"Nếu mà không dạy giới hành thì các con như thiếu sót, không biết mình tu tập như thế nào, mà Thầy dạy toàn là giới luật không, không có cái pháp môn nào mà gọi là pháp môn tu. Cho nên Thầy triển khai cái giới hành để cho các con biết cái pháp nào mà thực hiện cho được giới luật nghiêm túc, thì cái pháp đó gọi là giới hành."
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Thời gian: 1998
(00:00) Hôm nay trước khi mấy con học giới hành. Giới hành tức là cái pháp môn tu tập cho giới luật của Phật nó được nghiêm túc, nó được thanh tịnh do đó mới gọi là giới hành.
Từ xưa tới giờ, hầu hết là người dạy giới thì người ta chỉ dạy giới bổn cho nên người ta không dạy giới hành, nên người ta không có biết cái pháp nào để mà hành, làm cho giới được thanh tịnh và người giữ giới đó được nghiêm túc mà không phải lấy giới mà ức chế.
Do vì vậy đó mà hôm nay Thầy bắt đầu để dạy giới hành, như năm rồi trong giáo án Thầy đã dạy, từ cái giới đức, giới hạnh, giới tuệ. Nhất là trong năm rồi Thầy dạy giới tuệ rất nhiều, giới đức tuy Thầy có dạy nhưng chưa được đầy đủ, giới hạnh cũng chưa được đầy đủ, chỉ có giới tuệ thì nói rất nhiều. Nhưng hôm nay thì Thầy lại dạy giới hành, trọn vẹn mùa hạ năm nay Thầy sẽ dạy giới hành.
Như trước kia thì Thầy cũng nghĩ rằng mình cũng không còn có đủ sức mà dạy giới hành nữa, cho nên trong cái mùa hạ năm nay thì Thầy nghĩ rằng Thầy không dạy nữa.
Nhưng cuối cùng thì Thầy thấy hầu như là, nếu mà không dạy giới hành thì các con như thiếu sót, không biết mình tu tập như thế nào, mà Thầy dạy toàn là giới luật không, không có cái pháp môn nào mà gọi là pháp môn tu. Cho nên Thầy triển khai cái giới hành để cho các con biết cái pháp nào mà thực hiện cho được giới luật nghiêm túc, thì cái pháp đó gọi là giới hành.
(1:46) Đó thì, hôm nay trước khi mà được nghe giới hành, thì Thầy đã có giảng sơ một vài lần cho các con nghe sơ về cái bắt đầu để mà thực hiện giới hành đó, như Tứ Chánh Cần chẳng hạn. Thì hầu như là có một số người thì nghe, rồi nó rối, nó không có biết rằng mình sẽ tu như thế nào. Hồi nào tới giờ mình tu như vậy, mà bây giờ nghe tới giới hành thì không biết là mình tu có đúng hay sai, cho nên rất là rối rắm ở trong cái đầu của mình.
Hỏi cô Út, do những cái sự hỏi cô Út cho nên cô Út có hỏi lại Thầy, cổ có đặt thành những câu hỏi cổ hỏi lại Thầy, và đồng thời thì cũng có những cái điều kiện là có người nói cổ dạy khác, không có giống Thầy, Thầy dạy khác, cô dạy khác. Cho nên do đó thì cổ hỏi cổ dạy như vậy, mà riêng Thầy dạy như vậy, có giống nhau, khác nhau chỗ nào, để Thầy chỉ cho cái chỗ khác nhau, giống nhau.
Đó thì hôm nay nhân dịp như vậy mà Thầy sẽ chỉ lại cho các con biết được cái giới hành và đồng thời cũng để chỉ cho biết cách thức cô Út cô dạy như thế nào, không dựa vào ở trong kinh sách mà dạy có đúng hay không?
Thì trước khi mà vào học giới hành, thì hiện giờ các con cũng như quý thầy chắp tay lên niệm hồng danh Đức Phật, bởi vì chúng ta đều là những đệ tử của Đức Phật, đều là đệ tử của đạo Phật, chúng ta chắp tay lên mà niệm Phật:
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!
(4:00) Bây giờ các con lắng nghe cho kỹ khi mà Thầy nói về giới hành. Thì như các con cũng đã biết rằng, các con đã học trong những giới luật của Phật, thì năm rồi Thầy có giảng về giới luật của Phật, nhưng nó không phải là giới hành. Nhất là cái Thập Thiện, và cái thập ác, Thầy đã có giảng cái phần Thập Thiện, thập ác rồi. Nói về giới thì nó là thiện pháp chớ không thể là ác pháp được. Nhưng mà chúng ta gồm lại để chúng ta thấy được Đức Phật đã nhắm vào cái thiện hay là cái ác. Vậy thì cái thiện là, cái nào thiện mà cái nào ác?
Nhiều khi chúng ta nghe cái chữ thiện thì chúng ta nghĩ rằng: cái gì mà mình làm có lợi ích cho người khác hoặc là mình làm cho người khác có lợi ích, hoặc là không đau khổ, hoặc là đem của cải tiền bạc giúp đỡ họ, hoặc là mua chim cá phóng sanh, hoặc là làm những cái việc như bố thí thuốc thang giúp họ bệnh tật gọi là thiện.
Thì nằm ở trong cái Thập Thiện và thập ác đó, thì chúng ta thấy Đức Phật không có nói trên cái vấn đề làm từ thiện giúp đỡ người, hoặc là giúp đỡ chúng sanh bằng cách phóng sanh, hay bố thí, cúng dường gì hết. Mà trong cái Thập Thiện, thập ác đó nó nhằm vào trong những cái giới luật mà chúng ta đã có học.
(5:33) Thí dụ như về giới, thì Đức Phật dạy không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, hay là không dâm dục, không vọng ngữ, không uống rượu, thí dụ như năm giới của người cư sĩ là như vậy.
Còn giới tỳ kheo thì chúng ta cũng biết rằng, về giới tỳ kheo thì nó có những giới gọi là giới đọa đó, thì về cái giới vọng ngữ thì chúng ta biết rồi, nhưng mà trong khẩu nghiệp của chúng ta nó còn ba cái điều về ác pháp nữa, thì ở trong cái giới tỳ kheo nó có những cái giới đó.
Do vì vậy mà những cái giới như nói phù phiếm, nói lời hung dữ, nói lời lật lọng, hay nói lưỡi hai chiều, đó là những cái mà nó là cái giới luật của Phật, nó nằm ở trong cái Thập Thiện. Còn ở trong Thập Thiện nó còn ba cái giới nữa là không tham, không sân, không si.
Như vậy là chúng ta thấy giới luật của Phật coi như là nằm trọn vẹn để mà khắc phục cái tâm tham, sân, si của chúng ta. Cho nên ở đây chúng ta thấy như thập ác và Thập Thiện, nếu chúng ta còn tham còn sân còn si thì chúng ta là ác, mà không tham không sân không si là thiện. Như vậy thì nó cũng đều nằm trọn vẹn trong các giới luật của Phật.
Vậy thì muốn thực hiện được nghiêm chỉnh các giới luật của Phật thì không có tham. Nó tham, nó có nghĩa là, chúng ta đừng có nghĩ rằng mình ăn trộm ăn cắp, nó thuộc về cái giới trộm cắp thì khác rồi, mà đây là tham, tham nhiều khi thương nhớ thì nó cũng là tham, tham ái đó. Cái đó nó quan trọng lắm. bởi vì khi mà hiểu được những cái nghĩa đó, nó thuộc về ác pháp hết à.
(7:15) Mình ngồi đây mình nhớ những người thân của mình thì nó thuộc về tham ái, thương yêu, rồi mình lo lắng cho những người thân của mình thì mình thấy đâu có làm gì ai khổ đâu, mình lo để mình giúp đỡ cho họ mà!
Hay hoặc là ngồi đây mình lo cái chuyện bây giờ có một trận bão nó làm cho bao nhiêu người ở cái tỉnh đó bị màn trời chiếu đất, bị khổ đi. Rồi bà con đóng góp nhau để đến cứu trợ họ, rõ ràng là cái thiện chớ gì, nhưng mà cái lo mà thương người khác như vậy, mà trong lúc chúng ta đang tu như vậy đó thì trong Thập Thiện gọi là thập ác, gọi là ác, tham ái.
Ái là yêu thương, mà tham ái tức là lo lắng để cho thực hiện cái lòng yêu thương đó, thì nó không có đúng ở trong cái Thập Thiện, cho nên chữ tham, sân, si nó rộng lắm, nó rộng cái nghĩa vô cùng mà mình thì nhầm ở trong cái ác pháp.
(8:12) Còn nếu mà mình thực hiện Tứ Vô Lượng Tâm, từ bi đó, thì tâm từ bi để nó đối trị với sân, đối trị với hại tâm của mình, với những cái tâm oán hận của mình, cho nên tâm từ tâm bi nó chỉ là đối trị cái tâm sân của mình mà thôi, còn đâu có đối trị tâm tham.
Bởi vì tham đây có nghĩa là thương người khác, giúp đỡ người khác cho nên trong Tứ Vô Lượng Tâm thì nó không có đối trị được cái tâm tham, mà nó đối trị được cái tâm hận của mình, với tâm sân của mình, sân hận đó.
Cho nên từ thì nó đối với tâm sân, mà bi thì nó đối với tâm hận của mình. Đó. Thì cái Tứ Vô Lượng Tâm nó chỉ tu để mà phá đi hai cái tâm đó mà thôi, nhằm chỗ sân hận thôi, còn cái Thập Thiện và thập ác nó thực hiện được một cái tâm giải thoát chúng ta hoàn toàn ờ trong thiện pháp.
Cho nên ở đây chúng ta khi mà học vào giới hành rồi thì chúng ta phải nghiên cứu kĩ về cái phần Thập Thiện và thập ác. Bởi vì đạo Phật không có nói cái ác nó ở ngoài cái tầm của cái thập ác này, mà nói cái thiện nó cũng không nói ngoài cái tầm của Thập Thiện, nó có cái đường lối rất rõ ràng.
Cho nên hàng ngày chúng ta nghĩ rằng mình, tâm mình khởi nghĩ thương cha nhớ mẹ hay hoặc là thương con nhớ vợ, thì tất cả những cái này đều là tốt chớ đâu phải là xấu, đâu có ác đâu? Nhưng mà chính ở trong cái Thập Thiện, thì nó là không thiện rồi.
Mình còn nhớ thương tức là tham rồi, tham ái, tức là nó làm khổ cho mình chớ gì? Nó làm cho mình nhớ mong, nó làm cho mình thương, nó làm cho mình lo lắng, thì tức là ác pháp rồi. Chớ nó không có làm khổ ai, nó làm lợi lạc cho người khác chớ không làm phải làm khổ người khác.(9:53) Nhưng mà nó là ác pháp ở trong tâm, nó làm cho mình khổ đó.
Thì ai là những người có gia đình, ai là những người mà không có cha mẹ, mà không thương không nhớ cha mẹ đâu? Mà khi cái tâm chúng ta khởi lên cái niệm như vậy thì chúng ta biết nó là ác pháp.
Vậy thì chúng ta thấy là cái pháp, cái giới hành đó, khi Thầy muốn nói ở đây Thập Thiện và thập ác để chúng ta thấy được cái giới luật của Phật nó sẽ nằm trọn ở đâu, nó nằm trọn ở trong cái Thập Thiện. Mà cái ngược lại cái Thập Thiện thì nó là thập ác, mà thập ác thì nó phạm giới và nó phá giới.
(10:31) Cho nên ở đây chúng ta tu tập thì chúng ta phải hiểu biết được cái thiện và cái ác, chớ không khéo chúng ta nghĩ bây giờ mình mang tiền bạc mình cứu trợ người ta là thiện, đó là mình tu về Tứ Vô Lượng Tâm, tâm từ. Trước cái cảnh khổ của người khác mình tu cái tâm đó, mình tu tâm bi, mình tu cái tâm từ bi của mình, chớ không phải là tu Thập Thiện thập ác đâu.
Cho nên tâm từ nó chỉ đối trị cái tâm sân của mình, biết thương người để nó đối trị, tâm bi nó đối trị cái tâm hận thù của mình, chớ không thể nào mà nó đối trị cái tâm tham của mình, nó không diệt hết cái lòng tham của mình.
Mà cái gốc từ do cái tham mà nó sanh ra, mà từ cái chỗ vô minh nó mới sanh ra cái tâm tham của chúng ta, chúng ta không hiểu chúng ta mới chấp đắm cái đó là đúng, cái đó là sai, cái đó là thiện, cái đó là phải, cái này là như thế này thế khác. Cho nên là từ cái chỗ vô minh.
Vậy thì từ cái chỗ mà Thầy nói ra những cái đó để cho quý thầy biết rằng, hiểu rằng, cái đó là không đúng, cái đó là sai, cái đó là ác, cái đó không thiện, nó đem đến cho đời sống quý thầy khổ đau. (11:40) Thì do đó quý thầy tin, chỉ đặt niềm tin, và suy tư cái lời nói đó có đúng hay không? Rồi thấy đúng thì quý thầy tin tưởng rằng cái lời nói đúng.
Nhiều khi có những cái quý thầy chưa biết cái đó là khổ, nhưng mà Đức Phật đã giảng cho quý thầy biết cái đó là khổ, nhưng quý thầy không tin đâu, bởi vì cuộc đời của quý thầy nó có những cái lạc, nó cám dỗ quý thầy, nó làm cho quý thầy vô minh không hiểu cái đó là khổ. Cho nên quý thầy cứ đâm vào những khổ.
Cũng như, ví dụ như một đứa bé năm sáu tuổi, hay là ba bốn tuổi, nó đâu biết rằng lửa là nóng là phỏng là đau khổ. Cha mẹ thì dặn “Con đi chơi đừng có thọc tay ở trong bếp lửa, đừng có thọc tay ở trong cái ngọn đèn, nó sẽ phỏng tay con à!” Nhưng mà đứa bé nó đâu có biết, nó cứ thấy cái ngọn đèn thì nó, hay hoặc là thấy cái đống lửa là nó bò lại, thì nó lăn ở trên đống lửa, đến khi mà nóng rát thì nó la nó khóc, thì cha mẹ đến đỡ nó thì phỏng mình phỏng mẩy hết!
Thì người ở ngoài thế gian, và cái tâm vô minh của chúng ta cũng như đứa bé, đứa trẻ ba bốn tuổi chưa có biết đời là khổ. Cho nên Phật nói khổ nó không biết đâu, nó tưởng là vui lắm, cho nên nó cứ thọc tay vào đó, thì khi mà phỏng rồi thì nó mới biết rằng, nó mới biết đau khổ.
Đó là những cái mà Thầy nhắc lại để cho chúng ta biết rằng, cái cuộc đời chúng ta toàn là những cái khổ, thấy nó là hạnh phúc đó chớ không phải là hạnh phúc đâu! Nó đưa đi đến chúng ta từ kiếp này đến kiếp khác, trôi lăn ở trong lục đạo. Nó không phải hạnh phúc đâu.
(13:12) Cho nên chúng ta đắm đuối ở trong cái lạc của thế gian, cái vui của thế gian, cái hạnh phúc của thế gian, tưởng là nó là sung sướng, nó là lạ, nó là đem đến cái vui mừng cho mình, cái hạnh phúc cho mình. Nhưng mà thật sự nó là khổ. Cho nên trong khi đó, nhiều khi cái mà chúng ta nghĩ rằng thiện nó không thiện đâu, mà chính thập ác nó đã vạch rất rõ, Thập Thiện nó chỉ rất rõ.
Nhưng mà khi mà chúng ta học Thập Thiện mà không có người vạch cho chúng ta hiểu ra, thì chúng ta hiểu Thập Thiện một cách rất là cạn cợt. Thập ác thì chúng ta biết, bởi vì cái ác nó làm cho chúng ta khổ, chúng ta biết. Nhưng mà nói đến thiện thì chúng ta nghĩ tưởng rằng mình làm cái gì từ thiện bằng cách này cách khác là thiện.
Không phải! Đạo Phật không có dạy chúng ta điều đó đâu, nhưng mà dạy chúng ta trên cái góc độ là Từ Bi Hỷ Xả để chúng ta thực hiện cái tâm của chúng ta.
Thì trong cái tâm, cái độ, cái tâm độ, mà khi chúng ta chưa từ bi với mình, mà từ bi với người khác thì hỏi có đúng cái nghĩa của từ bi không?
Một khi mà chúng ta khởi một cái tâm nhớ lại cha mẹ mình, nhớ lại, khi mình là người đi tu quyết giải thoát rồi mà cái tâm mình còn luyến tiếc, lòng còn luyến thương cha mẹ của mình, biết rằng người sanh ra mình phải thương chớ làm sao không thương, nhưng mà khi mà đứng trên con đường Đạo Phật mà quyết tu rồi mà mình thấy nó là thiện pháp thì coi chừng nhầm nó là ác pháp.
Nó đang làm cho tâm mình ray rứt, nhớ thương cha mình, có phải khổ không? Hay thương mẹ mình có phải khổ không? Nếu mình không đoạn dứt ác pháp này thì thử hỏi mình làm sao mình giải thoát được tâm hồn của mình?
Cho nên nhiều khi chúng ta thấy thiện, đứng ở trong góc độ của nho giáo thì chúng ta thấy rất thiện, là vì mình ở xa mình nhớ cha nhớ mẹ, mình là đứa con hiếu. Nhưng đối với đạo Phật thì không có nghĩa hiếu đâu, đó là ác pháp.
Nó là kiết sử, ái kiết sử, nó trói buộc, nó làm cho chúng ta bứt ra không được, mà vì đôi mắt chúng ta vô minh không nhìn thấy cha mẹ của chúng ta, anh em ruột thịt của chúng ta là nhân quả vay nợ với nhau mới sanh chung (với) nhau ra một gia đình, để gặp gỡ nhau, để mà trả, thuận thì thương nhau mà nghịch thì chửi mắng rầy lộn nhau, hằng ngày xảy ra những chuyện đau khổ!
Chúng ta không thấy được cái nhân quả cho nên chúng ta nghĩ đó là cha mình, là mẹ mình, chớ sự thật ra cha mẹ mình là người nợ mình hay hoặc là mình là người nợ của cha mẹ mình.
Nhưng dù nợ hay là không nợ mà khi đã sanh mình ra rồi, có tay có mắt, có nên con người như thế này mà biết được Phật pháp thì cái ơn đó chúng ta không bao giờ quên, nỗ lực thực hiện, đừng để cái tình cảm, cái ái kiết sử, cái tham, tham ái mà nó trói buộc chúng ta để chúng ta không có ra khỏi sự ràng buộc, chúng ta không có thoát khỏi cái tâm đó thì ngàn đời chúng ta không bao giờ đạt được cái thiền định của đạo Phật.
(16:11) Đó, cho nên chúng ta ở đây, tại sao mà Thầy dạy kỹ cái này? Để chúng ta biết rằng chúng ta bắt đầu chúng ta phải thực hiện cái pháp nào, để mà giới luật chúng ta nghiêm chỉnh.
Nếu còn tham ái, giới luật chúng ta chưa nghiêm chỉnh đâu. Hễ còn thương cha mẹ thì còn thương cái này thương cái kia, chưa bao giờ hết. Từ cái mầm móng này nó sẽ nảy sinh ra bao nhiêu thứ tình thương, mà từ bao nhiêu thứ tình thương đó nó sẽ khởi ra bao nhiêu cái thứ tham khác.
Bởi vì tham ái thì nó sẽ tham ăn, tham uống, tham ngủ, nó tham tiền, tham bạc, tham danh, tham lợi, hễ còn tham ái thì còn tất cả tham! Mà đoạn dứt được cái tham ái thì tất cả những cái tham khác nó mới đoạn dứt được.
Chớ đừng nói bây giờ tôi không tham tiền tham bạc mà giờ tôi nhớ cha nhớ mẹ. Nhớ cha nhớ mẹ tức là lồng trong cái tham tiền, tham bạc, tham danh, tham lợi, tham mình hơn người chớ không có ai mà muốn thua ai.
Cho nên từ cái nhỏ đó mà chúng ta không thấy là ác pháp, nó sẽ đẻ ra muôn ngàn ác pháp khác. Cho nên tưởng là ác pháp là chúng ta chửi mắng người, chúng ta đánh người, chúng ta làm cho người đau khổ bằng cách này, không! Ác pháp của Phật là ngay lại chỗ tâm tham đó là chúng ta làm khổ chúng ta đó. Thương là khổ, ghét là khổ, thù hận là khổ.
Cho nên ở đây chúng ta đã biết được cái pháp thiện và pháp ác cho nó cụ thể rõ ràng. Nhiều khi chúng ta học Thập Thiện chúng ta học sơ sơ, người ta nói thiện này thiện kia đủ thứ, nhưng mà không ngờ rằng mỗi một cái tâm niệm của chúng ta ở trong này làm cho chúng ta ray rứt một cái tình thương của chúng ta, thì đó không phải là thiện đâu, nó là ác pháp.
(17:38) Mà chúng ta hiểu được vậy thì chúng ta mới biết được cái điều kiện mà Đức Phật đã dạy một người tu sĩ vào đạo Phật phải tu cái pháp nào đầu tiên, để mà thực hiện cái pháp đầu tiên đó, để mà giữ được cái giới hành đó, để làm cho thân thọ tâm pháp của chúng ta thanh tịnh, nó không phạm giới. Thân nè, tâm nè, cái thọ nè, và các pháp nó không bị phạm giới.
Vậy thì cái pháp đó gọi là Tứ Chánh Cần. Cái tên của nó, bốn cái chỗ, bốn cái nơi để mà chúng ta phải siêng năng, cần, cần ở đây là cần tu, phải không. Cần tu tức là siêng tu, hằng ngày phải cần tu cái đó, cho nên gọi là Tứ Chánh Cần. Nó cần tu chớ không phải là không cần! Mà người tu hành mà không cần tu cái này thì ngàn đời cũng chưa bao giờ mà vào thiền định được.
Chớ không phải là các thầy siêng năng ngồi thiền nhiếp hơi thở, ức chế tâm không vọng tưởng, ngày ngày giờ giờ nào cũng lo ngồi thiền hết gọi là cần, không phải đâu! Cái đó chưa phải cần đâu, cần đó không đúng đâu. Cần cái kiểu mà ức chế tâm đó làm cho khổ cái thân của mình thêm, chớ chưa phải là đạt được đạo giải thoát đâu.
Còn chữ “cần” của Đức Phật, trong các pháp Đức Phật dạy chỉ có Tứ Chánh Cần mới gọi là cần mà thôi, còn các pháp khác Đức Phật không có nói cần. Tứ Thánh Định Đức Phật cũng không nói cần, mà Tứ Niệm Xứ Đức Phật cũng không có nói cần, mà Tứ Diệu Đế Đức Phật cũng không có nói cần, mà Bát Chánh Đạo cũng không có nói cần.
Nhưng mà có cái Chánh Tinh Tấn thì nó nằm ở trong cái Chánh ở trong cái Tứ Chánh Cần. Bởi vì mình siêng năng thì tức là phải nằm ở trong Tứ Chánh Cần.
Cho nên khi mà gọi là tấn căn là cái sự siêng năng, từ ở chỗ pháp Tứ Chánh Cần đó nó mới sanh ra cái căn gốc siêng năng, là do cái chỗ cần. Nó có tạo thành một cái lực gọi là tấn lực, cái sự siêng năng của cái lực đó nó không có làm cho mình lười biếng nữa, thì nó cũng từ ở chỗ Tứ Chánh Cần đó mà ra.
Bởi vì Tứ Chánh Cần là bốn cái chỗ mà cần siêng năng hằng ngày, cần mẫn mà làm công việc, tu tập công việc này, trau dồi công việc này thì gọi là cần. Đó thì quý Thầy thấy cái chỗ cần của chúng ta tu tập, thì cái bước đầu và cái người tu như thế nào chúng ta đã hiểu được thiện pháp và ác pháp.
(19:55) Vậy thì Thầy muốn nhắc lại để cho các thầy thấy, từ lâu tới bây giờ, quý thầy chỉ nghe Tứ Chánh Cần, Thập Thiện, là quý thầy coi thường, quý thầy không quan trọng đâu, quý thầy nghe có Sơ Thiền Nhị Thiền Tam Thiền hay Tứ Niệm Xứ là quý thầy xem nó là quan trọng.
Nhưng mà quý thầy quên rằng Tứ Niệm Xứ không phải là pháp môn để chúng ta tu. Tứ Niệm Xứ không phải là pháp môn để chúng ta tu mà Tứ Niệm Xứ là Đức Phật chỉ cho chúng ta bốn chỗ để chúng ta thực hiện các pháp môn ở trên đó đó, để làm cho bốn cái chỗ đó thanh tịnh.
Thầy sắp sửa dạy cho các Thầy biết rằng Tứ Niệm Xứ, thường hồi nào tới bây giờ người ta triển khai Tứ Niệm Xứ là người ta thấy như có một cái pháp môn Tứ Niệm Xứ để mà chúng ta tu tập. Ở đây Thầy triển khai Tứ Niệm Xứ không phải là pháp môn để chúng ta tu tập, mà là bốn cái chỗ để chúng ta thực hiện các pháp môn làm cho bốn cái chỗ đó thanh tịnh.
Tâm của chúng ta bây giờ không thanh tịnh nè, tham, sân, si nè, thì bây giờ chúng ta phải ở trên cái tâm đó mà tu tập các pháp khác để cho cái tâm chúng ta không tham, sân, si.
Cũng như thân của chúng ta nè, bất tịnh nè, nó sanh dục nè, nó ham cái thứ này thứ kia nè, nó đòi hỏi ăn uống nè, nó chưa có thanh tịnh nè, cho nên nơi trên thân của chúng ta phải tu tập làm sao mà cho nó không ăn uống phi thời nè, thấy thực phẩm mà nó không thèm nè, thì như vậy là ngay trên thân mà chúng ta tu tập.
Trên thọ là nơi cái thọ của chúng ta nó đau, nó nhức, nó khổ, nó đòi hỏi những cái lạc nè, ăn ngon nè, nó đòi hỏi những cái êm ấm nè, nó thấy những cái gì nó thích thú cho cái thân nó thoải mái dễ chịu là nó đòi hỏi cái đó, thì cái thân chúng ta đang ô nhiễm.
Cho nên chúng ta phải tu tập ngay từ ở chỗ cái thọ của chúng ta, cái thân của chúng ta, cái tâm của chúng ta, để cho nó thanh tịnh, nó không bị ô nhiễm.
Đó thì như vậy chúng ta mới thấy được cái con đường của đạo Phật. Chớ không phải Tứ Niệm Xứ là cái pháp để chúng ta tu tập cái tâm của chúng ta ở ngoài cái pháp này, mà Tứ Niệm Xứ là ở trên thân của chúng ta nè, chớ không ở đâu hết, mà trên thân tâm của chúng ta để thực hiện cho nó hoàn toàn thanh tịnh.
Cho nên Tứ Niệm Xứ xác định là bốn cái chỗ để chúng ta thực hiện các pháp của Phật để cho nó thanh tịnh, chớ không phải Tứ Niệm Xứ là pháp môn tu.
Cho nên khi mà chúng ta tu tập Tứ Chánh Cần thì chúng ta phải ở đâu mà tu? Có phải ở trên Tứ Niệm Xứ mà tu không? Phải không. Bởi vì cần để mà tu tập cái thân của chúng ta thiện nè, cái tâm chúng ta thiện nè, cái thọ chúng ta thiện nè.
Cái thọ bây giờ nó thấy đồ ăn nè, nó thích, nó thích ăn ngon cái miệng nó nè, chỗ mà cảm xúc để mà ngon đó đó, thì cái đó là cái thọ. Nó là ác thọ, chớ không phải là khổ thọ, chớ không phải là cái thọ mà nó thanh tịnh đâu, nó tốt lành đâu. Cho nên ngay từ đó mà chúng ta khắc phục được cái thọ thích, thấy thực phẩm ngon không ăn, không thích, không thèm thì đó gọi là chúng ta ở trên cái thọ mà tu cái thọ.
Các pháp, thân chúng ta là một pháp, tâm chúng ta là một pháp nè, thọ là một pháp nè, các pháp xung quanh chúng ta nè: nhà cửa, tủ, bàn, ghế, giường, chõng, tất cả mọi vật, quần áo y áo của chúng ta mặc nè, đều là các pháp hết.
Mà mỗi pháp nào mà nó làm cho thân tâm chúng ta đắm chìm ở trên pháp đó, là ngay ngay trên pháp đó chúng ta phải xả ly, chúng ta phải tu tập cái pháp gì để làm cho nó ly ra hết, thì như vậy gọi là trên Tứ Niệm Xứ mà thực hiện các pháp, chớ không phải Tứ Niệm Xứ có pháp tu.
(23:30) Thầy sắp sửa dạy giới hành để chúng ta biết được cái chỗ mà chúng ta tu. Như vậy bây giờ một cái người mà sắp sửa tu thiền định, thì chúng ta phải thực hiện cái pháp đầu tiên để mà đạt được cái thiền định, đó là Tứ Chánh Cần.
Bởi vì Phật đã dạy “cần”, cần tu cái này đầu tiên, cần tu hằng ngày. Khi mà cái này đạt được rồi thì tất cả các pháp khác chúng ta dễ dàng tu lắm, không còn khó nữa. Vậy thì bây giờ chúng ta cần cái gì, thứ nhất cần cái gì, nó có bốn cái cần lận, tứ là bốn lận mà.
(24:05) Thứ nhất là các pháp ác chưa sanh không cho sanh. Vậy thì các pháp ác như thế nào? Hồi nãy Thầy có nói thập ác rồi. Bây giờ cái tâm nó thương nhớ nè, nó là ác pháp rồi. Cho nên chúng ta biết nó ác pháp thì bây giờ nó khởi nó nhớ cha mình, nó nhớ mẹ, nhớ anh, nhớ em mình, đoạn dứt liền! Nó khởi lên cái niệm thương nhớ đó là đoạn dứt liền! Gọi là các pháp ác chưa sanh thì không cho sanh. Không cho sanh thì nó ở trong Thập Thiện chớ gì? Chớ nó đâu phải sanh cái thiện nào khác hơn?
Nếu các ác pháp có, thì Thập Thiện không có, còn thập ác không có, thì toàn là thiện chớ gì? Chớ đâu phải các thầy nghĩ là phải đem gạo, đem thóc, tiền bạc cho người khác là thiện đâu! Không phải đâu!
Bởi vì tâm của quý thầy nó khởi lên tham muốn, thương nhớ là nó ác pháp, mà giờ nó không khởi tham muốn, thương nhớ là nó thiện pháp. Vậy thì khi mà ác pháp không khởi thì tức là thiện pháp khởi. Cho nên Phật nói các ác pháp chưa sanh thì không cho sanh.
Luôn luôn giữ tâm bằng cách nào? Thì Thầy từng dạy các thầy rất rõ, khi giữ tâm nó mà đừng cho nó sanh các ác pháp, thì các Thầy phải tu Tỉnh Giác Chánh Niệm: đi kinh hành nè, làm công việc nè, đừng có cho một cái niệm gì khởi trong đầu của mình, thì có phải là giữ các pháp ác không sanh không? Phải không?
Bây giờ quý thầy nhiếp hít thở trong hơi thở, tức là Thân Hành Niệm Nội, thì quý thầy hít thở nè, phải không? Mà hít thở mà không cho một cái niệm nào mà khởi ở trong tâm của mình đó, có phải là ác pháp đã bị ngăn chặn không? Không cho sanh! Nghĩa là mình dùng cái Chánh Niệm Tỉnh Giác nè , cái Định Niệm Hơi Thở nè, mình tu tập thì các pháp có sanh không? Đâu có sanh!
Còn nếu mà mình làm biếng nè, thì mình ngồi lại thì nhớ cái này, nhớ cái kia, nhớ nọ thì ác pháp nó sanh, tức là mình có ngăn chặn không? Không có ngăn chặn! Mà không ngăn chặn thì nó phải sanh thôi. Mà nó đã sanh thì mau mau phải diệt. Phải diệt nó bằng cái định gì? Quý thầy có biết diệt nó bằng định gì không?
(26:20) Đó là Định Vô Lậu. Các thầy phải quán nó, cái đó là ác pháp hay là thiện pháp? Cái đó là như thế nào? Nó đem đến quý thầy khổ hay là không khổ? Các thầy hiểu chưa? Cho nên quý thầy đã thực hiện cái Định Vô Lậu, phải không? Cho nên khi mà nó đã sanh thì các thầy phải thực hiện Định Vô Lậu.
Mà khi mà nó chưa sanh có ra thì các thầy phải tu Chánh Niệm Tỉnh Giác: đi kinh hành, làm mọi công chuyện quét sân, quét nhà, tất cả mọi cái đều giữ tâm ở tỉnh thức, không cho một cái niệm sanh ra, mà không cho cái niệm sanh ra tức là không có ác pháp sanh ra, phải không?
Tức là thực hiện Tứ Chánh Cần, các ác pháp không sanh ra thì tức là thiện pháp. Cho nên suốt ngày quý thầy không có sanh ra ác pháp thì thiện pháp chớ gì. Mà ngày này, giờ này tất cả mọi cái đều là kéo dài cái thời gian ra mà không có ác pháp, thì các thầy đã tăng trưởng thiện pháp.
Như vậy là xác định cho chúng ta thấy rằng nếu mà chúng ta tu Tứ Chánh Cần thì ác pháp không có trong tâm của chúng ta, không sanh khởi được, không tăng trưởng được, thì thiện pháp nó sanh khởi và tăng trưởng kéo dài từ ngày này đến ngày khác.
Ba tháng quý thầy đã nhập định hoàn toàn, bởi vì tâm quý thầy không ác pháp, không tham sân si, tức là diệt rồi, thì tức là các thầy sẽ tịnh. Tâm tịnh, thân tịnh, thọ tịnh, pháp tịnh, bốn cái chỗ này đều là thanh tịnh hết rồi, do Tứ Chánh Cần mà thực hiện.
Cho nên Tứ Chánh Cần có cái tên gọi là Định Tư Cụ, dụng cụ để tu thiền định chớ không phải tu các pháp khác. Bởi vì ngồi mà hít thở để ức chế tâm mình là sai, niệm Phật ưng vô tâm là sai, mà chỉ thực hiện Tứ Chánh Cần tức là Định Tư Cụ, thì các Thầy thấy khi mình thực hiện Định Tư Cụ, thì ngay đó là gọi là định, cái dụng cụ để nó thực hiện được thiền định.
Mà thiền định của đạo Phật nó không phải là chỗ ức chế tâm, chỗ hết vọng tưởng, mà là cái chỗ tâm thanh tịnh không còn tham sân si, không còn thương, ghét, giận hờn ai nữa hết, lúc bấy giờ tâm như cục đất rồi.
(28:35) Vậy thì trong hằng ngày quý thầy tu những pháp mà Thầy dạy từ lâu tới giờ đó, là để thực hiện Tứ Chánh Cần, phải không. Hồi nào tới giờ Thầy không nhắc, nhưng bây giờ dạy về cái giới hành thì quý thầy mới rõ được cái Tứ Chánh Cần là cái quan trọng, và Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, Định Niệm Hơi Thở, Định Vô Lậu chỉ là những pháp trợ duyên cho Tứ Chánh Cần để thực hiện ngăn chặn các ác pháp và đoạn dứt các ác pháp, phải không?
Cho nên ở đây quý thầy thấy rõ, có gì đâu, quý thầy tu sai đâu, nhưng mà hồi nào tới giờ thì quý thầy chưa hiểu nó là Tứ Chánh Cần.
Bây giờ các thầy đã hiểu, đã học được cái giới hành, thì các thầy biết cái Tứ Chánh Cần là cái giới hành, chớ không phải giới hành là không sát sanh gọi là giới hành, mà là Tứ Chánh Cần để thực hiện không sát sanh, không nói láo nè, không vọng ngữ, không nói lời hung dữ nè, không trộm cắp nè, không dâm dục nè, đó gọi là Tứ Chánh Cần.
Mà Tứ Chánh Cần nó giúp cho chúng ta không phạm vào những ác pháp này, thì tức là chúng ta không phạm vào giới luật, chúng ta không phạm giới. Cho nên nó làm cho giới luật của chúng ta thanh tịnh, nghiêm trì, nó trở thành chúng ta giải thoát hoàn toàn.
(30:02) Đó quý thầy thầy chưa! Bây giờ quý thầy cứ lo ngồi thiền cũng chỉ là một pháp môn nhỏ trên Tứ Chánh Cần mà thôi. Bởi vì chỉ biết hơi thở ra, hơi thở vô nè, không có niệm thiện, niệm ác nè, thì lúc bấy giờ nó chỉ là ở trong cái niệm ác, chớ không phải là ngăn chặn cái niệm ác, chớ không phải ngăn chặn niệm thiện.
Vì thiện là một cái trạng thái nó làm cho chúng ta an ổn, không thương, không ghét không giận, không hờn, đó là thiện. Còn cái người mà người ta tu thiền mà người ta gọi là chẳng niệm thiện niệm ác, mình ngồi đây mình khởi nè, thương cha mẹ là thiện nè, mà lo suy tính một cái điều kiện gì để giết người, để hại người, để cướp của người đó là ác. Người ta nghĩ rằng cái niệm đó là niệm thiện và niệm ác. Không phải!
Ở đây khi mà cái tâm của chúng ta nó không có ác thì nó là thiện. Bởi vì Thập Thiện với thập ác nó đối với nhau, hễ có ác thì không có thiện, mà có thiện thì không có ác. Mà hễ tăng trưởng thiện, thì ác làm sao có được! Mà tăng trưởng ác thì thiện mất, làm sao có thiện được! Cho nên thiện không phải ở ngoài kia đem vào được, không phải ở chỗ khác mà đem vô đây được, mà thiện ở trong tâm của chúng ta. Cho nên Thập Thiện, thập ác vạch rất rõ để chúng ta biết. Và nơi đó mới giúp chúng ta giới luật nghiêm trì, không vi phạm giới luật.
(31:25) Đó thì hôm nay các thầy đã học được cái bài học để chúng ta biết rằng tổng hợp tất cả những hành động mà các thầy đã tu từ lâu tới giờ không có sai chỗ nào hết. Nó nhằm vào ở trên Tứ Chánh Cần để thực hiện ngăn chặn các pháp ác, mà tăng trưởng các pháp thiện. Bởi vì quý thầy kéo dài cái trạng thái mà không có niệm thiện, niệm ác ở trong này, kéo dài cái trạng thái này tức là tăng trưởng cái thiện của quý thầy, tăng trưởng cái tâm.
Thí dụ bây giờ ngồi đây tâm thanh thản nè, nó không nghĩ thương, nghĩ nhớ, nghĩ ghét, giận hờn ai hết. Mà từ một phút thì nó đã tăng trưởng một phút, mà hai phút, ba phút, năm phút, mười phút là nó tăng trưởng, như vậy gọi là tăng trưởng thiện pháp. Tăng trưởng thiện pháp tức là làm cho tâm hồn mình giải thoát ở trong trạng thái tâm thanh tịnh. Mà tâm thanh tịnh đó, cái tâm không tham sân si, không giận hờn, không giết hại chúng sanh đó, thì cái tâm đó là tâm thiền định, cái tâm định.
Cho nên Đức Phật nói khi mà tâm định thì chúng ta Dục Như Ý Túc chúng ta muốn như thế nào đó, chúng ta chỉ cần ra lệnh là nó đã tịnh chỉ y như chúng ta muốn. Bây giờ bảo hơi thở ngưng, thì nó ngưng, bảo diệt tầm tứ nó diệt tầm tứ, bảo nó quay vô không nghe âm thanh là nó quay vô không nghe âm thanh, không cần phải chúng ta tập.
Nhưng mà chúng ta cần phải ngăn ngừa các pháp ác không cho sanh, sanh không cho tăng trưởng, đoạn dứt liền, luôn luôn giữ gìn cái thiện pháp mãi ở trong tâm và kéo dài mãi, gọi là tăng trưởng nó. Việc làm có bấy nhiêu đó là đủ trên con đường tu hành của chúng ta rồi. Đơn giản, dễ hiểu, không khó khăn gì hết.
Chỉ vì chúng ta tu mà chúng ta không biết nó, mà chúng ta không giữ gìn nó, chúng ta không dụng cái Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, không dụng cái Định Vô Lậu, không dụng cái Định Niệm Hơi Thở để thực hiện cho cái tâm toàn bộ thanh tịnh này, không có ác pháp này, tăng trưởng cái thiện pháp này, thì tức là chúng ta đã vào thiền định.
(33:31) Vào thiền định rồi, tâm mà có định rồi, thì lúc bây giờ chúng ta chỉ cần dùng pháp hướng mà tịnh chỉ các hành mà thôi. Chúng ta nhắc một lần chưa xong thì hai lần, ba lần, năm lần, mười lần sẽ là xong. Sự tu hành như vậy nó đem đến chúng ta dễ dàng.
Thầy nói người nào tu cũng được, pháp của Phật rất dễ dàng. Không phải là người tu sĩ chúng ta tu mới được mà người cư sĩ tu không được, không phải! Miễn là người nào mà muốn sống đúng mà tu Thập Thiện này, với thập ác này thì luôn luôn phải sống đúng cái đời sống của người tu sĩ.
Bây giờ đó thì các con đã nghe được, biết được cái giới hành, các con nghe Thầy nói hết chưa? Cái giới hành là cái pháp môn Tứ Chánh Cần. Cái tên của nó là Chánh Cần: Chánh là chơn chánh, Cần là cần tu tập, cho nên gọi là Chánh Cần.
Cho nên Thầy nhắc lại nó là một cái pháp môn cần phải tu tập nhiều nhất để ngăn chặn và không cho tăng trưởng các pháp ác, luôn giữ gìn thân, thọ, tâm, pháp của mình. Cái pháp thiện đó là một trạng thái tâm thanh tịnh, là một trạng thái tâm định, hoàn toàn là thiền định của Phật.
(34:50) Bây giờ thì các con đã hiểu được, và biết được. Do cái chỗ mà cô Diệu Quang, tức là cô Út hỏi, hôm nay Thầy mới giải để cho các con Thầy rằng cái định Chánh Niệm Tỉnh Giác Định vẫn là một cái pháp giữ cho thân tâm của chúng ta không sanh khởi ác pháp và không tăng trưởng ác pháp, và Định Niệm Hơi Thở cũng nhắm vào cái mục đích là không sanh khởi ác pháp và không tăng trưởng ác pháp, và Định Vô Lậu cũng là một thứ định để khi ác pháp sanh ra thì nhờ cái pháp Định Vô Lậu mà đoạn diệt, tức là quán xét để mà đoạn diệt, không còn lậu hoặc. Không còn lậu hoặc tức là không có ác pháp, có lậu hoặc tức là ác pháp, không có lậu hoặc là thiện pháp.
Do vì vậy mà các con đã hiểu rõ được từng cái pháp hiện giờ các con đang tu là nó nhằm để trợ duyên, gọi là trợ pháp. Những cái pháp thiền định đó đó, nó là trợ pháp cho Tứ Chánh Cần.
Nghĩa là các con học về sinh ngữ, thì các con biết như Pháp văn nó có cái trợ động từ, có một cái động từ để nó trợ cho các động từ khác mà chia ra những cái động từ khác, thì cái này là cái trợ pháp, cái pháp nó trợ cho pháp kia, để làm cho cái pháp kia nó hoàn mãn, nó viên mãn được cái chỗ tu tập của nó, gọi là trợ pháp. Các con hiểu cái danh từ là trợ pháp, là nó trợ giúp cho cái pháp Tứ Chánh Cần thành tựu được điều tu tập của nó gọi là trợ pháp
Sau này Thầy sẽ dạy cho các con biết là cái Định Niệm Hơi Thở nó là cái trợ pháp cho pháp nào, chớ không phải là nó tự nó đi vào cái hơi thở mà đi vào thiền định được, mà nó là cái trợ pháp để chúng ta thực hiện tất cả các định, mà chúng ta nhập các định.
Cho nên cái hơi thở cũng là một trợ pháp sau này, còn hiện giờ đó, cái hơi thở nó là trợ pháp cho Tứ Chánh Cần. Nương vào cái hơi thở để cho cái tâm nó không khởi ác pháp, cho nên do đó nó giúp cho Tứ Chánh Cần thực hiện được thiện pháp.
(36:55) Như cô Út đã hỏi: “Bạch Thầy, bắt đầu tu thiền định phải tu pháp nào trước?” Đó là cô Út hỏi Thầy cái câu hỏi như vậy, cô Út còn hỏi thêm Thầy:
“Con thường nghe Thầy dạy 37 phẩm trợ đạo, từ Bát Chánh Đạo, Thập Thiện Đạo, Tứ Chánh Cần, Tứ Niệm Xứ, Tứ Thánh Định, Thất Giác Chi, Tứ Như Ý Túc, Ngũ Căn, Ngũ Lực đến Ngũ Uẩn, Thập Nhị Nhân Duyên, Tam Minh v.v thiền định của đạo Phật rất nhiều. Con nghe Thầy dạy rất nhiều, không biết tu loại nào trước, loại nào sau. Kính mong Thầy chỉ dạy để chúng con biết để mà tu tập cho rõ ràng.
Con nghe Thầy dạy thiền định gồm có Định Vô Lậu, Định Sáng Suốt, Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, Định Niệm Hơi Thở, Định Sơ Thiền, Định Nhị Thiền, Định Tam Thiền, Định Tứ Thiền, Định Vô Tướng, Định Bất Động Tâm, Định Bất Động Thân, Định Không Vô Biên Xứ, Định Thức Vô Biên Xứ, Định Vô Sở Hữu Xứ, Định Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ, Định Diệt Thọ Tưởng Định. Kính bạch Thầy, 16 loại thiền định, định nào tu trước, định nào tu sau? Định nào kết hợp với định nào để đồng tu một lượt, định nào tu riêng một mình? Định nào làm trợ duyên cho các định khác? Kính mong Thầy từ bi chỉ giáo cho chúng con để chúng con tu tập, lớp thấp, lớp cao, mới có căn bản!”
Do cái chỗ hỏi của các con mà cô Út mới hỏi lại Thầy, hỏi từng phần, từng phần nhỏ để mà Thầy giải thích ra, để mà các con hiểu. “Còn 37 Phẩm Trợ Đạo, từ Bát Chánh Đạo đến Tam Minh, vậy chúng con phải tu pháp nào trước, pháp nào sau? Mỗi pháp có phần khác nhau, giống nhau như thế nào? Nghĩa là mỗi pháp các con phải tu giống nhau sao và khác nhau như thế nào?” Cô Út hỏi vậy đó. “Và khi thực hành tu tập có tu giống nhau không? Xin Thầy hoan hỉ chỉ dạy cho chúng con biết!”
(39:07) Đó thì, trong cái phần thưa hỏi, một cái câu hỏi đầu tiên, mà hỏi một số câu hỏi quá là nhiều, thật là nhiều,. Nhiều để làm gì, nhiều để mà Thầy dạy cho rõ ràng, để mà các con biết cách dễ dàng mà tu.
Bắt đầu như vừa rồi thì câu hỏi đầu tiên thì Thầy đã giảng cho mấy con đã nghe rồi đó, giảng dã nghe rồi. Tức là chúng ta lấy Tứ Chánh Cần là cái pháp đầu tiên để mà chúng ta tu thiền định, các con hiểu chưa?
Tứ Chánh Cần là cái pháp môn đầu tiên để chúng ta tu thiền định mà Đức Phật đã xác định nó là Định Tư Cụ, dụng cụ tu thiền định. Và các con tu Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, Định Niệm Hơi Thở, Định Vô Lậu, là trợ pháp cho Tứ Chánh Cần như Thầy giảng hồi nãy rồi đó, Thầy nhắc lại đó, nó trợ pháp cho Tứ Chánh Cần. Vậy thì cái câu hỏi đầu tiên Thầy đã trả lời như Thầy đã giảng rồi.
Về 37 Phẩm Trợ Đạo và về thiền định thì ở đây, Thầy cũng trả lời từng cái phần một để cho các con thấy trên cái bước đường tu tập của mình:
“Đầu tiên, muốn tu tập thiền định của đạo Phật thì phải sống đúng giới luật. Muốn sống đúng giới luật thì phải sống thiểu dục tri túc, phòng hộ sáu căn.”
Đó là Thầy trả lời đầu tiên muốn tu theo thiền của đạo Phật đó, như hồi nãy đó là cái pháp hành, cái pháp hành là Tứ Chánh Cần, nhưng chưa phải là pháp đầu tiên.
Các con nhớ, pháp Tứ Chánh Cần chưa phải là pháp đầu tiên ở trong sự tu tập thiền định, mà cái pháp đầu tiên của sự tu tập thiền định thì phải sống đúng giới luật. Giới luật của Đức Phật, giới bổn viết ra như thế nào, thì đời sống của chúng ta phải sống đúng giới luật, đó là cái thứ nhất.
“Mà muốn sống đúng giới luật thì phải sống như thế nào mới là sống đúng giới luật? Vậy thì phải sống thiểu dục tri túc, phòng hộ sáu căn.”
Bởi vì giới luật của Đức Phật đưa ra vậy, mà nếu mà chúng ta sống không thiểu dục tri túc, không phòng hộ sáu căn thì chúng ta không sống đúng giới luật.
“Phải sống đúng thiểu dục tri túc, phải luôn luôn phòng hộ sáu căn thì chúng ta mới giữ gìn giới luật được.
Mà muốn sống đúng được đời sống thiểu dục tri túc, và phòng hộ sáu căn được trọn vẹn, thì chúng ta phải sống như thế nào?”
Chớ nói thiểu dục tri túc, rồi phòng hộ sáu căn, mà chúng ta không biết cái gì hết, thì chúng ta cũng đâu có làm sao cho được trọn vẹn cái này? Do đó chúng ta phải lấy ba hạnh, ba cái hạnh đó là ăn, ngủ, và độc cư, mà Thầy thường nhắc nhở quý thầy ở đây.
(42:14) Ăn: quý Thầy cố gắng khắc phục mình, ăn ngày một bữa, đừng ăn phi thời.
Ngủ: tập ngủ cho giờ giấc cho nghiêm chỉnh cho đúng, đừng có lúc ngủ trước, ngủ sau, lúc nào hễ muốn ngủ là ngủ, đừng có tự tại trong ăn ngủ thì không được. Đừng có vô ngại tự tại, đói ăn khát uống mệt đi ngủ thì không được, mà giờ nào ngủ là ngủ, mà giờ nào thức là thức.
Thí dụ như cái sức của mình, tối mình thức từ 7 giờ đến 8 giờ đi ngủ, 4 giờ khuya mình dậy, thì 4 giờ khuya mình dậy, tới 8 giờ đi ngủ 4 giờ khuya dậy, không ai bảo mình thức 10 giờ để làm gì. Nhưng mà ngày nào, tháng nào, năm nào thì cũng 8 giờ đi ngủ mà 4 giờ thức, tập cho nó đúng như vậy đi.
Còn nếu mà mình thấy khả năng của mình ngủ ít, thì 9 giờ mình đi ngủ, 3 giờ mình thức dậy mình tu tập. Mà nếu mình hay hơn nữa, sức mình hơn nữa thì 10 giờ mình đi ngủ, 2 giờ mình thức dậy, thì nếu mình đặt thành cái vấn đề đó thì tới giờ đó mình phải ngủ, chớ không được ngủ trước, mà nói 10 giờ thì không được 11 giờ đi ngủ. Ngủ trễ cũng không được, mà ngủ sớm cũng không được, mà thức sớm cũng không được, mà thức trễ cũng không được, buộc mình giờ giấc phải nghiêm chỉnh.
Còn ăn uống thì không nên ăn uống phi thời, ăn ngày một bữa. Mình đừng ăn vội vàng mà mình ăn chậm chạp, ăn nhai cho nhuyễn, thì cái số lượng ăn của mình trong một ngày một đêm, mình lượng cái sức mình mình ăn. Mình không được ăn quá no, quá căng bao tử, mà không được ăn quá đói.
HẾT BĂNG
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Thời gian: 1998
(00:00) Các con biết, người ta đi học để cho người ta hiểu Phật pháp, gọi là học tuệ trước, tu tuệ trước. Rồi kế đó người ta hiểu rồi, bắt đầu người ta tu thiền định. Khi người ta tu thiền định được rồi thì cái giới luật người ta mới nghiêm chỉnh. Còn bây giờ thì người ta đang học, thì người ta chưa có nghiêm chỉnh giới luật. Rồi người ta đang tu thiền định thì người ta cũng chưa có nghiêm chỉnh được giới luật. Phải không?
Cho nên cái này, hầu như là cô Út đã tiếp duyên khác với mọi người. Cho nên gặp cái trường hợp người ta nói tui tu, tui phải học hành, tui phải hiểu giáo lý của nhà Phật, thì đó là trí tuệ của chúng tôi. Do tui hiểu biết, tui mới ngăn chặn được cái lòng tham sân si của chúng tôi.
