hít thở cho đến khi mà cái kim đó nó chỉ đến số 12. Còn không đó thì mình làm như thế này, mình khỏi cần mất công phân tâm. Bị vì mình nhìn đồng hồ thì nó cũng bị phân tâm rồi.

Thì vô đầu mình sổ tức mình đếm, hít vô thở ra mình đếm 1, hai hơi thở nó là 1 tức. Mình đếm là 1; hít vô thở ra đếm 2; hít vô thở ra đếm 3; hít vô thở ra đếm 4, đếm tới 10. Mình đếm 10 hơi thở nó chưa đúng 1 phút thì mình đếm thêm 15 hơi thở đúng 1 phút mình nghỉ.

Thì bắt đầu sau đó mình biết, mình biết rồi cứ 15 hơi thở là 1 phút. Thì mình đếm đúng 15 hơi thở rồi mình xả mình nghỉ, mình đi kinh hành hay hoặc là mình xả mình ngồi mình chơi, mình thư giãn. Không có đi kinh hành, vì đi kinh hành nó tập trung nữa.

Thư giãn rồi bắt đầu đó mình ngồi chừng khoảng độ 1 phút, 2 phút gì đó mình thấy nó khỏe, nó không có nữa, bắt đầu mình vô mình tu 1 phút nữa. Và mình tu như vậy nó cái khoảng thời gian mà tu cứ nghỉ xả thư giãn, rồi tu 1 phút, rồi thư giãn khoảng độ chừng 2 phút vô tu 1 phút. Cứ như vậy nghỉ một chút, nghỉ một chút mình thấy khỏe rồi, mình bắt đầu tu lại nữa. Tu nữa rồi xả ra nghỉ một chút rồi cái tu nữa. Cứ vậy cho đúng 30 phút là nghỉ, hay là 1 giờ cũng được.

Thì trong một khoảng thời gian 30 phút đó là mình tu không biết bao nhiêu là cái phút đó. Thì nó hễ đúng 30 phút là mình nghỉ. Còn cái sức mình khỏe nữa, thì mình tu một giờ cũng được, chớ không sao. Cứ tu từng phút, từng phút, từng phút rồi nghỉ, cứ vậy thôi. Chứ đừng có liên tục nó phút này qua phút kia, nó liên tục 30, 40 phút thì nó dậm chân tại chỗ, nó không tiến tới. Đó nhớ chưa, nhớ rồi phải không?

Sư Phước Nhẫn: Dạ, dạ.

(03:00) Trưởng lão: Thì cứ như vậy đó mà tập cho nó tỉnh thức, cho đàng hoàng. Và bây giờ thí dụ như bây giờ 1 phút này mình ngồi, mình tu rồi thì mình xả nghỉ. Vô phút nữa mình cũng thấy hoàn toàn mình làm chủ theo kiểu này, vẫn biết hơi thở ra vô chủ động, không có lộn xộn. Thì do đó tới kế đó mình nghỉ chút, mình vô mình ngồi, mà nếu phút này mình tu rồi thì ra mình nghỉ, mình vô tu mình thấy có tạp niệm thì không được, mình phải nghỉ xa hơn. Nghĩa là thay vì mình nghỉ 1 phút, mình vô tu mà nó có tạp niệm thì mình nghỉ khoảng 2 phút.

Mà 2 phút nó có tạp niệm mình sẽ nghỉ 3 phút, để cho cái sức của mình phục hồi lại cho đủ. Để rồi mình vô mình làm chủ. Mình yếu quá thì nó nó đánh vô mình không hay. Còn mình đủ sức thì nó đánh vô không được. Sức tỉnh thức của mình nó đủ, sức tỉnh nó có, nó không có đánh vô được.

Còn cái sức tỉnh của mình nó chưa có cho nên mình vô cũng ngồi 1 phút, mà nó có 1 cái tạp niệm xen vô thì không được. Như vậy là mình tu, đã tu ngắn mà không làm chủ được, thì như vậy thì còn quá dở rồi.

Đó thì mình xét như vậy, thì rõ ràng là mình tu, mình thấy hàng ngày mình tu mà từ cứ 1 phút, 1 phút à. Buổi sáng mình cũng làm chủ được; buổi chiều mình tu cũng làm chủ được. Hoặc mình tu thí dụ bây giờ mình tu trong nửa tiếng. Thì sau nửa tiếng đó là mình nghỉ, chứ mình đâu có tu nữa. Trong 1 buổi vậy đó, mình tu hoặc nửa tiếng thôi, mình không có tu nhiều. Còn mình tập đi kinh hành hoặc ngồi chơi thôi. Rồi coi, rồi xem xét, coi lại cái tâm của mình nó có những niệm gì đó mình xả thôi. Còn cái vấn đề tỉnh thức là phải làm chủ nó.

Sư Phước Nhẫn: Rồi còn cái đi kinh hành.

Trưởng lão: Đi kinh hành, thì mình tập cái đi kinh hành cũng vậy. Khi mà đi kinh hành, thì mình tập đi kinh hành ví dụ như đây ra tới đầu đường đó là khoảng độ là 1 phút, mình đi thí dụ như bây giờ mình nhìn đồng hồ ha, cây kim dài nó chỉ số 12. Cái mình cứ đi, mình không nhìn đồng hồ nữa. Mình tới kia mình coi thử coi 1 phút là mình đi từ đây tới đó nó tới cái chỗ nào nó tới, thì mình biết tới cái cây đó là nó 1 phút. Thì mình canh cái đoạn đường đó tu 1 phút thôi.

Rồi bắt đầu bây giờ mình nhắc cái tâm mình, mình sắp sửa mình bước đi mình nhắc: “Tôi đi kinh hành tôi phải biết đi kinh hành, phải tỉnh thức trong bước đi”. Mình nhắc cái tâm phải tỉnh thức trong bước đi, cái bắt đầu mình bước đi.

Sư Phước Nhẫn: Mình đi mình phải thở, mình phải biết hơi thở của mình.

Trưởng lão: À, mình nương vào hơi thở mình biết bước mình đi đi tới đó. Còn mình không nương vào hơi thở thì mình chú ý vào bước chân đi. Nhưng mà đi một cách đừng có tập trung quá, quá căng với bước đi, mà mình đi coi như là tự nhiên như người vô sự vậy thôi. Nhưng mà cái tâm nó vẫn biết nhẹ nhàng theo cái vô sự đó, đó theo cái bước đi thôi. Chứ đừng có tập trung ức chế nó quá. Thành ra mình đi đây tới đó, mình nghe nó thoái mái lắm!

Bị vì mình để tự nhiên nó biết. Mình không có tập trung gom nó. Mà nó biết mình đi nhẹ nhàng như người vô sự, đi tới đó là đúng 1 phút thì mình thấy đủ rồi, thì mình nghỉ, không tu cái đó nữa mình nghỉ. Mình ngồi xuống mình nghỉ một chút. Thí dụ đây mình đi ra đó nửa phút, ở từ đó mình trở lại đây nửa phút thì vô tới đây mình nghỉ. Có như vậy thôi, tu ít mà chất lượng cao, để tập cái sức tỉnh thức mình cái đã. Khi mà sức tỉnh thức này có, mình đi từ 1 phút cho đến 10 phút hay là 15 phút. Bắt đầu cái sức tỉnh thức nó kéo dài rồi, thì bắt đầu mình mới kết hợp cái pháp như lý tác ý mình mới xả tâm thì nó mới có hiệu quả.

Đó nhớ như vậy thì Thầy nói tập cho từng căn bản như vậy thì nó tốt à. Chứ còn tu tập nhiều quá rồi nó…​

(06:22) Sư Phước Nhẫn: Bởi vậy hổm rài con cứ ngồi, ngồi nó đau cũng ráng ngồi, coi bộ không êm, thôi để con theo cái pháp môn của Thầy.

Trưởng lão: Ờ, nó vậy đó.

Rồi Thầy định, Thầy sẽ cho in một cái tờ để nhắc nhở hàng ngày mình coi vậy chứ mình tu là mình tập tỉnh thức là cái phần đó. Còn cái phần mà quan sát thân tâm của mình trong những cái giờ mình không tu, thì mình phải quan sát trong tâm để coi có những cái lỗi gì nhỏ nhặt ở trong tâm của mình, những cái chướng ngại gì đó mình mới quán xét mình xả giữ cho đúng hạnh. Thì cái này nó hỗ trợ cho cái này để tiến này.

Chứ còn không khéo mà mình không có giữ gìn được mình đó thì coi như mình bị xâm phạm mà mình không biết. Rồi mình tu cái kia nó không quét được hở.

Sư Phước Nhẫn: Vậy thì được rồi Thầy ha, Thầy nói 1 khúc vậy thôi.

Trưởng lão: Chỉ 1 khúc vậy thôi để nghe, mà nghe được rồi thì bắt đầu mình tu thôi.

Sư Phước Nhẫn: Dạ thưa Thầy, trong khi con ngồi thiền đó Thầy. Con tỉnh thức 1 phút, theo dõi 1 phút. Con ngồi 1 phút sau, con thấy con ngồi phút tỉnh thức đó hết cái phút đó rồi, con ngồi luôn trên bồ đoàn, rồi con ngó quanh ngó quất, hoặc là con nhắc chừng nó: “thư giãn nha”, vậy có được không Thầy?

Trưởng lão: Được.

Sư Phước Nhẫn: Dạ. Chứ để đứng vậy ngồi xuống cũng mất công quá!

Trưởng lão: Mất công, cái đó được.

Sư Phước Nhẫn: Mà con ngồi ngoài hiên á, vậy là được hả Thầy?

Trưởng lão: Được.

Sư Phước Nhẫn: Dạ, với con muốn biết cái thời gian của nó tới đúng 1 phút hay chưa đó, con nhắc chừng trong cái lúc mà con ngồi con thư giãn, con nhắc chừng nó đếm, thì nó cũng đếm. Tới chừng sau đó con đi kinh hành sau đó con ngồi chơi thì nó cũng nhớ cũng đếm. Như vậy cũng không có quan ngại gì lắm phải không Thầy?

Trưởng lão: À, cũng không sao đâu.

2- KHÔNG NÊN NGỒI NHIỀU DỄ BỊ RƠI VÀO ĐỊNH TƯỞNG

(08:27) Sư Phước Nhẫn: Dạ. Với trong đó có 2 buổi khuya với buổi trưa có một lúc con ngồi, con cũng ngồi trên bồ đoàn con nhắc, con nhắc chừng nó. Nhưng mà sao có lúc đó con ngồi con đếm nó tốt lắm không có cái gì xen vô trở ngại hết. Mà sao có một lúc 3 lần như vậy con đếm sao nó lộn hoài, làm như nó buồn ngủ quá, cái thôi con nghỉ con không đếm nữa. Mà sao lúc hồi trước khi mà con qua cái pháp môn của Thầy đó, thì là nó ngủ luôn à nó không có nhớ. Như vậy con không biết nói làm sao?.

Trưởng lão: À, bởi vì trong khi đó đó, mình phải biết rằng cái lúc mà nó quên, cái trạng thái nó là vô ký nó quên đó. Nó quên nghĩa là mình tỉnh vậy chứ mình không nhớ, mình đếm nó lộn. Cái đó là bị quên, bị quên tức là cái tướng si nó hiện ra, nó hiện ra tức là mình đừng có ngồi.

Sư Phước Nhẫn: Dạ, con nghỉ, lúc đó con nghỉ.

Trưởng lão: À, mình nghỉ, mình đi. Mình đi thôi.

Thì đó mình, bởi vậy đức Phật mới dạy đó, cái thời khóa mà hồi trước đức Phật dạy các vị Tỳ kheo tu đó. Cứ đi nhiều đêm, ít có ngồi. Khi nào mình ngồi, tới khi mình nhập định đó mình ngồi nhiều tốt. Chưa có định thì thôi mình đi nhiều. Đi nó không có bị lười biếng, đi nó là tốt. Có thể đi xa hơn đức Phật. Đi nó vận động cái cơ thể, chứ còn mình ngồi nhiều nó không có vận động.

Nhớ hễ khi mà nó gom vô ký vậy đó, bắt đầu thì nó sẽ lạc, thì đó mình đi kinh hành.

Sư Phước Nhẫn: Dạ, cái đó là vô ký Thầy.

Trưởng lão: Bị vô ký đó, bị vì nó cái trạng thái này nó quên, nó quên nó làm như không.

Sư Phước Nhẫn: Đầu óc mình đi đâu mất hết hà.

Trưởng lão: Nó làm như mình không có đếm được nữa. Bị vô ký.

Sư Phước Nhẫn: Dạ, 3 lần như vậy.

Trưởng lão: Ngoan không, nó vào ngoan không. Nó, nó nhanh chóng, chứ nó không có lâu. Sau này nó kéo dài cái thời gian nó lâu, bởi vì mình tu hành bị ngoan không rồi đó. Mình không rơi trong cái tưởng, cái tưởng thức, cái trạng thái của tưởng thì mình rớt trong cái không. Còn nếu mình tu trong tưởng là nó hiện cái tướng tưởng nó ra thì không có vô. Nhưng mà cái ý thức của mình bị đắm qua cái tưởng.

Còn cái này á mình tu tỉnh thức, vì vậy đó thì khi mà mình dùng cái sức tỉnh của mình mình không cho nó rớt qua cái tưởng thức. Cho nên cái ý thức nó ngưng thì nó cũng ngoan không, làm rớt trong cái không. Mà nếu cái không này kéo dài nó thành ra Không vô biên xứ tưởng đó. Định tưởng!

Sư Phước Nhẫn: Dạ. Thành ra cái đó mình không nên.

Trưởng lão: Không nên. Mình đâu có nhập chi cái định Không vô biên xứ làm gì. Nếu mình tưởng nó không biết, cái đó nó Không vô biên xứ. Nó quên luôn, thành ra ngoan không.

Sư Phước Nhẫn: Còn con đi kinh hành đó Thầy, con đi con thấy 1 phút sao nó mau quá, con đi 2 phút, cũng được hả Thầy?

Trưởng lão: Tốt. Bởi vì cái đó là cái khả năng của mình đi nó tốt được thì mình tăng lên. Chứ không có gì hết. Mình thấy đi 1 phút nó nhanh, mà lại 1 phút nghe tỉnh táo quá.

Sư Phước Nhẫn: Dạ, tỉnh táo không có gì.

Trưởng lão: Thì mình đi 2 phút, mà 2 phút mình tỉnh táo. Thí dụ như bây giờ mình đi 1 phút mình đó mình thấy nó vầy, cái lát nữa mình đi nữa mình thấy nó tỉnh quá, lát nữa mình thấy mình tỉnh quá, tốt quá không có gì hết, thì mình tăng lên chứ ai điên gì không tăng?! Cứ tăng lên.

Tăng lên cho đến đủ cái sức của nó cái khoảng thời gian chừng 5 phút, 10 phút hay là cao lắm là mình 30 phút, chứ đừng có tỉnh lung, tỉnh lung nó sẽ bị lặn. À, cái khoảng thời gian từ 5 đến 10 phút là đủ sức mình để dùng pháp hướng mình xả tâm mình. Mình không cần tới mà 30 phút, hay 20 phút. Nhớ vậy để cho mình lấy sức tỉnh mình xả tâm thôi.

3- TU TẬP CHO THÀNH LỆNH ĐỂ SỬ DỤNG XẢ TÂM

(12:12) Sư Phước Nhẫn: Dạ, thí dụ con đi 2 phút con ngồi lại cũng 2 phút. 2 phút rồi con cũng nhắc tâm con mới đếm, đếm để biết cái thời gian nó tới chưa.

Trưởng lão: Canh cái thời gian.

Với bắt đầu sư nhớ lưu ý cái phần này. Bây giờ đó thì mình sử dụng cái số đếm, cái số đếm nó cứ quậy cái tâm mình động nó không có tỉnh, tỉnh thức mà nó không có tỉnh. À, do đó vì vậy mình thí dụ như bây giờ mình đếm, mình căn cứ nhưng mà trước khi mà mình tu tập cái này mình nhắc: “Cái tâm phải tu đúng 1 phút! Tỉnh thức 1 phút!”, mình nhắc nó như vậy đi. Đặng sau này mình không có đếm, mà mình nói cái nó đúng luôn 1 phút. Chừng đó mình thở tới đúng 1 phút cái nó muốn xả ra. Rồi mình nhắc 2 phút, thì tới 2 phút nó muốn xả ra, nó theo cái lệnh truyền của mình. Cho nên mình tập đây là mình tập tạo cho có cái lệnh. Đặng nó nghe, còn bây giờ mình cứ đếm đây rồi nó sẽ đếm hoài, mình không có ra lệnh nó trước, thành ra nó chưa có biết.

Sư Phước Nhẫn: Dạ, cho nó quen.

Trưởng lão: Cho nó quen với cái lệnh của mình đó, đặng sau đó mình chỉ, mình hít thở mình nói ờ bây giờ “tỉnh thức ở trong hơi thở 1 phút nghe!”, mình dặn nó vậy cái bắt đầu mình ngồi mình thở, mình không đếm. Nhưng mà 1 phút nó xả ra cái mình dòm nó đúng 1 phút. Cái tâm này nó hiệu quả rồi, nó biết 1 phút. Còn mình đếm thì mình mới biết, còn mình không đếm thì không biết. Phải không?.

Mà mình dặn nó trước rồi, sau đó mình xả ra. Thời gian sau mình thấy tỉnh thức được rồi, mình đếm thấy tỉnh thức mình đừng có đếm nữa. Cái mình dặn cái tâm “phải tỉnh thức 1 phút à!”. À, bắt đầu cái mình ngồi mình hít thở, mình không đếm nữa. Mình cứ mình hít thở mình nghe cái nó an lắm, bởi vì mình không có đếm á. Nó an lắm! Bởi vì nó an, nó như vậy đặng sau này mình dùng mình hướng tâm, mình xả tâm, mình ly dục ly ác pháp. Mình tẩy trừ các chướng ngại pháp trong tâm mình.

Do đó cái mình thấy sao nó đúng 1 phút, à như vậy là mình được, rồi mình tập tới mình bảo: “2 phút nhe!”. Cái mình cứ mình ngồi mình hít thở hơi cái 2 phút. Mà thấy 5 phút được rồi thì bắt đầu bây giờ dùng cái khoảng thời gian đó mình cứ thỉnh thoảng mình hướng mình nhắc, mình hướng mình xả…​( …​ ).

4- THỜI KHÓA TU TẬP CỦA ĐỨC PHẬT DẠY CHO CHÚNG TỲ KHEO

(14:05) Sư Phước Nhẫn: Bởi vậy phải hỏi thăm Thầy mới biết được, chớ không thôi con không biết. Với hồi sớm mai này con được Thầy cho con 1 cuốn sách đó Thầy. Nói về cái luật lệ, cái thời khóa trong cái thời…​

Trưởng lão: Thời khóa của thời đức Phật đó.

Sư Phước Nhẫn: Dạ, của thời đức Phật đó. Con thấy trong cái mục số 6, số 7, số 8 đó có nói là mình đi kinh hành phải tẩy trừ cái tâm mà tu để…​

Trưởng lão: Để tẩy trừ chướng ngại pháp đó.

Sư Phước Nhẫn: Dạ. Chướng ngại pháp đó Thầy. Mà con không biết mình phải tẩy trừ như thế nào. Nhờ Thầy chỉ dùm.

Trưởng lão: Thì bây giờ mình tập tỉnh thức được rồi. Bắt đầu mình đi kinh hành, thì mình cứ “tâm như cục đất” đó là mình tẩy trừ cái chướng ngại pháp đó. Nếu mà nó không cục đất thì nó chướng.

Sư Phước Nhẫn: Dạ, nó chỉ vậy thôi hả Thầy.

Trưởng lão: Nó chỉ vậy thôi. Mà mình biết…​ Cho nên trong đó Thầy có nhắc đó, Tứ Chánh Cần, Tứ Niệm Xứ đó.

Tứ Chánh Cần ngăn ác, diệt ác đó. Thì ngăn ác, diệt ác dùng cái pháp như lý mình nhắc: “tâm ly tham, sân, si đi!”. Rồi mình đi nữa, mình đi nữa rồi 1 chút cái mình nhắc nữa đó nó là tẩy trừ đó. Thiệt là ông Phật ông dạy mình hay thiệt chứ, trong cái thời khóa biểu như vậy đó mà mình không biết đường tu.

Sư Phước Nhẫn: Bởi vậy.

Trưởng lão: Mà ổng biểu mình ngủ, mình tập tỉnh thức chứ đừng ngủ mê. Mà cứ ước ao để mà dậy tu thôi, chứ đừng có ham ngủ. Hay thiệt! Cái thời khóa của ông Phật hồi đó hay. Ông biết chế được cái thời khóa.

Thầy đọc trong cái kinh Pali Thầy thấy sao hay quá, ông Phật dạy chúng Tỳ Kheo có thời khóa đàng hoàng, chứ không phải như mình tự đặt. Tại sao mình không lấy cái thời khóa mình tu? Cái ban đêm nó quan trọng…​

Sư Phước Nhẫn: Mà cái thời khóa đó là của Phật hả Thầy?

Trưởng lão: Của Phật. Bởi vì mấy cái câu mà Thầy đánh chữ mà nó ấy đó là cái văn nguyên ở trong bài kinh của Phật mà.

Sư Phước Nhẫn: Vậy mà sao mấy người không chịu lấy cái đó ra tu. Uổng quá!

Trưởng lão: Mà tới bây giờ mà Thầy lục ra thì…​(thầy cười). Đó là cái thời khóa của Phật ngày xưa đó, thời khóa tu tập. Mà họ đọc họ không biết cái thời khóa nữa chứ, mới chết chứ.

Phật nói có cái 9 cái pháp, phải không? Mà họ không biết 9 cái pháp này là cái gì, khi đọc thì phải hiểu chứ. Cái thời khóa của người ta mà.

Trước khi vào thời khóa thì đức Phật nói, phải giữ gìn cái này kia rồi bắt đầu mới áp dụng vô thời khóa để tẩy trừ. Đi kinh hành cũng tẩy trừ; ngồi cũng tẩy trừ, rõ ràng mới đúng. Chứ không phải ngồi im lặng đó mà vô định. Thầy thấy cái bài kinh của Phật dạy hay quá!

Thành ra Thầy rút ra rồi Thầy phụ chú để cho dễ hiểu thêm, để biết cách, để rồi đó là thành cái thời khóa sau này chúng ta tu. Thầy không có đặt cái thời khóa mới, mà cái thời khóa của kinh dịch ra.

Sư Phước Nhẫn: Dạ, vậy tốt quá rồi đâu có cần đặt chi thêm nữa Thầy.

Trưởng lão: Đặt làm chi nữa, trời! Hay quá rồi.

Nội cái ban đêm không, canh đầu, rồi canh giữa như thế nào, canh cuối làm sao. Rồi ban ngày như thế nào, ban ngày thì dễ quá! Giờ đi khất thực thì mình đi khất thực. Nhưng mà trên bước đường đi khất thực thì mình cũng xả tâm tẩy trừ cái chướng ngại pháp chứ gì. Mình có làm gì, trưa về ăn cơm rồi cái nghỉ một chút xíu cái mình cũng lo mình thức dậy đi kinh hành tẩy trừ chướng ngại pháp chứ. Có bao nhiêu đó thôi chứ có làm gì đâu! Thế mà nó giải thoát được.

Phải không, cho nên cái ban ngày đức Phật thấy rằng đi khất thực rồi ăn, rồi về cái tu nữa thôi. Còn ban đêm thì sợ mình ham ngủ không có chịu đi kinh hành, nên nhắc ngồi, đi kinh hành. Mình đi hoài cũng mỏi phải ngồi nghỉ. Mà ngồi như thế nào thì ông Phật không nói, nhưng mà có điều kiện là mình ngồi kiết già cũng tốt, mà mình thấy kiết già đau quá thì mình ngồi bình thường. có gì đâu. Ngồi sao mà đừng khổ tâm, khổ thân thôi.

(17:39) Sư Phước Nhẫn: Dạ. Với con như đồ ăn đó Thầy. Hổm rài con mừng quá Thầy, nó đau lưng con có 2 ngày. Con ăn có 2 buổi tối, ăn chút cơm cho nó uống thuốc đó Thầy. Bữa nay nó hết luôn rồi con thấy mừng quá! Bữa hôm trước con đau như vậy đó nó dằng dai lâu lắm, bữa nay nó đỡ rồi. Nhưng mà con phải dưỡng, dưỡng từ để rồi con còn ở đây được mấy tháng nữa Thầy. Rồi sau đó con về bển rồi con trở qua nữa mới được.

Trưởng lão: Đó, tu vậy đó. Tu theo y như cái thời khóa đức Phật. Rồi cách thức mà Thầy dạy rồi tập giống y.

Sư Phước Nhẫn: Dạ! Con ráng theo cái ý của Thầy.

Trưởng lão: Rồi bắt đầu mình tập theo cái pháp này. Mình tập tỉnh thức được khoảng thời gian 5 phút, 10 phút rồi á. Bắt đầu mình thấy mà mình ra lệnh nó cái thời gian nó, cái tâm nó biết được cái thời gian đó rồi thì mình thấy khỏe lắm! Nó nghe lời rồi, thì sau này vô định cũng nhờ cái đó mà nó vô định, nó xuất định.

5- CÓ THỂ CẤT GIỮ ĐỒ ĂN, NHƯNG KHÔNG ĂN PHI THỜI

(18:40) Sư Phước Nhẫn: Dạ! Còn thí dụ trường hợp đồ ăn mình lấy ở trển đem xuống dưới này đó, mình ăn không hết chẳng hạn như kẹo, bánh hay là gì gì đó thì mình để giành mai mình dùng được không Thầy? Cũng trong bữa ăn mình mới ăn, chứ mình không có ăn phi thời.

Trưởng lão: Cũng được.

Sư Phước Nhẫn: Trong lúc đó đó nhưng mà ăn xong rồi thôi không ăn nữa, dầu có đói bụng, có muốn ăn, có muốn ăn thì mình nhắc nó.

Trưởng lão: Không có cho nó ăn, ăn phi thời không được. Thì mình có thể để tới trưa mình ăn được, nhưng mà có cái điều kiện là mình không để thì tốt hơn, sợ mình không có làm chủ được mình. Mình để lại rồi chừng nó muốn ăn rồi lấy bậy ăn đó thì không…​

Sư Phước Nhẫn: Dạ! Nhưng mà mình làm chủ được thì cũng được hả Thầy?

Trưởng lão: Mình làm chủ được, nhất định là chết bỏ nhất định không ăn thì để bao nhiêu cũng được.

Đức Phật sợ mình để lại đó, mình làm chủ không được. Cho nên ở trong Giới Luật đồ để lại cách đêm không được. Là vì sợ mình làm chủ không được mình, cái mình mò mình lấy mình ăn bậy đó rồi chừng đó nó thành quen rồi cái nó thành cái tội nữa, tội ăn lén, ăn lút.

Sư Phước Nhẫn: Dạ, dạ đúng rồi.

Trưởng lão: Đã phạm phi thời rồi còn ăn lén, ăn lút.

Sư Phước Nhẫn: Phi thời còn lén lút.

Trưởng lão: Còn tội lỗi là lén lút nữa. Hai cái tội đó nó cặp đôi.

(19:48) Sư Phước Nhẫn: Rồi còn, ở bên Út con thường hay bón, thì con cũng dùng cái trái cây mà nó phơi khô đó Thầy. Cái trái cây của Út đó, không biết trái gì mà nó phơi khô nó làm cũng như quýt vậy đó, phơi khô. Mà lúc con đi qua bên đây đó, con có đem theo một ít, con lên Tuyết Sơn con ở đó, tại vì con ăn cũng như đủ thứ hết, thành ra nó hơi bón cái con dùng hết cái đó đi, sẵn dịp đứa con của con nó mới về, con dặn nó mua cho con, thì nó mua đem qua bên đây cái trái cây, cái trái mà bây lớn lớn vầy, rồi con phơi khô con để trong đó con để giành. Vậy thì cũng không có phạm tội?

Trưởng lão: Không có phạm. Bởi vì đó coi như là cái thứ thuốc của mình để giành. Để cho mình làm cho cái thân, trị cho cái thân nó an ổn, nó không có bị bón. Không có sao đâu.

Sư Phước Nhẫn: Con cứ sợ như vậy không biết có lỗi lầm gì không.

Trưởng lão: Bởi vì trong khi đó, nói chung là giới thì nó có: Khai, Giá, Trì, Phạm. Khi mình bệnh, thí dụ như bây giờ mình bệnh ăn thêm mình xin khai, tự mình nói trong tâm mình: “tôi xin khai giới để trị bệnh”, đó thì mình ăn thêm mình uống thuốc, không sao hết.

Còn bây giờ trong cái vấn đề của mình bị hay bón. Có những cái đó cũng như là loại trái cây để mà làm thuốc mình trị bệnh của mình. Thì đó là mình phòng ngừa tại vì mình có cái bệnh mà, mình phòng ngừa, phải dự phòng chứ, nếu không dự phòng mai mốt không có lấy gì mình uống, lấy gì mình ăn để cho nó tiêu tốt, mình dự phòng…​

Sư Phước Nhẫn: Nhưng mà con cũng dùng ở trong bữa ăn đó Thầy.

Trưởng lão: Thì đó, vậy là tốt, đừng có ăn phi thời!

Sư Phước Nhẫn: Dạ! Con nhất định không ăn phi thời.

Trưởng lão: Nhất định là phải sống đúng mà.

Sư Phước Nhẫn: Bởi vì mình đã hy sinh hết rồi, còn ăn cái gì nữa trong cái…​

Trưởng lão: Phải rồi, mình đã hy sinh hết cuộc đời đâu còn gì nữa mà mình tham, ráng ăn.

Sư Phước Nhẫn: Dạ! Còn tham đắm làm chi cái chuyện đó.

Trưởng lão: Thì đó, cái đó là mình có ý chí mình biết. Thì cái vấn đề đó mình, thí dụ bữa nay mình ăn không có hết, kẹo bánh gì đó ăn không hết, thì mình để lại nhưng mà không được ăn thêm gì nữa hết. Cái đó là cái chính.

Bởi vì mình học giới luật mình phải hiểu mục đích là đức Phật sợ cái tâm của mình nó không có chủ động được. Nó có đây cái nó lấy nó ăn, nó nghe nó thèm thì không làm chủ nó. Còn mình quyết tâm rồi thì bây giờ để đống cũng không thèm ăn. Đem họ đổ vô miệng cũng không nuốt, nhất định một là một, hai là hai. Cái đó là cái người sống đúng nghiêm chỉnh giới luật. Chết chứ, ta nói chết trong giới chứ không có chết dưới giới.

Sư Phước Nhẫn: Dạ! Cám ơn Thầy.

(22:11) Trưởng lão: Còn cái kia thì coi như là mình không có nên bỏ phí. Bởi vì mỗi 1 cái viên kẹo, 1 cái bánh đều là mồ hôi nước mắt của mình làm ra. Nếu như mình bỏ thì cũng như mình bỏ mồ hôi nước mắt của người khác, đã mình ăn mình con phí nữa. Không được!

Thành ra cái đó thì tốt, thí dụ như bây giờ trên cái bữa cơm này người ta cho mình một cái mâm đồ ăn này quyền của mình đó, ăn không ăn mình bỏ, người ta không có ai nói mình hết. Nhưng mình là con người mình phải biết làm ra cái món ăn là mồ hôi nước mắt cực khổ lắm mới có, mình không thể nào phí đâu. Cho nên cái nào ăn được mình lấy, cái nào không ăn được mình trả. Đó là cái thứ nhất.

Cái thứ hai khi mình lấy về rồi mình ăn không hết cũng không được phí, để lại nhưng mà ngày mai thì ăn đúng giờ chứ không có được ăn phi thời. Như vậy là đúng cách. Chứ còn mà, đức Phật sợ cái tâm mình phàm phu lắm, để bậy bạ rồi cái nó thèm rồi ăn bậy. Cấm là cấm vậy đó chứ không gì.

Còn mình nếu mà như Phật rồi thì bây giờ để cả đống ông cũng không thèm ăn. Giờ này là nhất định là bây giờ đem sữa đổ vô miệng ông cũng không nuốt nữa. Là một Thánh nhân mà người ta đâu có ăn phi thời vậy, mấy người làm cái chuyện đó đâu có được.

Đó mình phải hiểu là: “tôi quyết tôi xả hết rồi, tôi đâu còn gì, mà tôi quyết định là tôi làm bậc giải thoát, làm Thánh nhân rồi, thì ai đổ cái gì trong miệng tôi được?! Nhất định là không ăn phi thời, không ăn uống gì bậy bạ nữa hết. Đó thì như vậy mình đâu có lỗi lầm gì, không sao!

Sư Phước Nhẫn: Với lại con cũng xin Thầy là bữa thứ 6 ấy Thầy. Con đi xuống Sài Gòn con lấy tấm bảng đó Thầy.

Trưởng lão: Vậy hả con?

Sư Phước Nhẫn: Dạ, co đặt rồi. Bữa đó con xuống dưới có người quen của con, người cũng bà con đó Thầy, họ biết chỗ họ dẫn lên thẳng ra đó, con đặt luôn.

Trưởng lão: Ờ! hay quá, ở dưới đó chắc cũng có nhiều chỗ nó làm.

Sư Phước Nhẫn: Dạ, nhiều chỗ Thầy, chỗ con làm là chỗ đó nó làm bia mộ đó Thầy. Thấy nó làm cũng khéo lắm, để con đem về cho Thầy xem thử coi.

Trưởng lão: Nói chung là nó sử dụng vi tính, bây giờ nó làm đẹp lắm, nó làm cái chữ đẹp lắm! Thành ra nó không phải như làm thủ công trên tay.

Sư Phước Nhẫn: Cho nên con xin phép Thầy bữa nay, tại nhiều khi con không có rảnh đó, con không xin được.

Trưởng lão: Được rồi.

Sư Phước Nhẫn: Bữa thứ 6 con đi.

Trưởng lão: Cứ nhớ về tập dần dần, dần dần. Mình đừng có vội vàng, tập với cái sức của mình rồi mình nghỉ, mình thư giãn, nghỉ cho nó khỏe, rồi mình tập nữa. Mà cứ mỗi lần mình tập là nhiệt tâm ở trong nỗ lực, gom hết để tập cho tỉnh thức. Thì cái kết quả nó dữ lắm! Tập ít chứ mà kết quả nhiều lắm con.

Mình muốn tập cho nhiều để cho kết quả luôn thì nó lại lờ mờ, lờ mờ cái sức mình nó không đủ đâu. Coi vậy chứ tu tập cả một cái vấn đề, mà nó sai một chút thì nó dậm chân tại chỗ.

6- SỰ TU TẬP CŨNG NHƯ NGƯỜI HUẤN LUYỆN VOI

(24:57) Sư Phước Nhẫn: Dạ, mấy nay con tu con cũng sợ quá, sợ lâu tiến bộ rồi Thầy rầy.

Trưởng lão: Không có đâu! Thầy chỉ mong mà tu chừng kết quả nhỏ, nhỏ, nhỏ, ít ít đó mà kết quả được viên mãn. Đó là cái kết quả rồi. Rồi để tới để mà chuẩn bị cho mình xả tâm, mình xả tâm mà cái hiệu quả, cái pháp hướng mình nhắc đâu nó làm được đó. Thì mình xả được cái phương pháp làm chủ được có rồi đó. Nó vậy đó, mình thấy an tâm. Còn mình nhắc mà nó chưa có nghe lời mình đó, cũng như là con trâu rừng nó còn chứng đó, thiệt là nó cực khổ mình lắm! Biết rằng mình có cái phương pháp, có dây, có nhợ đàng hoàng rồi đó. Nhưng mà nó còn chứng nó chưa chịu nghe. Chừng mà nó chịu nghe được rồi, bắt đầu mình la cái là đâu nó ra đó, thì biết rằng mình có kết quả rồi.

Nó cực là cực cái giai đoạn đầu. Cái tâm của mình nó còn rừng rú lắm. Mà nó thuần được rồi, bắt đầu nó dễ cũng như 1 người mà huấn luyện voi, cọp đồ vậy đó, để mà làm xiếc đó. Một phần là mình tập ít là mình dụ nó, mình tập quá tức là nó nổ. Nó không phải dễ đâu, nó nổ!

Sư Phước Nhẫn: Có lúc con ngồi Thiền con thấy vô đúng cái con khen nó, con nói: “mày giỏi đó, giỏi đi mai mốt làm giống như vậy đó”. Có lúc mà nó hơi chứng con nói: “dở quá!”, chê nó.

Trưởng lão: Đúng vậy đó phải vuốt ve nó, rồi cũng phải làm dữ ra lệnh nó. Để cho nó sợ, nó nghe.

Đức Phật ví dụ như mình là huấn luyện con voi. Cho nên cái bà gì, bả theo Phật bả tu. Rồi bà tu mấy cái Phật dạy, nhưng cái pháp tu bà tu sao mà không có kết quả. Nhưng 1 hôm bà ngồi trên núi bà nhìn xuống dưới cái dòng suối ở dưới chân núi nước chảy, bà thấy cái người huấn luyện voi, cái người họ dẫn con voi đến chỗ đó cho uống nước đó. Rồi họ hướng dẫn, họ dạy con voi cách này kia, biểu đưa chân, đưa tay, đưa vòi, ra lệnh nó làm.

Bà nhớ đức Phật dạy kiểu đó, huấn luyện như huấn luyện con voi. Bà thấy cái thằng này nó huấn luyện con voi vậy. Bà bắt chước bà về bà cứ huấn luyện cái tâm mình vậy, bà nhắc nó. Nhưng mà tới cuối cùng bà chứng quả A La Hán. Mà bà đó tới 80 tuổi rồi đó, lớn tuổi rồi, bà bắt chước bà huấn luyện cái tâm của bà.

Mà thật sự ra thì đúng là cái pháp của Phật huấn luyện cái tâm. Vừa ra lệnh mà cũng vừa nhỏ nhẹ nó. Vừa chứ không có bắt ức quá, ép quá không được, ép quá nó cũng không lọt!

Cho nên mình tu nhiều quá không được. Thì bắt chước như vậy Thầy nói được, bởi vì Thầy nói sao trong 6 tháng Thầy tu nó nhẹ nhàng quá, nó không có cái gì, chỉ y như cái lời Phật dạy, cứ dùng pháp hướng để tự nhiên cái tâm của mình. Do đó lần lượt nó xả lần, xả lần. Mà chỉ có duy nhất nhờ cái pháp Độc Cư, Thầy nói Độc Cư là bí quyết. Mình sống một mình mình huấn luyện nó được. Còn mình sống chung nhiều người huấn luyện khó lắm!

7- ĐỘC CƯ LÀ PHÁP DUY NHẤT, LÀ BÍ QUYẾT

(28:13) Sư Phước Nhẫn: Như hổm rày con cũng chưa hẳn là Độc Cư nữa đó Thầy?

