Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Thời gian: 1998
(0:00) Về cái Định Niệm Hơi Thở thì ở đây chúng ta cái phân rõ hai phần như Thầy xin nhắc lại đó.
Cái phần thứ nhất là Chánh Niệm Tỉnh Giác Định trong hơi thở, còn cái kia là Chánh Niệm Tỉnh Giác Định trong cái hành động của thân bên ngoài. Đó thì chúng ta thấy hai cái pháp này đều là cái pháp Chánh Niệm Tỉnh Giác cả hết, nhưng mà tỉnh giác hơi thở và tỉnh giác trong hành động, hai cái này nó thuộc về hành động nội và hành động ngoại mà thôi.
Còn cái Định Niệm Hơi Thở thì nó giúp cho chúng ta là tu cái Định Diệt Tầm Diệt (Giữ) Tứ, đó là pháp đầu tiên của nó.
Kế đó là những cái pháp mà nó trợ giúp gián tiếp cho cái Tứ Chánh Cần, làm cho các ác pháp sẽ bị đoạn diệt và nó giúp cho cái thân của chúng ta nó có những cái cảm giác, làm cho chúng ta thấy an lạc, làm chúng ta thấy hân hoan, làm chúng ta thấy định tỉnh, làm chúng ta thấy giải thoát. Nó giúp cho chúng ta thực hiện trên con đường càng tu càng thấy những kết quả thích thú, ham tu hơn, đó là cái Định Niệm Hơi Thở.
Nó chưa có áp dụng vào những cái định như Tứ Thiền hoặc là cái định khác nữa. Nó áp dụng tất cả mọi cái loại định thì cái Định Niệm Hơi Thở nó áp dụng rất nhiều. Thậm chí như Thất Giác Chi nó cũng áp dụng vào cái Định Niệm Thất Giác Chi nữa, nhưng ở đây vì chưa dạy tới Thất Giác Chi cho nên Thầy không có giảng dạy.
Nhưng ở đây bây giờ, chúng ta sẽ thấy được cái kết quả của cái Định Niệm Hơi Thở này, nó giúp cho cái thân và tâm của chúng ta thanh tịnh. Thanh tịnh tức là nó không còn tham sân si nữa tức là thanh tịnh, nó ly dục ly ác pháp cho nên nó thanh tịnh.
Ở đây Đức Phật khuyên chúng ta tu cái Định Niệm Hơi Thở để cho nó đạt được cái sự thanh tịnh. Nếu mà chúng ta tu tập thì chúng ta sẽ đạt được cái kết quả thanh tịnh đó:
“Tỳ kheo đi đến một khu rừng, hay đi đến một gốc cây, hay đi đến một căn nhà trống, ngồi kiết già lưng thẳng, đặt niệm trước mặt. Vị ấy chánh niệm thở vô, chánh niệm thở ra”.
Thì như vậy là nãy giờ mà Thầy đã đọc lại cái Định Niệm Hơi Thở, cách thức tu, thì bây giờ muốn cho cái thân và tâm và thọ của mình được thanh tịnh, thân, tâm, thọ và các pháp được thanh tịnh, tức là bốn chỗ này thanh tịnh đó, thì chúng ta thường xuyên mà tu tập như Thầy đã giảng hồi nãy, thì nó sẽ như thế nào?
“Tu tập như vậy làm cho sung mãn”, làm cho sung mãn tức là làm cho đầy đủ đó. Như vậy niệm hơi thở vô, hơi thở ra “sẽ có quả lớn, thì có lợi ích rất lớn”, nghĩa là nó có cái quả lớn để cho chúng ta, vì nó đem đến cho chúng ta được cái trạng thái thanh tịnh, rất thanh tịnh. Đó, thì đó là cái thứ nhất.
(02:48) Và đồng thời, cái quả như thế nào? Ở đây Phật cũng có dạy như vậy là trước khi mà chúng ta đi tìm cái nơi yên tịnh để chúng ta tu hành đó, rồi chúng ta cũng quán.
Bây giờ từ cái chỗ mà chúng ta quán cái hơi thở của chúng ta, như bắt đầu “cảm giác toàn thân”, cái bài thứ nhất mà “hơi thở dài”, “hơi thở ngắn”, thì nó là cái Định Diệt Tầm Giữ Tứ nó không quan trọng rồi.
Đến cái bài thứ hai thì chúng ta từ cái chỗ mà “cảm giác toàn thân” cho đến cái mà “quán từ bỏ tham sân si” của chúng ta, từ bỏ, đoạn diệt, rồi ly tham đó, cho đến chỗ cái chỗ “quán từ bỏ” đó, thì cái phần này nó sẽ giúp cho chúng ta có được những cái quả lớn của nó.
(03:39) Niệm hơi thở vô hơi thở ra sẽ được tu tập như vậy cho sung mãn thì chúng ta sẽ đạt được cái gì? Đạt được hai quả:
Ngay ở trong hiện tại thì chúng ta có Chánh Trí. Nó làm cho chúng ta sáng suốt, lúc nào nó cũng có sự hiểu biết, ai làm gì chúng ta cũng hiểu biết. Nghĩa là người ta chửi mình mình cũng vẫn hiểu biết. Mình hiểu biết, mà cái hiểu biết của cái Chánh Trí nó làm chúng ta không có giận cái người đó, ghét người đó. Nó đạt được cái Chánh Trí đó.
Nếu có cái quả thứ hai, thì ngay đó là chúng ta có được một cái quả, cái quả Bất Lai. Nghĩa là nó không có trở lui lại với cái đời sống phàm phu.
Ở đây bây giờ Thầy nói ví dụ nè, như Mật Hạnh bây giờ đã tu tập như vậy, khi bây giờ Mật Hạnh có ra đời, có thực hiện cái cuộc đời Mật Hạnh cũng vẫn là một người tốt chớ không bao giờ mà có phạm những cái bậy bạ, cái tầm bậy như con người chưa tu. Nghĩa là không có ác pháp đối với nó, nghĩa là ác pháp đến nó, nó vẫn có một cái Chánh Trí, nó biết được liền.
Cho nên ở đây nó có hai cái quả. Cái quả hiện tại mà cái người tu mà cái tâm nó quay vô, thì nó đạt được cái Chánh Trí. Nó thấy được cái đúng, cái sai. Nó không bao giờ nó bị cái đam mê của cái tà pháp bên ngoài mà cám dỗ làm nó sai. Nghĩa là nó không tiếp tục tu lại trên con đường tu nữa, nhưng mà nó vẫn có cái Chánh Trí.
Và nếu cái Chánh Trí đó nó sẽ có cái quả, cái quả đó là cái quả Bất Lai. Nó không đưa con người trở về cái phàm phu tục tử của đời sống của từ con người thô lỗ cho đến loài thú vật. Nó không đưa cái người đó trở về đó, mà từ cái chỗ đó, nó sẽ đưa trở về bậc Thánh, bởi vì cái Chánh Trí đó sẽ có cái kết quả, nó trở về bậc Thánh nếu nó đi tới. Còn nếu nó đứng lại đó thì nó vẫn chủ động được những cái xấu của người thế gian, cái ác của người thế gian.
Để rồi Thầy nói đây, rồi sau này thì các con sẽ tìm ở lại trong huynh đệ của các con, các con sẽ thấy lời nói của Thầy là đúng, cũng là cái lời nói ở trong kinh sách của Phật. Đây là cái quả của cái người tu tập, nó sẽ không mất cái quả giải thoát, cái quả đức hạnh đó nó không mất, nó không làm mất cái quả đó.
Chẳng hạn bây giờ các con thấy tu mình chưa có làm chủ sanh tử, chưa có gì hết, nhưng mà các con cũng sẽ được những cái quả rất lớn. Mà cái quả đó nó đạt được cái Chánh Trí, nó làm cho chúng ta vững vàng ở trên bước đường đời, hơn là lúc trước mà chúng ta chưa tu, nó có ác pháp. Mà ác pháp trong lúc đó chúng ta không biết nó là ác, cho nên chúng ta cứ làm, khi mà khổ rồi thì hay chớ còn chúng ta không biết.
(06:22) Còn cái này, khi mà Chánh Trí thì nó không bị sai lệch, nó không bị làm như cái người tục tử phàm phu, hung dữ như một con thú vật, nó trở về cái con người thật sự.