Còn cái này lấy giới luật, bây giờ tu ở giới luật như vậy, thì bắt đầu vô những giới luật khép chặt mình trong kỷ luật như vậy, thì hóa ra là mình khổ hạnh, mình ép xác mình, cho nên nói mình tự làm khổ mình. Cho nên do cái chỗ mà người ta hỏi, người ta nói như vậy, vì vậy mà cô Út hỏi lại Thầy, để Thầy được giải thích cái chỗ này, cái sai cái đúng ở chỗ người tu tập này đúng hay sai.
Câu hỏi:
“Tại sao con từng đập phá tâm tham sân si của mọi người để cho họ được giải thoát. Thế sao họ lại oán thù con?”
Đó là một cái câu hỏi, nghĩa là gặp chuyện gì là cô Út cô đập, cô làm cho người ta nổi sân lên, để rồi từng đó người ta thấy được tâm tham sâm si của người ta, để người ta xả, người ta bỏ, thế mà bây giờ người ta lại oán thù mình. Đó là những cái điều mà cô đã gặp phải.
Cho nên cô hỏi Thầy:
“Câu 8. Bạch Thầy, con thường dạy mọi người xả tâm tham sân si, họ lại bảo con dạy sai, không đúng với Thầy.”
Nghĩa là cô Út cổ dạy bảo phải xả tâm, chớ đừng có tham sân si, thì có người lại nói cô dạy đó sai, không đúng với Thầy, Thầy dạy khác.
(2:08) Thì đó là những cái lý để mà cô hỏi ra để cho biết, trong khi cô hướng dẫn, cô bị người khác nói cô dạy sai, mà cô thì mục đích cô nhắm vào chỗ tham sân si để xả cái tâm đó ra, hay hoặc là mọi sự kiện mà xảy ra làm cho cái tâm cái người ta lo, người ta buồn, người ta khổ, thì lúc bấy giờ đó, tìm mọi cách để cho người ta xả cái đó ra, thì nó không có giống cái pháp hành của Thầy dạy. Như thế nào đó, thì người ta nói dạy như cô Út không có giống Thầy.
“9. Con thường khuyên mọi người đừng có ngồi nhiều, vì ngồi nhiều giống như con cóc, chẳng có ích lợi gì cả. Vậy có đúng hay là sai?”
Nghĩa là cô Út thấy ai mà ngồi nhiều thì cô khuyên đừng có ngồi nhiều, mà lo xả cái tâm đi, ngồi nhiều nó không có ích lợi. Do đó thì có nhiều người cho rằng ngồi nhiều nó mới đạt được thiền định, mà không có ngồi thì nó không có đạt được thiền định. Do vì vậy cô mới đặt ra câu hỏi cổ hỏi Thầy.
Thầy sẽ lần lượt trả lời những cái câu hỏi này để cho các con, cũng như là trả lời cho các con, hai cái câu hỏi của cô Út, mà trả lời cho các con toàn bộ để các con hiểu được cái câu hỏi đó nó có cái nghĩa lý gì, đúng hay sai trên con đường tu tập của mình.
(3:30) Đó thì hôm nay thầy xin nhắc lại một lần nữa là dụng cụ, là cái phương pháp đầu tiên để cho chúng ta thực hiện thiền định đó là Tứ Chánh Cần. Thì Tứ Chánh Cần thì chúng ta phải ở trên thân, thọ, tâm, pháp là bốn cái chỗ xứ, bốn cái nơi xứ sở của Tứ Niệm Xứ mà tu tập cái Tứ Niệm Xứ này cho thanh tịnh.
Vì vậy chúng ta lấy Thập Thiện và thập ác chúng ta căn cứ ở trên thân, thọ, tâm, pháp của chúng ta mà chúng ta thực hiện Tứ Chánh Cần ở đó. Vì Tứ Chánh Cần dạy chúng ta biết hàng ngày, hàng giờ, hàng phút, hàng giây, phải siêng năng cần mẫn ngăn chặn không cho các pháp ác và đoạn dứt các pháp ác, luôn luôn sanh khởi, giữ gìn sanh khởi các pháp thiện, và tăng trưởng các pháp thiện, không để các pháp ác xen vào. Đó là Tứ Chánh Cần ngay trên Tứ Niệm Xứ mà thực hiện.
Và đồng thời thì chúng ta lại thực hiện Chánh Niệm Tỉnh Giác để trợ duyên cho Tứ Chánh Cần thực hiện các pháp thiện mà diệt trừ các pháp ác. Tu Định Niệm Hơi Thở cũng là trợ duyên cho Tứ Chánh Cần. Tu Định Vô Lậu cũng là trợ duyên cho Tứ Chánh Cần để thực hiện đoạn dứt các pháp ác, viễn li các pháp ác, xa lìa các pháp ác, tăng trưởng nuôi lớn các pháp thiện, sống mãi trong các pháp thiện.
Đó là những cái pháp mà hiện giờ hầu như là các con cũng như quý thầy, người nào cũng đã thông hiểu và đã từng tu tập những cái pháp đó hết rồi, biết cách thức tu, biết cách pháp hướng rồi, người nào cũng thông suốt hết rồi.
Chỉ cần siêng năng, nỗ lực, tu tập Tứ Chánh Cần, thì trong đó thực hiện Định Sáng Suốt, Định Niệm Hơi Thở, Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, thì chúng ta đã thực hiện trọn vẹn Tứ Chánh Cần. Có như vậy thì các thầy sẽ sớm thành tựu được đạo giải thoát của đạo Phật.
(5:45) Kế tiếp thì bây giờ thầy sẽ trả lời cho cô Diệu Hảo:
Trong những ngày gần đây thì con tu tập tốt, là không có niệm vọng tưởng trong cái Định Niệm Hơi Thở. Kế tiếp để mà phá âm thanh, thì như cô Út dạy rất đúng, là vì bám cho chặt trụ điểm, bám cho chặt hơi thở, tâm càng bám chặt thì âm thanh nó sẽ lần lượt nó sẽ mất.
Và đồng thời nếu mà tu được cái tâm tham, sân, si, không còn phiền não, không còn lo lắng gì hết, ác pháp không còn có nữa, thì con chỉ cần bảo cái tai, hay là cái nhĩ thức: “Phải quay vô trong, không có nghe âm thanh ngoài, tuyệt đối là không được nghe!” con chỉ ra lệnh như vậy là nó không còn nghe đâu.
Thầy nói thật, khi mà cái tâm thanh tịnh rồi thì con không cần phải bám cho chặt cho lắm gì nữa, con chỉ ra lệnh bảo: “Lỗ tai không có được nghe âm thanh, quay vô trong, nghe hơi thở ra vô thôi!” Con bảo sao thì nó làm vậy. Thì khi như vậy là con mới biết được cái đạo lực của con hiệu quả là do cái tâm thanh tịnh.
Còn bây giờ bảo là phải bám cho chặt, ôm cho chặt cái tụ điểm, để cho cái tâm, cái lỗ tai, cái nhĩ thức nó đừng có xiên ra ngoài, bám càng chặt thì nó không nghe, nhưng nó rất là mỏi mệt vì phải bám chặt, lơ lỏng là âm thanh tác động vào liền.
Còn nếu mà nỗ lực thực hiện Tứ Chánh Cần thì nó không cực đâu. Khi mà ác pháp không còn trong tâm con rồi, nó thanh tịnh rồi, con chỉ cần ra lệnh bảo nó không nghe là nó không nghe, bảo nó đừng có nghe âm thanh là nó không có nghe, trời sét nó cũng không nghe nữa chớ đừng có nói chi mà ếch nhái, ễnh ương kêu đâu.
Trời mưa hồi nãy rầm rầm như vậy đó, mà ngồi thiền bảo cái lỗ tai “Đừng có nghe trời mưa, đừng có nghe tiếng mưa rơi!” thì nó sẽ không nghe, nó nghe trong một trạng thái vắng lặng. Đó là chỗ mà con nỗ lực hơn một chút nữa để cho cái đạo lực nó thực hiện ở trong cái thanh tịnh tâm.
Còn bây giờ thì con khá, là vì có phần xả tâm, cho nên con nhiếp tâm, ức chế trong cái Định Niệm Hơi Thở, nó làm cho con thấy rằng không có cái vọng tưởng, tức là cái tạp niệm xen vào.
Và ở đây, ngay khi mà con vừa bám chặt vào cái tụ điểm để cái lỗ tai nó không nghe, mà hễ nó vừa muốn không nghe, nó vừa muốn hết nghe thì con rơi vào cái trạng thái coi như là nó lặng quá lặng. Nó lặng quá cho nên nó hết nghe. Vì vậy mà cái tỉnh thức của con nó chưa đủ, nó chưa đủ cái tỉnh thức. Do như vậy thì con phải tập cái tỉnh thức nhiều hơn. Tỉnh thức nhiều hơn con phải tập như thế nào?
Thí dụ như mà Minh Tông đã nói, khi mình muốn ru cho sáu cái thức của mình nó ngủ, thì như một người mẹ mà ru con, con nó ngủ không khéo rồi người mẹ cũng ngủ theo. Mà đúng vậy. Sáu cái thức của con sắp sửa ngủ thì cái tâm thức của con nó cũng lần nó lặng mất đi. Cho nên ở chỗ này con phải khéo mà hướng tâm tác ý ra thì nó mới không ngủ, chớ còn không khéo thì nó sẽ mất.
(9:11) Cho nên ở đây con diễn tả những cái lần mà nó bị như vậy đó, thì con cứ nhớ rằng: khi mà cái tâm nó bám chặt, âm thanh nó văng vẳng nó gần như hết muốn nghe, thì thường xuyên mình nhắc, cho đến khi mình nhắc mà tai không còn nghe nữa, mà tai không còn nghe tức là nó đã phá âm thanh.
Nhưng cái mấu chốt, cái cốt lõi mà để cho thực hiện cái âm thanh không còn nghe nữa đó, thì cái tâm thanh tịnh của con phải thực hiện toàn bộ thiện pháp, không được ác pháp xen vô.
(9:43) Như hồi nãy Thầy đã diễn tả về những cái ác pháp, nhưng mà từ những cái thiện pháp, mà từ lâu người ta không có ngờ. Người ta không có ngờ được, người ta cứ nghĩ những cái điều kiện đó là nó thiện pháp chớ không phải ác pháp. Nhưng mà khi một cái tâm mà khởi nghĩ lo lắng một cái điều gì cho những người thân của mình, thì đó là ác pháp chớ không phải là thiện pháp đâu.
Sau này khi mà Thầy viết ra thành cái giáo án, thành pháp hành đó, Thầy đem nhiều cái ví dụ này, ví dụ nhiều cái ác pháp này mà người đời, cái người mà chưa tu người ta lầm tưởng đó là thiện pháp. Thầy sẽ đem nhiều, tức là Thầy moi trong đầu Thầy ra, Thầy nghĩ tất cả những cái nào mà gọi là ác pháp, mà thuộc về cái tâm tham ái của chúng ta, thì Thầy moi ra, Thầy nêu lên tất cả những cái pháp ác đó. Còn ở đây Thầy chỉ nói một số ít như vậy thôi. Rồi Thầy sẽ viết ra, Thầy sẽ nói cái này rất nhiều, để chúng ta biết đó là ác pháp chớ không phải là thiện pháp.
Bởi vì cái này, cái dễ lầm lẫn của chúng ta, lầm lẫn thiện và ác. Mà cái lầm lẫn này là tại vì cái vô minh, cho nên chúng ta không hiểu nó được, tưởng nó là thiện nhưng mà không ngờ nó không phải thiện, nó là ác. Cho nên nó nuôi sống cái lậu hoặc, nó làm cho chúng ta lậu hoặc còn hoài mà không hết, nó không thể nào dứt được. Đó. mà hễ không dứt được lậu hoặc thì làm sao tâm cho thanh tịnh?
(11:17) Các con nhớ rằng cái lậu hoặc cái gốc nó rất lớn, cái đuôi chuột nó rất sâu, cho đến Tam Minh chúng ta thực hiện Lậu Tận Minh nó mới đoạn dứt được cái gốc chớ không phải thường. Còn nhánh lá của lậu hoặc nó rất nhiều. Chúng ta đốn ở bên đây rồi thì ở bên đây nó mọc lên, bên đây qua bên đây chặt bên đây thì bên đây nó mọc lên, nó cứ như vậy nó cứ lên hoài không có chịu hết.
Cho nên nếu mà không có Tứ Chánh Cần siêng năng mà chặt hàng ngày, hàng giây, hàng phút, thì bên đây chúng ta vừa làm xong, bởi vì làm mà kiểu làm biếng, cho nên chặt bên đây vừa xong thì bên đây nó lên rồi!
Còn làm mà làm siêng ấy, thằng bên đây nó chưa lên, bên đây người ta chặt xong rồi, thì bên đây chúng ta qua chúng ta vạt thêm vỏ nó nữa thì nó còn đâu chỗ nào nó lên. Còn bên đây mình chặt vừa xong nhánh thì bên đây nó lên nhánh, lo trở lại mà chặt nhánh bên đây thì bên đây cái da bên đây nó lại lên nữa rồi. Đó là tu kiểu làm biếng.
Còn tu mà kiểu làm siêng, kêu là cần, Chánh Cần ấy, Chánh Cần là siêng năng dữ lắm đó, chặt bên đây nó trụi xuống hết mà bên đây nó chưa có lên cái, ló được cái nhánh nào hết, cho nên qua bên đây còn cái nước là mình vạt vỏ nó, vạt cái vỏ xung quanh cái nhánh này đi. Vạt riết cái vỏ nó tuột xuống hết, do đó nó không còn da nữa thì tức là nó phải hết lên.
Còn đằng này mình chặt ở bên đây rồi, thì qua bên đây chặt, thì bên đây cái da này nó bung cái nhánh nó lên. Mà mình chặt theo kiểu làm biếng thì cái da này nó lên lại nhánh lên cao nữa, bởi vì bên đây chưa chặt xong thì làm sao chặt bên đây được, cho nên chờ chặt bên đây rồi qua bên đây, nó cao lên quá rồi.
Bây giờ mới chặt nữa thì bắt đầu bên đây nó lại lên nữa, cái kiểu mà chặt bên đây được rồi thì bên đây nó lại lên nữa rồi, cứ chặt hoài nó không hết. Kêu là tu làm biếng, phải không?
Chớ tu làm siêng, như Mật Hạnh mà làm siêng ấy bây giờ nó chặt sạch rồi, nó bứng luôn cái gốc rồi! Bây giờ đó thôi thật sự, nếu mà nó đi chơi kể như nó hô bay là nó bay trên mây xanh nó đi khắp cùng bốn biển, chớ đâu phải còn mà cưỡi xe honda mà chạy chở Thầy như hồi sáng này đâu, phải không?
Nếu mà siêng năng thì bây giờ nó xong mất rồi, không có còn vậy đâu. Và bệnh nó biểu hết bệnh thì khỏi cần mà phải uống thuốc gì hết, không có tốn tiền gì hết, vô cái truyền lệnh của nó mà. Bởi vậy mới làm chủ được sanh, tử, lão, bệnh chớ, còn nếu không có, mà hết bệnh mà nó không hết thì tu làm chi cho uổng!
Thầy nói thật, bây giờ mình đau mà mình bảo nó không hết, thì mình tu làm chi cho uổng. Mình bảo nó hết bệnh, nó phải nghe theo hết bệnh, thì mình mới tu chớ! Cho nên mình mới làm chủ được bệnh chớ, mình làm chủ được sống chớ, mình làm chủ được lão chớ, mình làm chủ được chết chớ, đó là những cái mục đích mà chúng ta nhắm đến chỗ tu tập.
(13:54) Cho nên ở đây thầy nhắc Diệu Hảo đó, con tiếp tục nỗ lực xả tâm. Những cái duyên sự mà đến với con, Thầy thấy thật là ác pháp thiệt chớ không phải là thiện pháp đâu. Nó réo rắt, ở đây trốn nó, mà Thầy cho ra cái thất ngoài kia xa nó, thế mà nó còn kéo vô nó còn tới lui đủ thứ hết, đủ cách hết, nó không bao giờ nó yên được đâu! Thì các con biết là cái ác pháp nó dữ lắm chớ không phải.
Cho nên ở trên cái Tứ Niệm Xứ thì cái pháp chúng ta rất sợ. Thân chúng ta không sợ nè, thọ chúng ta không sợ nè, tâm chúng ta không sợ, mà pháp chúng ta rất sợ. Tại sao mà Phật không dạy pháp tu trước đâu, nếu mà thân chưa xong mà tu pháp thì kể như pháp dập chúng ta nhàu hết đâu có chịu nổi đâu. Pháp nó xâm chiếm, pháp ở trong thân nè, pháp ở ngoài nè, nó tác động.
Cho nên chúng ta phải tu thân trước nè, rồi cái thọ, cái thọ là cái cảm giác chúng ta, tức là cái nơi mà chúng ta tu thứ hai đó. Cái nơi thứ ba là tâm. Mà cái nơi thứ tư là cái nơi cuối cùng, là các pháp, bởi vậy Tứ Niệm Xứ các con thấy các pháp nó tu sau cùng.
Bởi vậy cho nên bây giờ đầu tiên chúng ta tu cái thân, là chúng ta trốn ở trong hốc, trong hang, chớ không có dám ló cái đầu ra. Mà ló cái đầu ra thì các pháp nó dập chúng ta xuống, coi như là nó dập chúng ta tan nát hết, làm gì chúng ta ngóc cái đầu nổi mà chúng ta giữ cái thân được.
Rồi bắt đầu bây giờ cái thân mới tu được yên chút, thì cái thọ nó đánh, đó Mật Hạnh nó bị cái thọ nó đánh, cái thân nó mới được yên quay vô chút, bắt đầu cái thọ đập thôi tan nát hết, chịu không nổi.
Đó, rồi bắt đầu cái thọ mà nó đập rồi thì biết cái tâm nó sao? Nó phóng, nó chạy tùm lum. Coi như nó chạy nó mừng coi như là được giải phóng nó rồi, nó chạy nó phóng vào cùng hết! Nó không có chỗ nào nó chừa, phải không các thầy nghĩ!
Mình tu vậy chớ lơ mơ chớ nếu mà cái thân mà nó chưa xong, cái thọ nó đánh mình được rồi, bắt đầu cái tâm nó phóng ra nó chạy, thôi không có phương nào nó dừng hết, chỗ nào nó cũng chui vô nó phóng ra hết!
Thì nó phóng để gì các thầy biết không? Nó phóng nó chạy theo các pháp. Cho nên chừng đó mình làm sao mà tu các pháp? Phải không? Cái tâm bây giờ nó quay vô rồi thì chúng ta mới tu được các pháp, mới làm chủ được các pháp. Cho nên nếu mà chúng ta không độc cư thì các pháp nó sẽ đánh chúng ta chịu sao nổi!
Cho nên đừng có nói rằng tui tu là tui giải thoát, tự tại vô ngại, đói ăn khát uống, đụng đâu cũng được hết, không có phòng hộ sáu căn, đi ngó qua ngó lại, ngó lên ngó xuống, gặp phụ nữ liếc lia liếc lịa, thì thử hỏi cái đó làm sao mà tu tập được gì? Không phòng hộ sáu căn thì tức là bị xâm chiếm hết, đâu có tu tập được. Cho nên tới cuối cùng các thầy thấy, sự tu tập rất khó chớ không phải dễ.
(16:37) Cho nên chúng ta phải phòng hộ, hết sức phòng hộ, giữ gìn, hết sức giữ gìn. Mà muốn phòng hộ, thiểu dục, giữ gìn được như vậy, thì phải sống ăn ngủ, độc cư, thì chúng ta mới làm chủ được chớ! Cho nên Thầy nói, khi mà Thầy biết được như vậy thì các thầy nghĩ, mười năm ở trong thất mà Thầy sống chui rúc, không có dám ló cái đầu ra, sợ đụng pháp chớ gì.
Nghĩa là không dám nói lời nói, không dám thấy mặt ai hết, coi như là mặt trời cũng không dám thấy nữa! Thấy mặt trời là cũng là cái tâm nó cũng phóng chạy theo mặt trời nữa chớ đừng nói chi mà nó chạy theo người ta.
Cho nên là suốt ngày cứ ở trong cái nhà vầy, nhốt mình cũng như là bị tù chung thân vậy, người ta nhốt mình ở trong hầm cột vậy, không có cho ra thấy mặt trời mặt trăng gì hết à! Thì như vậy là đủ biết rằng tu nó khó hết sức khó chớ không phải không, mà cái độc cư là nó phải giữ gìn như vậy, nó thực hiện được vậy.
Mà đầu tiên Thầy thực hiện cái pháp, giới luật thì nghiêm chỉnh, cái pháp thì nó không đúng, là vì nó không có cái pháp hành, nó không có cái chỗ mà tu đúng nó. Nhưng mà nhờ giữ gìn phòng hộ, thiểu dục tri túc, giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh, cho nên nó tránh xa, nó không phóng dật, chớ đâu có biết được cái pháp Tứ Chánh Cần mà giữ gìn tu tập các pháp ác như thế nào, các pháp thiện tăng trưởng như thế nào, đâu có biết. Chớ cỡ biết như vậy thì tu rất nhanh chớ gì.
Nhưng mà sau đó Thầy trở về Định Niệm Hơi Thở, Thầy thực hiện nó trong vòng sáu tháng là Thầy đã xong cái con đường tu tập của Thầy. Mà cái kia Thầy phải tốn hết chín năm trời mà nó cứ trượt lên trượt xuống hoài, nó không vô thiền định được. Thời gian quá dài, chín năm trời.
Còn bây giờ Thầy dạy các con đúng pháp nè, nếu mà các con nỗ lực từ trong ba tháng đến sáu tháng các con xong rồi.
(18:24) Các con xong rồi thì đi trợ giúp với Thầy để độ người khác. Bao nhiêu người người ta tu sai, người ta đang khổ sở, người ta không biết pháp tu, mà giờ cứ ngồi đây cứ tu hoài, ở ngoài kia người ta cũng chẳng biết gì người ta tu, thì Thầy đang mong, còn các con thì ngồi đó mà chơi, tu kêu là tu lười biếng.
Chứ Thầy nói thiệt là, tu kiểu mà không chuyên cần thì Thầy nói là quá uổng rồi. Còn tu mà siêng năng thì trong sáu tháng, thầy trò trợ nhau độ người khác. Biết bao nhiêu công việc chúng ta phải làm, đời xã hội biết bao nhiêu sự bất hạnh, rồi tu biết bao nhiêu sự tu sai!
Mà các con tu xong rồi, bên nữ cũng như bên nam, thầy đang mong chừng sáu tháng, bây giờ tới Tết xong rồi, Thầy điều khiển các con đi hướng dẫn mọi người tu hành, làm những công việc lợi ích cho xã hội, làm tất cả mọi công việc hết!
Chúng ta không phải là tu ích kỷ đâu, nỗ lực cho xong để mà chúng ta làm. Nhanh chừng nào tốt chừng nấy, Thầy đang mong chờ! Tuổi thầy thì cứ mỗi năm qua Thầy thấy Thầy già xuống chút, mà ráng, coi như là Thầy ráng để mà Thầy duy trì cái cơ thể Thầy để cho nó khỏe, chớ không Thầy cũng phải bỏ cái thân này Thầy đi lâu rồi, chớ không phải mới đây đâu.
Nhưng mà vì chưa, nhìn trước nhìn sau chưa có gì hết, mà cái Trung tâm An dưỡng Từ thiện của Thầy nó ra đời để nó thực hiện cái chuyên tu và cái trợ giúp cho xã hội, mà nó chưa được thực hiện được, cho nên cứ ngồi đây mà sống chờ đợi đám đệ tử của mình để cho nó tu, thì thử hỏi rằng không biết chờ chừng nào, mà cứ mong cho nó giữ cho đúng cái lời dạy mình.
Cho nên có lần các con có hỏi Thầy, tại sao mà mười mấy năm trời nay, tại sao cái pháp của Thầy dạy mà không có người tu chứng đó! Tại vì các con không có nghe lời dạy của Thầy! Cứ cái lời dạy của Thầy mà không giữ đúng. Thầy thì mong cho các con giữ cho đúng, thì các con thực hiện nhanh, để mà Thầy không còn chờ đợi. Còn các con mà thực hiện sai thì cái thời gian nó cứ dài hoài, dài hoài.
(20:17) Bên nữ thì thiệt ra Thầy nói thật sự, Thầy thấy cô Út thì quá khổ, mà nếu mà các con khép hết vào trong thất, thì mình cô Út mà đương đầu với một số người mà họ phá cái Tu viện này thì chắc chắn bên nam các con cũng không yên đâu. Nó say rượu rồi mà cô Út mà cản trở một mình cô Út cản trở không nổi. Nó đi tới đằng sau nó quậy các con cũng tùm lum ra hết.
Có một đêm chừng khoảng độ 12 giờ rưỡi, không biết mấy con có hay không, có một chú say rượu vô nằm ở ngoài đường, cái đường đi vô thất Út đó, nằm ngủ dài ở đó đó, say rượu. Đêm trước thì ông ta ngủ trước này, rồi chó làm dữ quá ông không dám ngủ đây nữa. Ông mới đi ra ở sau đó đó, ông mới nằm dài ở trên cái đường chỗ vô thất cô Út đó, ổng nằm dài ổng ngủ đó. Thầy đi ra Thầy nói: “Ua con rắn con gì mà lớn quá mà nó nằm đây!”
Thầy mới đi từ từ Thầy lại, Thầy mới rọi cái đèn. Mới đầu thì Thầy rọi Thầy nói con rắn, mà con rắn hai đầu, sao lại hai cái đầu đen thui mà cái mình trắng xát? Nhưng mà đi gần tới thì Thầy rọi đèn Thầy thấy là cái ông say rượu bữa hổm, ổng nằm đây ông ngủ.
Trời ơi ông nằm ngủ mà rủi ro ông chết thì mình sao đây! Thôi Thầy cũng không động ổng, kệ. Mà Thầy nghĩ rằng Út chắc ở trong thất chắc không hay, chớ phải hay Út cũng hoảng hồn! Đó là những cái mà nếu mà người khác mà người ta cứ vô đây phá vậy hoài thì mình không yên tu đâu, rất là khó.
(21:51) Vừa rồi ở bên đằng trước này có một cái cô ni nào đó đến đây cũng quậy, mà dữ tợn lắm, mà cả 3, 4 đứa tụi nó trợ giúp cô Út mới đẩy cô đó đi ra khỏi Tu viện, chớ không cô đó nằm vạ ở đây nữa cũng phải mệt lắm!
Các con thấy trong cuộc đời, muốn tạo cho cảnh yên tu nó khó lắm, mà một phút yên thì nó không phải dễ tìm. Thử các con đi về gia đình rồi các con tu tập, tìm cái phút yên khó lắm. Cứ được một, hai ngày yên, thì vài ba ngày sau thì nó lại có người đến động mình rồi. Cho nên sống độc cư không đơn giản đâu, khó, rất khó, không phải dễ!
Vì vậy mà trên bước đường tu tập, một tháng mà các con ở đây, hoặc là một năm mà ở đây mà tu tập, các con ráng cố gắng thực hiện cho đúng những cái lời mà Phật dạy từ ngàn xưa, mà Thầy bây giờ nói rõ được cái ý nghĩa của cái pháp tu. Còn những cái người mà không có thực hiện, không có kinh nghiệm, thì không có nói được cái pháp này đâu.
Như về cái thiện như vậy họ không nói ra được đâu. Mà họ không nói ra được thì các con biết làm sao mà mình tăng trưởng thiện? Cho nên hồi mà Thầy còn đi học, học tới Tứ Chánh Cần đó, thì người ta giảng cho Thầy biết, là tăng trưởng các pháp thiện là mình phải đi bố thí, mình phải làm cái việc thiện xã hội nhiều, gọi là tăng trưởng, người ta dạy mình như vậy, quý thầy dạy vậy đó!
Nghĩa là mình phải đi tụng niệm cúng bái cho nhiều, đó là mình phải làm hết những cái nhiệm vụ của một ông thầy, thì đó gọi là thiện. Đó, hoặc là mình đi thuyết pháp cho nhiều, đó là thiện, kêu là bố thí pháp mà! Nhưng mà mình bố thí pháp như vậy cái tâm mình có động không quý thầy, có thiện không? Đâu có thiện chút nào đâu!
Hễ bố thí pháp hay thì người ta cúng dường tiền nhiều, rồi quần áo, rồi y áo đẹp, rồi đồ đạc, rồi tiền bạc nhiều, thì lúc bấy giờ chúng ta lại thành ác pháp mất hết rồi. Nó khổ lắm, cho nên nó đâu có phải dễ đâu. Cho nên nó không phải là Tứ Chánh Cần, không phải bảo chúng ta làm cái điều đó.
Nếu mà không có kinh nghiệm tu thì chúng ta không thấy được cái pháp này tuyệt diệu, nó làm cho chúng ta từng phút, từng giây có sự giải thoát trong tâm hồn của mình. Vì chúng ta không hiểu nó là thiện ở đâu, và cái mức thiện nó như thế nào, cho nên chúng ta không biết cách thực hiện được cái tâm của mình ở mức thiện đó.
Chớ còn nếu mà nói bây giờ làm thiện mà được giải thoát, thì bây giờ kêu Phật tử đóng góp rồi đi cứu trợ đầu này, cứu trợ đầu kia thì tâm mình được giải thoát, nếu mà làm như vậy là quý thầy mà đi cứu trợ nhiều, chắc bây giờ mấy ổng thành Phật hết rồi. Nhưng mà xét lại mấy ổng có thành Phật không các con? Đâu có thành Phật!
Mà dường như là mấy ổng kêu gọi như vậy, như bây giờ chúng ta đã thấy, như thầy Minh Phát, thầy đã chết rồi đó, thầy đã kêu gọi Phật tử là đóng góp làm từ thiện dữ lắm, nhưng mà thầy có thành Phật được đâu, thầy có làm chủ được sinh tử chỗ nào đâu! Thầy thấy thầy chết rất khổ, thầy bị ung thư, thầy chết rất khổ.
Nghĩa là thầy bị trầy da một chút xíu thôi, không bao giờ lành, nó cứ làm ghẻ hoài, nó không lành, thầy bị đái đường. Cho nên tất cả những cái bệnh khổ ở trên thế gian này, thầy làm việc từ thiện mà nó đổ dồn cho thầy, nó lãnh hết những cái khổ đó hết.
Thầy bị ung thư, rồi đái đường, rồi tất cả những cái bệnh gì mà người ta khổ nhất ở trên cái thế gian này gọi là cái bệnh khổ là thầy lãnh hết, coi như thọ lãnh hết. Bởi vì thầy làm thiện, cho nên thầy phát nguyện lớn là bao nhiêu sự khổ của thế gian đổ trên thân của thầy, đổ trên người thầy. Cho nên tuổi của thầy còn trẻ mà thầy đã tịch rất sớm.
(25:31) Đó thì hôm nay thì Thầy nói như vậy thì các thầy biết rằng, cái hiểu đúng Phật pháp nó mới đúng, mà hiểu đúng nó mới có pháp hành đúng, mà hiểu sai thì các pháp hành sai, sai mất đi, và chúng ta cũng không thực hiện được.
(25:47) Đến đây Thầy cũng xin chấm dứt cái buổi hôm nay, ngày mai hay ngày mốt, bữa nào mà Thầy giảng Thầy báo cho các con tập trung. Bởi vì từ đây về sau Thầy sẽ giảng Tứ Niệm Xứ. Tứ Chánh Cần rồi, mấy bữa rồi thì Thầy đã giảng Tứ Chánh Cần rồi chớ không phải không, nhưng hôm nay tập trung lại đây Thầy giảng cho nó rõ ràng và cụ thể.
Rồi bắt đầu từ đây Thầy sẽ giảng Tứ Niệm Xứ, Tứ Thánh Định, Tứ Như Ý Túc, Tam Minh, tất cả những cái pháp hành mà gọi là giới hành Thầy sẽ giảng hết. Giảng xong coi như là trách nhiệm của Thầy xong, và đồng thời Thầy viết, Thầy soạn lại một vài cái bài pháp nó cụ thể nhất cho cái sự tu tập và để cho các con in ra thành sách để giữ lại cái tài liệu.
Chớ còn mà viết hết những giáo án mà Phật đã dạy, thì cái việc làm đó thì Thầy thấy rằng cái sức của Thầy không có làm hết được. Nghĩa là cái thời gian Thầy làm chừng 5, 3 tháng cho nó xong những cái tập cơ bản thôi, căn bản của cái đường tu tập thôi, thí dụ như Tứ Niệm Xứ, Tứ Thánh Định, Tứ Như Ý Túc, Tam Minh, những cái pháp đó mình phải thực hiện cách nào, làm sao thôi. Rồi Thầy viết ra thành sách.
Còn những cái như cái bộ giới luật, Thầy soạn gần xong, kế đó thì Thầy tiếp tục Thầy giảng cái đạo đức nhân quả. Sau này các con sẽ dựa vào những cái bộ sách này, thì nó là đại cương mà thôi. Coi như là Thầy viết ra đây là đại cương, sau này các con tu xong rồi, các con mới dựa vào đây rồi các con sẽ viết ra thành những bộ sách lớn, nó đi vào những cái chi tiết, sâu sắc hơn, nó cụ thể hơn.
Chớ còn Thầy bây giờ ngồi lại mà Thầy viết đi ra từng chi tiết như vậy, thì cái thời giờ Thầy không còn có nữa, tuổi thì già, sức thì yếu rồi. Cho nên Thầy cũng nghĩ rằng làm được những cái cơ bản chắc nhất, để lại chắc nhất thôi, chớ còn cái mà để làm cả sáu, bảy chục tập, hay cả trăm cái cuốn sách như vậy thì Thầy không còn đủ sức mà có thể làm.
Nghĩa (là) thời gian không còn nữa, coi như là cái thời gian của Thầy nó không có còn, nó chỉ còn cái thời gian mà viết những cái đại cương, như cái cuốn vừa rồi, cuốn một Đường Về Xứ Phật, nó là chỉ đại cương thôi chớ chưa có phải là đi những cái chi tiết sâu đâu. Đọc vào đó thì các con thấy cái đại cương thôi, hiểu biết để mà tu thôi, chớ chưa phải là đi sâu xa đâu.
Đó thì vậy cho nên ở đây, về cái phần mà, những cái gì mà đặc biệt của Tứ Niệm Xứ thì Thầy viết ra, những cái gì mà đặc biệt của Tứ Thánh Định là Thầy viết ra, những cái đó nó thuộc về đại cương hết, Thầy ghi ra hết. Sau đó thì nó được in thành sách, để lại cho mấy con sau này.
(28:46) Từ đó thì các con sẽ kế tiếp con đường đó, bên nam cũng như bên nữ, các con hãy lấy cái đó mà các con khai triển ra, để giúp cho đời người ta tu hành, để triển khai, để chấn hưng Phật pháp lại. Đừng có để người ta mê tín, người ta cúng bái nhiều, người ta tụng niệm nhiều, người ta làm những điều sai.
(29:06) Các con thấy như ở đây, hầu hết như là nhang đèn Thầy ít có thắp lắm, bởi vì đó là cũng là hình thức mê tín đó các con, làm hao tốn tiền của lắm. Nhưng mà chùa nào bây giờ người ta cũng thắp hương hết, nhưng mà ở đây đặc biệt là Thầy, mọi lần thì còn thắp hương, nhưng mà từ đó trở về sau này Thầy ít có thắp hương, tượng trưng như vậy thôi chớ còn không có thắp.
Có lư hương thật sự, chứ không thắp hương. Lư hương để tượng trưng cho chúng ta thắp năm cây hương: Giới Hương, Định Hương, Dữ Huệ Hương, Giải Thoát, Giải Thoát Tri Kiến Hương. Năm cây hương đó chúng ta thắp lên, cái hương giải thoát ở trong tâm hồn của chúng ta thắp lên, chớ không phải là cái hương bằng bột cây mà thắp lên.
Bởi vì cái lời mà Thầy đã giải thích, Thầy đã trả lời cho các câu hỏi, thì nếu mà trước khi mà chưa trả lời thì còn thắp hương được, nhưng mà đã trả rồi thì chúng ta phải thi hành cái lời nói của chúng ta với cái hành động của chúng ta phải đi đôi, không thể nào là khác được.
Đó bây giờ thí dụ như các con trưng một cái bình hoa làm đẹp cho cái nơi thờ Phật, thì tốt hơn là chúng ta làm. Nhưng mà khi nào mà dạy về trưng cái bình hoa mà ý nghĩa nó như thế nào, đúng hay sai, mà khi mà dạy rồi thì chúng ta cũng không còn trưng cái bình hoa, nó như vậy, nếu mà đúng chánh pháp mà. Lấy cái hoa nào để mà trưng cúng Phật, mà cái hoa nào mà không đúng cách trưng cúng Phật?
Bởi vì Chánh Pháp chớ, mình nói đây Chánh Pháp chớ không phải là nói tà pháp. Nhiều khi tà pháp thì nó đem lại những sự mê tín, đem lại cái sự hao tốn tiền của, mà người tu sĩ đạo Phật thì các con biết rằng, khi bước vào tu theo đạo Phật, thì giới luật thì thiểu dục tri túc, làm cho ít tốn hao mà. (30:49) Mà bây giờ thiểu dục tri túc mà làm tốn hao thì làm sao đúng ý nghĩa của đạo Phật.
Đó. Cho nên các con phải hiểu biết được những gì mà Thầy nói ra, thì tức là cái đời sống chúng ta, cái lời nói của chúng ta phải hợp với cái hành động sống của chúng ta, chớ không thể nào chúng ta nói rồi chúng ta cũng làm, thì cái đó điều sai.
Cho nên từ cái ngày mà cái tổ đường này mà cất lên xong rồi, thì được cái dịp câu hỏi các thầy hỏi, mà Thầy trả lời, các con hỏi Thầy trả lời, thì do đó nó có hỏi nhằm ở trên những cái cây hương, cho nên từ đó về sau thì tại nơi đây, thì coi như chúng ta không có thắp hương nữa. Các con thấy Thầy không có thắp hương nữa. Hương người ta cúng cắm như vậy chớ còn không có đốt nữa.
(31:39) Bây giờ thì kế tới, tuần tới thì Thầy tiếp tục Thầy dạy về Tứ Niệm Xứ. Tứ Niệm Xứ dạy về bốn cái chỗ để mà chúng ta thực hiện các pháp. Rồi bắt đầu thực hiện các pháp như thế nào, pháp gì thực hiện ở trên đó, từ trên đó. Cho nên Thầy xin giới thiệu để các thầy và các con hiểu biết.
Tứ Niệm Xứ ở trên thân mà quán thân, tu về nhân tướng. Vậy thì tu về nhân tướng không phải là chúng ta ở trên cái thân này, mà lấy cái Tứ Niệm Xứ này mà tu cái thân, mà lấy cái pháp khác mà tu ở trên cái thân này.
Cho nên khi mà trên thân mà quán cái thân này, để làm cái thân này thanh tịnh đó, thì cái tu tập nhân tướng này, quán nó như thế nào, thế nào, để suy nghĩ nó thế nào để cho phá cái lậu hoặc của nó gọi là Định Vô Lậu.
Lấy cái Định Vô Lậu mà tu, làm cho cái thân này nó thanh tịnh, nó không còn bị lầm chấp, nó hiểu rất rõ cái thân này, nó không bị chấp cái thân này là cái ngã, nó không bị chấp cái thân này là thơm tho, là sạch sẽ, nó thấy rõ cái thân này là bất tịnh, hôi thúi, bẩn thỉu như thế nào, cho nên nó là cái Định Vô Lậu. Nó làm cho chúng ta không còn chấp cái thân chặt.
Đó là Thầy sẽ giảng. Rồi trên thân quán thân tu về nội, hành tướng nội, hành tướng ngoại, thì mỗi một cái thân như vậy chúng ta sẽ tu và đồng thời vừa nội, và vừa ngoại nữa, hành tướng nội và hành tướng ngoại nữa.
Cũng như nhiều khi mà chúng ta vừa đi kinh hành nè, mà vừa nương vào cái Định Niệm Hơi Thở chúng ta tu nữa, gọi là nội và ngoại. Rồi bây giờ trên thân quán thân mà tu về cái nội thân tướng mà ngoại thân tướng nữa, chớ đâu phải là tu có trên thân không đâu.
Và tu như vậy để xác định chúng ta lấy cái định gì mà tu cái thân này, rồi do đó tu cái thân được rồi, rồi các pháp tu cái thân rồi, thì bắt đầu lấy các pháp đó để tu cái thọ. Cái thọ là cái làm chúng ta đau khổ và làm cho chúng ta ưa thích.
Rồi khi mà tu được cái thọ rồi, thì bắt đầu bây giờ chúng ta trên thân mà quán thân, tu về cái tâm chúng ta. Nhân tướng của tâm, rồi cái hành tướng của tâm, rồi hành tướng nội của tâm, hành tướng ngọai của tâm, rồi vừa hành tướng nội, mà vừa hành tướng ngoại của nó. Nó sẽ là những cái định gì mà trong khi chúng ta phải thực hiện ở trên cái này để mà thực hiện cái tâm thanh tịnh. Rồi các pháp cũng vậy.
Cho nên nói thì chúng ta nói như vậy chứ giảng ra thì nó rất nhiều, viết ra thành sách thì nó rất nhiều điều mà chúng ta viết. Rồi những cái lời của Phật dạy chúng ta đều được xác định rất rõ ràng ông Phật đã dạy như vậy. Và đồng thời chỉ những rút tỉa qua những kinh nghiệm của Thầy dạy trên Tứ Niệm Xứ.
(34:34) Do đó những cái bài pháp Tứ Niệm Xứ nó sẽ không giống các pháp Tứ Niệm Xứ của các vị mà đã từng triển khai tu tập từ lâu tới giờ. Nó sai khác, nó không giống nhau, bởi vì người ta tưởng rằng ở trên thân này, quán cái thân này, tu cái thân này là cái pháp đó gọi là Tứ Niệm Xứ. Không phải đâu, cái pháp đó gọi là Định Vô Lậu hay hoặc Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, hay hoặc Định Niệm Hơi Thở.
Cái pháp đó nó có cái tên riêng của nó, và cái tên riêng của nó nó sẽ nằm ở trong cái pháp nào (trong) Bát Chánh Đạo, nó nằm trong Chánh Mạng, thì nói về thân mình thì phải Chánh Mạng rồi, phải không? Mà nói về các hành thì nó là Chánh Nghiệp. Phải rõ ràng nó phải nằm ở đâu để nó chỉ định được cái chỗ đó là mình phải tu cái chân chánh nào. Mà nếu nằm ở trong cái tâm của mình thì Chánh Tư Duy, Chánh Kiến, các con thấy chưa?
Chớ nếu mà không giải thích nổi Bát Chánh Đạo nằm ở trong cái Tứ Niệm Xứ này thì hoàn toàn là chúng ta không biết cách thức tu, mà coi như là Bát Chánh Đạo nó rời rạc nó không có ăn nhập vào ở chỗ này, thì cái đó là cái sai. Cho nên khi mà giảng rồi, nó từ ở bên các pháp này, 37 Phẩm Trợ Đạo nó đưa vào đây nó hết, nằm ở trên Tứ Niệm Xứ này, để chúng ta thấy nó thực hiện, nó thực hiện ở trên bốn cái chỗ này.
Cho nên Thầy nói rằng Thầy không muốn giảng, là vì giảng sẽ làm động thiên hạ, vì không có ai mà từ lâu tới giờ người ta giảng cái này. Mà mình giảng khác thì làm cho người ta thấy người ta nói bậy, rồi người ta đâm ra phiền não mình, cho nên Thầy không muốn giảng.
(36:11) Còn Tứ Thánh Định thì hầu hết là không có ai giảng rồi, người ta không có dám giảng bởi vì người ta không biết. Cho nên Tứ Thánh Định mà Thầy nêu ra tóm lược từ Sơ Thiền đến Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền, mỗi một cái Thiền mình phải tu cái gì cái gì, thì họ chưa có nêu được cái này đâu.
Thầy nêu ra được cái này, và đồng thời Thầy giảng ra thì các thầy sẽ biết rằng nó từ ở trên cái chỗ mà Tứ Niệm Xứ này, bốn cái chỗ này mà tu tập những Tứ Thiền Định đó, chớ không phải ngoài nó đâu. Đó thì, nó cũng nằm trên Tứ Niệm Xứ mà thực hiện Tứ Thánh Định, rồi Tam Minh thì nó cũng ở trên Tứ Niệm Xứ này mà nó thực hiện Tam Minh.
À bây giờ thân muốn bay, không phải là ở trên cái Tứ Niệm Xứ sao? Tâm muốn biến ra con chim, không phải ở trên tâm mà tu Tứ Như Ý Túc sao? Các con hiểu đều đó, cho nên nó đâu có đơn giản đâu, cho nên nó cũng nằm ở trên Tứ Niệm Xứ mà thực hiện.
(37:04) Bây giờ đó muốn, Thầy muốn cái tâm Thầy biến ra cái bàn này, nó là pháp đó. Cho nên từ Tứ Niệm Xứ nó phải thực hiện ra các pháp. Đó, bởi vì cái này nó phải dạy, dạy hết, dạy tất cả, lột xác hết các cả những cái pháp của Phật dạy, để rồi các con không có còn mò đường.
Dạy rồi thí dụ như từ lâu tới giờ mình chưa biết Tứ Như Ý Túc như thế nào, thì bắt đầu bây giờ dạy rồi các con thấy, bây giờ muốn cho cái tâm này nó thành cái bàn nè, thì chỉ ra lệnh nó, bảo cái tâm phải biến ra cái bàn, cái bàn này bằng mây, như vậy vậy vậy, cách thức như vậy, nó làm ra y như cái bàn.
Còn bảo cái tâm này phải biến cái thân này làm ra cái bàn, thì cái thân nó sẽ mất đi nó còn cái bàn không à, cái thân nó không còn ngồi đây, mà cái tâm mà nó biến ra cái bàn thì cái thân nó ngồi đây, thì nó có cái bàn khác ở bên. Đó cái lực của đạo là nó như vậy cho nên gọi là Tứ Như Ý Túc, mình muốn như thế nào thì nó sẽ đủ như thế nấy, túc là đủ mà, muốn làm sao nó làm đủ hết.
(38:07) Tu như vậy mà các con không ham, mà đi ham từng cái chuyện nhỏ nhặt ở ngoài đời thì Thầy thấy nó xa xôi quá. Tu như vậy chỉ cần ngồi đây muốn cái gì cũng có.
Bây giờ Thầy nói, muốn chiếc máy bay bảo nó hạ xuống đây, nó cũng hạ xuống cho mình ngồi chơi nữa. Phải không, các con muốn gì, muốn phi thuyền phải không? Nó cũng có biến ra phi thuyền cho các con đi chơi nữa, đi không gian nữa, chớ cái làm gì mà đi qua bên Mỹ mới có, cần gì mà phải qua bên đó. Thầy nói thật sự cái tâm của mình nó sẽ làm được, nó làm đủ tất cả.
Như vậy là chúng ta, tu như vậy mà chúng ta không tu. Thật sự ra Thầy mà nếu mà ở ngoài đời đó, Thầy mà có vợ con, Thầy bỏ quách hết, Thầy chả cần cái thứ đó đi. Làm sao mà vợ con mình sắm cho mình cái phi thuyền không gian được, phải không? Nó làm suốt cả đời nó chưa có đâu. Nó phải đi qua bên Mỹ, rồi nó học, mà nó đi lái nhờ của Mỹ, chớ làm gì nó có được.
Còn mình ở đây bây giờ mình tu cái này là mình muốn gì có nấy, không phải khỏe sao? Mà trong khi Thầy đã nói hết mình để cho các con thấy cái quyền lực của con người tạo các pháp ở trong vũ trụ. Người ta nói đấng vạn năng, chớ mình biến mình thành đấng vạn năng nè. (39:12) Cái lực đạo của mình như vậy, mà cái tâm của mình hết tham, sân, si là nó làm được cái chuyện đó đó.
Mà các con cứ đụng tới cái sân, đụng tới cái si, đụng tới cái giận hờn! Trời đất ơi! Đã bỏ hết cái này, thì có cái kia mà. Cái kia là vĩ đại mà không ham, đi ham chi cái sân, si gì mà cứ ai đụng tới cứ giận hờn hoài! Thiệt là ngu si sao đâu thiệt, tức quá, Thầy mà hiểu biết được cái Thầy bỏ cái rẹt, ai chửi Thầy như cục đất, còn các con bỏ gì? Nói gì cũng không chịu nghe hết! Trời ơi Thầy chỉ cái hay ho để mà mình ham cái hay ho đó, mình nỗ lực cái này!
Nhưng nói tận cùng cho quý thầy nghe. Khi mà nghe Thầy nói vậy mà cứ ham mình có thần thông đó, thì cái ham của quý thầy là còn cái dục thì quý thầy cũng không có cái gì hết. Quý thầy phải xả luôn cái dục đó, thì chừng đó quý thầy mới điều khiển nổi.
Chớ còn quý thầy nói tui quyết tâm tui xả tham, sân, si để quý thầy ước cái điều đó, hay hoặc là tui xả cái tâm tham sân si của tui, để tui bảo cái thân này bay trên hư không, rồi nó ngồi xếp bằng nó bay cho thiên hạ coi chơi, thì ngàn đời quý thầy cũng bảo nó không bay đâu. Quý thầy xả luôn cái đó thì nó bay đó.
Khi nào mà quý thầy không còn ham cái gì hết thì quý thầy ra lệnh nó sẽ làm được. Mà còn một chút, mình nói mình nỗ lực mình xả cho hết cái tâm tham, sân, si, để cho mình có cái này, thì chẳng có thứ gì hết. Đó là xả cho toàn thiệt thì nó có. Cho nên Thầy nói, thiệt là nó có một chút xíu thôi à, hết tham, sân, si thì nó có, cái gì nó cũng có hết.
Nhưng mà Thầy nói như vậy, nói những cái mà nó siêu việt như vậy, để nó gợi cho cái ý chúng ta quyết định, chúng ta phải làm cho được. Không phải làm được để mà ham thích cái này, mà làm được để giải thoát được cái tâm của mình làm chủ sanh tử này, đó là cái đích chính của mình.
Rồi tới chừng đó quý thầy được cái này, quý thầy coi như là vỏ trấu, nó không có nhằm nhò gì đâu. Cho nên nó đâu có biểu diễn mà đi khoe khoang. Cỡ sức mà nói thật sự, bây giờ Thầy xin giấy xuất cảnh, nhập cảnh, Thầy qua bên Mỹ Thầy làm một trò biểu diễn cho thiên hạ một cái là rần rần Thầy thu bạc biết bao nhiêu tiền, Thầy về đây Thầy làm từ thiện, người ta nổi tiếng dễ lắm chứ gì, phải không? Mà người ta nói Thầy rồi đủ thứ.
Nhưng mà Thầy làm như vậy, trong vòng chừng Thầy về đây thì Thầy đi xe hơi còn chớ còn Thầy bay không nổi nữa. Bởi vì cái dục của Thầy, cái tâm danh của Thầy nó lớn quá rồi, cái tâm dục của Thầy nó nhiều quá, Thầy bây giờ mất hết phép thần thông. Bởi vì nó sống đời cái người thế gian thường tình rồi, thì nó làm sao nó còn có những thanh tịnh được nữa mà nó thần thông. Các con hiểu biết điều đó.
(41:39) Thầy rõ lắm, cho nên cùng cực những cái gì mà thực hiện để mà trợ duyên thì thực hiện, mà không đúng thì không thực hiện. Cái đó, chuyện đó bằng trí tuệ, bằng sức lực của mình làm được, giải quyết được Thầy không hề động móng tay tới nó đâu.
Mà cái đó nó ngoài cái sức, không thể giải quyết được nữa, để cho nó được giảng hòa, để cho nó được giải quyết cho nó ổn thỏa, thì mới sử dụng một tí xíu mà thôi. Mà sử dụng rất khéo nữa chớ còn không để ai lộ biết nữa, chớ không phải là đơn giản, không phải là đụng đâu mỗi chút, mà mình làm sai một chút ít, nó đều nổi cái bản ngã của mình lên, nó đều sanh ra cái tâm dục.
Cho nên làm những cái điều này rất là cẩn thận, kỹ lưỡng, chớ không phải là muốn bay để mà bay chơi, rồi mấy con ngước mỏi cổ mà nhìn… (Không nghe rõ) Cái chuyện đó không phải là cái chuyện của một người tu mà làm cái chuyện đó.