Trưởng lão: Đó thì đó đó, cái đó là cái còn xa lắm.

Sư Phước Nhẫn: Bởi vậy con thấy sau này mà mấy đứa con con nó đi hết rồi đó. Như cô em của con hồi trưa lên đó Thầy, con nói từ đây sắp tới không có lên thăm nữa, để cho tôi yên. Cô đó cô nói được rồi cô ấy không dám lên nữa, tại vì cô sợ trên này con buồn, thành ra cô lên thăm. Con dặn rồi. Bởi vì hổm rài con thấy nó lu bu quá, con cũng chưa có độc cư hẳn hoi nữa.

Trưởng lão: Đúng rồi, cái công chuyện nào sắp xếp rồi. Sau khi Sư về bên đó rồi, bây giờ mình tập cho căn bản đi. Vậy mai mốt mình trở qua đó, là sống độc cư trọn vẹn.

Sư Phước Nhẫn: Dạ, có chuyện gì lắm thì mới ra thôi chứ còn không.

Trưởng lão: Chỉ duy nhất có Sư hỏi Thầy. Nghĩa là trên cái bước đường tu hành chỉ có Thầy là cái người được nói chuyện. Để trao đổi cái pháp tu hành, cái kinh nghiệm tu hành để giúp, chứ còn hoàn toàn mình sống độc cư.

Bởi vì không lẽ gặp Thầy nói chuyện tầm bậy, tầm bạ được. Còn bạn bè thì hay nói bậy nói bạ. Cái tâm mình nó cất nó nhét vô. Nó khó lắm!

Sư Phước Nhẫn: Dạ! Bây giờ mình gặp người ta mình cũng tỉnh bơ vậy Thầy.

(29:19) Trưởng lão: À, tỉnh bơ hà, coi như là mình không có muốn nói chuyện gì hết. Với mình hơn nữa mình tránh.

Cho nên Thầy nhắc lại là hồi xưa Thầy nhập thất Thầy tu, Thầy không có dám mở cửa đâu. Tự giam mình chứ không dám đi ngoài, đi ngoài họ thấy họ tới họ nói chuyện hà. Mà cái sự tu của mình nó kỳ lắm, mình không có muốn nói chuyện với ai, chứ còn họ thì thích nói hễ khi tâm mình mà thích trầm lặng là người ta đến người ta phá mình dữ lắm. Cho nên cứ đóng cửa hoài, Thầy sống ở trong cái thất như vậy Thầy đi lấn quấn, chứ không dám mở ra. Chỉ có ban đêm mình mới dám mở ra, chứ ban ngày không dám, sợ vậy. Nghĩa là tránh như vậy là suốt 10 năm, nghĩa là không có nói chuyện với ai hết.

Sư Phước Nhẫn: Như vậy con dọn về bên đây cũng tốt chứ Thầy.

Trưởng lão: Bởi vậy Thầy thấy như vậy Thầy mới cho về bên đây cho nó yên chút. Bên đây nó động, đi tới, đi lui thấy nhau là động.

Sư Phước Nhẫn: Dạ. Không biết tại sao mà con muốn về bên đây không biết nữa.

Trưởng lão: Đó cũng là cái phước duyên.

Sư Phước Nhẫn: Là cái phước duyên.

Trưởng lão: Sẵn cái cơ sở bên đó nó yên tịnh, tu nó ít có động. Chớ còn nó đông thì nó động lắm. Bởi vậy Thầy nói Thầy cất thất thưa thưa vậy đó là để ở cho biết căn bản thôi. Chứ còn mà nếu tu thật tu thì mình sống biệt lập nơi nào đó, mà nó yên tịnh mình tu.

Mình phải sống độc cư vậy từ 3 tháng đến 1 năm không có nói chuyện với ai hết, mà chịu đựng nổi là kể như là…​( …​ ). Cái tâm nó quay vô, còn nó không có quay vô được thì nó phóng ra, nó xuôi mình phải đi tới, đi lui. Nó làm cho mình buồn bã cực, nó khổ lắm. Nó làm cho mình phải đi à.

Sư Phước Nhẫn: Mình giữ 1 chỗ như vậy mà nó quay tự nhiên nó vô.

(30:50) Trưởng lão: Cái tâm tự nhiên nó vô. Bởi vậy Thầy nói bây giờ mà cỡ nào không tu gì hết đó. Nghĩa là không có pháp gì hết mà cứ cột chân mình vô trong cái chỗ nào đó, mình ở chỗ đó riết rồi nó tuôn ra, nó nghĩ ngợi tùm lum ra hết, mà nó đi không được thì nó cũng xả hết. Chứ đừng nói mình xả. Tại vì cái đó là cái bí quyết. Nhưng mà mình có pháp mình mới ở được, mình không pháp thì không bao giờ ở được.

Không có pháp tu đó, mình không có pháp tu, cái tâm của mình nó tuôn quá, nó đủ thứ chuyện hết. Do đó mình ngồi một chỗ không có được đâu. Nó bắt mình phải đi ra chợ, đi chỗ này kia, dòm bên đây, dòm bên kia, thấy cảnh vật rồi nó khoái. Cho nên nó khoái là nó phóng ra. Chẳng hạn bây giờ mình ngồi đây, mình nhìn 4 cái vách này mình không thấy gì hết. Mà đi ra nhìn cây cỏ cái nó thích. Nó cởi mở trong tâm. Mà ngồi đây trời ơi nó nhìn vòng vòng nó chịu không nỗi. Cái tâm nó vậy, mà cột chặt nó, mày không có được đi đâu hết, nhất định cho mày nhìn vách này chứ không có nhìn…​ “diện bích cửu niên, đốn hộ Bồ Đề” mà. 9 năm mà nhìn vách đá mà không có cần nhìn ra ngoài thì tức là nó phải quay vô thôi. Bây giờ không tu Thiền định gì nó cũng vô à, chứ đừng nói…​

Đó là cái duy nhất. Khi tu rồi mới thấy được cái này. Chứ còn chưa tu thì không biết cái này đâu. Mình tưởng mình cứ ngồi mình cố gắng mà nhiếp tâm cho hết vọng tưởng thì nó đi bậy. Thôi cứ để mình không có biết gì hết, để nó muốn nghĩ gì nó nghĩ kệ nó, nó muốn nghĩ gì nó nghĩ. Nhưng mà nhất định là mày không có được đi ra. Tao cho mày ở trong này hoài. Có cơm này tao đưa cho mày ăn sống thôi, mày cứ ở đây mày không có được đi nữa. Mày muốn gì cũng không được hết, mày muốn đi đâu cũng không được, tao không cho mày nhìn trời, nhìn cỏ, nhìn cây, tao giam mày. Mà vậy chứ mà nó xả đó. Không tu pháp gì cho nó xả.

(32:34) Tại vì cái đầu của mình nó tư duy nó phóng ra nó chịu không nổi, nó phá cái độc cư đi. Cho nên buộc ông Phật có pháp để cho mình lấy cái pháp đó mình tu, để cho nó không có phá cái độc cư của mình, chứ không có gì. Chứ còn không đó thì nó phá. Không có ai mà ở suốt cả 1 năm mà chịu một mình mà ở trong thất mà chịu nổi đâu. Ít ra họ cũng phải đi ra họ làm cái này kia, họ ở một mình trong rừng họ cũng phải làm này kia. Mà làm thì nó cũng động rồi. Nó cũng phóng dật theo cái hành động làm, nó cởi mở, nó không có cô đơn.

Cũng như bây giờ thí dụ như Sư ngồi một mình đi. Nó bắt tay chân của Sư phải thoải mái, phải vẽ, phải nhấp cái này kia đồ, chứ nó không có chịu ngồi không. Bởi vậy nó thanh thản và vô sự, chứ mà có hữu sự trong đó thì nó không có được. Chứ đừng nói! Mình thấy mình cũng sống có mình mình chứ gì, mà cứ ngồi xe lá đồ cũng là hữu sự chứ chưa phải là vô sự. Cũng không giải thoát đâu. Không đơn giản đâu Sư, không có đâu.

Còn cái thứ mà mình đọc kinh sách này thôi cũng như là không có độc cư gì hết đâu. Độc thoại rồi còn gì đâu độc cư. Nó động lắm!

Cho nên tới chừng mà quyết tu là xả sạch không nghe băng, không gì hết. Thầy dạy pháp đó vậy rồi ôm pháp đó tu thôi. Tối ngày cứ bây nhiêu đó mà quét cho sạch, cứ lo mà tẩy trừ các cái chướng ngại pháp trong tâm như Phật đã dạy đi.

8- THẦY DẠY CÁCH SẮP XẾP CON CÁI

(33:56) Sư Phước Nhẫn: Còn như bây giờ đó cũng như con tập vậy thôi.

Trưởng lão: Tập để cho nó có căn bản.

Sư Phước Nhẫn: Căn bản, rồi sau đó…​

Trưởng lão: Sau đó mới quyết định đó.

Sư Phước Nhẫn: Quyết định.

Trưởng lão: Lúc quyết định là lúc phải đi sâu rồi. Một là mình chết, hai là mình sống chứ còn…​

Sư Phước Nhẫn: Lúc đó con về bển, con phải nói với con của con là làm phải làm sao đừng có tới lui thăm viếng gì nữa hết, bên đây chết sống gì kệ nó đi.

Trưởng lão: Có gì thì người ta báo, chứ gì mà lo.

Sư Phước Nhẫn: Dạ, đúng rồi.

Trưởng lão: Có vậy thôi. Các con đừng nghĩ là các con bất hiếu, không phải đâu. Tại vì cái chương trình tu nó có những cái lúc mà phải quyết định. Cái đó nếu mà mình không quyết định thì không giải quyết được. Không tu được.

Sư Phước Nhẫn: Dạ. Mình nói cho nó biết trước Thầy.

Trưởng lão: Nói cho nó biết trước. Bởi vì nó phải có sự quyết định, để nó không uổng cái công.

Cũng như bây giờ mình đi học mà bây giờ mình không quyết định là đỗ Tiến Sĩ thì làm sao mà đỗ? Bây giờ tao học, tao phải quyết định là tao lập luận án Tiến Sĩ, tao phải đỗ Tiến Sĩ chứ. Tụi bây cứ chạy tới chạy lui thì làm sao tao đỗ? Rốt cuộc rồi ba rớt rồi mấy con nghĩ làm sao? Cũng như ba giờ ba nuôi mấy con, mấy con đỗ Tiến Sĩ giờ ba mừng phải không? Mà bây giờ nuôi cho mấy con ăn học, mà rốt cuộc mấy con thi rớt, không làm sao mà ba mừng.

Cũng như giờ ba tu, mà bây giờ ba đỗ mấy con cũng mừng, ba giải thoát thì mấy con mừng. Chứ ba không giải thoát mấy con thấy mấy con không có cái nỗi mừng của một người cha chiến thắng được, như vậy thì các con cũng thấy rằng, cha mình tu hành cũng tốt thôi, cái đó là an ủi thôi. Chứ sự thật đây cũng như là cái con đường đi học. Mục đích mình đi học để có cấp bằng, để có cái tài nghệ của mình, cái tài của mình. Mà bây giờ mình đi học mà không có cấp bằng thì đâu có chứng minh được cái tài của mình chỗ nào! Đi tu thì phải chứng minh được cái sự giải thoát chứ tụi bây cứ thăm hoài tao có giải thoát gì được?!

Sư Phước Nhẫn: Dạ. Để về con nói cho nó nghe cho rõ như vậy.

Trưởng lão: Chứ không phải là mấy con bất hiếu đâu. Mấy con phải hiểu, để cho ba yên ổn, ba giữ gìn tu cho rốt ráo. Ba tu tập được thì các con thấy cả một vấn đề, ba sẽ nói lại cho mấy con biết những cái con đường tu mà. Còn bây giờ ba nói cũng như ba nói láo vậy.

Có vậy thôi!

Sư Phước Nhẫn: Dạ. Thôi như vậy con cũng cám ơn Thầy nha Thầy.

9- KHÔNG ĐỦ SỨC TU PHÁP GOM TÂM, THÌ TU PHÁP XẢ TÂM

(36:17) Sư Phước Nhẫn: Mấy hổm rày con tu tập con thấy nó cũng hơi bớt bớt một chút Thầy. Bởi vì không biết sao mà nó loạn tưởng nhiều quá, trong lúc mà con tu thường 4 phút đó Thầy, loạn tưởng nhiều quá đó rồi con không biết cách nào. Thời gian sau này con chỉnh, con ngồi xụt xuống, bớt lại, có 1 phút thôi cho nó chắc ăn. Rồi con hướng tâm cũng hướng ít lại. Cái hướng tâm của con đó con không có hướng theo cái hôm trước nữa, mà con chỉ hướng cái cách là nhắc cái tâm của mình: "Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra". Chỉ vậy thôi, để cho nó yên tịnh, đặng cho cái tâm của mình nó không có…​ bị vì cái hướng tâm kia nó dài, với có nhiều câu quá đó Thầy. Cái con hướng câu này, cái rồi con qua cái câu khác nó quên, nó loãng.

Trưởng lão: Nó loãng.

Sư Phước Nhẫn: Nó quên cái nó loãng. Thành ra con đổi lại, không biết như vậy có được không Thầy?

Trưởng lão: Được. Bởi vì mình chưa có tỉnh đó. Cái sức tỉnh mình chưa có, tỉnh giác mình chưa có. Bởi vì nó hay bị vọng tưởng xen vô đó, nó lẫn. Do đó mình nhắc thở: "Tôi thở, tôi biết tôi đang thở". Rồi cái mình thở, cái rồi mình nhắc, thỉnh thoảng mình nhắc.

Coi như là mình tu cái định này gọi là định: "Diệt Tầm Mà Giữ Tứ", tác ý ra đó, nó giữ đó. Cái này nó không phải là định xả tâm. Mà nó định “Diệt Tầm Giữ Tứ” để cho nó có tỉnh giác. Tỉnh giác ở trong cái đối tượng nó, cái đối tượng đó là cái hơi thở. Cho nên mình nói mình nhắc: "Tôi thở, tôi biết tôi thở". Cái rồi một chút mình thở chừng vài ba hơi thở cái mình nhắc lần nữa. Để cho mình lôi mình thêm chút nữa. Chứ mình không nhắc nó cái nó vọng tưởng nó vô.

(38:08) Sư Phước Nhẫn: Dạ. Nhưng mà rồi mình nhắc, mình nhắc nhiều nó quên.

Trưởng lão: Mình nhắc nhiều quá nó cũng loãng.

Sư Phước Nhẫn: Bị mình già rồi đó Thầy, mình có cái tuổi…​

Trưởng lão: Nó khó lắm đó! Tuổi trẻ nó dễ hơn.

Sư Phước Nhẫn: Dạ, tuổi trẻ thì dễ hơn.

Bây giờ thì con tập, hôm trước đó, mấy ngày trước thì con tập 1 phút. Thì mấy ngày sau là con tập được 2 phút. Bây giờ con đang tập 3 phút. Con tập con hướng như vậy đó nó dễ, nó dễ cho con mà nó được tỉnh nữa. Như vậy cũng được Thầy.

Trưởng lão: Được. Nhưng mà nó còn cái vầy nữa Thầy nhắc, nếu mà trong cái thời gian mình tập mà nó tỉnh, mà hễ mình tăng nó lên cỡ chừng 4, 5 phút cái bị vọng tưởng vô.

Sư Phước Nhẫn: Dạ. Nhưng mà mình ráng mình tập như vậy cho nó nhiều được không Thầy?

Trưởng lão: Được. Nhưng mà điều kiện là mình thấy cái thời gian mình tu chừng khoảng 1 tháng, hay hoặc là 2 tháng, mà mình thấy sao mình khắc phục cái đó không nổi. Tức là mình biết rằng cái tâm mình về cái sự tập trung để mà tỉnh thức nó không nổi. Thôi mình tu xả.

Sư Phước Nhẫn: Dạ. Xả làm sao Thầy?

Trưởng lão: Xả không, không có tập trung nữa, không có gom nữa.

Sư Phước Nhẫn: Xả…​

Trưởng lão: À, mình xả là thí dụ như bây giờ mình xả, mình không có nương trong hơi thở nữa. À, mình ngồi mình chơi vầy, mình cứ quan sát cái tâm của mình thôi. Nó khởi niệm thì mình quán cái niệm đó. Chứ mình không có xả mình không có dừng nó. Mà mình quán, mình suy tư cái niệm đó, cái niệm đó cái niệm gì? Thương ghét, giận hờn. Gọi là nó Dục lậu, Hữu lậu, Vô minh lậu. Nó 3 cái lậu hoặc này, mình coi nó ở lậu nào?

À, bây giờ lậu này, tức là mình phân tích cái lậu này, Dục lậu, mình còn thương tiếc cái gì đây? A! Cho nên nó bị do cái Hữu lậu này, cái Dục lậu này nó làm cho mình thương tiếc.

(39:41) Sư Phước Nhẫn: Có khi mình, chẳng hạn như vầy, thí dụ mình nhớ con của mình ấy Thầy.

Trưởng lão: Ờ, cái đó là nó…​

Sư Phước Nhẫn: Rồi cái mình suy nghĩ, mình nói: mình đã lo cái trách nhiệm của mình, nó tròn bổn phận rồi. Thôi bây giờ mình đã bỏ nhà, bỏ cửa mình đi qua tới bên đây để mà mình lo tu cho mình được giải thoát. Mà tại sao mà mình còn đeo bám hoài vậy?” Như vậy mình nói như vậy được không Thầy?

Trưởng lão: Được. Đó là mình quán đó con. Mình quán Vô Lậu đó, quán Vô Lậu để mình cắt đứt Ái kiết sử đó. Mình quán như vậy: “À, cái này Ái kiết sử này đi đi, không có được ở trong tâm!”. Con hướng tâm, con nhắc: “Ái kiết sử này, mày đi chứ không được bén mảng vô cái tâm tao nữa! Tao đã cắt tao đi tu rồi”, nhắc nó vậy đó. Mình ám thị nó vậy đó.

Đã mình quán cái kia rồi. Mình nhắc nhở mình đi, rồi mình ở, mình làm xong bổn phận, con cái lớn khôn rồi. Bây giờ không có được nhớ nó nữa. Đó mình quán vậy phải không? Rồi bắt đầu bây giờ mình mới dùng cái pháp hướng, mình hướng, mình chặt nó. Nhiều lần nó hết hà. Chứ còn không nó dữ lắm, cái ái kiết sử mà, tình cảm mà.

Sư Phước Nhẫn: Sao mà nó lộn xộn con dữ Thầy, bị mấy hổm rày con thấy con buồn quá. Không biết tại sao nữa?

Trưởng lão: Không phải đâu, hễ mà mình càng tu thì nó nổi sóng dậy. Nó nổi dữ lắm à! Chứ không phải, nếu mà mình tu ít ít thì mình không thấy. Mà mình tu nhiều nó nổi lên dữ lắm. Nó nổi lên thì mình, bởi vậy chướng ngại pháp nó tới mà, nhất là mình sống một mình mình nó nổi lên nhiều lắm! Mà nó càng nổi lên thì mình cứ đẩy lui nó. Mình quán vậy đó.

Cho nên vì vậy đó mà, khi mình nhiếp tâm trong hơi thở cái sức tỉnh mình nó tu mà mình già, nó yếu mình gom tâm không có được, cái sức tỉnh nó khó lắm!

Cho nên bây giờ mình cứ quán xả thôi. Xả riết nó thanh tịnh thì nó cũng hết.

(41:30) Sư Phước Nhẫn: Nhưng mà mình phải cho nó một thời gian thì mới, 1 tháng nửa tháng gì nữa đi.

Trưởng lão: Ờ, để cho mình coi thử, coi cái tâm của mình, coi thử nó gom được không. Nghĩa là nó gom không được thì mình biết cái sức già, mình yếu rồi, nó gom không được. Mà nó hễ gom được thì nó căng nó thành bệnh. Nó nguy hiểm! Mình biết là tại sức yếu của mình, mình ráng quá thì nó bị căng thần kinh. Cho nên thôi mình không ráng, mình chỉ xả tâm thôi.

Xả tâm thì tâm nó ly tham, sân, si hết, ly ác pháp hết thì nó cũng thanh tịnh, nó cũng vô định đó. Chứ không gì.

10- ĐI KINH HÀNH KÈM PHÁP HƯỚNG XẢ TÂM

(42:03) Sư Phước Nhẫn: Con thì con đi kinh hành thì con cứ, chẳng hạn như đầu này con lại đầu kia, thì trong lúc đi kinh hành thì con cũng quán cho cái câu mà hổm rày Thầy đặt cho đó Thầy. Chẳng hạn như: “quán ly tham, tôi biết tôi quán ly tham”. Hoặc là đi tới khúc kia thì mình nói lên là: “tâm như cục đất, phải phải lìa, lìa tham sân si ra”. Mình nói như vậy đó đi lại đầu này tới đầu kia mình nói một câu, trở lại đầu này mình nói một câu. Như vậy cũng được Thầy?

Trưởng lão: Được! Cũng được.

Sư Phước Nhẫn: Bởi vì trong cái lúc mình đi kinh hành đó thì nó không có gom nhiều. Gom thì cũng gom vậy…​

Trưởng lão: Nó cũng biết mình đi.

Sư Phước Nhẫn: Mà mình biết mình đi.

Trưởng lão: Nó ít có vọng tưởng hơn. Rồi mình khởi mình nhắc, mình nhắc để mình dùng pháp hướng để mình tạo cái lực. Rồi mình đi nữa, mình đi mình lấy sức tỉnh này mình đi nữa. Rồi mình nương, để mình nhắc. Được, tu vậy được, không sao!

11- TẬP ĐỘC CƯ TỪNG NGÀY, TĂNG DẦN LÊN KHÔNG NÊN VỘI VÀNG

(43:09) Sư Phước Nhẫn: Bởi vì hôm rày con thấy sao con lo quá, con nói tu làm sao mà cứ đứng một chỗ hoài vậy, là sao?

Trưởng lão: Nó bung ra nữa à, may nó đứng một chỗ là mình chặn nó được đó là may à. Không nó bung dữ tợn lắm!

Sư Phước Nhẫn: Nhưng mà con cũng tính là để hôm nào, như chẳng hạn là mai con độc cư 100 phần trăm, con không đi đâu hết. Có đi thì đi vậy thôi, chứ không có ngó tới, ngó lui…​

Trưởng lão: Đi mà phòng hộ, mình đi mình ngó xuống.

Sư Phước Nhẫn: Dạ! Mình không có nói chuyện, không có tiếp duyên với ai.

Trưởng lão: Đó cái đó mình tập thử, nguyên 1 ngày.

Sư Phước Nhẫn: Rồi qua ngày khác mình cũng…​

Trưởng lão: Mình thấy được mình tăng lên, hay hoặc là 5, 3 ngày tìm 1 ngày. Coi như là mình thọ Bát Quan Trai.

Chứ mình tập ngay mà như Thánh không được. Im lặng như Thánh không nổi. Thành ra mình tập từng ngày. Vậy nó được mình tăng dần lên. Thì thế nào tập cũng phải dần được. Chứ còn mình đừng nhảy vô mình làm luống cái 5, 10 ngày đó thì mình tiêu à. Không có được!

Sư Phước Nhẫn: Dạ. Bởi vậy con thấy càng đi sâu vào mình thấy cái sức tỉnh thức của mình nó càng kém Thầy.

Trưởng lão: Kém. Bởi vì nó càng đánh mạnh.

Sư Phước Nhẫn: Đánh mạnh ra, dạ.

Trưởng lão: Hễ mình càng động nó bao nhiêu thì nó bung ra dữ lắm! Cho nên nó làm cho mình thấy sao mà mình không làm được nó.

12- HAI CÁCH THƯ GIÃN THÂN TÂM

(44:17) Sư Phước Nhẫn: Dạ. Trong cái lúc con thư giãn đó Thầy. Con ngồi nghỉ đó, thì mình theo dõi hơi thở cũng được hả Thầy?

Trưởng lão: Được.

Sư Phước Nhẫn: Mình không có nghĩ gì khác hết.

Trưởng lão: Mình không nghĩ gì khác, mình nương theo hơi thở. Nương theo hơi thở mà thư giãn, chứ không phải tập trung.

Sư Phước Nhẫn: Dạ. Con dặn cơ thể con: “Phải thư giãn ra, các cơ buông xuống, thư giãn rồi theo dõi hơi thở ra vô”.

Trưởng lão: Rồi mình thí dụ như con ngồi con không theo dõi hơi thở, con sẽ nhìn cái vũ trụ, cây cỏ này kia, con lắng cái tâm con nghe nó yên lặng, thanh tịnh con biết cái cây cỏ.

Sư Phước Nhẫn: Dạ. Có 2 cách hả Thầy?

Trưởng lão: Có 2 cách. Con thay vì con theo hơi thở thì nó bận tâm hơi thở thì tâm con nó không hòa với cảnh vật. Còn con ngồi con thư giãn cái con biểu: “thân tâm thư giãn xuống đi, thanh thản đi, buông xuống đừng có gồng”. Cái con ngồi con nhìn trời, nhìn cây, này nọ; con nghe trong mình thoái mái, nó như là cỏ cây nó tự nhiên. Nghe nó thư giãn dữ lắm! Nghe nó, làm như tâm mình hòa với cảnh cây cỏ.

Sư Phước Nhẫn: Dạ.

HẾT BĂNG

Pháp Âm - 2000 - SƯ TUỆ TĨNH VÀ PHƯỚC NHẪN VẤN ĐẠO 05 - THẦY SOẠN THẢO KINH SÁCH DẠY ĐẠO ĐỨC

 

2000 - SƯ TUỆ TĨNH VÀ PHƯỚC NHẪN VẤN ĐẠO 05 - THẦY SOẠN THẢO KINH SÁCH DẠY ĐẠO ĐỨC

SƯ TUỆ TĨNH VÀ PHƯỚC NHẪN VẤN ĐẠO 05 - THẦY SOẠN THẢO KINH SÁCH DẠY ĐẠO ĐỨC

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Ngày giảng: 00/00/2000                     

Thời lượng: 47:40

Tên cũ: 2000-Sư Tuệ Tĩnh và Phước Nhẫn-2B - Kinh Nikaya

https://thuvienchonnhu.net/audios/su-tue-tinh-va-phuoc-nhan-van-dao-05-thay-soan-thao-kinh-sach-day-dao-duc.mp3

1- TÂM NHƯ CỤC ĐẤT

(00:00) Trưởng lão: Thư giãn để cho mình hòa mình với vạn hữu, cây cỏ, cái tâm mình nó tràn trề với vũ trụ, phủ trùm với cỏ cây.  Nó thấy được mình với vạn vật nó hòa đồng với một điểm, tâm mình nó không bị ác pháp cuốn tới nữa.

Sự Tuệ Tĩnh: Như vậy có cách thứ hai vậy nó cũng đỡ.

Trưởng lão: Nó đỡ chứ, chứ không mình cứ tập trung vào hơi thở thì mệt lắm. Mình xả ra mình nhìn cây này, cây kia, cây nọ mình thấy tâm mình nó không có điều gì hết, nhờ cảnh vật cái tâm mình nó trụ trong đó, từ cây này đến cái bầu trời, mây rồi cây cỏ, mình thấy nó thoải mái và thư giản mà. Mình thư giản hòa hợp với vũ trụ.  

Sự Tuệ Tĩnh: Trong cái lúc mà con ngồi, con nghĩ trong tâm con nói giữ cái tâm cũng như cục đất, như cục đất đó, cái gì người ta đổ lên hoặc người ta đào trồng cây, người ta xới lên đủ thứ hết mình cũng không có động tâm gì hết, tâm như cục đất là như vậy đó. Có phải không Thầy? 

Trưởng lão: Có nghĩa là cái tâm đó không còn khen cũng không mừng, chê cũng không buồn, đổ vàng cũng không mừng, đổ đồ dơ cũng không buồn, ai làm gì làm tâm cũng dung chứa hết mọi cái, nhưng biết hết chớ không phải như đất nó không biết, mặc dù biết hết nhưng dung chứa hết. Cái trạng thái đó thì như đất, nhưng nó vẫn biết hết, cái ý như vậy. Chứ không khéo mình tu mình thành đất thiệt rồi nó không biết gì hết nữa như cây đá thì tu làm chi? Nói đất chứ đất này là đất kim cương, vàng, nó còn biết thiện. Ai nói ác nó cũng biết, mà nói thiện nó cũng biết nhưng mà nó không dính mắc, nó không làm khổ ai hết. Thành ra cái đất của mình là cái đất quý mà, chớ không phải là đất như đất này. Đất của mình nó còn biết. Biết mà không giận ai hết. Cái đất này không biết thiệt là vô tri đó. Nhưng mà mình phải làm như cục đất, biết mà không như đất, biết mà như đất chứ đừng có biết mà không biết gì hết thì thôi đất đó hết chỗ xài. Đất đó không phải Phật pháp. Bởi vậy mình tu mình nhớ kỹ, biết hết, người ta chửi cũng biết nhưng mình không buồn không giận vậy là đất, chứ không phải là đất đó nó không có biết mà mình biết mà mình không buồn cho nên mình như đất. Đất mà biết cho nên đất kim cương mà. Cho nên không có gì mà làm bể nó được hết. Nó thì nó làm bể người ta được đó, chứ còn không có vật gì mà làm bể nó được hết, nó là vật kim cương mà.

2- PHẬT TỬ LƯU, IN VÀ PHỔ BIẾN SÁCH THẦY

Sự Tuệ Tĩnh: Thưa Thầy chắc có lẻ bữa Chủ Nhật tuần này hoặc thứ sáu, Thầy. 

(03:16) Trưởng lão: À để Thầy coi cái băng, còn 1 băng nữa, Thầy coi ở đâu Thầy tìm cho.

Sự Tuệ Tĩnh: Nếu mà Thầy có Thầy cho con được không?

Trưởng lão: Thầy cho hết. Có thì Thầy sẽ nói Tâm Như, tụi nó nó giữ, nó lưu trữ. Nó, Tâm với Cô Châu  mấy người đó coi như họ giữ tài liệu Thầy lại sau khi Thầy có chết rồi thì họ giữ lại để lưu truyền. Chứ còn Thầy mà chết rồi (là) mất tiêu luôn.

Sự Tuệ Tĩnh: Bởi vậy Thầy cũng phải dự bị trước Thầy. 

Trưởng lão: Thầy giao hết, sách của Thầy mà viết rồi tụi nó lưu trong vi tính hết, đứa nào cũng lưu hết, nó lưu vào đĩa hết, nó cất dự phòng hết.

Sự Tuệ Tĩnh: Như Thầy cũng lo được vậy thì cũng tốt rồi. 

(04:09) Trưởng lão: Có tụi nó nó giữ giùm, nó nguyện nó giữ mà. Nó dặn mấy đứa con nó, mấy đứa bây giờ nó còn nhỏ đi học đó, tụi nó về nó lưu giữ mà, nó thấy Thầy xong tập nào nó lấy đĩa nó sang, nó đem về dưới nó lưu trong vi tính của nó hết. Cô Châu còn xin Thầy để cho lên vi tính, Internet để truyền sang ngoại quốc.

Sự Tuệ Tĩnh: Dạ, cái đó tốt đó Thầy, bữa hôm có ông Bình, bữa trước ông có viết thơ qua nói, nếu mà Thầy cho phép, nếu có thì gửi qua cho ông để ông lên Internet, cho ở đâu người ta cũng biết hết. Ở bên Canada hay Mỹ mở đúng cái từ khóa đó là nó lên hết.

Trưởng lão: Coi như là họ coi cái bộ kinh bộ sách của mình hết.

Sự Tuệ Tĩnh: Cái đó Thầy chỉnh lại hết thì mới được. 

Trưởng lão: Thầy chỉnh lại hết đó. Coi như giờ chỉnh xong rồi thì bắt đầu Thầy mới in ra sách. Còn ở đó cho lên Internet.

Sự Tuệ Tĩnh: Cái đó tự người ta coi.

Trưởng lão: Người ta coi và người ta muốn in ra. 

Sự Tuệ Tĩnh: Như vậy thì mình khỏi đem đi, tài liệu khỏi đem đi. 

Trưởng lão: Đó thì chuyển đi thôi, từ máy nó chuyển đi, nó dễ hơn. Ở bên đó người ta cũng in ra. Bởi vì lên vi tính rồi thì ở bên đó người ta chỉ in thôi. In ra một cái thì bắt đầu coi, đi tùm lum hết, bây giờ cái thông tin nó độc đáo quá. Cho nên hôm rồi cô Châu cô nói để cổ lên Internet cổ truyền lên. Ở bên đó thì mấy người ở bên Mỹ, họ cũng xin Thầy. Mấy người Cư sĩ đó, cái nhóm đó 14 người, 15 người gì đó. Họ họp nhau, bây giờ họ đã lên vi tính, cái địa chỉ của họ, họ gởi thơ qua bên đây bằng vi tính không đó.

Sự Tuệ Tĩnh: Gởi thơ kêu bằng email.

(06:34)Trưởng lão: Email đó. Coi như mình bấm cái thì nó có cái bức thơ trên cái máy của mình, cho in ra.

Sự Tuệ Tĩnh: In ra! Hoặc còn bấm cái địa chỉ, cái số email của bên đó, qua tới bển người ta tự mở ra người ta thấy.

Trưởng lão: Hay quá! Cái vấn đề đó thì ở đây Cô Châu xin cái nhiệm vụ truyền tin đó.

Sự Tuệ Tĩnh: Vậy là thông tin cho thế giới. Chừng nào mà Thầy cho phép Thầy cho con biết. Đặng con nói với ông bạn ở bển cái ổng bấm lên ổng Thấy.

Trưởng lão: Coi như là ít hôm cái cuốn 1. Thầy lần lượt Thầy cho cuốn 1 trước. Cuốn 1 này coi xong rồi, Thầy kiểm xong rồi, Thầy cho lưu vô cái đĩa Thầy gửi về dưới, về dưới cái cô Châu cổ đem cái đĩa đó cổ cho lên vi tính chuyển sang Internet và chuyển lên.

Sự Tuệ Tĩnh: Chừng nào tới đó Thầy cho con biết, báo tin.

Trưởng lão: Báo qua bên kia, báo tin chứ! Mấy con sẽ đọc tới cái cuốn 1 mà Thầy chỉnh lại, xúc động lắm. 

Sự Tuệ Tĩnh: Đọc rồi nghe Thầy giảng mấy bài pháp.

Trưởng lão: Đó Thầy trả lời cho mấy đứa học trò của mình. Thầy trả lời tắt gọn cho nó tu thôi. Sợ nó làm động, không có nói nhiều. Còn bây giờ thì nó đã nhập Thất rồi. Câu hỏi của nó là một cái bài pháp, nó nói hết đầy đủ, mình dựa vào câu hỏi đó

Sự Tuệ Tĩnh: Mình cũng dựa vô câu hỏi đó mà mình diễn giải ra.

Trưởng lão: Diễn giải ra nhiều hơn, để cho nó thâm sâu hơn, cho nó rõ cái lý của câu hỏi đó hơn. Trả lời với nó tắt để cho nó biết cái đó nó áp dụng tu thôi, đừng có nghĩ ngợi nhiều. Giờ nó phải quảng bá rộng hơn cho nó thấu suốt được cái chỗ đó. Nhiều khi nó ngắn quá, nó không hiểu thì nó hỏi lại mình, mà người khác họ đuối rồi. Ngắn quá đâu hiểu được.

Sự Tuệ Tĩnh: Nhưng mà cái này người khác coi rồi hiểu trước luôn?

(08:44)Trưởng lão: Hiểu trước luôn, bởi vì mình giải thích. Mình chứng minh, mình ví dụ cụ thể để người ta nhận ra được cái chỗ đó. Rồi có những cái bài kinh của Phật. Bài kinh của Phật mình rút ra mình đưa vô để chứng minh đó là cái lời của Đức Phật dạy. Chấp nhận cái gì? Thí dụ như có ba loại thần thông: Thần thông biến hóa, Thần thông ký thuyết và Thần thông giáo hóa, có 3 loại. Vậy thì Đức Phật chấp nhận loại thần thông nào? Thần thông biến hóa là tàng hình biến hóa, kêu mây hứng gió bay trên trời đó là thần thông biến hóa. Rồi thần thông ký thuyết là cũng như Sư, bây giờ tâm niệm của Sư khởi lên những gì, Thầy ngồi đây Thầy biết hết. Là người đó nhập tới cái định gì mà biết được cái chỗ đó, để cho họ xác định được chỗ cái định mà họ nhập. Hay lắm, cái bài kinh đưa ra cho họ biết hết.

Sự Tuệ Tĩnh: Cái đó nằm ở trong kinh nào? 

Trưởng lão: Nằm trong kinh tăng chi. Thật ra những cái bài kinh đó Thầy kê ra Thầy đưa ra cái số trang Thầy ghi lại để sau này người ta lấy ra người nghiên cứu người ta đọc, để biết cái chỗ mà lời dạy của Phật thì đồng thời cái chỗ mà Thầy đã giải thích. Thầy không có làm sai Phật chỗ nào hết. Nó cụ thể qua những cái bài mà Thầy trả lời. Cái giá trị của cái cuốn kinh mà tập 1 đó trước kêu con đọc đó thì nó có một bây giờ nó gấp tới mười. Nó phải tăng lên. Nghĩa là cái giá trị của nó phải tăng lên như vậy.

Sự Tuệ Tĩnh: Nhưng mà ở đây mình cũng phải photo ít cuốn hả Thầy?

(10:22)Trưởng lão: Photo phải photo chứ, 200 cuốn để gởi cho người này người kia.

Sự Tuệ Tĩnh: Vậy mình photo ở nhà hay mình gởi tiệm Thầy?

Trưởng lão: Gởi tiệm, máy Thầy photo không nổi 200 cuốn.

Sự Tuệ Tĩnh: Với lại mình photo vậy nó cũng ảnh hưởng máy?

Trưởng lão: Ảnh hưởng máy mau hư lắm con. Nó để mình sử dụng cái cần thiết, còn những cái không cần thiết thì đưa ra photo, với hơn nữa mình photo nhiều cũng giúp cho người ta có cơm ăn. Người ta làm, người ta cũng kiếm ăn mà Thầy thấy kiếm ăn không có nhiều. Một trang giấy mà nó in photo hai mặt nó lấy mình có một trăm mấy đồng. Mình photo rồi mình biết nó không có lời.

Sự Tuệ Tĩnh: Họ chấp nhận mua nhiều với máy nó lớn nó mới in vậy.