Nó còn một cái quả nữa. Tu tập trên đây thì sẽ được những bảy cái quả lận, nghĩa là nó có kết quả là bảy cái quả của nó, chớ không phải là một cái quả. Cái sự tu tập như hồi nãy cái bài Định Niệm Hơi Thở nó đem lại cái quả của nó như vậy, nó làm cho chúng ta tiến tới cái thiền định rất dễ.
Bảy quả của nó, quả thứ nhất là Chánh Trí, nó sẽ đoạn diệt được năm hạ phần kiết sử. Nghĩa là phải nói rằng mười phần kiết sử nhưng mà kết lại thì chúng ta sẽ thấy nó Thất Kiết Sử, nhưng mà nó diệt được năm cái hạ phần kiết sử. Cái Định Niệm Hơi Thở đó nó diệt được năm cái hạ phần kiết sử.
Cái trạng thái, thường thường cái người đó họ được ở trong cái trạng thái của cái tâm thanh thản của họ, chớ không phải là nó mất tiêu đâu. Họ thường thường họ cũng có thanh thản ở trong tâm của họ, cho nên họ cũng vẫn đạt được Bát Niết Bàn.
Rồi cái quả của họ nó hiện, trong hiện tại thì nó cũng sẽ có những cái Niết Bàn nó hiện tướng ra, nhưng mà cái Vô Hành Niết Bàn, nghĩa là có lúc nó ở trong cái vô thức của họ, nó cũng có cái trạng thái, nó làm cho họ rất là an ổn gọi là Vô Hành Niết Bàn.
Rồi Hữu Hành Niết Bàn nghĩa là bình thường trong những cái hành động hằng ngày của cái người này, nó có những cái hành động, mà cái hành động mang đến cho họ có cái niềm vui, cái niềm đó là cái niềm không tham, không sân, không si, không giận hờn.
Nó có cái trạng thái gọi là trạng thái giải thoát của họ. Mặc dù nó không được thường xuyên, nó không được sống thường xuyên, nhưng mà cái quả đó vẫn có đối với cái người mà tu cái Định Niệm Hơi Thở.
Hoàn toàn trong khi nó ngủ, tức là Vô Hành đó, nó không có hoạt động, thì nó cũng đạt được cái trạng thái yên tịnh trong giấc ngủ, chớ không phải là những cái ác pháp ở trong cái giấc ngủ đó, hoặc là làm bất an trong giấc ngủ đó, không có, nó được cái Vô Hành Niết Bàn.
Vì vậy thì cái người mà tu cái Định Niệm Hơi Thở đó, nó sẽ đạt được cái bậc Thượng Lưu. Thượng Lưu đây Đức Phật muốn nói là cái tâm Thượng Lưu chúng ta, biết xả bỏ, biết xả những cái lỗi lầm của người khác, tha thứ người khác. Cho nên nó được cái quả của nó là Thượng Lưu, luôn lúc nào nó không có hẹp hòi, nó không ích kỷ, nó không xấu xa, mà luôn luôn lúc nào nó có cái hành động cao quý của nó.
Và nó đạt được cái Sắc Cứu Cánh Thiên, là khi cái người này có chết đi thì họ cũng sanh vào cái cảnh trời Sắc Cứu Cánh, chớ nó không có mất cái quả. Mà cảnh trời Sắc Cứu Cánh thì các thầy biết rằng, ngay trong khi mà cái người tu đó họ đang sống trong mọi cái cảnh của thế gian này, nhưng mà tâm họ luôn luôn ở trong cái cảnh trời Sắc Cứu Cánh đó.
(9:38) Đó thì, nó được bảy cái quả tốt đẹp của nó. Kế đó thì cái người mà tu cái Định Niệm Hơi Thở này, thì họ thân không rung động, tâm không dao động, hai cái, thân không rung động.
Nghĩa là ngồi thiền thì nếu mà hướng tâm như vậy thì thân không rung động, bởi vì tỉnh, nó không mê. Còn nó mê nó sẽ chạy theo an lạc thì thân nó bồng bềnh, nó dao động. Cho nên đó mình thiếu cái pháp hướng để nhắc tâm, cho nên mình không có nhắc nó, cho nên cái thân mình nó bị dao động, nó bồng bềnh, bồng bềnh.
Như cháu Trang hồi còn ở đây tu hành hay nói, “Sao cái thân con ngồi khi mà hết vọng tưởng, nó bồng bềnh bồng bềnh, rồi lúc cái nó mất”. Thì đó là nó bị rơi vào cái trạng thái của tưởng, rồi nó thấy cái thân nó bồng bềnh, bồng bềnh, như nổi, như chìm, nó dao động, lúc lắc.
Ở đây cái người mà tu theo kiểu cách của Đức Phật như vậy, là cái thân không bị rung động và cái tâm cũng không dao động. Nhờ tu tập Định Niệm Hơi Thở vô hơi thở ra như vậy, làm cho sung mãn như vậy, nên thân không rung động, tâm không dao động.
Đó, nó có những cái kết quả. Và những cái kết quả đó là cái Định Niệm Hơi Thở chúng ta luyện tập để nó mang lại những kết quả này, để sau khi mà chúng ta đi vào thiền định khác thì nó không bị cái thân dao động, cái tâm dao động.
Mà nó có một phần giải thoát được các lậu hoặc nữa. Cái Định Niệm Hơi Thở này tu thì nó có một phần nó giúp chúng ta cũng giải thoát được các lậu hoặc. Trước khi giác ngộ, chưa chứng Chánh Đẳng Giác, đây là lời Đức Phật nói:
“Khi còn là Bồ Tát, ta tu tập nhiều với pháp môn này. Do ta tu tập nhiều với pháp môn này, thân ta và con mắt không có mỏi mệt, không có mỏi nhọc, và tâm ta giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ”.
Nghĩa là các pháp này, pháp kia, Đức Phật không bị dính mắc, không có chấp thủ vào những dính mắc đó. Cho nên do nhờ cái tu tập này mà Đức Phật không có bị dính mắc.
Mặc dù là tu cái cái pháp của các vị thầy dạy cho mình, tu cái Không Vô Biên Xứ, cho đến cái Định Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ. Nhưng mà tu được rồi thì Đức Phật cũng không dính mắc, không chấp thủ những cái pháp này, cho nên thoát ra khỏi một số lậu hoặc rất là lớn.
Cho nên cái Định Niệm Hơi Thở nó có cái giá trị như vậy, mà ngay từ đầu các con cũng như các thầy về đây, Thầy bắt buộc phải tập ổn định hơi thở nè, rồi tập làm cho có một cái tụ điểm để mà bám chặt cái hơi thở nè, rồi luyện cái hơi thở dài, chậm, để tạo thành cái tụ điểm. Từ luyện cái hơi thở bình thường mấy giây, tu tập để cho nó thuần thục ở trong hơi thở.
(12:28) Vì cái Định Niệm Hơi Thở nó có nhiều cái lợi ích như vậy và nó cũng là một cái pháp để mà chúng ta trợ duyên cho các pháp khác.
Cũng như một cái người học Pháp văn, thì người ta bắt buộc mình phải học chia cái động từ “avoir” hoặc “être”, nó phải cho làu, thuộc làu, để rồi dùng nó chia mà các động từ khác cho nó dễ dàng.
Thì ở đây thì các thầy cũng thấy rằng Thầy đã nhào nặn quý thầy. Các con phải luyện tập cái hơi thở, không có nói pháp nào hết, mà cứ vô cứ luyện tập hơi thở để cho nó thuần thục, nó quen với cái hơi thở, nó rất là thuần, do đó bây giờ mới áp dụng vào những cái khác thì nó mới dễ. Sau khi áp dụng vào cái khác thì vừa biết thở, mà lại vừa nhắc cho mình về cái pháp đó để xả tâm.
Bây giờ thí dụ như “Hít vô tui biết tâm tui cần xả tâm tham, thở ra tui biết tâm tui xả tâm tham”, đó là mình câu hữu với Định Vô Lậu chớ gì! Đó mình biết như vậy. Bây giờ “Hít vô tui biết thân tui không phải là ngã, thở ra tui biết thân tui không phải là ngã”, đó là mình câu hữu với Định Vô Lậu chứ gì, để mình diệt ngã chớ gì!
Đó, tất cả những cái này, nếu mà mình chưa thuần thục hơi thở, thì mình hít vô thì mình nói chưa có kịp, mà mình thở ra rồi mình nói cũng chưa có kịp.