Nếu mà Thầy làm con diều gió mà Thầy bay lên trên trời, các con ở đây cứ dòm ngó ngó riết, bay một lúc mất, ngó mỏi cổ thôi, thì cái chuyện đó là cái chuyện đùa chơi giỡn, rồi sau đó thì các con chỉ còn cái ham thích cái đó là cái sai, không có đúng. Cái chính đau khổ chúng ta là phải dứt ra nè, cái đó là cái chính, nó đang khắc khoải ở trong lòng của mình, có thân là khổ nè.
(42:50) Đó như bây giờ các con biết cái khổ của cô Huệ Ân chớ. Cổ tám mươi tám mấy tuổi rồi, cái già nó khổ lắm. Bây giờ cổ biết khổ lắm chớ phải không đâu, nhưng mà nhờ cái pháp nó làm cho cái tâm nó an ổn, chớ cái người già như vậy rất là khổ, không phải không. Cái thân nó đi đứng, hay làm cái gì nó mệt nhọc, nó tức nó nhói bên đây lắm. Phải không, Thầy nói các con không tin các con hỏi cô Huệ Ân thì các con biết liền.
Các con bây giờ còn thấy khỏe đó, chưa đâu, lớn lớn một chút xíu rồi cái nghiệp các con nó kéo dài tuổi thọ các con biết. Chừng đó các con đừng có rên, chớ cô Hụê Ân thì bây giờ nó biết, nhưng mà điều kiện, nó nhờ được cái pháp cho nên nó an ủi được tinh thần, nó sống thấy thoải mái.
Chớ còn đối với người đời, cỡ cái tầm vóc của nó là kể như là khổ rất khổ. Cô đơn, con cái mắc lo đi làm hết, sống một mình ở trong nhà, khổ lắm. Người ta nói già khổ mà, ai mà già rồi mới biết rằng khổ, quét quét như vầy là nó tức bên đây rồi. Nó cái thân nó suy yếu nó đến cái độ mà nó không thể tưởng, vậy nó mới chết được.
Cho nên vì vậy người ta hiểu biết được còn một chút sức khoẻ, đừng có nghĩ rằng nó sẽ khoẻ đâu. Nó sợ lắm các con. Đừng có nghĩ là ngày hôm nay chúng ta khoẻ đâu, rồi ngày mai nó khoẻ được vậy đâu, nó chưa đâu.
Cho nên khắc khoải, Thầy nói, làm sao ba tháng, sáu tháng xong là chúng ta khỏe. Nghĩa là bây giờ chúng ta muốn chết hồi nào chết, muốn sống hồi nào sống là chúng ta khoẻ. Còn bây giờ mà chúng ta bảo nó chết nó không chịu chết, mà bảo nó nín thở nó không chịu nín thì kiểu đó là chắc chắn là tới chừng nó nín thở là mình phải chết khổ à, mình không có làm gì được hết.
Cho nên bây giờ làm sao mà chúng ta bảo nó “Nín thở!” là nó nín thở được, thì chúng ta biết rằng mình làm chủ được nó. Mà bảo nó nín thở mà nó cứ thở hoài thì không được rồi. Còn chỗ nào đau nhức, mà bảo “Đừng đau!” mà nó cứ đau hoài, thì cái chuyện này mình chưa có làm chủ được rồi.
Mình hãy lo lấy cái số phận của mình, đang ở trong bốn cái khổ đó. Cho nên lo thì phải sống độc cư cho hẳn hòi, chớ nếu mà không sống độc cư thì quý thầy bị chết với nó đó, chớ nó không phải dễ đâu. Đây là một cái sự chân thật, Thầy nói thật, khổ lắm các con! Đi tu phải thực hiện cho được, để mà thoát ra bốn cái khổ này!
(44:57) Đó thì, như vậy thì các con bây giờ đã hiểu hết rồi. Thầy đã hiểu biết các con đã thâm nhập từng sống ở đây 3, 4 năm rồi, đã thâm nhập được những cái lời dạy của Thầy nhiều rồi. Và hiện bây giờ Thầy dạy về cái pháp hành, cái giới hành, để các con biết hành cái gì, cái gì, cụ thể rõ ràng từng chút, và những cái pháp mà các con đang tu, các con biết hằng ngày hằng giờ các con tu để mà giữ gìn cái tâm mình như thế nào các con đã biết rồi.
Thì như vậy là qua cái bài pháp này, các con đã nắm rất vững cái đường lối tu tập rồi. Và bây giờ các con còn nghi ngờ một cái gì nữa thì các con sẽ hỏi và đồng thời Cô Út đã thay các con để hỏi, và sau này thầy sẽ trả lời hết những cái lời cô Út. Và đồng thời thầy sẽ hỏi cô Út, bây giờ trong cái cuộc hướng dẫn bên nữ, con có gặp những cái gì khó khăn cứ hỏi Thầy đi. Hỏi hết, nghĩa là coi như là Thầy ghi lại hết, Thầy trả lời hết.
Để làm gì? Để cho các con sau này có những cái tài liệu, và biết được những cái sai, cái đúng trên con đường tu tập của mình. Thầy ghi lại hết, rồi sau này Thầy sẽ nghỉ, thầy không ghi nữa. Vì Thầy làm việc có một cái thời gian thôi, chớ không lẽ làm việc hoài. Thầy đâu phải là người cầu danh mà cứ ngồi viết sách để mà cho người ta biết tên tuổi mình đâu, đâu có nghĩa lý đó.
Cho nên Thầy chẳng muốn ai biết tên tuổi Thầy. Nhưng mà vì cái mục đích Phật pháp mà Thầy là người đã hiểu được đường lối tu tập của Phật pháp như vậy, cho nên không viết cái đại cương này ra, thì sau này ai biết đâu mà viết? Các con hiểu điều đó.
Cho nên Thầy cố gắng Thầy viết những cái đại cương, những cái giới luật, những cái điều mà Thầy đã qua kinh nghiệm tu tập của mình Thầy đã viết lại.
Rồi những cái gì mà khó khăn trên bước đường mà, qua những kinh nghiệm, như cô Út gặp phải, hướng dẫn gặp phải, các con thì chưa hướng dẫn cho nên các con chưa có gặp, còn cô Út thì gặp phải. Các con chỉ có cái tu tập gặp những cái khó khăn trên cái bước đường tu tập, các con hỏi.
Rồi gặp những cái điều mê tín dị đoan như thầy Chân Thành, hoặc là Chánh Tâm gặp thấy trong cái hoàn cảnh ở địa phương của mình, có những cái mê tín không có đúng con đường của Phật giáo, cho nên có những cái hỏi, vì vậy nó là những cái mà được Thầy trả lời cụ thể để giúp cho người ta thấu hiểu được Phật giáo, cái đúng cái sai của Phật giáo.
Còn cái phần cô Út hỏi, thì vừa là tiếp khách, vừa là hướng dẫn các con tu tập, vừa là đập phá những cái tâm tham sân si của các con, để giúp cho các con vượt qua, để tu tập, để giải thoát được mình, cho nên nó có những câu hỏi, nó súc tích được những cái thực tế và cái kinh nghiệm trong con đường tu tập của các con,
Cho nên Thầy thấy những câu hỏi này có giá trị sau này, giúp…
HẾT BĂNG
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Thời gian: 1998
(00:00) Cho nên từ cái ngày mà tu qua rồi, thì nó xả thiền ra, thì ăn cơm rồi, thì cái buổi trưa nó ngồi lại, nó ghi chép lại trong một cái ngày đêm nó tu tập, nó có những cái câu hỏi rất là đặc biệt. Và đồng thời Thầy cũng trả lời khuyến khích trong một tuần lễ nó tu tập, trong một tuần lễ nó tập như nào.
Cho nên hầu hết là các Thầy đều là, các con đều là bỏ tập nhật kí thời khóa chớ riêng Minh Tông thì còn giữ gìn mãi mãi. Từ cái ngày mà đặt thành cái nhật kí thời khóa tu tập tới bây giờ nó chưa có bỏ, lúc nào nó cũng ghi. Vì vậy mà những cái mà nó hỏi Thầy và những cái kinh nghiệm, rút tỉa được từ cái kinh nghiệm của nó.
Sau này thì Thầy cũng đặt những cái câu hỏi để mà trả lời tất cả những cái kinh nghiệm của nó, để nó thành ra một cái vấn đạo, để giúp cho cái người mà đi tới một cái giai đoạn mà tu tập cao hơn, như nó vậy, thì nó dễ hiểu hơn, nó dễ biết cách hơn.
Vậy cho nên cái phần này để dành riêng. Còn bây giờ nếu mà các con được đọc thì các con sẽ bị tưởng mất đi, cho nên chưa có cho các con đọc những cái câu hỏi này.
Bởi vì những cái này nhằm khi các con chưa tới cái giai đoạn đó, như bây giờ chưa hết vọng tưởng, còn vọng tưởng, chưa có làm chủ được cái ngủ mà vội làm chủ được cái tỉnh thức ở trong giấc ngủ phá mộng tưởng, thì như vậy mà đã theo những cái điều kiện mà nó thực hiện mà nói ra như thế này, thì các con bị ảnh hưởng tưởng hết, nó phải đi từng bước.
(1:29) Cho nên nó có những cái dễ mà cũng có những cái khó, mà cái khó đó thì mình phải đi từng bước thì nó mới dễ. Còn mình đi, mình nghe cái đó như vậy, cái bắt đầu cái mình làm liền, cũng như thí dụ như bây giờ cô Diệu Hảo, đang ở trong một cái tâm nó yên lặng, nó mới đạt được cái yên lặng, thì lẽ ra dùng cái yên lặng này để mà càng quét sạch cái tâm, giữ gìn cái thiện pháp của mình, tập tỉnh thức cao hơn, khoan phá âm thanh đã, thì nó hay hơn!
Trái lại thì, cô thấy nó vừa được yên lặng nó không có Tầm Tứ chớ gì, trong yên lặng đó thì cô vội cô phá âm thanh, thì trong khi cái tâm của cô nó chưa có sạch cái lậu hoặc, nó còn các pháp ở bên ngoài đập từng giây, từng phút, nó chưa có yên.
Nghĩa là, ở đâu người ta kéo đến cái nơi của cô, nó tạo thành một cái động, mà bây giờ cô ở đây, cô nỗ lực cô tu là nhờ cái sự trói buộc kiềm chế trong ba tháng hạ này. chớ nếu mà cỡ không thì cô cũng không yên mà ngồi đây được, cô phải về chớ không thể nào mà ngồi đây được,
Thế mà, đó là những cái pháp ở ngoài nó đập phá mình như vậy, thế mà cô phải nỗ lực hơn để mà xả ly được pháp, thì cái sự vắng lặng này nó sẽ là cái sự vắng lặng chân chính. Còn bây giờ mình dùng ức chế để vắng lặng, dùng bám cho thật chặt để mà vắng lặng, thì phải là vừa xả mà vừa bám, nó cả một cái sức dữ lắm.
Còn bắt đầu bây giờ chúng ta được yên lặng rồi, thì dùng cái yên lặng này, chúng ta nỗ lực hàng ngày, chúng ta tu yên lặng thì chúng ta phải tập tỉnh thức thêm, để mà xả ly, nghĩa là xả ly cái hoàn cảnh, cái ác pháp nó đến đập chúng ta. Thì xả được các pháp, bởi vì mình tu được cái thân cái tâm của mình yên tịnh rồi, thì bây giờ phải tu các pháp thanh tịnh chớ, để cho các pháp ngoài nó đừng có đánh mình nữa. Các con thấy không, nếu mà các pháp ngoài nó cứ đánh mình hoài thì nó mất thanh tịnh.
Cho nên các pháp ngoài phải ngăn chặn liền, không có cho nó đến phá nữa. Phải đập nó xuống hết để cho cái thân và tâm với thọ của mình nó được yên tịnh, để mình thực hiện, mà các pháp nó cứ đánh hoài, nó đánh hoài mình tu không được.
Cho nên khi mà thân, thọ, bây giờ tâm mình ngồi đây nè, nhiếp hơi thở nè, không vọng tưởng nè, nó yên lặng nè, đó thì mình biết rằng nó có sự yên lặng của thân và tâm của mình.
Bởi vì mình ngồi là cái thân mình yên lặng rồi, nó không dao động cái thân mình biết rồi, trong ba mươi phút mà, rồi bắt đầu cái tâm của mình không có niệm nào hết là nó yên lặng rồi. Như vậy là thân yên lặng và tâm yên lặng trong ba mươi phút. Mà bây giờ các pháp cứ đánh vô, mặc dù mình ngồi mà các pháp đánh vô thì cái hoàn cảnh mà tỉnh thức nó có xảy được trong tâm của mình tỉnh thức không?
Hay hoặc là mình đang lo, nó lo tức là không tỉnh thức, không Chánh Niệm rồi. Nó đang nghĩ ngợi cái này cái kia nó không Chánh Niệm rồi. Mà muốn nó Chánh Niệm thì phải phá cái lo lắng đó đi, nó đang ở trong cái Chánh Niệm. Còn nếu mà còn cái lo lắng thì cái Chánh Niệm nó không còn. Mà nó không còn thì bây giờ mình có phá cái âm thanh đi nữa, thì nó cũng không có phá nổi.
Cho nên bây giờ nó được yên lặng của thân tâm rồi tiến tới tu tập yên lặng của pháp. Đập xuống các pháp hết, pháp thương, pháp ghét, pháp giận, pháp hờn pháp gì cũng đập xuống hết, đập các pháp hết không có cho xâm chiếm vào tâm mình nữa. Thì đó mình mới thấy thân, thọ, tâm, pháp thanh tịnh. Thì bắt đầu Tứ Niệm Xứ này mới đi vào Tứ Thánh Định mới được. Phải không?
Thân, thọ, tâm, pháp thanh tịnh, tức là mình mới đi vào Tứ Thánh Định, thì như vậy gọi là ly dục, ly ác pháp.
(4:49) Thì khi mà thân, thọ, tâm, pháp mà thanh tịnh tức là ly dục, ly ác pháp rồi, thì như vậy chúng ta mới đạt được cái Thiền đầu tiên là Sơ Thiền. Tiếp tục cái Nhị Thiền là phải tịnh chỉ Tầm Tứ. Mà tịnh chỉ Tầm Tứ kiểu mà chúng ta ức chế là không được, mà chỉ có ra lệnh hướng tâm: “Tầm Tứ phải diệt, phải tịnh chỉ!”, thì ngồi đây, bắt đầu cái tịnh, cái tâm thức phải biết rõ hơi thở, mà “Tầm tứ phải diệt!”, thì bắt đầu ngồi lại nó không có một niệm vọng tưởng xen vô hết.
Mình ra lệnh à, chớ không phải là mình nhiếp gì hết, mình ngồi đó thản nhiên không có tập trung cái gì hết, không có gồng hai cái vai này lên, không có căng cái mặt lên. Cho nên mình ngồi rất nhẹ nhàng, thư giãn, mà không có tập trung…, chỉ ra lệnh của mình ngồi vậy cái hơi thở nó cứ theo mình mà nó ra vô ra vô ra vô.
Mình bảo hơi thở nhẹ, chậm thì nó nhẹ, chậm theo. Mình không có thở chậm nhẹ, mà bảo nó tự nhiên nó chậm nhẹ. Mình thấy cái chỗ mà mình điều khiển cái hơi thở chậm nhẹ nó khác, mà bảo nó chậm nhẹ nó là khác.
Khi tu tới đây, các con mới thấy được cái chỗ nó hay là cái chỗ này. Mình bảo nó khác mà mình làm chậm nhẹ, có khi mình bảo rồi mình thở chậm nhẹ, có, nhưng mà cái mình làm chậm nhẹ đó nó không hay đâu, nó có cái vận dụng ở trong đó nó làm cho mình mệt nhọc.
Còn mình bảo nó rồi mình ngồi vậy tự nó nó thở chậm nhẹ, mình biết cái hơi thở sao mà biết nghe lời, nó làm chậm nhẹ chớ không cần phải mình làm! Đó là lúc cái tâm thanh tịnh rồi đó, bảo cái gì nó nghe cái nấy.
(6:04) Cho nên mình bảo cái thân bay là nó phải bay, Thầy nói như vậy. Thì bắt đầu bây giờ mình bảo phải cái tâm này phải tỉnh thức nè, không có mộng mị, không có chiêm bao nè, không có ngủ. “Cái thân này ngủ đi!” Ra lệnh vậy cái thân nó ngủ mà cái tâm nó thức, chớ không phải cần mình tập nhiều nữa. Mình chỉ ra lệnh thôi, miễn cái thân này, mình làm cho các pháp thanh tịnh, đừng có tập, đừng có phá mình nữa, thì cái chuyện đó quá dễ chớ gì.
Thầy nói thật sự Thầy ở trong thất, cái kinh nghiệm này Thầy có. Thầy chỉ nói với mẹ Thầy là từ đây về sau đừng có cho ai vào thất Thầy hết, đừng có ai hỏi Thầy hết, hoàn toàn, ở ngoài chết hay làm gì cứ làm, đừng có hỏi Thầy, Thầy dặn mẹ Thầy vậy. Thì cho nên ai đến hỏi Thầy hay hoặc làm cái gì, thậm chí cô Út cũng không hỏi Thầy được! Thì con biết như vậy là xả hết các pháp, làm cho cái pháp thanh tịnh mà. Để không người ta hỏi mình là nó không có thanh tịnh được.
Tu tập như vậy nó mới tu nổi, ngăn chặn như vậy nó mới ngăn chặn chớ, chớ không để các pháp nó đến nó đập mình hoài. Mà đập hoài thì cái tâm mình tu lâu, nó mất thì giờ mình nhiều. Mất thì giờ mình nhiều lắm, rất cực. Đó, thì trên bước đường Thầy nhắc nhở các con phải hiểu rõ vậy.
Mà khi cứ ra lệnh, ra lệnh, thì các con ra lệnh bữa nay các con chưa xong, ngày mai ra lệnh cái nó làm! Nó làm à. Bữa nay ra lệnh làm như là nó mới quá nó chưa biết, nó chưa biết đúng tên đúng họ nó. Nhưng mà tự mình mình ra lệnh cái sao thấy nó làm không được, mình thay đổi câu hướng, mình nói sao đúng tên nó cái bắt đầu nó vô à.
Hồi đầu mình chưa có biết, mình nói nó trật, trật tên trật họ nó hay sao, thành ra nó không chịu quay, chừng mình nói đúng tên họ nó rồi cái bắt đầu nó làm vô. À như vậy là tại mình nói trật, cho nên mình suy nghĩ, cái bắt đầu mình nói, nói cái trúng, trúng cái nó quay vô, trúng quay vô, bảo cái nó nghe lời.
Mà nó nghe lời, tới chừng bảo “Tịnh chỉ hơi thở!”, cái nó tịnh chỉ hơi thở. Trời ơi sướng quá chứ gì, có tu gì đâu, cứ ra lệnh, ra lệnh, cái bắt đầu nó vô thiền định. Rồi bắt đầu mình ra lệnh nó bay nó bay, ra lệnh nó làm hai, ba người ngồi cả đống với nhau ở trỏng.
Mình ngồi ban đêm một mình mình muốn ngồi cả đầy thất ở trỏng, ngộ ta! Sao mà có mình mình mà bây giờ nó ngồi ba bốn ông như vậy, cái thất của mình nhỏ xíu mà ngồi chật hết! Mình nhìn mặt ông nào cũng giống ông nào hết, như vậy Thầy thấy sao ông nào cũng giống Thầy hết, sao mà ngồi giống ông La Hán vậy, ông nào cũng ngồi thiền hết. Như vậy mình thấy sao nó hay quá vậy?
(8:26) Mà bảo cái tâm thì nó làm cái tâm, mà bảo cái thân thì nó làm cái thân, chớ không phải là cái thân nó khác, mà cái tâm nó khác. Đó thì, Thầy nói như vậy, mình chỉ mình ngồi mình làm những chuyện như vậy, mình thấy trời ơi thiệt là, đạo lực thiệt chứ không phải là tầm thường.
Đó, hôm nay Thầy nói như vậy, không có nghĩa là chúng ta ham thích cái đó như Thầy nhắc hồi nãy, mà chúng ta phải làm chủ được cái sinh tử. Nỗ lực, đừng có ham những chuyện vu vơ, cái chuyện tầm thường ở thế gian, nó không có lợi ích gì hết, nó làm khổ cho mình thêm. Càng bước chân ham thích cái chuyện đời là càng khổ mình thêm. Cho nên chúng ta phải xả, xả thiệt là xả tận cùng, để rồi chúng ta phải nỗ lực tất cả những cái này.
(09:02) Đó, thì đến đây Thầy xin chấm dứt, để rồi các con về nỗ lực thực hiện. Nghe nhiều mà không thực hiện không bằng nghe ít mà thực hiện. Chẳng hạn bây giờ mà Thầy dạy Tứ Chánh Cần bấy nhiêu đó thôi, các con cứ nỗ lực tu tập bấy nhiêu đó, thì trong sáu tháng các con cũng sẽ làm được cái chuyện này.
Không cần phải nói nhiều nữa, không cần mà dạy Tứ Niệm Xứ thêm nữa cái gì nữa, bấy nhiêu cũng đủ lắm rồi đó. Nhưng dù sao đi nữa Tứ Niệm Xứ nó còn những cái chỗ để mà các con…
Lẽ ra thì Thầy dạy bấy nhiêu rồi các con nỗ lực tu. Một tuần lễ sau khi dạy Tứ Chánh Cần này, một tuần lễ các con sẽ báo. Mà báo được kết quả rồi thì cái người nào mà được nghe Tứ Niệm Xứ Thầy sẽ cho nghe, mà người nào mà không được nghe Thầy không cho nghe. Bởi vì người đó nghe mà không có chịu thực hành thì nghe thêm nữa làm gì, phải không?
Chừng nào mà Thầy nghe báo cáo “Thầy, bây giờ con đang học Tứ Chánh Cần, con đã tu như vậy vậy đó”, thì Thầy nghe thấy đúng, Thầy dạy Tứ Niệm Xứ cho nghe.
Mà nếu mà không có thực hiện được, thì nghe thêm nữa nó làm thêm cho mình tích lũy cái sự hiểu biết thêm chớ có lợi ích gì đâu. Nghe để tu, chớ không phải nghe mà để nghe, hay hoặc là để tích lũy cái sự hiểu biết đó, thì cái đó là cái sai. Nghe để thực hiện sự giải thoát.
Cho nên trong một tuần lễ, thay vì một tuần lễ qua rồi mà các con đã đạt được, thì biết đâu chừng trong chúng đây, các con trong tuần lễ mà tâm thiện nó kéo dài tuần lễ, các con ra lệnh mà nó bay được thì nó còn mau hơn nữa. Thầy nói là ba tháng chớ không biết chừng nỗ lực mà thực hiện trong một tuần lễ.
Bởi vì Phật nói bảy ngày mà. Chỉ có cần bảy ngày mà được thì các con sẽ thực hiện được Tứ Như Ý Túc mà, chớ đâu phải là đợi lâu đâu. Mà giờ nếu mà bảy ngày không được thì sáu ngày, sáu ngày không được thì năm ngày, cứ lui dần lại một ngày một đêm.
Bây giờ Thầy nói rồi, một đêm từ bảy giờ chiều này, mà cho tới sáng mà các con thức, tu hành mà nó hăng hái nó không có buồn ngủ, thì biết rằng nó đã đúng là Tứ Chánh Cần rồi, nó siêng năng dữ tợn rồi, nó không ham ngủ nữa. Do đó là sáng hôm sau các con bay lên trời được.
(10:53) Hôm nay, Thầy tiếp tục cái bài học Tứ Chánh Cần, thì chúng ta thấy rằng cái bài học Tứ Chánh Cần nó chưa có hết, cho nên chúng ta biết rằng các pháp ác để mà ngăn chặn. Như Thầy có nói sơ thì chúng ta biết rằng nó dùng cái Chánh Niệm Tỉnh Giác Định để mà ngăn chặn các pháp ác hay hoặc dùng cái Định Niệm Hơi Thở để ngăn chặn các pháp ác. Nhưng dùng cái Định Vô Lậu thì đoạn dứt các pháp ác.
Vậy thì hôm nay Thầy sẽ triển khai về cái Chánh Niệm Tỉnh Giác Định để ngăn chặn các pháp ác, để thực hiện Tứ Chánh Cần cho rốt ráo, cho thành tựu được cái Tứ Chánh Cần, làm cho tâm của mình còn toàn thiện, còn một sự giải thoát mà không có bị phiền não, tham, sân, si nữa, không có bị ác pháp sanh khởi và tăng trưởng.
(11:56) Cho nên trong cái vấn đề tu tập, rất là quan trọng khi mà học về cái giới hành, tức là cái phần mà luyện tập, tu tập và trau dồi, là cái phần rất quan trọng. Cho nên hôm nay, thì mấy con là những người mà đủ duyên, được nghe cái giới hành, được nghe các pháp hành của Phật.
Tức là Thầy không dạy ngoài cái vấn đề của các pháp hành, nhưng cái sự dạy của Thầy thì Thầy cũng không bảo là các con phải tin ngay lời Thầy, nhưng mà lấy một cái cái trí tuệ của các con mà suy ngẫm, suy ngẫm coi Thầy có nói đúng hay là không đúng. Bởi vì từ lâu tới giờ người ta dạy pháp thiện và pháp ác, thì người ta hiểu theo cái kiến giải của mọi người.
Cho nên hiện giờ Thầy cũng không bắt buộc là các con cũng như là quý thầy tin ngay liền ở Thầy, nhưng mà sự thực hiện cái tâm của mình nó có mang đến cái kết quả của sự giải thoát của cái pháp Tứ Chánh Cần này không? Bởi vì trong Tứ Chánh Cần, thì như các con cũng đã biết, các pháp ác chưa sanh thì không cho sanh, mà đã sanh thì cố gắng mà đoạn diệt, không có để cho nó kéo dài ở trong tâm của mình.
Và các pháp ác thì như Thầy đã dạy, thì các con thấy nó rất rõ ràng, thì ai cũng dạy các pháp ác thì cũng thấy cũng như vậy. Nhưng đến các pháp thiện, thì hầu như người ta dạy lại có khác hơn Thầy, cái nhìn nó có khác hơn Thầy.
Cho nên khi mà nói đến thiện, thì hầu hết là Thầy triển khai ở cái chỗ ác của cái ý hơn là ở chỗ cái ác của thân và khẩu, cái ác nó của ý. Mà cái ác của ý thì chúng ta biết tham, sân, si. Nếu có tham thì mới có sân, mà không tham thì không có sân. Mà có tham sân thì nó mới có si, còn nếu không có tham sân thì không có si, không có mê muội. Như vậy thì Thầy triển khai cái pháp ác đầu tiên của ba cái pháp ác ở trong ý của chúng ta, đó là tham.
Cho nên, muốn mà thực hiện cho rõ ràng cái điều kiện này, Thầy nói thí dụ như mình khởi thương nhớ đối với cha mẹ, thì do đó là đối với cái lòng hiếu thảo thì thương nhớ cha mẹ là thiện chớ sao lại ác! Nhưng đối với Thầy thì cho đó là ác pháp, thì các con hãy suy ngẫm cái lời nói của Thầy có đúng hay là không đúng?
Bởi vì đây nó ngược lại cái lời nói của các Thầy khác giảng, và nó cũng không đúng với những cái điều mà người ta nghĩ ở trong các tôn giáo khác, thí dụ như đạo Khổng, Lão Tử, mà khi mình nhớ cha nhớ mẹ mình, mình biến ra những cái hành động hay hoặc là mình cung phụng, mình trợ giúp cho cha mẹ mình bằng cách này cách khác, thì đó là thiện chớ không thể ác. Nhưng trái lại, khi mà thực hiện ở trên Tứ Chánh Cần, mà theo cái điều mà Thầy dạy, mà nhớ thương cha mẹ, điều đó điều ác.
Bởi vì mình làm sao để cho mình được giải thoát hoàn toàn ra khỏi sanh tử luân hồi, mà mình phải, mình mới trợ giúp cái người mà sinh thành dưỡng dục của mình, là cha mẹ mình. Còn bây giờ mình nhớ, mình thương, thì nó làm cho mình bị trói buộc, nó không thể ra khỏi các pháp ác đó, nó làm cho tâm mình ray rứt khổ sở, do cái lòng hiếu hạnh của mình bằng cách này, bằng cách khác. Thì những cái bằng cách đó nó không đúng tính cách hiếu hạnh của đạo Phật.
Vì mỗi một cái tôn giáo nó có cái hiếu của nó, nó không giống nhau đâu. Đối với đạo Phật thì cái hiếu của nó làm sao cho cha mẹ của mình, cái người mà đại bố thí cho mình đo, cho mình được cái thân xác này để mình tu tập đó, thì cái người đó là cái người ơn, ơn rất lớn đối với mình. Cho nên mình muốn đền đáp cái ơn đó, không có nghĩa là phải nuôi dưỡng người đó bằng cách này bằng cách khác, mà phải thực hiện sự giải thoát của mình cho xong, rồi đem cái kinh nghiệm giải thoát đó dạy lại cho người, giúp cho người cũng thoát ra khỏi cái cảnh khổ đau của kiếp người nữa, thì như vậy gọi là cái ơn chí hiếu.
Còn hiện giờ chúng ta, cái hiếu của chúng ta bằng cách là cung phụng, trợ giúp cho cha mẹ mình bằng cách này bằng cách khác, để cho cái cuộc sống trong cái hiện tại này được thảnh thơi, được một chút an ổn nào đó, thì cái đó chỉ là một cái cạn cợt của cái sự hiếu chớ không phải sâu sắc.
(16:26) Mà chính cái chỗ đó lại là nó thuộc về kiết sử, nó làm cho chúng ta bị trói buộc cái bổn phận làm con, bổn phận làm cha như thế nào, làm mẹ như thế nào. Đó là nó bị trói buộc ở trong một cái bổn phận mà không thoát ra. Cho nên ở đây, về cái phần mà thiện thì các con phải suy ngẫm rất kĩ, Thầy thì dạy khác mà mọi người đều có dạy khác.
Rồi còn về Tứ Niệm Xứ, bốn cái chỗ mà để chúng ta tu tập làm cho nó thanh tịnh đó, thì người ta đương nhiên người ta coi như là bốn chỗ đó để mà thực hiện một cái gì giải thoát ngoài bốn cái chỗ đó. Còn ở đây, bốn cái chỗ đó thì Thầy lại, cái hiểu biết, cái kiến giải của Thầy, thì nó nhằm là thực hiện bốn cái chỗ đó cho thanh tịnh, làm bốn cái chỗ đó nó không còn bị tham sân si phiền não, bị kiết sử trói buộc nữa, cho nên nó lại khác những cái phần khác như vậy.
Vì vậy mà trên cái bước đường giảng về cái giới hành, nó có nhiều cái sự đụng chạm với các bậc tôn túc, các bậc Hòa thượng và các vị tu sĩ Phật giáo từ mấy ngàn năm chớ không phải ít. Nghĩa là đạo Phật có 2500 năm, thì 100 năm trong thời Đức Phật, sau đó thì người ta lần lượt người ta đã làm lệch lạc con đường của Phật giáo, và người ta hiểu sai lệch con đường Phật giáo, như cả thiện và ác người ta lại hiểu sai lệch.
Bởi vì trong Thập Thiện thì Đức Phật có dạy chúng ta thấy rất rõ, không tham sân si, nó thuộc về ý. Mà không tham sân si tức là thiện pháp, mà có tham, có sân, có si thì đó là ác pháp. Thì ở đây chúng ta thấy tâm chúng ta không có tham, không ham muốn gì hết, không thương, không ghét ai hết thì đó là thiện. Mà có ham muốn thì đó là không có thiện, có thương nhớ thì đó là không thiện, cho nên nó còn ở trong cái tham ái, tham dục, thì nó không thiện.
Cho nên ở đây cái mục đích của đạo Phật dạy chúng ta biết cái thiện ác của nó, nó vượt ra ngoài cái nhân quả. Còn cái kia, thì thiện ác nó nằm ở trong cái nhân quả, nhân quả tức là nằm ở trong cái đối đãi. Đó, cho nên ở đây chúng ta thấy khi mà không ác thì tức là toàn là thiện, do đó hiểu được như vậy thì chúng ta mới thấy là các pháp hành của Đức Phật áp dụng vào thì nó sẽ có kết quả giải thoát cho từng cá nhân của mỗi người tu tập.
(18:48) Muốn được vậy thì Thầy mong rằng các con suy ngẫm rất kĩ, bởi vì ở đây có cái sự dạy của Thầy nó có khác người. Cho nên khi đó mình phải suy nghĩ chớ đừng có tin ở Thầy. Bởi vì những cái này đều là do những kinh nghiệm bản thân tu hành của Thầy, từ cái trí tuệ nó phát ra sự hiểu biết của giáo lý của đạo Phật như vậy.
Cho nên Thầy dạy thì các thầy, nếu mà thực hiện thì có sự giải thoát ngay liền như Đức Phật nói “Pháp của ta không có thời gian, đến rồi sẽ thấy ngay liền!” Đúng vậy, Thầy cũng dạy đúng như lời Phật đã xác định đạo, cái giáo pháp của Phật là như vậy.
(19:43) Cho nên trước tiên vào vấn đề để mà chúng ta tiếp tục tu tập, ngăn chặn các pháp ác không cho sanh thì bằng cái pháp gì, thì Thầy sẽ trả lời những cái câu hỏi của cô Út trước tiên mà Thầy đã, hôm rồi Thầy chưa có trả lời hết. Hôm nay Thầy trả lời được một phần nào, và đồng thời thì chúng ta sẽ học về cái pháp hành, các pháp hành nào để mà chúng ta ngăn chặn các pháp ác.
Vậy thì trước tiên Thầy sẽ đọc lại những cái lời nói để nó không làm rối loạn cái sự tu tập của các thầy và các cô, các con, là vì Thầy dạy trong các bài pháp của Phật, còn cô Út thì dạy ngay từ kinh nghiệm bản thân của mình, chỉ mong lo xả tâm của mình để cho tâm diệt trừ cái lòng ham muốn và các ác pháp, ngay chỗ kinh nghiệm mà xả, không phải ở những cái bài pháp, bài kinh của Phật.
Còn Thầy thì giảng từ ở trong những bài kinh, bài pháp của Phật mà ra, và trong đó chêm vào những cái kiến giải của mình, những cái mà mình tu tập qua kinh nghiệm mình thấy được, để nói lên giúp cho các con tu tập, cũng như các thầy để cho mau có kết quả và thời gian thu ngắn lại, để rồi chúng ta còn làm những lợi ích khác cho kẻ khác.
Cũng như sắp tới đây thì Thầy sẽ đưa danh sách của quý con vào ở trong cái ban Giáo dục Tăng Ni. Tuy rằng nó sẽ nằm ở trong cái danh sách của Giáo dục Tăng Ni để cho nó có chứng pháp lý hẳn hòi đàng hoàng. Nếu mà người ta chấp nhận thì mình sẽ có pháp lý, mình sẽ đi thuyết giảng, đem cái kinh nghiệm, đem cái sự thực tu, thực tập của mình, bên nam vậy, cũng như bên nữ như vậy.
Cho nên chúng ta chuẩn bị tất cả mọi hướng, nó đều, khi mà nó được tốt thì chúng ta sẵn sàng có cái điều kiện để mà chúng ta hướng dẫn người tu tập tốt.
Cho nên ở đây phần nhiều là những cái lời cô Út dạy, giảng, hỏi Thầy để giúp cho các con không có rối loạn khi mà Thầy giảng cái pháp hành này. Đương nhiên là thấy mình phải tu tập cái gì nó càng ngày càng rõ hơn, và từ lâu tới bây giờ chúng ta tu nó không phải là không lợi ích, nghĩa là nó đang tu những cái pháp đó để giúp cho chúng ta con đường thăng tiến lên chớ không phải là tu sai.
(22:10) Nhiều khi nghe, năm rồi Thầy giảng cái Giáo án đường lối tu tập của đạo Phật, sau khi nghe xong rồi thì hầu hết là một số người thì không biết cái pháp nào mà tu hết, nhiều quá, nhiều quá nghe lộn xộn. Cho nên năm nay chuẩn bị qua cái giới hành thì cô Út đã chuẩn bị những cái câu hỏi để hỏi, làm cho giải tỏa được cái ý nó lộn xộn, nó không biết cái pháp tu tập.
Và Thầy cũng cẩn thận hơn là không có giảng quá nhiều, mà không dẫn dắt cái người thực hành đi từng bước của nó, để biết rằng mình đã tu từ lâu tới những cái gì, để rồi tiếp tục mình sẽ tu những cái gì, từ cái dễ đến cái khó như thế nào.
(23:00) Bây giờ thì Thầy xin bắt đầu. Qua câu hỏi đầu tiên, như Thầy đã đọc trong cái ngày hôm kia để giảng rồi nhưng bây giờ xin lặp lại để chúng ta không có nhầm lẫn.
Về phần vấn đạo thì cô Út hỏi: “Bạch Thầy, hành giả bắt đầu tu thiền định của đạo Phật phải tu pháp nào trước?”
Đó thì, cái câu hỏi như vậy, thì trong khi đó cô dồn lại một câu hỏi đó cô hỏi rất nhiều, cho nên Thầy trả lời từng phần. Đáp cái câu hỏi thứ nhất mà cô Út vừa hỏi đó, thì Thầy đáp:
“Đầu tiên muốn tu thiền của đạo Phật thì phải sống đúng giới luật. Mà muốn sống đúng giới luật thì phải sống thiểu dục tri túc, phòng hộ sáu căn. Muốn sống đời sống thiểu dục tri túc và phòng hộ sáu căn cho trọn vẹn, thì lấy ba hạnh ăn, ngủ, độc cư làm tiêu chuẩn kỷ luật, khép mình trong khuôn khổ của nó.
Đó là những pháp đầu tiên tu tập về thiền định của đạo Phật. Đạo Phật lấy thân, thọ, tâm và pháp thanh tịnh, tức là loại trừ mười điều ác và tăng trưởng mười điều thiện, tức là đoạn trừ tâm tâm tham sân si đó.”
Đó thì cái câu mà trả lời cho cô Út hỏi Thầy ấy, thì các con nhớ rằng mình thường ở đây, mình lấy cái chỗ ăn ngủ độc cư của mình, mình làm cái tiêu chuẩn để mình khép mình ở trong cái khuôn khổ mà tu tập thiền định.
Do cái chỗ mà tu tập như vậy đó, thì cái giới luật nó mới thanh tịnh được. Mà từ cái giới luật mà nó thanh tịnh thì chúng ta mới có thể tu các cái pháp khác mới được, chớ còn nếu mà giới luật chưa thanh tịnh, ăn chưa được, mà ngủ chưa được, mà độc cư chưa xong, thì chúng ta sẽ tu nó mất cái thì giờ rất nhiều.
Cho nên chúng ta phải tập luyện và khép mình ở trong cái khuôn khổ đó để mà thực hiện cho được cái cuộc sống, cái cuộc sống đúng ba cái hạnh đó.
(25:34) Cho nên trong cái sự tu tập, thì như các con biết rằng những cái điều kiện mà nêu lên của Thầy mà dạy các con đó, ăn, ngủ và độc cư đó, đó là ba cái đầu tiên của người tu sĩ cần phải sống đúng ba cái hạnh đó. Và nếu mà sống đúng ba cái hạnh đó thì các con sẽ thực hiện được giới luật, thực hiện được cái đời sống đúng giới luật, nó không có vi phạm nữa.
Bởi vì độc cư các con không tiếp duyên và sống ăn ngày một bữa, và ít ngủ, thì nó làm cho các con sẽ thuần thục được cái chỗ, cái khép mình trong khuôn khổ đó, thì các con sẽ thấy rằng trên thân, thọ, tâm, pháp của mình bắt đầu nó có nhiều cái sự thanh tịnh, nó có nhiều cái sự tăng trưởng của các pháp thiện hơn là các pháp ác.
(26:20) Bây giờ thì cô Út hỏi tiếp Thầy:
“37 Phẩm Trợ Đạo, từ Bát Chánh Đạo, Thập Thiện Đạo, Tứ Chánh Cần, Tứ Niệm Xứ, Tứ Thánh Định, Thất Giác Chi, Tứ Như Ý Túc, Ngũ Căn, Ngũ Lực, đến Ngũ Uẩn, Thập Nhị Nhân Duyên, Tam Minh v.v, thiền định của đạo Phật rất nhiều không biết tu loại nào trước, loại nào sau, vậy kính mong Thầy chỉ dạy chúng con để dễ tu tập!
Thiền định gồm có:
1- Định Vô Lậu
2- Định Sáng Suốt
3- Định Chánh Niệm Tỉnh Giác
4- Định Niệm Hơi Thở
5- Định Sơ Thiền
6- Định Nhị Thiền
7- Định Tam Thiền
8- Định Tứ Thiền
9- Định Vô Tướng
10- Định Bất Động Tâm
11- Định Bất Động Thân
12- Định Không Vô Biên Xứ
13- Định Thức Vô Biên Xứ
14- Định Vô Sở Hữu Xứ
15- Định Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ
16- Định Diệt Thọ Tưởng Định.
Kính bạch Thầy 16 loại thiền định, định nào tu trước, định nào tu sau, định nào kết hợp với định nào để dễ, để đồng tu một lượt, định nào tu riêng một mình, định nào làm trợ duyên cho các định khác. Cúi mong Thầy từ bi chỉ giáo cho chúng con để chúng con tu tập từ lớp thấp đến lớp cao mới có căn bản.
Còn 37 Phẩm Trợ Đạo từ Bát Chánh Đạo đến Tam Minh, dạy chúng con phải tu pháp nào trước, pháp nào sau, mỗi pháp có phần khác nhau, giống nhau như thế nào, và khi thực hành tu tập có tu giống nhau không, xin Thầy hoan hỉ chỉ dạy cho chúng con biết.”
(28:08) Đó là cái phần câu hỏi của cô Út như vậy. Thì cái phần đáp của Thầy, vừa rồi thì Thầy trả lời rằng mình muốn sống đúng cái giới luật của Phật mình phải sống trong cái đời sống ăn, ngủ, độc cư, thì mình mới có thể sống đúng đời sống giới luật được, như Thầy trả lời rồi.
Bây giờ thì đến trả lời từng phần câu hỏi của cô Út đây:
“37 Phẩm Trợ Đạo từ Bát Chánh Đạo đến Tam Minh thì Tứ Diệu Đế là pháp đầu tiên cần phải thông hiểu.”
Các con nên nhớ rằng ở trong 37 Phẩm Trợ Đạo thì Tứ Diệu Đế là cái pháp đầu tiên mà cái người tu sĩ đạo Phật cần phải thông hiểu nó trước tiên, nghĩa là phải hiểu nó.
Bởi vì chúng ta có hiểu cái Tứ Diệu Đế thì chúng ta mới hiểu được cuộc đời đau khổ, cuộc đời toàn là khổ, cuộc đời là nước mắt, cuộc đời là bể khổ, là trầm luân, cho nên chúng ta mới dứt áo, dứt gia đình, dứt cuộc sống mà đi vào trong nơi tu hành, chịu đời sống Phạm Hạnh rất là gian khổ, vì chúng ta hiểu đời là khổ.
Nếu mà chúng ta chưa có thông suốt được cái pháp đầu tiên của Phật, tức là Tứ Diệu Đế thì chắc chắn chúng ta không thể nào thực hiện được cái đời sống Phạm Hạnh theo một tu sĩ nổi.
“Nên Đức Phật chuyển pháp luân lần đầu tiên tại Vườn Lộc Uyển là pháp Tứ Diệu Đế.”
Đó thì các con nghe pháp đầu tiên mà Đức Phật đã nói, pháp đầu tiên ấy, tại Vườn Nai, thì lúc bấy giờ Đức Phật thuyết pháp đầu tiên, mở miệng ra nói pháp của chính mình đã tu tập giải thoát, thì Đức Phật thuyết Tứ Diệu Đế. Cho nên ở đây là Thầy cũng thấy rằng Tứ Diệu Đế là một pháp đầu tiên để mà chúng ta cần phải thông hiểu chớ chưa phải tu tập đâu.
Pháp Tứ Diệu Đế chưa phải tu tập, bởi vì có nhiều người thấy tưởng đời là đẹp lắm, cho nên tưởng đời là hạnh phúc lắm, cho nên còn tha thiết, ham thích đời. Nhưng sự thật đời là một đống lửa, là lửa đang cháy, nó sẽ đốt và thiêu hủy chúng ta từng phút từng giây, nhưng mà có nhiều người thì không thấy nó cho nên còn ham đời, chớ biết được đời là khổ thì ngay đó người ta không còn thích thú gì đời cả hết, người ta lo người ta mau mau mà người ta dẹp đi, để người ta tiến tới cái chỗ giải thoát hoàn toàn.
(30:344) Vì cái ngả đời và cái ngả đạo, hai cái ngả này nó riêng rẽ nó không giống nhau, như Thầy đã dạy trong cái Đường Về Xứ Phật tập một.
“Cho nên pháp đầu tiên là Tứ Diệu Đế, còn pháp tu đầu tiên lại là Tứ Chánh Cần.”
Đó thì các con thấy chưa, cái pháp để mà hiểu đầu tiên, để mà hiểu biết đầu tiên đó là cái pháp Tứ Diệu Đế. Còn cái pháp mà tu tập đầu tiên, khi mà hiểu rồi thì chúng ta tu tập cái pháp nào, đó là chúng ta tu tập cái pháp Tứ Chánh Cần.
“Pháp tu cuối cùng của Đạo Phật là Tam Minh.”
Bởi vì cô Út hỏi cái pháp nào tu trước…
(Xem tiếp ở Pháp hành 04)
HẾT BĂNG
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Thời gian: 1998
(Tiếp theo Pháp hành 03)
(00:00) Pháp mà tu tập đầu tiên, pháp mà để tìm hiểu Phật pháp là Tứ Diệu Đế, mà pháp cuối cùng đó là Tam Minh. Còn pháp tu đầu tiên là pháp Tứ Chánh Cần, còn pháp tu cuối cùng là Tam Minh.
“Nếu người tu sĩ đạo Phật chưa xong Tam Minh thì còn tu tập nữa.”
Nghĩa là khi mình thực hiện Tam Minh chưa được, như bây giờ, mình nhập vào Bốn Thiền, tức là Thiền thứ tư, thân và tâm nó định với nhau thành một khối rồi, mà mình hướng tâm về Túc Mạng Minh. Mình hướng về cái đời gần nhất mà mình chưa hiểu biết được cái đời gần nhất của mình, rồi cái đời thứ 2, thứ 3, thứ 4, thứ 5, cho đến nhiều đời, vô lượng đời của mình mà mình chưa có thấy biết, thì Túc Mạng Minh mình chưa xong, thì mình còn phải tu cho xong.
Và khi mà đến Thiên Nhãn Minh thì nó ngồi tại đây, mà mình hướng tâm thì nơi đâu mình cũng thấy được hết. Mà Đức Phật có ví dụ như là mình đứng ở trên một cái lầu ở giữa cái ngã ba, giữa cái ngã tư đường, xe cộ, người qua kẻ lại, mình đứng trên đó mình nhìn xuống, thì mình thấy mọi người qua lại, không có người nào mà mình không thấy. Và như vậy tức là Thiên Nhãn Minh.
Còn Lậu Tận Minh, mà hướng tâm về Lậu Tận Minh thì tất cả những cái lậu hoặc, cái gốc của lậu hoặc nó sanh ra tham, sân, si, phiền não, Ngũ Triền Cái, Thất Kiết Sử, nó sanh ra những cái đó, thì bây giờ nó đoạn dứt, mình đều thấy rất rõ.
Mà không những thấy mình đã đoạn dứt rất rõ, và thấy chúng sanh đang sống ở trong cái gốc lậu hoặc đó rất là cụ thể, rõ ràng. Người thì ít, người thì nhiều như thế nào, thì chúng ta thấy rất rõ ràng. Do thấy rõ ràng như vậy cho nên nó mới đoạn dứt được cái lậu hoặc, cho nên cái đó gọi là Lậu Tận Minh.
Do cái chỗ tu tập cái pháp cuối cùng này, thì đương nhiên là cái người tu sĩ đó sẽ không còn tu tập nữa. Tới đây là cái người đó đã thực hiện được Tam Minh xong rồi, thì cái người đó nghỉ, bây giờ đi chơi chớ còn không có tu nữa. Nghĩa là tối là ngủ, chơi chớ còn không có tu tập gì nữa hết. Hoặc là ngồi thiền chơi vậy chớ còn cũng không có cái chỗ tu tập nữa.
Cho nên nói nhập thất, hay hoặc nói này kia, hay hoặc là ngồi thiền hay hoặc đi kinh hành như Đức Phật ngày xưa, chẳng qua là cái thói quen của mình như vậy thôi, chớ sự thật ra thì không phải còn tu tập nữa. Khi mà có được Tam Minh là mình đã làm chủ được sự sống chết, làm chủ được cái tâm của mình, không còn tái sanh luân hồi nữa, cho nên đó là cái pháp cuối cùng, tu tập cái pháp cuối cùng.
Và cái pháp đầu tiên, Thầy nhắc lại là Tứ Chánh Cần, còn cái pháp Tứ Diệu Đế chỉ chẳng qua là một cái sự hiểu biết cho thông suốt được cái chân lý của đạo Phật, từ cái khổ, nguyên nhân khổ, và cái Niết Bàn, cái cảnh giới, cái trạng thái tâm hết khổ, và cái con đường Bát Chánh Đạo, là tám cái nẻo để mà đoạn dứt được cái nguyên nhân khổ đó.
Cho nên cái Tứ Diệu Đế để dẫn dắt, để chỉ rõ cho chúng ta hiểu biết nó tường tận, chớ không phải là cái pháp tu, mà là cái pháp để hiểu biết thấu suốt được cái cuộc đời chúng ta như thế nào, và hiểu biết được cái lối để mà chúng ta tu tập, để mà đoạn dứt cái tâm ham muốn của chúng ta, tâm tham của chúng ta.
Cho nên cái pháp đó là cái pháp để hiểu biết mà thôi, người nào hiểu biết mà xả ngay, bỏ ngay cuộc đời, thì ngay đó không còn tham sân si nữa, thì người đó tu rất mau. Còn người mà hiểu biết mà chưa có xả bỏ được thì lần lượt sẽ tu tập Tứ Chánh Cần để dứt trừ các pháp ác, đoạn dứt các pháp ác mà tăng trưởng các thiện pháp. Đó là cái pháp tu đầu tiên, và cái pháp tu cuối cùng là Tam Minh.
(4:10) “Pháp môn của Đức Phật có tên là trợ đạo, có nghĩa là trợ giúp cho viên mãn được đạo, vì thế có chỗ giống nhau nhưng lại khác.”
Nghĩa là cái pháp môn của Phật nó giúp cho cái tâm được giải thoát, thân thọ tâm pháp của chúng ta giải thoát, cho nên nó trợ giúp các pháp khác, nó làm cho cái tâm chúng ta được mau giải thoát. Cho nên các pháp đó gọi là 37 Phẩm Trợ Đạo, trợ làm cho bốn cái chỗ thân, thọ, tâm, pháp của chúng ta được sớm thanh tịnh, được viên mãn, được giải thoát hoàn toàn.
Cho nên gọi là trợ đạo, cái pháp nó trợ cho cái tâm của mình, mà cái tâm giải thoát của mình đó là cái đạo, cái tâm thanh tịnh của mình đó là cái đạo. Mà nó trợ giúp cho cái tâm của chúng ta, cái thân của chúng ta, cái thọ của chúng ta, và các pháp được thanh tịnh, được sớm được mau thanh tịnh, thì các pháp tu tập đó như vậy gọi là trợ đạo.
(5:17) Mà các pháp trợ đạo thì nó trợ cho cái đạo thanh tịnh, thì có chỗ thì nó giống nhau, nhưng nó khác nhau. Nó giống nhau vì pháp nó trợ lực cho cái pháp kia, nó giúp cho các pháp kia, pháp kia nó giúp cho pháp này, do đó nó trợ cái pháp này, nó giúp cho pháp kia.
Cũng như thí dụ như chúng ta tu cái Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, thì nó trợ giúp cho cái Tứ Chánh Cần, làm cho nó ngăn chặn các pháp ác, đó là nó trợ giúp đó, nó trợ giúp cho Tứ Chánh Cần. Cho nên nó trợ giúp cho cái pháp khác, pháp khác nó làm cho cái tâm của chúng ta, cái thân tâm của chúng ta nó thanh tịnh đi, nó không còn tham sân si, nó không còn ác pháp nữa, đó gọi là trợ.