Trưởng lão: Mua nhiều với máy lớn. Cái mực đồ của nó, nếu mà nó mua cái loại mà đắt thì nó không có tiền, nêm nó mua loại mực dỏm thì nó mới có lời. Hồi kia một ống mực năm sáu trăm, thì đó làm sao có lời. Còn cái mực mà nó đổ vô nó photo là cái mực của cái túi, cái bọc nilon vậy, nó bán một túi vậy bốn năm chục, thành ra mới photo chứ thành ra mua nguyên một cái ống mực mà tụi nó mà vô máy. Năm sáu trăm, một triệu bạc thì làm sao mà nó photo làm sao nó có ăn được. Tại mực đó nó tốt, còn mực kia nó dởm hơn, nên người ta làm bọc nilon nó gói lại đó. Vậy nó mới kiếm ăn được. Bởi vậy Thầy nghĩ Thầy thương làm sao tìm cách gì giúp người ta có nghề nghiệp người ta sống người ta tìm cái nghề người ta sống. Bây giờ người nào mà thấy làm ăn được họ cũng ra họ làm.

Sự Tuệ Tĩnh: Dạ. Họ cạnh tranh đó Thầy 

Trưởng lão: Cạnh tranh đó.

Sự Tuệ Tĩnh: Thấy buôn bán đồ cũng vậy, nhiều quá!

Trưởng lão: Bởi vây coi vậy chứ, khó khăn lắm, không phải dễ đâu.

Sự Tuệ Tĩnh: Nhưng mà Thầy mấy hôm trước Thầy nói Thầy có tổ chức cái vụ cho mấy người Cư sĩ ở Thành phố bán quán cơm ở đường nào Thầy? 

(12:33)Trưởng lão: Ở đường nào mà xuống cái chỗ mà, chỗ nào mà chỗ Nhà Rồng chỗ mà Bác Hồ hồi xưa đi đó. Bến Nhà Rồng đó. Thì qua cái cầu, mình xuống một chút có cái tiệm cơm chay nó tổ chức cái tiệm cơm chay ở đó. Ở gần Bến Nhà Rồng đó. Thành ra nó tổ chức cái tiệm cơm chay ở đó nó buôn bán nó cũng đỡ. Rồi bây giờ thì nó tổ chức cái nhà máy nước khoáng thiên nhiên ở trên Bình Dương, nó xin phép đồ xong rồi, giờ nó cứ xuống nó làm, đặt ở Bình Dương. Còn nó xin làm một cái nhà máy, công ty mà để làm đĩa vi tính đó. Để mà cạnh tranh với các nhà máy vi tính khác Thấy sợ thiệt, mà nó định nó làm cái đó. Thầy nói ờ thì coi làm thì mình làm vì cái lợi ích chung chứ không vì cá nhân của mình, cái lợi ích cho người khác, mình thấy cái lợi ích đó mình làm. 

Nói chung Thầy thì cũng không làm việc gì được, nhưng mà chỉ có cái lời nói. Tụi nó là Cư sĩ nó đứng ra nó làm. Mà không biết là thành công hay là thất bại thì cũng chưa biết. Mấy tiệm cơm chay thì nó làm rồi, bán buôn thì thấy cũng đỡ rồi, còn cái nhà máy thì coi như nó đi đặt cái chỗ mà làm chai nhựa đó, để cho nước vô. Rồi lo chay lo này kia đủ thứ hết. Làm như vậy thì thu được một số nhân công, giải quyết cho nhiều người không thất nghiệp. Thôi, kệ nó, Thầy nói phải tùy duyên à. Rồi nó có mua một cái nhà để làm cái bệnh viện nữa, nhưng mà Thầy nói khoan đã, từ từ, nó định mua ở đâu đó không biết. 

Sự Tuệ Tĩnh: Chứ không phải là ngoài con hả Thầy?

(14:45)Trưởng lão: Nó không phải ngoài đó, tính ra ngoài đó là nó cất cái nhà nó ra ngoài đó ở được. Sợ ra ngoài đó rồi này kia cái khu chuyên tu ngoài đó sẽ bị động. Thì nói nó như vậy, Thầy nói thôi tùy cái phước báu tới đâu thì mấy con làm cúng dường cái việc này tới đó. Thầy bận tâm mà lo cái chuyện của mấy con thì Thầy không có nổi.

Sự Tuệ Tĩnh: Mai mốt mà con còn khỏe Thầy đi đâu Thầy ráng Thầy cho con theo.

Trưởng lão: Thì ráng ráng theo Thầy, Thầy còn mạnh khỏe đi đâu Thầy dẫn theo, ráng mà tu.

Sự Tuệ Tĩnh: Con cảm ơn Thầy!

Trưởng lão: Thầy đi ra ngoài đó chắc đệ tử Thầy đi hết đó. Ở đây đứa nào cũng muốn đi theo Thầy hết. Thầy ở đây thì nó ở, Thầy đi thì nó đi.

Sự Tuệ Tĩnh: Thôi kệ đi thì đi luôn cho nó vui, với lại mấy cô mà cổ lo cũng quen rồi đó Thầy, chớ mấy người lạ vô thì cũng khó. Còn ở đây Thầy cũng nhờ cô Út giữ lắm. Mặt ngoài người nào đáng cho gặp Thầy thì cổ cho, còn không cổ giữ lại. Chứ cho vô hết thì Thầy cũng mệt lắm.

Trưởng lão: Trời! Có nhiều lúc người nào cũng muốn vô. Thầy nói nội cái xóm đây Cô Út cổ cản nó vô. Nó không biết Thầy tu cái kiểu nào, bà con xung quanh đây không có ai mà được gặp Thầy hết là tại vì họ không phải là người tu, họ tọ mọ đi tìm kiếm rồi họ nói chuyện tầm bậy thành ra mình tiếp họ mệt lắm. Cho nên Cô Út cổ cản giữ lắm.

Sự Tuệ Tĩnh: Xóm này hả Thầy?

(16:33)Trưởng lão: Xóm này nè. Bà con ở đây coi như lớn, nhỏ, già cả, bé lớn gì cũng mong được gặp Thầy. Nhưng mà gặp Thầy để mà gặp tìm hiểu không phải tu. Họ chỉ không biết ổng tu như thế nào? Ở đây bà con ai cũng biết Thầy hết mà không biết ổng tu sao không biết, lạ lùng. 

Sự Tuệ Tĩnh: Tu làm sao mà Chùa gì đâu mà thấy nó không có giống Chùa?

Trưởng lão: À, ông không giống ai hết. Chùa người ta thì ngày rằm rầm rộ, Chùa gì không cúng bái, không tụng gì hết.

Sự Tuệ Tĩnh: Chùa cũng vắng teo, không chuông mỏ gì hết. Mấy người họ đâu có biết, mấy ngàn năm rồi bên Đại Thừa người ta làm rùm beng lên.

Trưởng lão: Quen rồi, họ thấy Thầy lạ, cái Chùa lạ lùng, cái Chùa không ra cái Chùa.

Sự Tuệ Tĩnh: Cái Chùa này là theo cái ý của Phật 

Trưởng lão: Nhà nhỏ nhỏ cất tầm bậy tầm bạ, tùm lum ở trong khu đất, không biết cái gì kì ? Họ muốn đi coi lắm. Họ muốn đi vô trong này coi lắm. Cho nên Cô Út mới làm cái cửa giữ tợn không cho vô đó, chứ còn họ đi luồn tuông. Trời họ đi, ngày nào họ cũng đi vô hết, người đi qua người đi lại họ xem. Coi coi làm cái gì, tu làm sao? Mặc dù họ ngó trong đó. Con biết hôm đó mình làm kênh trong này nè, trời ơi, họ đi theo đó mà họ vô khu này nó động. Ngày nào cũng hai ba chục người. Từ cái xóm này rồi xóm khác nó đồn nhau nó có đường nó vô, nó vô nó xâm chiếm mình, tự do bị phá đó. Nhà nước làm đó, theo đó cái nó vô. Ôi thôi! Thầy mới nói với cô Út, nói với mấy người làm kênh đó khi nào mà làm cô Út cổ lấy chà gai cổ mở ra cho làm, còn không thì để cho cổ rào lại, chứ người ta đi vô nó động quá. Mấy người Nhà nước họ thấy họ cũng đi, họ vô họ làm thì người ta cũng rần rần người ta đi, cũng như Thợ vậy mà, họ thấy vậy họ cũng tội nên họ cho. Có cái dịp vô. Nội cái học sinh không mà nó học về nó cũng ghé vô nó coi cái Chùa nó ra sao. Cái chùa Am thuở giờ không có biết, vô coi thử nó ra làm sao. Chứ Chùa người ta thì nó đi rầm đi ría. Còn Chùa này không có vô được. Nó không biết tu kiểu nào, không thấy gõ mõ tụng kinh. Mới đầu Nhà nước họ thấy mấy Chùa kia khác, Chùa này khác họ cũng nghi ngờ. Nhưng mà sau thời gian họ theo dõi họ thấy Chùa này có những người tốt, có gương hạnh tốt, mấy Chùa kia không bằng, và họ ủng hộ, chứ mới yên như thế này, chứ họ không ủng hộ thì không được yên đâu.

3- THẦY HƯỚNG DẪN TU TẬP

(19:42)Sự Tuệ Tĩnh: Như vậy con hỏi thăm Thầy một chút. Vậy hả Thầy, như vậy để con xem cái này con tu. 

Trưởng lão: Cứu không được con coi mà không kết quả thì gặp lại Thầy, để mà tu cho nó hợp với cái căn cơ, đặc tướng của mình cho có kết quả. Coi vậy chứ khó chọn đặc tướng của mình. Người trẻ thì khác người già thì khác con, chớ không phải giống nhau. Cho nên vào cái Tu viện bắt người ta tu chung chung nhau thì không có kết quả. Người ta hợp với cái này, người ta hợp với cái kia. Người đi kinh hành được, người đi kinh hành không được. Người nào cũng bắt đi kinh hành, người nào cũng bắt ngồi thì nó giống y khuôn một thứ thì chắc chắn đặc tướng người ta tu không vô. Có người làm được, có người làm không được.

Sự Tuệ Tĩnh: Như vậy, con cảm ơn Thầy. 

Trưởng lão: Cái đó là cái nguy hiểm nó không có lợi lạc gì hết. Bởi vì Đức Phật dạy, mình tỉnh để cho mình xả cái tâm chứ không phải là tỉnh để mà nó lặng. Thầy sợ cái lặng; cái đó nó lặng rồi nó mất, chứ nó không bao giờ nó lặng mà nó biết con. Nó lặng cái nó mất, còn không thì nó lặng nó sanh hỉ lạc làm mình thích, nó tạo cái ham thích (dục), cái đó mình phải bỏ con.

Sự Tuệ Tĩnh: Con cũng nghĩ nhiều điều mới lắm. Con nghĩ có thể là mình uống thuốc, một ngày mình uống tới bốn năm thứ. Bởi vậy cái thuốc luôn luôn phải uống mà không uống thì nó khó chịu.

Trưởng lão: Cái thuốc nó cũng ảnh hưởng nhưng mà nó không sao đâu. Có sức tỉnh mình rồi thì mình mượn sức tỉnh của mình đánh bạt cái đó hết. Vì cái sức tỉnh của mình nó còn yếu quá. Nhất là cái đời sống của mình nó còn bị ái kiết sử, nó còn cái duyên thế tục nó làm cho mình (không nghe rõ).

Sự Tuệ Tĩnh: Bữa hôm sau khi mà con trình pháp với sư Phước Nhẫn. Bữa Thứ 2 con ngồi độc cư, độc cư một tuần lễ, nhưng mà cái bữa đó, Sư Phước Nhẫn viết cho con cái thư để sách tấn cho con tu tập. Nếu mà con có gì sơ sót Thầy chỉ lại giùm cho con. 

(22:47)Trưởng lão: Thầy biết là khi nào mà nó quyết tâm cho dữ tợn rồi đó, quyết định đi cho tới đích của nó thì mình sống trọn vẹn độc cư, tránh duyên. Chứ còn thật ra nó gặp bạn bè này kia nó rồi, mình là con người chứ đâu phải cây đá, gặp rồi cái que quẩy đi coi sao cho được.

Sự Tuệ Tĩnh: Dạ. Bởi vậy hổm giờ con có nói với Cô Út, con không có lại đẳng nữa. Thôi mạnh ai nấy ráng lo tu thôi chứ cũng không có làm gì chỉ nói nói vậy hồi nó thành động, đem chuyện người ta thí dụ vậy đó Thầy. 

Trưởng lão: Bởi vậy biết bao nhiêu chuyện của thiên hạ.

Sự Tuệ Tĩnh: Bởi vậy con thấy nó rắc rối dữ lắm. 

Trưởng lão: Rắc rối! Cho nên hồi xưa ông Sư mà mới lên bữa đó, Sư Pháp Hưng ổng nói với Thầy chuyện trong Tu viện nó cũng phức tạp quá, (không nghe rõ), nói chuyện ở trên mây xanh, tôi cũng nói thiệt, tôi coi bộ về sớm, về đây sao mà không thanh tịnh chút nào. Mà ở đó sao mà thấy nó phức tạp quá, nếu mà mình trái với thiên hạ thì chắc là không có chỗ ở, ổng nói vậy.

Sự Tuệ Tĩnh: Bởi vậy con thấy cái đó cũng là cái trở ngại con đường tu của mình.

(24:14)Trưởng lão: (Không nghe rõ). Sách của Thầy viết ra mấy ông này động giữ lắm.

Sự Tuệ Tĩnh: Thưa Thầy cái danh từ mà Bổn sư Thích ca Mâu Ni hay là Nam mô ứng cúng chánh biến tri hà…Cái chánh biến đó, sao con nghe người ta hay tụng là Ứng cúng chánh biến tri, minh hạnh túc, phải không Thầy?

Trưởng lão: Chánh biến tri, Minh hạnh túc.

Sự Tuệ Tĩnh: Cái chữ Chánh biến tri mà ở đây nó là chánh biến rồi phẩy rồi minh hạnh túc. Cho nên cái chỗ này?

Trưởng lão: Nam mô Ứng cúng chánh biến tri, minh hạnh túc, tại đánh dấu trật. Nói chung là đánh dấu trật rồi đó. Chánh biến tri rồi minh hạnh túc. Bởi vậy nó chánh biến tri giờ nó ngắt ra tri minh rồi. Thầy nói Chánh biến tri, minh hạnh túc.

Sự Tuệ Tĩnh: Vì vậy mình đổi dấu lại hả Thầy? 

Trưởng lão: Mình bắt đầu mình đánh dấu lại. Tại cái hồi mà đánh vi tính đó.

Sự Tuệ Tĩnh: Dạ để con về con đánh dấu lại.

(26:27)Trưởng lão: Bởi vì cái đó niệm Phật, có nghĩa là từng cái chữ nghĩa đó đó, cái hạnh của Đức Phật như thế nào nó thể hiện qua cái danh xưng đó đó. Mà mình đọc cái đó để cho thân mình phải giống. Cho nên lấy thân niệm Phật - Thân, thọ, tâm, pháp mà. Rồi thọ của mình phải giống cái thọ của Phật đó, là mới niệm Phật chứ không phải niệm cái danh từ. Nếu mà niệm danh từ suông thì không có gì hết. 

Sự Tuệ Tĩnh: Chẳng hạn như hồi đó tới giờ mình không biết, mình cứ niệm Phật “Nam mô A Di Đà Phật” cái đó giờ không đúng phải không Thầy?

Trưởng lão: Cái đó không đúng con. Cách thức đó là cách thức ức chế tâm.

Sự Tuệ Tĩnh: Dạ để cho nó lắng xuống phải không Thầy?

Trưởng lão: Nó lắng chứ không phải là cách thức niệm Phật. Còn niệm Phật để tâm mình nó thanh tịnh, thì mình phải niệm cho giống Phật. Tức là mình phải hiểu được cái nghĩa. Phật nói: “Ứng cúng”, thì mình làm sao phải hiểu cái nghĩa ứng cúng này như thế nào? Đó, mình phải hiểu nghĩa. Vậy thì cái thân của mình phải làm sao cho xứng đáng với “Ứng cúng” thì gọi là niệm. Đó, như vậy mới hiểu được cái nghĩa niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới. Chứ cứ nói nam mô giới, nam mô giới hoài thì có ăn thua gì? Niệm giới có nghĩa là giới luật dạy làm sao thi  mình phải sống sao cho đúng giới luật là niệm giới, niệm tăng là gương hạnh tăng sống hòa hợp, đức hạnh thánh tăng sống như thế nào thì mình phải sống đúng mới gọi là niệm tăng. Còn niệm pháp, pháp dạy mình phải như lý tác ý, pháp đoạn pháp diệt, pháp ngăn ác diệt ác, Định niệm hơi thở, tất cả các pháp đó mình luôn mình sống, tức là theo những cái pháp đó sống thì gọi là niệm pháp chứ không phải nam mô pháp, nam mô pháp, nó không có ích lợi gì.

Sự Tuệ Tĩnh: Chứ mấy ổng hay niệm “Nam mô Phật, nam mô Pháp, nam mô Tăng” cứ niệm lại “Nam mô Phật, nam mô Pháp, nam mô Tăng”

Trưởng lão: Cứ niệm vậy đó, nó không nhằm nhò gì hết đâu.

Sự Tuệ Tĩnh: Như mình đọc vậy.

(28:23)Trưởng lão: Đọc đó, cách thức đó là cách thức ức chế, đọc để cho cái tâm nó duyên theo đó mà nó không khởi niệm, thì cái chuyện đó nó không đúng. Bởi vậy con người ta hiểu sai cái niệm Phật. Niệm tức là tâm niệm, thân niệm. Niệm của mình làm sao cho cái thân mình nó giống với Phật, với Pháp với Tăng, nó vậy đó, mà hễ nó giống được thì nó giải thoát, nó thanh tịnh chứ gì, cho nên nó gọi là bất hoại tịnh thiện pháp (Tứ bất hoại tịnh). Nó ngoài sự thanh tịnh đó nó không còn ô uế bất tịnh nữa.

Sự Tuệ Tĩnh: Thưa Thầy, thí dụ con về con định in cái cuốn số 1 này trước được không Thầy?

Trưởng lão: Được chứ! Con có duyên thì con in được.

Sự Tuệ Tĩnh: Con tính con về con khuyên mấy đứa con của con, được bao nhiêu hay bấy nhiêu. Còn bao nhiêu thì con ráng con lo, rồi tự con in ra rồi con cho bạn con. Cho coi cái quyển thứ nhất trước. Rồi sau đó ai muốn in sẽ bỏ tiền ra.  

Trưởng lão: Thí dụ như con bây giờ con in được 20 con cho 20, mà 30 con cho 30. Rồi ai muốn nữa thì góp nhau. Tùy theo khả năng của mình, bởi nghe nói bên đó mắc lắm.

Sự Tuệ Tĩnh: Chắc con in khoảng chừng 100. Hình như cái này nó khoảng chừng 8 đô. Bởi vì hôm trước con có in một quyển cũng giống này có tên là “Con đường hạnh phúc”

Trưởng lão: (30:02 Thầy chỉ Phật tử lấy đồ dùng trong nhà kho.)

4- THẦY SOẠN THẢO BỘ SÁCH ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT

(30:36) Cái cuốn này hôm đầu Thầy viết thì nó đơn sơ thôi. Rồi Thầy giao tài liệu, cái bản thảo cho tụi nó mấy đứa học sinh nó ráp. Con của Tâm Như nè...Còn cái này Thầy nhuận lại, Thầy mới nhuận lại nè. Thầy với Chú Nhu đó, chú đánh Thầy nhuận lại, Thầy nhuận lại chú đánh.

Sự Tuệ Tĩnh: Có thêm không thưa Thầy?

Trưởng lão: Không có thêm cái gì hết nhưng mà có bỏ ra một đoạn quá dài. Tức là nó còn chuyển qua cuốn 2 đó. Còn cái này coi như là Thầy chỉ thêm cho nó rõ cái câu hỏi của người ta cho rõ thôi. Hồi đó Thầy chỉ trao cái bài pháp để cho người ở đây người ta tu.

Sự Tuệ Tĩnh: Như vậy mình phải ráng giữ cái bản này.

Trưởng lão: Bản này là bản gốc rồi. Còn kia coi như là những cái bản thảo, nó chưa có hoàn chỉnh, nhưng mà vì người ta thấy nó hay quá, người ta vội vàng đốc thúc Thầy  cho nó đánh vi tính đặng nó in ra phát cho người một cuốn đọc. Cho nên Thầy cho chứ Thầy nói đây là bản thảo, mới soạn thảo, chưa có chỉnh, Như bây giờ Thầy chỉnh, coi như là Thầy chỉnh hoàn tất cái cuốn nào ra cuốn nấy. Thí dụ như cuốn này với Cuốn 8 hoàn tất rồi đó. Còn cuốn 2, cuốn 3 sắp sửa Thầy chỉnh lại.

Sự Tuệ Tĩnh: Thầy đang viết?

Trưởng lão: Thầy đang soạn thảo cái đạo đức nhân quả. Cái phần đạo đức. Sau khi cái phần đạo đức nhân quả này cho nó ra cái phần đầu của nó thì Thầy dừng lại. Tiếp tục Thầy dựng lại cuốn 2 cuốn 3, rồi cuốn 7, Thầy coi lại cuốn 4, cuốn 5, cuốn 6. Thầy chỉnh lại cho hết, thì nó còn dư phần nào Thầy đưa qua cuốn 9 cuốn 10 cho nó toàn bộ là 10 tập.

Sự Tuệ Tĩnh: Dạ. Như cái mình in ra rồi để coi thôi phải không Thầy?

Trưởng lão: Để coi con.

Sự Tuệ Tĩnh: Chứ còn xuất bản ra thì chưa?

Trưởng lão: Chưa xuất bản. Như thế này là hoàn tất rồi đó con, không sửa nữa.

Sự Tuệ Tĩnh: Hoàn tất rồi để con về con in, con nguyện con sẽ in phần này, mấy con của con cho được bao nhiêu thì con hùn vô, còn mấy tụi con lo.

(32:44)Trưởng lão: Với cái phần này là cái phần chuyên tu, còn cái phần này là phần đạo đức chung. Tại vì khi mà Thầy soạn thảo cái này sau này coi như là in bắt đầu photo cả ngàn tập. Thầy phát hết đó. Thầy phát cho dân sự, cho mỗi người đọc để biết đạo đức này.

5- THẦY VIẾT SÁCH ĐẠO ĐỨC GIÁO ÁN RÈN NHÂN CÁCH 

Sự Tuệ Tĩnh: Giờ in không được thì mình cứ photo thôi hả Thầy?

Trưởng lão: Photo ra rồi phát con, bởi vì dạy đạo đức không có ảnh hưởng gì, Nhà nước người ta không cấm mình, mình không có bán.

Sự Tuệ Tĩnh: Cái này mình gửi in chắc cũng được hả Thầy?

Trưởng lão: Gởi in cũng được con. 

Sự Tuệ Tĩnh: Vậy mình xin phép để cho người ta cho nguyên hết, trọn vẹn hết.

Trưởng lão: Thầy tính ra giờ mình chỉ photo một phần mình gửi cho bà con, những người nào gần gần để biết cái đạo đức cái đã. Sau khi nó, chừng 4 tập hay 5 tập này mình góp lại, một tập dày như vầy mình mới xin phép một lần. Cái mình in ra một tập dày nó đủ cái đức về lòng thương yêu của mình, về cái đức hạnh mà đặt cái lòng thương yêu đó cho nó đúng cách để nó trở thành cái đạo đức của con người, nó không làm khổ mình khổ người. Vì cái mục đích của Thầy. Thầy biết rằng con người hay là con thú vật, con nào nó cũng có tình thương. Nhưng mà tình thương nó đặt sai hướng nó trở thành ác pháp. Nó đặt sai hướng. Thí dụ như: Một người cha thương con mà đặt sai hướng, thương nó cái thấy nó bỏ học nó đi chơi cái rầy mắng nó, tức là nó vừa làm khổ ông cha chửi mắng nó, tức là mình tức nó không nghe lời nó đi chơi đó. Tức là ngay đó đặt tình thương nó trật chỗ cho nên nó vừa làm khổ mình khổ người. Khi nó bị rầy thì nó cũng buồn khổ, chứ đâu có sung sướng gì, cho nên mình phải dạy như thế nào để cho mình không khổ mà nó không khổ, mà nó trở thành con người có đạo đức. Đó là mục đích của mình. Cho nên khi mà dạy về tình thương thì đầu tiên Thầy nói tổng quát về tình thương, sau đó đặt tình thương cho đúng hướng, đặt tình thương sai hướng rồi đặt tình thương cho đúng hướng, rồi bổn phận người cha đặt tình thương với con; rồi bổn phận người con đặt tình thương đối với cha mẹ. Đó những cái bài như vậy Thầy dạy đạo đức kỹ lắm đó.

Sự Tuệ Tĩnh: Cái đó dài lắm phải không Thầy?

(34:53) Trưởng lão: Dài lắm đó. Bởi vì mỗi bài nó nói rất rõ mà, nó đặt ở trên cái lộ trình của nhân quả, mà con biết cái lộ trình nhân quả là lời nói của mình, cái suy nghĩ của mình, cái hành động của mình - 3 chỗ thân, miệng, ý mà. Đặt đúng cái chỗ đó thì nó đem lại sự hạnh phúc cho mình, không làm khổ mình khổ người. Mà đặt cái tình thương sai nó trở thành ác pháp nó sẽ làm khổ mình. Đó là cái đạo đức con người - Đạo đức nhân bản. Bởi vì nhân bản là con người. Nó là động vật sinh ra từ một cái đóng rác, từ cái môi trường sống, Thầy cho nó là cái đóng rác. Nó  mang ở trên nó cái tình thương chứ nó không mang ác pháp đâu. Nhưng mà cái tình thương của nó, nó đặt sai nó thành ác pháp. Cho nên nó toàn ở trong thiện pháp chứ không phải ác pháp, bởi vì con thấy như lá cây nó thành đóng rác nó có ác ở đâu, như cục đất nó đâu có ác đâu, mình đá nó coi nó có la có chửi mình đâu. Mình có đổ đồ dơ nó cũng đâu có buồn, mình có đổ vàng nó cũng đâu có mừng. Phải không? Nó toàn là thiện mà. Nhưng mà đặt sai thì nó trở thành nguy hiểm vô cùng. Con thấy không? Bởi vì cái đống đất đó mà đặt sai coi chừng nó sụp lổ mình đó, có phải không? Mình đặt sai chứ nó đâu có sai. 

(36:07) Đó, bởi vì cái tình thương - cái đạo đức của con người là cái hành động nhân quả, mà hành động nhận quả đặt đúng thì nó hạnh phúc cho mình, nó lợi mình lợi người; không làm khổ mình khổ người - Gọi là đạo đức nhân bản. Đạo đức của một cái loài động vật mà động vật nào nó cũng có cái đạo đức này. Con thấy con chó nó cũng biết thương con nó chứ, nhưng mà nó đặt tình thương sai, khi có món ăn rồi nhiều khi nó cắn con nó. Nhiều khi con thấy như một con rắn là cái loài vật nó sanh con ra nó thương, nhưng mà nó đói cái nó ăn, có phải không? Nó đặt tình thương sai. Nó thương con nó chứ, phải không? Nhưng đói quá nó thương nó thành ra nó làm thịt con nó. Có đúng không? Chứ đâu phải nó không thương, chứ không thương làm sao nó đẻ, thương nó mới nuôi nó, nhưng mà hổi nó đói quá nó không có còn biết, thành ra nó đặt thành nó hơn hết. Còn con người mình không vậy. Nhưng mà đặt mình quá nhiều gọi là chấp ngã đó, thì mọi cái nó huân vào mình mà mình làm hại bao nhiêu người khổ, đúng không, Thầy nói đúng không? 

Nó thực tế và nó cụ thể, cho nên chúng ta đặt tình thương sai mà trở thành vô đạo đức cho nên Thầy nói đạo đức về lòng thương. Người nào có đạo đức về lòng thương thì không có đặt sai, còn người nào không có đạo đức thì đặt sai tình thương. Do đó các con phải đặt đúng. Vậy mà ngồi viết lại những cái này nó mệt.

Sự Tuệ Tĩnh: Dạ! Phải suy nghĩ. 

Trưởng lão: Tại vì phải viết cho người ta đọc để hiểu được nó cũng không phải dễ. Cho nên mình phải làm việc hết sức. Cho nên Thầy ngồi Thầy làm việc một hơi nó mệt, thôi đi nằm nghỉ. Nghỉ rồi cho nó khỏe đặng thư giản cho nó khỏe cái đầu mới làm việc nữa.

(37:50) Sự Tuệ Tĩnh: Hổm rày Thầy thấy đỡ hơn không trong người Thầy? Tụi con cũng lo theo dõi cái tình trạng sức khỏe của Thầy?

Trưởng lão: Con người cũng khỏe không sao. Nói chung là nếu Thầy  mà còn khỏe Thầy viết xong cái bộ đạo đức này. Thầy nói thế gian này có một cái đường đi, có một cái đạo đức. Thầy nói con hiểu, Thầy viết đạo đức là đạo đức, tại vì đạo đức nhân bản, đạo đức của con người. Con người phải có đạo đức chứ đừng nói con người vô đạo đức. Tại vì người ta không hiểu, người ta đặt (tình thương sai chỗ). Cũng như cái người ăn trộm nó cũng có tình thương chứ không phải là nó không có tình thương, phải không? Nó thương vợ, thương con nó mới lấy của người ta nó nuôi (vợ con) nó chứ, rồi nó giết người ta đặng nó mới nuôi nó chứ. Nhưng mà nó thương nó đặt không đúng cho nên nó làm thành tội ác. Bây giờ nó đi ở tù hoặc tử hình đó là cái đặt sai, nó làm cho nó khổ mà nó không biết. Còn bây giờ Thầy dạy cho nó đặt cho đúng thì nó trở thành người có đạo đức, thì nó không đặt sai nữa. Đó là cách thức như vậy đó, mà từ lâu tới giờ Thầy biết là ông Phật ổng dạy cái này hay quá mà mình không có triển khai được là sợ đụng chạm chứ còn cách đây mười mấy hai chục năm mà Thầy triển khai bây giờ Thầy hoàn tất rồi. Thầy sợ nói ra đụng mấy ông Đại Thừa, Thiền Đông Độ, đụng các tôn giáo rồi nó phiền phức.

6- ĐẶT TÌNH THƯƠNG ĐÚNG CÁCH

Sự Tuệ Tĩnh: Giờ Thầy lớn tuổi rồi Thầy sợ không có còn nói kịp nữa phải không, thưa Thầy? 

Trưởng lão: Không còn nói kịp nữa cho nên thôi, (giờ) viết. Thì mấy cái này, mấy cuốn sách này là mấy cuốn sách đó Thầy phá (sách tác giả khác), để đưa cái này ra, cái đạo đức ra. Nếu mà không phá họ thì đưa đạo đức ra không nhằm nhò gì hết. Bởi vì người ta cứ nhìn đó là đúng. Mình nói không có thế giới siêu hình mà cứ nói có thế giới siêu hình, không có phật tánh mà cứ nói có phật tánh, thì người ta cứ tin mà không có người nào nói cái đó đâu, nó trật, thì họ phải tin chứ sao. Cho nên phải cho họ biết mấy cái đó không có đúng để rồi bắt đầu cái này đúng. Cái tình thương của chúng ta phải thực hiện nó đúng hướng đừng đặt nó sai hướng thì nó sẽ đem đến cho chúng ta giải thoát chứ không phải cái kia giải thoát đâu. Bằng chứng mấy người kiến tánh rồi mấy người có giải thoát được không? Tâm thì còn tham, sân, si mà. Còn tình thương tui đặt đúng chỗ tui đâu có tham, sân, si. Tui đâu có giận ai thì tui giải thoát.

Sự Tuệ Tĩnh: Cái không còn tham sân si nó dẫn đi tới?

(40:09) Trưởng lão: Nó dẫn đi tới cái chỗ mà giải thoát. Rồi từ đó thiền định mình sẽ nói sau. Mở đầu cho nó một cái chương trình người ta tu là người ta xây dựng cái đạo đức. Đạo đức xong rồi bắt đầu bây giờ mấy ông thanh tịnh tâm mấy ông rồi. Rồi bây giờ mấy ông sống mặc dù cái thanh tịnh tâm nó chưa đạt được nhưng mà có một số người người ta biết được người ta thấy người ta không làm khổ mình, khổ người thì tự cái tâm nó thanh tịnh; thì những người này người ta hướng dẫn vô thiền định; thì người ta dẫn dắt nó (dễ dàng). Còn bây giờ người nào cũng như người nào tham sân si nó còn cả lố, cả đống mà bây giờ bắt họ vô (thiền định) thì sao cho được.

Sự Tuệ Tĩnh: Bởi vậy con thấy còn trẻ đó thì dễ tu quá, như già như tụi con thì thấy khó quá.

Trưởng lão: Cực lắm. Nếu mà cái này mà từ cái ngày mình còn trẻ, còn khỏe mình có đạo đức, được cha mẹ uốn nắn mình trong cái khuôn đạo đức này rồi. Thì tới bây giờ mình tu nó dễ quá. Bây giờ cái tâm mình nó thanh tịnh, không giận hờn phiền não ai hết, tâm như cục đất rồi thì bắt đầu bây giờ chỉ còn hướng tâm vô định chứ có gì.

Sự Tuệ Tĩnh: Còn hồi đó tới giờ mình huân vô những cái gì đâu, thắc mắc đủ điều, rối rắm đủ thứ.

Trưởng lão: Nó huân thêm một cái khối kêu là một cái khối khổ

Sự Tuệ Tĩnh: Bây giờ ngồi lại thì thấy mấy cái đó nó hiện lên không. Với con cũng cầu xin Thầy, nếu mà con có cái gì sai trái nhờ Thầy.

Trưởng lão: Không có sao đâu, Thầy rất thương mấy con là bởi vì tuổi già Thầy thông cảm cái nỗi già. Thầy biết cái nỗi mấy con có gia đình, còn Thầy từ nhỏ tới lớn không có gia đình. Mà Thầy biết được là cái phước của Thầy rất lớn không có người phụ nữ nào cám dỗ được Thầy. Con biết Thầy đi dạy học nè, hồi đó Thầy ở Trường Bồ Đề mà; ở Chùa Giác Ngộ; ở Ấn Quang - cái gốc Phật giáo mà. Cho nên Thầy đi dạy học nè. Rồi Thầy đi làm ra tiền. Thầy không có ăn của Đàn Na Thí Chủ đâu. Họ cúng dường Thầy dữ lắm nhưng mà Thầy làm ra, lấy cái sức của mình làm ra mà. Cho nên Thầy đi học Thầy làm ra, do đó làm sao không có người phụ nữ cám dỗ, Thật tử ở Thành phố con biết dữ lắm. Họ nuôi Thầy cũng như là chim vậy. Nhưng mà cám dỗ Thầy không được là tại vì Thầy đã nhìn thấy được cái sự đau khổ của nhiều cặp vợ chồng, cha mẹ Thầy, rồi anh em Thầy, rồi dòng họ của Thầy, những người có đôi bạn này kia Thầy thấy, họ quá khổ!

Sự Tuệ Tĩnh: Hạnh phúc cũng có mà ít. 

(42:28) Trưởng lão: Nó ít, nó chỉ an ủi cho họ sống ở trong cái cuộc sống khổ chứ không phải là hạnh phúc thật. Vừa thấy họ cười đó, cái rồi họ chửi lộn. Thành ra Thầy tuy thấy cái người phụ nữ, nó nói chuyện, có duyên có này kia nó ngọt ngào. Thầy nói nó ngọt bây giờ chứ mai mốt nó chửi mày. Nó thay đổi, chứ không dễ đâu. À bây giờ mình có cái địa vị như thế này. Mình đi dạy học đồ thì nó ngọt ngào mai mốt thành thằng nông dân làm không ra tiền nó chửi mình như gì chứ đừng nói, cái mặt nó đẹp chừng nào thì nó hung dữ chừng nấy. Bởi vì cái tầm nhìn của Thầy hồi lúc còn nhỏ nó đã nhìn như vậy rồi. Cho nên Thầy thường thường Thầy dạy mấy Thầy nhìn phụ nữ như con rắn độc đừng có thấy nó đẹp, nó thu hút nó cám dỗ mình, cái nhớt của nó độc lắm. Nó đi nó còn lưu lại cái nhớt nó làm cho đầu mình nó khó yên, Thầy nhờ như vậy mà Thầy vượt qua. Chứ hồi đó Thầy sống bên Hòa thượng Thiện Hòa. Rồi sau đó Hòa thượng Thanh Từ thành ra những gương hạnh mấy người đó là những gương hạnh tu hành, mặc dù họ tu không đúng pháp nhưng mà họ là những người gương hạnh lắm. Sống gần mấy bậc đó thì mới chịu ảnh hưởng.

7- THẦY KỂ VỀ CÁC BẬC HÒA THƯỢNG

Sự Tuệ Tĩnh: Thầy Thiện Hòa là Thầy Hòa thượng Thanh Từ là thầy trò?

Trưởng lão: Bạn bè chứ không phải Thầy. Thầy Thiện Hoa mới là Thầy của Thầy Thanh Từ. Nhưng Hòa Thượng Thiện Hòa bạn bè với Hòa Thượng Thiện Hoa. Hòa thượng Thích Thanh Từ coi như là cháu thôi, cháu của Hòa Thượng Thiện Hòa. Kêu coi như kêu Hòa Thượng Thiện Hòa là bằng Sư Thúc hay Sư Bá gì đó. Hai người này đồng học với nhau. Hòa thượng Thiện Hòa với Hòa Thượng Thiện Hoa đồng học với nhau ngoài Huế. Rồi sau đó Hòa Thượng Thích Thanh Từ dạy Thiền, Hòa Thượng Thiện Hòa tu Tịnh độ và làm Phật sự thôi. Hòa Thượng Thiện Hòa làm Phó Tăng Thống. Còn Hòa Thượng Thiện Hoa về làm Giám học, Viện trưởng Viện Hóa Đạo của Phật giáo Việt Nam. Rồi dẫn một số học trò về Ấn Quang ở, trong đó có Hòa Thượng Thích Thanh Từ, đào tạo Quý Hòa Thượng sau này thành Sứ giả Như Lai đó. Thành ra Hòa Thượng Thanh Từ cũng là một người đào tạo giảng sư đó. Nhưng mà Hòa Thượng hồi đó giảng không bằng Hòa Thượng  Huyền Vi, Hòa Thượng Huyền Vi ở bên Pháp đó, giảng không bằng nhưng mà sau đó Hòa thượng đi tu học rồi khai triển được Thiền Tông thành ra nói làm nổi bật hơn Hòa Thượng Huyền Vi, Hòa Thượng Huyền Vi dẫm đi dẫm lại cái lối mòn không triển khai.