Còn mình thở vô mình đã quen rồi, cho nên vì vậy mà mình thở vô cái mình nói, thì trong khi đó cái tâm mình nó hướng theo, nó lại đặt thêm một cái Định Vô Lậu, nó câu hữu với cái Định Vô Lậu, nó phá đi cái ngã, nó phá đi cái chấp ngã của mình. Nó làm cho mình không còn tham, sân, si, giận hờn nữa.
Hay hoặc là bây giờ “Hít vô tui biết tâm tui như cục đất, thở ra tui biết tâm tui như cục đất”, thì mình hít vô mình cũng nói, nó nương vào cái hơi thở nó rất tỉnh.
Như Thầy nói bây giờ, thí dụ như các con thấy nè, mình nương vào hơi thở mà mình tu cái Chánh Niệm Tỉnh Giác ở bên ngoài nữa, thí dụ như mình vừa đi mà mình biết hơi thở tức là mình câu hữu giữa hai cái định Chánh Niệm Tỉnh Giác của nội và Chánh Niệm Tỉnh Giác của ngoại, hai cái mình câu hữu, thì mình thấy sao mình đi sao nó tỉnh quá, nó đi hai, ba vòng mà nó không có tạp niệm. Thì đó là mình câu hữu giữa hai cái: hơi thở và cái hành động đi của mình.
Cũng như bây giờ mình vừa quét mà mình câu hữu được với cái hơi thở của mình nữa. Mình biết cái hơi thở ra, vô mà mình vừa quét, nó làm cho mình rất tỉnh trong cái thời gian, tức là gọi là nương hơi thở để mà biết rõ cái hành động đang quét sân hay quét nhà. Cách thức tu tập nó như vậy đó, tức là câu hữu như vậy.
(14:43) Cho nên cái Định Niệm Hơi Thở là nó để dùng để mình nhờ nó mà mình tu tập các định khác, mình vào định.
Cũng như bây giờ Thầy nói, bây giờ thí dụ như mình tu về cái Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền, thì mình rằng cái Nhị Thiền là phải diệt Tầm Tứ, mà cái Sơ Thiền thì phải ly dục ly ác pháp.
Mà bây giờ mình chưa có ly dục ly ác pháp thì mình “Hít vô”, bây giờ mình: ”Hít vô tui biết tâm tui ly dục ly ác pháp, thở ra tui biết tâm tui ly dục ly ác pháp”, mình nhắc tâm mình ly dục ly ác pháp. Nhưng bây giờ nó chưa ly mà mình nhắc nó, tức là ý của mình là muốn cho nó ly dục ly ác pháp, đó là mình câu hữu với cái Sơ Thiền.
Và đồng thời mình nhắc như vậy, và nhắc như vậy thì mình sống đúng cái giới hạnh, thì cái giới hạnh nó giúp cho mình ly những cái dục, ly những ác pháp. Và mình tập Tứ Chánh Cần, nó làm cho mình lìa các ác pháp đó ra. Và do cái sự tu tập đó, và do cái sự câu hữu này nó nhắc, nó làm cho những cái này nó kết hợp, nó thành một cái đạo lực.
Khi đó mình nhắc “Tâm như cục đất, không có giận hờn phiền não”, thì do đó tâm nó như cục đất không phiền não, thì nó sẽ ly dục. Vì vậy mình nói “Tâm phải ly dục ly ác pháp, nhập Sơ Thiền” là ngay đó nó sẽ nhập liền, nó sẽ ở chỗ trạng thái mà không có ham muốn, không có ác pháp.
Cho nên mình câu hữu như vậy thì mình nhắc, ngay đó là nó vô Sơ Thiền liền tức khắc. Thì bắt đầu bây giờ nó vô Sơ Thiền thì, bởi vì mình nương hơi thở để mình nhắc nó, thì khi mình nhắc như vậy, thì cái hơi thở ra vô này, thì nó là cái đường để cho mình đi vào cái Sơ Thiền.
Mà khi mà nó ly ác pháp rồi, thì bắt đầu nó còn hơi thở thì cái hơi thở nó do cái ly dục ly ác pháp sanh hỷ lạc. Nó sanh hỷ lạc, thì cái hỷ lạc đó nó làm cho chúng ta không có cái thấy cái hơi thở của chúng ta đang thở ở chỗ cái Sơ Thiền. Vì vậy mà chúng ta còn thấy một cái trạng thái ly dục ly ác pháp. Đó là cách thức là như vậy.
Bây giờ Nhị Thiền thì chúng ta nhắc: “Cái tâm phải tịnh chỉ Tầm Tứ!” Thì bắt đầu mình nhắc như vậy. Thì khi mà mình bảo “Cái tâm phải nương hơi thở, phải tịnh chỉ Tầm Tứ!”, thì lúc bấy giờ nó nương hơi thở ra hơi thở vô. Vì hằng ngày mình nương cái hơi thở, mình thở ra thở vô, để cho mình diệt Tầm diệt Tứ.
Như hồi nãy đó Thầy nói tu diệt cái Tầm mà giữ Tứ đó, “hít vô tui biết tui hít vô, thở ra tui biết tui thở ra” đó, “hít vô dài tui biết tui hít vô dài, thở ra dài tui biết tui thở ra dài”đó.
Đó là cái chỗ tu tập làm cho cái tâm của chúng ta nó nương vào cái hơi thở mà nó diệt Tầm Tứ. Thì bây giờ mình nhắc nó thì ngay đó là nó đã diệt Tầm Tứ để nó nương vào hơi thở, rồi từ đó nó nhập vào cái Nhị Thiền.
Đó thì các con và các thầy thấy, cái Định Niệm Hơi Thở nó có một cái giá trị rất cao, là nó trợ giúp cho chúng ta đạt được những cái kết quả mà chúng ta mong muốn. Đó.
(17:21) Thì đây là về cái phần Định Niệm Hơi Thở. Coi như là Thầy dạy hôm nay là các con biết từ căn bản, sơ cơ, cách thức tu tập về cái Định Niệm Hơi Thở, chớ không phải là dạy sổ tức, tùy tức đâu.
Nhưng mà trước kia là vì dạy theo các pháp môn của Đại Thừa, của kinh sách Nguyên Thủy, của các pháp mà của các Tổ dạy, thì Thầy thấy từ cái pháp sổ tức, tùy tức thì nó cũng là do cái chỗ tu tập để làm cho Tầm Tứ nó diệt, vọng tưởng nó hết, cho nên hướng dẫn các con nương vào cái chỗ sổ tức, chớ không hướng dẫn theo cái kinh sách của đạo Phật.
Mà bây giờ thì chúng ta đã thành lập một cái Giáo án đường lối của đạo Phật, thì tất cả những cái gì mà của các Tổ đặt ra, nó không phải là của đạo Phật mà của các Tổ, thì chúng ta để qua một bên.
Sau đó thì chúng ta sẽ có một bài kết hợp, cái gì mà làm cho lợi ích trên bước đường tu tập thì chúng ta lấy để mà nương theo đó mà hướng dẫn người tu. Cái gì mà nó không có lợi ích bằng cái pháp mà Phật dạy thì chúng ta nên bỏ nó.
Thí dụ như bây giờ cái pháp sổ tức, nó là cái pháp ức chế tâm, thì nó không bằng cái pháp mà chúng ta hướng tâm về hơi thở, do đó chúng ta thấy nó không kết quả, vì nó ức chế tâm thì dễ rơi vào các trạng thái định tưởng. Bởi vì ức chế tâm thì cái ý thức của mình nó không hoạt động, thì cái tưởng thức nó phải hoạt động.
Còn cái này, chúng ta ý thức nó vẫn còn hoạt động theo cái pháp hướng, cho nên nó không mất đi, do đó chúng ta không ức chế tâm, mà do vì vậy m chúng ta hướng để mà xả tâm. Từ cái xả tâm nó hết vọng tưởng, nó diệt Tầm Tứ bằng cách là nó ly cái tâm ra.
(18:55) Bây giờ đến cái giai đoạn tu tập Tứ Niệm Xứ rồi. Vậy thì tiếp tục ở trên cái bước đường mà tu tập Tứ Niệm Xứ, thì chúng ta đã bước qua một cái giai đoạn Niệm, thì tức là phải tới Định. Chữ Niệm ở đây, thì ở đây nó có bốn chỗ để mà chúng ta niệm.