Thí dụ như cái pháp Định Vô Lậu, thì nó trợ giúp cho Tứ Chánh Cần đoạn dứt được cái ác pháp liền. Pháp nó sanh rồi, bây giờ nó đang tăng trưởng nè, do đó nhờ cái Định Vô Lậu chúng ta quán xét, cho nên chúng ta đoạn dứt nó liền, do đó nó trợ giúp cho Tứ Chánh Cần đoạn được cái ác pháp liền. Nếu không có cái pháp Định Vô Lậu, thì nó khó mà có thể dứt trừ được cái ác pháp. Nó cứ tăng trưởng lên, càng lúc nó càng lớn càng mạnh lên, nó làm cho chúng ta sân giận, phiền não, tham muốn, dữ tợn lên nữa, nó không có muốn lìa những cái vật chất ham muốn.
Thí dụ như bây giờ chúng ta có một chiếc xe Honda, giờ chúng ta thấy chiếc xe Dream họ đẹp, tốt quá, chạy nhanh hơn, thì chúng ta lại khởi cái tâm ham muốn. Mà nếu mà không có cái Định Vô Lậu, nó làm cho chúng ta quán xét để hiểu, thì cái tâm ham muốn nó tăng trưởng lên, nó ham muốn, nó bắt chúng ta phải chạy làm cái này, làm cái kia, hay hoặc ăn trộm cắp để lấy tiền rồi, hay hoặc đi ăn cắp cái xe của người ta để mình có cái xe. Do đó nó đẩy cho mình đi tới cái chỗ ác pháp, nó làm mình rất là khổ đau. Cho nên mình nhờ cái Định Vô Lậu đó mình quán xét, mình ngăn chặn, mình đoạn dứt nó liền, làm cho cái tâm ham muốn của mình chấm dứt lại.
Đó thì trong các pháp mà tu tập như vậy, thì những cái pháp đó gọi là trợ đạo, trợ giúp cho các pháp khác, cho nên nó có cái chỗ tu, nó có cái chỗ giống nhau, nhưng nó có cái chỗ khác nhau. Nhưng mà nó trợ giúp nhau thì nó là giống nhau, nhưng mà cái hành pháp của nó, cái pháp mà nó hành thì nó khác nhau.
Vì pháp này trợ lực cho pháp kia, pháp kia trợ lực cho pháp này, cho nên nó giống nhau là ở chỗ đó. Giống nhau là pháp nào nó cũng nhắm vào đoạn diệt ác pháp. Nghĩa là chúng ta phải thấy cái chung của nó là các pháp Phật, nó nhắm vào cái pháp nào nó cũng đoạn diệt cái ác pháp hết.
Thí dụ như Tứ Chánh Cần nhắc chúng ta phải cần hằng ngày phải cần đoạn dứt các ác pháp, không cho sanh khởi, thì cái pháp Định Vô Lậu nó cũng đoạn dứt cái ác pháp, nó xa lìa cái lòng ham muốn ác pháp đó. Rồi Định Chánh Niệm Tỉnh Giác nó giữ cho cái tâm của mình luôn luôn lúc nào cũng ở trong hành động mà không có khởi một cái ác pháp nào, không có khởi một cái niệm ác nào ở trong tâm chúng ta.
Thì như vậy nó, các pháp của Phật đều là nhắm vào nó đoạn diệt ác pháp, nó đoạn dứt cái ác pháp, nó không có cho cái ác pháp mà tăng trưởng, hay hoặc là sanh khởi ở trong tâm của chúng ta. Mà khi mà ác pháp nó được đoạn trừ, được đoạn dứt, nó không có ở trong tâm chúng ta nó không sanh khởi, thì cái thiện pháp nó sẽ sanh khởi, và nếu mà chúng ta giữ gìn không có cho ác pháp xen vào, thì cái thiện pháp đó nó tăng trưởng.
Cho nên các pháp nó giống nhau là ở chỗ nó nhắm vào đoạn diệt các ác pháp, viễn li, từ bỏ, xa lìa các ác pháp. Cho nên khi mà nó giúp cho chúng ta xa lìa được ác pháp, thì ta thường hằng vui sống, giữ gìn và bảo vệ, phòng hộ, che chở cho thiện pháp. Cho nên lúc bấy giờ, một người biết tu thì luôn luôn người ta vui sống với cái thiện pháp và giữ gìn, hộ trì, bảo vệ nó, che chở cho cái thiện pháp nó được còn hoài. Còn nếu nếu mà chúng ta không có che chở, không có hộ trì, không có phòng hộ, không có giữ gìn, thì thiện pháp nó sẽ bị ác pháp nó sanh khởi và nó sẽ tăng trưởng lên, nó làm cho chúng ta khổ đau.
(9:26) Đó là những cái phần mà mình tu tập phải thấy được các pháp như vậy. Còn khác nhau thì ở chỗ thực hành. Như bây giờ cái pháp Chánh Niệm Tỉnh Giác để mà trợ giúp cho cái Tứ Chánh Cần, thì Chánh Niệm Tỉnh Giác nó phải tập trung ở trong các hành động của chúng ta để cho nó không có cho pháp ác nó sanh khởi ra được.
Cũng như cái nó khác nhau, thí dụ như bây giờ cái Chánh Niệm Tỉnh Giác thì nó tập trung ở trong cái hành động đi, hoặc là tay chân chúng ta làm những cái công việc, cái hành động của nó, của thân của chúng ta hay của tâm của chúng ta. Còn cái Định Vô Lậu thì nó cũng trợ giúp cho cái Tứ Chánh Cần, nhưng nó lại quán xét cái pháp, cái niệm ác đó, để rồi nó xả, nó buông cái niệm ác, nó đoạn dứt cái niệm ác đó đi. Thì cái hành động nó quán xét thì nó không có ở trong cái hành động đi kinh hành, hoặc là hành động quét sân, hoặc là mọi cái công việc làm hằng ngày chúng ta tập trung trong hành động làm của thân thì nó khác rồi.
Cho nên nó khác nhau là nó khác nhau ở thực hành, mà nó giống nhau là nó giống nhau ở cái chỗ mà đoạn diệt cái ác pháp. Quý Thầy hiểu rõ như vậy, các con phải hiểu rõ như vậy, thì chúng ta biết rằng các pháp Phật giống nhau chỗ nào và khác nhau ở chỗ nào.
Cho nên mỗi pháp đều có tên riêng, do cái chỗ mà hành động tu tập nó khác nhau như vậy, cho nên nó phải có cái tên riêng. Thí dụ như Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, thì Chánh Niệm Tỉnh Giác Định thì nó tỉnh giác ở trong chỗ nào? Ở trong hành động. Mà cái Định Vô Lậu thì nó phải là ở trong cái chỗ quán xét để cho lậu hoặc nó không còn, thì nó khác nhau. Cho nên cái tên của nó, nó chứng tỏ là cái hành động của nó khác với cái tên của một cái pháp khác.
Cho nên nó có mỗi cái tên của nó để chỉ rõ cái hành trình tu tập của chúng ta, kết quả mang lại thân thọ tâm pháp của chúng ta được làm chủ và giải thoát hoàn toàn, theo kết quả giải thoát của từng pháp môn. Nghĩa là chúng ta giải thoát của theo từng pháp môn, nghĩa là chúng ta tu cái pháp nào thì nó có sự giải thoát ngay tại ở trên cái pháp đó.
Thí dụ như bây giờ chúng ta ngăn chặn các pháp ác nè, bằng cái pháp Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, thì chúng ta đi kinh hành từ đây nè, ra tới cổng chùa, rồi chúng ta đi vào nè, mà chúng ta giữ gìn không có cho các ác pháp nó khởi lên được, do đó ngay đó thì chúng ta nhận thấy nó có sự giải thoát ở từng cái chỗ tu tập của các pháp đó.
Bây giờ chúng ta, do một cái niệm nào đó khởi lên mà chúng ta muốn đoạn diệt cái niệm ác pháp đó, do đó chúng ta dùng cái Định Vô Lậu rồi chúng ta quán xét, chúng ta làm cho cái tri kiến giải thoát, cái sự hiểu biết của mình nó tăng trưởng nó lớn mạnh ra, nó làm cho chúng ta xả được cái ác pháp đó, đoạn dứt đựợc cái ác pháp đó, nó không còn ray rứt ở trong lòng của chúng ta nữa.
Thì khi mà chúng ta xả nó được vậy, thì chúng ta thấy rõ ràng là cái kết quả nó mang đến cái sự giải thoát từng cái pháp môn của chúng ta tu tập đó.
Chớ không phải là ở trong cái Chánh Niệm Tỉnh Giác đó mà nó giải thoát cho cái tâm chúng ta đang ở trong cái ác pháp, nó làm cho tâm chúng ray rứt được, là khi mà chúng ta dùng Chánh Niệm Tỉnh Giác. Trái lại chúng ta dùng cái Định Vô Lậu thì ngay cái pháp ác nó đang tăng trưởng, nó đang làm khổ đau tâm hồn chúng ta, thì chúng ta quán xét, thì chúng ta xả nó ra được.
(12:49) Đó thì xét thấy như vậy thì chúng ta biết rằng khi cái pháp nào mà chúng ta tu, thì ngay đó chúng ta có những cái kết quả của cái pháp đó liền, chớ không phải là không có, phải chờ năm, bảy ngày, hay hoặc một tháng, hai tháng mới có.
Cũng như bây giờ chúng ta tu cái định Nhị Thiền, diệt Tầm Tứ, thì do định sanh hỷ lạc, thì cái hỷ lạc đó thì ngay đó là cái chỗ mà dô cái định nó sinh ra, nó làm cho chúng ta thấy an lạc, và cái thân của chúng ta thấy nó nhẹ nhàng, thơi thới, nó thoải mái, nó dễ chịu, nó không còn có cái chỗ mà khổ sở và khó khăn.
Cũng như cái Sơ Thiền, do cái chỗ mà chúng ta ly dục ly ác pháp, nghĩa là toàn bộ tham, sân, si, mạn, nghi, và Thất Kiết Sử mà chúng ta đã đoạn dứt được, thì các lúc bấy giờ các ác pháp đó nó đã viễn ly, nó lìa ra rồi. Cho nên từ cái chỗ ly dục ly ác pháp đó thì nó sanh cái hỷ lạc, nó làm chúng ta có cái chỗ an lạc cho cái thân và tâm của chúng ta, trong đó cái thọ nó không còn đánh chúng ta được nữa.
Cho nên nó có những cái kết quả như vậy đó, nó mang đến những cái kết quả như vậy trong từng giây, từng phút mà chúng ta tu tập, chớ không là phải tu 5, 7 ngày nó mới có được những cái đó, không phải đâu. Khi mà chúng ta đã giữ gìn được cái tâm của mình ở trong cái chỗ mà ly dục ly ác pháp, thì chúng ta đã thấy được cái trạng thái ly dục ly ác pháp, cái hỷ lạc đó, cái trạng thái giải thoát đó.
(14:22) Cách thức tu tập pháp nào ra pháp nấy, nghĩa là tu tập pháp nào thì phải cho ra pháp nấy chớ có lộn xộn, pháp này mà xiên qua pháp khác.
Thí dụ như bây giờ chúng ta vừa đi kinh hành tu tập ở trong cái Chánh Niệm Tỉnh Thức ở trong hành động thân của chúng ta, thì trong khi vừa đi tỉnh thức ở trong cái hành động đó thì chúng ta lại quán xét bằng cái Định Vô Lậu, thì như vậy chúng ta đặt một cái niệm ở trong đó suy tư như vậy, đó là sai, không có đúng. Pháp nào nó phải ra pháp nấy, không thể nó lộn xộn.
Mà khi có một cái, như chúng ta học biết đó, nó có những cái pháp trợ cho pháp khác, như cái Định Niệm Hơi Thở nó là cái pháp nó trợ duyên cho các pháp để tu tập các pháp, thì cái Định Niệm Hơi Thở nó mới giúp cho chúng ta thực hiện các pháp khác. chớ còn nếu mà cái Chánh Niệm Tỉnh Giác thì nó không phải giúp cho chúng ta cái Định Vô Lậu được, mà chính cái Định Niệm Hơi Thở nó có thể giúp cho chúng ta ở trong cái Chánh Niệm Tỉnh Giác được, là vì nó là trợ pháp.
Cũng như, thí dụ như chúng ta học sinh ngữ, về pháp ngữ, thì chúng ta biết rằng cái động từ avoir nó là trợ động từ, nhờ nó mà chúng ta chia các động từ khác được. Đó thì cái Định Niệm Hơi Thở nó cũng như vậy, nó trợ pháp, nhờ nó mà chúng ta tu tập các pháp khác được thành tựu.
Chẳng hạn bây giờ chúng ta vừa đi kinh hành, thay vì chúng ta tập trung trong bước đi chúng ta, thì chúng ta lại nương vào hơi thở, vừa đi mà vừa nương vào hơi thở. Thì cái đó nó trợ cho chúng ta đang đi để giúp cho sức tỉnh của chúng ta, sau đó chúng ta thấy có cái sự tỉnh ở trong cái hơi thở rồi, chúng ta mới xả hơi thở, thì chúng ta quay trở lại cái bước đi. Thì lúc bấy giờ tâm chúng ta tập trung ở trong bước đi, nhờ cái hướng tâm của cái hơi thở, nương vào cái hơi thở để mà giúp cho sức tỉnh, để mà chúng ta biết cái bước đi của chúng ta rất rõ ràng. Đó gọi là trợ pháp.
Còn về sinh ngữ học, về Pháp ngữ thì nó gọi là, cái động từ đó thì gọi là trợ động từ, thì như vậy chúng ta thấy nó, những cái trợ pháp và trợ động từ nó gần giống nhau, để mà trong cái sự tu tập của chúng ta.
Cách thức tu tập pháp nào phải ra pháp nấy, không có giống nhau. Nghĩa là các pháp cũng không có giống nhau, pháp này nó không giống pháp khác, nhưng mà ở trong Phật pháp thì nó có thể nó câu hữu, nó câu hữu pháp này với pháp khác, để cho nó thực hiện, nhưng mà nó câu hữu nhiều nhất là nó, là chỉ có Định Niệm Hơi Thở là nó câu hữu với các pháp khác để nó hoàn thành được các pháp khác ở trong cái Định Niệm Hơi Thở.
Vì cái mục đích của Định Niệm Hơi Thở nó không dẫn chúng ta đi đến đâu được hết, mà nó chỉ dẫn chúng ta đi đến cái chỗ để trợ giúp cho các pháp khác mà thành tựu. Thí dụ như bây giờ chúng ta muốn nhập được cái Diệt Thọ Tưởng Định thì chúng ta cũng phải nương vào cái hơi thở, cái Định Niệm Hơi Thở, rồi chúng ta dùng pháp hướng, chúng ta nhắc cho đến khi mà ý hành của chúng ta ngưng hoạt động hoàn toàn, thì lúc bấy giờ chúng ta đã nhập Diệt Thọ Tưởng Định, chớ không phải là gì.
Nếu mà bây giờ, thí dụ như bây giờ chúng ta nương vào cái hơi thở, nhờ cái Định Niệm Hơi Thở, chúng ta nương vào ở trong hơi thở, tâm chúng ta bám chặt trong hơi thở đó, rồi chúng ta lại nhắc, lại hướng tâm, lại nhắc “Tịnh chỉ hơi thở, hơi thở phải ngưng đi, các hành ở trong thân ngưng đi!” Đó là thân hành phải ngưng.
(17:25) Do cái thân hành nó ngưng thì chúng ta nhập Tứ Thiền, nhờ cái hơi thở mà chúng ta nương vào đó để mà chúng ta nhập được Tứ Thiền, cho nên cái hơi thở gọi là cái pháp trợ duyên cho các pháp khác.
Cho nên sau này thì lần lượt Thầy dạy về cái giới hành, thì Thầy sẽ dạy về cái pháp Định Niệm Hơi Thở, nó trợ duyên để chúng ta biết cách nương vào hơi thở mà tu tập. Cho nên từ lâu tới giờ, thì hầu hết là các con muốn được tu tập, được rèn luyện từng cái hơi thở rất nhiều, ổn định hơi thở, tập hơi thở chậm, dài, ngắn, rồi tạo tụ điểm cũng bằng hơi thở của mình bằng mọi cách. Đến giờ này thì bắt đầu dạy về giới hành, thì hơi thở mới thấy là một cái quan trọng cho cái bước đường tu tập vì nó là trợ pháp cho tất cả các pháp ở trong Phật pháp.
Ở đây có nghĩa là Thầy trả lời chung cho sự giống nhau và khác nhau của các pháp. Còn trả lời riêng mỗi pháp, giống nhau khác nhau từng pháp này đối với pháp khác, có pháp thì giống nhau, với pháp này, pháp kia nó giống nhau từng pháp, thì khi nào mà Thầy có cái dịp mà Thầy giảng rộng ra, hoặc là soạn viết thành sách thì mới giảng từng pháp.
Còn bây giờ thì chúng ta nó không có thì giờ bởi vì Thầy dự định rằng Thầy sẽ cố gắng Thầy giảng cái thời gian ngắn nhất làm sao cho các pháp hành này, để cho mấy con được học tập trong một tháng cho nó xong, để rồi thì mấy con còn biết bao nhiêu công việc để tu tập và cũng còn biết bao nhiêu trở về trụ xứ để mà lo tu tập. Biết được cái pháp hành rồi thì dù ở đâu thì các con cũng sẽ tu rất tốt, chứ không có gì hết. Sợ khi mình không biết, mình tu sai, mình mới đi lạc vào những cái con đường sai mà thôi.
Bây giờ thì Thầy chỉ trả lời chung cho biết rằng là các pháp thì nó giống nhau khác nhau vậy thôi, chớ còn sau này thì lần lượt Thầy giảng tới về Định Niệm Hơi Thở, rồi về Định Vô Lậu thì lúc bấy giờ nó câu hữu với cái pháp nào như thế nào, thì Thầy sẽ dạy cái riêng cái chung của nó cho nó rõ ràng. Còn bây giờ thì chúng ta lướt qua để chúng ta còn phải học nhiều cái điều kiện khác nữa, chớ không có thì giờ mà chúng ta học hết.
(19:46) Về phần tu định, bây giờ cô Út hồi nãy hỏi có 16 loại định đó, thì bây giờ thầy mới nhắc lại:
Về phần tu định, 16 loại định thì định Chánh Niệm Tỉnh Giác là tu trước tiên, chớ không phải là cái Định Niệm Hơi Thở là tu trước tiên đâu. Cái Chánh Niệm Tỉnh Giác là tu trước tiên đó. Và cái định Diệt Thọ Tưởng Định là cái định tu sau cùng, đó thì các con thấy chưa. Chớ không phải chúng ta từ lâu, từ hồi nào đến giờ chúng ta tu sai, tu nó không đúng cách, cho nên chúng ta lấy cái trước làm cái sau, mà lấy cái sau làm cái trước.
Cho nên về pháp chúng ta tu tập thì Tứ Chánh Cần tu trước, mà về định thì chúng ta tu cái định Chánh Niệm Tỉnh Giác tu trước, bởi vì cái định Chánh Niệm Tỉnh Giác nó ngăn chặn không có cho các pháp ác sanh, đó thì cho nên nó hợp với cái Tứ Chánh Cần. Còn nếu mà không có cái pháp mà nó hợp với Tứ Chánh Cần thì làm sao mà nó ngăn chặn được các ác pháp sanh. Cho nên nó là Chánh Niệm Tỉnh Giác, nó ngăn chặn nó không cho sanh, đó. Thì về thiền định thì chúng ta phải thấy rằng định Chánh Niệm Tỉnh Giác là phải tu trước và định Diệt Thọ Tưởng Định là tu sau cùng.
(21:06) Trong các thiền định của Phật, loại thiền định nào cũng có sự kết hợp với các pháp môn khác, nghĩa là nó câu hữu với các pháp môn khác. Thí dụ như Chánh Niệm Tỉnh Giác nó câu hữu với cái Tứ Chánh Cần thì nó ngăn chặn các pháp ác, chúng ta thấy rất rõ. Đó như vậy, Thầy giảng như vậy các con suy ngẫm các con thấy Thầy giảng có sai không? Nó rất cụ thể, nó rất rõ ràng, nó phải câu hữu.
Tức là cái danh từ câu hữu là trong kinh, chớ đó là cái danh từ kết hợp. Nghĩa là chúng ta lấy cái định Chánh Niệm Tỉnh Giác đó mà chúng ta kết hợp với cái Tứ Chánh Cần, thì chúng ta biết rằng cái Tứ Chánh Cần nó sẽ dứt các ác pháp, nó không có cho sanh khởi các ác pháp, nó không cho các ác pháp sanh khởi.
Đó thì chúng ta thấy quá rõ ràng và cụ thể, chớ không phải còn cái mơ hồ như các vị mà giảng thiếu kinh nghiệm mà giảng không ra cái chỗ này. Cho nên ở đây nó cụ thể lắm.
Trong các thiền định của Phật, loại thiền định nào cũng có sự kết hợp với các pháp môn, câu hữu, không có định nào mà tu riêng rẽ. Nghĩa là cô Út hỏi có thứ Thiền Định nào mà tu riêng rẽ không? Cho nên vì vậy mà Thầy trả lời rằng nó câu hữu, nó kết hợp, nó tu chung với các pháp khác, chớ nó không có riêng rẽ nó tu độc lập mình nó.
Từ lâu thì các con cứ nghĩ rằng mình ngồi mình hít thở hít thở, mình chỉ biết như vậy đó, mình biết hơi thở ra, hơi thở vô vậy, đó là tu riêng rẽ, đó là sai đó các con. Cái mục đích mà nếu mà chúng ta giữ được cái hơi thở, nó không khởi một cái niệm nào ở trong đầu chúng ta đó, nó hoàn toàn nó diệt được các Tầm ấy, thì lúc bấy giờ chúng ta biết rằng đó là chúng ta đã câu hữu với cái Tứ Chánh Cần rồi, để mà chúng ta ngăn chặn các pháp ác ở trong hơi thở.
Thì hiểu rõ như vậy thì chúng ta biết nó phải có cái sự câu hữu kết hợp với cái pháp kia. Chớ giờ nó tu hơi thở mà nó hít thở hít thở mà nó không vọng tưởng, vậy thì cái kết quả nó đem lại cái gì đây? Cho nên chúng ta thở riết mà chúng ta không biết nó kết quả, chúng ta cứ ngỡ rằng nó hết vọng tưởng là nó vào định à? Định gì?
Nó phải nhằm có cái mục đích giải thoát thân tâm của chúng ta chớ, còn cái này nó hít thở như vậy, rồi bắt đầu cứ ngồi như vậy hoài như vậy, cứ hít thở hít thở từ ngày này sang ngày khác, không vọng tưởng rồi nó, bây giờ nó kết quả cái gì đây? Chúng ta không thấy. Nghĩa là nó ngăn chặn không cho các ác pháp sanh ra cho nên tâm chúng ta được giải thoát, thân chúng ta giải thoát chứ gì? Nó rõ ràng cụ thể, nó có cái nghĩa giải thoát của nó trong nó.
Còn cái này nó không có cái nghĩa giải thoát gì hết, mà chúng ta cứ chỗng khu mà hít thở, hít thở, rồi đếm 1,2,3,4. Có người ngồi 2, 3 tiếng đồng hồ ngồi hít thở mà không biết cái giải thoát, vậy giải thoát cái gì. “Tôi tu thiền định hơi thở tôi vậy!” Hay hoặc cái người niệm Phật, niệm riết để cho cái tâm nó nhất niệm ở trong hơi thở. Mà cái giải thoát này là giải thoát cái gì, hay là chờ chết để Đức Phật Di Đà rước mình về cõi cực lạc? Chuyện đó là chuyện mơ hồ rồi, cho nên nó không đúng rồi.
Vì vậy cho nên chúng ta phải biết rằng, khi mà chúng ta tu tập là phải kết quả nào? Là các ác pháp ngăn chặn không cho sanh. Mà nếu mà có một niệm thì nó đã sanh cái pháp ác rồi, dù là cái niệm gì mà nó sanh trong đầu chúng ta, trong lúc đó mà chúng ta nương vào hơi thở vậy mà nó sanh ra, thì đó là ác pháp rồi. Mà ác pháp thì tức là chúng ta không ngăn chặn thì làm sao giải thoát? Làm sao giải thoát được thân tâm của chúng ta?
Mà đã có một niệm sanh khởi thì tức là cái niệm đó là cái nhân quả rồi. Mà hễ nhân quả thì tức là nó đã, làm sao mà chúng ta đoạn dứt được cái chỗ mà tái sanh luân hồi? Đó chúng ta thấy rất rõ. Cho nên cái tu Phật chúng ta phải hiểu được cái quả của nó như thế nào, chớ người nói “Tui tu tui chẳng có quả gì hết!” thì tu cái gì? Cho nên chẳng có cần biết mình tu chứng cái gì, quả cái gì. Đâu phải!
Tôi tu tôi giải thoát, tôi biết tâm tôi không tham tôi biết không tham, mà không sân tôi biết không sân. Chớ này mình tu mà mình cũng chẳng biết tham, sân, si gì. Mình cũng không biết cái ác pháp nó còn hay là hết mình cũng chẳng biết, cứ ngồi hít thở hoài đó mà không biết mình giải thoát cái gì mà hít thở. Đó là cái tu ngu si, cái tu không trí tuệ.
(24:46) Còn ở đây đạo Phật dạy chúng ta câu hữu, dùng cái Định Niệm Hơi Thở mà câu hữu, để mà chúng ta ngăn chặn được cái pháp đó thì nó có ý nghĩa của nó. Rồi bây giờ chúng ta, thí dụ như dùng cái Định Niệm Hơi Thở mà câu hữu với Nhị Thiền là diệt Tầm Tứ, thì tức là chúng ta đang ở trong cái chỗ hoàn toàn không có ác pháp chứ gì? Nó rõ ràng.
Mà bây giờ mà nếu mà dùng cái Định Niệm Hơi Thở, tức là cái hơi thở chúng ta mà ly các loại hỷ của chúng ta, hỷ tưởng của chúng ta, thì tức là chúng ta nhập Tam Thiền chứ gì. Mà dùng cái hơi thở để mà chúng ta tịnh chỉ các hành của hơi thở, ngưng hoạt động hoàn toàn, thì đó là chúng ta nhập Tứ Thiền vì cái quả của nó sẽ đưa chúng ta nhập Tứ Thiền. Mà nhập Tứ Thiền là nó mục đích nó sẽ đoạn dứt cái gì? Thất Kiết Sử hay là Ngũ Triền Cái hay là gì ở trong đó chớ? Nó làm cho thân tâm chúng ta được giải thoát chớ?
Cho nên mỗi một cái thiền định như vậy nó đều nói lên được cái đoạn dứt cái gì, Hạ Phần Kiết Sử hay là Thượng Phần Kiết Sử hay là Ngũ Triền Cái. Nó cho chúng ta biết được cái chuyện mà chúng ta làm đó nó đạt được cái gì, nó kết quả được cái ác pháp, nó ly, nó đoạn dứt như thế nào, thì lúc bấy giờ chúng ta mới nhập được cái thiền định đó. Còn bây giờ chúng ta nhập thiền định mà chúng ta không biết là dứt các ác pháp như thế nào thì cái đó là tu ngu si.
Đó thì bắt đầu chúng ta thấy rằng, nghĩa là chúng ta tu thiền định, mà đối với thiền định của đạo Phật thì nó không có cái định nào riêng rẽ. Còn bây giờ chúng ta cứ hít thở mà biết cái hơi thở ra vô, mà nó không biết cái kết quả của nó là ở chỗ mức nào đó, thì như vậy là cái người đó tu cái thiền định riêng rẽ, nó không có cái câu hữu kết hợp.
(26:17) Định Niệm Hơi Thở là một loại thiền định trợ duyên. Đó bây giờ Thầy mới, bởi vì cô Út có hỏi Thầy: “Kính bạch Thầy, trong 16 loại định, định nào tu trước, định nào tu sau, định nào kết hợp với định nào để tu một lượt, định nào tu riêng một mình?” Đó có sự hỏi tu riêng một mình đó.
Cho nên ở đây Thầy mới xác định là không có cái định nào mà tu riêng một mình.
Rồi: “Định nào làm trợ duyên cho các định khác?“ Đó, bây giờ định nào mà làm trợ duyên, nếu mà không có hỏi câu này thì Thầy không có trả lời cái chỗ này. Cho nên vì vậy mà hỏi định nào làm trợ duyên, cho nên Thầy trả lời Định Niệm Hơi Thở là là một loại thiền định trợ duyên cho các thiền định khác.
Giống như động từ avoir, nhờ nó mà chia các loại động từ khác. Thì trong Pháp ngữ, thì các thầy cũng có học, các thầy biết đó, là chúng ta học avoir với être thì nó là hai cái động từ để mà chia cho các động từ khác, gọi là trợ động từ.
Còn ở đây chúng ta học Định Niệm Hơi Thở với Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, nhất là Định Niệm Hơi Thở là cái định mà nó trợ cho tu tập để giúp cho các định khác mà thành tựu viên mãn. Còn cái Định Chánh Niệm Tỉnh Giác nó chỉ giúp một phần nhỏ mà thôi. Cho nên phải nói rằng cái Định Niệm Hơi Thở là cái định trợ duyên rất lớn cho các pháp ở trong cái sự tu tập của chúng ta. Chớ nó không có riêng rẽ một mình nó, vì nó riêng rẽ một mình nó không có mang kết quả gì được hết. Định Niệm Hơi Thở rất quan trọng đối với các loại thiền định. Nghĩa là các loại thiền định muốn đạt được thì cái Định Niệm Hơi Thở là cái định niệm rất là quan trọng.
Cho nên chúng ta mà muốn tu tập thì chúng ta phải rèn luyện cái Định Niệm Hơi Thở, tập luyện cái Định Niệm Hơi Thở rất là kỹ lưỡng. Do cái sự tập luyện kỹ lưỡng của cái Định Niệm Hơi Thở thì sau này chúng ta dễ dàng tu tập lắm. Cho nên hầu hết là Thầy đã rèn luyện một thời gian rất dài với cái Định Niệm Hơi Thở, cho nên bây giờ dạy thì các con thấy Thầy không có nói về Định Niệm Hơi Thở. Nhưng mà nhờ cái căn bản mà các con đã rèn luyện được cái Định Niệm Hơi Thở đó, mà bây giờ các con sẽ tu nó dễ dàng lắm.
Như ngày nào, các con cũng thấy rằng như cô Diệu Thảo nè, cô Diệu Tịnh nè, mấy cô này về đây mà tu về Định Niệm Hơi Thở, mà diệt Tầm Tứ, coi như là diệt cái Tầm của mình đừng có cho cái vọng tưởng xen vào, thì suốt 3, 4 năm trời không phải là một chuyện dễ của mấy cô đâu, nhưng mà hôm nay, từ 20 phút hay 30 phút mà không có một vọng tưởng xen vào. Thì các con thấy rằng, cái phần thứ nhất là chúng ta phải nhìn thấy là cái tâm chúng ta có xả được một phần rồi đó. Và kế đó là cái thuần ở trong cái hơi thở, cho nên chúng ta biết áp dụng đúng pháp là đúng cái pháp hướng, để nó trợ duyên nó làm cho cái Tầm Tứ chúng ta nó không sanh khởi ra.
(29:08) Và bây giờ Thầy lại dạy về Tứ Chánh Cần để cho biết được cái kết quả của cái sự tu của các pháp này, nó giúp cho chúng ta ly các pháp ác, đoạn dứt các pháp ác để tăng trưởng các pháp thiện. Đó là cách thức rất là rõ ràng và cụ thể.
(29:22) Hôm nay Thầy dạy về cái phần Thân Hành Niệm. Nhưng mà trong bài kinh Thân Hành Niệm này, thì Thầy thấy rằng cái bài kinh mà Phật dạy về Thân Hành Niệm, thì cái bài kinh đó nó nhiều cái mà, thay vì nói về Thân Hành Niệm thì cái hành động của thân, thì trong cái bài kinh đó nó lộn xộn như thế này nè. Nó có nói thân rồi nói tâm, Tâm Hành Niệm.
Thí dụ như nó nói về Thân Hành Niệm, mà nếu mà nói Thân Hành Niệm thì nói cái hành động của chúng ta, đi, đứng, kinh hành, mang y mặc bát, đó là cái Thân Hành Niệm rồi. Rồi bây giờ nói đến cái chỗ hơi thở thì nó cũng là Thân Hành Niệm rồi. Rồi bắt đầu mà nói đến các cái thọ thì nó cũng gọi là Thân Hành Niệm, thì nó là sai.
Hoặc là nó nói đến cái tâm của nó, tâm tôi có tham tôi biết tham, tâm của tôi có sân tôi biết sân, đó là Tâm Hành Niệm chớ không phải là Thân Hành Niệm. Cho nên trong cái bài kinh này, tuy rằng cái bài kinh nguyên thủy nhưng mà nó không đúng cái cách của cái Thân Hành Niệm, nhưng mà nó lấy cái tên rằng Thân Hành Niệm, thì như vậy là Thầy không chấp nhận cho cái bài kinh đó là đúng.
(30:52) Vì vậy mà Thầy thấy hiện bây giờ, thì Thầy sẽ nhắc đến một vài cái pháp thiện và pháp ác, để cho qua những cái bài Kinh Pháp Cú, để cho các Thầy rút tỉa những cái ác, và cái thiện của con đường mà tu ở Tứ Chánh Cần cho rõ ràng hơn. Rồi sau đó Thầy sẽ dạy về cái Thân Hành Niệm, để chúng ta biết rằng từ cái chỗ đó mà chúng ta ngăn chặn được các pháp ác.
Bởi vậy nói về Tứ Chánh Cần thì phải nói về ác với thiện, và cái hành động để ngăn chặn được các pháp ác, và tăng trưởng các pháp thiện, để mà chúng ta hiểu, để mà chúng ta biết cách tu tập.
(31:40) Ở đây, cái đầu tiên là cái pháp ác đầu tiên, là chúng ta phải học về cái ngu của chúng ta. Tức là trong cái ý của chúng ta nó có ba cái pháp ác đó, ba cái pháp ác đó là tham, sân, si. Mà si tức là cái ngu của mình.
Cho nên ở đây trong cái câu Kinh Pháp Cú dạy: “Đêm rất dài với kẻ mất ngủ, đường rất xa với kẻ lữ hành mỏi mệt, cũng thế, vòng luân hồi sẽ nối tiếp vô tận với kẻ ngu si, không minh đạt chánh pháp”.
Nghĩa là ở đây cái câu Pháp Cú của Phật dạy, cái người mất ngủ thì thấy đêm nó trằn trọc, đêm nó dài nó không có, nó lâu sáng quá. Mà cái người đi đường mà mỏi mệt rồi, thì thấy con đường nó xa vời vợi. Còn mình còn khỏe thì con đường xa mình không thấy xa đâu.
Mà mình không phải là người mất ngủ, mình là người mà nằm xuống mà ngủ, thì sao mà thấy cái đêm nó ngắn quá, mới nằm xuống là đã là sáng rồi, không có để cho mình ngủ được nữa, cho nên đêm nó ngắn. Còn cái người mất ngủ cứ nằm trằn trọc mà ngủ không được, mong cho nó sáng, mà nó không sáng, đêm nó dài.
Thì cái vòng luân hồi nó sẽ nối tiếp vô tận mãi với cái người ngu không có thấy được nó, cho nên cứ đắm đuối chạy, ham mê theo cái dục lạc của thế gian, ham mê cái này, ham mê cái kia, chớ chúng ta chưa biết rằng cái luân hồi kiếp này nó sang kiếp khác, nó cứ lôi cuốn chúng ta mãi vô ở cái chỗ mà vô tận của cái luân hồi đó.
Chúng ta không thấy, cũng như cái người mà không thấy cái đêm dài, cũng như không thấy cái đường xa, khi cái người đó chưa có mỏi mệt, chưa có mất ngủ.
Những người phàm phu ngoài đời họ là những người chưa mất ngủ, cho nên còn ham ngủ, cho nên thấy đêm ngắn, những người ở ngoài đời họ chưa thấy cái đường xa, cho nên họ chưa phải là người mỏi mệt, chưa biết khổ. Còn chúng ta là những người hiểu và biết khổ, cho nên chúng ta mới thấy rằng mỗi một kiếp người mà luân hồi nối tiếp nhau cái sự đau khổ này, nó vô tận như vậy.
Cho nên đó là cái ngu của mình, cái ngu không thấy, cho nên không thấy, cho nên vì vậy mà chúng ta không vui lòng, không hăng hái, không tinh tấn mà ngăn chặn các pháp ác, để cho tâm chúng ta luôn luôn mãi sanh cái ham muốn cái này cái kia, cái nọ, chạy theo những cái ăn, cái uống, cái ngủ, cái nghỉ, cái vui sướng của cuộc đời, chạy theo những cái đó.
(34:04) Cho nên đó là cái ngu của chúng ta, không có thấy rằng cái nối tiếp cái sự luân hồi đau khổ mỗi kiếp người không có sung sướng gì hết. Đó là cái ngu.
Cho nên hằng ngày mà chúng ta tu tập, chúng ta thấy được cái khổ sở này, thì chúng ta không có còn sung sướng gì mà chạy theo cái dục lạc của thế gian, ham thích cái thế gian nữa. Miếng ăn chúng ta cũng không thấy ngon nữa, cho nên chúng ta không có thèm cái này hoặc cái khác, không có thèm một cái gì hết, mà chúng ta chỉ còn lo làm sao chấm dứt được sự luân hồi.
Vì chấm dứt được nó nó mới hết khổ, mà không chấm dứt được nó thì đời này cũng khổ, đời sau cũng khổ, dù chúng ta có vua chúa, giàu sang cách gì đi nữa thì chúng ta cũng khổ, chúng ta có đầy đủ cái vật chất thế gian này thì chúng ta vẫn khổ, không bao giờ mà chúng ta hết khổ. Đừng nói người giàu đầy đủ là sung sướng đâu, không sung sướng. Mà đừng bảo rằng người nghèo không có hột cơm ăn là sung sướng đâu, cũng không sung sướng đâu. Người nào cũng khổ ở trong cái vòng luân hồi của nó.
Biết rõ như vậy, tức là chúng ta mau mau, ngăn chặn các pháp ác. Mà các pháp ác đó đâu có gì mà khó mà không ngăn chặn. Chúng ta có pháp tu tức là Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, Định Niệm Hơi Thở, Định Vô Lậu, là chúng ta đã đoạn trừ được các pháp ác đó liền. Thế mà chúng ta không siêng năng, không tinh tấn để tu tập để chấm dứt cái vòng luân hồi này, cái vòng mà do chúng ta ngu si, mà cứ đắm đuối, cứ để cho pháp ác sanh khởi sanh khở trong tâm chúng ta mãi. Phiền não, đau khổ, ham muốn, nhớ thương, tất cả những cái này nó làm cho chúng ta đau khổ triền miên, bất tận.
Đó thì hôm nay, đầu tiên nói về cái sự đau khổ của cuộc đời, mà chúng ta ngu si chúng ta không biết, do đó mà chúng ta không chịu ngăn chặn các pháp ác trong tâm của chúng ta.
Cái câu Pháp Cú thứ hai ở đây nhắc về cái ái kiết sử: “Đây là con ta, đây là tài sản của ta. Kẻ phàm phu thường lo nghĩ như thế, nhưng chẳng biết chính ta còn không thiệt có, huống là con ta hay tài sản của ta”.
Đó là cái câu Pháp Cú Phật dạy như vậy. Nghĩa là chúng ta thấy con mình mình thương nè, cha mẹ mình nè, tài sản mình nè, cái gì cũng lo nghĩ cái này, cái nọ, cái kia, lo mà làm cho có của, có cải, có nhà có cửa, có xe có cộ, rồi ăn, rồi uống này kia, tưởng là cái đó là thiệt có, nhưng chính thân ta còn không giữ được, huống hồ là những vật đó, để mà có làm gì, có rồi cũng phải bỏ mà thôi, chứ có làm gì?
Chúng ta đem cái sức ra làm của cái tài sản bao nhiêu thì ngày nào đó chúng ta cũng bỏ, không có mang theo được gì. Thế mà những cái chuyện mà chúng ta ngu si như vậy, để mà chúng ta không nỗ lực thực hiện, ngăn chặn các pháp ác đó, ngăn chặn những cái tình thương đó, ngăn chặn những cái mà làm chúng ta không ra khỏi luân hồi này.
Đó thì ở đây, câu thứ hai để nhắc nhở cái sự tu tập của chúng ta, phải nỗ lực hằng ngày, phải siêng năng từng phút, từng giây để ngăn chặn các pháp ác đừng cho tăng trưởng, luôn luôn giữ gìn sống trong thanh thản, trong an ổn của cái thiện pháp.
(37:18) Câu kế của Kinh Pháp Cú: “Người ngu suốt đời gần gũi người trí vẫn chẳng hiểu Chánh Pháp, ví như cái muỗng múc thuốc thang luôn mà chẳng bao giờ biết được mùi vị của thuốc thang”.
Chẳng hạn các con gần được Thầy, nhắc đi nhắc lại như thế này, mà các con không chịu buông xả, không chịu ngăn chặn các pháp ác, không chịu đoạn dứt các pháp ác, mà cứ sống theo cái dục lạc thế gian, sống nhớ sống nghĩ, sống thương sống ghét, sống ham thích cái này cái nọ cái kia, thì cũng như là, ví như cái muỗng mà múc thuốc, cái muỗng múc thuốc nhưng nó chẳng biết cái mùi vị của thuốc thang như thế nào hết à!
Gần bên Thầy mà chẳng có được cái mùi vị giải thoát nào hết thì cũng như cái muỗng mà múc thuốc, cuối cùng là cái muỗng nó cũng chẳng biết cái vị thuốc đó là thuốc trị cái gì nữa, nõ cũng chẳng biết nữa. Gần Chánh Pháp mà không thực hiện được Chánh Pháp giải thoát, thì cũng ví như cái muỗng mà múc thuốc để mà bán thuốc cho người ta chớ còn nó chẳng có gì hết, đó thì thì rất uổng cuộc đời cho các thầy và các con.
Câu Pháp Cú kế: “Người trí dù chỉ gần gũi người trí trong khoảnh khắc cũng hiểu ngay được Chánh Pháp, chẳng khác gì cái lưỡi mới tiếp xúc với thuốc thang, đã biết ngay mùi vị của thuốc thang.”
Đó Đức Phật ví dụ, hồi nãy là cái muỗng múc thuốc, bây giờ là cái lưỡi chúng ta muốn nếm thuốc.
Cho nên khi mà cái người trí, cái người mà có trí thông minh người ta gần cái bậc trí, bậc tu hành, người ta chỉ nghe cái lời của một vị mà tu hành giải thoát, người ta nói ra rồi, thì ngay đó người ta nhận ra được Chánh Pháp liền. Cho nên người ta biết được cái mùi vị của thuốc đó liền, vậy mà ví như cái lưỡi của chúng ta, bỏ miếng thuốc đó vô thì biết cái mùi vị thuốc đó ngon, ngọt, cay đắng như thế nào, biết liền. Còn cái người ngu, thì họ như cái muỗng, chớ không phải là cái lưỡi.
(39:14) Cho nên cái người trí thì họ là cái lưỡi, cho nên từ đó họ bỏ hết, họ nỗ lực họ thực hiện, các cái pháp ác ngăn chặn không cho sanh khởi, không cho tăng trưởng. Còn cái người ngu thì cứ luôn để cho nó tăng trưởng, tăng trưởng mãi mãi mãi tăng trưởng hoài, thì đó là người ngu chớ không phải người trí. Người ngu thì không phải ví như cái lưỡi được, mà ví như cái muỗng múc thuốc mà thôi.
Đó là những cái mà để chúng ta thấy được chúng ta là người khôn hay là người ngu, hay là người mê hay người sáng. Một người mà sáng thì luôn luôn ngăn chặn các pháp ác, thực hiện cái pháp. Bởi vì những cái pháp này nó đâu phải là những cái pháp khó khăn, nó đâu có làm chúng ta phải điên khùng, mà chúng ta ngăn chặn được là thấy có giải thoát hoàn toàn, thấy tâm hồn có thanh thản an lạc liền tức khắc.
Còn cái người ngu thì luôn luôn cứ để cho ác pháp xen lẫn, khởi ham muốn cái này, cái kia, cái nọ, chạy theo những cái dục lạc của thế gian, đó là cái người ngu, cho nên nó là chỉ là cái muỗng múc thuốc chớ không phải là cái lưỡi nếm thuốc.
Đó là những cái pháp mà Phật đã nhắc nhở chúng ta để thực hiện cái Tứ Chánh Cần, để nhắc nhở chúng ta để thực hiện sự giải thoát của tâm hồn của mình, thân tâm của mình.
Câu kế nữa, “Khi ác nghiệp chưa thành thục, thì người ngu tưởng như đường mật, nhưng khi ác nghiệp đã thành thục, thì họ nhất định phải chịu khổ, đắng cay”.
Đó thì cái câu này, bây giờ đó, cái ác nghiệp nó chưa thành thục, cho nên chúng ta thấy những cái ham muốn cái này cái kia, ham muốn xe cộ, ham muốn ăn uống, ham muốn cái này cái kia, ham muốn đủ loại vật chất ở trên thế gian này, thì chúng ta thấy nó như đường mật, nó vui lắm, nó sung sướng lắm. Thấy người ta cười giỡn, người ta bài bạc, thấy người ta hút sách, thấy người ta đi tới, đi lui, thì mình mừng lắm, mình thấy mình vui theo.
Nhưng không ngờ đó là cái ngu của mình, tưởng nó như đường mật, nhưng mà thật sự ra khi mà ác nghiệp nó đến rồi, thì lúc bấy giờ nhất định là cái người ngu đó phải chịu thọ khổ đắng cay. Đời không có ai mà tránh khỏi những cái sự mà nhìn cái dục lạc của thế gian là đường mật, mà thoát khổ đâu. Người nào mà chạy theo cái dục lạc của thế gian, chạy theo những cái vật chất của thế gian, thì người đó phải chịu nhiều đắng cay.
Còn cái người nào mà không có chạy theo vật chất của thế gian, không thấy rằng cái dục lạc của thế gian là đường mật, thì người đó thoát khổ. Đó thì, hôm nay, những cái câu kinh Pháp Cú để nhắc nhở chúng ta tu tập trong các cái pháp của Phật, tức là Tứ Chánh Cần để nhắc nhở chúng ta biết cái thiện pháp, cái ác pháp mà ngăn chặn.
(41:52) Một câu Pháp Cú kế nữa: “Một đàng đưa tới thế gian, một đàng đưa tới Niết Bàn, hàng tì kheo đệ tử Phật hãy biết rõ như thế, chớ nên tham đắm thế lợi, nên chuyên chú vào đạo giải thoát.”
Ở đây, cái câu Pháp Cú này khuyên lơn chúng ta hai cái nẻo rất rõ ràng mà trong Đường Về Xứ Phật Thầy đã vạch ra thấy rõ, đời phải ra đời, đạo phải ra đạo. Đường đời phải như thế nào mà đường đạo phải như thế nào. Còn cái này, đạo nó chẳng ra đạo, mà đời nó chẳng ra đời. Chúng ta đã quyết tâm chọn lấy đường đời, để đi hướng đi về nẻo Niết Bàn, chớ không phải đi về dục lạc của thế gian nữa. Và đi về nẻo Niết Bàn thì chúng ta phải sống như thế nào cho đúng cách, phải tu tập như thế nào để đạt được.
Và hôm nay các con và quý thầy cũng đã rõ ràng con đường mà chúng ta hướng về nẻo Niết Bàn là phải, chúng ta phải thực hiện Tứ Chánh Cần. Phải không? Chúng ta đã thực hiện Tứ Chánh Cần thì con đường mà đi vào nẻo Niết Bàn thì tức là chúng ta sẽ đạt được kết quả ngay liền tức khắc, chớ không phải là không ngay liền.
Đó thì, hôm nay thì các thầy thấy rất rõ con đường mà đưa đến Niết Bàn là con đường mà chúng ta đang tu, đang thực hiện. Thì cái pháp mà chúng ta đang tu tập đầu tiên đó là Tứ Chánh Cần. Hằng ngày, hằng giờ, hằng phút, chúng ta ngăn chặn nó, không cho ác pháp sanh khởi, không cho tăng trưởng, thì đó là chúng ta đã tu tập thiền định. Mà thiền định thì sẽ đưa chúng ta đến chỗ chấm dứt sanh tử, chấm dứt luân hồi.
Hôm nay nghe rõ các pháp hành như vậy, thì Thầy mong rằng các con bên nữ, cũng như là các thầy bên nam, hãy nỗ lực thực hiện cho kỳ được, chấm dứt, không có thấy đời là thương, là ghét, là giận, là hờn gì nữa hết, mà phải thấy đời là một cái hình thức nhân quả, vay nợ trả nhau mà thôi.
Cho nên cái câu Pháp Cú hồi nãy, mình thấy rằng, đây là con của mình, đây là tài sản của mình, cái đó là cái khổ đau nhất, cái đó là cái không sáng suốt, cái còn bị chấp đắm, không sáng suốt. Mà mình hãy nhìn tất cả không phải gì cả hết, mà là nhân quả mà thôi, Thầy thường thường nhắc nhở các thầy rất nhiều, nó là nhân quả. Cho nên, chúng ta phải thấy nhân quả.
Chúng ta tu Tứ Vô Lượng Tâm cho nên chúng ta không làm ngơ trước sự đau khổ của người khác, trong đó có những người thân của mình. Chúng ta không làm ngơ trước sự đau khổ của người khác, nhưng chúng ta không có để đó là của cải của mình, tài sản của mình, đó là con của mình, đó là cha mẹ của mình, thì nó sẽ không được giải thoát hoàn toàn theo đạo Phật.
(44:57) Cho nên ở đây con đường mà đưa đến Niết Bàn là con đường phải đoạn dứt Thất Kiết Sử, bảy cái kiết sử thì ái kiết sử phải đoạn dứt, và cái tâm tham, cái ác pháp mà ở trong ác pháp tham, sân, si, thì cái tâm tham ái này, cái tâm tham dục này nó nằm rất trọn vẹn ở trong tất cả mọi cái ác pháp. Thương ghét cũng là ác pháp, chớ không phải nói thương là thiện pháp, mà ghét là ác pháp, cho nên phải rõ được như vậy.
Và qua những lời dạy Pháp Cú này, chúng ta mới cố gắng mà nỗ lực thực hiện cho kỳ được, làm cho được, để mà được giải thoát.
“Người đã giải thoát hết thảy, là đã dứt hết thảy buộc ràng, là người đi đường đến đích, chẳng còn chi lo sợ.“
Nghĩa cái người mà gọi là giải thoát, là cái người dứt hết các sự buộc ràng, tức là Thất Kiết Sử, thì như vậy mới có thể mà gọi là giải thoát. Chớ không phải giải thoát là chúng ta ngồi thiền nhập định, có thần thông, phép tắc gọi là giải thoát đâu, không phải đâu. Mà giải thoát…
(46:06) Muốn dứt hết các ràng buộc đó thì chúng ta phải tu Tứ Chánh Cần. Bởi vì chúng ta biết rằng các cái sự ràng buộc đó đều là ác pháp, nó không phải là thiện pháp. Cho nên chúng ta tu tập Tứ Chánh Cần là luôn luôn lúc nào chúng ta cũng giữ gìn ở trong pháp Chánh Niệm Tỉnh Giác, để cho các pháp ác không sanh khởi, và khi nó đã sanh khởi thì chúng ta mau mau dùng Định Vô Lậu để mà quét sạch nó ra, đập nó xuống, không có cho nó tăng trưởng.
Đó là chúng ta có những pháp tu tập như vậy đó. Có những cái pháp có giá trị để tu tập, để giữ cho tâm chúng ta luôn luôn được giải thoát hoàn toàn, được thanh thản được an lạc, nó không có một chút gì lo sợ một chút gì thương ghét, một chút gì giận hờn trong đó nữa. Đó là chính các con phải nỗ lực thực hiện các pháp này.
Thầy nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần, phải nỗ lực thực hiện. Đây là pháp đầu tiên để chúng ta đi vào thiền định, cũng là pháp đầu tiên để thực hiện con đường giải thoát. Bắt đầu vào, bắt tay vào là chúng ta đã thấy ngay có sự giải thoát liền. Nghĩa là không tu thôi, tu là có giải thoát liền ngay tức khắc.
Cho nên phải mạnh dạn, phải nỗ lực, phải thực hiện cho kì được, chớ không thể nào mà tu sơ sơ được, tu ít được, mà tu hết sức mình, để sớm chừng nào tốt chừng nấy, Vì các con còn phải cứu giúp biết bao nhiêu người đang chết đuối, đang sắp sửa chết đuối ở trong Phật pháp này.
HẾT BĂNG
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Thời gian: 1998
Thời lượng: [1:02:14]
https://thuvienchonnhu.net/audios/phap-hanh-05-trang-thai-cua-bac-a-la-han.mp3
(0:00) “Những kẻ dũng mãnh, chánh niệm, tâm không ưa thích tại gia, ví như con ngỗng khi ra khỏi ao chúng bỏ lại cái ao, cái nhà, ao hồ, của chúng không có chút tiếc nhớ.”