HẾT BĂNG

Pháp Âm - 2000 - TU TẬP GIẢI THOÁT

2000 - TU TẬP GIẢI THOÁT 01 - TẬP SỐNG VỚI TÂM VÔ SỰ

TU TẬP GIẢI THOÁT 01 - TẬP SỐNG VỚI TÂM VÔ SỰ

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sĩ

Ngày giảng: 2000

Thời lượng: [1:24:52]

Tên cũ: 2000-Tu tập giải thoát 1 

1- NGHIỆM XÉT LẠI CÁCH TU TẬP

Trưởng lão: Hôm nay Thầy dạy cho mấy con cách thức mà tu tập cho nó đúng cách. Tại vì trong cái vấn đề tu tập thường thường là chúng ta tu sơ sót một ít thì nó bị ức chế tâm. Cái sơ sót đó là ví dụ như chúng ta ráng quá thì nó sai. Tại vì các con nhớ kỹ là khi tu tập là phải thấy được cái sự giải thoát ngay liền, nó làm cho thân tâm nó thanh thản, an lạc và nó vô sự.

Nó thanh thản như thế nào? Nó an lạc như thế nào? Nó an lạc là cái thân nó không có bị mệt nhọc, nó không có khó chịu. Mà cái tâm thì nó an lạc, nó làm cho cái tâm nó thanh thản, nó làm cho chúng ta nó không có nghĩ cái này, nghĩ cái kia cái nọ, tức là nó thanh thản. Còn nó an lạc cái thân nó an ổn, nó không có bị một cái chướng ngại gì hết hoàn toàn gọi là nó an lạc.

(1:01) Vậy thì khi mà chúng ta tu, chúng ta thấy là mình tu tập nương vào cái pháp của Phật thì nó phải có sự an lạc. Mà nó có sự an lạc thì chắc chắn quý con thấy như bình thường hiện giờ mình xét cái thân của mình, mình bình thường, mình đang sống như thế này, sống trước mọi người, mình thấy cái thân mình có an lạc không? Mình xem lại thì rõ ràng mình thấy cái thân nó không có đau nhức cái chỗ này, hoặc chỗ kia, hoặc nó mỏi mệt hoặc nó lừ đừ thì tức là cái thân nó an lạc, còn nó lừ đừ nó buồn ngủ thì làm sao nó an lạc được. Nó an lạc gì mà nó cứ gục tới, gục lui. Thì như vậy do chỗ nào mà chúng ta tu sai cái chỗ này? Đó mấy con xét.

Mà nó thanh thản, nó an lạc, nó không có bị hôn trầm, thùy miên hoặc là nó mỏi mệt, nó làm cho mình khổ sở thì cái đó mới gọi là tu theo đạo Phật. Bởi vì cái pháp tu nó không làm cho chúng ta khổ cái chỗ nào hết mà phải giải thoát.

Cho nên đức Phật nói: "Pháp của ta đến không có thời gian", nghĩa là mình tu tập nó không có thời gian để mà tìm nó một ngày nào đó nó mới giải thoát, mà ngay khi mà tu tập là nó có giải thoát. Vậy thì bây giờ tâm mình nó không sân, nó không tham, nó không có gì hết thì nó giải thoát chứ gì; thân mình nó không đau, không nhức là nó giải thoát chứ gì; tức là nó thanh thản, an lạc chứ gì, mình cứ nghiệm xét đi.

Rồi bắt đầu bây giờ mình tu tập, mình đứng lên, ngồi xuống nghe nó mệt nhọc, nghe nặng nhọc. Thầy bảo mình tu, thí dụ năm hơi thở đứng dậy đi kinh hành mà nó thoải mái, nó dễ chịu thì mình tu. Mà bây giờ nó không thoải mái, dễ chịu thì mình tu ít trở lại. Thay vì mình tu chừng năm hơi thở đi kinh hành một vòng, nó đâu có cái gì mà nó làm cho mình mệt nhọc đâu. Mà hai lần nó chưa mệt nhọc, mà ba lần chưa mệt nhọc, mà năm lần mệt nhọc tức là nghỉ. Nghĩa là chướng ngại rồi, nghe nó khó chịu, nó mệt nhọc, nó cực khổ quá! Do đó thì mình nghỉ, phải không? Một chút nữa rồi mình tu lại thì tức là mình có giải thoát chứ mình đâu có gì mà làm cho nó không giải thoát đâu.

(2:58) Còn bây giờ thí dụ như nghe Thầy nói tu từ mười phút đến ba mươi phút, cố gắng, cố gắng tu mười phút được rồi, bây giờ ráng cho tới ba mươi phút nghe nó mệt nhọc quá mà cũng ráng cho được ba mươi phút, đặng cho chiếm cái giờ của mình làm cho đúng. Chứ sự thật ra tu là phải giải thoát, chứ không phải chiếm cái giờ tu cho có cái giờ. Mà tu phải tìm thấy từng giây, từng phút trong sự giải thoát đó mới đúng.

Cho nên người ta tu người ta thấy nó nhẹ nhàng, nó thanh thản, càng tu càng thích, càng tu càng thấy nó tiến bộ. Tiến bộ ở chỗ nào? Không phải chúng ta ngồi nhiều mà tiến bộ, mà tiến bộ ở chỗ là chúng ta thấy cái tâm nó thanh thản, an lạc, vô sự. Đó là cái chỗ hàng ngày thấy tu tập mà nó thích thú, nó làm cho chúng ta vui, nó làm cho chúng ta thích một mình, không có duyên ra cảnh. Còn mình thấy mệt nhọc, buồn bã, buồn ngủ này kia đủ thử hết là tại vì mình quá sức.

Thí dụ như bây giờ Thầy đứng, Thầy ngồi xuống năm hơi thở đứng dậy đi kinh hành một vòng, Thầy thấy bây giờ thấy nó an ổn, mình thấy mình nhiếp tâm được, nó không có một cái niệm gì nó xảy ra trong đầu của mình hết, mình thấy hoàn toàn là vô sự. Do đó, Thầy ngồi xuống Thầy hướng dẫn thân tâm của mình tu năm hơi thở nữa, rồi đứng dậy rồi đi kinh hành, rồi Thầy ngồi xuống Thầy thấy nó cũng thoải mái, Thầy tiếp tục Thầy ngồi xuống, mà nó không thoải mái thì nhất định là nghỉ. Bởi vì nó không thoải mái tức là nó ức chế rồi.

Cho nên mình xét cái tu tập của đạo Phật. Thầy đã nêu lên mấy cái chữ: "Thanh thản""An lạc" và "Vô sự", thì luôn luôn lúc nào chúng ta tu cũng phải thanh thản, an lạc và vô sự, nếu không thanh thản, an lạc, vô sự là sai, nó có một cái trạng thái gì là nó sai. Thí dụ như bây giờ trong khi cái giờ chúng ta tu, bắt đầu mình tu từ 7 giờ cho đến 10 giờ, mà bây giờ tu từ 7 giờ cho đến tám giờ. Cái khoảng thời gian từ 7 giờ đến 8 giờ thì trong khi 30 phút đầu chúng ta tu thấy tốt, 30 phút sau nghe nó mệt nhọc nó, nó bết thì chúng ta ngồi nghỉ, chúng ta xả nghỉ đừng tu tập nữa, phải không? Chúng ta ngồi nghỉ, chúng ta xả, chúng ta ngồi chơi.

2- BA CÁCH THỨC ĐỐI TRỊ HÔN TRẦM

(05:11) Bây giờ ngồi chơi xả nó buồn ngủ thì chúng ta đi kinh hành, đi tới đi lui, đi với một người mà đi vô sự, chứ không phải mà đi ở trong cái phương pháp để tập trung cho nó mệt nhọc nữa, đi để cho nó động thân đừng có để cho nó ngủ. Vì vậy mà mình đi tới đi lui, đi vòng vòng chơi vậy thôi, đi với một người vô sự. Mà giờ nó mỏi chân quá, đã mỏi chân tức là nó có chướng ngại pháp rồi, nó không thanh thản, nó không an lạc rồi, do đó mình ngồi lại.

Khi mà mình ngồi lại thì lúc bây giờ, nếu mà mình trong khi 7 giờ đến 8 giờ mà 30 phút đầu thì rất tốt, 30 phút sau, ví dụ 30 phút sau nó bị hôn trầm, nó bị buồn ngủ mình đi kinh hành. Rồi bắt đầu mình ngồi xuống năm hơi thở, rồi mình sử dụng cái hơi thở hít vô chậm chậm, nhẹ nhẹ, nhẹ nhẹ để cho phá cái hôn trầm. Thì Thầy nghĩ rằng những cái phương pháp mà mình có thể mình phá hôn trầm trong lúc bị buồn ngủ đó, thì có thể mình sử dụng từ năm hơi thở đi kinh hành, mà thấy nó mệt nhọc, nó cực, do đó thì mình lại sử dụng mình ngồi mình hít thở, hít một hơi thở chậm chậm chậm chậm rồi thở ra chậm chậm chậm chậm, rồi thở lại năm hơi thở bình thường, rồi hít vô một hơi thở chậm chậm rồi thở ra chậm chậm. Và cứ năm hơi thở thì một hơi thở chậm nhẹ như vậy và cuối cùng thì nó hết hôn trầm, nó không buồn ngủ nữa.

Mà nó không buồn ngủ nữa thì chúng ta tươi tỉnh và chúng ta sẽ nghe an lạc, an lạc rõ ràng. Còn nếu mà nó còn buồn ngủ thì chúng ta sẽ không an lạc. Cho nên cách thức Thầy dạy năm hơi thở đi kinh hành hai mươi bước rồi ngồi lại năm hơi thở, đó cũng là cái mục đích tập luyện để phá cái buồn ngủ hôn trầm, phá cái lười biếng, dã dượi của mình. Cái hơi thở mà để tập trung gom cái tâm lại, để làm cho cái tâm nó không bị phóng dật và cũng là cái phương pháp cũng phá hôn trầm.

Bắt đầu mình bị hôn trầm rồi, mình hít chậm chậm chậm chậm, hít thật chậm, hít thật sâu, chậm, rồi bắt đầu thở ra cũng chậm, thật chậm rồi cho hết hơi thở ra thì bắt bắt đầu thở lại hơi thở bình thường. Chứ không được tiếp tục hai hơi thở như vậy. Tại sao? Tại vì tiếp tục hai hơi thở như vậy thì chúng ta rất khó chịu. Do đó, chúng ta chỉ thở một hơi thở gom tâm cho chặt, rồi bắt đầu thở lại năm hơi thở bình thường. Năm hơi thở bình thường rồi chúng ta lại thở một hơi thở chậm nhẹ như vậy nữa và cứ như vậy mãi một hơi thì nó hết hôn trầm, nó hết hôn trầm, nó không còn buồn ngủ nữa. Đó như vậy, đó là cách thức chúng ta ngồi để mà hít thở để mà phá hôn trầm.

(07:37) Còn cách thức kia, năm hơi thở đi kinh hành, mà nó nhiều cái oai nghi ngồi, đi, đứng để mà phá hôn trầm. Đó là hai cách phá hôn trầm. Và cách mà thứ ba để mà phá hôn trầm đó là chúng ta đi kinh hành, đi vòng vòng, vòng vòng như thế này, đó là sẽ phá hôn trầm.

Cách thứ nhất: Năm hơi thở đi kinh hành là phá hôn trầm đang bị hôn trầm.

Cách thứ hai: Là phá hôn trầm, tức là thở hơi thở chậm và nhẹ này một hơi thở, rồi năm hơi thở, rồi một hơi thở, rồi năm hơi thở. Là cách thứ hai này cũng phá đang bị hôn trầm.

Cách thứ ba: Là cách ngăn ngừa hôn trầm là đi kinh hành. Chúng ta biết cái giờ đó là chúng ta sắp bị hôn trầm, chúng ta đi kinh hành, chúng ta không ngồi thì hôn trầm sẽ không tới.

Đó cái cách thức, cái phương pháp mà đi kinh hành để mà phá hôn trầm, chúng ta có ba cái phương pháp để mà chúng ta phá. Thì cái phương pháp mà đi kinh hành vòng vòng, đi kinh hành mà vòng vòng, đi nhẹ nhàng như người vô sự đó, đi mà vừa thanh thản, thì lúc bấy giờ đó là cái phương pháp ngăn, ngăn ngừa hôn trầm. Còn hai cái phương pháp kia là đối trị hôn trầm, đang bị hôn trầm dùng nó để đối trị, thì nhớ kỹ như vậy.

3- THIỆN XẢO TRONG TU TẬP

(08:48) Do trên sự tu tập mà chúng ta lưu ý, nếu mà chúng ta tu căng quá, tu thẳng quá thì tức là chúng ta sẽ bị hôn trầm; sống độc cư quá thì chúng ta sẽ bị tuôn trào. Cho nên khi độc cư thì chúng ta cũng biết khéo léo sử dụng là cái giờ này chúng ta sống cố gắng phòng hộ mình, thì cái giờ sau chúng ta đi kinh hành hay hoặc là chúng ta lao tác, nhổ cỏ hoặc là quét sân hoặc làm cái gì đó để cho nó thoải mái, nó dễ chịu hơn là chúng ta ngồi không. Vì chúng ta ngồi không, thì chúng ta chịu không nổi sự tuôn trào đâu, chúng ta làm công việc gì nhẹ nhàng.

(09:28) Sau khi cái tâm nó chịu độc cư rồi, thì hoàn toàn lúc bây giờ nó không cần mà chúng ta lao động đâu, nghĩa là nó không có thích lao động, nó hoàn toàn nó vô sự. Còn bây giờ tâm chúng ta nó cô đơn nó chịu không được, cho nên nó thích lao động. Vì vậy mà chúng ta theo, tùy theo cái sở thích đó mà buông dần nhẹ để hướng dẫn nó dần đi vào cái chỗ độc cư.

Vì vậy khi mà chúng ta nghĩ rằng mình bị hôn trầm, thùy miên, vô ký hay bị loạn tưởng, bị cô đơn, rồi chúng ta đi kinh hành một cái vòng rộng. Thì vòng rộng tức là dễ cho cái tâm của chúng ta bị phóng dật ra, thấy hình ảnh này, hình ảnh khác nó dễ phóng dật. Cho nên chúng ta đi trong cái vòng hẹp, đi vòng vòng thất của mình thôi, đi vòng vòng sân của mình thôi, không được đi ra. Còn bây giờ nếu mà trong khi đó chúng ta không chịu đi, thì chúng ta sẽ ở trong thất đóng cửa thì chúng ta sẽ bị hôn trầm.

Cho nên chúng ta thường thường cái người tu, chúng ta đi ở trong cái vòng hẹp, nhưng mà cái vòng hẹp đó không có nghĩa là chúng ta đi trong cái phòng nhà của mình, mà phải đi ra ngoài sân cho nó thoải mái. Nhưng không được đi trên cái vòng rộng quá. Vì đi vòng rộng quá mắt chúng ta không phòng hộ, thì khi mà gặp cảnh, gặp đối tượng thì tâm nó sẽ bị phóng dật. Nó phóng dật thì tức là nó sẽ ghi vào trong đầu chúng ta, khi trở về thất ngồi lại thì những cái hình ảnh sai trái, đúng phải mà các tu sĩ khác đang tu, họ gieo vào ở trong cái đầu óc của chúng ta làm cho chúng ta bị động. Cho nên những cái này chúng ta nên đề phòng và cẩn thận.

Khi không tu tập, mà đã tu tập thì nhất định phải tu tập một tháng thứ nhất không thành tựu thì tháng thứ bảy phải thành tựu. Như đức Phật đã nói: "Bảy ngày, bảy tháng, bảy năm". Mà bây giờ mình cho rằng mình tu tháng thứ nhất, chứ mình không dám chắc mình tu trong bảy ngày mà thành tựu được, mình cho tháng thứ nhất. Mà tháng thứ nhất, nhất định là quyết tu cho đúng đừng để sai, thì tháng thứ nhất chúng ta sẽ thành công, tức là chúng ta sẽ nhập Tứ Thiền và thực hiện Tam Minh. Mà nếu chưa được thì tới tháng thứ bảy chúng ta phải xong.

Nghĩa là hoàn toàn trong bảy tháng mà chúng ta nỗ lực tu tập thực sự. Đừng có để mà phá độc cư, luôn luôn lúc nào cũng phòng hộ mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý và lúc nào tu cũng thấy thanh thản, an lạc, vô sự. Đừng có để cho nó bị hôn trầm, thùy miên, gục tới gục lui. Rồi tâm trạo cử đến cái mức độ không có chịu nổi, nó luận thế này, nó luận thế khác, không có chịu nổi. Thì nó sẽ đánh chúng ta sẽ bứt đi, nó đánh chúng ta sẽ bị rơi đi.

(12:01) Cho nên chúng ta quyết định tu, nhưng tu đúng cách, đừng có căng quá mà cũng đừng chùng quá. Căng thì như dây đàn mà chúng ta căng thẳng quá, thì đức Phật đã nói: "Căng thẳng thì đứt dây, mà hễ chùng quá thì nó không thành âm". Cho nên người tu hành phải khéo léo, mà đức Phật đã ví dụ cho chúng ta biết như dây đàn không được căng quá. Vì chúng ta có nhiệt tâm tu hành, nhưng chúng ta lại tu đúng pháp chứ không sai. Nhưng vì chúng ta quá căng, tu nhiều quá, quá căng thì như dây đàn đã căng thẳng.

Còn nếu mà chúng ta lười biếng chúng ta tu, kêu là tu cầm chừng, tu mà gọi tu cho có tu, thì nó chùng quá thì nó cũng không phát âm ra được, nó cũng không thành tựu được. Cho nên chúng ta tu, lúc nào chúng ta cũng tu, nhưng mà tu đúng cách. Nó không căng, mà giữ gìn cho nó, giữ cho được cái tâm của mình thanh thản, an lạc và vô sự.

(12:58) Ngừa trước, tức là ngăn trước những pháp ác, tức là chúng ta ngăn, đừng có cho để nó xảy ra. Biết rằng chúng ta sẽ bị hôn trầm, nhưng mà chúng ta ngăn đừng có để bị hôn trầm. Thì ngăn thì có cái pháp để chúng ta ngăn, tức là chúng ta biết cái giờ đó chúng ta sẽ bị hôn trầm, hay hoặc là chúng ta tu như thế này biết sẽ có bị hôn trầm, cho nên chúng ta chuẩn bị ngăn nó không có được để cho nó xảy ra. Vì vậy mà chúng ta tập đi kinh hành, trong khi đi kinh hành chúng ta như người vô sự, thỉnh thoảng chúng ta nhắc: "Tâm như đất, không có tham, sân, si nữa", rồi chúng ta lại đi chơi chơi như cái người vô sự đi chơi vậy thôi, đi tới đi lui, mắt thì nhìn xuống không ngó hai bên.

4- TU TẬP TỨ VÔ LƯỢNG TÂM

Nghĩa là bây giờ, như quý vị mà đi vòng vòng cái Tổ đường này, mắt nhìn xuống không ngó bên đây, không ngó bên đây, ai làm gì làm chẳng biết mà chỉ biết ngó xuống. Thứ nhất là chúng ta thực hiện từ tâm, lòng từ của chúng ta nhìn xuống dưới đất để tránh những con vật nhỏ nhít như kiến, trùng, dế ở dưới chân chúng ta để tránh khỏi dẫm đạp. Vả lại nó cũng giúp cho chúng ta tỉnh thức, khởi được lòng từ bi thương xót của loài chúng sanh. Cái thứ hai là giúp cho chúng ta nó phá được cái hôn trầm, chúng ta đi nhiều càng tốt, nhưng đi với một cái người vô sự chứ không phải đi với cái tính cách bặm môi, cố gắng tập trung để biết bước chân đi, chúng ta không cần nó biết.

Nhưng chúng ta đi để mà lưu ý những sự kiện xảy ra dưới chân chúng ta, để tránh dẫm đạp tất cả các loài chúng sanh để thực hiện lòng từ bi. Một con vật, lỡ một con vật, con kiến mà thấy nó bị gãy chân thì chúng ta nên giúp đỡ nó, đưa nó vào ở trong nơi khác. Chúng ta làm những công việc nhỏ nhặt như vậy nó nói lên được lòng từ, khởi lên được lòng thương yêu của chúng ta. Nhưng chính chúng ta đang tu, nhưng rất là thanh thản. Khi chúng ta làm một việc từ thiện như vậy chúng ta thấy tâm hồn mình rất vui. Khi chúng ta thấy trong vũng nước có một con kiến đang chới với trong vũng nước, chúng ta lấy ngón tay để cho chúng làm một cái phao nằm trên ngón tay chúng ta đưa vào cái đất mà không có nước, thì chúng ta để cho con kiến tỉnh rồi bò đi. Chúng ta làm cái công việc chính chúng ta đã thực hiện lòng từ với sự thương yêu, là chính chúng ta đã tu thanh thản, an lạc, vô sự.

(15:15) Cho nên tất cả những cái sự việc mà chúng ta làm thì chúng ta thấy nó như thế nào mà có ý nghĩ, có ý nghĩ của đạo Phật, có sự giải thoát, có sự thiện pháp trong đó. Các con nghe em của ông Cấp Cô Độc, ông ta đến với đức Phật sau khi được đức Phật dạy cho ông ta tu, thì ông ta tu Tứ Vô Lượng Tâm, tâm từ, bi, hỷ, xả. Và cuối cùng ông xả sạch tức là ly dục, ly ác pháp do tâm từ bi của ông. Thì do đó chúng ta khởi được cái lòng từ bi. Hành động của chúng ta hàng ngày đối với chúng sanh, có mỗi con vật gì mình đều cứu giúp cho chúng thoát được cái chết, thì chúng ta cũng thấy hạnh phúc và an lạc trong lòng chúng ta.

Do từ cái Từ Tâm đó, mà người khác chửi mình, người ta mắng mình, mình không có giận hờn, mình cũng không tham muốn nữa. Thì tức là rõ ràng là do Từ Tâm đó mà chúng ta ly dục, ly ác pháp được mà chúng ta nhập Sơ Thiền. Cuối cùng ông chứng quả A La Hán do cái pháp Tứ Vô Lượng Tâm.

Thì Tứ Vô Lượng Tâm có dạy chúng ta phải ngồi thiền, phải đi kinh hành, phải gì đâu. Hàng ngày ông sống, ông vì khởi cái tâm thương yêu, chăm sóc những cái loài vật xung quanh ông, để cho nó thoát khỏi những cái sự vô tình cũng như là cái sự vô tình xảy ra, mọi vật giết hại nhau, ông chỉ khởi tâm của mình giúp đỡ cho chúng đừng có giết hại nhau, đừng có vô tình mình mà làm cho chúng đau khổ. Và cuối cùng thì ông lại chứng quả A La Hán. Ông tu cách thức bình thường, không có cái gì mà khó khăn, đâu phải ngồi thiền, nhập định đủ thứ đâu. Mà chính cái lòng từ ông thực hiện đến cái mức độ ông không còn tham, sân, si nữa. Mà mục đích không tham, sân, si là đạo giải thoát rồi. Đó là cái tu rất là tự nhiên.

5- TU TẬP TỰ NHIÊN KHÔNG ỨC CHẾ

(16:56) Cho nên khi mà đức Phật dạy ông Châu Lợi Bàn Đặc ngồi đó mà quét tâm. Thì ông, thật sự ra ông ngồi đó quét tâm bằng trên Tứ Niệm Xứ thì ông tự nhiên, chứ không có dạy ông ngồi thiền hơi thở, hít thở cái gì cả hết, phải không? Không có dạy ông nhiều đâu. Mà trái lại ngồi đó ông ngồi ông quét cái tâm ông thôi. Thì ông quét cái tâm ông bằng cách nào? Thì ông phải nhìn ở trên thân, thọ, tâm, pháp của ông, có cái gì chướng ngại trên đó là ông đẩy lui thôi, tức là ông quét sạch cái tâm của ông đó.

Nói Thân - Thọ - Tâm - Pháp chứ sự thật ra mỗi mỗi nó đều do tâm của mình. Vì vậy trong kinh Pháp Cú: “Tâm dẫn đầu” mà. Nếu mà tâm làm điều thiện thì nó giải quyết được bốn chỗ này đều đẩy lui chướng ngại pháp. Nếu mà tâm làm đều ác thì tức là bốn chỗ này nó sẽ có những cái thọ khổ đau của nó. Cho nên rõ ràng là tâm dẫn đầu. Mà nói quét tâm tức là ở trên Tứ Niệm Xứ mà quét được cái tâm sạch sẽ, làm cho tâm thanh tịnh.

Khi mà Thầy nhận ra được cái pháp của Phật, Thầy biết được cái pháp Như Lý Tác Ý, Thầy đâu có còn khổ, cực khổ như ngày xưa mà khi ngồi, khi tu tập pháp Tri Vọng đâu. Vì vậy mà Thầy ngồi chơi hoặc là ngồi bán già hoặc là ngồi kiết già hoặc là đi kinh hành, đều là Thầy quan sát trên thân, thọ, tâm, pháp của mình, với một cái sự vô sự. Rồi cứ mỗi chướng ngại gì trên đó mà đẩy lui, mà không chướng ngại thì thường nhắc tâm: "Tâm như đất, không có tham, sân, si nữa" cứ nhắc mãi, nhắc mãi. Rồi nhắc một lời nhắc rồi cứ thanh thản mà đi chơi, chứ còn không có làm gì nữa hết, hoàn toàn thấy nó thanh thản, an lạc, vô sự. Và cuối cùng thì tâm Thầy hoàn toàn không phóng dật, nghĩa là luôn luôn lúc nào nó cũng định trên hơi thở của nó.

(18:42) Đó là một cách tu rất tự nhiên và nhẹ nhàng. Và vì vậy mà suy ra các bậc Thánh Tăng, đệ tử của đức Phật ngày xưa như em của ông Cấp Cô Độc cũng thực hiện lòng Từ. Ông hàng ngày ông sống xung quanh thất, ông không đi chơi với ai hết, nhưng mà ông khởi sự lòng thương yêu của ông đối với những vật xung quanh thất ông. Mỗi một con vật rơi trên vũng nước, một con kiến nhỏ ông đều vớt, ông bỏ lên bờ, ông dùng những chiếc lá cây ông cứu biết bao nhiêu loài vật đã bị một cơn mưa. Do đó ông thấy lòng ông thanh thản, an lạc và từ đó lòng Từ ông phát triển, phát triển đến mức độ ông không còn tham, sân, si nữa.

Ông tu rất tự nhiên, đâu cần phải ngồi thiền, đâu cần phải Niệm Phật, đâu cần phải tu Tứ Niệm Xứ gì đâu. Nhưng mà khởi sự được lòng từ thì tham, sân, si đều quét sạch. Đúng là chúng ta tu theo pháp Phật, tuy rằng đức Phật dạy “Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo” rất nhiều, từ Tứ Chánh Cần, từ Tứ Niệm Xứ, Tứ Bất Hoại Tịnh, Tứ Như Ý Túc, cho đến Tứ Thánh Định. Tất cả những cái pháp đều thực hiện duy nhất có cái tâm không còn tham, sân, si nữa mà thôi.

Nhưng ở đây chúng ta mỗi người đều có căn duyên với một pháp, chúng ta thích cái pháp nào thì chúng ta chấp nhận ngay cái pháp đó mà thực hiện. Người tu Tứ Vô Lượng Tâm, người tu Tứ Niệm Xứ. Nếu mà chúng ta ngồi đây mà quan sát trên Tứ Niệm Xứ mà tu tập thấy nó nhẹ nhàng, thanh thản thì chúng ta dùng pháp Tứ Niệm Xứ mà tu. Còn nếu chúng ta tu Tứ Chánh Cần thì chúng ta phải tu Định Niệm Hơi Thở, Định Vô Lậu, Định Chánh Niệm Tỉnh Giác. Tứ Chánh Cần nó có nhiều pháp, pháp ngăn và pháp diệt, cho nên nó nhọc nhằn ghê gớm.

Vì vậy mà Tứ Chánh Cần phải dùng cho người cư sĩ. Tại sao vậy? Tại vì người cư sĩ người ta chung đụng với ác pháp, cho nên người ta phải tu tập để người ta ngăn và diệt nó. Còn chúng ta là những tu sĩ thì chúng ta có gì đâu, ngồi không chứ đâu có gì đâu, không có lao tác, không có gì đâu, chúng ta khởi sự chúng ta tu tập thì quá dễ dàng. Cho nên bảy tháng, bảy năm là chúng ta thành tựu, nếu trong bảy tháng không thành tựu thì bảy năm.

(20:52) Thì như vậy rõ ràng cái thời gian chúng ta đâu phải dài. Tại sao chúng ta xét qua cái thời gian về đây các con tu tập với Thầy, có nhiều người đã hai, ba tháng rồi mà chưa xong gì hết, cũng vẫn còn thấy như mình mới vào, chưa có kết quả gì hết, thấy chút chút thanh thản, an lạc, vô sự. Tại sao vậy? Tại vì mình còn duyên ngoài thế nhiều quá, tức là mình còn phóng dật nhiều quá.

Khi khép chặt vào đây, quyết định là một tháng phải thành công, quyết định là bảy tháng phải cho thành tựu. Thì như vậy sự quyết định của mình, sự nhiệt tâm như thế nào? Tu tập như thế nào đúng? Như thế nào sai? Làm sao cho đừng bị ức chế tâm? Không khéo rồi chúng ta sẽ ức chế tâm. Mặc dù pháp đó là pháp của Phật, nhưng không khéo vẫn bị ức chế tâm.

Vì vậy mà từ xưa đến giờ các Tổ đâu phải tu sai pháp của Phật, nhưng mà tại vì các Ngài tu không đúng cách mà bị ức chế tâm, từ đó kiến giải đẻ ra pháp ức chế, chứ đâu có gì sai. Nhưng mà ức chế thì nó lại giống pháp của ngoại đạo, của các đạo khác rồi. Bởi vì các ngoại đạo nó đều tu pháp ức chế. Còn mình vẫn đi theo đạo Phật, nhưng mình không hiểu cách thức tu, cho nên mình biến cái pháp Phật trở thành pháp ức chế. Thì pháp ức chế thì nó sẽ giống pháp của ngoại đạo.

(22:09) Khi mà pháp tu tập đã giống pháp ngoại đạo, thì tức là chúng ta bị đồng hóa ngay liền pháp của ngoại đạo, vô tình chúng ta bị đồng hóa. Nghĩa là các Tổ có nhiều người, người ta vô tình chứ người ta không có ý để mà diệt Phật giáo, người ta dìm Phật giáo. Người ta vô tình, người ta chỉ tu nhưng mà cách thức tu tập không có người kinh nghiệm dạy, cho nên người ta đã tu sai. Pháp thì đúng, nhưng mà hành động tu lọt vào ức chế, cho nên thành sai mà không biết.

Cho nên khi, khi mà Thầy nhận ra được cái pháp của Phật dạy trong kinh Nguyên Thủy, Thầy mới nhận ra được như vậy tu nhẹ nhàng quá, không có khổ như trước kia nữa. Do đó bây giờ mình ngồi chơi vẫn thấy giữ được Tứ Niệm Xứ của mình thanh thản, an lạc, vô sự. Chỉ có pháp Hướng, để chờ cho cái pháp Hướng đủ cái năng lực của nó thì mình sẽ nhập các định.

Sự suy tư của Thầy như vậy nó giúp cho Thầy đi đúng cái quỹ đạo của đạo Phật, làm cho Thầy không còn ức chế tâm. Ngồi chơi, chứ không còn ngồi đó mà giữ cái tâm không vọng tưởng, ngồi chơi để mà quan sát thân, thọ, tâm và pháp của mình có thanh thản, an lạc hay không? Chỉ xem nó có an lạc, thanh thản hay không? Chỉ xem nó có giải thoát hay không? Nếu nó không giải thoát thì ít ra nó có khởi niệm nào đó, mà niệm thì nó phải có tham, có sân, có phiền não, có lo thì nó mới có những cái niệm đó. Mà cái niệm mà nó không tham, không sân, không si nó đi vào cái chỗ nào? Thì phải truy ra tất cả những cái niệm đó. Do vì vậy mà cái sự suy ra đó, Thầy đã tìm thấy được cái sự xả ly hơn là ngồi ức chế tâm không vọng tưởng.

(23:57) Cho nên từ khi biết pháp của Phật rồi, mặc dù mấy con về đây tu tập, hầu như Thầy đã nhìn thấy qua cái sự tu tập của các con có cái gì ức chế ở trong đó, chứ chưa phải xả. Thầy nhìn thấy nhưng mà nói, không biết nói làm sao để cho các con hiểu được cái xả. Vì các con hễ tu là dường như là các con đã lọt vào một cái thói quen là ức chế tâm. Cho nên khi đó, có khi mà các con trình cho Thầy, Thầy biết rằng có ức chế, có ức chế dù là ít nhiều, nó làm cho các con thấy nó có cái mệt nhọc, có cái khó khăn.

Hễ càng tu tập, càng cố gắng nỗ lực thì nghe nó mệt nhọc, càng bị hôn trầm. Và càng cố gắng, càng nỗ lực thì bị loạn tưởng. Nó sanh ra điều này, nó sanh ra điều kia, nó luận điều này, nó luận điều kia, nó thậm chí như nó luận đến đỗi nó không tin Thầy nữa. Tất cả những cái này đều do cái chỗ ức chế tâm mà sinh ra, Thầy biết. Cho nên hôm nay Thầy nói thật sự, tu làm sao mà nhẹ nhàng, nhẹ nhàng, phải thấy từng phút giây giải thoát của tâm hồn. Cái mà không giải thoát tức là chúng ta vẫn biết được chứ, vẫn thấy được cái sai của mình chứ. Mặc dù pháp đó pháp đúng chứ không phải là pháp sai, nhưng tu tập sai.

Vì vậy mà các con lưu ý trong cái phần tu tập của mình, nếu trong một giờ mà tu mà thấy rằng không thanh thản, an lạc, vô sự thì hãy trình cho Thầy. Nghĩa là mình sống với một cái người sống bình thường, như mọi người người ta chạy theo dục lạc, người ta không thấy cái gì, người ta không tu gì hết. Còn mình biết pháp tu, nhưng mà mình tu như thế nào? Như cái người bình thường vô sự, chỉ có duy nhất là không tham, sân, si mà thôi. Có duy nhất đó thôi. Khi nào trong tâm nó có tham, sân, si thì phải đuổi ra, phải làm sao cho những cái niệm đó không còn nữa thôi. Còn cái niệm mà duy nhất mà gọi là vô lậu, đó là cái niệm “thanh thản, an lạc và vô sự”. Cái niệm đó chính là sự giải thoát của tâm hồn chúng ta. Cho nên cố gắng tu tập đúng.

(26:05) Thầy không biết làm sao Thầy hướng dẫn và đồng thời thì lúc này Thầy không có thời gian, chứ thật có thời gian mỗi đứa đều được Thầy, nói thật sự ra Thầy ngồi đây, bữa nay Thầy dạy đứa này, ngày mai Thầy dạy đứa khác. Ngồi đây suốt cả giờ, cả buổi để xem coi quý con tu như thế nào? Các con tu cách nào mà bị ức chế? Thầy ngồi đây để mà xem cho các con đi kinh hành, ngồi xuống một vòng, hai vòng, ba vòng. Thầy hỏi: "Tu như vậy thanh thản hay là không thanh thản? Nếu thanh thản thì tiếp tục tu, mà nếu không thanh thản thì xả nó, phải tu như vầy", cứ sửa lần như vậy thì may ra mấy con sẽ không còn bị ức chế. Còn nếu mà Thầy cứ ngồi làm việc như thế này, thì chắc chắn mấy con tu một hơi là mấy con sẽ bị ức chế. Đó là cái nỗi khắc khoải, nỗi khổ tâm của Thầy.

Bây giờ trong cái giai đoạn cả một con người trên hành tinh này, cả một số lượng người trên hành tinh này đang thiếu đạo đức, đang cần Thầy phải viết bộ sách Đạo Đức. Thế mà bây giờ ngồi chăm sóc mấy con thì cái đạo đức này biết chừng nào mà ra. Mà nếu mà ngồi im lặng để mà soạn thảo bộ sách Đạo Đức thì mấy con ở ngoài này tu điên, tu khùng hết rồi. Mặc dù các con tu đúng pháp Phật chứ đâu phải sai, nhưng mà tu quá sức mình, tu không đúng cách, cho nên nó đã làm lệch.

Thầy biết rõ điều này, nhưng làm sao bây giờ? Một mình làm sao chia chẻ được điều này, nó là một cái khổ. Nếu mà phải chi có một người được như Thầy nữa, thì một người lo chăm sóc cho mấy con tu tập và một người lo soạn thảo Đạo Đức, thì điều này là điều hạnh phúc biết bao nhiêu. Một người làm sao mà chia làm hai công việc làm được. Cho nên Thầy nhắc nhở mấy con tu đúng, ráng cố gắng tu đúng, rồi khi thấy mệt nhọc thì xin cô Út cho gặp Thầy liền, để Thầy chuẩn bị sửa sai.

Hôm rày Thầy thấy mấy con ở trong thất đóng cửa không đi kinh hành nhiều, Thầy lo lắng lắm! Tại sao? Tại vì mấy con phải biết rằng cái phương pháp của Phật là phải đi ra, nhưng mà đi ra làm sao mà phải phòng hộ mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý. Đi không được ngó qua ngó lại, đi không được nhìn tới nhìn lui, mà đi phòng hộ mắt, tai, mũi, miệng, không được nói chuyện, không được tiếp duyên, không được tất cả hoàn toàn tất cả mọi cái mà Thầy đã nêu lên. Từ cái giới trọng đến cái giới khinh đều phải giữ gìn trọn vẹn và giữ gìn trọn vẹn tức là bị ức chế, nhưng ức chế trong cái không ức chế. Mình vừa ức chế đó, chứ thật ra mình không ức chế. Tại vì luôn lúc nào mình cũng giữ được cái tâm mình theo được cái pháp, cho nên tâm của mình thanh thản, an lạc, vô sự. Cho nên nó không bị ức chế, còn không khéo thì mình sẽ bị ức chế.

(28:45) Bây giờ các con đã biết cách chưa? Nếu chưa biết cách thì hãy tập lại ngay từ ban đầu. Thứ nhất là phải nghe lời Thầy: Ăn ngày một bữa, không được ăn uống phi thời. Dù chết nhất định là chúng ta chết trên pháp của Phật, "Thừa tự pháp chứ không được thừa tự thực phẩm" như trong bài kinh đức Phật đã dạy.

Cái thứ hai là: Độc cư, trầm lặng, sống như con tê ngưu một sừng mà đức Phật đã dạy chúng ta. Đó là cái thứ hai phải trầm lặng, sống độc cư hoàn toàn. Nghĩa là trong cái thời gian từ tháng thứ nhất cho đến tháng thứ bảy, khoảng thời gian này chúng ta quyết định là phải chứng đạt được Tam Minh trong bảy tháng. Thì trong bảy tháng đó phải giữ trọn vẹn như thế nào? Sống trầm lặng một mình, độc cư.