Nhưng mà chữ Niệm, Tứ Niệm Xứ đây là bốn cái chỗ để đặt pháp. Chữ Niệm đây là pháp, cho nên chúng ta đặt cái pháp ở trên cái chỗ đó, cái nơi đó, để mà chúng ta tu tập cái nơi đó, chúng ta tu làm sao cho đạt được cái chỗ đó.
Cho nên khởi đầu tu tập thiền định, bởi vì ở đây đạo Phật nói chung hoàn toàn là thiền định, không có một pháp nào là không thiền định.
Mới đầu vô chúng ta tu tập Chánh Niệm Tỉnh Thức thì cũng là Thiền Định. Nếu không có cái pháp này, không có pháp Chánh Niệm Tỉnh Thức thì chúng ta không ngăn chặn được ác pháp, thì Tứ Chánh Cần chỉ là nói suông, không có nghĩa gì hết, không có cách thức tu rồi.
Cho nên nếu mà giải thích riêng từng cái pháp, như Tứ Chánh Cần riêng ra, thì chúng ta nói: các pháp ác chưa sanh không cho sanh, thì lấy cái gì không cho nó sanh đây, mà người ta bảo rằng mình đừng cho sanh?
Không cho sanh là tui làm sao tui không cho sanh? Nó tự ở trong tâm tui, nó tự các pháp ở ngoài nó đập vô, nó chửi mắng tui, nó làm cho tui khổ, thì tức là tui phải sanh, mà bảo tui đừng sanh là tui lấy cái gì tui chặn nó được đây?
Cho nên vì vậy nếu mà chúng ta lấy riêng nội cái pháp Tứ Chánh Cần mà tu, thì chắc chắn là chúng ta không biết rồi. Cho nên hầu hết là các thầy mà giảng dạy, các Hòa thượng mà giảng dạy về Tứ Chánh Cần nó độc lập riêng nó ra, thì coi như là các thầy đó không biết đâu, không biết pháp tu đâu.
(20:29) Cho nên nói Tứ Chánh Cần, chứ sự thật ra chúng ta tu những cái thiền định: Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, Định Niệm Hơi Thở, Định Vô Lậu, ngay trên đó chúng ta mới ngăn chặn được các pháp ác, và không cho các pháp ác tăng trưởng. Đó thì, nó phải có cái pháp để mà chúng ta tu tập.
Bây giờ chúng ta đã hiểu được như vậy, thì cho nên tất cả các pháp của Phật đều gọi là thiền định hết, không có pháp nào là không thiền định.
Chúng ta có cái quan niệm sai lầm, là hễ khi nào mà nói thiền định là phải khoanh chân ngồi kiết già, rồi ngồi đó hít thở hay niệm Phật gọi là thiền định. Hễ thấy ai ngồi thì gọi là thiền định, còn cái người mà đi họ không cho thiền định.
Mà ngay cả khi mà chúng ta đi kinh hành mà chúng ta nhiếp tâm, đó là Chánh Niệm Tỉnh Giác Định của người ta mà! Cái định ở trong cái hành động đi của người ta mà.
Trong khi người ta quét sân, người ta lặt rau, người ta nấu cơm, người ta làm mọi công việc, thì người ta tu ở trong cái Định Chánh Niệm mà, cái tâm của người ta đang giữ cái Chánh Niệm đó, cái niệm chân chánh đó để ở trong cái tỉnh thức đó.
Thế mà mình không cho người ta định, chỉ bảo rằng mình phải ngồi trước bàn Phật kìa, đốt cây hương lên kìa, rồi mới ngồi chéo chân ở trên đó, rồi ngồi hít thở đó. Mà trong khi hít thở đó, chắc gì mà cái tâm của người hít thở đó là nó đang yên tĩnh, không có vọng tưởng đâu?
Nó nghĩ tầm bậy tầm bạ, nó ham, nó ngồi đây mà nó nghe người ta ở ngoài bếp mà chiên xào gì đó, bắt đầu cái nước miếng nước mồm nó ngồi đó mà nó chảy ra, rồi nó nhớ ba cái đồ chiên đồ xào. Thì thử hỏi như vậy là lúc đó nó thiền hay là lúc đó nó thèm ăn?
Cho nên, khi mà ngồi thiền như vậy, thì thử hỏi khi mà người ta đi kinh hành vậy người ta có ngủ không? Còn mình ngồi, một lúc nghe nó an an, cái thân nó lặng lặng, cái bắt đầu gục xuống gáy vậy. Thì cái đó là thiền gì? Thiền gục chớ thiền gì!
Bởi vậy người ta nhập Tứ Thiền thì cái anh này lại nhập “ngủ thiền”. Anh ngủ ở trỏng, thành ra anh phải nhập “ngủ thiền” chớ sao! Anh hơn Phật là cái chỗ ảnh nhập “ngủ thiền”.
(22:14) Cho nên cái ngồi nó không có phải là cái chỗ thiền, nhiều khi nó lại sai lệch đi, nó chưa đúng. Nhưng cái ngồi cũng là một cái tu thiền, nếu mà tu đúng. Còn bây giờ mình tu mình cứ gục lên gục xuống, thì cái đó là thiền gì? Hay hoặc ngồi đó mà loạn tưởng nhớ cái này cái kia, thì cái đó là thiền gì? Đó là không phải thiền.
Còn bây giờ người ta đi như vậy, mình cho rằng người ta không tu thiền, thì cái đó sai. Tu phải vô chùa, phải gõ mõ, tụng kinh, cái đó là trật nữa! Cái đó là chửi lộn với ông Phật chớ tu cái gì?
Lâu lâu ông Phật ổng làm thinh, ông ngồi, ổng bằng xi măng ông ngồi đó, mình cứ réo tên Nam Mô A Di Đà Phật, tức là chửi ổng chứ gì, kêu tên ổng, chửi ổng! Nếu mà ông không bằng xi măng chắc là ông cũng không chịu nổi, ông buông chân xuống, ổng cũng rầy dữ: “Sao mày cứ kêu tên tao hoài?”
Bây giờ thử hỏi đi, mình ngồi đây mà ai kêu tên mình có tức không? Cứ réo cái tên mình hoài có tức không? Còn bây giờ ông Phật ổng ngồi đó, thí dụ như ông Phật Di Đà, cứ Nam Mô A Di Đà Phật, Nam Mô A Di Đà Phật, ổng tức mình “Tao, cái tên tao mình cứ gọi hoài!” Nó là những cái sai, nó không có đúng đâu.
Cho nên ở đây phải thực hiện là làm sao cho thân - thọ - tâm - pháp của mình nó được thanh tịnh, nó không bị ác pháp, nó làm cho được giải thoát nơi đó, thì cái đó là cái đúng.
Cho nên ở đây thì phải biết rằng tất cả những pháp của Phật đều là thiền định.
Khởi đầu tu tập thiền định, là bắt đầu từ Định Tư Cụ. Định Tư Cụ tức là Tứ Chánh Cần, các thầy thấy rất rõ. Bởi vì cái pháp này là pháp đầu tiên để mà chúng ta thực hiện thiền định. Mà Định Tư Cụ thì nó đã xác định cho chúng ta được ba cái định ở trên cái chỗ tu tập đó rồi.
Mà quý vị đã được học và thực hiện trên Tứ Niệm Xứ, nghĩa là trên cái Định Tư Cụ này, là Tứ Chánh Cần này, nó được thực hiện ở trên Tứ Niệm Xứ chớ không phải, là bốn chỗ mà chúng ta tu tập, thì lấy cái Định Tư Cụ này đặt ở trên bốn chỗ đó để tu tập cho bốn cái chỗ này nó được thanh tịnh, tức là thân - thọ - tâm - pháp của chúng ta.
(24:00) Cho nên Tứ Niệm Xứ là bốn lãnh vực được quý vị thực hiện các loại thiền định trên đó, gồm có mười sáu loại định. Nghĩa Đạo Phật đâu có nói một cái thứ thiền định đâu, mà mười sáu cái loại định, mà lấy bốn cái chỗ thân - thọ - tâm - pháp mà gọi cái tên chung của nó là Tứ Niệm Xứ.
Lấy bốn cái lãnh vực này để chúng ta thực hiện mười sáu cái loại định ở trên đó, để làm cho bốn cái chỗ này nó sạch sẽ, nó thanh tịnh, nó không còn ô nhiễm, nó không còn ác pháp nữa. Bốn cái chỗ này giải thoát là chúng ta giải thoát. Chớ không phải là chúng ta tu cái vấn đề ngoài.