Nghĩa là chúng ta rời khỏi, chúng ta mà mạnh dạn mà giữ Chánh Niệm ở trong cái Chánh Niệm Tỉnh Giác này để ngăn chặn các pháp ác, mà không ưa sống ở tại gia đình của mình. Tại gia tức là sống ở trong gia đình của mình: anh, em, cha, mẹ, vợ, con này kia, sống không bao giờ mà có thể chúng ta ra khỏi sự đau khổ này.
Cho nên ở đây, Thầy muốn nhắc cái câu Pháp Cú này ví như một con ngỗng mà nó rời cái ao nhà của nó, nó bỏ đi rồi, nó không còn nhớ tiếc chút nào hết. Nó cứ tiếp tục nó đi, luôn luôn hoài hoài theo dòng nước mà chạy đi.
Đó thì ở đây chúng ta ví mình cũng như một con ngỗng mà rời khỏi cái ao nhà đó rồi, thì mãi đi luôn chớ không có nghĩ trở lại như thế nào. Tuỳ duyên ở những cái người ở trong gia đình của mình, có duyên thì mình độ, tiếp tục độ họ để mà giải thoát, mà không duyên, bây giờ mình có ở trong nhà, mình có dạy bảo họ cũng chẳng nghe.
(1:08) Cho nên ngày xưa có một vị tỳ kheo khi xuất gia tu hành theo Phật thì ngài có vợ và sắp sửa sanh đứa con, mà ngài ra đi.
Thì lúc bấy giờ ngài đi tu thì bà vợ ở nhà sanh ra đứa con, thì sau ba năm ngài được cái đoàn chúng tăng đi về cái khu vực của cái quê của ngài ở, cái nơi gần bên nhà ngài ở, bởi vì ngày xưa Đức Phật du tăng khất sĩ, cho nên không có ở lâu một chỗ nào hết.
Cho nên từ ngày mà ngài theo Phật rồi đi từ xứ này đến xứ khác mà không có dịp trở về quê hương của mình. Hôm nay cái đoàn tu sĩ đó nó mới được trở về quê hương, thì ba năm rồi mới trở về đó.
Thì bà vợ của vị tu sĩ này, nghe tin rằng chồng mình trong cái đoàn tu sĩ này được trở về đây, mà chờ mãi không thấy ông ta về. Tưởng đâu là ông về được đây, thì ông thế nào ông cũng ghé ông thăm, nhưng mà không ngờ ông không ghé thăm.
Cho nên bà mới lần mò mới đi vào ở trong cái khu rừng nơi mà các vị tỳ kheo ở đó, để mà dò, dò hỏi, thì rõ ràng là chồng bà đang tu ở cái góc rừng đó.
Cho nên hôm đó thì bà mới sửa sang trang điểm rất đẹp, mặc đồ rất là sang đẹp, rồi đồng thời thì bà ẵm theo đứa con bà đã sanh ra, bà đã sanh ra đứa con. Sau khi đón đầu cái vị tu sĩ này, đón đầu chồng mình, thì bà nói những lời rất là ngon ngọt, kêu anh kêu em, rồi xưng em rất là ngon ngọt.
Nhưng mà vị tu sĩ này vì phòng hộ sáu căn, vì tu tập, cho nên đối với ngài đã quen đi với cái sự phòng hộ, cho nên luôn luôn mặt nhìn xuống mà không ngó lên.
(3:05) Do đó người vợ nói đã đời, tiếng nói rất là ngọt ngào, êm thắm vô cùng. Thế mà ông lẳng lặng ông bước đi, ông tránh qua, rồi ông bước đi, ông không hề nói một lời nói nào hết, mà cũng không hề là nựng con của mình như thế nào hết.
Mà khi ra đi thì con chưa sanh, mà bây giờ về con đã sanh ra mà cũng chẳng cần nhìn mặt nó ra như thế nào nữa. Con người tu sĩ của đạo Phật sao mà vô tình đến nỗi mà không thể tưởng tượng được!
Cho nên ông lách qua ông đi kinh hành, ông không có nhìn mặt vợ, cũng không có nhìn con như thế nào hết, mà không hỏi thăm rằng ba năm nay em đói khát sao, có ăn không, cũng không bao giờ hỏi thăm viếng cái gì cả, đi luôn.
Bà ta tức giận quá. Ông chồng tu theo đạo Phật này sao mà vô tình đến cái mức độ lời nói của mình ngọt ngào như đường, thế mà chẳng ra gì hết, ông chẳng biết đường mật nó ngọt như thế nào, mà bây giờ nói vậy mà ông chẳng có còn biết đường mật gì nữa hết.
Cho nên bà mới chạy tắt ở trong rừng, bà chạy ra bà đón đầu một lần nữa. Kỳ này bà không có ngọt ngào nữa, mà bà làm hung dữ.
Bà mới nói với ông chồng: “Từ ngày anh đi tu tới bây giờ đó, tui ở nhà tui sanh con, tui chịu cực khổ, tui nuôi nấng cho tới bây giờ. Thì bây giờ con anh tui trả anh nè, anh nuôi làm gì làm, tui không có cần nuôi nó nữa đâu, tui quá cực khổ rồi. Anh là con người bạc tình, bạc nghĩa, không có tình nghĩa gì hết!”
Cho nên bà ta nói như vậy rồi bà ta chọt cho đứa con đau, nó khóc ré lên, rồi bà quăng nó xuống đường, ngay giữa vị tỳ kheo đang đi, quăng xuống đường để nằm đó, rồi bà chạy, bà bỏ đi.
Vị tỳ kheo này lẳng lặng bước tránh qua rồi đi, chớ cũng không ẵm đứa con lên mà vỗ nữa, con nín đi hay này kia, cho nên đi luôn qua. Do đó bà thì bà đâu có bỏ con bà được, cho nên bà đau lòng. Khi nghe con nó nằm nó lăn khóc, thì bà đâu có chịu nổi. Cho nên chờ ông ta đi qua rồi, bà chạy ra bà ẵm con.
Bà mới nói: “Thiệt ra những bậc tu sĩ, những vị tỳ kheo đệ tử của Cồ Đàm thật là mới là bậc giải thoát, nó không còn dính mắc nữa!” Cho nên cuối cùng thì bà về bà nuôi con bà cho nó lớn đúng bảy tám tuổi, rồi bà gởi vào ở trong Tăng đoàn, đi theo Đức Phật mà tu. Còn bà thì bà xuất gia, xin Phật xuất gia theo bên nữ bà tu.
Cho nên cuối cùng bà cũng thành A La Hán, mà đứa con cũng thành chứng quả A La Hán. Cả gia đình người ta, vợ chồng, con cái đều thành quả A La Hán, là vì một cái hành động giải thoát của vị tu sĩ này đã độ vợ con mình tu tập.
(5:51) Còn nếu mà cỡ ông, vị tu sĩ này mà rờ rẫm con, hay hoặc là thấy quăng con khóc như vậy, động lòng gọi là từ bi của các con.
Cũng như bây giờ, các con thấy như bây giờ, có một số huynh đệ của mình vắng mặt mà không được ở đây học những cái pháp này, các con thì không thấy được nhân quả, cho nên thấy cũng thương xót, mình được học mà người khác không được học.
Cái lòng từ bi đó thì các con không thấy nhân quả, cho nên vì vậy mà mình ước ao cho được những người đó được nghe những cái pháp Thầy giảng dạy. Nhưng các con đừng có lo nghĩ, hãy lo cho mình đi, đừng có lo đi. Mà mình lo như vậy thì những người đó cũng không độ họ được gì, mà họ đủ duyên họ thì một ngày nào đó họ cũng được nghe pháp này, chớ không có mất đi đâu hết.
Vì pháp mà Thầy đã giảng thì nó sẽ còn lưu lại, bởi vì nó là pháp bảo của Phật, được triển khai với một sự kinh nghiệm tu tập của Thầy. Nó không phải là một cái pháp do tưởng giải ra, mà là do cái pháp có sự thực hiện tu tập thật, có sự giải thoát thật, chớ không phải là một cái pháp tầm thường, do cái sự kiến giải bằng cách chưa tu mà nói ra những ý này, thì nó không hay chút nào đâu.
Cho nên ở đây nói thì Thầy bảo các con suy ngẫm cái lời Thầy nói có đúng, khi mà mình thực hiện mình có thấy đúng không, nếu mình thấy đúng có sự giải thoát, thì lời Thầy nói đúng. Mà nếu không có sự giải thoát tức là lời Thầy là kiến giải mà thôi, tưởng giải mà thôi.
Cho nên khi ở đây, mỗi một cái tâm niệm chúng ta khởi lên, mà như vậy thì các con cũng như các Thầy thấy nó là ác pháp. Vừa rồi thì Mật Hạnh có khởi lên một cái niệm, cho nên mới xin phép Thầy để mà mượn cái điện thoại gọi ra ngoài Hà Nội cho Chánh Đức về đây được nghe pháp. Là vì Mật Hạnh nghĩ rằng cái ơn của Chánh Đức đã giúp mình những thuốc thang bằng cái này cái kia, cho nên vì vậy mà bây giờ muốn trả một chút nhỏ ơn.
Nhưng mà Mật Hạnh chưa thấy nhân quả, cho nên vội vàng gọi Chánh Đức để vào đây được nghe. Thì hôm nay thì chắc chắn là Chánh Đức lo gói hành lý để mà lên tàu hoả để mà vào nam để mà nghe pháp. Nhưng mà đến đây không biết là có được nghe kịp hay không, hay là Thầy cũng đã giảng hết rồi. Đó là một cái nhân duyên của Chánh Đức mà thôi.
Còn các người khác, thì như bên nữ thì cũng có một số, rồi bên nam cũng có một số, mà không đủ cái duyên mà được nghe pháp, thì dù bây giờ có muốn cũng không được, có muốn họ cũng không có nghe được. Cho nên họ có đủ phước thì nó sẽ có người hỗ trợ cho họ được nghe pháp.
Cho nên chúng ta hãy, bây giờ chúng ta hãy nỗ lực chúng ta tu. Ngày nào đó, những cái người đó, họ do một cái nhân quả của đời trước với mình như thế nào đó, thì bắt đầu đó, mình tu xong rồi mình sẽ độ họ, mình sẽ dạy họ.
(8:54) Thì những người đó, ví dụ như bây giờ Thầy nói như cô Hạnh Minh, hoặc là cô Diệu Hồng, hoặc là Thuý, Trang, hoặc là má nó, đều là những người đều có gieo duyên với Phật pháp. Nhưng vì cái duyên Phật pháp đó chưa có sâu, cho nên nó chưa có thấy được cái Chánh Pháp.
Hễ hơi động một chút xíu là bỏ đi, tưởng là mình đã hay, nhưng mà không ngờ hiểu lạc một chút xíu, là tưởng rằng mình rời khỏi nơi này thì mình sẽ ở trong thất nỗ lực tu tập, thì chắc chắn được giải thoát. Còn ở đây thì bị lao động, bị làm này kia nọ, thì nó không được giải thoát. Nhưng mà sự thật không phải đâu.
Chính cái chỗ mà tu tập giải thoát, mà bằng cái cụ thể thực ấy, thi như các con cũng đã biết rằng, mình trực tiếp lao động mà mình phải giữ độc cư như thế nào.
Ở đây Thầy phải nói rằng, Thầy lưu ý, Thầy để ý, thì Từ Nguyện là một cái người mà tu tập giữ hạnh độc cư rất đúng. Bởi vì lúc mà Thầy ra bếp, nửa đêm mà Thầy ra Thầy phụ cô Út, thì rất đúng giờ nó mới ra. Nhưng mà Thầy thấy là ra thì tức là nó không hỏi gì hết, cái chuyện gì của nó làm thì nó cứ nó làm thôi, cho nên Thầy thấy đó là một cái hạnh độc cư của nó.
Cho nên hầu hết là các con cũng nên, khi mà làm việc cũng nên tập những cái hạnh độc cư như vậy. Đừng có thèm hỏi một gì hết, chuyện của ai nấy làm, mình biết công chuyện đó rồi mình cứ làm thuộc làu công chuyện đó.
Cũng như mấy ông thầy chùa mà tụng Bát Nhã vậy, họ thuộc làu rồi họ nhắm mắt họ không có nhớ gì hết, họ đọc lia đọc lịa, nó cũng thuộc. Các con thấy khi mà đọc chú vãng sanh không? Họ đọc lia đọc lịa, họ đâu có nhớ đâu, mà họ đọc không sai một chữ nữa, đó nó làu rồi.
Thì cái công việc của mình giữ độc cư là công việc làm nó cũng làu rồi, cho nên cứ làm mà thôi, chớ còn không nói gì hết. Công việc của mình ra đó thì mình tiếp ngay công việc của mình làm, không hỏi gì hết. Mình thấy ai bỏ cái công việc gì đó mà có thể mình làm được, thì mình cứ làm công việc đó thì mình làm. Thì như vậy mình mới giữ trọn vẹn độc cư, và do giữ trọn vẹn độc cư thì cái ác pháp nó không do cái kẽ hở đó mà nó sinh ra. Cho nên mình tu ở trong cái Chánh Niệm Tỉnh Giác của mình rất tốt.
Vì vậy mà bên nam thì như các con thấy, là mình giữ được cái hạnh độc cư, mình không có đến thất này, thất kia, thất nọ đó, thì đó tức là không có kẽ hở. Mà không có kẽ hở thì ác pháp không sanh ra. Mà cái ác pháp không sanh ra thì chúng ta đã giữ được thiện pháp, tăng trưởng thiện pháp chớ gì?
Mà nếu mà trong khi có một mình mình mà nó có kẽ hở, để cho kẽ hở nó sinh ra, là tại vì mình thiếu cái pháp Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, mình thiếu tu cái pháp đó, phải không?
Các con thấy, nếu mà trong khi Thầy ngồi đây thì Thầy nương hơi thở, mà Thầy xả ra Thầy nương hành động, Thầy quét sân Thầy nương hành động, có mình Thầy thì nó đâu có kẽ hở gì. Cái pháp Chánh Niệm Tỉnh Giác nó làm cho chúng ta ngăn chặn được các pháp ác không sanh, phải không?
(11:36) Do cái pháp đó mà nó ngăn chặn được, vì chúng ta luôn luôn ở trong hành động, cho nên hành động đó nó làm cho cái niệm của chúng ta không khởi. Phải không. Mà bây giờ chúng ta đến thất người khác, là tức là kẽ hở để cho cái niệm ác nó sanh đó, mình mở miệng mình nói chuyện là cái ác pháp sanh ra rồi đó, chớ không phải dễ đâu.
Cho nên ở đây chúng ta biết được, chúng ta nỗ lực chúng ta thực hiện. Vì vậy mà Thầy nói độc cư là bí quyết thiền dịnh, để mà chúng ta thực hiện được đạo giải thoát.
Cho nên các con rời khỏi nơi đây, các con nghĩ rằng mình sẽ độc cư chớ gì? Nhưng mà khi mà ra rồi các con không độc cư được đâu. Bởi vì cái nhân duyên các pháp ở bên ngoài, thân, thọ, tâm, pháp mà, các con nhớ, cái pháp nó sau cùng đó, mà nó làm cho các con bị trôi lăn ở các pháp ác, nó lôi cuốn các con ở trong các pháp ác.
Khi mà ra rồi, ai mà ở trong Tu viện chúng ta thấy sống như thế này buồn lắm, cô đơn, mà có một mình mình đâu có nói chuyện với ai, nhưng mà đi ra thì vui lắm. Nhưng mà các thầy thấy là, khi mà vui thì các pháp ác nó xâm chiếm các thầy tan nát ở trong cái đầu của các thầy hết rồi, cho nên pháp thiện nó đã bị mất rồi.
(12:48) Đó, cho nên nỗ lực tu tập. Thầy thấy ở đây, mặc dù lao động làm công việc nhưng mà tự nguyện, Thầy tin rằng nó sẽ sớm đạt được cái kết quả rất tốt, là giữ gìn được các ác pháp không khởi không tăng trưởng.
Và cách thức mà tu tập về cái niệm hơi thở thì nó cũng vững vàng lắm, chớ không phải là không vững vàng. Trước kia thì nó tu, có những cái pháp nó tu sai, như là thiền xuất hồn rồi này kia thì nó tu sai.
Nhưng mà sau khi từ ngày mà nó về đây nó tu, nó được tin tưởng, và nó nỗ lực, và qua nó giữ gìn đúng cái hạnh cho nên từ đó nó có yên ổn. Nhất là trong tâm của nó thiện pháp nó tràn trề, nó làm cho ác pháp không có xâm chiếm. Do nương vào những cái hạnh như vậy mà chúng ta sẽ thấy được giải thoát.
(13:34) Thí dụ như như bây giờ Thầy nói về cô Diệu Hảo chẳng hạn. Qua cái sự việc ở bên ngoài nó như vậy chớ nó đập cô Diệu Hảo, nó làm cho cô, cái tâm cái ác pháp nó sẽ sanh khởi, nó không đơn giản đâu. Cho nên nó cũng khó lắm chớ không phải dễ. Mà cô Diệu Hảo là người quyết tâm tu lắm đó. Cho nên Thầy thấy từ ba mươi phút cô vẫn ngồi mà không Tầm không Tứ, là kể như là cô cũng xả hết mình rồi.
Chớ nếu mà mà xả lơ mơ thì cái tài sản của cô ở dưới đó, cái kiểu sống của cô là cái người biết làm kinh tế sống đó, rồi cái môi trường mà cô sanh ra nó cũng nhằm ở trên cái môi trường làm kinh tế sống nữa, cho nên mà cô là một cái người biết tổ chức, mà cô dẹp bỏ, mà cô tu tập được ba mươi phút không vọng tưởng là các con thấy cũng không phải là cái chuyện thường đâu.
Nhưng mà Thầy thấy rằng cô tiếp tục mà cô xả tâm cô nữa, thì từ ba mươi phút này cô sẽ đi vào thiền định một cách rất dễ dàng, không có khó khăn. Nghĩa là chỉ cần xả thêm, tu tập đúng cái ác pháp và cái thiện pháp, ngăn chặn nó để tăng trưởng các thiện pháp, thì cô sẽ ra lệnh, cô Diệu Hảo sẽ ra lệnh nó phá âm thanh, không còn nghe âm thanh, và nó phá các hành, nó ngưng hoàn toàn, thì chừng đó cô sẽ làm chủ được sự sống chết của cô trong cái Tứ Thiền. Nó chỉ còn một bước nữa.
Và hôm nay Thầy dạy pháp hành để cho các thầy thu ngắn được cái thời gian tu tập, biết được cái chỗ nào mình tu tập, để cho nó thu ngắn cái thời gian. Cho nên Thầy xác định trên cái sự thu ngắn thời gian, nếu mà cái sự tu tập của chúng ta từ lâu nó đã thuần thục ở trong cái hơi thở rồi, mà hơi thở là cái pháp trợ duyên cho các pháp thiền định, mà đã thuần thục đã quen với hơi thở rồi mà bây giờ chúng ta đã xả được cái tâm, thì cái hơi thở đó sẽ nương vào mà tịnh chỉ tất cả cái gì mà chúng ta muốn. Nương vào hơi thở bảo thân này phải thể hiện như thế nào thì nó sẽ làm như thế nấy.
(15:30) Đó thì những cái mà chúng ta sẽ sắp sửa bước vào những cái giai đoạn mới giải thoát tâm hồn của chúng ta, thì chúng ta thực hiện được Tứ Chánh Cần xong rồi, thì con đường thiền định rất dễ dàng.
Mà cô Diệu Hảo không phải là còn nhỏ tuổi đâu. Nghĩa là cái sanh tử, cái luân hồi nó sắp sửa nó đuổi theo, cũng như là một cái người chăn trâu mà họ xách cái cây gậy họ lùa bầy trâu vậy đó. Thì cái sự sanh tử nó cũng lùa chúng ta như vậy, nó lùa cho đi mau để mà mau chết chớ không có gì hết.
Cho nên ở đây, nếu mà rút tỉa từng những cái kinh nghiệm của nhau mà chúng ta nỗ lực tu tập, chúng ta đừng có nghĩ ra ngoài.
(16:18) Người ta có duyên thì sẽ có cái phước báo, cũng như Chánh Đức nó có duyên cho nên nó khiến cho thầy Mật Hạnh đi gọi điện thoại, chớ còn ai mà gọi làm gì. Cũng như vì cái duyên, cái nhân duyên của Chơn Huệ.
Nhân duyên Chơn Huệ như thế nào? Là một người có phạm lỗi, biết sám hối, biết chừa những cái lỗi đó. Do cái nhân duyên mà biết giữ gìn những cái thiện pháp, mà khi được giảng về cái pháp này thì Thầy nói ngay với cô Út là hãy cho Chơn Huệ về đây tu tập.
Và hãy báo cho Chơn Tịnh hay rằng, mặc dù Chơn Tịnh là một cái người không nghe lời Thầy, phạm rất nhiều, không chịu sám hối, chừa bỏ, nhưng dù sao đi nữa Chơn Tịnh cũng là người ở đây rất lâu đối với Thầy, và cũng có công rất lớn đối với Thầy, đi từ chỗ này đến chỗ kia, Chơn Tịnh chịu cực khổ chở Thầy đi tới đi lui trong cái thời gian mà ở Phước Hải tổ chức những cái Tu viện ở đó, thì Chơn Tịnh là một người rất cực khổ với Thầy. Cho nên bây giờ là những cái giờ phút cuối cùng mà Thầy dạy về cái giới hành là phải trợ giúp cho Chơn Tịnh nghe.
Cho nên Thầy nói cô Út bây giờ ra cho Chơn Huệ hay, bảo về học tập, và cho Chơn Tịnh biết để về. Tuỳ duyên của nó, nhân quả của nó, chớ còn Thầy không ép. Nghĩa là đó là những cái mà có cái sự nhân duyên.
Bởi vì do sự biết sám hối, biết hối hận, còn những người khác thì họ không có biết sám hối, biết hối hận. Lẽ ra những cái lỗi lầm đó thì họ phải về sám hối với Thầy sau một cái thời gian, thí dụ như sau thời gian thì mình phải thức tỉnh chớ.
Thí dụ mình biết những cái đó, mình hờn giận trong bụng mình mình như vậy, thì đó là cái sai, thì mình về xin sám hối với Thầy: “Con thấy trải qua thời gian, vì cô Út cổ đập như vậy làm cho con thấy nó bực quá, cho nên lúc bấy giờ con không có làm chủ động được mình, cho nên chưa đủ cái lực để mà trau dồi tu tập cái tâm của mình để cho nó giải thoát, cho nên con thấy con có cái lỗi để giữ cái ác pháp trong tâm của con. Bây giờ con xin về sám hối với Thầy!”
Thì khi mà sám hối như vậy đó, thì tức là trong cái giờ phút mà học những cái này, thì làm gì Thầy cũng nhắc cô Út là cho gọi về hết, bởi vì những người biết lỗi, biết cái lỗi của mình. Còn những người, người ta chỉ cố chấp, người ta giữ gìn cái ác pháp đó, người ta cho rằng không lỗi, mà lỗi là tại cô Út, cho nên người ta không thấy.
Chứ sự thật ra, khi mà các con cũng như là mấy cô mà về đây tu tập, mắc mớ gì mà để làm cho giận hờn nhau làm gì? Nếu mà không phải con đường tu, thì chúng ta đập phá nhau để làm gì?
Vì con đường tu chúng ta nhắm vào chỗ giải thoát của tâm cái người mà tiến tới sự giải thoát, cho nên chúng ta mới đập phá nhau, để chúng ta thấy được cái tâm giận hờn phiền não, còn ác pháp trong tâm của mình, còn ghét, còn thù, để cho mình biết.
Nhưng mà sau thời gian các con thấy, thời gian dài như vậy, mà các cô không thấy được, không sám hối được. Lẽ ra thì dù ở nơi đâu thì thời gian rồi nó cũng nguôi ngoai, rồi nó cũng phải suy tư, rồi nó cũng phải thấy được cái chỗ. Còn đằng này thì các cô không thấy được, không về sám hồi.
Ít ra Thầy nói như nào cũng phải về sám hối: “Mặc dù bây giờ là cô Út nói không cho, nhưng mà con về đây con không dám, bởi vì ý của cô Út không cho con thì thôi, nhưng mà con về con xin sám hối cô Út, bởi vì đó là một cái lỗi lầm của con, trước đó con không thấy. Bây giờ con thấy thì con xin sám hối, xin Út tha. Nhưng mà chừng nào mà Út thấy được thì Út cho con trở về tu tập, mà chưa được thì Út phạt con thì bất kì con ở chỗ nào, con cũng luôn luôn con cũng mong ngày một nào mà Út thấy con biết ăn năn sám hối thì Út cho con về!”
(20:09) Một lời nói như vậy thì chắc chắn là sớm muộn rồi gì Đào cũng sẽ được về. Đằng này nó không về xin sám hối, nó nhắn nhe nó nói đầu này đầu kia thôi, nó về đây, nó nói một lời nói, rồi xin ra đi, chớ nó không có xin ở, mà nó xin ra đi.
“Bởi vì con lầm lỗi, cho nên con không dám ở đây nữa. Chừng nào Út cho thì con ở, mà Út không cho thì thôi!” Thì như vậy rõ ràng là cái sám hối đó có một cái giá trị, tức là mình hồi tâm mình thấy được cái chỗ sai chỗ đúng của mình. Mặc dù bây giờ nó đi ra nói gì nói, nhưng mà khi biết sám hối vậy thì bao nhiêu cái tội lỗi nó đều đổ xuống hết.
Đó Thầy ví dụ cho các con thấy trên vấn đề đó. Đó là nó tạo được cái duyên để mà tu học đúng Chánh Pháp của Phật.
Còn không khéo thì bây giờ nó ngồi thiền, nó cứ nghĩ rằng, ở trong đầu thì nó nghĩ rằng mình cứ nhiếp tâm mình ngồi như vậy là ức chế được cái âm thanh, rồi phá được các hành, thì tức là nhập định rồi làm chủ được sinh tử chớ gì?
Không bao giờ vô đâu các con! Nếu mà không tu đúng Tứ Chánh Cần thì không vô nổi đâu. Coi vậy chớ không đơn giản đâu, bởi vì đạo Phật không đơn giản.
Còn nếu mà các con muốn mà vào được tịnh chỉ các hành hơi thở thì các con phải dùng tưởng đó, phải dùng thần chú nè, phải dùng Mật Tông nè, phải luyện những cái này thì các con sẽ đọc thần chú lên các con biểu nó ngưng hơi thở, thì thời may nó ngưng đó. Mà nó ngưng trong cái tưởng chớ không phải ngưng thật. Chớ không phải là là tu theo cái thanh tịnh tâm đâu, mà tu theo cái tưởng thì có thể làm được.
Nhưng ở đây thì các con cũng hiểu rồi, do đó Thầy nói bây giờ thì các con hãy lo cho mình đi. Lo cho mình để rồi từng những người bạn quen thân của các con, nó có đủ duyên thì các con sẽ đem cái pháp mà các con thực hiện được, trong sáu tháng từ đây tới Tết các con xong rồi, thì các con cứu khổ mấy người đó cũng không khó khăn gì.
Cái nhân duyên của các con nó có với những người đó thì các con nói họ nghe, họ biết cái lỗi, cái sai của họ liền, thì do đó các con sẽ độ họ. Ở trong này thì các con thấy, mình sống chung nhau là có nhân duyên rồi. Mà có nhân duyên rồi thì chừng đó mình nhắc cái là họ nghe liền.
Đó thì các con đừng có nghĩ xa vời mà hãy nỗ lực thực hiện những cái mà Thầy dạy. Bây giờ phải cứu mình trước đi, đừng có nghĩ ai hết, đừng có lo ai hết, họ có đủ duyên phước thì tức là nó có duyên thì cô Út sẽ gọi họ về. Còn không có thì thôi.
Cũng như họ có đủ duyên Mật Hạnh gọi, mai mốt để mà Chánh Đức chở con về Hà Nội, để nó cất cái chùa cho con tu! Lời Thầy nói muôn năm nó còn ở trong băng này chớ đâu mất được các con, đâu có mất được. Do đó nó thành Phật ở Hà Nội đó chớ, nó thành ở trên Trúc Lâm chớ đâu phải, nó ở chùa Đồng đó. Con mai mốt làm tổ sư Trúc Lâm ở chùa Đồng chớ đâu phải ở đây đâu!
Cho nên cái ơn nghĩa đó gieo nhân quả đó. Cho nên chẳng qua cái gì cũng do nhân quả mà ra mà thôi. Do mình tạo nhân quả tốt thì sẽ hưởng được cái nhân quả tốt, mà mình tạo cái nhân quả xấu thì nó sẽ hưởng cái nhân quả xấu mà thôi.
Cho nên ở đây, tuỳ theo cái nhân quả mà chúng ta nỗ lực chúng ta thực hiện tu tập trên con đường tu tập của mình. Nếu mà không thực hiện được cái nhân quả tốt để mà ngăn chặn các pháp ác, thì con đường tu tập của chúng ta cũng khó.
(23:20) Bởi vì cái pháp Tứ Chánh Cần, rõ ràng là cái pháp tạo cái nhân quả thiện chớ không có tạo cái nhân quả ác. Cho nên ngay từ cái pháp đầu tiên mà chúng ta tu tập, thì như các con cũng đã thấy rằng, đó là toàn bộ là chúng ta giữ gìn cái thiện pháp, mà ngăn chặn và đoạn trừ các pháp ác, không có để cho các pháp ác sanh khởi ở trong tâm của chúng ta, từng phút, từng giây.
Và đồng thời chúng ta có những cái loại thiền định, cái loại thiền định đó để mà chúng ta thực hiện được, ngăn chặn được các pháp ác và đoạn dứt các pháp ác, chớ không phải chúng ta không có pháp, có pháp hẳn hòi.
Như vậy bây giờ các con đã thấy được, các Thầy đã thấy được, cái pháp mà của Phật dạy cụ thể và rõ ràng, thực hiện nó phải đi pháp nào, như thế nào rõ ràng, để chúng ta đạt được cái Tứ Chánh Cần. Đó thì, đạt được cái Tứ Chánh Cần thì ngay đó là tâm chúng ta có giải thoát rồi, giải thoát liền tức khắc, hàng giờ, hàng phút, hàng giây, như Thầy đã nói.
(24:33) Cho nên ở đây chúng ta thấy nó rất rõ ràng: “Những vị A La Hán ý nghiệp thường vắng lặng, ngữ nghiệp, hành nghiệp thường vắng lặng.”
Đó thì, các vị thấy rõ ràng là ở, các con cũng như các thầy đã thấy, gọi là một vị A La Hán thì cái ý nghiệp nó thường vắng lặng, tức là đâu có cái niệm nào ở trong đó. Nó phải thường vắng lặng chớ, còn mình cứ nghĩ cái này, nghĩ cái kia, làm sao gọi là vắng lặng?
Đó. Mà ngữ nghiệp vắng lặng, tức là miệng của mình đó, cái ngôn ngữ, ngữ nghiệp là ngôn ngữ của mình có nói không? Không có nói, cho nên nó thường vắng lặng. Và cái hành nghiệp thường vắng lặng. Cái hành nghiệp là cái thân hành của mình nó thường nó vắng lặng. Nó không có cái hành động ác ở trong đó, cho nên nó phải vắng lặng.
“Lại có chánh trí giải thoát nên được an ổn luôn luôn.” Luôn luôn lúc nào mà chúng ta được vắng lặng như vậy, thì cái chánh trí là cái trí sáng suốt của chúng ta như thế nào? Ở trong cái thiện pháp nó có cái biết chớ đâu phải là cái không biết, cho nên cái đó gọi là chánh trí.
Cũng như bây giờ tâm Thầy nè, không sân, không si, không tham, không muốn, không khởi ham muốn cái này, không nhớ, không nghĩ, không lo tất cả mọi cái. Thì ngay cái chỗ này Thầy có ngủ quên không, Thầy có vô ký không? Đâu có vô ký.
Cho nên Thầy còn chánh trí chớ, Thầy còn biết rất rõ chớ, Thầy còn thấy được cái thọ, cái thân của mình, cái tâm của mình, nó do cái chỗ ly dục ly ác pháp nó có cái an lạc của nó chớ. Thầy biết rất rõ, cho nên đó là cái chánh trí của Thầy chớ.
Mà cái chánh trí đấy là cái chánh trí gì? Chánh trí giải thoát. Ở trong thiện pháp là giải thoát rồi, chớ đâu phải là thiện pháp như Thầy đã dạy đó, trước kia tu Tứ Vô Lượng Tâm đó nó có được giải thoát không?
Lo kêu gọi Phật tử đóng góp tiền bạc, rồi ghi sổ ghi sách, rồi đi mua gạo, mua thóc, mua quần mua áo, mua mì gói, rồi mua xà bông, bột ngọt, mua loại này loại kia đủ thứ, để chúng ta đi làm việc từ thiện, bố thí cho những cái người bị nhà cháy, bị nước trôi thì tất cả những cái việc này, họ có được cái tâm mà an ổn không?
Mà lo lắng suy tư ở trong này nè: À bây giờ còn thiếu bao nhiêu, bây giờ ở cái khu đó nó như vậy là bao nhiêu nhà, rồi bây giờ nó còn thiếu bao nhiêu, mỗi nhà vậy là phải cho người ta bao nhiêu, mỗi người phải lãnh bao nhiêu?
Do nó tính toán đủ thứ ở trong đầu của mình như vậy thì thử hỏi cái đó nó có vắng lặng không? Nó không vắng lặng. Mà việc thiện đó nó không vắng lặng như vậy thì nó đâu phải là giải thoát của đạo Phật!
Đó cho nên chúng ta thấy một vị A La Hán tức là một người mà đã giải thoát đó, thì ngay khi mà chúng ta, đâu có cần phải có Tam Minh, hoặc là thần thông phép tắc gì, mà ngay khi cái ý nghiệp của chúng ta, cái ý của chúng ta không có khởi một cái niệm gì hết, vắng lặng, cái ngữ nghiệp chúng ta không có nói gì hết, luôn luôn chúng ta làm mà chúng ta không nói gì hết, nó vắng lặng, và cái hành động của chúng ta hằng ngày nó không có một cái niệm gì ác hết, không có cái sự việc gì động mà làm cho đau khổ chúng sanh hết.
Đó là nó đang ở trong vắng lặng. chớ không phải là cái hành nghiệp vắng lặng là chúng ta ngồi như cái gộc cây, không phải như vậy.
(27:59) Ở đây chúng ta nhằm ở trong cái ác pháp và cái thiện pháp, nhằm ở chỗ Tứ Chánh Cần mà chúng ta nói về một bậc A La Hán. Cho nên ngay đó mà chúng ta đã giữ được những cái hành động như vậy, thì tức là chúng ta là bậc A La Hán giải thoát hoàn toàn đó, nên luôn luôn lúc nào tâm của chúng ta cũng được an ổn.
Thấy chưa, thấy giải thoát chưa, thấy rõ ràng chưa? Thấy chúng ta là A La Hán hay không phải là A La Hán? Nhưng mà A La Hán của chúng ta bây giờ nó chỉ có được một chút à, rồi cái bắt đầu đó nó trở thành phàm phu.
Có không, quý thầy có không? Bây giờ chúng ta không có gì hết, trong tâm không có gì hết, nhưng chút nữa cái nó phàm phu liền á, nó không có kéo dài được cái trạng thái A La Hán.
Cho nên vì vậy mà chúng ta phải có những cái pháp thực hành, để cho nó kéo dài cái trạng thái đó, mà gọi là thiện xảo an trú ở trong cái định đó, cái định Chánh Niệm Tỉnh Giác đó, thiện xảo an trú trong cái Định Vô Lậu đó.
Đó là thiện xảo, chớ không phải đợi Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tứ Thiền mình mới thiện xảo trong đó. Mà cái định Chánh Niệm Tỉnh Giác, mà cái Định Vô Lậu chúng ta vẫn thiện xảo, để mà chúng ta kéo dài cái trạng thái không ác pháp, thiện pháp này, thì đó là thiện xảo chớ! Thiện xảo là khéo léo để cho tâm chúng ta an trú mãi ở trong đó mà không có một cái ác pháp khởi ra, thì đó gọi là thiện xảo.
Cho nên cái gì mà chúng ta muốn kéo dài được, tăng trưởng được cái điều đó, là phải có sự khéo léo, phải có sự thiện xảo ở trong đó, thì chúng ta mới được an trú trong đó. Mà cái thiện xảo, cái khéo léo đó, là chúng ta phải tùy theo ở cái khả năng và đặc tướng của mình để cho mình thiện xảo mình khéo léo, nó mới kéo dài được cái trạng thái giải thoát. Còn nếu mà mình không thiện xảo, không khéo léo thì mình không có được giải thoát.
(29:44) Trong cái cảnh mà yên tịnh như quý Thầy ở phía sau đó, thì cảnh đó là cảnh rất vui đối với A La Hán. Nhưng mà cái người mà ham cái chuyện đời thì cái cảnh mà yên tĩnh thanh vắng ở khu sau đó, thì coi như là cái địa ngục của quý thầy.
Trời ơi nó buồn quá trời! Gì mà nghe nó vắng lặng, gì mà nó nghe nó không ai nói chuyện hết, nhìn cái đám cây cũng như cái rừng, ở trong rừng như vậy, các thầy thấy buồn khổ quá! Thôi xách cuốc đi rẫy làm cỏ, hay hoặc là đi làm cái này cái khác, hay hoặc là kiếm sách kiếm báo nằm đọc cho nó vui. Thì như vậy rõ ràng là quý thầy đã phá cái cảnh thanh tịnh nơi tâm của quý thầy rồi.
Cho nên cái cảnh mà thanh tịnh, vắng lặng như vậy đó, là rất vui đối với vị A La Hán. Người mà gọi là A La Hán thì người ta sống trong cái cảnh mà Thầy đã đặt cho quý thầy ở, đó là cái cảnh rất vui cho quý vị đó.
Còn cái người mà thấy cảnh này, nghe nó buồn khổ quá, cho nên lại thất người này nói chuyện, lại thất người kia nói chuyện để cho vui, thì thôi thôi, thật sự ra thì sống giữa chợ đi cho xong, chớ còn sống trong cái cảnh này thì đâu có phải.
A La Hán thì người ta sống trong cái cảnh vắng lặng như vậy đó. Nhưng người đời thì chẳng ưa thích, trái lại dục lạc là cảnh ưa thích đối với người đời, vị A La Hán thì lại tránh xa. Cho nên cái cảnh dục lạc của thế gian ồn náo vui chơi, xe cộ chạy qua chạy lại, thế này thế khác, ăn uống ngủ nghỉ đó, thì đó là cái cảnh của thế gian.
Còn cái cảnh của A La Hán tránh xa từng cái ăn, uống, ngủ, nghỉ gì họ cũng tránh xa hết, họ sống thanh thản, yên lặng của đời sống của họ, trầm lặng ở trong một cuộc sống của họ, đó là những bậc A La Hán.
(32:53) Đó thì cái phần mà tu tập hôm nay về Tứ Chánh Cần, thì chúng ta phải biết rằng cái vấn đề rất quan trọng là chúng ta phải sống trong cái cảnh mà tạo cái cảnh nơi tâm của mình cho được yên lặng. Nó không có cảnh đó thì chúng ta phải tạo cho cái cảnh đó nơi tâm của mình, để cho nó được sống trầm lặng, sống cô đơn, không nói chuyện gì hết.
Thì như vậy là cái ưa thích của một cái người, nếu mà chúng ta ưa thích cái cảnh đó thì tức là chúng ta là bậc A La Hán, mà chúng ta chưa có ưa thích cái cảnh đó thì chúng ta chưa phải là bậc A La Hán. Như vậy là chúng ta tiếp tục để mà chúng ta thực hiện Tứ Chánh Cần thì chúng ta cần phải ưa thích cái cảnh yên tịnh.
Cho nên do một cái nhân duyên, mà các con ở bên nữ các con đã mất đi một cái cảnh yên tĩnh, để rồi tiếp xúc cái cảnh động. Nhưng tiếp xúc cảnh động thì các con lại nỗ lực hơn, tích cực hơn, chớ không khéo rồi các con sẽ ở trong cảnh tịnh mà rồi sanh ra làm việc này việc khác để cho nó bớt cô đơn, để làm cho nó vui, hoặc là đến thất này nói chuyện, đến thất kia nói chuyện, thì ở trong cảnh tịnh mà lại động thì nó không có nghĩa lý gì.
Cho nên ở trong cảnh tịnh, mà cảnh tịnh phải sống một mình, không nói chuyện với ai, thì cái tịnh đó nó lại càng thêm tịnh, nó sống lại với nội tâm của mình, nó xa lìa toàn bộ các ác pháp, thì như vậy mới là cảnh tịnh.
(31:28) Ở đây thì khi mà chúng ta mà thắng lại mình, tức là ngăn chặn được ác pháp, không có cho nó tăng trưởng và đoạn dứt nó được, thì Kinh Pháp Cú dạy như thế này: “Thắng ngàn quân địch chưa thể gọi là thắng. Tự thắng được mình mới là chiến công oanh liệt”.
Cái câu Kinh Pháp Cú này rất hay là vì mình thắng được cái tâm của mình ham vui, thắng được cái tâm chạy theo dục lạc, thắng được cái tâm mà không cho nó khởi niệm.
Do cái Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, do cái Định Vô Lậu, mà mình chiến thắng, hoặc cái Định Niệm Hơi Thở mà mình không cho cái niệm nó khởi vào, tức là mình đã tự thắng mình. Còn mình để các niệm nó xen ra xen vô, thì đó là mình không có thắng mình được rồi. Mà không có thắng được mình thì nó không phải là chiến công oanh liệt nhất.
Cho nên thắng ngàn quân địch chưa gọi là thắng, tự thắng được mình mới là chiến công oanh liệt. Thì hôm nay các thầy, các con đã thấy được cái sự chiến thắng nơi nội tâm của mình mới là sự chiến thắng. Không phải mình đi đánh lộn người ta, mình đánh hơn người ta mình là chiến thắng đâu.
Một mình mình đánh mười người, một trăm người chưa phải là chiến thắng đâu. Mà mình thắng được nội tâm của mình, không cho ác pháp sanh khởi, không cho nó tăng trưởng, đó là một chiến công oanh liệt nhất, mình thắng mình.
Câu Kinh Pháp Cú kế dạy: “Tự thắng mình còn vẻ vang hơn thắng kẻ khác, muốn thắng mình phải luôn luôn chế ngự lòng tham dục”.
Đó, tham là ác pháp mà, cho nên mình luôn luôn, mình phải giữ gìn rất là nghiêm chỉnh. Mà giữ gìn nghiêm chỉnh ở đây, mình có pháp chớ đâu phải là không pháp mà sao mà mình sợ, mình nói giữ nghiêm chỉnh là danh từ “giữ”, mà rồi mình biết giữ nó ra sao?
Còn ở đây mình có pháp nè, có pháp giữ nó nè, Chánh Niệm Tỉnh Giác mình có pháp giữ nè, Định Vô Lậu mình có pháp đoạn nè, dứt nó nè, hơi thở mình có pháp giữ nó nè. Rõ ràng là mình có pháp để mình giữ nó, cho nên mình sẽ chiến thắng được.
Mình đi đánh trận mà mình có đủ binh thơ đồ trận, mình có đủ mưu kế, mình có đủ vũ khí tối tân thì mình phải thắng trận rồi. Mà đây mình tu hành mình có đủ pháp để cho mình tu tập thì mình phải thắng rồi, chớ đâu phải là mình tu mà như không có pháp.
Từ lâu tới giờ đó, thì thấy các thầy cũng đi tu theo Phật, nhưng mà sự thật ra các thầy không có, ngay cái mặt trận của nội tâm mà quý thầy thắng. Quý thầy tu tập ở đâu xa không à, chớ không có thắng tâm mình.
Bắt đầu thí dụ như mình tu cái Thiền Đông Độ, thì mình “biết vọng liền buông”, mình buông để làm gì? Thì mình cũng chưa biết được cái mục đích buông để làm gì. Còn ở đây mình thắng nó là mình thắng ác pháp, mình thắng được cái nội tâm của mình không cho khởi ác pháp.
Mà mình có những cái pháp để mình tu nó. Còn cái kia mình cứ giữ tâm mình mà mình không biết cách giữ như thế nào để cho niệm thiện, niệm ác không có. Đó thì cái sự tu tập của mình nó phải có pháp, mà nếu không pháp thì đó là lời nói suông.
Đó thì hôm nay qua hai cái câu Pháp Cú “Mình thắng ngàn quân địch không bằng thắng tự mình”, mà mình “tự thắng mình vẻ vang hơn là thắng kẻ khác.” Mà muốn thắng mình thì luôn luôn phải ngăn chặn không cho các ác pháp sanh khởi, không cho nó tăng trưởng, thì tức là mình đã chiến thắng được nội tâm của mình.
(36:35) Đó, thì trên cái bước đường tu tập chúng ta đã có pháp, đã biết cách, thì chúng ta phải nỗ lực, phải thực hiện cho nó sâu, cho nó thâm sâu để kéo dài từng giờ này đến giờ khác. Như vậy bây giờ thì hầu hết là các con và quý thầy cũng đã rõ, thì hàng ngày chúng ta phải tinh tấn nỗ lực.
“Sống trăm tuổi mà giải đãi, không tinh tấn, chẳng bằng chỉ sống một ngày mà hăng hái chuyên cần.”
Ở đây Thầy muốn nói về Tứ Chánh Cần, dù bây giờ các thầy mà sống tu có cầm chừng, cầm chừng đi nữa, thì dù là tu Tứ Chánh Cần mà cầm chừng đi nữa, thì chẳng bằng người ta sống trong một ngày mà người ta hăng hái người ta nỗ lực, người ta giữ một ngày một đêm không có một cái niệm ác xen vô.
Còn quý thầy cứ để cho lát có cái niệm này xảy ra, lát nữa có niệm khác xảy ra, thì bây giờ có sống trăm tuổi đi chăng nữa, cũng không bằng người ta sống trong một ngày.
Bởi vậy Thầy nói 3 tháng, 6 tháng là xong, còn nếu mà quý thầy không nghe lời, mà quý thầy tu cái kiểu của quý thầy thì bây giờ đã 10 năm, sống thêm trăm tuổi nữa, bây giờ là 40, 30 tuổi rồi mà sống thêm 100, 200 tuổi nữa cũng chẳng đi tới đâu hết. Nghĩa là tu cái kiểu đó không bao giờ tới nơi.
(37:43) Người ta nói phải miên mật là như tường đồng vách sắt, không có kẽ hở cho nó lọt vào, ác pháp không có được sanh khởi, không được tăng trưởng, không có được lọt vào, ở trong cái chỗ cái tâm của chúng ta toàn là thiện pháp. Nghĩa là chúng ta phải miên mật, phải kín đáo, phải như tường đồng vách sắt, không có kẽ hở.
Còn như vách liếp như vầy thôi rồi. Tâm của quý thầy bây giờ mà tu như cái Tứ Chánh Cần Thầy nhìn như là cái tấm liếp của chúng ta đây thôi. Nghĩa là nhìn ra ngoài thấy ở ngoài hết rồi, thì ở ngoài nó lọt vô biết bao nhiêu chỗ nào lọt, cho nên tu như vậy thì biết đời nào mà cho xong.
Cho nên phải nỗ lực thực hiện là tâm mình kín đáo, nghĩa là từng phút từng giây nỗ lực Chánh Niệm Tỉnh Giác, Định Vô Lậu, Định Niệm Hơi Thở, liên tục ở trong những pháp này mà chúng ta nỗ lực kéo dài để giữ ác pháp không cho sanh khởi. Nghĩa là không cho nó kẽ hở để mà nó lọt vào trong tâm chúng ta. Đó là chúng ta đã chiến thắng nó, chúng ta đã chiến thắng được tâm mình đo.
(38:37) Còn nếu mà để cho nó kẽ hở mà lọt vô là quý thầy tu không biết chừng nào mà cho rồi. Mà rồi đây thì các thầy sẽ thấy rằng trong cái thời gian gần tới đây thì các thầy phải làm những cái việc lợi ích cho mọi người chớ không thể mà… Cho nên phải ráng, nỗ lực hết sức đi, để rồi … (Mất tiếng) kẽ hở, từng đó các thầy sẽ thấy sự giải thoát tới cái chỗ này.
“Hãy gấp rút làm những việc lành, chế chỉ tâm tội ác. Hễ biếng nhác việc lành giờ phút nào thì tâm ưa chuyện ác giờ phút nấy”.
Đó là cái câu Pháp Cú dạy cho quý thầy đó. Nghĩa là bây giờ phải gấp rút giữ gìn cho tâm mình luôn luôn nó là thiện, không được các pháp ác nó xen vào, chế chỉ tâm tội ác của nó, các ác pháp không có cho nó xen vô mà hễ biếng nhác, lười biếng một chút, bởi vì ở đây nó phải là tinh tấn rồi, nó phải siêng năng rồi, cho nên Tứ Chánh Cần là phải siêng năng tinh tấn tu tập, chớ còn lười biếng thì không thể nào mà có thể pháp ác nó không xen vô.
Mà hễ lười biếng thì với cái việc mà ngăn chặn các ác pháp này, thì việc lành này, thì giờ phút nào, thì tâm nó sẽ duyên theo các pháp ác giờ phút nấy, nó sẽ khởi ra. Và như vậy thì chúng ta không bao giờ mà thực hiện cái được sự giải thoát của chúng ta.
“Nếu đã lỡ làm ác chớ nên thường làm hoài.” Nếu nó lỡ sanh ra một cái niệm nào trong đầu, thì chúng ta nỗ lực khắc phục, từ đây về sau phải chặn đứng, không có cho nó sanh vô nữa. Đó là thì chúng ta có sự quyết tâm, nhiệt tâm như vậy thì nó mới có thể hết, chớ còn nếu mà không có nhiệt tâm quyết tâm vậy thì nó không hết.
“Chớ vui mà làm hoài”, chớ thấy nó như vậy mà dễ dãi rồi để nó cứ nó ra vô ra vô hoài ở trong cái tu tập của mình, thì như vậy là không bao giờ hết.
“Hễ chứa ác nhất định phải thọ khổ.” Hễ mà có cái tâm mà ra vô như vậy, thì quý thầy sẽ thấy khổ, các con cũng bên nữ các con cũng biết rằng nó sẽ khổ chớ không phải không khổ đâu.
“Nếu đã làm việc lành, hãy nên thường làm, làm mãi, nên vui làm việc lành. Hễ chứa lành nhất định là hưởng sự giải thoát, tức là thọ lạc”.
Ở trong câu Kinh Pháp Cú này dạy như vậy đó. Thì như vậy rõ ràng là chúng ta phải nỗ lực thực hiện những cái điều lành để mà luôn luôn tâm chúng ta được lành, thì chúng ta sẽ thọ được những cái quả an lạc.
(41:07) “Chớ khinh điều ác nhỏ, cho rằng chẳng đưa lại quả báo gì cho ta. Phải biết giọt nước nhiễu lâu ngày cũng làm đầy bình. Kẻ ngu phu sở dĩ đầy tội ác bởi chứa dồn từng khi ít mà nên”.
Nghĩa là chúng ta đừng có nghĩ rằng ngày nay mình chỉ có một lần nó khởi cái niệm ác ở trong đầu của mình, tức là một cái niệm nào thương ghét thôi, chớ Thầy không nói, đừng có nghĩ rằng chúng ta giết người gọi là ác đâu, mà đây là khởi một cái niệm thương nhớ, hoặc lo gì đó đó, thì cũng đủ là đó là một cái giọt nước nó nhỏ rồi. Mà ngày ngày mà nó nhỏ như vậy thì cái bình nó cũng sẽ đầy.
Cho nên kẻ ngu phu sở dĩ đầy tội ác bởi chứa dồn từng cái một ít, nghĩa là ngày chút, ngày chút. Cho nên chừng đó cái tâm của chúng ta, đến lúc đó người ta nói tiếng nói cái nó sân lên liền, nó tức giận nó lên liền, nó không có vui vẻ được.
Do chúng ta chứa từng chút, từng chút cái niệm ác nhỏ nhỏ, cái niệm khởi nhỏ nhỏ đó, mà cho đến khi đụng chuyện thì chúng ta thấy cái tâm của chúng ta chẳng có giải thoát được chút nào. Đó là cái quan tâm, cái lưu ý của chúng ta.
Cho nên hàng ngày thật sự ra quý thầy không có lưu ý đến cái niệm nho nhỏ, tưởng nó không có cái gì, nó đâu có làm cái gì tâm chúng ta phiền não giận hờn đâu, nó khởi cái niệm nó thôi chớ có gì đâu, nó thương nó nhớ nó ghét hoặc nó gì đó cũng đâu có gì mà khổ cho mình đâu. Nhưng mà cứ một lần chút, lần chút như vậy chớ mà nó đầy bình đó.