Và mọi cách thức phải phá cho được hôn trầm, tức là phá cái trạng thái si mê của chúng ta, phá cho được hôn trầm. Phá bằng cách nào? Có ba cái phương pháp mà để chúng ta phá. Không được để cho trạng thái hôn trầm xảy ra rồi mới phá là muộn. Cho nên chúng ta ngăn ngừa trước, mà đã có xảy ra thì chúng ta có pháp phá nó được nhẹ nhàng. Đợi cho nó hôn trầm mà đi nó lủi qua lủi lại, đi mà nó quên mất, đi mà không biết đường đi. Đó là để nó quá nặng, như vậy là quá vất vả, quá khổ. Vì vậy trong cái bước đường tu mà để đến đỗi như vậy thì nó sẽ xảy ra ảnh hưởng của cơ thể, nó sinh ra nhiều bệnh tật, nó làm bước đường tu tập của chúng ta thối chuyển.

(30:18) Cho nên nhớ kỹ trong cái vấn đề tu tập thì mấy con nhớ rằng: Thanh thản, an lạc, vô sự. Đó là một cái trạng thái vô lậu. Vì vậy mà chúng ta biết được tâm mình giải thoát từng phút, từng giây nó ở chỗ nào? Biết được. Và sự tu tập của chúng ta tự nhiên hơn, tâm mà biết hơi thở là tốt, đừng có gò bó nó trong hơi thở nhiều quá là không tốt. Cũng như đừng có gò bó tập trung nhiều trên bước đi là không tốt, mà để tự nhiên nó biết bước đi là tốt nhất. Chúng ta duy nhất có một pháp mà chúng ta cần phải tu tập nhiều nhất đó là pháp Như Lý Tác Ý.

Luôn luôn lúc nào chúng ta cũng nhớ: "Tâm như đất không có tham, sân, si" hay hoặc là: "Tâm ly dục, ly ác pháp nhập Sơ Thiền" cứ nhắc bao nhiêu đó tạm đủ cho chúng ta trong bước đường tu tập, nhưng tâm hồn phải thanh thản, an lạc. Nhưng phải sống trọn vẹn độc cư không được tiếp duyên ngoại duyên. Vì tiếp duyên ngoại duyên thì không bao giờ chúng ta thực hiện tâm không phóng dật. Nhớ kỹ những điều Thầy dặn rồi về tu tập, tu tập rồi thưa hỏi để không khéo mất thì giờ. Thầy đảm bảo cho quý vị sẽ tu tập bảy tháng, trễ nhất là bảy năm, nếu quyết tâm theo Thầy sống đúng thì chắc chắn là trong vòng bảy tháng là xong. Mà nếu mà tu không đúng cách, bây giờ bảy chục năm, bảy trăm năm, bảy triệu năm chưa giải thoát, nghĩa là tu sai thì không bao giờ giải thoát.

Đó là cái điều kiện có thời gian xác định, quyết định cho sự tu tập của chúng ta mà trong kinh điển của Phật đã xác định. Mà đã xác định thì không bao giờ ông Phật nói láo chúng ta đâu. Là con người, người nào tu đúng là bảy ngày, bảy tháng, bảy năm, thời gian bảy năm chúng ta không lâu đâu. Chứ đâu phải chúng ta tu hai ba chục năm mà mới xong sao? Nghĩa là cái thời gian chúng ta bảy năm chúng ta không lâu. Nhưng mà chúng ta bảy tháng chúng ta thấy quá nhanh, bảy tháng quá nhanh. Mà bảy tháng quá nhanh mà đạt được thì đó là quá hay rồi chứ gì. Cho nên vì vậy chúng ta thấy bảy tháng mà làm cái này thì chúng ta có thể làm được, chứ phải chi bảy chục năm như thế này thì quá dài chúng ta làm không nổi.

(32:49) Mà đức Phật nói có bảy năm thì chúng ta thấy cũng không dài đâu, nhưng mà bảy năm chúng ta cũng ớn đó. Nhưng bảy tháng, bảy tháng bây giờ sống như thế nào? Ăn, ngủ, độc cư không lẽ chết trong bảy tháng này được sao? Chắc chắn mình sẽ làm được mà. Cho nên Thầy lấy cái mực thời gian trung bình mà Thầy xác định con người chúng ta sẽ thực hiện được, không đến nỗi bảy năm. Bảy năm chỉ là con người quá tệ như thế nào đó mới bảy năm. Tu mà giữ gìn cái thân mình như thế này, an lạc như thế này mà tới bảy năm thì quá lâu, phải không?

Bởi vì chính mình mình không giữ gìn đúng cách, cho nên nó không thanh thản, an lạc. Vì vậy mà bảy năm chưa rồi. Còn bây giờ nếu mà giữ đúng cách của nó thì bảy tháng là quá dài rồi. Thầy nói thực sự, bảy tháng đối với chúng ta chưa đầy một năm mà, mà tu hành một cái thời gian chưa đầy một năm mà, cái nhiệt tâm của chúng ta còn nhiệt huyết quá mà. Thành ra cái thời gian nó không dài, nó vừa trung bình với chúng ta tu tập mà.

Cho nên Thầy nói, nghĩ rằng: "Nếu mà tôi biết được cái pháp, tôi giữ gìn đúng, tôi sống độc cư đúng, trong bảy tháng tôi chịu khó tôi giữ gìn đúng nó sẽ đạt được". Và như vậy rõ ràng là nó đâu phải cái pháp của Phật khó đâu, đâu phải là cái pháp thời gian nó dài. Chúng ta đừng nghe nói rằng tu nhiều kiếp, nhiều đời. Đâu có! Ông Phật xác định rõ ràng mà, người nào tu Tứ Niệm Xứ thì trong bảy ngày, bảy tháng, bảy năm. Có phải đúng không? Nếu ông Phật là cái người nói láo gạt chúng ta như vậy sao? Sao lại Thầy sáu tháng được? Thì như vậy rõ ràng là đâu có nói láo, tại Thầy tu sai pháp tới chín năm, chứ còn nếu mà Thầy tu đúng thì nó đâu phải vậy.

Còn bây giờ quý con chưa biết pháp gì hết, quý con vào đây, quý con tu đúng lời Thầy dạy, thì chắc chắn là cao lắm trong cái thời gian bảy tháng là quý con sẽ được liền. Sự thật mình hàng ngày mình giữ cái tâm mình giải thoát, giờ phút nào cũng giải thoát. Tâm có niệm tham, sân, si thì cứ đẩy lui nó hết và cứ như vậy cuối cùng là cái thời gian bảy tháng tâm sẽ hoàn toàn quay vào. Và trong cái thời gian nhập định nó đâu có lâu, bởi vì nhập định nó không có khó khăn, không có mệt nhọc.

(34:50) Vì vậy mà mình chỉ cần dùng cái pháp hướng mình ra lệnh: "Tâm phải nhập cái định này, tâm phải nhập cái định kia", nó sẽ nghe theo chúng ta mà nó nhập. Do đó, khi đó chúng ta thực hiện Tam Minh cũng vậy, là chúng ta hướng tâm, nhắc cái tâm là phải về quá khứ biết đời này, đời kia. Do đó Túc Mạng chúng ta sẽ thực hiện được. Thiên Nhãn chúng ta muốn không có cái không gian dài thì chúng ta hướng tâm mình, nhắc, bảo nó: "Phải thấy biết cái này, cái kia". Tất cả cái không gian vũ trụ này nó đều thấy biết hết, thì cái Thiên Nhãn Minh của mình nó thực hiện.

Và Lậu Tận Minh cái nguồn gốc mà tái sanh luân hồi của con người phải tìm hiểu coi nó hiểu chỗ nào? Thì dẫn tâm đi, thì cái tâm nó sẽ tìm hiểu được cái nguyên nhân mà sinh ra con người, nó biết rất rõ. Thì sau khi nó thấu rõ tất cả những cái điều đó rồi thì nó nhìn lại nó, thì nó thấy toàn bộ cái mầm mà tái sanh luân hồi ở trên thân, thọ, tâm, pháp của nó không còn nữa. Tức là dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu nó hoàn toàn không còn nữa, tức là nó đã chấm dứt tái sanh luân hồi, nó biết được cái chỗ nó về rồi.

Và bây giờ Thầy đã biết được cái chỗ đó, Thầy nói với các con: Cái tâm thanh thản, an lạc, vô sự là cái trạng thái mà chư Phật đang ở đó. Đó là cái chỗ Bất Động Tâm của mọi người. Thế mà bây giờ các con không giữ gìn được cái chỗ bất động tâm này để mà các con trôi lăn trong Lục đạo sao? Cho nên các con nghe mà những cái người mà đệ tử của Thầy, họ sắp sửa giờ chết, Thầy bảo: Cố gắng giữ cái tâm thanh thản, an lạc, vô sự trước cái cơn đau như buốt. Thế mà vẫn thản nhiên, xem nó là vô thường, thọ là vô thường mà, cái khổ này nó vô thường, nó có gì mà thường hằng đâu mà sợ hãi, ai cũng đau, cũng khổ, rồi cũng chết. Chúng là một người tu sĩ Phật giáo phải gan dạ, phải vững tâm, không hề sợ hãi trước cái đau đớn đó. Do đó chúng ta thanh thản, an lạc và vô sự trong cái sự thọ khổ đó. Cuối cùng thì chúng ta vào Niết Bàn.

(36:46) Đó là một cái Thầy chỉ điểm rất rõ ràng để chúng ta biết được cái trạng thái đó, để mà chúng ta nắm giữ đó, để mà ta biết được cái tu hành. Bởi vì cái mục đích, cái mục đích của đạo Phật là Bất Động Tâm. Mà bất động tâm thì nó phải có cái trạng thái thanh thản, an lạc và vô sự. Mà Thầy đã chỉ điểm cho chúng ta ai cũng biết hết rồi. Chỉ bây giờ quý vị có giữ được cái tâm này không? Cái Thân - Thọ - Tâm - Pháp của quý vị có giữ được trọn vẹn cái trạng thái này không? Nếu trạng thái này được một phút thì quý vị đã ở Niết Bàn một phút, mà hai phút được Niết Bàn hai phút, một giờ thì được Niết Bàn một giờ, hai giờ thì được Niết Bàn hai giờ. Mà Thầy đã xác định 24 tiếng đồng hồ mà luôn được như vậy thì quý vị sẽ nhập các định làm chủ sự sống chết một cách cụ thể.

Đâu có nhiều đâu, mà đức Phật, Thầy đã xác định hai mươi bốn tiếng đồng hồ, còn đức Phật thì ổng nói: Một ngày cho đến bảy ngày, thì có phải hai mươi bốn tiếng đồng hồ không? Nghĩa là một ngày, tức là một ngày đêm hai mươi bốn tiếng đồng hồ chứ gì. Mà đức Phật xác định từ một ngày cho đến bảy ngày, phải không? Nếu mà tâm thanh thản, an lạc và vô sự tức là trên Thân - Thọ - Tâm - Pháp của chúng ta, Tứ Niệm Xứ. Nó hoàn toàn thanh thản, an lạc, vô sự mà trong hai mươi bốn tiếng, tức là một ngày đêm chứ gì. Thì đức Phật đã xác định từ một ngày cho đến bảy ngày chúng ta sẽ thành tựu. Có phải đức Phật xác định không hay là Thầy đặt ra? Thầy đâu có đặt ra.

Thật sự Thầy đã xác định, mà đức Phật đã xác định trước kia rồi. Cho nên trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ tâm bất động, không phóng dật là chúng ta đã thành Chánh Giác, có phải không? Như vậy là rõ ràng trên cái pháp Phật đơn giản và cụ thể, không có khó khăn, không có gò bó, không có luyện tập làm cho cái thân của mình khổ. Bởi vì đức Phật không chấp nhận khổ hạnh, khổ hạnh tức là làm cho cái thân mình khổ. Đằng này vô tu là tìm thấy được sự giải thoát của Thân - Thọ - Tâm - Pháp của chúng ta rồi. Ngay đó là thanh thản, an lạc, vô sự rồi. Thì lúc hai mươi bốn tiếng đồng hồ là chúng ta đã thành tựu, thì như vậy rõ ràng trong bảy ngày nếu mà chúng ta giữ gìn.

6- TÂM VÔ SỰ

Bởi vì cái nghiệp nó cứ tới lui, tới lui mãi, nó làm cho chúng ta không có yên. Cho nên chúng ta phải cố gắng, phải cố gắng ngồi chơi mà quét nó. Ngồi chơi mà quét nó, chứ không phải ngồi mà nghĩ rằng mình phải ráng tu như thế này thế khác. "Ngồi chơi mà quét nó", các con nghe Thầy nói, Thầy không biết dùng cái danh từ nào nó khác hơn, là cái người vô sự mà có công việc làm, chứ không phải vô sự mà hoàn toàn vô sự mà chạy theo.

Thực sự con người chúng ta nói vô sự chứ không có người nào vô sự. Họ ngồi đây, họ nghĩ chuyện ăn, chuyện uống, chuyện này kia, họ đâu có vô sự. Còn mình thật sự vô sự, mà bởi vì cái tâm của mình nó đang có những cái tham muốn, giận hờn, phiền não, lo lắng. Cho nên vì vậy ngồi đây mà muốn cho nó vô sự thì nó không có vô sự, nó cứ chạy theo cái tâm dục của nó, nó khởi muốn cái này, cái nọ, cái kia đủ loại. Cho nên do đó mà mình muốn quét cho cái tâm mình vô sự, mình phải quét ra cái tàn tích, phải quét ra cái nghiệp lực này, cho nên nó không vô sự. Nghĩa là mình muốn vô sự thì mình phải quét cho sạch cái này nó mới vô sự. Cho nên cái mà đang quét, đang tu này coi như mình đang hữu sự chứ chưa phải vô sự, nhưng mà quét sạch hết cái này thì nó mới vô sự.

(40:13) Còn con người của mình chưa tu là con người hữu sự chứ không phải con người vô sự. Nó nghĩ cái này, nó nghĩ cái kia, nó lo cái nọ, nó chạy theo cái kia. Tất cả mọi cái nó theo cái tâm dục của nó, cái ái dục của nó, cái dục của nó, mà nó ham muốn cái này, ham muốn cái kia, cho nên nó hoàn toàn nó là con người hữu sự. Bây giờ mình muốn trở thành con người vô sự cho nên mình phải quét sạch cái lòng ham muốn này, những cái ác pháp này ra. Mà khi mà mình muốn vô sự thì mình ngồi lại mà nếu nó vô sự, nó không có những cái ác pháp này thì đó là mình đang vô sự. Cho nên Thầy nói: Thanh thản, an lạc và vô sự.

Mà bây giờ nó có những cái pháp này nó đến nó xâm chiếm mình, nó làm thân tâm mình nó bị những cái chướng ngại, do đó mình trở thành người hữu sự, hữu sự trong sự quét này. Chứ không phải hữu sự đi trồng cái cây kia, đi trồng cái trái nọ để cho có quả, có này kia mà ăn hoặc đi ra nấu cơm nấu nước để mà ăn, thì như vậy là mình chạy theo dục chứ không phải, chứ không phải là người vô sự của sự giải thoát.

Trái lại chúng ta chỉ biết đi xin ăn mà thôi, cho nên người ta cho mình cơm. Thí dụ như bây giờ quý vị đến đây tu, thì quý vị đâu có lo nấu cơm, nấu nước gì. Trưa người ta cho quý vị một bữa cơm, quý vị ăn rồi thì quý vị lo, lo cho mình vô sự, để không cái tâm mình nó không có chịu vô sự đâu, nó hữu sự. Chỉ có tu bấy nhiêu đó thôi, chứ có tu cái gì đâu! Nghĩa là mình hàng ngày mình lo mình quét cho sạch cái tâm hữu sự của mình, để cho cái tâm vô sự của mình nó có. Đó là cái điều mình tu tập mà đức Phật gọi là Ly dục - Ly ác pháp.

Ly dục - Ly ác pháp tức là làm cho tất cả các cái thứ dục và ác pháp nó rời khỏi thân tâm của mình, để cho cái thân tâm của mình trở thành là vô sự. Hiểu được như vậy thì các con sẽ có cái hướng tu, hướng tu rất rốt. Và Thầy chỉ cái điểm cho các con thấy là cái tâm giải thoát của mình là ở chỗ nào? Mình đã nhận ra được nó rồi, chắc chắn là các con đã nhận ra được nó rồi. Thì bắt đầu bây giờ mình ngồi đây chơi chứ mình có tu cái gì? Mình là người vô sự thì mình có tu cái gì nữa đâu. Nhưng mà tại vì có những cái niệm, có những cái tâm phóng dật; có những cái tham, sân, si của nó; có những phiền não, bất toại nguyện nó ở trong thân, thọ, tâm, pháp của nó. Buộc lòng mình phải đuổi nó ra, thành ra mình trở thành người hữu sự, chứ thật ra mình đang tìm cái cách thức để cho mình sống vô sự, phải không?

Tại vì mình có những cái tâm tham muốn, có những cái tâm sân, có những cái tâm phiền não. Do đó mình phải trở thành người có hữu sự để quét những cái này ra, cho nên nó thành hữu sự. Chứ thật sự nếu mà không có tâm tham, sân, si là mình hoàn toàn là người vô sự.

(42:59) Cho nên ngồi đây không có nghĩa là, phải ngồi đây mà phải tập trung trong hơi thở, biết hơi thở ra. Như vậy là mình lấy hơi thở để biến thành một cái công việc làm, như vậy sai. Phải không? Bên đây là mình vô sự mà. Mà bây giờ cái tâm mình không tham, nó thanh thản, an lạc. Bây giờ lấy hơi thở ra để mà tập trung trong hơi thở, thở ra thở vô. Hoặc là bây giờ mình lại biến cho mình có một cái việc làm nữa là mình phải đi kinh hành để tập trung trong đi kinh hành, tức là mình biến ra mình người hữu sự chứ đâu phải là người vô sự.

Thay vì bây giờ đi như người đi chơi vậy thì nó có gì đâu, nó là vô sự. Mà bây giờ phải tập trung hết ở bước đi của mình để biết đi từng bước, từng bước. Như vậy là rõ ràng mình là người hữu sự chứ đâu phải người vô sự, các con hiểu không? Đích đến của mình nhắm là phá hôn trầm, buộc lòng mình đi như người vô sự để cho cái thân nó động tới, đi tới đi lui vậy nó không có hôn trầm, chứ không phải đi để mà tập trung ở dưới bước đi. Mà lúc bây giờ nó là người vô sự thì nó muốn đi, nó muốn biết bước đi nó biết, chứ mình đâu có ép, mình đâu có ép cái tâm mình buộc nó phải biết bước đi. Còn bây giờ mình cố gắng để mà tập cho nó biết bước đi thì tức là mình tu sai pháp. Các con thấy có một chút xíu nó sai thôi.

Còn bây giờ mình ngồi đây, thì mình ngồi đây mình quan sát thân, thọ, tâm, pháp của mình, mà nó thanh thản, nó an lạc thì nó biết hơi thở chứ mình có bắt nó vô biết hơi thở bao giờ. Nếu mà tôi bắt buộc nó phải biết hơi thở ra vô, thì tôi là người hữu sự chứ không phải người vô sự. Các con thấy nó chỉ sai một chút xíu là các con bị ức chế đó, là các con sẽ trở thành người hữu sự chứ không phải là vô sự.

Còn bây giờ các con ngồi đây mà các con thấy tôi vô sự, thì bây giờ nó vô sự rồi tự động nó biết hơi thở ra vô thì mặc nó, tui đâu có bắt buộc cái tâm tui biết hơi thở đâu. Tại vì nó biết hơi thở là nó biết chứ tui đâu có buộc nó đâu. Nhưng mà nó hữu sự thì bắt buộc nó trở thành có công việc cho nó làm, thì như vậy là nó trở thành hữu sự, còn tui không bắt buộc nó.

(45:00) Cho nên những cái bước đầu tiên tập để làm gì? Tập năm hơi thở, đi kinh hành một vòng hai mươi bước, rồi ngồi lại năm hơi thở. Mục đích là chúng ta sẽ thấy nó có những cái trạng thái như Si của chúng ta, hôn trầm. Thì bắt đầu chúng ta có tập cái này rồi, thì chúng ta lấy cái này mà phá nó. Phá nó tức là chúng ta bị cái hữu sự này, bị cái hữu sự hôn trầm này mà chúng ta phải lấy cái hữu sự này để mà diệt nó, các con hiểu điều đó không? Chứ không phải tôi tập cái này mà tập hoài như vậy để mà vào Định, để mà ly dục, ly ác pháp đâu! Đây là mục đích luyện tập cái pháp để đối trị nó.

Bây giờ tôi hít thở cái hơi thở chậm chậm nhẹ nhẹ, để mà gom tâm cho chặt ở chỗ cái nhân trung của tôi, rồi tôi hít thở năm hơi thở. Là mục đích tôi nhắm vào cái hôn trầm của tôi sắp sửa nó sẽ xảy ra. Cho nên tôi phải dùng cái này để tôi phá cái hữu sự này, tôi lấy cái hữu sự này mà tôi phá cái hữu sự này. Còn bây giờ tôi vô sự thì tôi không phá nổi nó, các con hiểu điều đó không? Cho nên vì vậy tôi tập cái này đâu có phải tôi tập nó quen rồi, tôi biết rồi, thì sau này gặp thì tôi phá, mà không gặp thì cần gì tôi phải tập nó!

Cho nên một cái thời gian mà Thầy dạy các con tu tập trong vòng một tuần lễ hoặc là trong năm ngày, mười ngày; sau những cái pháp này bỏ sạch không tu nữa, ngồi chơi, tôi là người vô sự chứ tôi không có tu nữa. Nhưng mà nó có cái gì là tôi biết pháp tôi đem ra tôi dùng nó, như vậy các con biết cái thế rồi chứ gì. Như vậy các con có bị ức chế không? Còn đằng này các con tu tập hoài, nghe Thầy nói đi năm hơi thở kinh hành, một tháng vẫn còn tu, hai tháng vẫn còn tu, một năm cũng còn tu bao nhiêu đó nữa, thì tu như vậy là làm cái gì? Làm cho mình có cái chuyện làm chứ gì, bộ thất nghiệp rồi sao? Phải không? Mấy con bộ sợ thất nghiệp? Cho nên cứ lấy ra làm hoài.

Cho nên Thầy nói tu vài bữa bỏ đi. Tại vì mình tu này, mình tu tới ba mươi phút, mình thấy tu tập ba mươi phút thấy nó không có mệt nhọc gì hết, bỏ cái pháp này đi, tu vậy ba mươi phút đủ rồi. Thì bây giờ trở về Tứ Niệm Xứ mà tu mà quét sạch nó. Bởi vì cái pháp này có phải Tứ Niệm Xứ không? Năm hơi thở đứng dậy đi kinh hành có phải là Tứ Niệm Xứ? Đâu phải. Mà cái pháp đó là cái phương pháp đối trị với một cái tâm khác, phải hiểu như vậy thì các con mới thấy được cái đường lối tu tập của đạo Phật rất tuyệt vời.

7- THÔNG HIỂU CÁC PHÁP ĐỐI TRỊ

(47:07) Chúng ta tập luyện những cái pháp này để mà chúng ta phá cái kia thôi, còn chính chúng ta phải tu Tứ Niệm Xứ là đúng pháp của Phật. Vì Tứ Niệm Xứ nó mới xác định được bảy ngày, bảy tháng, bảy năm. Mà nếu mà chúng ta không có những cái pháp mà tập luyện trước này, tới chừng mà gặp hôn trầm chúng ta lấy cái gì mà đối trị? Biết cái gì đối trị? Thì chỉ còn có nước gục tới gục lui, chịu đựng với nó thôi chứ có cách nào khác hơn hết. Như vậy làm sao mà tỉnh thức trên Tứ Niệm Xứ, phải không? Cho nên vì vậy chúng ta có những cái pháp tu tập. Nhưng mà tu tập trong những cái pháp này thời gian chúng ta bỏ, để đó, có dịp chúng ta dùng mà không dịp thì chúng ta bỏ.

Cũng như bây giờ mình có một cái cuốc hay một cái xẻng, mà bây giờ tới chuyện dùng thì mình xách ra dùng, chứ lúc nào mình cũng vác đi hoài như vậy mất công mình chứ làm gì, phải không? Cho nên vì vậy mình biết những cái này là cái phương pháp để cho mình dùng khi mà gặp nó, còn không có thì thôi. Vì vậy do đó khi mà trở về Tứ Niệm Xứ mà tu tập thì tốt nhất. Cho nên tu Tứ Chánh Cần vẫn còn phải tu Tứ Niệm Xứ chứ đâu phải là Tứ Niệm Xứ mà bỏ Tứ Niệm Xứ được, các con thấy không?

Tứ Chánh Cần tức là các con phải tu Định Niệm Hơi Thở, Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, Định Thư Giãn, phải không? Định Vô Lậu còn phải quán xét. Nhưng mà tới Tứ Niệm Xứ thì các con có sử dụng nó nữa không? Đâu có nữa. Bây giờ cứ ở trên cái thân, thọ, tâm, pháp này có một cái niệm, có một cái gì mà nó khởi ra thì các con ngồi đó quán sao? Quán như vậy là động sao? Thì ngay đó dùng cái pháp Như Lý Tác Ý mà tác ý đuổi nó liền tức khắc, đây là dục lậu.

Bởi vì các con đã tu Tứ Chánh Cần các con đã thông suốt được cái tri kiến của các con. Khi một niệm nó xảy ra đây là dục lậu, đây là thất kiết sử, đây là ái kiết sử, đây là cái gì, cái gì. Các con điểm mặt nó liền "Đi đi, mày là ái kiết sử, mày là dục lậu, mày là nhân, mày là ác pháp", rõ ràng là mình chỉ mặt nó hết, không có cái nào mà xảy ra được trong cái trí của mình được hết. Một cái niệm nó khởi ra là mình biết nó là cái thứ gì rồi, phải không các con thấy? Tứ Niệm Xứ là chúng ta phải thông suốt hết.

Cho nên ngay bây giờ các con thấy, Thập Thất Kiết Sử (mười bảy cái kiết sử) các con chưa thông, phải không? Bây giờ Ngũ Triền Cái là tham, sân, si, mạn, nghi các con phân biệt với tham, sân, si của Thất Kiết Sử, các con cũng chưa biết phân biệt nó nữa. Cho nên tất cả những cái này các con phải học thuộc, phải biết được nó, từng cái tâm niệm của mình nó nằm ở chỗ nào. Rồi bắt đầu các con phải học được Dục lậu, Hữu lậu, Vô Minh lậu. Các con biết là cái tâm dục của mình nó khởi ra cái lậu hoặc đó thì các con biết nó, cái niệm đó nó sẽ là Dục lậu, cái niệm này là Vô Minh lậu, cái niệm này là Hữu lậu.

Các con phải biết rõ nó để khi mà nó khởi ra thì Tứ Niệm Xứ, thì ngay đó cái trí tuệ của các con thấy cái niệm đó liền: "Mày là dục lậu, đi đi. Mày là thất kiết sử, đi đi", thì cái gì mình điểm mặt nó, mình đuổi nó đi hết. Cho nên mình tác ý ra mình đuổi liền tức khắc thì ngay đó thân tâm của mình thanh thản, an lạc, vô sự liền. Một cọng rác nó rớt trên thân, thọ, tâm, pháp của mình thì mình quét ra liền. Chứ đâu phải ngồi đó suy nghĩ để truy tìm nó là Dục lậu hay Hữu lậu hay Vô Minh lậu, đâu phải còn như người mới học vỡ lòng nữa.

(50:06) Nghĩa là cái người mà ở trên cái lớp Tứ Niệm Xứ này là chỉ có áp dụng mà giải đáp những cái bài toán khó ở trên thân, thọ của nó mà thôi. Chứ không còn phải là học những cái công thức, những cái định lý để mà làm ra cái bài toán, để đáp số cái bài toán, ở đây không có học những cái đó. Ở đây đã học xong hết rồi, đã thông suốt nó rồi, chỉ còn áp dụng trên Tứ Niệm Xứ. Vì vậy mà bảy ngày, bảy tháng, bảy năm là thành tựu đạo giải thoát. Các con thấy có lâu không? Không có lâu, nhanh lắm các con.

Nhưng mà thực sự ra mình phải tập những cái căn bản mà tập trong vòng đâu có lâu. Năm hơi thở đi kinh hành mấy con tập một tuần lễ, hít thở hơi thở chậm nhẹ rồi năm hơi thở bình thường, tập như vậy trong năm ngày xả bỏ. Rồi bắt đầu đi kinh hành, tập đi kinh hành vòng vòng, tập thanh thản, đi kinh hành quen rồi xả bỏ, bây giờ ngồi chơi, ngồi chơi trên Tứ Niệm Xứ mà quét.

Bởi vì cái hoàn cảnh của các con là một tu sĩ rồi, nghĩa là chỉ đi xin ăn rồi, không có còn mà lo lắng cơm nước, áo quần gì nữa hết, đời sống nhà cửa, tất cả điện nước cái gì người ta cũng lo cho mình hết rồi, chỉ bây giờ chỉ còn có tu thôi, phải không? Mà lỡ bây giờ điện cúp, có gì đâu, ngày xưa ông Phật có điện đâu, ở trong rừng làm sao có đèn đâu, ông Phật còn sống được huống hồ mình điện cúp cũng chạy hô hào đèn tui cúp này kia, chi cho mất công. Nó cúp thì kệ nó, nó sáng thì mình sáng, mà nó tối kệ nó. Không còn lo, chỉ lo cái tâm này nó đen hay là nó trắng đây? Phải không? Thân - Thọ - Tâm - Pháp của mấy con đen hay là trắng thôi. Cho nên nỗ lực mà thực hiện tu tập, tu tập cho thực sự, thì Thầy tin rằng nếu mà tu đúng thì các con sẽ bảy ngày, thì tức là bảy ngày nói bảy ngày chứ 24 tiếng đồng hồ là đủ rồi, đủ chứng đạo rồi đó mấy con.

Nghĩa là tâm mà nó không phóng dật, thanh thản, an lạc suốt 24 tiếng đồng hồ, mà đức Phật đã xác định bảy ngày, phải không? Bây giờ trên khoảng thời gian mà tâm như vậy thì trong cái thời gian còn lại một, hai ngày, Thầy nói một, hai ngày nó lâu chứ trong vòng chừng mấy tiếng đồng hồ là mấy con nhập sạch tất cả các định. Tức là từ Nhị Thiền đến Tứ Thiền, Tam Minh các con chỉ trong vòng mấy tiếng đồng hồ. Chưa đầy mười hai tiếng đồng hồ các con đã làm xong. Nhưng mà cái tâm mà ly dục, ly ác pháp mà để cho nó không phóng dật, thì cái sự tu tập này nó phải suốt bảy ngày. Mà bảy ngày mà giữ được thì các con đã thành tựu, mà không giữ được thì các con phải bảy tháng; bảy tháng mà giữ được thì các con sẽ thành tựu, mà không giữ được thì nó bảy năm. Bảy năm không giữ được các con đã tu sai rồi, không đúng rồi, các con đã tu trật rồi, các con không còn tu được đâu.

Bảy năm mà các con tu không đúng, tức là các con có những cái trục trặc, có những cái sai, có những cai phạm giới, có những cái gian xảo gì ở trong này không chịu thưa hỏi kỹ. Cho nên vì vậy bảy năm mà các con không giữ đúng cái Tứ Niệm Xứ các con tu tập, thì tức là các con đã tu sai từ ngay ban đầu mà các con không thấy.

Cho nên theo Thầy thiết nghĩ cái phương pháp mà Phật dạy nó không phải khó, nhưng khó là cái người mà làm sao kìm giữ các con tu cho đúng, phải có cái người đó, thì các con sẽ tu không sai. Còn nếu mà để các con tự tu là các con sẽ tu sai, Thầy biết điều này. Cũng như trong một cái lớp học muốn đào tạo một cái ông bác sĩ, thì cái người học viên, cái người học sinh phải học những cái tay nghề như thế nào, thì ông bác sĩ phải chỉ cách thức cầm dao mổ xẻ như thế nào? Rồi thuốc thang phải học như thế nào? Để rồi mới trị bệnh, mới cầm cây dao mổ xẻ người ta.

(53:54) Thì như vậy phải lâm sàng, phải trực tiếp làm những cái việc đó, thì cái ông bác sĩ phải trực tiếp dạy cái người học trò của mình. Ngay ở trên lâm sàng bệnh nhân để mà nó mổ xẻ, thực tập ở trên đó. Thì trước khi mà thực tập thì nó phải mổ xẻ những cái thân xác của người khác, nó phải mổ xẻ thân người ta. Chứ nếu mà bây giờ học mà lý thuyết suông không, mà nó không có cầm dao nó mổ thịt người ta, thì chắc chắn tới chừng đó nó cầm dao nó mổ không được.

Thì các con phải có một ông Thầy phải dạy các con từng chút, từng chút để các con biết mổ xẻ được cái thân tâm của các con, giải phẫu được những cái ung nhọt của nó ở trong này, thì nó sẽ hết cái bệnh của các con. Chứ nếu mà nó không phẫu thuật được những cái ung nhọt của nó trong này, mà các con thì hiện bây giờ cầm cái dao thì các con chưa có mổ xẻ nó được, mà cái ông bác sĩ mà không chỉ cách thức cho các con mổ xẻ thì các con mổ xẻ không được.

Cho nên cái bệnh, cái bệnh ngàn đời của các con, cái bệnh sinh tử của các con không bao giờ chấm dứt được, Thầy biết điều này. Nhưng các con phải cố gắng, phải học, phải tu tập kỹ, phải cầm con dao cho sắc bén để mà từng cái ung nhọt nó khởi lên thì các con mổ nó, giải phẫu, phẫu thuật liền. Đừng có để cho nó gây cho các con những cái bệnh trầm kha, cái bệnh đau khổ, thì như vậy các con mới thấy được cái sự giải thoát. Chứ nếu không tu riết rồi thì chúng ta sẽ thành tu pháp của ngoại đạo mà không thực sự là pháp của Phật.

Giống như là kinh sách nói pháp đó đúng đó, nhưng mà coi chừng tu sai. Bởi vì Thầy Tổ của chúng ta đã đọc kinh sách Phật và đã tu mà không có người kinh nghiệm, cho nên nó đã là tu sai. Vì vậy mà biến kinh sách Phật ngày hôm nay trở thành cái pháp của ngoại đạo mà chúng ta còn không biết đường nào mà tu. Và đến bây giờ Thầy vạch ra con đường đi để mà chúng ta thấy, nhưng mà không có người hướng dẫn thì các con cũng sẽ biến những cái pháp mà Thầy đã vạch ra nó cũng sẽ trở thành pháp ngoại đạo mất đi, tu ức chế tâm, không bao giờ giải thoát. Cuối cùng đây rồi không có người tu giải thoát.

(56:01) Cho nên hôm nay các con nhớ kỹ, Thầy thì bận công việc, cái "Đường Về Xứ Phật" đã xong. Thay vì nó tiếp tục qua tập mười một (XI), nhưng mà nhất định Thầy chấm dứt đình chỉ lại, để sau này có dịp thời gian sẽ trả lời những cái điều này, còn bây giờ thì không trả lời nữa và lo cái bộ sách Đạo Đức. Và vì vậy thì các con lúc này các con phải cố gắng nỗ lực, có điều gì mà tu tập sai thì phải thưa hỏi Thầy liền, đừng có ôm ấp, đừng có chịu đựng, đừng có nghĩ. Thấy trạng thái mà an lạc cũng phải trình lại Thầy, thấy trạng thái có cái sự khác biệt thì phải trình bày ngay Thầy. Điều đó là chỉ có Thầy xác định được cái sai, cái đúng. Nếu không khéo mấy con sẽ lạc vào:

Thứ nhất: Lạc vào những ác pháp, tức là những trạng thái tưởng.

Thứ hai: Là lạc vào những trạng thái tưởng mà dục lạc, nó sanh các con thấy thích thú, an lạc bằng cách này, bằng cách khác. Điều đó cũng là sai.

Bởi vì Phật pháp chúng ta hiện giờ, cái thân tâm chúng ta hiện giờ ai cũng biết thanh thản, an lạc, vô sự. Nó có dục lạc, nó có làm cho chúng ta thích thú cái gì không? Không, hoàn toàn không. Nhưng mà nó vẫn thanh thản, an lạc, vô sự kia mà. Nếu có một cái trạng thái gì làm chúng ta thích thú, an lạc coi chừng chúng ta sẽ lọt vào Tưởng, chưa hẳn đã đúng. Bởi vì đức Phật nói: "Do ly dục sinh hỷ lạc". Vậy thì ly cái dục rồi còn cái gì thích chỗ này? Tại sao có cái chỗ này làm chúng ta thích? Vậy thì thích là cái gì? Chúng ta phải đặt câu hỏi, thích là cái gì? Có phải dục không? Nếu dục tại sao lại là hỷ lạc? Mà hỷ lạc tại sao có dục ở trong này? Có dục trong này tức là dục của hỷ lạc, chứ không phải ly dục. Nếu đã ly dục thì làm sao có sự thích thú?

(57:50) Các con tự đặt câu hỏi, các con sẽ nghiệm thấy được cái trạng thái. Bây giờ tâm Thầy thanh thản, an lạc và vô sự Thầy có thấy thích thú gì đâu. Có không? Có thích thú gì đâu. Nó hồn nhiên, nó tự nhiên chứ nó đâu có gây cho Thầy có cảm giác gì mát mẻ hay là an lạc ở trong đó đâu, có đúng không? Các con thấy đó là do ly dục mà, phải không? Do ly dục mới có cái này, còn nếu bây giờ dục như thế nào? Thầy muốn cái này, Thầy muốn ăn cái kia, bây giờ Thầy cầm cái bánh Thầy ăn ngon thì đó là dục chứ cái gì. Ngon của cái bánh là dục chứ gì? Còn bây giờ Thầy không có ăn cái gì, Thầy không có gì dục hết, mà bây giờ tâm Thầy thanh thản, an lạc và vô sự thì đây là do ly dục sinh hỷ lạc chứ.

Tại sao lại có những cái hỷ lạc mà làm chúng ta thích? Thích là gì? Là dục. Cho nên vì vậy mà có cái thích là dục. Bởi vì đó đức Phật gọi là: Khổ và Lạc. Mà có cái sự thích là lạc của sự thích, mà khổ có sự không ưa của khổ, phải không? Cho nên thọ khổ và thọ lạc và cái thọ không khổ không lạc nữa, nó không khổ không lạc. Còn ở đây chúng ta nhận ra được cái trạng thái của chúng ta thanh thản, an lạc, vô sự không có nghĩa là không khổ không lạc. Rõ ràng ở đây nó không khổ không lạc, nhưng mà nó có cái trạng thái chứ không phải không khổ không lạc. Bây giờ chúng ta ngồi đây nó mất tiêu luôn, nó cũng không khổ không lạc kia mà, thì đó là sai mà. Cho nên ở chỗ “không khổ không lạc” là cái chỗ "Không".