Thí dụ như bây giờ mình niệm “Nam Mô A Di Đà Phật” để cầu cho mình được vãng sanh Cực Lạc, thì cái đó là vấn đề ngoài rồi. Mà ngay cái thân này không có gột rửa cho sạch sẽ thì thử hỏi làm sao mà cho nó hết giận, hết hờn? Ngay cái tâm này mà không có gột cho nó sạch sẽ thì nó buồn phiền, nó lo lắng, nó sợ hãi, nó thương, nó ghét, nó giận, nó hờn, nó đủ thứ.
Cho nên thân - thọ - tâm - pháp là bốn chỗ để mà chúng ta tu tập, làm cho nó không giận hờn phiền não, không đau khổ nữa.
Như cái thân của chúng ta nè, bị cái thọ nó làm cho cái thân chúng ta thấy đau nhức cái chân nè, nhức cái đầu nè, mà chúng ta không tu ở trên cái này, để khi mà cái thọ nó có đánh vào cái thân thì chúng ta không thấy đau đớn gì hết. Thì cái đó là mới cụ thể để giải thoát được cái bệnh ở trên thân của chúng ta.
Còn cái này chúng ta tu vấn đề ngoài, thí dụ niệm Phật nó có nhằm nhò gì ở trên thân này đâu? Cầu vãng sanh cực lạc thì nó có ăn thua gì? Còn bây giờ mình giữ Phật Tánh thì Phật Tánh nó cũng nhằm nhò gì ở trên cái thân này đâu? Phật Tánh thì nó vô hình này kia, tôi kiến tánh để thành Phật rồi, cần gì mà phải tu cái tâm này đâu?
Do đó thì cuối cùng thì mình không giải thoát cái thân tâm của mình, mà ngay trên cái này, cái thân tâm mình đang khổ nè, mà không có tu tập.
Còn ở đây chúng ta ngay ở trên bốn cái chỗ đó gọi là Tứ Niệm Xứ, trên bốn chỗ đó để mà tu tập. Tu tập làm cho bốn chỗ đó nó không còn đau khổ, nó không còn chết chóc, nó không còn sanh tử luân hồi, thì ngay bốn cái chỗ này là bốn cái chỗ mà chúng ta cần phải, lấy các pháp, cần phải rèn luyện, cần phải làm cho nó sạch sẽ, làm cho nó không còn đau khổ nữa. Bốn cái chỗ này không có đau khổ nữa, thì chúng ta gọi là giải thoát.
Vì thế bốn lãnh vực này rất quan trọng. Một con người ai cũng có bốn cái chỗ này. Người nào chúng ta cũng thấy là thân - thọ - tâm - pháp, phải không? Trong thân người, người nào cũng có bốn cái này hết, không có người nào là không có, ai cũng có hết.
Nhưng đối với người chưa tu tập, còn phàm phu, thì bốn chỗ này là bốn chỗ ô nhiễm bất tịnh. Nghĩa là tâm tham ăn, thân này ăn này, rồi tâm ham muốn cái này cái nọ kia, nó ô nhiễm đủ thứ hết, mà nó bất tịnh, nó đủ cách hết. Cho nên thân - thọ - tâm - pháp của cái người phàm phu thì nó là bất tịnh. Nhưng mà đối với người mà tu tập thì cái thân - thọ - tâm - pháp của họ lần lượt nó mới thanh tịnh.
Bốn chỗ này thường sanh khởi, vì nó bất tịnh đó mà nó đem đến cho chúng ta nhiều cái đau khổ. Cho nên nói, bốn chỗ này thường sanh khởi mọi thứ đau khổ của kiếp người.
Nghĩa là nơi thân nè, nếu mà thân không bệnh thì chúng ta không thấy khổ nè, mà thân có bệnh chúng ta thấy khổ không? Khổ nè. Mà tâm chúng ta không bị ai chửi nè, mà cứ bị ai chửi chúng ta thấy có khổ không? Rồi tâm của chúng ta nó không có, bình thường nó không gì hết, mà nó khởi nó thương nó nhớ, hay hoặc là cha mẹ nó bệnh đau chết, nó khóc lóc bù lù, bù loa bù lê, thì thử hỏi nó có khổ không?
(27:24) Đó, rõ ràng là nơi bốn cái chỗ này nó thường sanh khởi những cái niệm đau khổ của kiếp người.
Thì chúng ta biết được bốn cái chỗ đó như vậy đó, thì nó là địa ngục hay thiên đàng cũng nơi bốn chỗ này mà thôi. Cho nên bốn chỗ này mà không lìa xa ác pháp thì ngay đó là địa ngục cho kiếp người.
Nghĩa là ác pháp là cái tâm khổ, như mình sân là ác pháp, như mình tham là ác pháp, như mình ngu si là ác pháp, mình ham ăn ham ngủ là ác pháp đó. Cho nên nếu mà mình không lìa cái ác pháp này thì ngay đó là địa ngục của cái kiếp mình đó, luôn luôn lúc nào mình cũng khổ hết.
Còn nếu bốn chỗ này, thân - thọ - tâm - pháp này mà chúng ta lìa xa ác pháp, thì nơi đó là Niết Bàn, chớ đâu cần đi tìm Niết Bàn ở chỗ nào? Nơi bốn cái chỗ này mà chúng ta lìa được ác pháp, thì nơi đó là Niết Bàn.
Chắc chắn ai cũng biết được cái cảnh giới Niết Bàn, dễ dàng lắm, cụ thể lắm, nó rõ ràng. Không có ác pháp thì đó là Niết Bàn, mà có ác pháp thì đó là địa ngục, nó là đau khổ.
Tất cả các pháp môn của Phật đều lấy bốn chỗ này thực hiện. Nghĩa là cho nên luôn luôn pháp nào của Phật cũng ở trên bốn cái chỗ này để mà thực hiện hết. Cho nên tu tập, trau dồi, rèn luyện hay dứt bỏ đều ở trên cái chỗ này.
Bây giờ thí dụ như cái thân của chúng ta nè, ghiền thuốc nè, ghiền cafe nè, ghiền thuốc phiện nè, ghiền rượu nè. Thì ở chỗ cái thân ghiền nay nè, nó muốn uống rượu nè, nó muốn hút thuốc nè, nó muốn uống cafe nè, nó thèm nó khát nè.
Thì do đó chúng ta phải nỗ lực muốn làm cho nó thanh tịnh không còn ham muốn đó nữa, thì phải dứt bỏ không có được uống rượu nè, không được hút thuốc nè, không được uống cafe nè, không được hút á phiện nè.
Thì như vậy mình tự dứt bỏ mình, chớ không ai dứt bỏ cho mình được hết. Bởi vì cái này là do nhân quả mình đã tạo ra mình thành thói quen, thành nghiệp, thì mình phải chịu bỏ, chịu lấy, chớ còn ai mà làm giúp cho mình được.
Cho nên ở đây thì ngay từ ở trên cái chỗ thân - thọ - tâm - pháp này mà mình dứt bỏ, mình rèn luyện, mình trau dồi, thì nó sẽ trở thành những thiện pháp, nó làm cho mình được giải thoát.
Chớ không phải ngoài cái chỗ này, mình đi cầu khẩn, mình tu tập cái gì để cho nó giải thoát được, thì không bao giờ có được, mà phải ngay ở trên bốn cái chỗ này. Mà bốn cái chỗ này gọi là Tứ Niệm Xứ.
(29:37) Cho nên chúng ta học Tứ Niệm Xứ chúng ta phải hiểu được, rành cái chỗ này. Chứ nếu mà học Tứ Niệm Xứ mà không rành thì chúng ta coi như là cái pháp Tứ Niệm Xứ, cho nên người ta nói Tứ Niệm Xứ là “trái tim thiền định”. Có phải đặt tên vậy trúng không? Các thầy thấy đặt cái tên đó đâu có trúng.
Bởi vì nó là trái tim thiền định, mà thật sự ra, ở đây mình làm cho nó thanh tịnh, chớ nó là trái tim cái thứ gì? Mà bao nhiêu thứ định mà đem đặt lên đây để mà tu nó chớ đâu phải là nó là cái nhịp tim của chúng ta, để chúng ta thực hiện cái thiền định của Tứ Niệm Xứ này đâu?