Mà khi đầy bình, chừng nào chúng ta biết nó đầy không? Khi mà người ta nói một cái lời nói gì nó không hợp với mình, nghe đó mình tức, đó là nó đầy bình đó, nó đầy bình nó mới tức nó chảy ra đó, nó tràn ra đó. Còn nếu mà nó đã cạn, nó đã hết sạch rồi thì nó không tràn ra chút nào hết, ai nói gì nói, chửi mình thì chửi, mình như cục đất, đó là nó đã cạn hết.
Còn bây giờ nó đầy bình, nó nhiễu đầy hết rồi, cứ một ngày Thầy nói có một cái niệm ác là nó đã nhỏ vô cái bình tâm của quý Thầy nó chứa trong đó. Cho nên không ai động tới thôi, mà động tới một cái là các thầy nhảy nay lên liền, như một con cọp dữ chưa nhịn ai được ai đâu, chưa nhẫn nhục ai đâu. Nó chưa đúng lúc đó, chớ đúng lúc rồi thì các thầy lộ ra cái tướng sân của các thầy dữ tợn, là vì những cái niệm đó mà nó đã nhỏ vào trong cái bình của quý thầy.
“Chớ khinh điều lành nhỏ”, nghĩa là hàng ngày mình coi thường cái việc lành của mình, tức là mỗi cái niệm ác nó khởi lên thì cái lành nó sẽ mất đi. Cho nên chúng ta đừng có khinh cái chuyện mà giữ gìn cái niệm ác đó thì cái niệm thiện nó mới tồn tại, nó mới giữ được, cho nên nó mới có cái niệm thiện.
(43:48) Do đó chúng ta coi thường cái niệm thiện cho nên chúng ta để niệm ác nó xen vô. Chớ nếu mà chúng ta không có khinh thường cái niệm thiện nhỏ này thì chẳng bao giờ mà chúng ta có cái quả báo nào, tức là người ta chửi, mình như cục đất liền.
“Chẳng đưa lại quả báo cho ta”, nghĩa là mình thấy rằng cái việc nhỏ này nó đâu có đem đến cái phước báo cho mình đâu.
“Phải nói rằng giọt nước nhiễu lâu ngày cũng làm đầy bình. Kẻ trí sở dĩ toàn thiện bởi chứa dồn từng ít, từng khi ít mà nên”. Nghĩa là mình cố mình giữ gìn, đừng có cho cái ác pháp xen vô, thì cái thiện pháp nó cứ một ngày một chút, ngày một chút, cho đến khi nó toàn diện thì lúc bấy giờ chúng ta mới thanh tịnh toàn tâm.
Một ngày chúng ta giữ nó đừng cho xen vô thì ngày bữa nay nó cũng được vậy, ngày mai được vậy, ngày mốt được vậy, rồi một tháng được vậy rồi hai tháng, ba tháng được vậy, thì luôn bây giờ ba tháng được vậy là cái bình của chúng ta nó đã đầy rồi, đầy thiện pháp rồi.
Mà đầy thiện pháp thì nó đủ cái quyền lực để mà chúng ta sai khiến được cái sự sanh tử luân hồi của chúng ta. Thì như vậy rõ ràng hàng ngày chúng ta tu tập cái này mà chúng ta sẽ đạt được cái Thiền Định rất là vĩ đại. Đó, đó là những cái bài Kinh Pháp Cú Phật đã dạy như vậy.
“Đem ác ý xâm phạm đến người không tà vạy, người thanh tịnh vô nhiễm. Tội ác sẽ trở lại làm ác như ngược gió mà tung bụi”.
Câu kinh Pháp Cú này thì nó nói trong cái vấn đề mà mình đem cái ác ý của mình mà xâm phạm đến người khác, đây là quá thô rồi, đây là những cái ác nó thô chớ không phải còn vi tế ở trong tâm của mình.
Mà sự thật ra thì như ví dụ như cái bình mà mỗi ngày nó có một cái niệm ác nó nhỏ vào, mình coi thường cho nên cái công phu tu của mình nó không kết quả. Mà mình coi thường cái sự mà, những cái việc giữ gìn cho cái tâm nó kéo dài trạng thái thiện, coi thường nó, để cho ác pháp xen vào thì cái kết quả cũng chẳng ra gì.
Mà mình coi trọng về cái thiện pháp, mình cố gắng giữ gìn cho miên mật, thì các ác pháp không có sanh khởi, toàn thiện pháp. Thì như vậy thì không có, mình sẽ được sự giải thoát hoàn toàn mà không bị cái thô của ác pháp, cái thô của ác pháp có nghĩa là như người ngược gió mà tung bụi, nghĩa là mình đứng ở dưới gió, gió ở trên thổi xuống mà mình tung bụi thì bụi nó sẽ rớt vào mình hết…
(46:22) Các ác pháp nó bùng dậy, thì lúc bây giờ cái tâm của mình như thế nào? Nó giận hờn, nó phiền não, nó đau khổ, nó làm cho mình khổ sở.
Thì lúc bây giờ đó là mình, coi như là mình từ lâu tới giờ, mình coi thường cái giọt nước nhỏ của ác pháp, mà mình coi thường nó cho nên mình để nó xen ra xen vô. Mình ngỡ tưởng rằng như vậy lâu ngày nó sẽ hết, lần nó bớt chút bớt chút, nhưng sự thật ra nó vẫn còn một cái niệm nhỏ đó, thì nó không bao giờ hết đâu.
Cho nên đến khi mà một ngày nó tích lũy một chút, tới chừng đó nó bùng cái là tâm mình giận hờn, phiền não, thì như là mình đã tung cái bụi, mà cái bụi đó nó ngược gió, nó lại làm cho mình dơ bẩn, mình đau khổ, đó là cái ý của trong cái sự ác pháp như vậy. Cho nên trong cái sự tu tập chúng ta phải hết sức tận lực và nỗ lực tu tập.
“Chẳng phải bay lên không trung, chẳng phải lặn xuống đáy biển, chẳng phải chui vào hang sâu núi thẳm, dù tìm khắp thế gian này chẳng có nơi nào trốn khỏi ác nghiệp đã gây.“
Nghĩa là một cái niệm nhỏ đó, hoặc là một cái sự hành động ác mà mình trốn ở đâu mình cũng không tránh khỏi được cái nhân quả, cái nghiệp ác đó.
Thô thì cũng không tránh khỏi, mà ác mà vi tế như cái sự tu tập của chúng ta hàng ngày giữ cái tâm mình không cho các cái niệm ác khởi, mà mình không thấy để cho nó khởi thì lâu ngày thì chúng ta cũng sẽ thấy được cái nghiệp ác đó, dù bây giờ chúng ta có trốn ở trong cái thiền định này, trốn trong thiền định kia thì chúng ta cũng không có chạy hỏi nó đâu.
Nghĩa là Thầy muốn nói trốn, tức là chúng ta ức chế tâm mình không có niệm này, không có niệm kia. Nhưng mà không có niệm này niệm kia nó chỉ trong cái giờ mà chúng ta tu mà thôi, còn ngoài cái giờ mà không tu thì các niệm nó sẽ có.
Ở câu Pháp Cú kế nữa thì “Chẳng phải bay lên không trung, chẳng phải lặn xuống đáy biển, chẳng phải chui vào hang núi sâu thẳm, dù khắp thế gian này chẳng có nơi nào mà trốn khỏi tử thần.”
Nghĩa là vì ác pháp đó, vì những cái niệm mà chúng ta không ngăn chặn, để mà tăng trưởng những ác pháp đó, thì cho nên tử thần chúng ta không trốn khỏi đâu, nghĩa là chúng ta không giải thoát. Đó thì cái sự tu tập như vậy thì chúng ta sẽ thấy được ở trên cái con đường mà tu tập đúng pháp hay là không đúng pháp.
(48:50) Đến đây thì chúng ta thấy, cái thì giờ chúng ta cũng không có nhiều, và đồng thời thì Thầy xin đọc lại cái bức thư của chú Chánh Tâm. Thiệt ra thì… cũng giải quyết cho chú…
Bởi vì toàn chúng ở đây Thầy thấy nghĩ rằng có nhiều người cũng có đủ duyên không có gia đình, nhưng mà cũng có nhiều người thì có gia đình nhưng mà chưa đoạn dứt được.
Chú thì, năm mùa hạ rồi thì chú có về đây tu tập, nhưng chú đã tu theo những cái pháp của thiền tưởng cho nên nó làm cho chú rất là căng thẳng thần kinh. Mỗi lần mà nhiếp tâm trong hơi thở là ngay đó là bị căng thẳng liền.
Từ khi mà vào đây Thầy bảo xả tâm, rồi lần vào kì này thì coi như đương nhiên là tu tập tốt, không còn có bị ảnh hưởng cái điều đó nữa. Tại vì cứ lo xả cái ác pháp chớ không có tu ức chế tâm, cho nên nó lần lượt nó thấy nó có những cái kết quả tốt. Bây giờ thì trong cái hoàn cảnh của chú thì nó rất là khó xử, chớ không phải dễ.
“Kính bạch Thầy, con xin cúi lạy Thầy, hôm nay con ghi lại lời thỉnh nguyện của con để kính trình lên Thầy để mong Thầy quyết định cho con.
Mùa hạ năm trước con có được nhân duyên nghe Thầy giảng về Giáo án đường lối tu hành theo đạo Phật. Đạo thì đã biết vậy, nhưng ở trong gia đình sống trong sự vui thích đam mê của thế gian, tâm con ít được rèn luyện, sức tỉnh thức luôn yếu, mà dục lạc lại quá thu hút, con luôn luôn phạm lỗi, làm tâm con luôn bị đau khổ trước những lỗi lầm.
Lỗi lầm đó, tâm con luôn bị hối hận mà không vượt qua được tội lỗi đó. Đứng trước những sự việc xảy ra và thực chứng những sự việc xảy ra đó, con càng thấm thía những lời của Phật. Đời là khổ, khổ muôn kiếp.“
Nghĩa là có sống trong cuộc sống rồi, Chánh Tâm mới thấy được cái đời là khổ và khổ muôn kiếp nữa chớ không phải là khổ trong một đời này.
“Biết được sự khổ đau và tâm con cũng bị nhiễm vào sự khổ đau đó mà không gỡ ra được. Hạ năm nay con lại quyết định dứt bỏ tất cả các công việc đang làm dở dang để theo Thầy tu tập nhằm vứt bỏ những khổ đau trong lòng. Vào đến đây Tu viện, tâm con có sự giải thoát rõ ràng.”
Nghĩa là vào Tu viện thì rời khỏi gia đình, thì nhìn lại thì nó có cái sự giải thoát. Cả hai cái cuộc sống nó khác nhau rồi, cho nên khi nhìn vào cái cuộc sống của thế gian thì mình thấy dường như là bị trói buộc, mà vào đây thì nó phải có sự giải thoát.
(52:00) Cũng như, thí dụ như Thầy nhắc lại các con thấy, khi mà cô Từ Đức, Thúy và Trang, nó không có xả được cái tâm của mình, có chút à, rồi các con, các thầy cũng thấy rất rõ.
Khi xin phép ra đi rồi, thì bắt đầu dự định là cái chương trình của mình ra cái khu đất của Tùng nó mua ngoài đó để cất nhà ở. Nhưng mà ra đó đâu phải nó làm vừa ý cho mình liền được đâu, làm khổ ở đó, không nước, không điện, rồi xa làng xóm thì không ở được, nó đều cất rất khó.
Rồi bây giờ mới về đất của cô Diệu Hảo để mà ở, thì về đó phải cất nhà cất cửa, cho đến hôm nay cũng vẫn chưa yên mà nó xảy ra nhiều cái sự kiện, có thể nói rằng nó đâu có ổn.
Thay vì bây giờ cô Út dời ra trước ở, ở sau ra trước, mình cứ ra trước, thì tức là sắp xếp một hôm, hai hôm thì ổn định rồi, thì mình cứ chuyên tu, lấy cái đối tượng trong cái sự việc đó mình tu tập, thì tức là mình cũng vẫn yên ổn, đâu có cái chỗ mà lăng xăng, lích xích như bây giờ, cho đến giờ phút này chưa có tạm yên gì hết, nhà cửa cũng chưa có xong xuôi gì hết.
Nó đâu có đơn giản đâu, thời gian nó rất mất, mà nó làm cho tâm mình bị động rất nhiều động đủ cách động.
Nên người ta cứ ngỡ tưởng đứng núi này trông núi khác, mình ra rồi thì chắc chắn mình sẽ có một nơi yên ổn tu tập. Mình tu tập mình nhập thất, ở trong thất có người hộ cơm cho mình ăn, mình khỏi làm khỏi gì hết, mình tu. Tu như vậy chắc chắn là không bao giờ mà, nếu mà thành tựu thì từ lâu đã bao nhiêu người về đây tu tập người ta đã hộ cơm, khỏi có nấu cơm khỏi gì hết, họ đã giải thoát hoàn toàn rồi.
Nhưng sự thật ra đâu có, cái chuyện đó đâu có đâu. Có nhìn người nào đi, thì các Thầy cũng đã thấy rằng, cái vấn đề đó không có đâu. Mà phải xả cái tâm của mình chớ không phải là ở chỗ mà mình ngồi trong thất, mình nhiếp tâm, mình thiền định rồi mình sẽ được giải thoát, không phải đâu. Nếu mà mình ở trong thất mình không biết xả tâm của mình thì mình cũng chỉ ức chế tâm mà thôi chớ không giải thoát.
Đó thì, các con thấy, từ cái chỗ đang ở trong cái cảnh giới tu tập yên ổn, từ ở sau mà dời ra trước có chút xíu rồi mình yên tu mình nỗ lực thì nó lấy lại bình thường như thường, và ngay đó là mình đã thấy mình đã xả tâm, mình sẽ được giải thoát, không có còn một cái pháp nào mà làm cho tâm mình nó bị dao động hết.
Còn cái này bị dao động ngay liền, bị dao động rồi từ cái dao động này nó sẽ tiếp nối cái dao động khác, nó làm đủ thứ dao động chớ không phải là không dao dộng.
Rồi đây không biết cuộc đời nó sẽ trôi lăn như thế nào, mang tiếng tu hành mà không đi đến đâu, rồi đời chẳng ra đời, đạo chẳng ra đạo, cuộc sống dở dở ương ương, gàn gàn không biết như thế nào.
Gần bên Thầy còn chưa được giải thoát, xa Thầy làm sao giải thoát được, biết làm sao mà Thầy ở đâu mà đi tìm, đâu có chuyện mà dễ dàng đó đâu. Cho nên ngay bây giờ mà không có nhẫn nhục được thì làm sao mà tìm sống gần bên Thầy được, đó là những cái khó. Cho nên ở đây Chánh Tâm đã thấy được điều này.
“Vào đến đây tu tập tâm con có sự giải thoát rõ ràng, cùng với hiểu biết thêm về đường lối và cách thức tu tập, tâm nguyện con càng có ý thức cầu giải thoát khỏi khổ đau của cuộc đời này, cần phải từ bỏ gia đình, sống không gia đình, sống khép mình trong giới luật và phải sống ở bên Thầy.”
Đó, một cái nhìn sáng suốt của Chánh Tâm, nó đã thấy được cái điều đó, phải sống ở bên Thầy. Nói thật sự ra trên con đường mà tu tập này mà nếu sống xa Thầy, dù là trong một ngày cũng là một cái bất lợi cho các con chớ không phải, nghĩa là có sai là Thầy có nhắc liền. Mà sống xa Thầy trong một ngày thì các con sẽ tu không biết chừng nào mà tới đâu, Thầy nghĩ rằng không biết chừng nào tới đâu.
Nói là nói, dạy là dạy vậy, nhưng mà có một cái bóng, một cái tàn cây bồ đề, nó sẽ che rậm mát cho các con tu. chớ nếu mà không có tàn cây bồ đề thì chắc chắn ai là che chở cho các con trên bước đường tu? Đâu phải các con cất cái thất rồi vào đó tu là nó che chở cho sao? Không có đâu. Có cái tàn cây bồ đề cho nên mà do đó các con không có lo đói, lo no, lo gì cả hết. Chỉ có tùy thuận, bằng lòng, vui trong cái cảnh của mình đang nỗ lực thực hiện đối với các pháp để làm chủ thân tâm của mình.
Như các con bên nữ, các con thấy, các con vui vẻ sống, luôn luôn tùy thuận, nhẫn nhục, bằng lòng trong mọi cái hoàn cảnh của mình, lúc nào cũng nỗ lực thực hiện để cái tâm của mình trong thiện pháp, lúc bấy giờ các con sẽ thấy giải thoát hoàn toàn chớ gì. Đâu có một cái ác pháp nó đến thì nó đến, mặc nó, chúng ta giải quyết chớ đừng để tâm chúng ta dính mắc nó là được.
(56:55) “Nhưng khi nghĩ tới lời dạy của Đức Phật không làm khổ mình, không làm khổ người, tâm lòng con dao động, choáng váng, nhưng ý thức mong muốn xuất gia của con không từ bỏ được, nên con luôn bị ám ảnh bởi ác pháp này. Con ghi lại những lời này trình Thầy, nhờ Thầy giải tỏa tâm trạng cho con và Thầy quyết định cho con!”
Đó thì các con nghe đến chỗ này các con thấy như thế nào? Hoàn cảnh của chú Chánh Tâm có một vợ một con, một đứa con.
Cho nên Phật dạy là không làm khổ mình, khổ người mà bây giờ đi tu, tức là vợ còn trẻ, con còn nhỏ như vậy, bây giờ mình làm sao đây? Nếu mình bỏ mình đi, tức là làm khổ người. Cho nên cái câu nói này chú nghĩ suy ngẫm, chú thấy rất là khổ.
“Tâm lòng con lại lao đao, choáng váng những ý thức mong xuất gia của con không từ bỏ được, nên con bị ám ảnh bởi ác pháp này. Con ghi lại những lời này trình Thầy, nhờ Thầy giải tỏa tâm trạng cho con và Thầy quyết định cho con.
Gia đình nhà con, bố con đã mất, mẹ con có thể ở với các anh chị của con, nhà có sáu anh em. Vợ con năm nay 26 tuổi và một cháu gái 5 tuổi. Cô ấy rất trẻ, do vậy việc đi lấy chồng sẽ không có mấy khó khăn. Cuộc sống của hai mẹ con cũng không mấy khó khăn, gia đình cũng có đầy đủ tiện nghi, sức sống.
Đức Phật cũng đã dạy rằng cuộc sống của con người chỉ là duyên tan hợp diễn biến theo luân hồi, để vay trả, trả vay, nên không có gì thực ở trong đó. Con nghĩ đời con cứ trả rồi lại vay, thì làm sao mà chấm dứt được sự khổ đau của kiếp con người? Để làm tròn bổn phận đối với đời thì chỉ có đến lúc nhắm mắt xuôi tay mới hết được phận sự.
Và cứ như vậy mãi tiếp diễn, ngày hôm nay còn khỏe mạnh, còn có Thầy ở bên, việc tu hành còn đầy khó khăn. Sau này già yếu và Thầy đã nhập diệt thì còn hy vọng gì mà đòi tu tập. Được thân người là khó, được gặp Thầy, được gặp Chánh Pháp là một điều khó gặp ở đời, con không muốn bỏ qua giây phút này. Thân con khổ đau, gia đình, họ hàng và mọi người cũng đều bị khổ đau mà không hề hay biết, nên con cũng chẳng muốn nấn ná ở đời nữa.
Con biết rằng việc tu hành theo Chánh Pháp là một việc làm khó khăn, gian khổ vô vàn, bởi dục lạc ở thế gian ngày nay lại quá nhiều và quá cuốn hút, và cũng bởi cái thân này là thân được huân tập biết bao dục lạc từ bao đời kiếp. Nhưng đã có Thầy là người tu hành và đã chiến thắng, nay con ước ao để được theo Thầy, để cũng được giải thoát như Thầy.
Con suy tư thấy rất rõ, rõ ràng chỉ có thể ở bên Thầy thì việc tu hành của con mới mong có được kết quả. Có Thầy ở bên, tu sai có Thầy chỉ bảo ngay. Thầy là hàng rào chắc chắn nhất để chúng con không bị các duyên bên ngoài chi phối. Mỗi cử chỉ, mỗi lời nói và lối sống của Thầy là gương hạnh để chúng con noi theo, mỗi bài pháp của Thầy là nguồn sinh lực tuôn trào sang chúng con, giúp chúng con trên đường gian khổ này.
Ở bên Thầy chúng con được sự che chở vô cùng, vô tận của Thầy, của một người cha già tận tụy. Ngày nay con sống ở trong thế gian thì nhân quả của cuộc đời trả muôn kiếp cũng không xong. Con viết lời thỉnh nguyện này để mong Thầy định vị cuộc sống cho con, kính cúi lạy Thầy.”
Đó là Chánh Tâm đã gởi Thầy một bức thư này, Thầy sẽ giải quyết vấn đề của nó trong cái chuyến đi về Hà Nội, Thầy sẽ về thăm và Thầy sẽ giáo dục gia đình của nó để giải quyết …
HẾT BĂNG
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Thời gian: 1998
Thời lượng: [47:42]
(0:02) Những câu hỏi của cô Diệu Quang mà bữa đó trả lời chưa hết. Cô hỏi Thầy:
“Kính bạch Thầy, tại sao gọi là Tứ Chánh Cần, Tứ Niệm Xứ, Tứ Thánh Định, Tứ Như Ý Túc?”
Nghĩa là tại sao mà những cái danh từ ở trong kinh điển của Phật, người ta gọi cái tên đó gọi là Tứ Chánh Cần, Tứ Niệm Xứ, Tứ Thánh Định, Tứ Như Ý Túc.
Thì ở đây Thầy sẽ trả lời, coi như trả lời cho cô Diệu Quang, tức là trả lời chung cho quý thầy, để không khéo cái tên mà trong kinh sách mà Phật đã đặt cái tên cho pháp môn của mình, để dạy người ta tu, thì cái tên đó nó phải xứng hợp với cái hành động tu tập, chớ không phải là thiếu cái hành động tu tập ở trong cái tên đó, thì cái tên đó không có nghĩa lý.
Đáp: “Tứ Chánh Cần là pháp môn giải quyết tâm con người thoát khổ đệ nhất, nên người tu sĩ phải chuyên cần, siêng năng tu tập từng giây, từng phút, từng giờ, không được dễ dãi, lơ đễnh, lời biếng.”
Nghĩa là trong cái pháp mà mang cái tên nó là Tứ Chánh Cần, nó chứng tỏ rằng phải cần mẫn siêng năng tu tập, cho nên nó có cái tên là “cần”, mà “chánh” tức là thiện pháp. Cho nên luôn luôn lúc nào cái pháp đó cũng phải thấy rằng cái sự tinh tấn siêng năng ở trong đó rất nhiều. Nếu mà cái người tu mà thiếu sự siêng năng tập luyện cái pháp này thì cái đạo giải thoát nó không có đến với cái người mà tu tập, cái hành giả mà tu tập.
Cho nên về cái pháp Tứ Chánh Cần, là cái pháp nói cho cái người tu mà mới bắt đầu tu, thì phải siêng năng hết sức mình, luôn luôn lúc nào giờ nào phút nào cũng phải siêng năng. Cho nên cái tên nó là “cần”, Chánh Cần: cần tu tập ở trong một cái Chánh Pháp, mà cần phải rất là cần thiết, cần cũng phải là siêng năng.
Ở đây giải thích từng chữ để cho cái tên đó, thì như giải thích nó, thì chữ Tứ là bốn, Chánh Cần là siêng năng, cần mẫn, trong cái sự chơn chính, chớ không phải trong tà pháp. Siêng năng trong cái sự chơn chánh, chớ không phải siêng năng ở trong cái sai, cái không đúng, cho nên nó là Chánh Cần.
Tứ Chánh Cần gồm chung ba cái chữ này lại để mà giải thích cái nghĩa của nó, thì:
“Tứ Chánh Cần là bốn pháp chơn chánh cần phải tu tập, siêng năng, không có được biếng trễ.”
(02:46) Đó là giải thích từng chữ để chúng ta hiểu cái tên của nó, để mà chúng ta biết rằng nó là cái pháp nó quan trọng như thế nào. Tại sao các pháp khác không gọi là “cần”, mà ở đây chỉ có Tứ Chánh Cần gọi là “cần”?
Bởi vì chính chúng ta là mang một cái tâm niệm tham, sân, si, tức là ác pháp, cho nên hằng ngày chúng ta không siêng năng cần mẫn mà tu tập cái này thì các ác pháp kia nó sẽ làm cho chúng ta đau khổ, nó làm cho chúng ta khổ sở. Do cái chỗ mà tu tập này thì chúng ta phải siêng năng, hết sức siêng năng.
Vì vậy bắt đầu như Thầy đã trả lời, người mới bắt đầu tu theo đạo Phật thì phải tu cái pháp Tứ Chánh Cần là cái pháp đầu tiên. Mà thời nay thì người ta không có hiểu nó, cho nên người ta không có tu Tứ Chánh Cần, mà người ta tu niệm Phật, người ta tu thiền hơi thở, người ta tu thiền biết vọng liền buông, hoặc là tham thoại đầu, công án.
Người ta tu cái đó thì nó không đúng cái Chánh Pháp của Phật, vì cái pháp mà chuyên cần siêng năng hằng ngày mà nỗ lực tu tập, đó là Tứ Chánh Cần. Nó làm cho chúng ta bắt đầu vào, như Thầy đã dạy, bắt đầu vào tu ngay liền tức khắc là chúng ta đã thấy sự giải thoát nơi thân và tâm của mình.
Chớ không phải tu đợi một năm, hai năm, năm năm, mười năm sau mới thấy hết sự giải thoát, mới hết là tham, sân, si, mà ngay cái chỗ chúng ta bắt đầu tu là chúng ta đã giải thoát khỏi tham, sân, si.
(04:27) Bây giờ để giải thích thêm cái pháp nữa mà như cô Diệu Quang đã hỏi đó, Tứ Niệm Xứ. Vậy Tứ Niệm Xứ là gì? Ở đây Thầy giải thích từng chữ để chúng ta thấy được cái chỗ Tứ Niệm Xứ.
“Tứ là bốn. Niệm là nhớ, là suy tư, là pháp.”
Các thầy nhớ rằng chữ “niệm” là nghĩa là mình nhớ, nhớ là niệm, ức niệm là nhớ lại, còn chữ “niệm” đây có nghĩa là nhớ, là suy tư, mình suy nghĩ một cái điều gì đó, gọi là suy tư, mà nó còn có cái tên nữa, cái chỗ mà “niệm” nó còn có cái tên nữa là pháp.
Hầu hết người ta chỉ biết cái danh chữ niệm là nhớ, là ức niệm, là suy tư, là suy nghĩ đó, còn cái “niệm” mà họ nghĩ ra là cái pháp thì chưa có ai nghĩ, chưa có người nghĩ nó là cái pháp. Cái chữ “niệm” này có ít người mà hiểu nó cái nghĩa là pháp.
Ở đây vì cái kinh nghiệm tu hành, trải qua trong cái thời gian tu tập, Thầy đã hiểu được chữ “niệm” này là cái pháp, chớ không phải là nhớ, hoặc là suy tư, là nhớ là suy tư, nó là pháp.
“Xứ là gì? Xứ là nơi, chốn, chỗ.”
Chữ “xứ” nó chỉ cho cái nơi, cái chốn, cái chỗ.
“Gồm lại Tứ Niệm Xứ là bốn chỗ đặt pháp môn tu tập trau dồi, làm cho bốn chỗ đó được thanh tịnh, trở thành giải thoát, không còn ô nhiễm các pháp thế gian, nên có tên gọi là Tứ Niệm Xứ. “
Nghĩa là Tứ Niệm Xứ nó không phải là một cái pháp môn để cho chúng ta tu tập, mà nó là bốn cái chỗ để chúng ta dùng các pháp môn khác, các thiền định khác, mà để chúng ta tập luyện bốn chỗ này cho nó thanh tịnh.
Vì trong thân của chúng ta, trong thân và ngoài thân của chúng ta không ngoài bốn cái chỗ này. Thân thì chúng ta cũng thấy rõ ràng là nơi thân của chúng ta, rồi thọ là cái cảm giác, rồi tâm của chúng ta, rồi các pháp xung quanh chúng ta, tất cả từ thân cho đến các pháp ở trong vũ trụ đều là nằm ở trên bốn cái pháp này.
Cho nên muốn cho được thanh tịnh, cả nội thân tâm của chúng ta và thế giới, các pháp ở trong thế gian này đều được thanh tịnh, thì không ngoài bốn chỗ này mà tu tập.
“… Chứ không phải Tứ Niệm Xứ là một pháp môn dùng để mà chúng ta tu tập cho được giải thoát.”
Nó giải thoát cái gì? Nếu mà lấy Bốn Niệm Xứ này mà tu tập để giải thoát, thì giải thoát cái gì? Vì Bốn Niệm Xứ là cái nơi để mà chúng ta tu tập bốn cái nơi đó cho thanh tịnh, tức là làm cho bốn cái nơi đó được giải thoát. Có hiểu được vậy mới là hiểu được Tứ Niệm Xứ.
(07:39) Bây giờ để trả lời cái danh từ "Tứ Thánh Định" mà cô Diệu Quang đã hỏi.
“Tứ là bốn, Thánh là bậc trong sạch, thanh tịnh không còn nhiễm ô thế tục, dính mắc dục lạc thế gian nữa.”
Chữ Thánh ở đây thì phải chỉ cho những cái người mà thân và tâm của họ trong sạch, không có còn nhiễm ô của những cái dục lạc của thế gian, nó không còn dính mắc những cái ham thích của thế gian nữa, thì cho nên gọi là bậc Thánh, gọi là Thánh.
Cho nên cái tên của nó để chỉ cho chúng ta, để đi vào trong những cái bậc Thánh. Cho nên cái pháp đó giúp chúng ta trở thành những cái bậc Thánh thanh tịnh thân tâm như vậy.
“Định là gì? Định là sự bất động của tâm…”
Đó, mình phải hiểu “định” là sự bất động của tâm.
“… sự yên lặng của thân tâm, sự vắng lặng của không gian, sự ngưng hoạt động trong thân, và sự thanh tịnh của tâm.”
Để giải thích cho chúng ta hiểu từng những cái danh từ để xác định được cái pháp môn mà chúng ta tu tập, cho nên:
“Định là sự bất động của tâm, sự yên lặng của thân tâm, sự vắng lặng của không gian, sự ngưng hoạt động trong thân và sự thanh tịnh toàn bộ của tâm.
Tứ Thánh Định là pháp môn của bậc Thánh đạt được sự thanh tịnh, yên lặng, vắng lặng, và bất động các hành, nơi thân, thọ, tâm và các pháp. “
Đó thì nơi thân, thọ, tâm, và các pháp đó là Tứ Niệm Xứ đó. Một cái pháp nó làm cho thân, thọ, tâm, pháp của chúng ta thanh tịnh bất động, đó là cái pháp mà tu tập làm cho bốn cái chỗ này nó trở thành thanh tịnh, đó mới gọi là Tứ Thánh Định.
(09:49) “Tứ Như Ý Túc nghĩa là gì? Tứ là bốn, Như Ý là theo ý muốn của mình, Túc là đủ, đầy đủ. Tứ Như Ý Túc là pháp môn thực hiện tâm muốn điều gì, thì thực hiện đầy đủ điều ấy, mới gọi là Tứ Như Ý Túc. “
Đó thì, nói đến Tứ Như Ý Túc, là chúng ta muốn cái gì thì chúng ta làm ngay được cái đó. Thí dụ như bây giờ là một người mà thế gian ham tiền ham bạc, thì cái người mà có Tứ Như Ý Túc, thì họ chỉ hướng tâm họ ra lệnh, thì ngay đó là một đống tiền, đống vàng rất lớn trước mặt họ có liền. Lòng họ muốn cái gì là đạt ngay cái nấy chớ không phải là khó khăn đối với họ.
Muốn cho có một bữa ăn ngon, đầy đủ những thực phẩm cao lương mĩ vị, thì ngay cái ý muốn đó, thì cái người mà tu Tứ Như Ý Túc đó, họ chỉ cần ra lệnh, là ngay tức khắc đã có một mâm thực phẩm rất là đầy đủ không có thiếu món gì, cao lương mỹ vị không có thiếu món gì hết, cho nên gọi là Tứ Như Ý Túc.
Muốn như thế nào thì cái tâm của chúng ta và cái thân của chúng ta sẽ làm ra được những cái đó, cho nên gọi là “Như Ý Túc”.
Cho nên nó có những cái tên, để xứng hợp với cái việc làm của nó, với cái việc tu tập của nó, nó làm chúng ta đạt được cái ý muốn của chúng ta như vậy, cho nên cái tên nó như vậy, thì cái việc làm nó cũng phải đạt được như vậy.
(11:36) Sau học được những danh từ, tên của các pháp, thì bây giờ cô Út Diệu Quang sẽ hỏi Thầy tiếp:
“Kính bạch Thầy tại sao người ta gọi Tứ Thánh Định là thiền Tiểu Thừa, thiền phàm phu, thiền ngoại đạo?”
Đáp: “Nói về Tứ Thánh Định là một loại thiền định rất đặc biệt mà từ xưa trước khi chưa có đạo Phật cho đến bây giờ, chưa ai thông hiểu cách thức tu tập cơ bản của nó, và cũng không có một học giả nào tưởng giải ra được.
Trừ Đức Phật, Ngài đã phát hiện ra được cách thức tu tập về loại thiền định này, cụ thể và rõ ràng. Nhưng các nhà học giả không có tu tập thực hành, nên những lời dạy của Đức Phật các ngài không tưởng giải ra được. Vì thế các ngài lập luận, quăng ném nó ra ngoài kinh điển phát triển Đại Thừa.”
Nghĩa là họ ném Tứ Thánh Định này ra khỏi ngoài cái kinh sách phát triển, kinh sách Đại Thừa, cho nên hầu hết kinh sách Đại Thừa không có nhắc đến cái tên Tứ Thánh Định, không có nói đến cái Tứ Thánh Định mà chỉ nói những loại thiền định ngoài cái bốn thiền định này.
“Vì những nhà viết kinh Đại Thừa không sao giải thích Tứ Thánh Định được, nên họ bịa đặt ra cái tên Tiểu Thừa Thiền, Phàm Phu Thiền, và độc ác hơn nữa thì họ gọi là thiền ngoại đạo.”
Đó, thì các thầy cũng thấy rằng những cái danh từ này đều là những cái nhà học giả, mà chúng ta thường gọi họ là những bậc Tổ sư đó, thì họ không có triển khai nổi cái Tứ Thánh Định là một cái loại thiền rất là đặc biệt.
Mới bắt đầu vào, thì như quý thầy biết rằng, khi mà chúng ta muốn nhập được cái Sơ Thiền, thì chúng ta phải tu hết sức biết bao nhiêu cái loại pháp môn, như Tứ Chánh Cần, Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, rồi đến cái Định Vô Lậu, đó là cái phần để tu tập ngăn chặn ác pháp và lòng ham muốn của mình.
(14:06) Còn cái phần mà giữ gìn thì phải lấy cả cái giới bổn, 250 giới Tỳ Kheo, 348 giới Tỳ Kheo Ni, và đồng thời phải sống một đời sống thiểu dục tri túc. Rồi phải phòng hộ sáu căn, mà Phật còn gọi là “Thánh phòng hộ sáu căn”, thế mà chúng ta mới đạt được cái Sơ Thiền, mới ly dục, ly ác pháp được.
Thế mà người ta gọi là Tiểu Thừa, là Phàm Phu Thiền, là thiền ngoại đạo, thì Thầy không hiểu họ đã hiểu Phật pháp như thế nào, mà họ dám nói những cái lời nói như vậy. Họ dám hạ những cái pháp mà Phật đã gọi là Tứ Thánh Định.
Mà Thầy có nhắc xác định được trong cái bốn thiền này, mà Đức Phật đã xác định là Như Lai Trú, là Phạm Trú, là Thánh Trú. Lấy bốn cái loại thiền này Đức Phật muốn nói đến cái sự an trú của một bậc Thánh, một bậc Như Lai, thì Đức Phật nghe nói Thánh Trú thì chúng ta biết rằng bốn loại thiền này, mà nghe nói Phạm Trú tức là đức hạnh của một người tu sĩ, là phải biết đó là nói bốn thiền này.
Cho nên cái xác định của Đức Phật rất rõ ràng về bốn loại thiền này để chỉ cho chúng ta biết rằng một cái sai, cái đúng của thời nay. Rồi đây một lúc nữa Thầy sẽ đọc cái bài kinh, ngay cả kinh Nguyên Thủy, mà người ta kết tập lại thành một cái bài kinh gọi là Thân Hành Niệm, rồi Thầy sẽ phân tích được cái sai, cái đúng của họ.
Trong khi đó chúng ta học về cái pháp Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, để ngăn chặn các ác pháp không cho sanh khởi, thì chúng ta mới biết được cái sai, cái đúng của người sau này đã thêm thắt đã làm lệch cái bản kinh, cái bài kinh mà trong cái bộ kinh Nguyên Thủy nữa chớ chưa phải là kinh Đại Thừa.
Đó là cái người sau họ đã làm lệch đi, để làm cho người đời nay không có tu hành, không có chứng được cái lý, cái thực cụ thể của Phật pháp, cho nên không làm sao mà dám nói cái đó sai, chỉ biết cái bài kinh đó là cái bài kinh của Phật, chớ còn không dám nói nó sai. Trừ ra có những người có kinh nghiệm tu hành, mới biết nó sai, đúng mà thôi.
(16:40) Và đồng thời còn phải xác định bằng một cái cuộc thực nghiệm trở về với cái thời quá khứ bằng cái sức lực của đạo lực Tam Minh mà rõ được, nghe được cái lời giảng của Đức Phật cách đây 2540 năm, mới xác định được cái bài kinh đó đúng sai. Chớ nếu mà không có những cái lực đạo như vậy, thì những cái bài kinh này làm sao chúng ta dám xác định nó đúng hay là sai.
Họ dám in, họ dám viết ra như vậy, để cho tới bây giờ chúng ta chưa biết rằng một người nào mà cả gan dám làm một cái điều này, mà để rồi kinh điển, để người sau không có biết đường lối đâu đúng, đâu sai, không dám nói sai, dù có biết sai cũng chẳng dám nói sai.
Như vừa rồi các Thầy và các con cũng đã đọc ở trong cái tập Đường Về Xứ Phật tập một, trong cái bài kinh Jivaka ở Trung Bộ Kinh, kinh Nikaya, thế mà người ta chỉ cần thêm mấy chữ thôi cũng đã làm lệch được cái ý của Phật pháp rồi. Từ đó người ta chạy theo dục lạc, mà người ta thọ hưởng những thịt, những thực phẩm bằng cái xương máu của chúng sanh một cách là thích thú.
Thế mà người ta cứ nói rằng Phật cho phép ăn thịt chúng sanh. Đó là một dã tâm độc ác của những bậc đả phá Phật pháp đến tận cùng như vậy. Thế mà chúng ta hiện thời nay chúng ta cũng chẳng dám nói đó là sai, cũng chẳng dám nói đó là đúng.
Cho nên ở đây nói về Tứ Thánh Định mà người ta gán cho những cái tên Tiểu Thừa Thiền, Phàm Phu Thiền và Ngoại Đạo Thiền, thật là đau lòng cho Phật pháp biết mấy! Những pháp môn siêu việt giúp cho con người ta đủ đạo lực để làm chủ sự sống chết và còn làm những việc siêu việt không thể lường được.
Như trong kinh điển Phật nói, nếu dùng bàn tay rờ mặt trăng, mặt trời, thế là một việc siêu việt như vậy mà không từ ở trên Tứ Thánh Định này thì làm sao làm những điều đó được?
Đến bây giờ cũng chẳng có nhà học giả nào triển khai Tứ Thánh Định này được. Vì hiện giờ chưa có một bậc Hòa thượng, một bậc tôn túc nào, một hành giả nào mà triển khai Tứ Thánh Định này cho có đường lối, cách thức tu tập đúng cách của nó, nên gặp Tứ Thánh Định họ lờ qua.
“Kinh sách của các học giả viết rất nhiều về Tứ Niệm Xứ, Tứ Diệu Đế, Sổ Tức Quan, Thập Nhị Nhân Duyên, chưa hề có cuốn kinh sách nào nói về Tứ Thánh Định.”
(19:41) Bởi vậy các thầy cũng như là các con, nếu mà đi ra nơi nào phát hành kinh sách để tìm một cái cuốn sách mà nói về Tứ Thánh Định thì chẳng có một cái nhà học giả nào mà dám viết nó hết, dám biên soạn nó ra hết.
Họ chỉ nói Tứ Niệm Xứ, Tứ Diệu Đế, Sổ Tức Quan, Thập Nhị Nhân Duyên, hoặc là Thập Thiện, hoặc là các cái loại kinh sách phát triển của Đại Thừa nói về thiền Phản Quang Tự Tánh hay hoặc là những cái pháp thiền Kiến Tánh, hay hoặc là những cái pháp thiền như “chẳng niệm thiện niệm ác, bản lai diện mục hiện tiền”. Đó là những pháp thiền để người ta tu, hy vọng được giải thoát.
Còn trái lại thì Tứ Thánh Định, thì họ chẳng dám rớ vào để mà nói cách thức tu tập như thế nào.
“Bởi vậy Tứ Thánh Định là pháp môn làm chủ được sự sống chết của chúng ta, sanh lão bệnh tử, tức là pháp môn giải quyết kiếp sống con người, chấm dứt đau khổ và luân hồi, một pháp môn tuyệt vời, có một đạo lực kinh khủng, tịnh chỉ hơi thở và các hành trong thân một cách tài tình.
Thế mà ai biết nó là một pháp môn quý báu và vô giá. Người ta chỉ còn biết miệng lưỡi lừa của các vị Tổ sư: Tiểu Thừa Thiền, Phàm Phu Thiền, Ngoại Đạo Thiền.”
Nghĩa là bây giờ người ta nói đến Tứ Thánh Định, thì người ta chỉ biết nó là Tiểu Thừa Thiền, Phàm Phu Thiền và Ngoại Đạo Thiền, chớ người ta chẳng có biết nó là một cái pháp quý báu và vô giá.
Nó làm chủ được cái sự sống, sự chết của con người, nó chỉ cần ra lệnh là hơi thở tịnh chỉ ngay liền, các hành ngưng hoạt động. Người ta không hiểu được cái pháp tuyệt vời và quý báu như vậy thì làm sao người ta tu tập làm chủ được sanh tử luân hồi?
(21:59) Bây giờ cô Diệu Quang hỏi tiếp Thầy.
Hỏi: (Đáp:) “Sổ Tức Quan, và Định Niệm Hơi Thở khác nhau rất xa. Sổ Tức Quan thì ức chế tâm bằng cách đếm số. Định Niệm Hơi Thở dùng pháp hướng Như Lý Tác Ý nên nhẹ nhàng diệt Tầm, tâm tỉnh thức hoàn toàn, không bị loạn tưởng.”
Cô Diệu Quang hỏi Thầy, cái pháp Sổ Tức Quan và cái Định Niệm Hơi Thở nó khác nhau và giống nhau như thế nào, xin Thầy dạy rõ cho chúng con hiểu? Thì Thầy trả lời:
“Sổ Tức Quan và Định Niệm Hơi Thở khác nhau rất xa. Sổ Tức Quan thì ức chế tâm bằng cách đếm số.”
Ở đây các con nghe rõ chớ không khéo thì các con tưởng Định Niệm Hơi Thở với Sổ Tức Quan là giống nhau.
Vì trong cái Ngũ Đình Tâm Quán mà ở các bậc Tôn túc họ kết hợp lại, từ cái quán từ bi để đối trị tâm sân, quán bất tịnh để đối trị tâm sắc dục, quán sổ tức quan để đối trị tâm loạn tưởng, thì tất cả những cái pháp này họ kết hợp lại, họ gọi là Ngũ Đình Tâm Quán.
Chớ trong kinh điển của Phật thì không có sử dụng cái Sổ Tức Quan này, mà họ đã lượm lặt nơi các kinh điển của các Tổ viết ra, rồi họ kết hợp lại những cái bài pháp như quán bất tịnh, quán từ bi của Phật để họ kết hợp lại, họ gọi là Ngũ Đình Tâm Quán.
Cho nên ở đây chúng ta tu hơi thở mà hơi thở nào gọi là Sổ Tức Quan, mà hơi thở nào gọi là Định Niệm Hơi Thở? Do hai cái pháp môn này nó khác nhau rất xa, chớ không có giống nhau đâu.
(24:02) Sổ Tức Quan thì phải biết rằng cách thức của nó là ức chế tâm bằng cách đếm số.
“Định Niệm Hơi Thở dùng pháp hướng Như Lý Tác Ý nên nhẹ nhàng diệt Tầm, tâm tỉnh thức hoàn toàn không bị loạn tưởng, hôn trầm thùy miên, vô ký.
Sổ Tức Quan do ức chế tâm, diệt Tầm Tứ nhưng chẳng được, nhưng chẳng đưa hành giả đi đến đâu, chỉ loanh quanh ở mê hồn trận của xúc tưởng hỷ lạc, nên chẳng lợi ích gì cho người tu tập.”
Đó thì, cái Định Niệm Hơi Thở thì nó có cái nghĩa nó khác, mà cái Sổ Tức Quan thì cái nghĩa nó khác, nó đi vào ở chỗ diệt Tầm Tứ để nó đạt được cái trạng thái hỷ lạc, rồi nó ở đó nó không biết cái đường ra, cho nên nó loanh quanh, loanh quanh ở trong đó rồi nó rơi vào thùy miên, vô ký, hoặc là hôn trầm. Còn cái Định Niệm Hơi Thở thì nó có cái mục đích nó khác.
Cho nên nó, như Thầy đã nói cái Định Niệm Hơi Thở là cái pháp trợ duyên, nó trợ giúp cho các pháp khác. Cho nên ở đây Thầy trả lời cho cô Diệu Quang là:
“Định Niệm Hơi Thở là pháp môn trợ giúp cho hành giả tu tập nhập các loại định khác, nên nó có lợi ích rất lớn cho đường tu tập giải thoát.”
Mục đích của cái Định Niệm Hơi Thở là nó là trợ cho các pháp, chớ nó cũng không giúp cho chúng ta đi đến cái mục đích cứu cánh giải thoát được, nó giúp cho các pháp mà thực hiện được cái giải thoát, cái mục đích giải thoát.
“Định Niệm Hơi Thở là trợ pháp cho các pháp môn khác để đạt được viên mãn cứu cánh, nên nó là pháp môn có hiệu quả và có lợi ích lớn.
Nghĩa là nó giúp cho các pháp môn khác, để chúng ta tu tập nó đem lại cái kết quả.
Bây giờ một cái ví dụ mà các thầy và các con cũng sẽ thấy rất là dễ: Khi chúng ta tu tập Chánh Niệm Tỉnh Giác, như đi kinh hành nè, bây giờ chúng ta tập trung ở trên cái bước đi của chúng ta, chúng ta nhớ được cái bước đi của chúng ta một lúc, rồi cái bắt đầu chúng ta lại quên đi.
Nhưng mà chúng ta biết kết hợp với cái hơi thở, hơi thở vô với hơi thở ra, thì chúng ta vừa thấy được cái bước đi của chúng ta, mà vừa biết được hơi thở, nương vào hơi thở để thấy bước đi càng ngày càng tỉnh hơn.
(26:23) Các thầy có kinh nghiệm tu hành các thầy mới thấy được cái điều mà kết hợp cái Định Niệm Hơi Thở với cái Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, hai cái kết hợp lại thì quý thầy thấy cái này rất rõ.
Còn nếu quý thầy chưa có tu tập được thì quý thầy tập thử đi, rồi nghe cái lời Thầy coi có không. Ở trong chúng đây có người mà tập mà kết hợp được cái hơi thở, cái Định Niệm Hơi Thở với cái Định Chánh Niệm Tỉnh Giác mà đi kinh hành hoặc làm công việc, thì thử coi phải tỉnh không, nó rất tỉnh đó.
Đó là cách thức để tu tập để hành pháp cho nó đúng cách, mà nó làm cho chúng ta được cái sức tỉnh ngăn chặn các ác pháp không cho sanh khởi.
Cái mục đích của cái Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, là cái mục đích của nó để giúp cho Tứ Chánh Cần, như Thầy đã giảng rồi, nó ngăn chặn không cho ác pháp sanh khởi. Mà muốn cho đạt được cái Chánh Niệm Tỉnh Giác Định thì nương vào cái Định Niệm Hơi Thở, khéo léo giữ gìn cái hơi thở một bên với cái tỉnh thức ở trong cái hành động của chúng ta, thì nó sẽ kéo dài và nó rất tỉnh.
Đó là những cái mà chúng ta khéo kết hợp câu hữu nó trở lại để mà chúng ta tu tập. Thì ở đây có người nào mà đã có cái kinh nghiệm tu tập, thì cái lời nói của Thầy nó không phải là nói sai đâu, chúng ta làm thử rồi chúng ta sẽ thấy được cái chỗ mà vi diệu của cái Định Niệm Hơi Thở, nó trợ giúp cho cái Chánh Niệm Tỉnh Giác rất là tỉnh thức.
“Định Niệm Hơi Thở là trợ pháp cho các pháp môn khác để đạt được viên mãn cứu cánh, nên nó là pháp môn có hiệu quả, có lợi ích lớn. Hành giả tu tập mà bỏ Định Niệm Hơi Thở thì kết quả chẳng có ích lợi nhiều đâu.”
Nghĩa là cái kết quả nếu mà bỏ cái Định Niệm Hơi Thở mà mình tu nội cái Chánh Niệm Tỉnh Giác không thì kết quả không lớn, tức là cái thời gian nó không dài ra đâu, nó rất khó.
(28:20) Bây giờ cô Diệu Quang hỏi tiếp Thầy:
“Kính bạch Thầy! Tại sao Phật giáo lấy giới luật làm pháp môn đầu tiên để tu tập, không lấy Thiền Định và Trí Tuệ tu tập trước như các nhà Đại Thừa Bắc Tông và Thiền Tông?”
Nghĩa là cô Diệu Quang hỏi Thầy: Tại sao Phật giáo lấy giới luật mà tu trước để làm cho con người tu quá khổ, quá là khổ hạnh, phải đời sống phải sống trong giới luật chớ không được, phải thiểu dục tri túc như vậy, thì phòng hộ sáu căn như vậy, nó làm cho cái người tu phải sống một đời sống quá khổ.
Còn Bắc Tông, tức là Đại Thừa, các nhà Đại Thừa Bắc Tông với Thiền Đông Độ thì người ta lấy thiền định mà người ta tu trước, người ta lấy sự học tức là trí tuệ người ta tu trước, cho nên người ta không có giữ gìn giới luật, cho nên đời sống người ta thoải mái, dễ chịu, người ta tu thấy nó thích hơn là cái tu mà lấy giới luật.
Đó là cái ý của cô Diệu Quang là thấy một số các thầy, cũng như các con mà về đây tu tập, khép mình ở trong cái kỷ luật, giới luật như vậy, thấy nó làm quá khắc khổ. Thay vì một ngày mình ăn hai, ba bữa, thì mình ăn có một bữa, rồi tập ít nói, rồi tập phòng hộ sáu căn, rồi tập xả tâm cái này cái kia rất là cực.
Còn cái kia người ta chỉ có ngồi thiền định thôi, hoặc là người ta đến, người ta nghe người ta học Khổ Dế, Diệt Đế, Đạo Đế như thế nào. Người ta học hiểu vậy thôi, chớ còn người ta không có áp dụng, người ta học giới luật người ta cũng hiểu biết thôi, mà người ta không có áp dụng vào cái đời sống người ta cho nên người ta thoải mái, người ta dễ chịu.
Còn mình đây tu tập như vậy mình thấy quá khổ, cho nên cái ý của cô Út muốn hỏi để cho chúng ta hiểu cho thấu suốt tại sao mà Đức Phật lại không lấy, như các nhà Đại Thừa, như Thiền Tông mà tu tập, lại bắt buộc chúng ta phải lấy giới luật mà làm đầu?
(30:19) Đáp: “Đạo Phật thấy suốt được lý nhân quả.”
Nghĩa (là) đạo Phật mà ra đời là đã thấy được cái nhân quả, thấy suốt được cái nhân quả.
“Nên tất cả giáo pháp…”
Của mình đó, của Đức Phật đó.
“… thì đều được xây dựng trên nền tảng thiện pháp.”