Còn cái này rõ ràng là tôi ngồi đây tôi biết tâm tôi thanh thản, an lạc, vô sự mà. Cho nên đức Phật nói: "Ta tu chứng ta biết ta tu chứng, chứ đâu phải là ta không biết ta tu chứng", đâu phải là Vô Sở Đắc. Cho nên ở chỗ cái này chúng ta xét qua, chúng ta biết tâm chúng ta có tham thì chúng ta biết nó có tham, mà không tham thì chúng ta biết nó không tham. Rõ ràng là cái chỗ tu mà không tham, không sân, không si là giải thoát chứ gì. Ông Phật dạy chúng ta rất rõ. Chúng ta biết từng tâm niệm của chúng ta giải thoát, mà nó không tham, sân, si là thanh thản, an lạc, vô sự chứ gì, phải không? Cho nên vì vậy mà chúng ta thấy rất rõ trên con đường tu tập của chúng ta.

(1:00:00) Cho nên hôm nay trong cái sự tu tập mà chúng ta tu tập đúng là chúng ta thấy hạnh phúc vô cùng, hạnh phúc vô cùng và biết cách tu tập. Biết cách tu tập là khó, nhưng cách tu tập rất đơn giản không khó. Nhưng biết cách tu tập chúng ta sống, ví dụ như vào Tu viện cho chúng ta một cái nhà chúng ta ở, mà chúng ta biết cách tu tập sống, chúng ta thích sống ở đây, đời không có cái chỗ nào mà giải thoát được như chỗ này cả. Nay chuyện này, mai chuyện khác, mốt chuyện kia đủ thứ. Còn ở đây mình là vô sự, không bao giờ Thầy sai đi làm cái này, Thầy sai đi làm cái kia.

8- SỐNG VÔ SỰ KHÔNG NGHE BĂNG ĐỌC SÁCH

(1:00:37) Vào đây coi như là mình gọi là tiên rồi, có phải không? Mấy con thấy này, trưa có bữa cơm ăn khỏi cần lo gì hết, không phải là Tiên sao? Nước uống có đủ không có thiếu, nào là điện nước tất cả những cái gì, đời người ta làm sao được mấy con? Thế mà người đi tu chúng ta lại được hưởng cái hạnh phúc tuyệt vời là một người Tiên rồi, sống như Tiên rồi. Thế mà người ta không ham thích, người ta thích chạy chỗ này, chạy chỗ kia chơi cho nó thích thú, như vậy là có giải thoát được không? Người ta thích nghe băng, người ta thích đọc kinh sách nó có giải thoát không? Đó chỉ là mua vui mà thôi chứ đâu có giải thoát được.

Các con cứ nghĩ đi, mình vô đây là hoàn toàn mình là người vô sự. Bây giờ ngồi mà nghe cuộn băng Thầy giảng có phải là vô sự không? Đầu óc chúng ta đang phóng dật mà làm sao vô sự. Bây giờ lấy cuốn kinh đọc để tìm hiểu được nghĩa lý của Thầy nói rất hay, rất thích. Nhưng mà sự thật ra chúng ta có vô sự không? Thật sự ra chúng ta là người hữu sự rồi, chúng ta không phải là người vô sự.

Cho nên người mà vô đây, được Thầy cho một cái thất rồi. Chúng ta sống nhất định là, thứ nhất chúng ta là Tiên, thứ hai chúng ta là Phật. Tiên thì đâu còn lo đói, lo no, nước nôi gì đầy đủ, hoàn toàn cuộc sống không còn thiếu gì cả hết. Nghĩa là chúng ta thấy, bây giờ chỉ có chúng ta sinh lòng dục là bây giờ chúng ta chưa có xe Cub, xe Dream, xe hơi, nhà lầu, nhà đài, ăn đồ ngon này kia thì chúng ta sanh cái tâm dục đó. Chứ còn thật sự ra nếu mà một ông Tiên mà ở trên núi thì chắc chắn ông đâu có ham cái thứ đó đâu, mà ông chỉ cần đủ sống thôi, thì ông là Tiên rồi chứ gì.

Nhưng mà bây giờ hàng ngày chúng ta đã giải thoát được tâm của mình, đó là Phật chứ gì? Làm chủ được vô lậu của mình là Phật chứ gì? Đọc kinh, đọc sách để làm gì đây? Cuộc đời của chúng ta, nếu mà chúng ta muốn hiểu biết, muốn biết kinh sách, muốn hiểu biết những lý của các nhà triết học ở trên cái thế gian này, thì chúng ta đi vô trường chúng ta học triết Đông, triết Tây người ta dạy đủ thứ hiểu biết. Còn bây giờ chúng ta đi đọc những cuốn kinh, cuốn sách này làm gì đây? Vô đây Thầy chỉ dạy là lo tu để mà sống làm Tiên, làm Phật, chứ đâu phải mà còn làm phàm phu nữa. Học ba cái lăng nhăng này, đọc ba cái hiểu lăng nhăng này thì nó có lợi ích gì cho chúng ta đâu. Nó có đem đến chúng ta giải thoát được không? Không. Nó lại làm cho chúng ta mua vui nó, để mà chúng ta chạy theo cái dục lạc của chúng ta.

(01:02:55) Bây giờ cô đơn quá! Đọc cái cuốn sách này nó cũng là mua vui mình thôi. Bây giờ cô đơn quá lấy cái băng này nghe, nghe lải nhải cũng như nghe ca hát vậy thôi, đặng cho nó giải trí mình thôi. Thay vì ngoài đời nghe bài hát, bây giờ mình nghe ông Thầy ông nói cái này cũng hay chứ, ông nói cái này thì cũng thiện, ông nói cái này cũng tốt chứ. Mình nghe như vậy có lợi cái gì? Thầy nói có lợi gì đâu? Chỉ nghe để mà giải trí, để mà mua vui cho mình trong khi mình bị cô đơn.

Còn mình chịu sống cô đơn, trầm lặng, để làm gì? Để mình sống cho mình, mình mới biết được cái tham muốn của mình, cái dục lạc của mình, để mình đẩy lui ra hết. Mình đẩy lui ra hết tức là mình là Phật. Còn bây giờ cuộc sống của quý vị là Tiên rồi đó. Thầy nói thật sự ông Tiên là bây giờ ông chỉ cần ông ăn lá cây trên rừng, ông ăn trái cây rừng ông sống, ông cũng thấy thoải mái rồi, ông đâu cần phải lo làm cái này cái kia, là Tiên rồi chứ gì?

Còn ở đây chúng ta sống, nhà ở, nước uống cái gì chúng ta cũng đủ hết, không còn lo cái đời sống chúng ta gì hết. Thế mà chúng ta không muốn làm Tiên, làm phàm phu. Vì vậy mà trong thất quý vị kinh sách để để mà đọc, đó là làm phàm phu chứ gì. Vì vậy mà băng nghe, để mà trong thất để nghe đó là làm phàm phu chứ gì. Không muốn làm Tiên. Tiên không phải sướng hơn hả? Ngồi không chơi không có sướng sao? Không muốn làm Tiên mà làm phàm phu.

Tại sao chúng ta ngu si mà làm phàm phu để rồi trôi lăn ở trong Lục đạo? Phải không? Còn bây giờ chúng ta lại tiếp tục chúng ta làm Tiên rồi, sống cuộc sống chúng ta là Tiên rồi đó, chúng ta dẹp hết ba cái đồ trần tục này đi, phải không? Bây giờ chúng ta tiếp tục để làm Phật, làm Phật thì phải quét sạch trên Tứ Niệm Xứ, quét sạch những cái tàn tích, những cái bẩn thỉu, những cái bất tịnh nó ở trên này đi thì nó không còn khổ đau, bệnh tật, nó không còn gì hết hoàn toàn, thì đây là mình Phật chứ gì? Hạnh phúc quá! Sung sướng quá!

(1:04:35) Ai về đây mà thấy Thầy có sai đi làm cái này, kia không? Làm chi cho cực, phải không? Các con thấy, coi như là Thầy đâu có bảo các con phải chăm sóc cây này, cây kia để giẫy cỏ, Thầy không bảo người nào làm hết. Thầy chỉ hồi đó, Thầy chịu cực khổ, Thầy trồng cái rừng cho mấy con ở trong mát thôi. Còn bây giờ các con về đây các con quét sân, các con quét mà không quét các con cứ để đi, Thầy có rầy đứa nào đâu, nói đi. Thực sự ra Thầy chỉ cần các con quét cái tâm, chứ Thầy không cần quét cái sân đâu.

Còn Thầy sáng, tại Thầy quét là Thầy lao động cho có sự vận động thôi, chứ Thầy đâu có. Nhiều khi Thầy quét một chút Thầy bỏ, bữa nào trời mưa Thầy cũng không thèm quét Thầy cũng bỏ. Thầy đâu phải là người nô lệ cho sự quét này đâu. Cuộc đời của Thầy, Thầy không nô lệ cho ai hết, Thầy không nô lệ cho một cái gì dơ sạch nữa. Nhưng mà phải có sự vận động để cho cái cơ thể mình có vận động, chứ ngồi không thì coi như là nó thành ra cục bột sao, cho nên vận động chút. Cho nên ví dụ các con chưa thấy, ngày xưa Thầy ở đây này, sáng Thầy quét cái sân, cái sân Thầy có thể chia làm ba lần hay bốn lần Thầy quét, Thầy quét chút Thầy vô, chứ Thầy không phải quét đến mỏi tay đâu, Thầy quét không phải làm cho nó rồi đâu, Thầy quét đến đó nói nghỉ là nghỉ, chứ không có nói chuyện mà nó hết, làm cho sạch hết đâu, không phải đâu. Cái đôi mắt của Thầy không phải dơ sạch nữa đâu.

Nghĩa là sáng ra cầm chổi quét, quét cái chỗ đó sạch rồi mà thấy giờ nghỉ không quét nữa. Rồi ngày mai nếu mà suốt ngày nay mà nó thấy nó không còn muốn quét thì thôi nó không quét, mà nó cần quét là quét chơi thôi. Nghĩa là lúc bây giờ nó cần quét chơi là nó quét, mà nó không cần quét chơi là không quét. Đó là đối với Thầy, cuộc sống của Thầy như vậy.

Cho nên Thầy nghĩ rằng cuộc đời của du tăng khất sĩ, ông Phật không bao giờ mà lại đó dọn cỏ, dọn rác để mà sạch sẽ như chúng ta đâu. Ông ở bữa nay ngày mai, ngày mốt ông đi rồi, thành ra ông đâu có cần gì mà phải dọn. Còn chúng ta ở đâu chết đứng ở đó, phải sạch sẽ, phải này kia. Thật sự ra sạch sẽ là tốt, là vệ sinh. Nhưng không được vì sạch sẽ mà nô lệ nó. Nghĩa là phải làm cho sạch bữa nay. Các con cứ nghĩ các con làm sao cho sạch được? Sáng các con quét sạch rồi chiều các con thấy gió tung một cái đầy nhóc lại hết, có chỗ nào đâu gọi là sạch? Nhưng mình phải lao động để cho cái cơ thể, bởi vì mình là Tiên rồi, mà nếu mà mình không có lao động vậy thì ông Tiên ít bữa đó ông thành ra cục bột rồi, ổng đâu có còn tốt lành gì đâu.

Cho nên có sự vận động, mình không có đi kinh hành xa như đức Phật ngày xưa phải đi từ một, hai cây số mà đi xin. Còn mình bây giờ ở trong Tu viện ra đó bưng cơm về ăn, mà không chịu lao động quét, đi tới đi lui một chút xíu, thì cơ thể chúng ta sẽ như thế nào các con sẽ biết, nguy hiểm lắm chứ. Cho nên các nhà yoga, các con biết họ luyện tập cái cơ thể họ ghê gớm lắm, còn mình đây mình không luyện tập, mà ông Phật chỉ có đi xin thôi, thì hàng ngày ôm bình bát ông đi như vậy cả một, hai cây số thì cái vận động của người ta như vậy. Còn bây giờ mình phải vận động như thế nào chứ? Mình phải vận động, nhưng vận động không phải quá sức.

(01:07:37) Cho nên trong khi đó Thầy đọc kinh sách Phật. Chúng ta không nên ở xa, mà ở xa quá, mà đi xa quá mệt nhọc, ở vừa tầm để mà đi. Thí dụ như năm trăm thước hoặc một cây số là cùng chứ chưa hẳn tới hai cây số. Nghĩa là đi từ cái chỗ mà đức Phật ở mà đi đến chỗ đi xin. Thì khoảng độ năm trăm thước, thì các con thấy đâu có xa, một cây số thì bằng đây lên trên kia một chút chứ đâu có xa đâu, rồi bận đi bận về là hai cây số hết sức. Thì như vậy trong cái khoảng thời đức Phật, Thầy thấy đức Phật đã chọn lấy cái chỗ để đi xin, thì cách chỗ đức Phật đi xin thì cách đó năm trăm thước hoặc một cây số là cùng. Đó là cái cách thức vận động của người ta vừa đủ. Cho nên vì vậy mà Thầy nghĩ là mình ở trong Tu viện này mình đâu có đi cái quãng đường xa như vậy. Cho nên sáng mình quét một chút, mình quét một chút thôi đừng có quét nhiều, ai bảo quét cho sạch hết. Quét sạch hết chiều nó tung nữa nó cũng vậy thôi, có gì đâu, rồi bây giờ quét sạch nữa thì nó tung cũng vậy thôi. Thì mình cứ buổi sáng mình quét một chút, ngó vậy thôi.

Chứ không có nên làm để cho sạch như người khác ở ngoài đời. Cho nên đối với Thầy, cái sự tu là quan trọng nhất. Cho nên những cái tu sai của mấy con là Thầy biết là mấy con tu là càng tu lại càng sai. Ở đây băng, sách đều là chúng ta mới vào tu, chúng ta muốn tìm hiểu là chúng ta đọc cho kỹ lưỡng, hẳn hòi, đàng hoàng. Mà khi đã hiểu biết đường lối của Phật như vậy rồi, dẹp hết không cần đọc, không cần nghe nữa. Thầy giảng gì cũng không cần nghe nữa.

Cái người mà người ta nghe để mà người ta làm việc để những người khác người ta chưa biết thì người ta đọc, người ta nghe. Còn những người mình đã nghe rồi, đã biết rồi, tất cả những cái này tôi đã hiểu biết rồi, bây giờ Thầy có nói một ngàn lần nó cũng bao nhiêu đó thôi. Thầy có nói một ngàn lần thì nó cũng bao nhiêu đó, cũng từ Tứ Chánh Cần, Tứ Niệm Xứ, Tứ Thánh Định. Thầy không nói ra ngoài nữa được. Bởi vì có cái pháp nào ngoài ra để mà nói, bởi vì chỉ bây nhiêu đây mà tu chưa hết mà còn nói cái gì nữa? Các con thấy không? Cho nên bây giờ có nghe đi nghe lại cũng bấy nhiêu đó, chứ bây giờ các con có nghe hơn được không? Mà mỗi lần nghe các con lại thích thú, thích thú là gì? Dục lạc của mấy con chứ gì. Không có chịu dẹp ba cái dục lạc của phàm phu này đi.

(01:09:55) Vô trong chùa lẽ ra mà nếu mà các con có cái băng mà cái cô ca nhạc, ca sĩ nào mà ca. Trời ơi! Lâu lâu nghe một lần mùi ghê gớm, sự thật ra mùi cái gì? Dục lạc chứ mùi gì? Lâu lâu nghe băng Thầy nói, trời ơi bữa nay nghe hay quá trời! Hay cái gì? Tu không hay ở đó nghe mà hay sao được mà hay, phải không? Người không biết thì người ta nghe để mà tìm hiểu cái biết để mà thực hiện. Còn mình bây giờ biết rồi mà không tu mà cứ nghe hay. Nghe để mà tạo cho chúng ta mất cái cảnh thanh tịnh trong tâm chúng ta, tạo cho tâm chúng ta phóng dật, mất cái cảnh mà chúng ta sống cho chúng ta.

Bởi vì bây giờ chúng ta là người phải sống cho mình. Mà mình không sống cho mình mà mình sống trong băng của Thầy chi? Sống ở trên sách của Thầy chi? Sống ở trên kinh của Phật làm gì? Sống ở trên đó nó có giải thoát không? Cho nên dẹp hết, sau khi mà nghe rồi, đến đây mà chấp nhận tu thì dẹp sạch hết, chỉ còn biết sống ăn một ngày một bữa, phá hôn trầm buồn ngủ, sống độc cư trầm lặng một mình. Nhất định, quyết định là phải thực hiện cho đến Tam Minh. Chừng đó mà quý vị thực hiện Tam Minh rồi thì quý vị muốn nghe, muốn thấy thì quý vị ngồi đây thì quý vị sẽ thấy bên Mỹ, bên Tây cũng thấy nữa. Chứ còn bây giờ quý vị đi nghe thấy ở đây, cách ở kia quý vị còn nghe nữa không?

Nghĩa là bây giờ Hòa thượng Thanh Từ đang thuyết giảng ở trên Trúc Lâm, quý vị có nghe được không? Ông Phật bây giờ đang thuyết giảng ở trong Niết Bàn quý vị có nghe được không? Sao không mở cái băng đó nghe? Mà lại nghe chi cái băng ở đây chi vậy cho nó thêm những cái vật dụng cho mất công. Cho nên ở đây Thầy nói thật sự, hãy muốn nghe thì tập cho được Tam Minh mà nghe, thì cái nghe này chừng đó quý vị cũng chán lắm rồi, cũng hết muốn nghe rồi. Tôi muốn sống cô đơn, trầm lặng, giải thoát. Tôi nghe ông Phật lải nhải tôi cũng ghét nữa. Thực sự bây giờ, Thầy nói bây giờ, Thầy muốn nghe ông Phật thuyết giảng, muốn nghe cái bài kinh ông Phật ở quá khứ, Thầy chỉ cần hướng tâm mình trở về đó Thầy nghe.

Nếu mà Thầy đang ở trong tâm trạng của mấy con, thì chắc chắn tối ngày đi nghe ông Phật thuyết giảng ở quá khứ, phải không? Cứ mở băng đó nghe hoài, còn Thầy có cái băng đó chứ Thầy không nghe, Thầy chán quá! Ông nói lải nhải cũng bao nhiêu đó thôi. Hòa thượng Minh Châu cũng dịch ra bao nhiêu đó là hết rồi. Ông có nói đi cho lắm cũng bao nhiêu đó thôi. Cho nên vì vậy đối với Thầy là một người là hoàn toàn phải thấy được cái sự giải thoát của mình. Mặc dù là tu rồi. Còn mấy con hiện giờ tu chưa xong mà bảo các con bỏ, bỏ xuống hết, bỏ sạch hết để lo giải thoát cho mình.

Bây giờ các con có biết ngày mai các con sống hay là các con chết? Cho nên đức Phật bảo: "Quán niệm chết". Quán niệm chết để làm gì? Để biết rằng ngày nay mình sống, ngày mai mình chết. Mình chết rồi mình lấy chỗ nào mình tu nữa? Mà tại sao không lo? Mà chỉ có bảy ngày, bảy tháng, bảy năm mà sao không tập trung mà làm? Có phải chi có một cái thời gian vô lượng, vô số kiếp nào đó, thì thôi bây giờ thôi cũng từ từ, mình dài dài mình đi đi. Còn bây giờ có cái thời gian ngắn mà cái thân này có đâu phải dễ, cho nên vì vậy cái thời gian ngắn như thế này mà không tu được thì uổng quá đi.

(01:12:57) Đức Phật đã xác định bảy ngày, bảy tháng, bảy năm. Thế mà chúng ta còn lại ngày nay là cái ngày thứ nhất mà chúng ta biết Phật pháp rồi, thì vui gì mà chúng ta ngồi đây mà nghe băng, mà ngồi đây mà đọc kinh sách, mà không lo tu tập. Cho nên nỗ lực trong bảy ngày, bảy ngày không được bảy tháng cho xong, nhất định là phải xong. Nhiệt tâm hết sức trong cái thời gian, mà thời gian Thầy nói nó quá ngắn, chứ đâu có dài đâu, đâu phải từ vô lượng kiếp đâu. Cho nên vì vậy mà chúng ta biết pháp rồi chúng ta phải làm chủ cho được. Bởi vì làm chủ được chúng ta mới biết rằng chúng ta bỏ thân này chúng ta đi về đâu nè, ở đâu nè, chúng ta biết được. Và chúng ta chết hồi nào, sống hồi nào? Chúng ta làm chủ được không phải hạnh phúc sao?

Cái này có đem vàng bạc, ngọc ngà, châu báu, kim cương đổi được không? Nếu đổi được thì mấy cái nhà giàu kia nó đổi cái sự làm chủ này rồi. Cho nên có ai đổi được đâu. Vậy mà có cái thời gian ngắn mà chúng ta làm như thế này đâu phải là, có nhiều người đâu phải là nó dài. Có nhiều người cả một cuộc đời họ, họ mới xây dựng được sự nghiệp, họ mới cất được cái nhà lầu, cái villa, họ mới sống có tỷ phú, có bạc tỷ là cả một cuộc đời họ hết sức họ mới làm được. Còn mình cả cuộc đời của mình, mà chỉ có mấy ngày mà làm được nên công việc này mà lại không làm, nó dễ chứ đâu phải khó. Còn bây giờ cỡ mình làm như tỷ phú, mình khó không? Mình đi ra mình mở nhà máy, mình đi ra mình mở công xưởng, mình đi làm để cho mình trở thành tỷ phú, mình có làm được không? Chắc chắn là cái chuyện thế gian đó người ta còn làm được tỷ phú, hàng tỷ phú. Còn mình mình có làm được không?

(01:14:28) Thế mà cái pháp của Phật Thầy nói có bảy ngày, bảy tháng, bảy năm như vậy mà tại sao chúng ta làm không được? Còn cái kia muốn trở thành tỷ phú, bảy năm chúng ta trở thành tỷ phú được không? Chắc gì mà bảy năm chúng ta làm tỷ phú được. Thế mà người ta làm được, thế mà con người làm được. Vậy mà cái pháp giải thoát này nó quý hơn tỷ phú, thế mà chúng ta lại có bảy ngày, bảy tháng, bảy năm chúng ta làm không được sao? Phải không?

Rõ ràng cái này là cái pháp quý báu vô giá ở trên đời này. Thế mà cái thời gian nó ngắn như vậy mà tại sao chúng ta không làm? Để trôi lăn trong cái lục đạo như thế này, để thọ lấy những khổ đau của hàng ngày, hàng giờ, của ác pháp nó đến xâm chiếm mình, nó làm cho mình thở không ra hơi được. Bây giờ thử mình mạnh, mình thấy nó khỏe chứ gì. Tối nay đau rồi mình thở không ra hơi, mình thấy khổ không? Nó nhức chỗ này, nó đau chỗ kia, mình rên la, có phải khổ không? Mình không làm chủ được thì làm sao mình làm chủ được cái bệnh của mình.

Cho nên trong cái giờ phút như thế này mà mấy con không chịu tu hành, Thầy nói thiệt ra, còn tu thì lại tu sai. Rồi tu sai rồi bây giờ muốn giải trí thì phải làm sao? Lấy cái băng nghe cho nó giải trí, như vậy là nó còn sai hơn nữa, nó lại trật đường rồi. Nói mình nghe như vậy để rồi nó sách tấn mình tu hành, để không mình lười biếng. Đã tu sai nó sanh lười biếng rồi, bây giờ lại nghe đặng cho nó sách tấn. Cho nên những cái người mà vừa tu, mà vừa nghe thuyết giảng là những người đó không bao giờ đi tới đâu hết. Cách thức đó là cách thức sai.

Tu là phải thật tu, tu là phải sống cho mình, phải sống trầm lặng độc cư, để mà quan sát chính cho bản thân của mình, mình luôn luôn quét nó ra. Thì như vậy gọi là ly dục, ly ác pháp gọi là xả tâm. Đó là cách thức tu đúng. Cho nên ở đây tu không mệt nhọc, tu không khó khăn, tu giải thoát hoàn toàn liền ngay tức khắc trong giờ phút chúng ta đang tu. Cho nên đức Phật nói: "Theo pháp, ôm pháp mà thấy giải thoát". Đừng có rời cái pháp ra, rời cái pháp ra là không giải thoát.

Bởi vì mình rời ra là mình nghe băng, mình rời ra là mình đọc kinh sách là mình rời pháp rồi. Đâu có phải mình nghe pháp là mình ôm pháp đâu. Còn mình ôm pháp tức là mình sống trong giải thoát. Cho nên đừng có lìa pháp, giờ nào cũng đừng lìa pháp. Ăn cơm cũng không có lìa pháp nữa, ăn thì để cho sống chứ không phải ăn ở đây để: "Ờ, miếng này ngon, cái này là cay, cái này đắng. Bữa nay không có ớt thèm quá", thì chạy ra ngoài kia bẻ trái ớt vô ăn cơm mới được. Thì như vậy là mình rõ ràng tâm phóng dật theo ớt rồi, chứ đâu phải là tâm đang ở trong pháp đâu.

(1:16:49) Cho nên luôn luôn lúc nào cũng ôm chặt pháp, sống trong pháp. Pháp là cái gì? Là tâm thanh thản, an lạc, vô sự chứ. Ngoài cái tâm an lạc, thanh thản, vô sự là pháp gì? Tất cả những cái phương tiện kia để dùng cho chúng ta sống trong chánh pháp của chúng ta, có phải không? Đó là Tứ Niệm Xứ của chúng ta thanh thản, an lạc, vô sự chứ gì. Nếu mà Tứ Niệm Xứ không thanh thản, an lạc, vô sự nó là pháp sao?

Đó, hôm nay Thầy nói để cho thấy được cái điều kiện mà chúng ta tu tập. Không khéo người này nói tôi tu được vầy, người kia nói tôi tu được kia, an lạc, thích thú đủ thứ, đủ loại. Coi chừng ma vương chứ đâu phải an lạc, thích thú đó là thật đâu. Sai một chút là chúng ta đi sai ngàn dặm đó. Nó lọt vào trong cái hang ma rồi, thì lúc bây giờ mà lôi mấy con ra đâu phải chuyện dễ. Hễ ngồi mấy con lọt vô đó, ngồi lọt vô đó, rồi bắt đầu phải xả cho hết cái đó là cả một cái vấn đề khổ của một người hướng dẫn, người ta hướng dẫn mình.

Còn bây giờ tâm mình tự nhiên, mình để cho nó tự nhiên, rồi mình cứ xả những cái chướng ngại thôi, còn cái tự nhiên của nó thì cứ để, có gì đâu mà phải sanh thêm một cái khác trong này được. Mà sanh thêm cái khác nó có đúng không? Không đúng đâu. Cho nên đức Phật nói: "Pháp hiện tại không có thời gian", thì đức Phật xác định: "Tâm có tham tôi biết tôi có tham, tâm không tham tôi biết tôi không tham. Tâm có sân tôi biết tâm tôi có sân, tâm không sân tôi biết tâm tôi không sân". Rõ ràng đức Phật xác định cho chúng ta biết pháp không có thời gian. Bây giờ tâm tôi không sân, tôi biết. Mà tâm tôi không sân nó sẽ ở đâu? Phải không? Nó sẽ ở trong thanh thản, an lạc, vô sự chứ không lẽ nó ở chỗ không sân là nghĩa lý gì, phải không? Rõ ràng là tâm tôi ở chỗ nào giải thoát tôi biết, mà chỗ nào không giải thoát tôi biết chứ gì.

Do đó mà tôi biết cái chỗ mục đích của tôi đạt được là phải chỗ này. Đơn giản quá! Vậy thì tôi cần gì phải tu cái pháp nào nữa đâu, phải không? Cái pháp rõ ràng rồi. Vậy thì tôi sống có chướng ngại thì tôi đẩy lui, mà không có chướng ngại thì tôi không đẩy lui. Cho nên thời khóa trong thời đức Phật có phải dạy chúng ta: Có chướng ngại pháp thì đẩy lui, mà không chướng ngại thì thôi, phải không? Mà sáng, trưa, chiều, tối, khuya có bao nhiêu đó thôi, làm có bao nhiêu đó thôi. Thì ông Phật có dạy mình tu cái pháp gì khác không?

9- KHÔNG SỐNG NỮA ĐẠO NỮA ĐỜI

(01:19:01) Đó thì như vậy chúng ta biết cách thức tu tập rõ ràng, mà cái thời khóa của đức Phật thời hồi ngày xưa, mà đức Phật đã để lại cho chúng ta thấy cái thời khóa của đức Phật và chúng Thánh Tăng tu hồi đó như vậy. Đó thì cách thức tu như vậy. Thì hôm nay các con đã thấy rõ Thầy nhắc nhở trong vấn đề này với một cái tâm tha thiết của Thầy mong các con sẽ được giải thoát như Thầy, được làm chủ như Thầy, Thầy mới nói.

Chứ còn lẽ ra thì mấy con tu sai thì mấy con chịu chứ đâu phải Thầy chịu, Thầy đã giải thoát rồi. Còn mấy con có tu giải thoát cũng đâu có giải thoát gì cho Thầy đâu. Ai tu nấy đi: "Các con tự thắp đuốc lên mà đi, ta không đi trên con đường đó được". Vì chính bây giờ Thầy nhắc nhở là để các con tự cứu lấy mình, để ra khỏi sự đau khổ. Còn các con điên dại, phí cuộc đời của các con, chạy theo những dục lạc nhỏ nhặt này, thà là mấy con dục lạc là thẳng thừng mấy con ra đời mấy con dục lạc, chạy theo đầy đủ dục lạc, lưu manh đủ loại với thiên hạ đi, muốn cái gì cho đánh lộn làm đủ cách, đủ loại cho nó đã cái đời đi, rồi các con trở vào thực sự dẹp bỏ hết.

Còn bây giờ vừa hưởng dục lạc chút chút nho nhỏ mà vừa lén. Thí dụ như bây giờ các con, sáng mấy con lén ăn cái bánh nó có dục lạc gì đâu. Tốt hơn ra ngoài tiệm kia kìa ăn hủ tiếu, ăn bánh, uống cà phê, uống cà pháo gì cho đã đi, nó phải ngon không? Còn bây giờ lén ăn cái bánh nó có mập béo gì được chút đâu, lén bẻ trái cây ăn nó có mập béo gì đâu. Tu là tu, mà không tu mà như vậy thì dục lạc nó nửa chừng, nó không có lợi ích gì cho mấy con hết. Cho nên dẹp sạch, bánh trái không có để lại, chiều nhất định không ăn, sáng nhất định không ăn, trưa ăn, chết bỏ.

Bảy ngày, có bảy ngày mà đâu có gì lâu mà sợ, bảy tháng đâu có gì lâu mà sợ. Còn giờ phải chi tôi tu vô lượng kiếp thì thôi bây giờ tôi cũng ăn chút chút, lén lén cũng được, để nó còn nhiều ngày, nhiều giờ. Còn bây giờ nó chỉ có cái thời gian ngắn như vậy mà không quyết định cho mình được sao? Còn mình dục lạc, ra đời dục lạc đi, đủ loại dục lạc. Ở ngoài đời nó đủ thứ dục lạc thì mình cứ thả cửa mà dục lạc với nó đi, ăn thua đủ với nó đã rồi bây giờ vô đây nhất định là không dục lạc. Chứ đừng có dục lạc, nửa dục lạc mà nửa không dục lạc thì nó không có lợi ích.

(1:21:08) Thầy nói đời chẳng ra đời, đạo chẳng ra đạo là chỗ này. Đạo thì thật đạo, mà đời thật đời. Đạo thì thật đạo phải giới luật nghiêm chỉnh, mà đời thật đời thì ăn chơi đủ như ông Út vậy đó. Nghĩa là cà phê, thuốc lá hoặc xì ke, ma túy gì ông cũng đủ hết, rượu thuốc nào ông cũng đủ hết, đó đời thật đời. Nhưng mà vào đạo thật đạo thì bỏ hết những thứ này. Chứ mà còn vô đây mà còn nhớ chừng lâu lâu uống lai rai vài ly, một vài lon bia thì không được, cái đó là cái không được. Bởi vì đạo không đạo mà đời không đời. Đời thì không dám hưởng nó nữa rồi, mà đạo thì không đạo. Thì như vậy mình làm cái chuyện lén lút làm cái chuyện sai trái, không có đúng cách đâu. Tu thật tu, mà không tu thì thôi. Thà là mình cái nào nó ở một cái góc này, đừng có ôm đồm cả hai cái. Nghĩa là đời với đạo mình ôm hết cả hai cái thì không được.

Hầu hết là tu sĩ chúng ta bây giờ là ôm cả hai cái, đời mà lẫn đạo nữa. Đạo thì muốn làm Phật, mà đời thì muốn ôm vô, thì thử hỏi làm sao mà ông Phật kỳ cục như thế? Ngồi trên bàn mà đời, đạo cũng muốn vậy hết thì sao được. Cho nên ở đây, thật sự ra mấy con phải nỗ lực tu, đời là đời, mà đạo là đạo. Nghĩa là còn một chút nào mà tâm dục lạc là phải tẩy trừ nó luôn, vì đây là đạo chứ không phải đây đời. Vì đây là phải sống trầm lặng độc cư chứ không phải nghe ca hát, nghe băng, nghe này kia nữa. Dẹp hết tất cả những cái dục lạc này đi. Thì như vậy mới là giải thoát.

Cho nên tại sao mà Thầy giảng hai mươi mốt cuộn băng, thay vì bảy chục cuộn băng. Mà tới hai mươi mốt cuộn băng là Thầy dừng lại, Thầy không muốn giảng nữa. Thầy nghĩ rằng người ta sẽ mượn băng của Thầy để biến Thầy trở Thầy đào kép để mà ca hát cho họ nghe. Cho nên Thầy nói một số quý thầy, mà cố gắng mà giảng băng cho nhiều, chẳng qua là đào kép hát cho những người Phật tử nghe. Thay vì bây giờ người ta nghe, nghe những nhạc sĩ, nghe những đào kép hát. Người ta nghe nó nhàm quá rồi, bây giờ người ta nghe mấy ông Thầy ca hát nó còn hay hơn chút, cho nên họ mới nghe.

Còn bây giờ, trái lại vì vậy khi mà Thầy giảng sáu mươi mấy cuộn băng, sáu mươi mốt cuộn băng là Thầy chấm dứt lại, nhất định là không nghe nữa, không giảng nữa. Thế mà hôm nay các con mỗi lần mà Thầy nói chuyện thì các con muốn ghi lại những cái băng. Đúng, những điều có nhiều khi Thầy tự xuất phát ra Thầy nói, có nhiều cái bài rất là súc tích rất hay, có đầy đủ cái nghĩa của cuộc sống của con người, có một nền đạo đức thật, có tình yêu quê hương, có một cái tình yêu con người. Nó rất súc tích, đầy đủ những cái lòng yêu thương, gợi lên những cái lòng yêu thương của con người.

Vì vậy mà những cái lời nói của Thầy mà không lưu lại, không ghi lại kịp, thì khi mà Thầy nói rồi thì chắc chắn là không nói lại lần thứ hai được. Cho nên ở đây thì những cái người mà muốn ghi lại một cái lịch sử, thì đó là những cái cuộn băng mà ghi lại hơn là những cái cuộn băng này mà để làm cho những người tu sĩ mà trở thành đi nghe nó thì không đúng. Mà nó chỉ là những cái lời nói để ghi lại một cái lịch sử, cái lịch sử thì cái lời nói đó được ghi đó là đúng. Còn để mà nói lải nhải cho các con nghe nó, thì nó không đúng đâu. Bởi vì cái pháp, các con đã biết rõ ràng là những cái pháp tu hành nó như thế nào rồi, thì cái nói này nó chẳng qua để giúp cho những người, người ta ghi, người ta ghi chép lại lịch sử. Chứ không phải những cái lời nói này để cho các con còn nghe nữa.

Hôm nay Thầy nói, các con nghe các con hiểu rồi, các con lo tu, chứ không phải lấy cái cuộn băng này mà nghe đi, nghe lại nữa. Vô ích lắm! Thầy nói vô ích lắm! Những cái cuộn băng này để cho những người làm sử, người ta ghi chép lại cái lịch sử, cái lời nói của Thầy ngày đó, để dạy con người tu tập như vậy thì nó hay.

HẾT BĂNG

2000 - TU TẬP GIẢI THOÁT 02 - TÂM VÔ SỰ LÀ TÂM GIẢI THOÁT

TU TẬP GIẢI THOÁT 02 - TÂM VÔ SỰ LÀ TÂM GIẢI THOÁT

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Phật tử

Thời gian: 2000

Thời lượng: [01:00:05]

Tên cũ: 2000-Tu tập giải thoát 2-Đạo đức giải thoát(trả lời ptử)

1- TÂM VÔ SỰ LÀ TÂM GIẢI THOÁT

(00:00) Phật tử: Mô Phật! Kính bạch Thầy, con cảm thấy những điều Thầy dạy, con thực hành mấy hôm nay. Con cảm nhận rằng, do chỗ xả tâm, thì tự nhiên nó trong trạng thái an định. Như ngày hôm qua, buổi sáng, con đi thiền hành ở bên nhà giảng phía sau, còn chừng bốn mươi phút nữa, thì con định về thất để con ngồi thiền.

Tại vì con muốn giữ thời thiền trong một ngày, con tu một thời như vậy, ngồi khoảng nửa tiếng cho quen. Do đó, con đi thiền hành thì thấy thân tâm nó thanh thản, an lạc thật sự. Rồi con đi về để con ngồi, ngồi như vậy chớ không có chủ đích gì.

Con cũng chỉ áp dụng phương pháp vậy thôi. Qua đó thì tâm tự nhiên nó bặt vào chỗ thanh tịnh như vậy. Con thấy rằng, chỗ đó là do con xả tâm, chớ không có do ức chế, tự nhiên thôi, không có cố ý. Vào buổi khuya hôm đó, thường khi con đi kinh hành, thì con phải đi xa xa, rộng rộng chút.

Bữa đó vừa thức dậy, chuông reo thì dậy. Lúc dậy con cảm thấy nó buồn ngủ, nên con nhắc tâm con làm chủ: “thức dậy!”. Nói như vậy là thức dậy ngay, tỉnh rồi con đi kinh hành chỉ khoảng trước cái thất của con, một đường ngang đó thôi, không cần đi hết cái vòng nữa. Chỉ một đường ngang thôi, thì cũng cảm thấy được an lạc.

Còn có nhiều lúc đi hoài, đi mấy tiếng đồng hồ không có an lạc gì hết. Rồi khuya đó thì con cảm nhận như vậy, con đi một đường ngang với quẹo một chút nữa, khi đi nghe nó thanh thản an lạc hoàn toàn. Rồi tiếp theo là buổi sáng rồi đến trưa, con rơi vào trạng thái như vậy. Tự con nhận xét, con thấy là do chỗ xả tâm, rồi an lạc thật sự, tự nhiên nó đến chỗ, vào chỗ thanh tịnh như vậy, mà không có chủ đích, không có ức chế. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

(02:55) Trưởng lão: À trong vấn đề tu tập của con, thì Thầy đã căn dặn nhắc nhở cho mấy con, là phải tu cho đúng. Cho nên sau những khi tu tập, các con xét thấy rõ ràng mình không ức chế, tức là mình không (ép), mình là vô sự. Không bắt buộc cái tâm của mình phải làm một công việc gì, ngoài công việc của nó là quan sát bốn chỗ Thân, Thọ, Tâm, Pháp, để đẩy lui các chướng ngại pháp trên đó mà thôi.