Nếu mà nói như vậy thì Tứ Niệm Xứ là một cái loại thiền định để mà chúng ta để thực hiện các cái loại thiền định cao, thiệt cao siêu của nó, nó là cái gốc, nó là trái tim mà, cái nhịp tim, nhịp máu của chúng ta mà. Nhưng mà nói như vậy không có nghĩa đúng đâu.
Bởi vì bốn cái chỗ này là bốn cái chỗ ô nhiễm của một con người phàm phu tục tử. Chúng ta muốn giải quyết cho nó thoát khỏi bốn cái chỗ ô nhiễm này để cho nó thanh tịnh, thì chúng ta dùng các pháp Thiền Định khác mà đem về đây, để mà rèn luyện nó.
(30:44) Cũng như bây giờ Thầy ví dụ để cho thấy, như cái nhà mình ở đây ne, cất lên bằng tầm vông, trúc tre, nó xấu quá, nó không có đẹp đẽ. Cho nên từ đó mình mua những cái mành bằng nylon, mình trang trí cho những cái cửa sổ, rồi cửa cái, để làm hay hoặc là mua vài cái đèn như thế này để treo lên, để làm cho nó đẹp thêm, cho nó coi được một chút, thí dụ vậy.
Thì cái kia mình cũng phải đem những cái pháp khác để mà gọt rửa, để làm cho nó sạch ra. Bởi vì, cũng như cái nhà mình đây bây giờ nó dơ, thì bắt đầu mình phải đem nước mình rửa cho nó sạch. Chớ cái nhà dơ, rồi mình lấy cái nhà dơ này mình làm cho nó nữa, thì nó dơ nữa thì sao?
Cho nên ở đây mình biết cái nơi này nó đang bị bụi bặm, dơ bẩn, nó ô nhiễm, không có sạch, cho nên mình mới lấy cái bàn chải nè, mình mới lấy cái thùng nước nè, mình mới lấy xà bông nè, mình mới lấy thuốc tẩy mình đem vô đây nè, mình mới tạt nước, mình rửa, mình cọ cái chỗ này cho nó sạch.
Thì cái chỗ này đang bị cọ rửa sạch mà gọi nó là thiền định thì Thầy thấy, nó là thiền định gì?
(31:46) Có hiểu vậy thì mới biết được cái chỗ tu tập của chúng ta. Chính thân - thọ - tâm - pháp của chúng ta nó đang ô nhiễm nè. Nó đang tham mê nè, nó đang giận hờn, nó đang phiền não nè.
Mà bây giờ nó đang nhiễm như vậy đó thì chúng ta phải lấy Định Niệm Hơi Thở nè, chúng ta lại phải lấy định Chánh Niệm Tỉnh Giác nè, chúng ta lại phải lấy định Tứ Chánh Cần nè, chúng ta phải lấy Định Vô Lậu nè, chúng ta lại phải lấy Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền nè, chúng ta mới đem nó để mà rửa nó làm cho nó sạch nó đi, nhờ các thiền định này mà làm cho nó sạch đi.
Thì như vậy cũng như là các thiền định này nó cũng như là cục xà bông nè, nó bàn chải nè, nó bàn chà nè. Chúng ta chỉ còn có ra công mà chà cái nền này cho nó làm cho sạch, vách này chúng ta chà rửa cho nó sạch.
Thì như vậy rõ ràng là Bốn Niệm Xứ này nó có phải pháp chúng ta để tu đâu, mà nó nơi để chúng ta chùi rửa cho nó sạch, bởi vì nó đang nhơ bẩn, nó đang ô nhiễm, có đúng không? Thầy nói đây quý thầy cứ suy ngẫm có phải không?
Thân của quý thầy hiện bây giờ, nếu mà nói là tui không ô nhiễm, thì tức là thanh tịnh rồi. Mà thanh tịnh rồi thì cái thân của quý thầy nó đâu có còn bẩn thỉu như thế này? Tức là nó đâu còn bất tịnh. Phải không?
Cho nên do vì vậy mình mới xét cái thân mình nó còn bẩn thỉu lắm, nó còn bất tịnh lắm. Cho nên mình phải còn gột rửa. Mà còn gột rửa tức là còn tu chớ gì! Cho nên phải lấy cái pháp mà để gột rửa nó, mà cái pháp còn gột rửa nó thì tức là tu.
Cho nên ở đây không thể nói là Tứ Niệm Xứ là pháp môn được. Mà Tứ Niệm Xứ là bốn chỗ để chúng ta dùng các pháp môn khác để tu tập trên đó. Cho nên Thầy mới nói Tứ Niệm Xứ nó sẽ xác định được các loại thiền ở trên đó. Trước kia Thầy có tuyên bố những cái lời nói đó.
Hầu hết là người ta giảng về Tứ Niệm Xứ, người ta không lột trần được cái này. Dường như là Tứ Niệm Xứ là một cái pháp môn để tu chớ không là thấy nó được, ở trên đó nó xác định được. Cho nên cái người mà giảng về cái Tứ Niệm Xứ họ không xác định được các định ở trên Tứ Niệm Xứ. Như “ở trên thân quán thân” nè, tu cái định gì? Họ không xác định được.
Mà họ xác định được thì họ mới biết rằng cái thân này nó đang dơ bẩn cái này nè, nó đang nhiễm ô cái này nè, thì bắt đầu mình phải đem cái định này, tức là cái bàn chải này, cái cục xà bông này đem đến đây rửa nó, rửa cái chỗ đó cho nó sạch. Thì nếu mà đem cái bàn chải, cái cục xà bông, rồi đem nước đến mà rửa nó, thì cái đó nó gọi là cái tên gì? Rồi đem một cái vật khác để mà lau cho nó khô thì nó gọi là tên gì?
(34:21) Đó thì nó phải có cái tên. Thí dụ như trên thân quán thân nè, tu về nhân tướng, thì nó là Định Vô Lậu, nó khắc phục tham ưu. Mà trên thân quán thân tu về hành tướng ngoại thì nó có cái tên Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, trên thân quán thân tu về hành tướng nội thì có cái tên là Định Niệm Hơi Thở.
Đó rõ ràng nó xác định được cái định đem lại rửa sạch cho cái chỗ đó đó. Cái chỗ đó đang bẩn thỉu đó, thì chúng ta sẽ rửa cho nó sạch. Mà rửa cho nó sạch, thì tức là nó phải có một cái tên của Thiền Định đó, của cái pháp môn đó làm cho nó sạch. Thì như vậy gọi là chúng ta đã hiểu được Tứ Niệm Xứ, còn nếu mà không thì chúng ta không hiểu Tứ Niệm Xứ.
Bởi vì hầu hết là từ xưa đến giờ các thầy, quý Hòa thượng họ thuyết giảng, từ Nam Tông cho đến Bắc Tông mà thuyết giảng về Tứ Niệm Xứ, thì họ đều thấy Tứ Niệm Xứ là cái pháp môn chớ không phải là cái Tứ Niệm Xứ là bốn cái chỗ để chúng ta đem các pháp khác đến tu tập.
Đó. Bây giờ thí dụ như một người mà họ lấy Tứ Niệm Xứ để niệm Phật, như Thầy dạy lấy thân mà niệm Phật, tức là cái thân này nó đang ô nhiễm, đang bẩn thỉu, mà cái thân Phật kia nó sạch sẽ, nó thanh tịnh. Cho nên muốn cái thân này cho nó sạch sẽ, nó thanh tịnh như cái thân Phật, thì như vậy gọi là lấy thân niệm Phật, lấy cái thân này niệm cái thân Phật, làm cho cái thân này nó giống như cái thân Phật.
Cho nên vì vậy đó mà cái người niệm Phật là sẽ được giải thoát liền, cho nên gọi là Tứ Bất Hoại Tịnh. Cái bài pháp này Thầy đã có giảng rồi.
Cho nên hôm nay nói để thấy rằng, chúng ta bước vào cái Tứ Niệm Xứ chúng ta phải hiểu rõ được cái vị trí nó đang bất tịnh, đang ô nhiễm, mà chúng ta dùng các pháp khác để đến mà rửa, để chùi, để mà lau cho nó sạch, để mà quét dọn cho nó sạch bốn cái chỗ này. Mà bốn chỗ này mà sạch rồi, thì đó là giải thoát.