Nghĩa là tất cả những cái bài thuyết giảng, bài pháp nào cũng đều là nhằm để chúng ta thực hiện ở trên cái thiện pháp. Như bây giờ chúng ta tu Tứ Chánh Cần, chúng ta thấy cái pháp Tứ Chánh Cần, thì nó là cũng thực hiện ở trên thiện pháp mà đoạn trừ cái ác pháp.
Rồi bây giờ như Tứ Thiền, như là Tứ Diệu Đế, như là các cái pháp Tứ Niệm Xứ, đều là giúp cho cái thân, thọ, tâm, pháp của chúng ta đều là ở trong pháp thiện, không có ở trong pháp ác. Tất cả những cái pháp mà chúng ta thực hành cũng đều là pháp thiện.
Rồi giới luật cũng dạy toàn bộ là thiện không, chớ không có cái nào mà dạy trong cái ác pháp. Nghĩa là các pháp hành, các giới hành này, nó là các pháp để mà chúng ta hành, để mà chúng ta đem lại cái pháp thiện ở trong thân và tâm và thọ của chúng ta và các pháp.
Thì như vậy, cho nên Đức Phật đã thấy suốt được cái lý nhân quả, do nhân quả thiện và ác mà tạo con người khổ.
Cũng như Thầy có thường nhắc ở trong cái lúc Thầy mà Thầy giảng về cái giáo án này, thì Thầy có nhắc: từ cái nhân quả mà chúng ta sanh ra chớ không phải chúng ta ở cõi nào mà chúng ta đến. Do cái nhân quả mà chúng ta sanh ra. Rồi chúng ta chết đi chúng ta cũng trở về nhân quả.
Do cái chỗ đó, nếu mà đạo Phật không thấu suốt được cái lý nhân quả thì chắc chắn không có xây dựng cái giáo pháp của mình ở trên cái nền tảng của nhân quả.
Cho nên thấy được cái nhân quả nó chi phối con người như vậy đó, từ cái chỗ mà chúng ta sanh ra cũng từ nơi đó, mà nó từ vô thủy của nhân quả chớ không phải là mới đây. Rồi bắt đầu chúng ta chết đi thì chúng ta cũng trở về nhân quả, tiếp tục ở trong nhân quả để tiếp diễn cái sự luân hồi của chúng ta mãi mãi trong nhân quả.
(32:27) Do cái chỗ này cho nên đạo Phật mới đặt cái nền tảng pháp môn của mình ở trên nền tảng của nhân quả, lấy cái thiện pháp làm cái mục đích để đi vào cái sự cứu cánh giải thoát cho chính mình. Cho nên pháp của Phật từ cái bài pháp đầu tiên cho đến cái bài pháp cuối cùng, thì đều gọi những cái tên nó là Sơ Thiện, Trung Thiện và Hậu Thiện.
Đó thì như vậy là chúng ta đã rõ, mà nếu mà lấy một cái gì khác mà đi ngược lại, thì chắc chắn là sẽ không đúng đạo Phật.
“Giới luật của Phật gồm có giới bổn, giới đức, giới hạnh, giới tuệ, giới hành.”
Mà Thầy đã giảng từ cái giới bổn, đến giới đức, giới hạnh, giới tuệ rồi, bây giờ cái hạ năm nay là giảng về giới hành, tức là các pháp môn để hành, để đạt được cái giới luật cho nó được nghiêm túc và đời sống của chúng ta được giải thoát hoàn toàn các ác pháp, ra khỏi các ác pháp.
“Nói đến giới tức là nói đến thiện. Nói đến thiện tức là nói đến sự an vui, thanh thản của tâm hồn. Mà đã an vui, thanh thản của tâm hồn là giải thoát khổ cuộc đời.”
Đó, thì chúng ta thấy thiện là nó sẽ giải thoát được cái đau khổ của cuộc đời, mà chính chúng ta đi tìm sự giải thoát khỏi cái sự đau khổ của cuộc đời, cho nên phải lấy cái pháp thiện mà làm cái mục đích mà chúng ta phải nhắm đến con đường tu tập.
“Muốn được an vui, thanh thản của cuộc đời không gì hơn là phải sống đúng giới luật.”
Nghĩa là muốn được cuộc sống mình an vui, thanh thản thì phải lấy giới luật mà sống, thì nó mới giải thoát được.
(34:12) “Nhờ giới luật mà tâm mới ly được ác pháp và lòng ham muốn của chúng ta. Tâm ly được ác pháp và lòng ham muốn thì tâm nó trong sạch và thanh tịnh. Do tâm trong sạch và thanh tịnh tức là thiền định. Vì thế Đức Phật dạy: Giới sanh Định.”
Rõ ràng là khi tâm của chúng ta ly dục và ly ác pháp thì nó mới thanh tịnh. Mà nó mới thanh tịnh, cái thanh tịnh đó đó, tức là thiền định. Vì thế mà Đức Phật nói do giới mà sanh định, do giới làm cho tâm chúng ta thanh tịnh, mà thanh tịnh tức là định, vì vậy gọi là: Giới sanh Định.
“Khi tâm đã có định, định là sự nghỉ ngơi thân và tâm.”
Tâm mình bây giờ nó có định rồi, nó là cái sự nghỉ ngơi. Còn trước kia mình chưa ly dục ly ác pháp, thì phải dùng giới, phải sống cho đúng cái hạnh giới, thì nó rất là khắc khổ, nó làm cho mình cực khổ trên bước đường tu tập. Nhưng mà sau khi mà cái tâm nó thanh tịnh rồi, nó có định rồi, thì từ đó cái định là một sự ngơi nghỉ của thân tâm của mình.
“Do sự ngơi nghỉ này tâm nó được lóng sáng.”
Mình càng ở trong cái thiền định thì tâm của mình nó được lóng sáng.
“Tâm được lóng sáng nên tâm rất sáng suốt, không còn bị kiến chấp và ngã chấp…”
Nó sáng suốt, cho nên mỗi cái mà hồi nào tới giờ mình hiểu mà mình cho nó rằng đúng, bây giờ mình đều sáng suốt mình nhận ra cái sai.
Cũng như hồi nào tới giờ Thầy không biết cái bài kinh này sai, cho nên cứ thấy nó là đúng. Nhưng mà sau khi cái tâm nó lóng sáng được ở trong định rồi, lần lượt nó phá được cái kiến chấp “đúng” đó, nó thấy những cái bài kinh đó các bậc Hòa thượng, các bậc thầy dạy mình nói rằng đúng, nhưng bây giờ Thầy thấy nó là sai.
Cho nên cái bị cái kiến chấp của người khác nhồi nhét vào mình đó, thì mình đã xả ra được, mình thấy nó sai. Và cũng từ đó cái ngã chấp của mình, nó cũng từ cái sáng suốt đó mà cái ngã của mình nó bị triệt tiêu đi, nó bị chấm dứt đi, nó không còn chấp ngã nữa, ngã chấp.
“…thấy suốt lậu hoặc của con người là khổ.”
Nghĩa là chúng ta thấy được cái kiến chấp, cái ngã chấp và thấy được cái lậu hoặc của con người là khổ, tất cả những cái này đều là khổ.
“Vì sự thấu suốt này khiến cho hành giả giải thoát hoàn toàn ra khỏi tâm lậu hoặc. Vì thế Đức Phật dạy: Định sanh Tuệ là vậy.”
(36:34) Tuệ không có nghĩa là cái trí tuệ hiểu mênh mông cái gì cũng hiểu hết mà không đúng vào cái con đường giải thoát, thì cái sự hiểu đó cũng là cái hiểu sai, không có đúng.
Cho nên cái hiểu này, bây giờ nó rõ thấu được. Rõ thấu được thứ nhất là do lậu hoặc mà con người khổ. Nó rõ thấu được là cái Tứ Diệu Đế là cái khổ, rồi cái nguyên nhân mà nó tập hợp những sự đau khổ, rồi diệt cái khổ đi, diệt cái nguyên nhân khổ đi, thì ngay đó là một trạng thái giải thoát.
Rồi từ đó nó suy ra, nó biết được tám cái nẻo để đi đến cái chỗ mà Diệt Đế, đi đến cái chỗ giải thoát đó, cho nên nó thấu rõ, thấu rõ thật rõ. Vì vậy mà nó thấu rõ thật rõ, thì hoàn toàn lậu hoặc nó sẽ đoạn dứt.
Còn bây giờ chúng ta hiểu biết bằng cách là chúng ta được người khác dạy cho hiểu biết, nhưng chúng ta chưa thấu rõ. Thấu rõ phải do cái định, cái tâm nó có định, nó lóng sáng, thì lúc bấy giờ chúng ta mới thấu rõ tận nguồn gốc của sự đau khổ con người.
“Cho nên trong Tứ Thánh Định Đức Phật dạy rằng: ly dục ly ác pháp nhập Sơ Thiền, do ly dục sanh hỷ lạc. Khi nào tâm định trên thân, thân định trên tâm thì hướng đến Tam Minh sẽ thấu rõ.”
(37:58) Bây giờ từ cái chỗ mà chúng ta ly dục ly ác pháp, chúng ta mới nhập được cái Sơ Thiền, thì ở trong Tứ Thánh Định xác định rõ, từ cái chỗ mà thiền thứ nhất thì chúng ta phải đi vào cái giới, nó mới sanh ra được cái định, từ cái định đó thì chúng ta mới thấy được thân định trên tâm và tâm định trên thân. Lúc bấy giờ cái thân mà nó định thì nó bất động, nó không còn thở, nó mới định. Nó còn thở thì làm sao mà nó định được?
Cho nên khi mà nó định trên tâm của nó được rồi, thì lúc bấy giờ chúng ta hướng tâm của mình đi đến Tam Minh, thì mình sẽ thấu rõ.
“Thấu rõ thứ nhất như thế nào? Một là Túc Mạng Minh, hai là Thiên Nhãn Minh, ba là Lậu Tận Minh. Ba Minh này đã viên mãn tức là trí tuệ giải thoát của đạo Phật hiển hiện, hành giả sẽ hoàn toàn giải thoát, làm chủ sanh tử, chấm dứt luân hồi.
Ngược lại đạo Phật Đại Thừa…”
Đó thì cái đạo Phật mà chúng ta tu theo cái đường lối của đạo Phật, thì khi mà chúng ta đủ Tam Minh thì chúng ta chấm dứt sanh tử luân hồi, chúng ta hoàn toàn là không còn tu tập nữa, nghỉ ngơi cho khỏe, chứ chúng ta hết có cái pháp nào mà gọi là tu nữa.
(39:10) Còn bây giờ nói về cái đạo Phật Đại Thừa, tức là đạo Phật phát triển:
“Ngược lại đạo Phật Đại Thừa, thì Bắc Tông và Thiền Tông lấy kiến thức học tập làm trí tuệ…”
Lấy cái sự huân học, hiểu bài học này, bài kinh kia, hiểu biết rộng rãi, thì đó gọi là trí tuệ, sự hiểu biết.
“… lấy ức chế tâm làm thiền định…”
Lấy cái chỗ mà ức chế, dùng cái pháp môn mà ức chế cái tâm mình để làm cho cái Tầm Tứ nó không khởi lên cái niệm, thì họ lấy cái pháp đó họ tu, lấy cái học và lấy cái pháp ức chế đó mà họ tu tập.
“… còn giới luật thì không cần giữ gìn, nên đức hạnh của một vị Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni không có.”
(39:56) Cho nên nhìn vào cái giới mà Phật giáo Đại Thừa với Thiền Tông thì cái giới luật họ không có nghiêm chỉnh, họ ăn uống phi thời, họ sống trong chùa to tháp lớn, họ sống trong những cái vật chất đầy đủ, không thiếu một thứ gì hết.
Do đó cái tâm của họ nó chạy theo những cái dục lạc của thế gian. Đời có những vật gì, thì ở thế gian người ta có giàu có, người ta có vật gì, thì ở trong chùa họ cũng có những vật nấy, họ không thua gì ở ngoài đời chút nào hết.
Nghĩa là đời sống của họ cũng đầy đủ vật chất như các người khác chớ không có thua. Do cái chỗ mà họ không có giữ gìn giới, cho nên cái đời sống của họ nó thiếu cái hạnh, thiếu cái đức hạnh của một vị tỳ kheo.
Họ cứ nghĩ rằng khi mà họ tu, họ học hiểu rồi, họ tu cái pháp thiền định mà ức chế tâm, sau khi đạt được thì giới luật họ nghiêm chỉnh, họ nghĩ như vậy.
“Cuộc sống của tu sĩ đời chẳng ra đời, đạo chẳng ra đạo, danh lợi giống như người thế gian.”
Đó thì các thầy quán xét những cái lời mà Thầy giải thích cho cô Diệu Quang, có đúng hay là không. Rất là đúng trong cái hiện đại, vì chúng ta đang tiếp xúc với các thầy tu Thiền Tông và các thầy tu theo pháp môn Đại Thừa, thì chúng ta thấy đời sống của họ rõ ràng cụ thể, chứng minh cho lời nói của Thầy không có vu khống họ chút nào.
Nhưng chúng ta cũng biết rằng trong cái giới tu sĩ hiện giờ có những người rất là tha thiết. Họ không có nề hà cái sự giữ gìn giới luật, nhưng họ chưa biết pháp môn, cho nên họ đang sống trong cái cảnh họ đang lầm lạc, mà họ chưa biết cái pháp môn chơn chánh để họ hoài đầu, đi hướng về con đường của đạo Phật.
Nếu một ngày nào họ biết rằng giới luật để đưa họ đi vào cái chỗ giải thoát, tâm thanh tịnh để đi đến thiền định chơn chánh của đạo Phật, nhập được bốn thiền Tứ Thánh Định, thì chắc chắn họ sẽ hoài đầu trở lại rất nhanh. Họ không hề ham danh, ham lợi, ham chùa to tháp lớn, mà họ chỉ còn đi chọn lấy một cuộc đời giải thoát như Đức Phật, và các bậc Thánh Tăng mà thôi.
Đó là trả lời cho cô Diệu Quang khi cô hỏi về cái giới luật và cái cách thức tu của các tu sĩ hiện giờ.
Như vậy thì các thầy cũng như quý con đã hiểu biết cái đường lối tu tập Giới Định Tuệ. Mà hiện giờ thì người ta tu về tuệ và định mà bỏ giới, còn chúng ta thì quá khắc khổ là vì chúng ta tu từ giới đi vào thiền định rồi mới tới tuệ.
(42:46) Hỏi: “Kính bạch Thầy, theo chỗ con hiểu thời nay người tu sĩ lấy sự hiểu biết tu trước, Tuệ, kế đó tu Định, hoặc là Tuệ Định song tu, Thiền Giáo đồng hành.”
Nghĩa là họ vừa học mà vừa tu thiền định. Nghĩa là vừa hiểu, học hiểu giáo lý lời Phật dạy ở trong kinh Đại Thừa và tập thiền định ức chế tâm. Nghĩa là có khi thì họ tu trước bằng cái trí tuệ, như có nhiều người bây giờ họ chạy theo họ học về giáo lý của Phật, để lấy cấp bằng này cấp bằng kia, thì họ không có thời gian rảnh rỗi để mà tu thiền định, cho nên họ chỉ chuyên học mà thôi.
Rồi thậm chí như học sinh ngữ, Anh ngữ hay là Pháp ngữ, hay Nga ngữ, hay Nhật ngữ, hay Hoa ngữ để nó làm một cái đà tiến ở trên cái sự học hỏi của họ, từ cái Cử nhân họ đến cái bằng Tiến sĩ, họ phải dùng một cái loại ngoại ngữ để đi du học. Thì đó là họ chuyên về cái tuệ mà họ không có chuyên về định.
Còn có chỗ thì Định Tuệ song tu, tức là Thiền Giáo đồng hành, nghĩa là họ vừa học mà vừa tu thiền định, rồi họ học để sách tấn cho cái sự tu tập của họ. Nghĩa là bữa nay giờ này thì họ ngồi thiền, nhưng mà sáng mai thì họ ngồi họ nghe bài kinh thuyết giảng, để làm cho họ phấn khởi trong lòng họ, đặng họ nỗ lực họ tu thiền nữa.
Cứ mỗi một bài pháp là sách tấn họ làm cho họ tu đạt được hay không được. Nhưng mà mỗi lần nghe một cái bài pháp của một vị Tổ sư, hay một vị tôn túc nào dạy một cái pháp thiền, nói nó đúng cái chỗ mình tu, làm như mình thấy nó đúng quá, đúng quá làm cho mình ham thích tu thêm nữa, coi như là hâm nóng mãi mãi.
Thiền Giáo đồng hành, có nghĩa là hâm nóng mãi mãi để cho người ta tu. Chớ còn nếu mà không có học giáo thì người ta tu một thời gian sau người ta chán. Là vì người ta sẽ thấy không có kết quả trong cái sự tu tập, mà không được nghe cái lời mà sách tấn khuyến khích thêm, thì họ sẽ bỏ cuộc tu.
(45:01) Do đó, vì vậy mà có một cái pháp môn gọi là Định Tuệ song tu, vừa tuệ mà vừa định tu song song với nhau.
“Họ nghĩ rằng tu như vậy tâm lần lần thanh tịnh, đạt được sự giải thoát.”
Nghĩa là định tuệ song tu như vậy đó. Tuệ là cái sự hiểu biết nó giúp cho mình siêng năng tinh tấn tu định mà không có thối tâm, không có bỏ cuộc, và sự tu tập như vậy, vừa hiểu mà vừa có tập ức chế tâm như vậy, tâm dần dần nó thanh tịnh nó không còn cái vọng tưởng nữa. Do cái sự thanh tịnh này, họ sẽ đạt được cái sự giải thoát hoàn toàn.
“Thì chừng đó giới luật không giữ mà giới luật nghiêm túc.”
Họ nghĩ rằng sau này mình không cần giữ, mà tới chừng mà tâm mình thanh tịnh rồi, thì bắt đầu nó không có ăn uống phi thời nữa, nó không có phạm giới nữa, họ nghĩ như vậy. Nhưng mà cái nghĩ tưởng như vậy, nó thành ra hiện giờ một số tu sĩ, tu đã mười năm, hai ba chục năm về tuệ định song tu đó, cho đến giờ này thì giới luật họ cũng chẳng nghiêm túc.
Do giới luật chẳng nghiêm túc thì biết rằng họ chưa giải thoát hoàn toàn. Và họ chưa giải thoát hoàn toàn thì giới luật, do cái chỗ tu như vậy, cho nên hy vọng của họ là khi mà thiền định, mà định với tuệ mà tu như vậy, thì nó sẽ đạt được, nghiêm trì được giới luật, nhưng mà cuối cùng thì không có đạt được một cái gì hết.
“Có phải vậy không thưa Thầy?”
Đó là Cô Út hỏi Thầy có phải họ tu như vậy có được không?
Đáp: “Điều con hiểu rất đúng nhưng kết quả đi ngược lại, tâm dục lạc thế gian đầy rẫy, khéo che đậy mà thôi. Bản ngã to lớn, thích tranh luận hơn thua, tìm mọi cách đánh lạc hướng, khiến cho tín đồ không phân biệt đâu là Chánh Pháp của Phật, đưa ra nhiều luận giải của tưởng pháp, tạo hình ảnh trừu tượng “tâm phủ trùm vạn hữu”.”
Đó tức là, khi mà họ đưa ra những cái luận giải của họ, họ tưởng ra, họ giải thích ra như cái tâm họ phủ trùm cả cái vạn hữu ở trên thế gian này, coi như là họ đã hoàn thành được cái tâm rộng lớn mênh mông của họ đó.
“Đó là tâm phủ trùm vạn hữu…”
Đó là cái cách thức hình ảnh trừu tượng của họ, họ tưởng tượng ra nó, cái tâm họ phủ trùm vạn vật như vậy.
“… còn hình ảnh mê tín thì họ "phản bổn hoàn nguyên".”
Trong cái chỗ mà…
(Xem tiếp ở Pháp hành 07)
HẾT BĂNG
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Thời gian: 1998
(0:00) Cho nên nó biến ra cái hành động tụng niệm, cúng bái, sám hối. Thường thường nó phải từ cái chỗ mà cúng bái tụng niệm, dù là một ngày một đêm họ chỉ cúng bái tụng niệm một lần hoặc hai lần, điều đó cũng còn cái hình ảnh của sự lạc hậu, không đúng với Chánh Pháp của Phật.
Bởi vì họ chỉ nương vào cái chỗ tụng niệm để làm cho họ, sách tấn cho họ con đường tu, họ thấy họ còn có cái hình ảnh tu, chớ nếu không thì họ thấy họ không có cái gì mà để tu hết.
Thì ở đây chúng ta thấy từ cái hình ảnh trừu tượng đó là "tâm phủ trùm vạn hữu" đến cái chỗ mê tín để gạt người thì coi như là "phản bổn hoàn nguyên", trở về với cái cội nguồn, cội gốc của nó. Đó là cái mê tín, cái sự thật nó không có cái chỗ mà, cái gốc mà để chúng ta trở về. Đó là một cái.
Cũng như nói không có cõi Cực Lạc mà người ta nói có cõi Cực Lạc, có Đức Phật Di Đà, đó là một cái hình ảnh mê tín, nó gạt người ta. Bởi vì Phật đã dạy là chúng ta không có cái linh hồn, mười hai nhân duyên diệt thì chúng ta không còn một cái gì mà còn lại hết, thì đâu còn cái vật gì mà gọi là trở về Cực Lạc được! Thế mà còn một vật trở về Cực Lạc thì tức là một cái linh hồn. Mà có linh hồn thì mới có cảnh giới siêu hình.
"Phản bổn hoàn nguyên" vốn mục đích cũng như vậy, nhưng mà cái tên nghe nó hay ho hơn, trở về với nguồn gốc của nó. Nguồn gốc của nó, nguồn gốc của con người mà sanh ra thì kinh điển của Phật cũng xác định từ nhân quả. Bây giờ chúng ta “phản bổn hoàn nguyên" tức là trở về nhân quả, thì trở về nhân quả thì ác với thiện, có gì đâu.
Đó cho nên chúng ta thấy nó sai cái ý của Phật, cho nên nó biến thành một cái tình trạng mê tín. Mà tới biến thành cái tình trạng mê tín thì nó trái lại, thì những cái nơi chùa đó, thì họ phải cúng bái, tụng niệm, rồi sám hối.
Sám hối, khi mà chúng ta biết cái lỗi của mình thì mình cố sửa, chớ sám hối ai mà làm cho mình tiêu tội được? Ai làm cho mình hết tội được? Vì cái hành động làm ác, hành động mà làm tội là do cái nhân quả của mình. Cho nên biến từ cái chỗ cúng bái tụng niệm sám hối thành nó lạc hậu, nó không có đúng cái tính cách của cái người tu sĩ của đạo Phật.
(02:21) Đạo Phật thì không có mê tín, không có lạc hậu thì nó mới đúng tính cách của nó. Còn cái này, nó mê tín, nó trừu tượng, nó mê tín nó lạc hậu thì nó không đúng tính cách.
“Vì tu học tuệ trước nên thích bài bác.”
Bởi vì mình học, mình có cái sự hiểu biết, mình chấp, mình chưa có giữ gìn nghiêm túc đức hạnh cho nên mình không có tập sống trầm lặng, ít nói. Cho nên khi mà mình có sự hiểu biết thì cái tâm của mình nó thích lắm, nó thích cái hay ho, nó thích mình hơn người, cho nên khi mà có sự hiểu biết thì nó thích nói, nó thích đem ra những cái hay của mình khoe khoang.
Cho nên có người họ cho đó là sai, cái mình tức, vì vậy cho nên mình phải cãi cọ rồi mình tranh luận, rồi do cái chỗ mà sai cái kiến chấp của mình đi, thì mình phải bài bác cái chỗ của người ta. Do đó thì nó phải có sự chống đối, rồi phê bình, rồi chỉ trích, rồi nói xấu với nhau, nói xấu kẻ khác. Đó là nhược điểm của tu sĩ của Phật giáo thời nay.
Nó là những cái mà chúng ta thấy dùng cái tuệ mà tu trước, nó đưa đi đến cái nhược điểm, mà cái nhược điểm rất là tệ hại cho những cái vị tu sĩ của Phật giáo thời bây giờ. Đó là những cái hình ảnh mà chúng ta thấy trước mặt.
Thường thường khi mà chúng ta học hiểu được rồi, nó ấm ức trong lòng lắm, nghe ai nói gì thì nó muốn tuôn ra để mà cãi, để mà tranh luận chớ nó không chịu nín cái miệng nó lại.
Còn cái người mà tu giữ gìn giới luật thì ngay trong cái giới luật, thì về cái khẩu nó có bốn cái giới của nó, nó bắt buộc chúng ta trầm lặng, không có nói phù phiếm, không có nói tranh luận, không có nói hơn thua, không có nói xấu người khác, không có nói những cái lời mà hung ác, nói người ta thế này thế kia.
(04:11) Cũng như bây giờ các thầy cũng như là các con mà nghe Thầy giảng đây, rồi mình thấy mình học đây là đúng Chánh Pháp, còn người ta tu theo Đại Thừa hay Thiền Đông Độ nó sai. Rồi các Thầy chổng khu về bài bác người ta, chính đó là cái mình sai, mình không hiểu cái đó là mình sai.
Người ta không có đủ duyên người ta chưa gặp được Chánh Pháp. Mình có duyên mình thì mình gặp được Chánh Pháp thì mình lo tu giải thoát, cớ sao mình lại chỉ trích người ta nói sai? Cái đó là sai. Sai chỗ mình, chớ không phải Thầy dạy để các con lấy cái hiểu biết này mà đi chỉ trích người khác là làm sai.
Bởi vì Thầy dạy các con đừng có làm khổ mình, đừng có làm khổ người. Mà không làm khổ mình khổ người thì lấy chỉ trích người ta làm gì, nói người ta sai làm gì? Người ta tu sao thì người ta hưởng được cái chỗ tu của họ. Mà người ta tu không sai thì người ta hưởng được cái quả ở chỗ tu của người ta, mắc mớ gì mình lại nói.
Cho nên khéo léo. Ở đây Thầy thường cấm ngặt, là vì mình tu mình phải sống trầm lặng, mình phải sống độc cư, mình tập ít nói, không nói, nghĩa là không tranh luận hơn thua ai hết.
Ai nói mình tu sai mình cũng làm thinh chớ cũng chẳng cãi là nói tui tu đúng. Đừng có cãi, tu đúng mình biết. Vì tu đúng mình có giải thoát, còn tu sai không giải thoát, mà cố kiến chấp thì đó là sai. Còn mình tu đúng mà mình cũng kiến, mình cũng chấp rằng mình tu đúng, đó là mình sai!
Mình tu đúng thì mình biết được tâm của mình thanh tịnh, không còn tham, sân, si, không còn ham muốn cái này cái kia thì mình biết được cái chỗ giải thoát của mình, thì họ có nói sai thì mặc họ, có ăn thua gì mình? Mình giải thoát thì mình giải thoát còn họ không giải thoát thì mặc họ, cớ đâu mà mình lại tranh luận rằng tui tu đúng, còn mấy ông tu sai!
Rồi không cho người ta đi chùa đi miễu, nói đi như vậy là mê tín là này kia nọ. Nghe Thầy nói ở đây để cho mình biết được cái pháp của mình, mình đem trọn niềm tin mình tu tập, chớ không phải nói mê tín rồi mình đem ra mình bài bác nói họ mê tín, họ lạc hậu, họ xách cây họ đập mình chớ ở đó họ nhịn cho mình.
Đó thì ở đây, các con cũng như các thầy phải nghe hiểu cái chỗ này, cho nên học để biết mà tu chớ không phải học để mà tranh luận hơn thua bài xích người ta. Cái đó là cái tội lỗi, nhớ những cái lời Thầy dạy là không nên làm khổ mình và khổ người, vì mình nói làm người ta khổ, tức là người ta cũng phải tìm cách người ta làm khổ mình lại.
(06:33) *Hỏi*: “Kính bạch Thầy! Tại sao con từng đập phá tâm tham, sân, si của mọi người để họ thoát ra khỏi tam độc, được tâm giải thoát an vui và thanh thản thì họ lại oán thù con?”
Đáp: “Tại vì họ không muốn giải thoát, sợ bỏ tham, sân, si quá uổng, vì thế mà họ thù ghét con là phải.”
Bởi vì họ tiếc cái tham, sân, si, bỏ xuống đi thì nó không, hết tham, sân, si thì nó uổng quá! Cho nên vì vậy mà cô Diệu Quang đập phá để cho nó lộ cái tướng tham, sân, si, để biết cái tâm tham, sân, si của mình còn mà mình xả nó đi. Thế mà họ không chịu xả, mà khi mà họ đi ra rồi họ lại còn oán hận. Thì thật ra thì họ không muốn bỏ tham, sân, si, cho nên họ trở thành những oán hận.
Hỏi: “Tu là mục đích diệt trừ và đoạn dứt tam độc tham, sân, si. Cớ sao tu mà không chịu bỏ? Có người về đây tu hành suốt ba năm, năm năm, mười năm mà vẫn còn mang tâm đó!”
Đó thì cô Diệu Quang hỏi Thầy. Vì vậy:
“Họ còn mang tâm đó là vì họ tu sai.”
Nghĩa là họ tu cái pháp sai cho nên nó không có diệt được cái ác pháp, mà ác pháp đó là tham, sân, si. Cho nên các cái pháp mà họ đang tu đó, là họ tu sai, không đúng. Nếu mà tu đúng thì họ phải diệt cái đó được, mà họ tu sai cho nên họ diệt không được.
“Diệt ngã xả tâm, ly dục, ly ác pháp. Họ không chịu xả, ly bằng các pháp môn xả và ly. Ngược lại họ tu các pháp ức chế tâm để đạt được định, gọi là tu tắt. Do tu sai như vậy, dù có tu suốt cả triệu năm thì tâm tham, sân, si vẫn còn nguyên vẹn.”
(8:22) Hỏi: “Kính bạch Thầy! Con thường dạy mọi người đừng nên ngồi thiền nhiều mà hãy lo quán xét tu tập xả, ly, xả tâm tham, sân, si, họ lại bảo con dạy sai, không đúng như lời Thầy dạy.”
Đáp: “Thầy dạy Định Vô Lậu tức là diệt ngã xả tâm, ly dục, ly ác pháp, nghĩa là xả tâm tham, sân, si, chớ có gì sai khác ở con? Chỉ có danh từ Định Vô Lậu để xác định đó là pháp môn của Đức Phật.”
Đó thì các con và cũng như các thầy đã thấy, cô Út thì không có dùng cái Định Vô Lậu mà nói, mà chỉ bảo rằng mình phải suy nghĩ, tìm kiếm những cách nào để mình xả cái tâm mình khi mình bị tham, sân, si, ham muốn cái gì đó, mình tìm những cách đó mình xả nó ra, đừng có để trong tâm của mình. giận hờn, phiền não, đau khổ lâu dài, cách thức mình phải tìm hiểu suy nghĩ.
Thì cái Định Vô Lậu nó cũng là cái định quán xét để tư duy, để xả. Mà Thầy thì dùng những cái danh từ trong kinh sách để xác định đó là cái pháp môn của Phật chớ không phải là của Thầy đặt ra. Còn cô Út dạy thì nó không có dùng những cái danh từ ở trong kinh điển, chỉ bảo rằng mình tự tìm hiểu, suy nghĩ rồi mình xả.
“Con dạy mọi người quán xét tùy pháp, tùy người, tùy sự việc, tùy hoàn cảnh mà xả tâm tham, sân, si.”
Nghĩa là đứng trước mọi các cái pháp thì tùy mọi cái để mà xả ra.
“Thầy dạy người ly dục, ly ác pháp theo giáo lý của đạo Phật cũng vốn xả tâm tham, sân, si, có gì khác đâu, chỉ khác ở danh từ Phật điển mà thôi.”
Nghĩa là hai bên dạy, thì một người không có dạy danh từ của Phật điển, một người thì dạy danh từ Phật điển, cho nên nghe thì những cái danh từ, thì với cái lời nói bình dân mộc mạc, hai cái thì nó nghe nó không giống nhau, nhưng mà cái ý của nó là cũng là cái ý chỗ ly dục, ly ác pháp, diệt ngã xả tâm, xả cái tâm tham, sân, si của mình.
(10:28) Hỏi: “Kính bạch Thầy! Con thường khuyên mọi người đừng ngồi thiền nhiều, vì ngồi thiền nhiều giống như con cóc và sẽ thành cóc, có đúng như vậy không?”
Đáp: “Đúng! Xưa Đức Phật cũng dạy: tu hạnh con bò sẽ thành con bò, mà tu hạnh con chó sẽ thành con chó, tu hạnh ngồi nhiều sẽ thành con cóc, con ếch, v.v…”
Đó là lời Đức Phật ngày xưa cũng đã dạy cái vấn đề này rồi. Nghĩa là có một cái người tu sĩ ngoại đạo, họ tu về hạnh con bò, từ cái ăn họ ăn cũng làm giống y như con bò, rồi cái ngồi, cái nằm họ làm cũng y như con bò. Họ nói họ tu như vậy, cái khổ hạnh giống như con bò vậy thì họ sẽ sanh về cõi Phạm thiên.
Thì ông Phật nói: "Đừng có hỏi tôi, hỏi tôi tôi nói rồi ông sẽ khổ à!” Thì ông ta ba lần hỏi Đức Phật, ông mới nói: "Thiệt ra ông muốn hỏi thì tôi phải nói, nhưng ông đừng có buồn!”
Cho nên Đức Phật xác định tu hạnh con bò thì sau này mình sẽ thành con bò. Bởi vì mình quen cái thói đó rồi, thì khi mình chuyển cái kiếp thì mình cũng sẽ thành giống y con bò, cũng ăn kiểu như con bò, rồi cũng nằm kiểu con bò, rồi cũng đi kiểu con bò, đó là tu hạnh con bò.
Rồi có một vị tu sĩ cũng ngoại đạo, họ tu theo hạnh con chó. Cách thức ăn thì cũng làm giống như con chó, rồi cách thức đi cũng giống như con chó, cách thức nằm cũng giống y con chó. Đến hỏi Phật, Phật cũng nói như vậy, tu hạnh con chó thì sẽ thành con chó.
Thì bây giờ chúng ta ngồi nhiều thì, trong các loài vật thì có con cóc, con ếch là ngồi nhiều thôi chớ có con gì mà ngồi nhiều? Cho nên chúng ta cũng sẽ thành con cóc và con ếch mất! Cho nên tu cái hạnh nào thì nó sẽ thành cái hạnh nấy. Bởi vì mình quen cái thói quen đó thì mình sẽ thành.
Cho nên ở đây Thầy chỉ dạy các con cố gắng ngồi từ một giờ ba mươi phút rồi tập luyện cái đạo lực, xả cái tâm của mình cho nó thanh tịnh. Từ đó cái đạo lực nó sẽ làm chủ được cái sự sống chết của mình và mình sử dụng Tứ Như Ý Túc, mình muốn cái gì thì nó làm theo cái nấy, chớ không phải ngồi nhiều mà làm được cái chuyện này.
Cho nên những cái hiện bây giờ người ta tu sai, người ta ngồi nhiều từ ba bốn tiếng đồng hồ, từ bảy tám tiếng đồng hồ, nhưng cuối cùng thì nó đi về đâu? Nó trở thành con cóc con ếch mà thôi.
Cho nên các thầy thấy bên khất sĩ như sư Giác Chánh, ngài ngồi nhiều, thậm chí như ngủ ngài cũng ngồi ngài ngủ luôn. Cho nên cuối cùng bây giờ cách thức của ngài ngồi nó thụng xuống nó giống như là con ếch mà ngồi chớ không khác gì hết. Cho nên nó rất khổ là vì người ta không hiểu, người ta tưởng ngồi đó là Phật, đó là cái sai.
(13:03) Hỏi: “Kính bạch Thầy, con dạy mọi người tu phải lao động, làm việc. Thầy dạy mọi người tu không lao động, không làm việc. Như vậy thế nào xin Thầy dạy cho rõ!”
Đó là giữa cô Út dạy tu phải làm việc, còn Thầy dạy tu không làm việc, vậy thì hai bên này như thế nào?
Đáp: “Người mới tu tâm chưa xả, ly dục, ly ác pháp mà vội vào thất nhập thất tu tập tức là tránh duyên tránh cảnh. Đó là hình thức ức chế tâm, nén tâm. Khi tiếp duyên tiếp cảnh thì tâm nào tham, sân, si, tật nấy, lòng dục vẫn còn nguyên vẹn, cường độ còn mạnh hơn trước!
Người mới tu, theo như Đức Phật dạy: phải ngay trên Thân Hành Niệm mà tu tập, thân làm gì thì ý phải tập trung nơi việc làm ấy.”
Nghĩa là Đức Phật dạy chúng ta Thân Hành Niệm, lát nữa đây rồi Thầy sẽ đọc cái bài Thân Hành Niệm, rồi Thầy giải thích cho các con hiểu được cái cách thức của Đức Phật dạy, để chúng ta biết đó là chúng ta đang thực hiện cái định gì. Và đang, cái kết quả của nó sẽ ngăn chặn được những cái pháp gì, và kết quả sẽ đem đến cho chúng ta được lợi lạc cái gì.
“Người mới tu mà không lao động, thân sanh lười biếng, tâm ý bạc nhược, mất hết ý chí, không còn nghị lực tu tập.”
Đó thì, các con với các thầy xét, khi cô Út dạy tu phải lao động, tức là cái cơ bản của cái người mới vào tu, thì chúng ta lao động, để rồi lấy cái hành động đó mà chúng ta tu tập Chánh Niệm Tỉnh Thức, chứ không phải là vô trong thất rồi ngồi, rồi ngủ, rồi chơi.
Bởi vì ngồi không không làm gì hết thì nó sẽ buồn ngủ. Mà cái sức của mình nó chưa có định thì mình ở trong đó mình có làm gì khác hơn được? Cho nên từng đó nó sanh ra lười biếng. Mà nó sanh ra lười biếng thì chỉ có ngủ, ngủ đã rồi ngồi dậy tu cho có chừng, có giờ giấc như vậy thôi, rồi cuối cùng thì chẳng có ra gì.
Cho nên một số người rất đông là ai cũng muốn ham nhập thất, không có lao động, ngồi trong thất mà tu. Cuối cùng rồi thì chẳng ai ra gì hết, cứ nhìn chung là chúng ta thấy không có kết quả gì.
“Con đường tu có nhiều khó khăn, cần phải có đủ ý chí và nghị lực vượt qua.”
Con đường nó coi vậy chớ nó không phải là nó suôn sẻ để chúng ta vào ở trong thất rồi ngồi tu rồi thành Phật được liền đâu, không phải đâu. Chúng ta phải biết từng cái giai đoạn tu.
“Người mới tu phải tu tập trau dồi thân tâm trong các đối tượng, trong mọi hoàn cảnh, mọi sự việc để tâm ly dục, ly ác pháp.”
Nghĩa là mới tu thì mình phải tu ở trong mọi cách. Cho nên vì vậy đó, mình phải phòng hộ sáu căn nè, mình phải tu thiểu dục tri túc nè, rồi mình phải tu trong cái ăn nè, rồi tập luyện trong cái ngủ nè, rồi tập nhẫn nhục nè, rồi tập tùy thuận bằng lòng trong mọi cái, để cho cái tâm mình nó ly dục, ly ác pháp.
(16:02) “Người mới tu phải tự rèn luyện mình trong lửa đỏ để thấy được thân tâm mình có chiến thắng tâm mình được chưa. "Thắng ngàn quân địch chưa thể gọi là thắng, tự thắng được mình mới là chiến công oanh liệt”.”
Đó là câu kinh Pháp Cú đã nói. Cho nên người mới tu như là một người phải tự chiến thắng lại mình, phải rèn luyện mình trong lửa đỏ chớ không thể nào mà vô trong thất mà tránh duyên yếm thế, mà ngồi trong thất để không có cảnh động, thì cái người đó dù tu suốt đời thì tâm họ cũng chưa có xả ly được gì hết.
“Người mới tu phải thấy sự xả tâm là điều quan trọng, nếu không thấy được điều này mà cứ nhập thất tu tập ức chế tâm thì tu tập chẳng đi đến đâu, chỉ uổng cho một đời mang tiếng tu hành.
Người mới tu lấy lao động làm sự tu tỉnh giác, thì tỉnh giác ấy mới tu tập dễ dàng.”
Đó thì các con thấy cái người mà mới tu thì không thể ngồi không mà ngồi đó mà nhiếp tâm hơi thở mà nó tỉnh thức đâu, nó sẽ rơi vào ở trong thùy miên, hôn trầm và vô ký.
“Người mới tu mà không lao động thì dễ rơi vào vô ký, thùy miên, hôn trầm, sanh ra lười biếng mỏi mệt, bần thần, thích ngủ, thích ăn, thích chạy theo dục lạc.”
Nghĩa càng tu mà sai thì nó lại khiến cho chúng ta thích ngủ, thích ăn, rồi thích chạy theo dục lạc.
(17:28) “Người mới tu mà quá say mê trong lao động…”
Người mới tu mà lấy cái cớ rằng mình lao động mà say mê trong lao động, làm việc nhiều, tìm việc làm này rồi tìm việc làm khác, thì đó là tu sai rồi. Cho nên cái việc làm để mà tu chớ không phải tìm cái việc này rồi sanh cái việc kia, làm cái này cái kia.
Thầy nhắc lại, như Chánh Trực ở đây cũng vậy. Nghĩa là sáng mình đi quét sân thì mình quét sân mà thôi, đường xá có dơ thì mình nhổ cỏ, thất mình có dơ thì mình làm chút ít, không! Tính ra cái việc làm đi chặt cây, làm nào là vườn thanh long, rồi bày ra rồi đào mương đào hầm hố, đem hết cái sức lực của mình làm, làm say mê ở trong công việc như vậy, thì thử hỏi còn tu cái gì được nữa không?
Đó không phải tu mà chỉ sợ cô đơn, làm cho nó quên đi cái sự cô đơn, làm cho nó quên đi cái sự ham ăn ham ngủ của mình. Chứ sự thật ra, một cái người mà làm say mê, người ta quên ăn quên ngủ, còn cái người mà ở không cứ ngồi nhớ ăn nhớ ngủ hoài! Đó cho nên nó có cái khó như vậy. Cho nên chúng ta không sanh ra các pháp làm, mà các pháp nó có sẵn thì chúng ta cứ làm.
(18:40) Cho nên Thầy nhắc, người nào mà thấy cái công chuyện hàng ngày mình làm chuyện đó, thì mình cứ tiếp tục mình làm công chuyện đó, đừng hỏi thêm, đừng hỏi bớt, cứ làm thì như đó đã giữ độc cư và đã tu đúng.
Bởi vì cái hành động mà mình làm công việc đó nó quen rồi thì mình cứ giữ cái hành động đó mà mình nhiếp tâm, vừa nương hơi thở mà vừa biết được hành động đó rất cụ thể. Do đó sức tỉnh của mình càng ngày càng cao lên.
(19:01) Còn mình sanh ra chuyện mới, thì bắt buộc cái đầu óc mình phải suy nghĩ cái này cái nọ cái kia, thì như vậy đó mình đã không có tỉnh thức rồi, tạp niệm nó xen vô lung tung đủ thứ ở trong đó hết.
Rồi khi mà làm ra thì phải lo thất bại, rồi phải lo nó không thành công, rồi lo người ta chê, người ta cười mình thế này thế khác. Mình không có một cái việc gì, mình là người vô sự, nhưng mà sự việc đó là sự việc chung, cho nên không ai khen mình giỏi mà cũng không ai chê mình dở. Mình cứ làm công việc cho nó đúng với cái chỗ tu tập của mình mà thôi.
“Người mới tu mà say mê trong việc làm thì tu sai. Làm vừa sức để mà tu chớ không phải ráng làm cho xong việc.
Người mới tu mà tâm cứ nảy sanh việc làm này đến việc làm khác là tu sai, mê việc làm.
Người mới tu biết lấy việc làm để tu tập xả tâm và phòng hộ sáu căn và tỉnh thức nên không làm quá sức mình.
(20:01) “Người mới tu, tập để ly dục ly ác pháp. Người đã tu tập ly dục ly ác pháp được, thì mới nhập thất ở nơi hoang vắng một mình.”
Nghĩa là cái người mà tu tập ly dục ly ác pháp rồi thì bắt đầu bây giờ mới có nhập thất ở nơi hoang vắng một mình. Chớ còn khi mà chưa ly dục, ly ác pháp mà nhập thất ở một mình thì chắc chắn là sẽ không có đạt kết quả, mà sẽ ngủ li bì trong đó chớ không có kết quả đâu, sẽ sanh ra lười biếng ở trong đó.
Cho nên khi mà tu tập ly dục, ly ác pháp được rồi thì mới có thể sống nơi hoang vắng mới được.
“Chừng đó mới là không có làm việc.”
(20:42) Nghĩa là ly dục, ly ác pháp rồi, thì chúng ta bây giờ mới nhập thất để tu thiền định, thì chắc chắn là không có làm việc nữa.
“Hằng ngày nỗ lực rèn luyện đạo lực để điều khiển sự sống chết và chấm dứt tái sanh luân hồi.”
Nghĩa cái người mà tu ly dục ly ác pháp rồi, tâm mà không tham, không sân si rồi, thì cái người đó bắt đầu mới ở nơi hoang vắng, mới gọi là nhập thất sống một mình, mới không làm việc nữa.
Vì hàng ngày phải luyện tập rèn luyện cái đạo lực, cho nên sự rèn luyện đạo lực này nó đòi hỏi ở chúng ta phải có thì giờ rất nhiều để mà chúng ta rèn luyện nó. Thì do cái sự rèn luyện nó, thì nó mới có đủ cái sức lực nó tịnh chỉ hơi thở, nó làm chủ được cái sự chết sống của chúng ta, và cũng từ đó nó mới chấm dứt được cái sự tái sanh luân hồi của mình. Thì:
“Như ông Mục Kiền Liên tâm đã ly dục và ác pháp, ông mới xin Phật vào cư trú nơi khu rừng hoang vắng để tu tập rèn luyện đạo lực. Nhờ Phật trực tiếp chỉ dạy ông mới nhập được các định và dùng đạo lực thể hiện các thần thông. Vì thế, (trong) đệ tử của Phật, ông là người đệ tử đệ nhất thần thông.”
Đó thì, sau khi ly dục, ly ác pháp rồi thì ông Mục Kiền Liên mới xin Phật vào cư trú nơi một khu rừng hoang vắng. Nhưng mà trong khi đó ông tu tập cái gì? Ông tu tập Tứ Như Ý Túc đó. Nghĩa là khi mà cái tâm mình ly dục, ly ác pháp rồi thì mình mới bắt đầu mình tu tập Tứ Như Ý Túc.
Thì Định Như Ý Túc, thì trong đó nó sẽ từ cái gì? Từ cái Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền. Mà bây giờ muốn nhập Nhị Thiền thì chỉ cần ra lệnh nó, mà luyện cái đạo lực mà ra lệnh nó, thì Nhị Thiền, muốn nhập Nhị Thiền thì phải tịnh chỉ Tầm Tứ. Thì bây giờ chúng ta chỉ ra lệnh: “Tầm Tứ phải tịnh chỉ, hơi thở phải chậm và nhẹ nữa để nhập vào Nhị Thiền.”
Thì chúng ta ra lệnh như vậy, thì bắt đầu chúng ta ngồi bám chặt trong cái tâm mình, bám chặt trong hơi thở, thì lúc bấy giờ tuần tự hơi thở sẽ chậm nhẹ dần dần, cho đến khi Tầm Tứ hoàn toàn không có khởi sanh ra nữa, thì lúc bấy giờ chúng ta đã nhập Nhị Thiền.
(22:46) Thì lúc bấy giờ chúng ta dùng pháp hướng chứ chúng ta không ức chế để cho nó hết vọng tưởng, như bây giờ mà chúng ta đang ngồi hít thở để ức chế vọng tưởng.
Còn trái lại, thì ông Mục Kiền Liên, khi mà ông hết, ông ly dục, ly ác pháp rồi, ổng mới xin Phật vào một khu rừng hoang vắng ổng luyện cái đạo lực, thì cái đạo lực ổng hằng ngày ổng nói gì? "Tầm Tứ phải tịnh chỉ, nhập Nhị Thiền!", thì do đó ông cứ ra lệnh như vậy.
Rồi ông ngồi ông bám chặt, giữ cái tâm ông trong cái hơi thở, cái tụ điểm, và như vậy cho đến khi cái ý ông tác ý ra, ông nghĩ bây giờ tâm mình nó không còn thất niệm nữa. Ông nghĩ rằng bây giờ nó hoàn toàn yên tịnh, không còn vọng tưởng nữa, thì ông Phật hiện, dùng thần thông hiện đến sát bên ông nói: "Ông phải im lặng như Thánh, không được khởi niệm đó", thì ngay đó ông tịch luôn cái niệm đó thì ông đã hoàn toàn đã nhập được Nhị Thiền.
Thì trong khi mà ông luyện tập cái đạo lực để mà nhập Nhị Thiền đó, thì ông bị hôn trầm rất nặng, do đó Đức Phật mới đến dạy ông năm cách để phá hôn trầm.
Đó thì, các con thấy tuần tự những cái gặp khó khăn ở trên cái bước đường mà tập Định Như Ý Túc, thì cái này, cái Định Như Ý Túc nó thuộc về, ba cái loại thiền này thì nó thuộc về cái Định Như Ý Túc rồi, nó nằm trong cái Định Như Ý Túc.
Bởi vì mình muốn nhập cái định nào thì nó phải như cái ý muốn của mình. Mà bây giờ mình muốn mình nhập Nhị Thiền, bảo Tầm Tứ tịnh chỉ mà nó không tịnh chỉ, tức là mình như ý túc được không? Đó mình bảo: “phải ly hết mười tám loại hỷ” nè, “nhập Tam Thiền” nè, “tâm tỉnh thức” nè, “không có được ngủ” nè, “phá mộng tưởng” nè, nhưng mà nó cứ, cuối cùng nó ngủ nó cứ mộng hoài, thì như vậy là mình nhập được Tam Thiền chưa?
Cho nên mình chưa được Định Như Ý Túc. Mà Định Như Ý Túc ra lệnh như vậy thì chúng ta đã nhập được. Thì như vậy là lúc bấy giờ chúng ta đang sống ở trong hoang vắng, thì chúng ta tu cái gì? Tu Tứ Như Ý Túc chớ không phải gì.
Mà khi định được Định Như Ý Túc rồi, thì bắt đầu chúng ta tu tới cái gì? Dục Như Ý Túc, muốn cái gì thì nó làm ra cái nấy, phải không? Rồi bây giờ Tuệ Như Ý Túc, muốn cái trí tuệ gì thì chúng ta thể hiện ngay được cái trí tuệ đó.
(24:48) Đó thì thấy như vậy là rõ ràng là, khi mà vào thiền định thì muốn nhập Bốn Thiền thì chúng ta phải tu Tứ Như Ý Túc chớ đâu phải gì, bởi vì trong Tứ Như Ý Túc thì có Định Như Ý Túc.
Cho nên ở đây, nếu mà muốn dạy Bốn Thiền thì tức là chúng ta phải dạy Tứ Như Ý Túc rồi. Chớ không phải là dạy: bây giờ phải hít thở hơi thở như vậy để ức chế nó vào vọng tưởng, thì cái người đó dạy sai, không đúng, không đúng cách của đạo Phật đâu.
Thì bây giờ chúng ta mới thấy được cái chỗ mà ông Mục Kiền Liên đã vào trong cái khu rừng hoang vắng, là khi ông đã ly dục, ly ác pháp. Còn bây giờ các thầy thấy tâm ly dục mình có ly chưa? Ác pháp có ly chưa, tham, sân, si còn hay hết chưa? Mà bây giờ vội vô thất không chịu làm việc, không này kia, cứ ngồi như con cóc thì cô Út cổ chẳng nói là như con cóc sao?
Đó thì rõ ràng là chúng ta chưa có phải ở chỗ cái mức, cái giai đoạn đó để mà tu Tứ Như Ý Túc, tức là Định Như Ý Túc, thì chúng ta không có thể nào mà vô trong thất mà ngồi. Mà hàng ngày chúng ta tiếp duyên, hàng ngày chúng ta lo xả tâm ly dục, ly ác pháp, thì đó là đúng cách của chúng ta tu tập.
Cho nên ông Phật, các thầy thấy là, đệ tử của ông Phật thường đi khất thực, chớ đâu có lúc nào mà sống trong độc cư, trong yên tịnh đâu, không có đi khất thực đâu. Nhưng mà khi mà ở trong rừng hoang vắng rồi như vậy thì có người khất thực giúp cho ông ta tu.