Tại vì có những ác pháp khác, nó làm cho thân tâm của mình chướng ngại. Vì vậy buộc lòng mình phải tìm cách để mình đẩy lui nó. Cho nên mình không vô sự được là vì có nó, chớ nếu mà không có nó, thì mình là vô sự. Mình là vô sự hoàn toàn, là không có làm gì hết. Không có làm gì hết, mà tâm hoàn toàn nó không có bị dục, không có bị sân, không có bị phiền não, thì lúc bây giờ rõ ràng là thân, thọ, tâm, pháp của mình là vô sự. Cho nên, mình xét thấy từng ly, từng tí.

Cho nên vì vậy, mà đức Phật dạy mình tỉnh giác. Tỉnh là tỉnh, bình tĩnh để mà giác, hiểu ở trên chỗ thân, thọ, tâm, pháp của mình. Vì vậy mà mình ngồi mình lắng nghe, mình đi mình lắng nghe, để lắng nghe cái ác pháp của nó có ở trên đó hay không? Nếu nó không có, thì nó ở trong vô sự của mình. Mà nó vô sự thì nó phải thanh thản, an lạc. Cho nên vì vậy, hoàn toàn mình là người vô sự, luôn luôn mình giữ mình vô sự.

Như Thầy hồi nãy đã nói. Cho nên, trên sự tu tập của con, con xét thấy nếu mình hữu sự, tức là mình bị ức chế pháp. À bây giờ tâm của mình hoàn toàn nó vô sự rồi, nó thanh thản, an lạc rồi, mà bây giờ mình bắt nó ở trong hơi thở. Như Thầy nói, bắt hơi thở, hay là bắt nó phải biết đi kinh hành, bắt nó phải hít thở, thì như vậy nó hữu sự, mà nó hữu sự tức là nó phải bị ức chế. Nó lại thêm cho nó một công việc, để cho nó làm. Như vậy rõ ràng là mình đã làm cho mình khổ. Mình đã làm thêm việc cho mình khổ.

Mà đời sống của đức Phật là sống đời sống vô sự, nghĩa là Ngài bỏ hết hoàn toàn mọi cái, trắng bạch như vỏ ốc, tư tưởng của Ngài phóng khoáng như hư không. Nghĩa là Ngài hoàn toàn vô sự, không có một chút xíu nào mà làm cho Ngài hữu sự. Thậm chí như một pháp tu, mà cái pháp biến Ngài thành hữu sự, Ngài đã bỏ đi, Ngài trở về với pháp vô sự.

Cái pháp vô sự đó, thì bằng chứng là Ngài trở về với Tứ Thánh Định, là Sơ Thiền, là cái Thiền đầu tiên. Cái thiền đầu tiên gọi là “ly dục, ly ác pháp”. Mà ly dục, ly ác pháp, tức là ly những chuyện hữu sự của nó, ở trên thân, thọ, tâm, pháp của nó. Bởi vì, nó còn dục, và còn ác pháp thì nó là hữu sự, mà nó hết dục, hết ác pháp là vô sự. Cho nên gọi là “ly dục, ly ác pháp”, tức là Ngài trở về cái vô sự của mình. Mà Ngài trở về vô sự của Ngài, thì Ngài có tu cái gì đâu. Cho nên, Ngài chỉ quan sát lại nó coi nó có sự, thì Ngài hoàn toàn đuổi tất cả những sự việc đó ra khỏi - chuyện hữu sự của nó, để cho nó trở thành vô sự, mà trở thành vô sự thì Ngài giải thoát.

(05:51) Cho nên, Ngài nói tâm không phóng dật, Ngài không phóng theo các sự, thì tức là tâm Ngài sẽ giải thoát, mà tâm Ngài giải thoát, tức là Ngài thành Chánh Giác.

Cho nên trong sự tu tập của chúng ta, cái pháp tu tập không làm cho chúng ta thêm sự việc. Nhiều khi chúng ta muốn giải thoát, mà lại dùng một pháp để tu tập, thì cái pháp để tu tập đó, nó làm chúng ta hữu sự. Còn ở đây, trên Tứ Niệm Xứ là cái phương pháp. Cái phương pháp Tứ Niệm Xứ, để nhìn Tứ Niệm Xứ, mà xem coi nó có chướng ngại gì không, nếu nó không có chướng ngại, thì đó là giải thoát, có chướng ngại thì không giải thoát. Nếu có chướng ngại thì đẩy lui nó thôi, còn nó không chướng ngại thì nó là vô sự.

Cho nên vì vậy, chúng ta có pháp gì để mà tu đâu, không được tối ngày, chúng ta không có tu gì hết. Cho nên nó nhàn nhã, nó nhẹ nhàng, nó giải thoát hoàn toàn.

2- TÂM VÔ SỰ ĐỦ NĂNG LỰC NHẬP CÁC ĐỊNH

(06:47) Trưởng lão: Cho nên cuối cùng thì duy nhất như hồi nãy Thầy nói, dù là thanh thản, dù là an lạc, dù là vô sự, nhưng chúng ta biết rằng cái năng lực, nội lực của chúng ta không có, để chúng ta hoàn toàn quét sạch tham, sân, si của chúng ta. Do đó chúng ta phải thường nhắc: “Tâm như cục đất, không có tham, sân, si”, “Tâm ly dục, ly ác pháp, để nhập Sơ Thiền”. Chúng ta nhắc nó, thường xuyên chúng ta nhắc, thỉnh thoảng chúng ta nhắc.

Bởi vì đức Phật nói, nếu chúng ta nhắc câu này rồi, tới nhắc câu khác, như niệm nó, như đọc nó, thì nó làm chúng ta bị tập trung, bị ức chế, bị hữu sự. Thỉnh thoảng chúng ta nhắc khéo tâm: "Tâm ly dục, ly ác pháp; tâm như cục đất, không có tham, sân, si nữa". Từ đó nó có cái nội lực không tham, sân, si, để giúp chúng ta sau này. Khi hoàn toàn tâm không tham, sân, si, thì chúng ta mới nhớ để chúng ta hướng tâm nhập các Định, tức là dẫn tâm vào các Định. Ta muốn nhập Nhị Thiền, thì chúng ta bảo: “Tâm diệt Tầm, Tứ, nhập Nhị Thiền đi!” thì nó sẽ nhập Nhị Thiền; “Tâm ly hỷ, ly mười tám loại hỷ tưởng, nhập Tam Thiền!” thì nó sẽ ly mười tám loại hỷ tưởng, nhập Tam Thiền; “Tâm tịnh chỉ hơi thở, hơi thở dừng!” thì hơi thở chúng ta dừng, chúng ta nhập Tứ Thiền. Và “Tâm hướng về Túc Mạng Minh, biết nhiều đời, nhiều kiếp!” thì ngay đó, tâm sẽ biết được nhiều đời, nhiều kiếp; và “Tâm hướng về Thiên Nhãn Minh!” thì tâm sẽ biết được nơi xa, nơi cách sông, cách núi, chỗ nào tâm nó cũng biết được; hướng tâm đến Lậu Tận Minh, thì tâm sẽ biết những nguyên nhân tái sanh làm con người như thế nào, làm chúng sanh, như thế nào.

Do đó, tất cả mọi điều này, tức là chúng ta đã hoàn mãn con đường tu tập của chúng ta, bằng một pháp Như Lý Tác Ý; bằng một pháp tạo cho chúng ta có nội lực tâm, để dẫn tâm đi vào Tam Minh, để dẫn tâm đi vào Thiền Định. Còn trái lại, chúng ta không rèn luyện một pháp Như lý tác ý này, thì chúng ta không biết cách để mà dẫn tâm chúng ta vào đạo, dẫn tâm vào thiền định, thì chúng ta không bao giờ nhập định được.

(09:03) Cho nên ở đây, chúng ta là người vô sự hoàn toàn, để rồi chúng ta có đủ năng lực. Năng lực nhập các định, gọi là “Định Như Ý Túc”. Định như ý mình muốn, nhập các định theo ý mình muốn, chớ không phải tập thiền định mà có định, mà định bằng năng lực của tâm mình, để giúp cho chúng ta tịnh chỉ các hành trong thân của chúng ta, hoàn toàn để cho thân định, đó là chúng ta tu đúng.

Còn hiện giờ chúng ta ngồi thiền hít thở, hoặc là ngồi thiền định này, thiền định khác, điều đó là điều sai. Tại sao? Tại vì, chúng ta có pháp thiền định, để mà nhập, để mà tu. Ở đây, thiền định của đạo Phật, thì nó không có pháp để mà chúng ta nhập định bằng cách này, bằng cách khác, mà chúng ta có cái pháp để ly dục, ly ác pháp, tức là cái pháp lìa tham, sân, si.

Cái pháp lìa được tâm tham - sân - si thì tâm thanh tịnh. Mà chính tâm thanh tịnh, đó là Định. Vì vậy, mà muốn định nào thì nó sẽ được định nấy, chớ không phải chúng ta muốn tập thiền định mà có thiền định được.

3- TRẠNG THÁI TÂM GIẢI THOÁT

(09:54) Trưởng lão: Cho nên những gì mà các con trình bày, là coi chừng, cẩn thận. Như đức Phật nói: “Pháp ta hiện tại không có thời gian, đến để mà thấy”. Thầy xin nhắc lại, tâm có tham, biết tham; tâm không tham, biết không tham; tâm có sân, biết sân; tâm không sân, biết không sân; tâm có si, biết si; tâm không si, biết không si…​ và cứ như vậy, thì biết tâm không tham sẽ ở đâu? Sẽ sự thanh thản, an lạc và vô sự. Tâm có tham thì sẽ không thanh thản, an lạc và vô sự.

Rõ ràng giải thoát hay không giải thoát. Ai tu pháp của Phật trong hiện tại đó đều biết rất rõ ràng. Chúng ta có giải thoát thì chúng ta biết giải thoát, chúng ta không giải thoát thì chúng ta biết không giải thoát rõ ràng. Chớ không phải tu mà mệt nhọc, buồn ngủ, hôn trầm thùy miên, ngồi phải là hít thở; ngồi phải là giữ tâm bằng cách này, bằng cách khác, không phải đâu.

Trên Tứ Niệm Xứ chúng ta vẫn là người thản nhiên, chớ không phải chăm chăm nhìn Tứ Niệm Xứ là sai, mà chúng ta ngồi thản nhiên, để quan sát trên Tứ Niệm Xứ đó, có những pháp ác và dục nổi lên trên đó hay không, nếu không có thì thôi, mà đã có thì quét nó ra; mà không có thì cứ ở trạng thái không có, tức là không tham, sân, si. Mà không tham, sân, si tức là trạng thái giải thoát của Phật.

Cho nên, chúng ta cứ mãi kéo dài hai mươi bốn tiếng đồng hồ, thì chúng ta thực hiện các Định và Tam Minh. Có như vậy con đường chúng ta tu rất dễ dàng, vì vậy mà bảy ngày, bảy tháng, bảy năm, đâu phải cần tu nhiều. Cho nên, thời gian mà đức Phật đã xác định, chúng ta thấy Pháp của Phật rất dễ và đơn giản.

4- CÁC PHÁP PHÁ TÂM SI

(11:35) Trưởng lão: Chúng ta làm gì để chúng ta trở thành một người hữu sự cho cực khổ chúng ta. Cho nên chúng ta sống hoàn toàn vô sự, rất là hạnh phúc, rất là an ổn. Thế rồi chúng ta lại tạo thêm những pháp này, pháp kia chi cho khổ chúng ta. Đời đã khổ, bây giờ vào tu lại khổ, còn khổ hơn nữa, phải thức khuya, dậy sớm bằng cách này, bằng cách khác.

Chúng ta thức khuya là vì chúng ta không có muốn cho chúng ta si, chớ không phải chúng ta thức khuya, để mà chúng ta tu tập thời khóa đó. Mà chúng ta muốn rằng, chúng ta sẽ phá đi cái tâm Si của chúng ta. Si là cái ngu si của chúng ta, lầm chấp cái này, lầm chấp cái kia.

Cho nên, do đó mà chúng ta muốn phá nó, vì vậy mà chúng ta thức khuya, dậy sớm, chớ không phải là vì pháp. Thức khuya để làm gì, để chọc ghẹo cho cái tâm nó còn si hay không, nếu nó si, thì nó hôn trầm, nó buồn ngủ, thùy miên. Thức khuya để làm gì, để coi nó có lười biếng đến mức độ nào không. Nếu lười biếng, thì bằng cách dùng phương pháp để diệt trừ cái lười biếng. Mà nó còn hôn trầm, thùy miên, buồn ngủ, còn thích ngủ, còn si mê, thì dùng phương pháp để phá cái si mê đó đi. Một niệm Si mà không có, thì Tham làm sao có; mà Sân làm sao có. Do cái tham ngủ, tham ăn, lười biếng mà nó trở thành si.

Vì vậy, mà chúng ta phải phá sạch cái hôn trầm, thùy miên của chúng ta. Vậy thì chúng ta thức khuya, dậy sớm với mục đích để phá nó, chớ không phải thức khuya dậy sớm để mà “tôi phải tu pháp này, tôi phải tu pháp kia”. Không phải đâu! Phải hiểu được thức khuya, dậy sớm để chọc ghẹo cho chúng ta thấy rằng, cái thân này ngu si, cái tâm này ngu si đang ham ngủ nè, đang ham ăn nè, đang thích lười biếng nè. Đó là chúng ta chọc ghẹo nó, coi nó còn lười biếng nữa không. Nếu nó lười biếng, làm sao nó thức khuya, dậy sớm được. Nó phải siêng năng, thì nó là tinh tấn; mà bây giờ nó còn si, thì tức là nó còn ham ngủ, nó còn thùy miên, hôn trầm. Bây giờ mình có phương pháp mình phá nó, nó không có thùy miên, hôn trầm, thì nó hết si. Mà nó hết si, thì ai mà chửi nó, nó có giận không? Nó không giận nữa, phải không? Vì nó không si, mà nó si thì nó mới giận. Thử hỏi, người ta chửi mình chó, mà mình tức giận, thì tức là mình đã ngu si. Còn cái người không si, thì làm sao người ta giận. Mà người ta không giận là người ta giải thoát chớ sao? Đó là phương pháp của Phật, tức là phương pháp xả tâm, ly dục, ly ác pháp như vậy.

(13:57) Cho nên chúng ta phải thức khuya, dậy sớm là để phá cho sạch tâm Si. Vì vậy, trong cuộc đời chúng ta ăn, ngủ, và độc cư, để rồi ngủ là một cái cũng khó phá chớ không phải không; vì vậy phải thức khuya, dậy sớm để mà phá nó. Nếu lười biếng mà không chịu thức khuya, dậy sớm, thì làm sao phá được cái Si. Ai cũng biết rằng, tối ngủ thẳng cẳng cho tới tám, chín giờ, thức dậy thì dễ dàng quá. Làm sao mà chúng ta phá được cái Si?

Hôm nay, trong sự tu tập, các con đã biết rõ; còn cái gì mà không rõ thì thưa hỏi, Thầy sẽ chỉ dạy thêm.

Phật tử: Kính bạch Thầy, tại sao trong lúc con đi kinh hành, mà nó cũng không phải buồn ngủ, nó cũng không phải không; nó cứ lòng vòng ở trên cái đầu con, hay là con ngồi xuống, thì nó nóng bừng trong con người của con, nó làm nóng nực ghê lắm? Cái đó có phải là ác pháp, mà phá bằng cách nào, xin Thầy chỉ dạy cho con. Nằm thì ngủ cũng không được, không phải là ngủ, nhưng mà dậy thì nó như vậy đó Thầy.

(15:15) Trưởng lão: Ở đây, con đã trình bày, những sự khi mà thức dậy, khuya thức dậy, hay là thức khuya, dậy sớm. Dậy mà sớm quá nó xảy ra những trường hợp như con vừa trình bày là trạng thái của Thọ. Vậy đầu hôm, tức là con thức khuya đó, phải không? À như vậy, xem như thế này, theo con trình bày: sau khi nằm ngủ rồi thức dậy, thì bắt đầu nó sẽ nghe, nó nóng nảy ở trong người, nó tức tối ở trong người, cái đó là khi thức dậy.

Còn bây giờ con đang thức, từ bảy giờ cho đến mười giờ con mới ngủ. Mà trong cái khoảng thời gian này, nó xảy ra cái trường hợp nào? Nó bây giờ nó buồn ngủ, nó sanh ra tức giận, nó tức tối trong người con, hoặc nóng bức ở trong người con. Đó là trường hợp: nếu mà bảy giờ con tu đến tám giờ, bắt đầu bây giờ nó buồn ngủ rồi, mà mình không có ngủ, mình ráng mình thức, thì bắt đầu nó nghe nó nóng, nó làm tức tối ở trong người con. Đó là trường hợp của con. Nó thay vì người ta buồn ngủ thì nó gục tới, gục lui, nó làm cho mình quên đi. Còn cái này khi mà nó buồn ngủ thì nó làm cho con đau đớn, hoặc là có cái trạng thái cảm thọ gì đó nóng bức, do đó cho nên con đi nằm ngủ. Như vậy con nên nhớ rằng trong vấn đề này, hoàn toàn là phải phá sạch. Cái này là ma chướng chớ không phải là điều kiện gì hết. Nó là Thọ Ấm Ma, nó hiện ra như vậy. Bây giờ, bảy giờ con tu đến tám giờ, bây giờ thì từ tám giờ đến chín giờ, khoảng thời gian này con sẽ thường bị nó. Mà không phải do con ngủ rồi con thức dậy. Bây giờ cái trường hợp này xảy ra trong khoảng thời gian này, nó muốn con đi ngủ, thì con nằm ngủ, con thấy nó cũng ngủ không được, nhưng mà một chút xíu có thể nó ngủ. Đó là nó tạo cho con cái thế thọ ấm ma, để cho con không có còn tỉnh táo để mà tu tập.

Vì vậy mà con thường xuyên, Thầy thấy hầu hết là con ở trong thất hơn là con đi kinh hành. Cho nên trong sự tu tập, nhất định con nên nhớ rằng, đọc lại trong sử của các Ni, Thánh Ni đệ tử của đức Phật ngày xưa, già bảy mươi mấy tuổi rồi, các Ngài phải đi khất thực, trèo núi mà cái bình bát nó phải lộn ngược xuống. Con biết rằng, trong thời đức Phật, các vị Ni đó quá khổ; nghĩ rằng một người già cả, trèo núi lên, xuống ở trên cái núi như vậy quá khổ. Thế mà các Ngài vẫn là kiên cường!

(17:38) Cho nên ở đây, thật sự ra trong giai đoạn này, con cũng là người lớn tuổi rồi, nỗ lực thật sự nỗ lực, phải chiến đấu, thắng cho được cái si mê này. Bởi vì, thắng cái si mê này, Thầy biết rằng, con hỏi về sự tu tập, con có những tri kiến hỏi, nhưng mà con không chiến thắng được cái thân nghiệp của con, cái tâm nghiệp của con, thì nó sẽ lôi con vào ở trong hôn trầm, thùy miên, lười biếng đó. Cho nên, vì vậy mà giờ giấc nó không được nghiêm chỉnh, mà con cố gắng nghiêm chỉnh, con bị các thọ đánh con, nó làm cho con khổ sở khó chịu. Do đó, con phải đi nằm, đi nghỉ, thế này, thế khác, làm cho con không có đúng giờ giấc nghiêm chỉnh.

Con thấy thậm chí như người tu hành, Thầy nhắc nhở, như Thầy ngày xưa Thầy tu hành, cái giường, và cái ghế ngồi, Thầy rất sợ, không dám lại gần nó, không dám ở trong thất của mình nữa, phải đi ra ngoài sân, phải đi nơi, chỗ nào xa cái nơi của mình nằm, chớ không khéo gần gũi, nó dễ cám dỗ mình lắm. Nó bắt đầu nghe nó mỏi mệt, nghe nó tức tối, nghe nó làm khó chịu, bắt đầu mình ngồi xuống, mình vừa đụng lưng vào thì nó ngủ, nó thiếp đi liền, nó rất thông minh.

Vì vậy mà mình phải lìa xa chỗ đó đi, và đồng thời mình đi vào cái chỗ nó lạnh lẽo, để làm cho mình không có còn buồn ngủ nữa. Từ đó, mình mới có thể mình chiến thắng, mình dùng các pháp mình tu, mình đem hết sức lực mình. Cho nên sự tu tập là một sự khổ đau nhất, chớ không có phải là một sự ít. Khi mình phải gặp những chướng ngại này, mình phải chiến thắng nó tận cùng, bằng một sức lực tận cùng của mình. Nghĩa là nó đau nhức như vậy, mà mình phải chiến thắng nó.

Đây Thầy nói thật sự, ăn ngày một bữa, mà các con sẽ nghe thầy Chơn Thành chiến thắng, thường thường trong giờ trưa mình ăn, tới chiều nó đói bụng. Nó đói bụng không phải nó cồn cào sơ sơ đâu, nó đau bụng. Nó muốn ăn mà nó đau tức tối ở trong này, nó chịu không có nổi, mà nếu có cái gì ăn vô là nó hết liền. Mà nhất định là không ăn, mới đầu thì thầy nghĩ là nó đau, nhưng mà sau đó thì thầy xét ra nó không phải, đây là cái nghiệp ăn của chúng ta đã thành thói quen. Rồi bắt đầu bây giờ sáng, các con biết, nó đã vượt qua buổi chiều rồi, nó còn buổi sáng.

(20:10) Hễ buổi sáng, gần tới cái giờ mà khất thực, nó đau chịu không nổi. Nó đau nghĩa là coi như mình phải ăn cái gì vào nó mới hết đau. Đó nó làm như vậy mà Thầy nói, Thầy bảo thầy Chơn Thành, nên luôn luôn lúc nào thầy cũng nhớ pháp Như lý tác ý. Một người tu sĩ đạo Phật quyết chết ở trên giới luật, chớ không có chết dưới giới luật được. Cho nên vì vậy, đúng ngọ là ăn, đúng giờ là ăn, nhất định là không ăn phi thời. Vì vậy mà “giỏi mày đói, mày đau, mày chết”, nhất định là không có sợ. Mới đầu thì nó nghĩ là như thế này, thế khác.

Cho nên vì vậy mà Thầy gọi nó là thọ ấm ma. Con ma thọ, nó làm cho chúng ta đau khổ. Vì vậy, cuối cùng thầy chiến thắng được nó. Đó thầy nhắc: “Cái thọ là vô thường, là khổ, hãy rời khỏi thân ta đi, không có được ở đây nữa”, thì lúc bây giờ thầy phải tập trung như thế nào. Bắt đầu thầy hít thở một hơi thở chậm nhẹ, và Thầy gom tâm thầy ở tại chỗ nhân trung. Thầy thấy cái hơi thở chỗ này, xuất thở ra, và hít vô tại chỗ nhân trung này. Chỉ chừng năm hơi thở như vậy, bắt đầu thầy thở hơi thở chậm, hít vô chậm, thở ra chậm, để cho cái tâm nó gom được chỗ đó. Thầy thở lại năm hơi thở bình thường, rồi thầy thở lại một hơi thở chậm, và cứ như vậy khoảng độ chừng một phút, hai phút, cho đến năm phút, tâm hoàn toàn vô, thì cái cảm thọ đau cái chỗ thượng vị của thầy, hoàn toàn nó tan biến hết, nó không còn đau.

Và trước khi mà thầy dùng hơi thở để phá đi cái thọ như vậy, thì thầy phải hướng tâm: "Cái thọ là vô thường, là khổ, không có được ở trên thân ta nữa! Cái bao tử cái thượng vị không có được đau nữa, thở bình thường!" thầy ra lệnh như vậy, rồi bắt đầu thầy gom tâm thầy hít, thở, và tâm thầy bám chặt, thì ở ngay đó đề kháng nó giúp cho chỗ thượng vị của thầy không còn đau nữa, và cứ như vậy mà thầy làm chủ được cái bệnh của thầy. Và bây giờ thì thầy hoàn toàn ăn ngày một bữa, không còn đau nữa.

(21:59) Còn khi gặp hôn trầm cũng vậy, thầy cũng dùng: “Cái tâm phải tỉnh giữa ban ngày, không còn buồn ngủ, không còn lười biếng nữa, phải tỉnh táo!” Rồi bắt đầu thầy sử dụng phương pháp năm hơi thở, đứng dậy đi kinh hành, và tập trung rất chặt chẽ ở trong những pháp đó. Cuối cùng thầy đã phá được hôn trầm.

Tất cả những sự việc này thì con phải siêng năng, và đồng thời, nếu mà ở trong cái nhà của con tu không được, con phải ra ngoài thiền đường ngoài kia, ở ngoài chùa ngoài kia. Nếu mà không được, thì con hãy ra Tổ đường, trai đường ở sau này, con tu một mình. Con đừng có nghĩ rằng con rất sợ, không có sợ ma, sợ cỏ gì hết.

Ngày xưa đức Phật nói, khi mà tâm chúng ta thấy sợ, mà cứ rúc ở trong nhà, trong cửa, thì chúng ta ra đồng mả mà ở, để cho cái tâm nó không sợ. Cho nên ở tổ đường này ở đây, có mấy cô cũng về đây để mà thọ Bát quan trai, nói: “Nửa đêm hai giờ thức dậy ra đây, thì mọi người, nhà người ta chưa có bật đèn đâu, con thấy như nó lạnh lùng, nó sợ quá. Ai cũng yên phăng phắc, chỉ có mình mình, có mấy mình ở trên cái nhà rộng rãi như thế này, rồi đi tới, đi lui nghe nó hồi hộp, nghe nó sợ.” Thầy nói, con hãy quán như thế này, hãy xét như thế này: "Sợ hãi là một điều vô thường, không có thật của tâm. Cái gì mà sợ, ai ăn thịt mình mà sợ, hãy bình tĩnh, hãy dạn dĩ, không sợ hãi nữa!" Ra lệnh như vậy, rồi cứ tập đi kinh hành, tập trung trên bước đi của mình, hoặc là ngồi thở, mình biết hơi thở mình. Nếu mà nó còn sợ nữa, thì hãy thở chậm chậm, để cho tâm nó tập trung trong hơi thở cho chặt, ôm chặt đi. Khi mà tâm nó tập trung trong hơi thở rồi, thì bắt đầu nó không có sợ nữa. Và cứ như vậy mà tu tập, lần lượt rồi sẽ đem bỏ con ra ngoài đầu mả, ngoài nghĩa địa như vậy, con không còn sợ ma nữa.

Còn bây giờ mà đem liệng con ra ngoài đầu mả, chắc là con sợ chết người. Do như vậy các con biết, trong phương pháp tu là phải rời khỏi cái thất của mình, lúc nào cũng rời khỏi nó, để rồi thực hành đi kinh hành; thực hành ngồi tu một mình, sống trầm lặng độc cư.

Các con nhớ rằng, một mình Thầy trên Ma Thiên Lãnh ở trên đỉnh núi Hòn Sơn, mà Thầy ở có một mình Thầy. Thầy còn chẳng sợ ai, thì xá gì các con tới ở đây, bao nhiêu nhà cửa người ta ở đây. Như vậy rõ ràng là vì cái trạng thái mà con đã trình bày, đó là cái trạng thái lười biếng, hôn trầm của con, cho nên nó mới sanh ra cái thọ ấm ma đó, nó làm cho con khổ sở. Vì vậy mà con đầu hàng trước nó, là con phải đi nằm; con đầu hàng trước nó là con phải bỏ cuộc; con tu hành không đến đâu.

(24:34) Vì vậy, đã quyết tu là nhất định chết với nó, chớ không thể sống. Cho nên vì vậy, con phải đi kinh hành nhiều, con phải tập luyện nhiều. Rồi bắt đầu bây giờ nó nói sao mà đi nhiều quá mỏi chân, “nhất định tao tập dần chớ không phải mày mỏi chân là nghỉ”, nhất định là con phải tập đi nhiều. Cho nên, vì sự tập đi nhiều của con, con sẽ phá được nó. Và đồng thời, con dùng năm hơi thở, đi kinh hành hai mươi bước, rồi năm hơi thở, hai mươi bước, để mà phá cho thật sạch. Đau mặc nó, tập trung thì cứ tập trung cho chặt, lúc bây giờ mình đang chiến đấu, thì mình phải tập trung, phải ức chế. Nhưng khi mà nó không có chuyện gì mà tập trung, đó là sai, ức chế.

Cho nên, năm điều kiện mà đức Phật đã dạy chúng ta an trú ở trong Tầm thiện. Cái điều kiện thứ năm đức Phật nói khi mà gặp chướng ngại pháp như thọ ấm ma. Bây giờ cái thân nó đang đau nhức, thì các con phải cắn chặt răng, để lưỡi trên nóc họng, gồng mình lên, tập trung cho chặt ở trong một đối tượng nào đó, thì lúc bây giờ đối tượng đó là cái thiện pháp chớ gì, để chúng ta đẩy lui tất cả những khổ đau đó.

Chỉ có gan dạ, lầm lì như vậy. Cho nên đức Phật nói, cái sức tận cùng chịu đựng của sanh mạng, thì cái thọ nó sẽ phá đi; nghĩa là mình phải chịu đựng cái sức tận cùng của sanh mạng của mình, thì cái thọ mình sẽ phá đi. Pháp mà An Trú Tầm Thiện thứ năm của Phật dạy, là cái pháp phải cắn chặt răng, gồng mình lên, để lưỡi trên nóc họng, chiến đấu tận cùng, thì mình mới có thể chiến thắng được thọ ấm ma.

(25:56) Cũng như cái sân, người ta chửi mình, mắng mình, người ta mạ nhục mình, tâm mình bùng bốc lên những cơn sân, thì lúc bây giờ chúng ta nhẫn bằng cách nào? Đức Phật dạy chúng ta phải cắn chặt răng, để lưỡi trên nóc họng, gồng mình lên chịu đựng. Không được la lối, không được hét mắng, không được chửi người, mà phải chịu đựng. Sau khi chịu đựng rồi, thì phải dùng tư tưởng quán xét, để rồi xả lui cái chướng ngại pháp đó, làm cho tâm chúng ta trở về bình thường rất an ổn. Tức là ức chế rồi xả.

Cũng như con bây giờ ức chế, để cho cái thọ ấm ma nó lui, rồi con sẽ xả nó. Con hiểu? Như vậy thì con mới chiến đấu được trong đường tu tập, không khéo rồi mình tu cũng dậm chân tại chỗ, không đi đến đâu cả.

5- KHI VÔ Ý TỔN HẠI CHÚNG SINH

(26:39) Phật tử: Tổ đường này, con đi kinh hành vẫn được, sao mà con thấy kiến nhiều quá nhiều, không biết con đi, con có dậm nhầm nó hay không, cho nên, con cứ lẩn quẩn ở trong thất. Còn mở điện lên sáng, thì nào là bướm, nào là bọ hung, nào…​ Cho nên con cứ lúc nào con cũng đi thầm ở trong tối vậy thôi, có chỉ trừ trường hợp con vô mùng để con ngồi tu Định Niệm Hơi Thở, thì con mới mở điện chút xíu rồi thôi. Còn cái chỗ đó sao mở ra, nào là bướm, những cái con chút chút gì nó bay phất phơ đầy hết, con không dám mở, con ra đi xung quanh ở ngoài. Con không có sợ cái gì, nhưng mà con cứ nghĩ, không biết có giẫm (đạp) hay không, như thế nào xin Thầy chỉ dạy.

(27:27) Trưởng lão: Con nên nhớ rằng, trong bước đường tu tập của con, đang ở trong sự chiến đấu gian khổ, thì mọi chúng sanh mà ở trong lòng đất, trong ban đêm con đi, chắc chắn là con sẽ đạp nó, chớ không phải không. Từ con kiến, con trùng thế nào cũng phải đạp chết nó; nhưng mà trên bước đường tu tập để tìm lấy sự giải thoát, thì những con vật đang bị vô tình mà con đạp chết nó, nó sẽ trở thành những người đệ tử của con, sau này sẽ độ nó. Bởi gì cái duyên tu tập, cái phước báu nó vô lượng, cái con vật nào mà đã lỡ con đạp, thì nó sẽ trở thành những con người sau này, con sẽ độ nó.

Cho nên, chúng sanh là con người, nếu cái duyên của người đó do tu tập, mà lỡ vô tình chớ đâu phải người ta có cái tâm sát hại đâu. Bây giờ con không có để đèn, thì cái tâm hôn trầm nó sẽ dễ tấn công con hơn là cái người có đèn. Vì sự tu tập để phá cái niệm Si của tôi, cho nên tôi mới mở đèn. Mở đèn ra có bao nhiêu niệm Si của loài chúng sanh, phải không? Chúng sanh vì si nên nó thấy ánh sáng, nó mới bu vào đó; nó mới tìm cái chết của nó trên ánh sáng của nó.

Cũng như bây giờ, mình do tâm dục, mình thấy đời tiện nghi, xe cộ này kia, máy móc đủ loại phục vụ cho đời sống mình đủ thứ vui chơi. Cho nên mình sắm sửa xe cộ, không ngờ sắm chiếc xe, chạy ra xe đụng mình chết. Đó có phải là mình như con thiêu thân thấy ánh sáng không? Đúng vậy, con thiêu thân cũng vậy khi bật đèn lên. Nhưng vì bật đèn để mà con tu tập, chớ không phải vì bật đèn để cho người ta theo dục lạc.

Nếu mà vì con bật đèn lên để con mở tivi nghe, con mở radio, con mở băng nghe, hoặc là con ngồi đọc kinh sách; con ngại rằng mình không tu tập được, thì nó không giải thoát được. Mà mình chỉ nghe, chỉ đọc, thì những con vật này nó chết thì nó tội, vì mình làm sao mà cứu được nó? Còn đằng này, con nỗ lực, con quyết định, con tu để được giải thoát, con sẽ trở thành một bậc Thánh Nhân, một bậc Thánh Ni, thì có những loài chúng sanh do thấy ánh sáng, tại nó do thấy ánh sáng mà nó nhào vô, để mà tìm cái chết của nó.

(29:36) Nhưng mà cái chết trong ánh sáng, để con thực hiện được sự giải thoát của chính con, (để) con trở thành một vị Thánh Ni. Những cái duyên mà nó chết đó: nó vì cái ánh sáng do sự tu tập của con mà nó chết, thì con xin rằng, con sẽ độ tất cả những loài vật, mà trong khi con tu tập để thành đạo. Như vậy rõ ràng là lấy từ cái phước vô lậu của con, để mà cứu độ những loài chúng sanh đang mê muội, đang bức nóng, thì như vậy không có tội lỗi gì. Chớ phải chi mà con mở đèn ra để mà ngồi chơi, hoặc để mà nghe ca hát, để mà dục lạc thế gian, để mà ăn uống, thì loài chúng sanh này chết, nó cũng vô tình nó tạo nó chết, chớ không phải thật là do con mở đèn. Bao nhiêu người mở đèn? Tại nó thấy ánh đèn, là tại nó vô, do nó ham thích, chớ đâu phải là con xui nó đâu mà con có tội.

Nhưng cũng do một cái nhân duyên, để tạo cho nó tìm một cái chết trong nhân quả của nó mà thôi. Còn cái này là nhân duyên thiện, cái nhân duyên để cho con thực hành, thực hiện được sự tu tập giải thoát, thì con nguyện tất cả loài vật ở dưới bàn chân con đi kinh hành, mà lỡ con có đạp, sau này nó trở thành những người đệ tử của con. Con sẽ độ tất cả chúng sanh này.

Cho nên, các con thấy, mỗi một vị tu sĩ trước khi ăn cơm thì người ta có ba cái nguyện - nguyện thứ nhất là ngăn ác, nguyện thứ nhì là làm tất cả việc lành, nguyện thứ ba là độ hết tất cả chúng sanh. Tất cả chúng sanh không phải chỉ là do sự vô tình của mình giết hại, mà còn tất cả chúng sanh còn mang lốt chúng sanh, chúng ta nguyện độ hết. Nghĩa là làm bằng bất cứ mọi cách, giúp cho tất cả chúng sanh được sự giải thoát hoàn toàn như đức Phật đã dạy, thì như vậy con có xá gì. Còn bây giờ con cứ chướng ngại, như vậy tâm từ bi của con nó ở trong cái trạng thái yếm thế, cái trạng thái không thực hiện được Phật pháp.

(31:31) Cho nên, bây giờ trong khi Thầy đến đây, nếu mà Thầy không mở đèn ra Thầy đi kinh hành, một lúc sau nó sẽ lười biếng đi, nó sẽ tối quá, hay hoặc thế này, thế khác. Thầy bật đèn lên, thứ nhất nhìn thấy hình ảnh ông Phật ngồi, Thầy tinh tấn, Thầy nỗ lực, Thầy tu, nó giúp cho Thầy tinh tấn hơn nữa. Thứ hai nữa, thì cái ánh sáng nó giúp cho Thầy, thoải mái, dễ chịu, tỉnh táo hơn, nó không còn bị hôn trầm, rồi siêng năng tu tập. Chớ đừng có sống ở trong bóng đen, rồi nó sẽ làm theo cái bóng đen đó, nó sẽ làm đen theo cái tâm của mình mất đi.

Cho nên ở đây, đúng lúc thì chúng ta mở đèn ra tu, mà không đúng lúc, hết giờ thì chúng ta tắt đèn. Cho nên, nhiều người, người ta nhìn thấy trong cái thất của con, không biết con tu, hay là không tu. Người này nói tu, mà không có chứng nghiệm được cái sự tu, luôn luôn lúc nào cũng tối đen. Như vậy tự con đã làm cho người ta khởi nghĩ, mặc dù con siêng năng con tu, nhưng mà đã biến người ta trở thành nghĩ oan cho con là người ta sẽ có tội, đó là cái thứ nhất. Cái thứ hai, là cái bóng đen, nó sẽ giúp cho con có những cái gian xảo ở trong đó. Bởi vì cái bóng đen, nó sẽ giúp cho con “bây giờ mình lén ăn ai thấy”, phải không. Bật đèn lên người ta thấy sao, nhiều cái tự mình mình dối mình nữa, rồi nhiều cái nữa.

6- TU VÌ LỢI ÍCH CHO CHÍNH MÌNH

(32:36) Trưởng lão: Cho nên, làm cái gì thì phải thanh thiên, bạch nhật. Bật đèn lên đàng hoàng, tu tập đúng giờ, hết giờ thì tắt ngủ. Hễ giờ đi ngủ là ngủ, còn giờ thức là thức, mình phải làm rõ. Cho nên, có một câu hỏi của một vị thầy ở đây hỏi là: “Có người tu trong ánh sáng, nhưng có người lại tu trong bóng đêm. Vậy thì, vừa tu trong ánh sáng, vừa tu trong bóng đêm. Vậy thì, những người nào đúng, những người nào sai, xin Thầy dạy cho chúng con.”