Cho nên ở đây chúng ta thấy rất rõ, nếu bốn chỗ này mà chúng ta không lìa xa ác pháp, thì ngay đó là địa ngục.
(36:27) Nghĩa là cái kiếp người của quý cô cũng như là quý thầy mà không lìa được ác pháp, thì ngay đó quý thầy có buồn rầu, giận hờn, phiền não, ham ăn, ham ngủ, ham vật chất, ham danh, ham lợi đủ thứ, nó làm cho quý thầy lăng xăng rất là khổ. Trái lại các thầy lìa ác pháp thì nơi đó là Niết Bàn, tức là mình buông xả ra hết, không còn một cái gì nữa, thì đó là mình được giải thoát.
Tất cả các pháp môn của Đức Phật đều lấy bốn chỗ này thực hiện trên đó, tu tập, trau dồi, rèn luyện và dứt bỏ. Bằng mọi cách làm sao bốn chỗ này xa lìa ác pháp và đoạn dứt tận gốc rễ của ác pháp, khiến cho bốn chỗ này được toàn thiện. Khi bốn chỗ này đã được toàn thiện thì đạo Phật gọi là thanh tịnh, gọi là giải thoát, gọi là Niết Bàn.
Đó, toàn thiện là nghĩa là không còn một chút nào mà ác ở trong đó hết, không còn một chút xíu nào ác trong đó hết, dù là một chút xíu như là một cái đầu cọng tóc của chúng ta, nó không còn một chút xíu nhỏ như vậy nữa, hay hoặc là như một hạt bụi rất nhỏ, nó không còn có trong đó, thì gọi là toàn thiện.
Mà toàn thiện thì nó là thanh tịnh, nó là giải thoát, nó là Niết Bàn. Nghĩa là bốn chỗ đó phải đạt được cái chỗ toàn thiện. Thì đạo Phật đâu có khó gì đâu, chúng ta thấy đâu khó gì, mà chính cái chỗ này nó mới là thiền định.
Bởi vậy người tu theo đạo Phật mà không biết rõ bốn lãnh vực này, tu ngoài bốn lãnh vực này, thì dù có tu ngàn kiếp cũng chẳng chấm dứt khổ đau và sanh tử luân hồi. Nghia là mình tu hoài bốn chỗ này.
Cho nên cái người mà xem nó là cái pháp môn để tu thì thử hỏi họ lấy cái Tứ Niệm Xứ này tu cái chỗ nào để họ được giải thoát? Họ chỉ lý luận tôi phải quán như thế này, thế khác, gọi là Minh Sát Tuệ chứ gì? Thì thực ra đâu có phải cái điều đó đâu!
(38:21) Cho nên tất cả những cái thiền mà gọi là Minh Sát Tuệ, rồi thiền này, thiền nọ kia đều là đặt ngoài cái vấn đè của thân - thọ - tâm - pháp của chúng ta. Mà khi họ có đặt trúng đi nữa, ở trên đó họ tu, mà họ không có được xác định được cái vị trí họ tu cái gì nữa, thì họ tu bậy rồi.
Bây giờ thí dụ như Thiền Tông, họ đặt họ lấy cái tâm của họ nè, “biết vọng liền buông” nè, họ lấy cái tâm, họ là giữ cái tâm họ nè, không có vọng tưởng nè, thì ngay đó là họ cũng lấy cái tâm họ tu chứ gì? Nhưng mà họ không xác định được bốn cái vị trí họ đang tu. Họ chỉ tu có cái tâm họ, thì họ có đạt được cái tâm họ giải thoát, còn cái thân họ bỏ.
Cho nên họ nói bây giờ thí dụ như, các pháp đến với họ, họ thấy toàn là huyễn giả. Đối với trí tuệ của họ, bát nhã, thì họ thấy nó là không, không có vật gì mà hiện hữu, không có vật gì mà nó thường hằng, cho nên họ thấy nó là vô thường.
Thì đó là cái phần họ đứng ở trên góc độ của tâm, họ quét sạch cái tâm họ, chớ còn cái thân, với cái thọ của họ đâu có sạch, cho nên cái đau của họ, họ cũng rên la như thường, họ đâu có làm chủ được. Rồi cái thân họ, bây giờ bảo ngưng thở họ cũng không làm được nữa.
Thì như vậy họ chỉ tu có cái phần tâm. Mà bốn chỗ tu chứ, ông Phật dạy bốn chỗ Tứ Niệm Xứ, mà họ tu có nhất xứ à. Nghĩa là họ lấy Phật Tánh, họ bây giờ “chẳng niệm thiện niệm ác”, thì ở trong tâm của mình chẳng niệm thiện niệm ác, thì họ tu có một phần đó thôi, mà họ làm chủ làm sao toàn diện được cái thân - thọ - tâm - pháp của họ?
Cho nên cái mà họ hiểu sai là vì họ đứng ở trên một cái góc độ của thân - thọ - tâm - pháp họ tu có một cái mà họ tưởng là họ giải thoát toàn diện, làm sao được? Người ta tu trong bốn cái này mà người ta còn chưa có giải thoát toàn diện, chưa có thoát ra khổ, huống hồ là tu có một cái nhỏ của bốn cái chỗ này. Nghĩa là trong bốn chỗ, chúng ta tu có một cái mà thôi, thì làm sao mà chúng ta thoát ra được?
Ở đây phải rõ, trên bốn lãnh vực này, nếu đặt sai pháp cũng tu không thành tựu nữa. Nghĩa là bốn cái chỗ này mà chúng ta đặt không đúng pháp. Nghĩa là bây giờ bốn chỗ này đầu tiên chúng ta phải đặt pháp gì?
Tứ Chánh Cần. Nghĩa là chúng ta phải dứt ác mà tăng thiện thì nó mới, bởi vì hiện bây giờ thân - thọ - tâm - pháp chúng ta đang ở trong ác pháp, chớ đâu phải là thiện pháp.
Nếu mà thiện pháp sao người ta chửi mình giận, nếu thiện pháp thì nó đâu có giận ai đâu? Còn này mình dễ giận, dễ hờn. Mà nếu nó thiện pháp sao cái thân này người ta đánh một cái vầy mình biết đau? Nếu nó thiện thì nó đâu có đau, còn cái này nó không thiện cho nên nó đau.
Nó nhiều cái như vậy. Mình nói là các pháp đều thiện, vậy thì người ta ở ngoài người ta chửi mình, tại sao nó thiện mà mình lại giận, thì nó phải là ác pháp, cho nên nó chưa có thiện.
Cho nên vì vậy mình phải tu để cho các pháp với cái tầm mắt của mình, với cái lỗ tai nghe của mình, với cái ý của mình tiếp xúc với cái pháp đó, hoàn toàn người ta chửi mình mà mình vẫn thấy thiện.
(41:08) Cho nên ông Phú Lâu Na Đức Phật hỏi: “Người ta chửi mắng ông, thì ông nghĩ như thế nào?” Thì ông nói “Người ta chửi mắng con thì người ta còn thương con, người ta chưa có lấy gậy gộc người ta đánh con”.
Thì ông Phật hỏi: “Người ta lấy gậy gộc người ta đánh ông, thì ông nghĩ như thế nào?” Thì ông nói người ta đánh ông thì người ta còn thương ông, người ta chưa có lấy gươm dao giết ông.
Thì ông Phật nói: “Nếu người ta lấy gươm dao người ta cắt cổ ông, người ta đâm ông cho ông chết đi, thì ông thấy như thế nào?” Nếu như vậy người ta cũng còn thương ông, cho nên người ta mới giết cái thân này để cho ông được giải thoát, thì người ta vẫn thương ông!
Cho nên Đức Phật nói: “Được! Ông đi qua xứ đó độ người ta!” Tức là Đức Phật đã trắc nghiệm được cái người đệ tử của mình xứng đáng làm một người đi độ chúng sanh rồi.
Còn mình chưa có được. Người ta vừa nói cái gì đó mình giận, chưa có đánh mình đâu, chớ phải đánh mình, mình còn giảy nảy lên, mình còn nằm đó mình đòi mạng, đòi thường mạng với người ta nữa.
Cho nên do những cái chuyện đó, vì vậy mà chúng ta phải thấy rằng cái chỗ thân - thọ - tâm - pháp chúng ta phải thực hiện sao nó cởi bỏ được những cái này, thì chính là những cái pháp Phật đã đặt ra để chúng ta tu tập ở trên bốn chỗ này.