Thầy nói người tu trong bóng đêm, đã bóng đêm tức là đen tối, mà đen tối thì phải có sự sai trái trong đó, không thể nào chắc chắn. Nhưng mà người ta vẫn lý luận trong cái đúng người ta, chớ sự thật người ta có sự không đúng. Người đúng thì phải luôn luôn minh bạch, phải rõ ràng, làm cho mọi người không nghi ngờ mình. Vậy thì người mà dùng ánh sáng, là đúng không? Tới giờ ngủ mà không ngủ, còn bật đèn, người này rõ ràng mượn ánh sáng, để nói rằng tôi siêng năng tu. Nhưng mà sự thật ông bật đèn ông ngủ, chớ ông chưa phải là tu. Người này mượn ánh sáng mà gian dối, nghĩa là suốt đêm Thầy thấy cái người đó bật đèn, tới giờ ngủ không tắt.

Như vậy rõ ràng ông này bật đèn ngủ, ngủ quên, phải không? Còn cái người mà không mở đèn, không biết ông ta giờ nào tu, giờ nào ngủ, cũng chẳng biết. Như vậy là rõ ràng có sự gian dối, do hai cái này gian dối. Người biết sử dụng lúc mà tu thì bật đèn, khi đi ngủ là tắt đèn, thì người này giờ giấc ngủ rõ ràng cụ thể. Mặc dù tới giờ ngủ, mà ông không ngủ, ông vẫn tắt đèn.

Như vậy rõ ràng ông giữ đúng cái giờ giấc, rõ ràng là người này tốt, phải không. Còn cái người này trong cái giờ ngủ, thì ông cũng để đèn, thì rõ ràng là ông này để đèn như vậy là ông đã cái giờ mà ông tu thì ông cũng ngủ. Cho nên, ông để đèn làm cho người ta lầm, tưởng ông bật đèn ông tu. Còn cái người tối này, thì ông ta làm cái chuyện mờ mịt ở trong này đủ thứ hết, thì không thể nói được rồi.

Cho nên, cái người mà dùng ánh sáng luôn, là cái người này cũng sai, mà cái người dùng bóng tối thì cũng sai. Chỉ có người biết sử dụng lúc nào sáng, lúc nào tối, thì cái người đó mới đúng. Thầy có trả lời trong một cái cuốn nào đó rồi, chớ không phải không đâu. Trong mười tập “Đường Về Xứ Phật”, đã có một câu hỏi đó. Tại vì, người đó ở đây tu hành, tại sao thấy có một thầy đó, lại luôn luôn lúc nào cũng là ở trong bóng tối, không có bật đèn. Cho nên ông ta nghi ngờ, không biết ông này tu cách nào đây? Cho nên, ông mới đến ông xem xét, quả đúng ông này ngủ khò khò. Giờ này mà ông ta ngủ, ông ta tưởng là không có để đèn như vậy, thì người ta nói ông tu, đúng là ông này có giấu rồi.

(35:13) Cho nên, ông mới hỏi Thầy. Còn một cái người để đèn, tới chừng đúng mười giờ đi ngủ, mà sao thấy ông này tới mười một giờ mà còn để đèn. Ông này mới đến thất, rõ ràng là ông này đã ngủ, rồi bắt đầu ông này mới tám giờ, là ông này đến thất xem coi ông này có ngủ hay không, đến thất thấy ông này tám giờ, ông đã lên giường ông ngủ rồi, không có tu gì hết, mà ông để đèn. Thiên hạ nói ông này tu dữ tợn lắm, tu mười hai giờ mà còn tu. Rõ ràng là ông này xảo, dùng đèn để mà xảo người ta.

(35:48) Trưởng lão: Ở đây, thật sự mình tu là giải thoát cho mình, chớ không phải giải thoát cho người khác. Mình tu không phải mình tu cho người khác được, mà mình tu cho mình. Tại sao mình lại lừa đảo mình, mình lại lừa đảo người khác, mình lại lường gạt người ta? Mình tu cho mình mà, giải thoát cho mình mà. Thầy đã nói rằng, cái khả năng tôi tu từ bảy giờ đến tám giờ. Tám giờ đến năm giờ sáng tôi tắt đèn, cả thời gian này tôi ngủ, ai rầy mình. Tôi tu dần dần tôi tăng lên chớ, nghĩa là bây giờ tôi chưa quen, bảy giờ tôi tu tới tám giờ tôi ngủ. Rồi tám giờ tôi ngủ cho tới năm giờ sáng, tôi thức dậy, từ năm giờ cho đến sáu giờ tôi tu. Tôi tu một đêm một buổi, buổi tối tôi tu một giờ, khuya tôi tu một giờ, tôi đâu có tu nhiều.

Nhưng mà một tuần sau, có lẽ là từ bảy giờ tôi tu tới chín giờ, hay bảy giờ, đến tám giờ rưỡi, tôi tùy theo tôi tăng dần lên, thì người này thật sự là người quyết tu. Thầy đâu có bắt buộc phải theo cái thời khóa ở đây, chưa bao giờ quen, mà bây giờ từ bảy giờ đến mười giờ mới ngủ, thì cái ông này chịu sao nổi, cho nên vì vậy mà tập dần. Đến đây xin Thầy, con có gì con chưa có quen, xin Thầy cho con bảy giờ con thức cho tới tám giờ, con nỗ lực con tu trong khoảng này. Còn khuya Thầy cho con năm giờ con dậy cho đến sáu giờ, con tu đến sáu giờ.

Thà là mình thành thật mình tu ít, hơn là mình giả dối mình tu nhiều. Mình ở đây tu không danh, không lợi, không cầu người ta khen đâu, mà chỉ cầu tìm cho mình được sự giải thoát chính bản thân của mình, các con hiểu. Cho nên ở đây, phải nỗ lực thật sự, tu hành thật sự, đúng lúc nào mà tu lúc ấy.

Cho nên, người mà đi kinh hành nhiều, mà đi vùn vụt, Thầy nói cũng sai. Người mà đi kinh hành nhiều, mà đi chậm, Thầy nói cũng sai. Đi thanh thản tự nhiên, an lạc, đi đúng cách, đi không tập trung, không gò bó, tức là đúng. Khi mà Thầy cho mấy con đi, Thầy quan sát, Thầy xem. Rồi hôm sau, Thầy quan sát Thầy xem. Thầy theo dõi các con, Thầy sẽ biết cách thức các con tu đúng hay tu sai, Thầy chỉnh đốn lại. Các con cố gắng, các con tập đúng! Mà giờ giấc, các con sẽ tu tập đúng theo cái đặc tướng của mình, theo cái khả năng của mình.

Thầy không bắt buộc các con phải thức khuya nhiều. Thầy không bắt buộc các con phải dậy sớm nhiều, mà các con phải đúng với điều kiện mà các con đặt ra, là các con phải tu tập đạt được chất lượng trong giờ giấc các con tu. Vì mỗi phút, mỗi giây mà chất lượng, các con tu là kết quả của sự giải thoát của các con đúng thật. Còn bây giờ tu nhiều giờ, mà trong những giờ đó, các con lén lút ngủ này kia, các con thêm tội dối trá, càng tội thêm nữa. Cho nên phải tu đúng cách.

Đó thì hôm nay, Thầy nhắc nhở hết, tất cả các sự thực hành vì lợi ích cho mình, chớ không phải cho ai hết. Mình nói (sự thật ra) mình tu để cho mình chấn hưng lại Phật giáo, làm tốt lại Phật giáo. Sự thật ra, điều đó thật sự đức Phật không cầu đâu. Đức Phật không cầu đâu. Nếu mà đức Phật cầu, đức Phật đến đây đảnh lễ mình để cho mình tu, là tại vì mình tu cho đạo Phật. Còn đức Phật nói rằng: “Ông tu cho ông, chứ không phải ông tu cho tôi, mà bảo tôi thị hiện thần thông cho ông xem. Ông có theo tôi được thì ông tìm sự giải thoát, mà ông không theo tôi được thì thôi. Chứ đâu phải là tôi bắt buộc ông phải sống theo đời sống giới luật của tôi, sống theo phạm hạnh để tôi thực hiện thần thông cho ông theo đời sống đó đâu”.

Vì chính đời sống đó mới thực hiện sự tu tập, vì chính sự tu tập đúng, để cho các con có kết quả giải thoát nơi thân tâm của các con, các con mới theo Thầy, chớ không phải tu để mà có hình thức. Cho nên chúng ta tu ở trong cái đặc tướng, cái khả năng của mình, làm được giờ nào chúng ta tu, dần dần chúng ta tăng dần lên, quyết chiến đấu, chiến thắng hai mươi bốn tiếng đồng hồ, tâm không phóng dật. Đó là cái mấu chốt mà chúng ta sẽ đạt được. Và đạt được cái mấu chốt đó là do chúng ta ly dục, ly ác pháp trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ, để chúng ta thực hiện Thiền Định. Như vậy chúng ta mới thấy được sự giải thoát của đạo Phật thật sự.

7- TUỲ LÚC ÁP DỤNG ỨC CHẾ HOẶC XẢ TÂM

(39:27) Trưởng lão: Từ bước đầu chúng ta tu ít giờ chớ không phải chúng ta tu nhiều. Nhiều khi chúng ta tu nhiều, mà cái sức chúng ta không thể kham nhẫn, không thể chịu đựng nổi, làm cho chúng ta sanh ra bệnh tật, làm cho chúng ta khó khăn khổ sở, thì chúng ta đã tu sai, chúng ta đã có ức chế làm cho khổ mình.

Cho nên, đối với Pháp của Phật, có lúc chúng ta phải ức chế tận cùng để chiến đấu, nhưng chúng ta hoàn toàn phải sống xả tâm, chớ không được ức chế.

Tại sao Thầy dạy các con, các con thấy lạ, tại sao Thầy dạy cái pháp để ức chế quá độ, mà có pháp lại không cho ức chế? Đúng, ức chế để mà đối với cái ác pháp nó đến, nó xâm chiếm, nó làm cho chúng ta phải điêu đứng. Bây giờ đầu Thầy nhức, nhức đến mức độ chịu không nổi, phải đi nhà thương nè, phải uống thuốc nè, phải trị bằng thuốc tê nè, phải làm cho nó đừng có đau nữa nè. Mà trái lại ở đây, Thầy chỉ cần thiết chúng ta, chỉ cần thiết tu đúng, ức chế đúng lúc, để mà hoàn toàn chịu đựng được sự đau khổ này. Bắt đầu Thầy cắn chặt răng, Thầy chịu đựng: “Bây giờ cái thọ là vô thường, hãy rời khỏi thân ta”. Bắt đầu bây giờ tâm tập trung vào hơi thở ngay tụ điểm, biết hơi thở ra, biết hơi thở vô. Ngay đó Thầy hít thở chầm chậm, tập trung gom vào đó. Thầy không có lưu ý đến cái đầu Thầy nhức nữa, mà Thầy chỉ biết toàn hơi thở lưu xuất ra, vô; và đồng thời, cái tâm Thầy bám chặt trong hơi thở, cái đầu Thầy hết đau liền tức khắc. Đó là cách thức của Thầy làm chủ được cái Thọ mà. Tại sao chúng ta không làm được điều này?

Cho nên vì vậy, mà lúc bấy giờ chúng ta mới ức chế, còn khi bình thường thì chúng ta không được quyền ức chế, không được làm cho nó hữu sự, nghĩa là chúng ta sống thản nhiên thanh thản. Bởi vì thân tâm chúng ta, thọ không đau, không đớn, mà giờ chúng ta phải gồng mình, lại tập trung trong hơi thở, phải hít thở như vậy để làm gì, có ích lợi gì không? Tại vì cái đầu tôi đau, tôi phải tập trung trong hơi thở, để cho cái tâm tôi nó không có nhớ cái đau nữa. Vì vậy mà cái đau trên đầu tôi nó mới hết, các con hiểu điều đó.

Cho nên vì vậy, bây giờ chúng tôi bị buồn ngủ, chúng tôi phải tập trung trong hơi thở, hít thở cho chậm, thậm chí chúng tôi phải nín hơi thở. Khi mà tôi xả ra rồi, nín hơi thở, cho tất cả cái thân tôi nó bất động, nóng bừng lên tất cả hết. Bởi vì tôi nín hơi thở là nó nóng bừng lên. Cho nên, khi đó thì tôi không còn buồn ngủ nữa. Đó là cách thức chúng ta phá những cái đó, chúng ta phải ức chế, rất là ức chế. Nhưng mà sau khi đó rồi, chúng ta đã hoàn toàn thấy nó không còn buồn ngủ, thì chúng ta ngồi chơi, chứ chúng ta đâu phải dùng cái pháp đó hoài. Các con thấy không, biết lúc thì chúng ta ức chế để làm chủ, mà đến lúc bình thường, thì tâm chúng ta là người vô sự hoàn toàn, chúng ta giải thoát chớ.

(41:51) Cách thức tu tập của đạo Phật là vậy, chớ không phải lúc nào chúng ta cũng ức chế nó đâu. Ức chế nó để làm gì, nó có giải thoát cho chúng ta đâu. Đó, phải hiểu được cái phương pháp tu tập, phải hiểu được cách thức áp dụng các pháp. Và đồng thời, khi chúng ta tu tập như vậy, thì chúng ta phải biết áp dụng vào đời sống của chúng ta hằng ngày. Hằng ngày chúng ta đâu có hoàn toàn là không tiếp duyên. Đức Phật ngày xưa, đức Phật đâu phải không tiếp duyên. Đức Phật đi xin ăn, đức Phật đâu có chọc ghẹo ai đâu. Nhưng mà thấy đức Phật ôm bình bát đi xin ăn, (có người) nói: “Ông làm biếng, ông không cày ruộng như tôi nè có ăn, ông đi xin làm sao ông có ăn?” Người ta chỉ nói lời nói đó thôi, mà nếu mình còn chấp cái ngã thì tức tối lắm, phải không?

Do đó đâu có nghĩa cái pháp nó đứng yên để cho mình thanh tịnh đâu, mình đi ra là mình đụng người ta, người ta sẽ nói cái này, người ta sẽ nói cái khác, dù người ta vô tình thôi. Thầy nói ví dụ, giờ mình đi ra, mình đi xin đi, vô tình thôi, người ta đi, người ta quẹt mình cái rột, rồi người ta quay lại người ta chửi mình nữa. Người ta đụng mình, chớ không phải mình đụng người ta đâu, người ta quay lại người ta chửi mình: “Ông đui sao, ông không thấy tôi sao?” Đâu có phải pháp nó đứng yên đâu, thanh tịnh cho mình đâu, mà mình đi ra thôi, thì các pháp nó sẽ đụng mình, và đồng thời, nó sẽ chửi mắng mình. Khi đó, chúng ta phải áp dụng được sức tỉnh thức của mình, chớ không khéo người ta nói mình đui hả. Rõ ràng họ đụng mình mà họ còn chửi mình đui nữa, thì có phải mình tức không?

Cho nên, do các pháp ác nó đến như vậy, thì chúng ta thản nhiên, thanh thản được, là chúng ta biết áp dụng “à đây là ác pháp rồi!”. Đây là ác pháp thì tâm phải thanh thản, an lạc. Tâm phải như cục đất, không có tham, sân, si, không có giận. Người ta là người thế tục, người ta phải sống trong ác pháp. Còn mình là người tu, là phải sống trong thiện pháp, không có được giận kẻ ác pháp. Cho nên cuối cùng ta là giải thoát.

(43:27) Cho nên các con, vừa là tu tập ở đây, mà cũng vừa áp dụng vào đời sống của mình, chớ không phải là biết cái thời tu của mình, mà không áp dụng vào đời sống của mình. Thì cứ tu đi, “à tôi niệm Phật”, mà “tao mắc niệm Phật, chớ không tụi bay chết với tao!” Có nhiều người đang gõ mõ niệm Phật, đang tụng kinh, mà nghe tôi tớ, hay nghe con cái đánh lộn nhau (thì): “tao mắc tụng kinh, chớ không tao xuống, tao đập tụi bay chết hết”. Như vậy rõ ràng là tụng kinh để làm gì đây?

Cũng như mình tu tập, mình tu tập ở trong thất, mình tu tập đi kinh hành, phá hôn trầm, ly tham, sân, si hay quá; nhưng mà ra đụng người ta, thì ăn thua đủ thiên hạ, thì tu tập để làm gì? Tu tập, tức là phải thực hiện cái Đạo Đức không làm khổ mình, khổ người. Áp dụng vào, người ta chửi mình, mình vẫn vui vẻ, như vậy rõ ràng là mình biết nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng. Đó là vừa tu tập, mà vừa áp dụng vào đời sống, để đem lại sự hạnh phúc cho mình, cho người, thì như vậy mới có lợi ích chớ.

Phải tu tập như vậy, nó mới có giá trị của một con người. Đó là chúng ta đi đúng vào con đường của đạo Phật. Tu tập như vậy, biết áp dụng: lúc ức chế, lúc không ức chế. Mà lúc không ức chế, lại ức chế là sai. Còn lúc ức chế lại không ức chế, để mình đi theo cám dỗ của tâm dục lạc của mình, bằng cách này, bằng cách khác (cũng là sai). Cho nên các con nhớ những lời Thầy nói đây, không chỉ trích một người nào, mà dạy các con tu tập đúng, để chúng con làm chủ được sự sống chết.

(44:36) Thầy đem hết lòng thương yêu của Thầy để dạy các con. Những cái sai của các con, các con cần phải sửa, mình được thấy lỗi của mình, thì mình sửa. Mình thấy cái lỗi của mình, mình thấy mình không lỗi, thì đây là những kinh nghiệm để cho mình, làm cho mình, đừng có làm cho người khác lỗi.

Cũng như bây giờ, con thấy con ở trong thất, con nỗ lực con tu, mà con nghĩ lòng thương yêu của mình, con không dám bật đèn. Bây giờ Thầy giải thích cho con rõ, con không dám bật đèn mà con để cho những người khác, người ta phải nghĩ oan cho con thế này, thì tự con đã làm khổ người khác rồi. Bắt đầu bây giờ con nghĩ rằng, những con vật đó nó vô tình, thật sự nó vô tình. Nó thấy bóng đèn đó, nó đi vào, nó đi tìm cái chết của nó. Nếu con không bật đèn, thì người khác bật đèn, nó cũng chết vậy? Phải không? Do nó chết ở dưới cái đèn của con, còn có lợi ích hơn là nó chết ở trong bóng đèn của người phàm phu. Bây giờ nhà con không bật đèn, nhà kia bật đèn, mà nhà kia không tu, họ bật đèn, thì những con vật chết đó, ai cứu độ nó?

Còn bây giờ con bật đèn cho nó chết, là tại vì nó chết, chớ con đâu có kêu nó vô. Vô tình, nhưng mà nó chết trên cái sự, vì cái sự tu tập của con, thì nó được phước báu hơn chớ, con phải hiểu cái chỗ đó chớ? Cho nên, vừa là làm cho người khác không nghi ngờ mình, mà vừa là đem lợi ích cho chúng sanh.

8- TẦM QUAN TRỌNG CỦA KINH PHÁP CÚ

(46:06) Trưởng lão: Phật Pháp thì nó chỉ có Tạng kinh của Phật, rất ít chớ nó không có nhiều. Bởi vì, trong 49 năm thuyết Pháp độ sanh, trong thời đức Phật mà thuyết giảng dạy cho người tu đó, thì hầu như đức Phật không có viết kinh sách. Mà ai có điều kiện muốn tu, đến xin đức Phật, thì đức Phật giảng ngay bài kinh đó, rồi về thực tập lời dạy đó thôi, chớ không có ghi chép. Cho nên, kinh sách của đức Phật, sau này các Tổ kết tập lại thành kinh sách. Cho nên, khi mà kết tập lại đầu tiên, kết tập lại không có viết nữa, chỉ đọc lại cho tất cả chúng Tỳ Kheo đó nghe rồi thôi. Do đó, người ta cái nhớ, cái không nhớ, chớ không phải toàn bộ là nhớ hết đâu.

Vì vậy mà sau này, thì kết tập lần thứ hai, thì nó mới viết thành kinh sách. Cho nên, người ta thêm rất nhiều, rồi cái số mà các Tổ kiến giải viết ra thành Tạng kinh sách đó, thì thôi cả đống kinh sách như rừng. Cho nên, làm cho chúng ta không biết đường đi đâu. Vì vậy mà bây giờ, chúng ta trở về những bài Pháp đầu tiên của đức Phật thuyết giảng cho các vị cư sĩ, cũng như các vị Tỳ kheo Tăng và Ni trong cái thời đó, thì cái số kinh đó rất ít, nó chỉ có một số ít thôi, chớ không có nhiều.

Do vì vậy, mà chúng ta đọc những bài kinh đó, chúng ta mới thấy thật sự, nó cô đọng lại cho chúng ta biết. Bộ kinh đó gọi là bộ “Kinh Pháp Cú”, những lời ngắn gọn, mà hầu hết là những lời ngắn gọn đó là dạy đạo đức - nền Đạo Đức của Đạo Phật. Sau này, quý vị sẽ đọc được “Kinh Lời Vàng”, là bộ “Kinh Pháp Cú” đó, các vị sẽ thấy được, đức Phật chỉ định cho chúng ta sống, ngăn ác, diệt ác, sanh thiện, tăng trưởng thiện.

Hằng ngày, chúng ta sống trong nền Đạo Đức Nhân bản - Nhân quả, để chúng ta không làm khổ mình, khổ người, thì đó mới chính là đạo Phật. Bộ Kinh Pháp Cú nhắc nhở cho chúng ta sống được giải thoát, gọi là giải thoát của đạo Phật là không làm khổ mình, không làm khổ người, thì cái này mới là giải thoát. Chứ không phải giải thoát ở chỗ thiền định, hoặc là giải thoát ở chỗ này, chỗ nọ kia bằng cách là cúng bái, tụng niệm, hay ngồi thiền, hay niệm chú. Tất cả những cái này là người sau họ đặt. Cho nên chúng ta tu hành mà không đúng cách, thì chúng ta vẫn thấy không giải thoát đâu.

(48:13) Vì vậy mà bây giờ, đọc lại những kinh sách mà căn bản nhất của đức Phật là Kinh Pháp Cú, do từ “Pháp Cú” đó mà chúng ta suy ra, chúng ta thấy thiện Pháp là đạo đức làm người. Nếu một người được học xong rồi, mà áp dụng vào đời sống của mình, là người đó có đạo đức không làm khổ mình, khổ người. Người ta chửi mình không biết giận đâu, mà không biết giận là giải thoát chớ gì. Thấy vật đó mình ham muốn, thì chúng ta ngăn chặn được tâm ham muốn. Ham muốn là đau khổ, chúng ta không ham muốn. Chúng ta làm, chúng ta siêng năng làm, làm là nó sẽ có, chứ không phải ham muốn với một cách không có mà lại ham muốn. Đó là những điều kiện mà đạo Phật dạy cho chúng ta.

Do đức Phật chỉ định cho chúng ta biết rằng, tất cả mọi sự khổ đau, và hạnh phúc của con người là chính do tâm của người đó, chớ không ai hết. Bởi vì, tâm làm thiện, thì người đó sẽ được hưởng hạnh phúc; mà tâm làm ác thì người đó sẽ khổ đau, có vậy thôi. Cho nên, chúng ta biết được như vậy để mà chúng ta triển khai, những Pháp của đức Phật cơ bản nhất của nó, là về phần Đạo Đức Nhân bản - Nhân quả. Nhân quả, tức là hành động thiện thì chúng ta hưởng được phước, mà hành động ác thì chúng ta thọ lấy quả khổ. Do dạy người ta biết được cái thiện - cái ác, vì vậy mà người ta biết được, người ta không có làm điều ác, người ta sống thiện.

Đó là những điều mà tu sĩ hỏi, thì Thầy sẽ chỉ cho chúng ta biết nghiên cứu. Đừng có nghiên cứu cái kinh sách mà cả rừng này, nó không có đem đến cho chúng ta lợi ích, mà nhiều khi nó làm cho chúng ta lạc lối đường nữa. Cho nên ở đây, chúng ta muốn đi vào đạo Phật, là đi vào ngay bộ Kinh Pháp Cú. Thầy muốn ca ngợi bộ Kinh Pháp Cú là tại vì nó dễ hiểu, và nó ngắn gọn. Nó nằm ở trong nền đạo đức của con người, như chiếc áo của các cư sĩ, thì hầu hết là chúng ta phải sống đạo đức. Vì chúng ta một loài động vật, là một loài động vật như muôn loài động vật khác, nhưng chúng ta hơn chúng là chúng ta có đạo đức.

Nếu một, hai người đó đánh lộn sân giận với nhau, thì hai người này là con thú vật, chứ không phải là con người, vì con người thì không thể nào đánh lộn, không thể nào chửi lộn như vậy được. Nó có cái đạo đức, nó không làm khổ mình, khổ người, thì nó không thể nào là con thú vật. Cho nên, Đạo Đức của đạo Phật, là Đạo Đức Nhân bản, nó thoát ra khỏi cái bản chất của thú vật. Con người chúng ta, hiện còn đang mang bản chất của loài thú vật. Vì vậy mà chúng ta không học đạo đức, chúng ta là con thú vật. Con thú vật, nó có thể trở thành ác thú, nó có thể giết hại biết bao nhiêu loài thú khác. Con người độc lắm. Cho nên, nó là con ác thú.

9- NĂM ĐIỀU THIỆN ĐỂ LÀM NGƯỜI

(50:55) Trưởng lão: Cho nên, đức Phật xác định: làm con người rất khó! Khó là vì con người phải có năm điều thiện. Hiện giờ chúng ta thấy con người rất đông chứ gì, đâu có khó đâu, người ta sanh con người rất nhiều chứ gì, nhưng con người mà sống năm điều thiện không có. Người mà không sát sanh, chúng ta thấy không có; người mà không trộm cắp, chúng ta thấy không có (người mà không tham lam đó); người mà không nói vọng ngữ, chúng ta thấy không có; người mà không tà dâm, chúng ta thấy không có; người mà không uống rượu, không say sưa nghiện ngập, thì rất là hiếm.

Vậy mà tìm được con người năm cái điều thiện này, mà là con người thật sự đó, thì chúng ta không thấy có trên hành tinh, trên thế gian này, rất khó tìm con người đó. Cho nên, đức Phật nói: “Khó, (làm) con người khó, khó như con rùa mù tìm bộng cây giữa biển”, có đúng không? Bây giờ chúng ta thấy con người quá đông, nhưng mà ai sống được năm điều thiện này? Không! Như vậy làm con người quá khó! Vậy thì hôm nay, chúng ta muốn làm con người, thật sự là con người, để thoát ra cái bản chất của loài động vật, thì chúng ta hãy sống năm cái điều lành này.

Vậy thì năm điều lành này, nó là tiêu chuẩn, để chúng ta xây dựng được Đạo Đức Làm Người, từ đó, năm điều lành này mà chúng ta sống đúng, thì chúng ta không làm khổ mình, khổ người. Từ năm cái điều lành này, chúng ta suy ra, chúng ta trở thành con người đạo đức, Đạo Đức Nhân Bản. Nhân bản, tức là cái gốc làm người mà. Cho nên, đạo đức này nó mới giúp chúng ta là con người, mới thật sự con người, không khéo con người của chúng ta, sẽ trở thành con thú vật.

 

10- HỌC ĐẠO PHẬT LÀ HỌC ĐẠO ĐỨC

(52:10) Trưởng lão: Hôm nay học đạo Phật là chúng ta phải học Đạo Đức, chớ đâu phải nói Nho giáo mới có đạo đức. Đạo đức của nho giáo, là đạo đức phong kiến: Nhân-Nghĩa-Lễ-Trí-Tín, Tam Cang, Ngũ Thường. Còn đạo đức của đạo Phật, là đạo đức không làm khổ mình, khổ người, Đạo Đức Nhân Bản. Bất kỳ giai cấp nào trong xã hội, đều thực hiện được cái đạo đức này. Còn đạo đức của Nho giáo, là chỉ thực hiện cho giai cấp của Sĩ Phu, chớ còn con người bình dân của chúng ta giữ không nổi, vì chúng ta không thể giữ được.

Còn trái lại, Đạo Đức của đạo Phật, mọi con người, dù là người cùng đinh, người tôi tớ, người hèn mạt nhất trong thế gian này vẫn sống vì mang lại lợi ích cho họ. Nếu họ không sống lợi ích cho bản thân họ, thì họ trở thành một con thú vật. Cho nên, đạo đức này là Đạo Đức của đạo Phật, để giúp cho con người giải thoát. Vì vậy mà đạo Phật gọi là đạo giải thoát, mà giải thoát bằng cái gì - bằng trí tuệ. Cho nên đức Phật nói: "trí tuệ ở đâu, thì đạo đức ở đó; đạo đức ở đâu, là trí tuệ ở đó". Người có trí mà không có đạo đức, thì người đó không phải là người có trí.

(53:12) Một người có bằng Tiến sĩ, có học thức giỏi, có hiểu biết kinh điển thông suốt, mà sống hoàn toàn không đạo đức, là người đó không có trí tuệ. Người đó chỉ nhẩm lại, nhai lại đờm dãi, tích lũy lại sự hiểu biết một cách rất cạn cợt của thế gian, không có đạo đức, không có giải thoát cho mình. Cho nên, đạo Phật rất đơn giản, rất dễ dàng, vì chúng ta sống đúng đạo đức là chúng ta sẽ giải thoát.

Cho nên ở đây, Thầy nói có tu hành gì đâu. Như nảy giờ Thầy nói, chớ giờ chúng ta bắt buộc mình phải tập trung trong hơi thở, rồi phải đi kinh hành, phải tập trung cho biết đi, cho biết đứng, làm cho chúng ta lại thêm những công việc làm. Thành ra chúng ta, thay vì chúng ta được nghỉ ngơi, phải được an ổn, phải được khỏe khoắn; bây giờ chúng ta lại tu tập thêm những pháp làm cho chúng ta phải quá nhọc nhằn. Chúng ta chỉ cần giữ tâm mình thanh thản, an lạc, vô sự. Phải không? Thấy nó thanh thản, an lạc, vô sự, thì nó không có chướng ngại pháp. Nó không ác pháp, thì nó là Đạo Đức - Không Làm Khổ Mình - Khổ Người.

Bây giờ, có người khác chửi mình, giờ mình mới có đủ chuyện mình làm việc nè. Bây giờ người ta chửi mình, thì mình đừng có giận. Như vậy mình không giận, tức là mình đạo đức chớ gì. Mình không chửi lại người, tức là mình đâu có làm ác pháp, mà mình không làm cho mình giận, thì tức là mình đâu có ác pháp, còn người ta chửi mình mà mình tức giận, tức là mình mang ác pháp, thì rõ ràng là mình đang ở trong ác pháp.

Do sự tu tập của đạo Phật bằng trí tuệ, vì trí tuệ hiểu biết, cho nên chúng ta không giận. Cho nên “đạo đức ở đâu thì trí tuệ ở đó; mà trí tuệ ở đâu, thì đạo đức ở đó”. Người có trí tuệ sao lại có giận. Vậy thì quý vị bây giờ, dầu có đỗ bằng Tiến sĩ, có học thức giỏi, có thông Tam Tạng kinh điển, mà còn cơn sân, thì quý vị là người không trí tuệ.

Còn Thầy là người không biết gì hết, ngu đần, Thầy không có cấp bằng gì hết, nhưng mà người ta chửi Thầy, Thầy không giận, tức là Thầy người có trí tuệ. Bởi vậy đức Phật xác định “trí tuệ ở đâu, là đạo đức ở đó; đạo đức ở đâu, là trí tuệ phải có ở đó”. Đó là một cách cụ thể của đạo Phật. Vì vậy mà cuộc đời sống của người đó giải thoát hoàn toàn.

Cũng như bây giờ, giờ phút này chưa có nấu cơm, lát nữa Thầy đói, mà Thầy vẫn thản nhiên, không có lo lắng gì hết, thì tức là Thầy có trí tuệ. Còn bây giờ, nó đói Thầy phải lo, bây giờ phải lén đi ăn cắp bụi củ mì, hay nhổ khoai lang, hay bắt con gà của họ để về ăn. Như vậy rõ ràng, Thầy là người không có vô sự, Thầy là người có ác pháp, và Thầy là người trở thành tham lam. Từ trong ý Thầy chưa làm, nhưng mà Thầy là một người tham lam rồi. Như vậy rõ ràng là ác pháp trong đó, mà Thầy bây giờ có bắt con gà cho Thầy ăn mập béo đi nữa, hoặc là nhổ bụi củ mì, hay lén lấy của người ta một lít gạo để về nấu, mình ăn, thì cái người này có trí tuệ không? Không có trí tuệ.

Bây giờ Thầy nói đây là đơn giản: bây giờ người đó họ ngồi đây, họ suy nghĩ là “mình phải mở nhà máy, kinh tế làm cái này, cái kia cho có tiền bạc”. Như vậy là người đó có trí tuệ không? Đâu có trí tuệ đâu, người đó còn tham đắm, cho nên đày ải họ phải khổ sở. Họ phải nghĩ, bây giờ phải làm như thế này, như thế này, để mà thu lợi, bằng cách này đóng thuế nhà nước như thế này. Làm cái này, phải lợi như thế này, bóc lột nhân công như thế này, để trả lương ít như thế này, đem lại lợi tức nhiều cho mình nè, để mai mốt mình cất nhà lầu, nhà đài, xe cộ. Tất cả những cái này, để làm lợi ích cho mình.

(56:09) Như vậy, rõ ràng là người này tốt hay xấu, người này có trí tuệ không, “người này nghĩ ông này tính hay thiệt, làm ăn kỹ thiệt, ông này trí tuệ thật!” Trí tuệ này là trí tuệ ngu si, đưa mình đi vào chỗ chết, đưa mình vào chỗ khổ, chứ chưa phải đưa mình vào cái chỗ giải thoát.

Cho nên ở đây, sự tu tập của đạo Phật là trí tuệ đạo đức. Bây giờ khả năng của tôi, tôi là một người kinh doanh, tôi sẽ mở ra những nhà máy, một cái nhà hàng, một cái khu du lịch nè. Tôi sẽ lấy cái đồng tiền này, không phải vì cá nhân của tôi đâu, mà tôi sẽ giải quyết cho bao nhiêu người thất nghiệp để vào cơ sở này làm, để giúp cho họ có cơm ăn, áo mặc, xóa đói giảm nghèo. Tôi nghĩ là vì sự đau khổ của những người thất nghiệp, tôi làm công việc này, tôi có khả năng tôi làm được, tôi có vốn, tôi bỏ ra tôi làm được.

Tôi làm việc này, không phải gì tôi làm giàu thêm cho tôi đâu. Cho nên, những nhân viên mà vào đây, tôi trả lương đủ sống, một triệu, hai triệu bạc để cho họ đủ sống nuôi gia đình họ đầy đủ. Cho nên từ đó, tôi mới tự suy nghĩ như vậy, tôi là thiện pháp có trí tuệ. Tôi cũng làm ăn, nhưng mà làm ăn, không phải vì cá nhân của tôi, mà tôi làm ăn vì sự đau khổ của mọi người khác. Cho nên, trí tuệ này là trí tuệ của người có đạo đức, phải hiểu được cái trí tuệ.

Còn nhiều khi mình bỏ vốn ra mình lo làm ăn, làm giàu, làm có, mình bóc lột công nhân. Có mấy ông chủ, mấy ông giám đốc, thật sự ra rất nhiều những cái nạn này, thì chẳng khác nào như một cái người ngồi đó đói, mà tính đi bắt gà người ta, đi tính ăn trộm gạo, trộm lúa người ta, thì cái ông mà giám đốc này có thua gì không, cũng vậy thôi. Cho nên, cách thức khéo léo của họ thôi. Như vậy, những người này là những người không trí tuệ, vì cá nhân của họ mà làm hại tất cả mọi người khác. Đó là một cái sai, cái không đúng.

Cho nên ở đây, đạo Phật dạy chúng ta, đạo đức ở đâu là trí tuệ ở đó. Đạo đức thì không làm khổ người, không làm khổ mình. Cho nên, đâu có làm khổ người, đâu có bóc lột nhân công. Cho nên nhân công vẫn đủ sống, có tiền mưu sống, xóa đói được giảm nghèo, tạo được công ăn việc làm cho họ, thì như vậy rõ ràng là ông giám đốc này, ông chủ này rất là tốt, người có đạo đức.

(58:21) Hôm nay, vì chỗ căn bản của Phật pháp như vậy, quý cư sĩ hãy hướng về đạo phật là phải hướng về đạo đức, Đạo Đức Nhân bản - Nhân quả, đó là cái điều duy nhất. Cần phải đọc những cuốn sách dạy về đạo đức. Đầu tiên, các cư sĩ hãy đọc những cuốn sách của đạo Phật, “Kinh Pháp Cú” là của lời Phật nói ngày xưa, mà bây giờ người ta còn nhớ được những câu đó, bởi vì nó vừa ngắn, vừa gọn. Nó là những bài kệ.

Cái thứ hai là hãy đọc mười điều lành của Phật, tức là Thập thiện. Thập Thiện là mười điều lành, mà người nào giữ trọn được mười cái điều lành, gọi là người trời. Nghĩa là không có cõi trời, cõi vô hình mà có con người ở thế gian này sống mười điều lành, người đó là người trời. Còn người ở thế gian này, mà sống năm điều lành, thì người đó là con người thật sự là con người. Dưới năm điều này là làm con thú vật, là một loài động vật, mặt người mà loài thú, chứ không phải là con người thật sự.

Cho nên, chúng ta biết được trong kinh sách của Phật đã xác định được Trời, con Người, Atula, và Ngạ quỷ, Súc sanh, Địa ngục. Tất cả sáu cái nẻo luân hồi này, là ngay cuộc sống của chúng ta đã phân biệt được những giai cấp đó, đã được những cõi đó, để mà thấy được con người của chúng ta và những loài chúng sanh. Cho nên, đừng đi tìm cái thế giới siêu hình nào ở đâu mà gọi là cõi Trời, hay là thế này, thế khác mà ngay nơi cõi chúng ta. Nhưng cõi Tời chúng ta có được không, chưa có người nào sống Thập Thiện hết, cõi Người chúng ta còn tìm chưa ra, huống hồ là cõi trời, thật là khó vô cùng.

Hôm nay đủ duyên đến đây được nghe Thầy giảng về Đạo Đức. Thầy ở đây nói đạo đức, nhưng mà chưa đi sâu vào tri kiến đạo đức, sau này có được dịp, đọc bộ sách “Đạo Đức Làm Người”. Đến đây, các con còn hỏi Thầy gì thêm nữa không, chúng ta hãy dừng lại đây.

HẾT BĂNG

TOÀN BỘ PHÁP ÂM 1998 - 2000