Mà cái người tu hiện giờ họ chưa biết bốn chỗ này, họ cứ ngỡ rằng Tứ Niệm Xứ là một cái pháp môn. Cho nên hầu hết Thầy đọc lại các kinh sách của người ta triển khai những cái pháp Tứ Niệm Xứ này, hầu hết đó là cái pháp tu của họ, chớ không phải là bốn cái chỗ bất tịnh để mà chúng ta thực hiện các pháp khác.
(42:47) Cho nên mười sáu cái loại định của Phật thì chúng ta đem áp dụng ở trên bốn chỗ này hết, không có cái định nào mà chúng ta không có tu tập ở trên này.
Mà tu tập ở trên này không có nghĩa là tu tập để cho cái pháp định đó nó trở thành cái định, không phải đâu. Mà tu tập cho bốn cái chỗ này nó thanh tịnh, mà sư thanh tịnh của nó tức là bốn cái chỗ này nó đạt được nhập định. Cho nên Phật nói: “Thân định trên tâm”, mà “tâm định trên thân”.
Ví dụ, trên bốn lãnh vực này, đặt pháp môn Tịnh Độ, niệm Phật A Di Đà để cầu vãng sanh Cực lạc, Thiền Tông để ngộ Phật Tánh, Mật Tông để có oai lực thần chú v.v, thì các tông phái này chưa rõ Tứ Niệm Xứ.
Nghĩa là người ta nói rằng Tịnh Độ Tông nè, rồi Thiền Tông nè, rồi Mật Tông nè đều là pháp của Phật. Nhưng mà pháp của Phật mà không hiểu Tứ Niệm Xứ thì đó đâu phải là pháp Phật, đặt không đúng chỗ.
Mục đích ở đây là đem các pháp môn trau dồi, tập luyện, làm cho bốn chỗ này thanh tịnh, vì bốn chỗ này đang bị ô nhiễm, uế trược nên những pháp nào làm cho nó không còn ô nhiễm, uế trược nữa, thì đúng Chánh Pháp của Phật.
Còn cái pháp nào mà đem lên đó, mà không cái rửa sạch nó, mà lại còn thêm cho nó nữa. Thí dụ như bây giờ Thầy niệm chú nè, Thầy có thần thông nè, Thầy có phép tắc nè, thì cái tâm tham của Thầy nó lại lớn lên nữa.
Nó ham nữa, nó thấy như vậy người ta phục mình, người ta ghê gớm, người ta thấy mình kêu mây, hú gió, hóa lửa, phóng hào quang được, người ta sợ. Thầy niệm chú một cái nó hiện ra đủ thứ, ai cũng mê hết, coi như Thầy là bậc giáo chủ rồi, người có đủ thần thông rồi.
Nhưng mà không ngờ nó lại làm cho Thầy lại thêm những cái ô nhiễm thêm. Từ đó người ta đến người ta lạy lễ, cúng dường Thầy cái này cái khác, người ta sắm xe hơi này kia, cái gì Thầy cũng chấp nhận, cái tâm của Thầy nó đâu có xả ly đâu, cho nên cái gì cúng dường cũng chấp nhận hết.
(44:37) Người ta cúng dường tiền nhiều thì cất chùa to tháp lớn. Xe hơi có, tiền có, rồi cái gì cũng có, rồi bắt đầu bây giờ sao? Cái tâm dục nó phải sanh thì nó phải thích phụ nữ. Từ đó ông giáo chủ nào cũng rớt ở trên thân phụ nữ hết ráo! Thì như vậy là còn cái gì là gọi là thanh tịnh đâu! Cho nên từ chỗ thần thông nó mất tiêu thần thông hết, không còn cái gì hết.
Cho nên báo Công an nó thường đăng, giáo chủ này đến giáo chủ kia, Thầy có đọc cái tờ báo Công an mà Phật tử đem về, nhắc đến cái vị giáo chủ của xứ sương mù ở Đà Lạt. Thầy thấy ông ta cũng là từ cái chỗ mà ông có thần thông, nói cái chuyện quá khứ xảy ra này kia. Cuối cùng ông rơi trên phụ nữ, rồi thì bắt đầu ông nói cái gì cũng không trúng. Công an bắt, ông ta cũng không làm sao biết trước được, mất các cái pháp mà biết cái chuyện xảy ra.
Cho nên tất cả những cái đều bị ô nhiễm mà từ cái pháp tu sai lệch đó, đặt cái Mật Tông mà tu, nó làm cho người ta có thần thông đó, để rồi người ta bị ô nhiễm lại còn ô nhiễm nặng, bẩn thỉu lại càng bẩn thỉu nặng hơn nữa, ô trược lại càng ô trược hơn nữa!
Còn Tịnh Độ thì như Thầy đã nói, mơ hồ, trừu tượng, một cái thế giới siêu hình mà chưa hề có ai đi hết, mà ở đây cứ chổng khu tin rằng có. Cho nên gia đình ai có người chết thì chổng khu rước thầy chùa đến tụng niệm, cho cầu về đó. Ông nội ông về đó thì chắc ông Phật Di Đà mà có thật, ổng cũng chạy về cái trần gian này, ổng kêu công an lên trển còng đầu giùm mấy cái ông đó kéo về đây làm phước!
Thực sự như vậy mà, chớ làm sao chịu nổi! Ở đây cái tâm tham chúng ta tham quá trời quá đất, tìm nhiều cách đủ cách mà tham ô đủ cách mọi thứ. Mà giờ cứ ai cũng đụng cái rước ông thầy chùa để cầu để về trển, ai cũng cầu về được hết ở trển là chắc chắn cái xứ đó nó thành cái địa ngục ở trên đó. Ông Phật Di Đà ổng làm vua ở trên đó, bây giờ ổng cũng sợ luôn, ổng đâu có dám ở trển.
Cho nên thật sự là không có, chớ có là phải có ông Phật Di Đà chạy trốn về đây rồi. Thầy nói thật sự, đem ba cái người trần gian này lên trển thì cái xứ đó nó thành cái địa ngục. Ở đây nhiều khi chúng ta hở ra chút là chúng ăn trộm, ăn cắp đủ thứ. Mà đem cái thứ này về trển thì trộm cắp nó đầy xứ ở trên đó rồi, làm sao mà ông Phật Di Đà ở yên được? Lúc bấy giờ ông phải tổ chức một dàn công an kêu là dữ tợn nữa chứ còn lơ mơ thì làm sao mà thắng nổi, khó lắm chớ không phải dễ.
Cho nên ở đây, chúng ta nhằm cái mục đích của đạo Phật, chúng ta phải hiểu rõ, là nhằm ở chỗ cái thân - thọ - tâm - pháp tham sân si của chúng ta, chúng ta phải diệt cho được.
(46:55) Mà diệt được thì phải bằng cái pháp nào, chứ đâu phải bằng cái pháp cầu khẩn đi về Cực Lạc như vậy, đó là cái hiểu sai.
Rồi bây giờ chúng ta lại chấp nhận cái Thiền Tông, bây giờ chúng ta chấp nhận là cái Phật Tánh, để chúng ta ôm cái Phật Tánh đó để rồi nó có hết được cái tham sân si, cái làm chủ sanh tử này không? Hay là tới khi mà thọ chúng ta, thân chúng ta đau nhức, chúng ta cũng nhăn răng, cũng méo miệng ở trên giường bệnh?
Tất cả những cái này là những cái mà chúng ta đã đặt sai cái pháp. Ở trên bốn cái chỗ này để làm cho nó thanh tịnh, giải thoát. Đằng này các pháp môn trên không nhằm mục đích làm cho bốn chỗ này thanh tịnh. Nghĩa là các pháp đó đặt không có đúng chỗ, nó không có làm cho nó được thanh tịnh.
Cũng như bây giờ chúng ta thay vì chúng ta phải có nước, xà bông nè, rồi có bàn chải nè, hay hoặc có giẻ nè, để mà chúng ta lau cái sàn này. Trái lại chúng ta lấy thảm chúng ta trải thêm ở trên này nữa, thì cái lớp bẩn ở dưới này nó càng thêm bẩn thêm chớ có làm cái gì, mà trải thêm nữa thì nó có tốt lành gì đâu, nó bẩn là bẩn, bây giờ có trải thêm nó là Cực Lạc đi nữa nó cũng đâu có làm sao mà nó hết!
HẾT BĂNG