(26:11) Cho nên các thầy nhớ rằng trong sáu người, nghĩa là năm anh em Kiều Trần Như và Đức Phật, hai người đi khất thực cho bốn người kia ăn. Nghĩa là bốn người kia, sáu người mà hai người đi khất thực cho bốn người ăn. Nghĩa là bốn người không đi khất thực, mà hai người khất thực cho bốn người ăn và mình ăn nữa, là hai người khất thực cho cả sáu người ăn.
Vì vậy đó thì qua cái câu chuyện đó chúng ta nhớ, khi nào mà người mà sống trong hoang vắng để mà thực hiện Định Như Ý Túc, thì lúc bấy giờ đó có những vị tỳ kheo khác khất thực để giúp cho mình cái thực phẩm hàng ngày mình dùng để mình tu tập những cái phần đó, phần cuối cùng đó. Thì như vậy là chúng ta không còn lao động, chúng ta không còn đi tới đi lui, chúng ta nỗ lực thực hiện Tứ Như Ý Túc.
Đó thì ông Mục Kiền Liên là cái người tu như vậy đó.
“Chỉ khi tâm xả ly dục lạc thế gian, lúc bấy giờ mới nhập thất không lao tác, tập luyện Tứ Như Ý Túc.”
Đó, cái câu mà Thầy viết ở trong này để mà trả lời, thì sau này cái tập này thì nó sẽ photo hoặc in vào trong một cuốn sách thứ hai thuộc về vấn đạo, để chúng ta biết được cách thức chúng ta tu tập cái đúng cái sai.
“Chỉ khi nào tâm xả ly dục lạc thế gian, lúc bấy giờ mới nhập thất không lao tác…”
Tức là không lao động nữa.
“… tập luyện Tứ Như Ý Túc.”
Nghĩa là bây giờ chúng ta tập luyện Tứ Như Ý Túc thì trong đó có Tam Thiền đó, Tam Thánh Định đó. Còn cái Sơ Thiền là cái định ly dục, ly ác pháp, đó là cái Sơ Thiền, do cái chỗ mà giới luật nó đạt được cái thiền thứ nhất rồi. Cho nên bây giờ chúng ta còn ba cái thiền nữa, thì tức là chúng ta phải tu tập Tứ Như Ý Túc thì chúng ta mới đạt được ba cái thiền này.
“Tâm chưa xả ly dục và ác pháp mà vội vào thất thì chẳng khác nào như một người yếm thế trốn đời, chẳng ích lợi cho mình, cho đời. Người tu hành như thế là chưa biết rõ cách thức tu.”
Nghĩa là chưa có rõ cái cách thức tu.
(28:16) “Nhập thất có nhiều giai đoạn.”
Ở đây thì các con thấy cái nhập thất nó có nhiều cái giai đoạn tu, ở đây là những cái điều mà cần thiết để cho các thầy và các con ghi nhận để mà cho nhớ rõ.
“Nhập thất có nhiều giai đoạn:
1- Giai đoạn phòng hộ,
2- Giai đoạn xả ly.”
Tỉnh Giác Chánh Niệm đó.
“3- Giai đoạn Định.”
Tứ Thánh Định đó
“4- Giai đoạn Tuệ.”
Tứ Như Ý Túc đó.
“Hai giai đoạn đầu nhập thất trong mọi hoàn cảnh, mọi đối tượng làm mọi sự việc.”
Nghĩa là hai cái giai đoạn đầu, giai đoạn phòng hộ, giai đoạn xả ly, thì hai giai đoạn đó đó, thì chúng ta nhập thất, chứ chúng ta đâu phải là người, nhập thất tức là nói cái sự tu tập của chúng ta. Mà:
“… nhập thất tu ở trong mọi hoàn cảnh, mọi đối tượng, làm mọi việc. Hai giai đoạn sau là nhập thất nơi hoang vắng.”
Tức là hai cái giai đoạn: giai đoạn định và giai đoạn tu tuệ đó, thì hai cái giai đoạn đó là cái giai đoạn mà chúng ta nơi hoang vắng, không làm việc.
Cho nên Thầy dạy thì các con hiểu ở trong hai cái giai đoạn sau cùng, mà hai giai đoạn đầu thì các con chưa hiểu, cho nên hầu như có người chưa hiểu rồi chấp, chấp chặt ở trong thất mà nỗ lực ngồi không mà tu, mà trong khi tâm mình tràn trề bao nhiêu ham muốn, bao nhiêu ác pháp chưa có xả ly. Thế mà cứ ngồi ở trong thất tu, thì như vậy thì làm sao mà tu cho tới đâu? Đó là những cái hiểu sai lạc làm cho sự nhập thất nó lệch lạc đi.
Rồi bây giờ thí dụ như các con cứ nghĩ có một số người bây giờ ở đây tu tập, họ cứ nghĩ rằng cái lời Thầy dạy là nhập thất là không có làm việc, cho nên do đó họ xả ly cái tâm họ chưa được, họ sanh ra những điều kiện nghĩ ngợi. Họ tưởng, bây giờ về nơi quê hương của họ, họ cất một cái thất, họ nhập thất ở đó, có người lo cơm nước họ ăn, họ nhập thất họ tu, họ không lao động không gì hết, thì chắc thời gian họ theo pháp Thầy dạy, chắc chắn là thời gian họ sẽ thành tựu.
Nhưng mà sự thật ra họ đã tu sai cái giai đoạn của họ rồi, thì họ không thành tựu được gì hết.
Cho nên các con thấy có một số chị em, có một số quý thầy, ở đây tưởng rằng họ sẽ về họ cất thất rồi họ nhập thất tu, có người hộ cơm nước cho họ, như vậy là họ sẽ thành tựu. Chắc không bao giờ thành tựu điều gì đâu. Họ chưa biết được cái giai đoạn, họ chưa biết được cái tâm của họ, họ chưa xả được cái gì đâu.
Cho nên Thầy đã hiểu biết được những cái điều này nhưng nói cho ai nghe đây, họ đâu có nghe lời Thầy!
(30:52) *Hỏi*: “Kính bạch Thầy! Thầy dạy độc cư mà chúng không hiểu rõ, biến thành độc câm, con dạy gì họ cũng chẳng tin, xin Thầy giải thích cho rõ ràng!”
Đó thì, Thầy thường dạy độc cư, nhưng mà các con thì hiểu một cách rất là lệch lạc.
Cũng như ở đây có mùa hạ năm rồi thì thầy Thiện Thuận có về đây tu tập, hiểu qua cái chỗ độc cư thì thầy lại là độc câm, thầy không thèm nói nữa. Ôi thôi thầy làm cũng rối loạn dữ tợn, thầy hiểu sai một chút mà nó thành trật mất cái đường cách thức của Thầy dạy mất đi.
Bởi vì trong cái giáo lý và cái giáo pháp của Phật dạy, nó không có cái chỗ mà á khẩu, nghĩa là câm đó, không có câm, mà Phật chỉ dạy tịnh khẩu chớ không phải là dạy á khẩu. Thế mà người ta câm không nói chuyện, thì Thầy cũng không biết sao.
Tịnh khẩu nghĩa là không có nói chuyện phù phiếm, không có nói chuyện ác, không có nói chuyện vu khống, không nói chuyện hai chiều, không có nói lời hung dữ, không có nói vọng ngữ, thì như vậy là gọi là tịnh khẩu.
Còn mình làm thinh mà mình gọi tịnh khẩu, mà trong bụng mình ác pháp nó đầy ở trong đó, thì cái khẩu của mình nó chưa có lúc mà nó nói ra, chớ lúc mà nó nói ra chắc nó chửi người ta tan nát hết không còn!
Đáp: “Bốn mươi hai bài kệ của Phật dạy độc cư rõ ràng, cớ sao lại biến nó thành độc câm? Tịnh khẩu quý thầy hiểu sai biến thành á khẩu, câm.
(32:33) Tịnh khẩu nghĩa là không nói vọng ngữ, ác ngữ, lưỡng ngữ, phiếm ngữ, chớ không phải không nói. Còn á khẩu là câm không nói ra.”
Ở đây các con nên ghi những cái danh từ này:
“Tịnh khẩu nghĩa là không nói vọng ngữ, ác ngữ, lưỡng ngữ, phiếm ngữ.”
Đó, những cái danh từ ở trong kinh thì nó dạy rất rõ đó. Khi mà tịnh khẩu thì chúng ta không có nên dùng những cái vọng ngữ, rồi ác ngữ, lưỡng ngữ, phiếm ngữ. Đó, thì những cái danh từ đó thì ghi để nhớ chớ không kéo không nhớ thì không biết đâu mà nói.
Đó thì tịnh khẩu là không có dùng những cái loại ngữ đó, chớ còn nói cái điều tốt thì mình nói có sao đâu? Cho nên có nhiều người chẳng dám nói mà cứ lấy giấy mà viết, thiệt ra là không câm mà muốn câm!
Cho nên cái người câm họ muốn nói lắm chớ, mà họ nói không được, họ ư ư, họ ra dấu tùm lum ra hết, thì chúng ta tập theo cái người câm chớ không phải là tập tịnh khẩu. Đó, độc cư là nhắm, là chúng ta vào cái chỗ tịnh khẩu chớ không phải là gì khác.
“Độc cư là sống trầm lặng một mình, sống tâm quay vào trong, không phóng dật, sống không kết bè kết bạn, không nói chuyện phiếm, chỉ lo sống đúng pháp, đúng giới luật, ngày ngày chuyên cần tu tập trau dồi thân tâm bằng các pháp Phật đã dạy.”
Nghĩa là cái người sống độc cư là người lấy pháp làm cuộc sống của mình, cho nên Phật nói lấy pháp làm hòn đảo để mà tu tập nó. Vì vậy mà độc cư là vốn chúng ta sống cách sống để lấy các pháp làm cái cuộc sống của chúng ta, làm cái chỗ nương tựa vững chắc mà không hề lúc nào mà chúng ta buông cái pháp ra.
Còn cái này chúng ta cứ buông cái pháp ra khỏi, cũng như là cái người mà đã bị chết đuối ở biển mà nhờ có cái phao mới sống trên mặt biển đó, thế mà cứ thỉnh thoảng thả cái phao ra!
(34:35) Chúng ta biết cái pháp nào, như Tứ Chánh Cần phải tu tập như vậy, và cách thức phải dùng thiền định như vậy để tu tập Tứ Chánh Cần, thì luôn luôn chúng ta giờ phút nào chúng ta cũng bám vào cái pháp đó mà chúng ta sống. Thì như vậy là lấy pháp làm chỗ nương tựa, lấy pháp làm chỗ hòn đảo, phải không?
Còn cái này mình cứ mình buông ra cái phao của mình, mình buông cái hòn đảo ra, thì sóng gió nó dập dồn, nó nhận mình xuống đáy biển chết còn gì! Cho nên các thầy, các con không thấy rằng mình đang sống đây là mình đang sống ở trong cái biển đau khổ, mà nếu mình buông cái phao này ra, buông cái phao pháp của Phật ra, thì ngay đó là bị sóng nó dập mình xuống dưới đáy biển, mình đau khổ liền!
Cho nên Phật nói: hãy tự lấy mình làm hòn đảo, hãy lấy pháp của Phật mà làm hòn đảo, hãy lấy mình làm ngọn đèn soi cho mình đi, hãy lấy pháp của Phật mà soi đường cho mình đi, đừng có rời cái ngọn đèn đó ra, vì rời ngọn đèn đó ra là đêm tăm tối nó sẽ che ám mình đi!
Cho nên mình phải sống trong pháp, sống đúng pháp, luôn luôn lấy pháp mà bám. Cho nên Phật nói "tùy pháp" là theo pháp, nương pháp, bám chặt pháp, cách thức tu á. Chớ còn các con, cứ xét đi coi Thầy có đúng không, các con luôn luôn rời các pháp, không chịu bám chặt pháp, tội nhất là cứ để một ngày không biết nó rời ra khỏi cái phao đó bao nhiêu lần, tức là rời khỏi cái pháp bao nhiêu lần.
(36:03) Cho nên Phật nói: nương theo pháp tức là tùy theo pháp, bám chặt pháp, ôm chặt pháp, lấy pháp làm chỗ nương tựa vững chắc, đừng buông nó, thì chúng ta mới có sự giải thoát hoàn toàn.
Mà sống độc cư là phải sống như vậy mới có nghĩa của nó. Sống độc cư không có nghĩa là không nói chuyện, nhưng nói chuyện gì nói bây giờ? Bởi vì mình sống độc cư, mình sống luôn luôn ở trong pháp, lấy pháp làm chỗ nương tựa, thì biết cái gì bây giờ mình nói. Mà mình nói tức là mình buông pháp rồi còn gì!
“Nên âm thầm lặng lẽ, nỗ lực tu tập không có phút giây nào rảnh rỗi mới gọi là độc cư.”
Nghĩa là không có giờ nào mình rời các pháp của mình đang tu.
Thầy đã cho các con các pháp Tứ Chánh Cần, rồi cho các pháp để chúng ta tu tập ở trên Tứ Chánh Cần: đó là Chánh Niệm Tỉnh Giác, đó là Định Niệm Hơi Thở, đó là Định Vô Lậu, ba cái pháp Định này để chúng ta thực hiện cái Tứ Chánh Cần hoàn toàn sẽ được giải thoát. Mà lìa ra một phút một giây là các con, các thầy đã tự mình đã nhận chìm mình xuống dưới đáy biển rồi!
Cho nên phải hiểu biết cái lời của Phật dạy, là luôn luôn lúc nào chúng ta cũng đừng để thất niệm. Thất niệm tức là lìa khỏi pháp. Ôm chặt pháp, ôm chặt cái phao này, ôm chặt cái nơi nương tựa vững chắc này, thì chúng ta mới thoát ra khỏi cái cuộc đời đầy trầm luân đau khổ, đầy cám dỗ biết bao nhiêu sự ham thích.
(37:34) “Trước các pháp tâm không bị cám dỗ là độc cư.”
Đây các thầy và các con nghe Thầy giải thích cái chỗ độc cư, bởi vì cô Út hỏi để cho biết rõ, để không khéo các con chỉ hiểu một cách rất phiến diện, chỉ biết á khẩu làm thinh là độc cư, điều đó là điều sai.
“Trước các pháp, tâm không bị cám dỗ là độc cư.
Trước những người thân quyến thuộc, tâm không động lòng thương ghét là độc cư.
Trước những lời mạ nhục phỉ báng, tâm không giận hờn phiền não là độc cư.
Trước những cảnh thọ lạc, thọ khổ, thọ bất lạc bất khổ, tâm không dao động là độc cư.
Trước những cảnh éo le đau khổ của kẻ khác, tâm vẫn thanh thản an nhiên, bất động là độc cư.
Trước những cảnh chết chóc như chỉ mành treo chuông, tâm vẫn thản nhiên bất động là độc cư.
Trước những cảnh ác thú và giặc cướp, tâm vẫn an nhiên bất động là độc cư.
Chớ không phải độc cư là không nói chuyện!”
Đó, cuối cùng Thầy xác định cho các thầy thấy, trong cái vấn đề đó như vậy. Nhưng mà mình độc cư mình biết chuyện gì bây giờ nói? Nói khởi chuyện ra, có ý ra khỏi pháp thì ngay đó mình đã buông cái phao.
(38:43) Cái phao đã cứu mình thoát ra khỏi cuộc đời đầy đau khổ, thế mà mình vội vàng mình buông nó ra để mình nói chuyện gì? Mình có chuyện gì nữa mà nói? Chuyện sanh tử đang kề cận, ngày bây giờ mình đang sống, ngày mai chết biết làm sao mà tránh khỏi đây?
Chắc chắn là mọi người đang ngồi trước mắt Thầy, người nào cũng phải đi vào cái cảnh chết. Mà cái cảnh chết đó không biết ai đi trước mà ai đi sau? Con đường này chắc chắn ai cũng phải đi!
Thế sao chúng ta không nghĩ đến giờ phút đang sắp sửa lâm chung, đang sắp sửa chết đây? Vui sướng gì cuộc đời này mà cái chết đang đeo ở trên vai trên cổ của chúng ta đây? Ngày mà chúng ta bỏ thân này, chúng ta còn biết được thân nữa hay không? Ngày mà chúng ta bỏ thân này, biết chúng ta có được thân khác mà có gặp được Chánh Pháp như thế này nữa không?
Ngày nào Thầy ra đi, Pháp bảo còn thì đó là phước duyên của chúng sanh, mà Pháp bảo này được tiêu hủy và được đốt đi thì biết chúng sanh có còn đủ duyên gặp nữa không?
Không gặp được chánh pháp như thế này, không được nhắc lại những pháp mà Phật ngày xưa đã truyền lại! Kinh sách của Phật còn đó, nhưng Chánh Pháp của Phật đã lu mờ. Người ta tu sai lệch mà bây giờ Thầy đã làm sống lại, đó là cái duyên phước của một số người ngồi trước mắt Thầy, để nhìn thấy cái chết đang réo rắt, đang thúc hối chúng ta sắp tới con đường chết, chớ không phải ai khỏi chết đâu, mà vui, mà sướng, mà chạy theo dục lạc!
Đừng nghĩ rằng tôi còn trẻ tuổi là tôi chưa chết, biết đâu chừng cái chết sẽ đến với người trẻ tuổi chứ chưa phải là người già. Trong các con, có khi các con chết trước Thầy, mà cũng có khi các con chết sau Thầy, ai biết được cái sự tử sanh này?
(40:37) Trong cái lời thưa hỏi của thầy Chân Thành thì có cái chỗ này Thầy xin trả lời chung để chúng ta thấy ở đây có người trẻ và cũng có người già.
*Hỏi: “*Bạch Thầy, con xin Thầy chỉ dạy! Người trẻ tuổi và người nhiều tuổi tu có gì khác và giống nhau?
Người trẻ tuổi ít huân tập ở đời nên dễ tu, người nhiều tuổi do huân tập các pháp thế gian nên khó tu chứng. Nay do luật nhân quả mà người tuổi trẻ và người nhiều tuổi nhiễm tập nhiều đời, tốt hay xấu mà dẫn đến tu lâu hay mau là do đặc tướng này?”
Đó là cái câu hỏi để Thầy trả lời giữa cái người tuổi trẻ và cái người tuổi già, tuổi lớn tuổi.
Ở đây chúng ta thấy trong một đời chớ chúng ta chưa thấy vô lượng đời của chúng ta, vô lượng kiếp của chúng ta. Trải qua nhiều đời, nhiều kiếp chúng ta làm con người, chúng ta huân tập những cái pháp thế gian quá nhiều và huân tập cái pháp tu quá ít.
Trong đời nay, chúng ta có đủ nhân duyên vì đời trước chúng ta có gieo duyên với Chánh Pháp cho nên chúng ta gặp. Nhưng đời trước chúng ta chưa tu, cho nên đời nay gặp Phật pháp thì chúng ta tu có một thời gian nào đó mà thôi.
Người lớn tuổi mà gặp Phật pháp muộn, người tuổi trẻ mà gặp Phật pháp nhanh, nhưng rồi lại tu cũng chẳng được, thì do đó là cái nhân quả của đời trước đã chưa tu tập nhiều, đã huân Phật pháp chưa nhiều và gieo duyên được cái thời gian nào đó. Thì cái người tuổi trẻ cũng như người tuổi già, họ gieo duyên với chánh pháp trong cái thời gian nào đó rồi họ phải rời khỏi, nghĩa là họ phải bỏ cuộc.
Cho nên có nhiều vị tu sĩ họ tu hành một thời gian rồi họ ra đời, họ có vợ có con họ sống, thì đó là cái duyên của họ gieo Phật pháp có bấy nhiêu đó thôi, rồi họ đắm nhiễm trở lại.
(42:49) Còn có người thì tuổi già, họ tu tập cho đến khi chết mà họ không ra đời, thì họ gieo cái duyên họ ở kiếp sau để tiếp tục tu nữa. Còn người tuổi trẻ, còn trẻ gặp sớm được Phật pháp, được cái duyên tu tập, nhưng họ tu một thời gian rồi họ ra đời họ sống như người đời, thì cái người này đã tạo cái duyên đời trước tu tập, có cái duyên tu tập với Phật pháp cho nên sớm gặp Phật pháp.
Nhưng rồi họ không chịu khắc phục mình để tiến tới tu hành, họ buông trôi Phật pháp để rồi đời lôi cuốn họ, họ tạo những cái nhân, cái nhân đời. Vì thế họ sẽ mất đi cái duyên Phật pháp của kiếp sau, nghĩa là kiếp tới họ chẳng còn nữa, họ không gặp Phật pháp nữa.
Là vì cái kiếp đã qua rồi họ có vô duyên với Phật pháp, cho nên sớm tuổi trẻ của họ đã gặp được Phật pháp, họ tu một thời gian rồi tâm họ nhiều cái duyên họ thối động. Họ không có nhiễm thế gian nhiều cho nên tâm họ, họ thấy rằng cần phải hiểu biết chuyện thế gian, cần phải có sự vui chơi thế gian rồi mới biết khổ, biết này kia mới xả bỏ đi, thì tu mới được.
(44:06) Còn trái lại, thì họ nghĩ như vậy nhưng khi mà họ tu hành, họ đã ra đời thì cuộc đời không để cho họ trở lại với đường đạo một cách dễ dàng, chớ con đường đạo để cho họ trở lại đời rất dễ dàng.
Khi họ không muốn tu, họ ra đời rất dễ, nhưng đời không bao giờ cho họ vào đạo dễ dàng. Ai là những người đã có cuộc đời sống, những người lớn tuổi nhiều tuổi đã có cuộc đời mà muốn đi tu không phải đơn giản như một người tuổi trẻ.
Người tuổi trẻ khi đi tu thì được đồng ý của cha mẹ quá dễ dàng, còn người tuổi già mà dứt áo, dứt của cải tài sản, dứt vợ con mà đi tu, chuyện không đơn giản. Nhưng mọi người đều có nhân duyên, có người thì dứt áo đi tu, bỏ được, nhưng có người muốn tu mà dứt không được.
Thì người tuổi trẻ mà có duyên Phật pháp, sớm tu mà tiến tới được giải thoát thì đó là tốt, mà không tiến tới giải thoát mà trở ra đời thì người tuổi trẻ này sẽ mất duyên Phật pháp.
Vì cái duyên tu của mình từ đó tạo được những bao nhiêu phước đó, thì lúc bấy giờ ra đời họ sẽ hưởng cái phước đó. Và khi hưởng được cái phước đó thì cái phước tu của họ sẽ hết rồi, họ không còn bước trở lại cái con đường tu tập nữa, và cái kiếp tới họ cũng không còn cái duyên tu tập nữa.
Bởi vì khi bước ra đời thì cái nhân quả của cuộc đời cám dỗ họ, làm cho họ đắm đuối, họ phải trả những cái nhân quả thiện và ác ở trong cái cuộc sống đời, từng đó họ trôi lăn ở trong sáu nẻo luân hồi.
Còn người tuổi già mà nỗ lực tu, đời này chưa xong, kiếp này chưa xong, kiếp khác chưa xong, thì kiếp khác nữa và tiếp tục mãi mãi, thì có thể đến ngày giải thoát, do sự bền chí từ kiếp này đến kiếp khác đó, thì từ vô lượng kiếp chớ không phải trong một kiếp.
Chẳng hạn như Thầy, Thầy tu hành không phải trong một đời nay mà cả nhiều đời, nhiều đời chớ không phải trong một đời nay. Mà mỗi đời đều là từ tuổi trẻ đi lên mà tu tập chớ không bị nhiễm ô thế tục.
(46:26) Cho nên trong cái thời đại này mà Thầy đã tự mình đã vượt ra tu tập để làm chủ được sự sống chết, tu đúng giáo pháp của Phật Giới Định Tuệ, không phải là một việc làm của một người mới tu trong một đời nay được, mà phải nhiều đời huân tập, do huân tập liên tục không kẽ hở. Nghĩa là không có hưởng cái dục lạc của thế gian, đời nào cũng như đời nấy.
Cho nên khi sanh Thầy ra thì những người thân của Thầy đều là những nhà nho và những người biết coi tướng số, cho nên họ nhìn Thầy họ nói Thầy đã ba đời làm Hòa thượng.
Đúng vậy, trong đời nay, tâm nhiễm ô của Thầy không có, cho nên đối với sự cám dỗ của pháp thế gian không làm Thầy bị ô nhiễm. Từ đó Thầy hướng đến cái con đường tự trong thân tâm của mình, lấy giới luật mà làm đạo. Đi vào nơi nào, chùa nào mà thấy thiếu giới luật là tâm Thầy lại thấy ray rứt khó chịu, từ đó phải rời bỏ những nơi đó mà đi…
(Xem tiếp ở Pháp hành 08)
HẾT BĂNG
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Thời gian: 1998
(0:00) Về nhập thất, cất một cái thất nhỏ rồi mình nhập thất tu tập. Chính mình mình phải giữ lấy giới luật làm thầy hướng dẫn con đường tu tập cho chính mình, không còn biết nhờ ai nữa hết.
Đó là cái đời của Thầy, và cái đời của Thầy trong hiện kiếp và cái đời của Thầy trong nhiều kiếp đã qua cũng đều là huân tu không kẽ hở, nghĩa là không có bị nhiễm đời. Cho nên Thầy tự giải thoát được chính mình là nhờ nhiều đời huân tập.
Còn các con, do cái chỗ không nhiều đời huân tập, cho nên đời nay có duyên được gặp Phật pháp, vì cái duyên ngày xưa các con đã gieo cái duyên cúng dường Thầy, và tha thiết được tu như Thầy trong những hang núi, hoặc là nơi chòi tranh vách đá, từ đó tâm thấy Thầy tu hành ham thích, rồi theo Thầy tu hành.
Do cái duyên như vậy mà cái đời trước không thực hiện được, nó còn rớt được cái tâm ham muốn đó, cho nên đời nay, khi gặp Thầy thì cái tâm ham thích đó nó nổi lên, nó sống lại. Nó tu trong cái thời gian nào đó, rồi nó hết cái duyên, cho nên nó được cái sự nhắc nhở, khuyến khích để tạo cái nhân mới, cái duyên mới, thì nó tiếp tục nó phát triển được con đường này.
Trái lại nó từ cái tâm, nó chạy theo dục lạc, tức là nó phóng dật ra ngoài, nó chạy theo dục lạc thế gian, thì do đó, dù cái lời vàng ngọc quý báu của Thầy khuyến khích, họ cũng chẳng còn nghe. Bởi vì cái tâm phóng dật của họ quá mạnh, cường độ quá mạnh, khiến cho họ không dừng bước lại, ham thích chuyện thế gian, ham thích dục lạc thế gian, thấy đó là thiên đàng, thấy đó là vui, thấy đó là thích thú.
Nhưng không ngờ đó là bóng đèn sáng của con thiêu thân, mà người đó toàn là vô minh, không thấy thật sự. Cho nên đắm đuối chạy theo thì sẽ làm mất duyên tu hành nhiều kiếp và nhiều kiếp, không còn gặp lại được nhau nữa.
Cho nên Thầy thường nói với thầy Mật Hạnh như thế này: ngày mà con trở lại thì ngày đó Thầy không còn trong thế gian. Thầy nói tuy vắn nhưng mà phải hiểu xa, là nghĩa là không còn Phật pháp vĩnh viễn.
(02:31) Bởi vì ngay bây giờ có gieo được duyên Phật pháp thì gieo cho sâu dày, mà gieo không được thì nó sẽ mất. Vì cái phước duyên ngày xưa cúng dường cho một bậc tu, tức là Thầy ngày xưa, thì bây giờ còn cái duyên làm đệ tử của Thầy, và Thầy cố hết sức mình để hướng dẫn, đào tạo, để đem gieo cái duyên mới, tạo cái nhân mới được giải thoát hoàn toàn trong kiếp này.
Nhưng không đủ, cái sức đạo không đủ, cái duyên của Phật pháp còn thiếu, cho nên không đủ khắc phục thầy Mật Hạnh tiến vào con đường giải thoát. Thầy thấy hoa đời đẹp hơn hoa đạo, cho nên thầy muốn đi ra, và muốn đi ra đó là thầy đã tự thiêu thân thầy, nhưng rồi thầy sẽ thấy. Còn bây giờ thì nói gì thì nói nhưng không thể nào ngăn chặn được. Thầy đã hiểu được tâm trạng đó.
Ở đây toàn chúng tức là toàn huynh đệ, và cũng lấy cái gương hạnh đó để mà chúng ta soi chung, để mà chúng ta nhìn chung. Con đường tu không phải là con đường dễ. Giải thoát theo đạo Phật không phải là sự giải thoát tầm thường. Chúng ta muốn trở thành một bậc Thánh không phải là một chuyện thường.
(03:54) Chúng ta muốn trở thành một bậc siêu việt mà Thầy nhắc đi nhắc lại, để cho quý thầy thấy không phải là chuyện tầm thường của một kẻ tầm thường mà làm được.
Đời không thể nào mà làm được như những người tu, thế mà người ta không thấy đó là cái cao quý, lợi ích rất lớn cho con người rất lớn, cho con người rất nhiều. Người ta chỉ thấy cái nhỏ, cái nhỏ của cái thế gian, người ta không thấy cái lớn, cho nên người ta sẽ mất đi Phật pháp.
(4:26) Hôm nay nhân cái dịp thầy Chân Thành hỏi “người trẻ tuổi và người nhiều tuổi”, Thầy mới nói hết để cho mà nghe, do câu hỏi. Nếu không hỏi thì chắc Thầy cũng không nói gì ai cả, và cũng nói là cũng là có ý nhắc nhở thầy Mật Hạnh.
Thầy tu tốt lắm. Thầy rất là mừng khi thấy thầy tâm quay vào, Thầy chỉ nghĩ rằng trong thời gian rất ngắn, thầy sẽ đạt được Tứ Thiền, làm chủ được sự sống chết cụ thể, rõ ràng. Nhưng thầy không chiến thắng nổi thọ của thầy, vì thế mà tâm thầy chơi vơi.
Thầy thường nhắc phải liều chết, coi mạng sống này như là chỉ mành treo chuông, như lông hồng thì chúng ta mới chiến thắng nổi. Những phút cuối cùng để đạt được đạo là những phút thử thách cam go, và thử thách rất lớn.
Thầy chỉ có một phút, một giây nữa, một đường tơ nữa, là thầy đã làm chủ được kiếp sống của con người, là một người siêu việt, tuổi trẻ tài cao không ai hơn được.
Nhưng phước thầy chưa đủ, cho nên những lời mà Thầy sách tấn, thầy không chịu, thầy còn nhát gan, thầy còn không đủ nghị lực chiến thắng lại thọ của mình, để rồi tới giờ này, phút này, thầy cũng phải uống thuốc, cũng phải trị bệnh. Nhưng bệnh thầy có hết hẳn đâu, nó là duyên nghiệp của nhân quả, nhưng lời Thầy nói thầy có tin đâu.
Thầy cứ ngỡ rằng mình uống thuốc rồi nó sẽ hết bệnh. Nếu mà uống thuốc hết bệnh thì làm gì có người có già, có chết? Không bệnh này thì cũng bệnh khác, các thầy có nhớ chăng?
Đó là những cái điều mà rất là đau lòng, khi một người đã thấy đường nói với người không thấy đường, thì người không thấy đường không bao giờ tin mình.
(06:24) Bây giờ Thầy tiếp tục trên cái bài học Thân Hành Niệm, để cho thấy được cái pháp ngăn chặn ác pháp.
Bởi vì trong Tứ Chánh Cần, các pháp ác chưa sanh thì không cho sanh, ngăn chặn không cho sanh, thì ngăn chặn bằng pháp nào? Đó là Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, là cái pháp ngăn chặn các pháp ác. Đó là Định Niệm Hơi Thở, ngăn chặn không cho các ác pháp sanh.
Cho nên Tứ Chánh Cần, nếu mà không có pháp Chánh Niệm Tỉnh Giác, không có Định Niệm Hơi Thở, thì không thể nào mà ngăn chặn các pháp ác sanh, mà không cho sanh được.
Các thầy thấy Đức Phật dạy pháp nào, nó câu hữu, nó kết hợp, nó rất là dè dặt, nó rất là khít khao cho cái đường tu của chúng ta, làm chủ được, sự làm chủ rõ ràng. Nếu một cái người có kinh nghiệm tu hành người ta thấy thiệt tuyệt vời!
Cho nên ở đây khi dạy giới hành thì các thầy thấy rất rõ một cái điều mà Thầy đã giảng dạy cho các thầy. Khi mà, trong cái bài pháp Tứ Chánh Cần, Phật nói các pháp ác chưa sanh không cho sanh, đã sanh thì mau mau đoạn diệt. Như vậy thì lấy cái pháp nào mà không cho nó sanh đây?
Thì hầu hết các nhà học giả không biết. Thầy nói họ không triển khai được điều này, cho nên họ không biết pháp nào mà ngăn chặn được, chỉ ráng mà ngăn chặn. Ráng là ráng làm sao, nếu không có pháp thì ráng chỗ nào? Cho nên nói về Tứ Chánh Cần họ khai triển không nỗi. Cho nên ở đây chúng ta đã hiểu biết được cái pháp để mà chúng ta tu tập Tứ Chánh Cần.
Các pháp ác chưa sanh không cho sanh, thì chúng ta hãy hằng ngày, hằng giờ, hằng phút thì chúng ta tu tập Chánh Niệm Tỉnh Giác, tu tập Định Niệm Hơi Thở thì các pháp ác không sanh nó sẽ không sanh.
Và các pháp ác đã sanh thì mau đoạn diệt. Vậy thì cái pháp nào mà nó sanh ra mà đoạn diệt nó? Hay hoặc là ra rồi chúng ta đoạn diệt liền, chúng ta biết cách nào đoạn diệt đây? Phải có pháp môn chớ, phải có cách thức tu tập nó chớ? Chúng ta mới đoạn diệt nó được chớ? Đó là cái pháp Định Vô Lậu.
Vậy thì trong cái bài Thân Hành Niệm, thân là cái thân của chúng ta, hành là cái hành động, thì do hành động của thân của chúng ta mà đặt cái pháp lên mà tu. Chữ Niệm đây là Pháp chớ không phải niệm cái thân của chúng ta.
Các thầy hiểu cái chỗ mà hiểu, chớ còn nếu mà hiểu sai, từ những cái danh từ người ta dịch ra chưa chắc đã là những danh từ “Niệm” này đã là đúng. Nhưng qua kinh nghiệm thì chữ Niệm này, chúng ta phải hiểu nó là cái Pháp, cho nên từ trong cái thân mà chúng ta phải đặt cái pháp lên để mà tu tập. Mà cái Thân Hành là cái hành động của cái thân mà tu tập nó.
(09:45) Vậy thì trong cái bài pháp Thân Hành Niệm, thì cái bài pháp này là ở trong cái Kinh Trung Bộ - Tập 3, bài kinh số 119, tên kinh là Thân Hành Niệm. Đó cái tên kinh nó là Thân Hành Niệm. Bài kinh nó như thế này, Thầy xin đọc lại cái nguyên văn của nó:
“Như vầy tôi nghe, một thời Thế Tôn trụ ở nước Xá Vệ, tại rừng Kỳ Đà, tịnh xá của ông Cấp Cô Độc, rồi một số đông đảo Tỳ Kheo, sau khi buổi ăn, sau khi đi khất thực trở về đang ngồi tụ họp tại hội trường, câu chuyện này được khởi lên giữa Tăng chúng.”
Nghĩa là sau khi đi khất thực, ăn cơm xong rồi thì các vị Tỳ Kheo này mới hội họp ở cái hội trường rộng lớn như là cái tổ đường của mình ở đây vậy đó. Họ họp nhau, rồi họ ngồi, họ mới nói chuyện với nhau về cái pháp tu:
“Thì có một vị Tỳ Kheo mới khởi sự nói lên điều này: “Thật vi diệu thay này chư Hiền Giả! Hy hữu thay chư Hiền Giả! Thân Hành Niệm khi được tu tập và làm cho sung mãn, có được quả lớn, có được công đức lớn, như đã được Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác tuyên bố…” và câu chuyện này giữa các Tỳ Kheo ấy đã bị đoạn diệt. “
Nghĩa là cái câu chuyện mà đương tuyên bố nói ra như vậy đó, thì đến đây thì cái câu chuyện đó bị gián đoạn đi, bởi vì không có còn nói nữa.
(11:40) Thì lúc bấy giờ Đức Phật, trong cái buổi chiều thì họ đang bàn bạc về cái vấn đề cái pháp Thân Hành Niệm, thì trong khi Đức Phật từ cái thiền tịnh độc cư, Ngài mới đứng dậy đi đến hội trường, đi đến cái chỗ mà các chúng Tỳ Kheo đang ngồi mà nói chuyện, bàn chuyện nhau, thì Đức Phật đi đến đó, thì các vị Tỳ Kheo ngưng không có nói nữa, tức là gián đoạn cái câu chuyện nó không có tiếp nữa.
Cho nên khi mà Đức Phật đến hội trường, thì Đức Phật mới hỏi. Đây, cái đoạn chỗ đức Thế Tôn, Thầy xin đọc tiếp:
“Thế Tôn vào buổi chiều từ thiền tịnh độc cư, đứng dậy đi đến hội trường. Sau khi đến ngồi lên chỗ soạn sẵn, sau khi ngồi, Thế Tôn bảo các Tỳ Kheo: “Ở đây, này các Tỳ Kheo, các ông hiện nay đang ngồi bàn vấn đề gì, câu chuyện gì mà các ông bị gián đoạn?””
Nghĩa là các ông thấy tôi mà các ông ngưng lại đi, không có nói nữa, đó là cái câu chuyện gì? Tthì Đức Phật hỏi các vị Tỳ Kheo như vậy, thì có một vị Tỳ Kheo đứng lên bạch như thế này:
“Ở đây, bạch Thế Tôn, sau khi ăn xong, sau khi đi khất thực trở về, chúng con mới ngồi tụ họp tại hội trường, và câu chuyện sau này được khởi lên, được một vị Tỳ Kheo khởi lên nói: “Thật vi diệu thay chư Hiền Giả, thật hy hữu thay chư Hiền Giả, Thân Hành Niệm này được tu tập làm cho sung mãn, có quả lớn, có công đức lớn, đã được Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác tuyên bố.” Bạch Thế Tôn! Câu chuyện này của chúng con chưa bàn xong thì Thế Tôn đã đến.”
(13:30) Thì Đức Phật nghe vị cái Tỳ Kheo đó nhắc trở lại cái chuyện mà các vị đang bàn về vấn đề cái pháp Thân Hành Niệm, thì Đức Phật nói:
Này các Tỳ Kheo, Thân Hành Niệm tu tập như thế nào, làm cho sung mãn như thế nào, có quả lớn, có công đức lớn? Ở đây này các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo đi đến một khu rừng, hay đi đến một gốc cây, hay đi đến một ngôi nhà trống và ngồi kiết già, lưng thẳng và an trú chánh niệm trước mặt.
Chánh niệm là cái niệm giữ lấy cái niệm chơn chánh, đó là cái niệm gì? Cái niệm hơi thở. Thì thay vì, thì ở đây cái bài Thân Hành Niệm, đầu tiên thì chúng ta phải dạy cái Thân Hành Niệm Ngoại. Mà ở đây cái bài này, ngay từ vô thì Đức Phật lại dạy cái Thân Hành Niệm Nội, tức là hơi thở, cho nên nó không có thứ lớp đó, cái chúng ta thấy nó rõ ràng.
Theo cái Tứ Niệm Xứ thì Đức Phật có dạy rất rõ: “trên thân quán thân mà tu về nhân tướng để khắc phục tham ưu.” Thì tu về nhân tướng của nó, nó không có hành, mà tu về cái nhân tướng, chớ không phải hành tướng.
(14:51) Mà trên thân quán thân, tu về hành tướng ngoại, thì đó là tu ở trong hành động như đi kinh hành hoặc làm công việc của thân của mình, gọi là hành tướng ngoại. Trên thân quán thân mà tu về hành tướng nội, đó là hơi thở ra, hơi thở vô thì nó mới đúng, nó đúng cách. Đó là trên Tứ Niệm Xứ đã dạy như vậy.
Còn ở đây vào cái bài Thân Hành Niệm, thì chúng ta phải dạy ngay cái hành động ngoại trước, và hành động nội sau. Bởi vì hành động nội nó nhắc cho chúng ta để đi vào thiền định, để làm chủ được sự sống chết, vì vậy mà nương vào cái hành động nội này thì chúng ta sẽ khắc phục.
Như Thầy đã dạy Tứ Chánh Cần, thì chúng ta nương về hành động ngoại để mà ngăn chặn không cho các ác pháp sanh, và nương về hơi thở để ngăn chặn không cho các ác pháp sanh. Thì cái hành động nội và hành động ngoại chúng ta phải tu cái nào trước?
Bởi vì hành động nội nó rất khó, là vì chúng ta ngồi kiết già thì chúng ta không thể kéo dài cái thời gian dài một, hai tiếng đồng hồ không thể dài được. Thứ nhất, ngồi kiết già hai chân đau tê thì không thể ngồi rồi, mà bị thọ đánh thì không bao giờ mà còn nhiếp tâm ở trong tỉnh thức, ở trong hơi thở được. Chúng ta phải thấy cái kinh nghiệm dạy chúng ta biết điều đó mà.
Cho nên ở đây, mà nếu mà ngồi như vậy, hít thở như vậy, thì cái thời gian chúng ta chỉ có ngắn ba mươi phút mà thôi. Cái sức chúng ta mà người chưa ngồi thiền lâu, chưa ngồi kiết già lâu, ba mươi phút là chịu không muốn nổi rồi đó.
Đó là, bây giờ chúng ta, mà lại ngồi mà hít thở như vậy, thì chúng ta dễ bị hôn trầm, thùy miên, vô ký. Nghĩa là cái tâm mà chúng ta giữ cho nó hoàn toàn tỉnh giác, không có tạp niệm xen vào, để tỉnh thức, để ngăn chặn các ác pháp đó, thì lúc bấy giờ chúng ta sẽ rơi vào hôn ký (hôn trầm, vô ký), thùy miên, không có thể nào trật được.
Cho nên chỉ có khi mà chúng ta đi kinh hành, lao động, thì chúng ta không bị rơi vào hôn trầm, vô ký, thùy miên, chúng ta không bị rơi.
Cho nên ở đây chúng ta thấy rằng, cái bài pháp mà do Đức Phật dạy như vậy là thiếu, thiếu trước, thiếu sau. Như vậy là người sau này đã kết tập, làm sai, không hiểu, không có kinh nghiệm, chớ ông Phật dạy không phải thiếu kinh nghiệm như thế này.
Nghĩa là ông Phật phải dạy cái nào trước, cái nào sau, còn cái này dạy như vậy là sai. Mặc dù là cái bài pháp nói đúng chớ không sai, nhưng mà điều kiện là thứ tự sắp xếp như vậy là sai. Cái người mà sắp xếp này là cái người không đúng.
Đó, Thầy mạnh dạn dám phê phán được cái sai, cái đúng, và Thầy nói rằng quý thầy đừng tin nơi cái miệng Thầy của nói, mà hãy suy ngẫm coi có đúng không? Qua sự kinh nghiệm của quý thầy, quý thầy suy ngẫm có đúng không?
Nếu quý thầy chưa có tỉnh thức bằng hành động bên ngoài, mà quý thầy vội tỉnh thức bằng hơi thở thì quý thầy sẽ bị hôn trầm, thùy miên, vô ký, bởi vì hết vọng tưởng là quý thầy sẽ bị. Thầy nói quý thầy cứ rút tỉa kinh nghiệm coi có không? Còn quý thầy cứ đi kinh hành, cứ lao tác đi, quý thầy không rơi vào vô ký, hôn trầm, thì sức tỉnh thức các thầy càng ngày càng tăng lên.
Ông Phật dạy có kinh nghiệm hẳn hòi, đàng hoàng, nhưng người sau sắp xếp lại cái bài kinh này, là cái người sau làm sai. Đó là cái người không có kinh nghiệm, chớ không lý mà ông Ca Diếp không biết điều này để mà kết tập kinh điển bằng cách là lấy trái làm phải, lấy phải làm trái như thế này sao?
Cho nên chúng ta, nếu mà các thầy, các con, mà chúng ta có đủ cái Túc Mạng Minh, chúng ta trở về với cái thời quá khứ, chúng ta nghe cái bài pháp Thân Hành Niệm này Đức Phật đã dạy, thì chúng ta biết rằng đúng hay sai, và cái người mà viết lại cái bài kinh này sai hay đúng, chúng ta biết rõ.
Bây giờ một mình Thầy khó mà xác định, nhưng mà Thầy dám xác định ở đây trước quý thầy. Nhưng không phải là chỗ quý thầy đem cái bài kinh này ra mà nói người ta làm sai này kia. Quý thầy lấy chỗ nào chứng minh?
Cho nên quý thầy hãy tu như Thầy đi, rồi quý thầy trở về nghe Đức Phật Thích Ca nói lại cái bài kinh này, Thân Hành Niệm. Trong khi Đức Phật dạy cho một số Tỳ Kheo này thì quý thầy sẽ nghe rõ từng cái bài trước, bài sau rất rõ ràng, chớ không phải như thế này.
(18:43) Đây bây giờ Thầy nói về cái bài đầu tiên Thân Hành Niệm mà Đức Phật dạy là Chánh Niệm Hơi Thở. Thầy xin đọc tiếp:
“Chánh niệm vị ấy thở vô, chánh niệm vị ấy thở ra”. Chánh niệm tức là biết cái hơi thở, biết cái hơi thở vô và biết cái hơi thở ra.
“Hay thở vô dài, vị ấy biết tôi thở vô dài, hay thở ra dài, vị ấy biết tôi thở ra dài, hay thở vô ngắn, vị ấy biết tôi thở vô ngắn, hay thở ra ngắn vị ấy biết tôi thở ra ngắn. Cảm giác toàn thân tôi sẽ thở vô, vị ấy tập. Cảm giác toàn thân tôi sẽ thở ra, vị ấy tập. An tịnh thân hành tôi sẽ thở vô, vị ấy tập. An tịnh thân hành tôi sẽ thở ra, vị ấy tập.
Trong khi vị ấy sống không phóng dật, nhiệt tâm tinh cần, các niệm và tư duy thuộc về thế tục được đoạn trừ. Nhờ đoạn trừ các pháp ấy nội tâm được an trú, an tọa, chuyên nhất, định tỉnh. Như vậy, này các Thầy Tỳ Kheo, Tỳ Kheo tu tập Thân Hành Niệm.
(19:58) Cái bài pháp nó như vậy. Bây giờ Thầy sẽ giải thích cho các thầy thấy:
“Chánh niệm vị ấy thở vô, chánh niệm vị ấy thở ra”, nghĩa là chánh niệm, tức là Đức Phật muốn nhắc là mình phải biết, chớ chưa có nhắc gì hết. Bây giờ mình hít vô, mình biết mình hít vô, mình thở ra, mình biết mình thở ra, gọi là chánh niệm.
Còn bây giờ kế thì Đức Phật dạy: “Thở vô dài, vị ấy biết tôi thở vô dài. Hay thở ra dài, vị ấy biết tôi thở ra dài”. Thì cái_“Tôi thở ra dài”_ hay là “Tôi thở vô ngắn” hay là “Tôi thở vô dài” thì cái thở ra thở vô, bắt đầu cái chữ chánh niệm là mình chỉ cần biết mà mình không có hướng tâm, mình không có nhắc. Mà đến cái chỗ mà “tôi thở vô dài, tôi biết tôi thở vô dài”, hay là “tôi thở ra dài, tôi biết tôi thở ra dài”, thì cái đó là pháp hướng kèm theo.
Cho nên nó thường đóng và nhấn mạnh cho chúng ta biết rằng cái chỗ đó, để mà chúng ta nhắc cái tâm của mình kèm theo cái pháp hướng.
Cho nên ở đây chúng ta mới thấy cái kế của Đức Phật dạy “cảm giác toàn thân tôi sẽ thở vô”, nghĩa là mình hít vô mình nhắc, bây giờ mình không có nhớ cái thân của mình là cảm giác như thế nào, nhưng mà nhắc cái thì mình thấy có cái cảm giác của cái thân của mình.
Cho nên “cảm giác toàn thân tôi sẽ thở vô, cảm giác toàn thân tôi sẽ thở ra”, phải không? Mình nhắc như vậy, làm cho cái tâm mình nó chú ý vào cái cảm giác của cái thân của mình trong lúc mình đang tu.
(21:53) Rồi “an tịnh thân hành tôi biết tôi thở vô, an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra”. Đó thì, cái bài pháp Đức Phật bảo mình nhắc mình như vậy để cho mình biết cái sự an tịnh.
Rồi “an tịnh thân hành”, thì ở đây chúng ta, do cái chỗ chúng ta tu tập cái thân, cho nên_“cảm giác toàn thân”, rồi“cảm giác an tịnh thân hành”_, thì rõ ràng là chúng ta đang tu tập ở trong cái thân hành.
Nhưng có cái bài pháp để sắp tới đây thì Thầy đọc tới, thì trong cái Thân Hành Niệm mà lại dạy nó lộn nữa. Ở đây thì “an tịnh thân hành” là đúng pháp, mà “an tịnh tâm hành” là sai. Mình đâu phải tu trên cái tâm hành, mà mình tu ở trên thân hành! Phải không. Mà mình nhắc “an tịnh tâm hành” là sai.
Hay hoặc “cảm giác toàn tâm tôi thở vô, cảm giác toàn tâm tôi thở ra”, thì cái đó là, ở đây không phải là cái Thân Hành Niệm mà cái Tâm Hành Niệm. Cho nên từng cái pháp, ở đây thì trong cái bài Thân Hành Niệm, nó có cả cái_“cảm giác tâm hành”_ thì Thầy sẽ đọc tới.
Cho nên ở đây, cái bài này nó rất đúng, là vì “cảm giác toàn thân tôi sẽ thở ra, cảm giác toàn thân tôi sẽ thở vô”, rồi “an tịnh thân hành tôi sẽ thở ra, an tịnh thân hành tôi sẽ thở vô.”
Ở đây mình đọc cái bài kinh mình phải thấy rõ, khi mà nói về thân hành thì cái cảm giác này, cảm giác của thân. Mà khi nói về tâm hành thì nó là cảm giác của tâm, hít vô, hít ra, nó do cái cảm giác của tâm.
Đó. Thì trong những cái, bây giờ đó, khi mà mình đã hướng tâm mình nhắc như vậy đó, thì vị ấy phải sống như thế nào? Sống tâm không phóng dật. Chứ không phải là mình phóng dật, mình phóng dật mà mình hướng tâm mình tu vậy không kết quả đâu.
(24:01) Cho nên Đức Phật dạy ở trong cái bài kinh này:
Trong khi vị ấy mà tu tập như vậy, thì cái tâm “không được phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, siêng năng.” Tức là nhiệt tâm, hãy đem hết cái sức nhiệt tâm của mình và tinh cần là siêng năng. “Các niệm và tư duy thuộc về thế tục đoạn trừ.” Lúc mà mình tu tập cái pháp hơi thở như vậy, thì mình đoạn trừ các cái pháp đó đi.
Thì sự thật ở đây, nó chưa phải là trên cái pháp Vô Lậu, mà nó cũng chưa phải là trên cái Tứ Niệm Xứ, mà nó chỉ mượn cái Thân Hành Niệm, mượn cái định Chánh Niệm Tỉnh Giác ở trên cái hơi thở này, mà để tu tập, làm cho các ác pháp ngăn chặn không cho sanh khởi.
Mà ác pháp không cho sanh khởi, thì các thầy thấy cái câu chỗ này nè, thì tâm của người đó có phóng dật không? Không có phóng dật, phải không?
Cái tâm của người đó phải siêng năng rồi, thì những cái chuyện thế tục, những cái chuyện ham muốn, cái chuyện danh chuyện lợi, thì có đoạn trừ không? Lúc bấy giờ mà mình cứ giữ cái niệm hơi thở như vậy thì nó sẽ đoạn trừ tất cả những cái tâm đó.
Và vì vậy đó, mà mình an tọa ở trong cái chỗ tu hành của mình, mình ngồi nó rất là an ổn, chuyên nhất và định tỉnh. Cái tâm mình nó định tỉnh ở trong cái hơi thở đó. Như vậy là một cái vị Tỳ Kheo tu về thân.
Mà ở đây chúng ta lấy cái bài Thân Hành Niệm này, nó không phải độc lập là cái pháp Thân Hành Niệm, mà cái pháp này nó giúp cho chúng ta để đoạn trừ các pháp ác trong Tứ Chánh Cần.
Bởi vì khi mà cái tâm mình hướng ra hướng vô vậy, thì nó có một cái ý, nó có một cái gì mà nó nảy sanh ở trong đầu chúng ta được không? Mà nó không có nảy sanh ra được thì cái tâm có phóng dật không? Không có phóng dật nè. Phải không. Mà nó không có phóng dật, thì các cái việc về thế tục mà nó ham muốn đó, nó có đoạn trừ không? Nó đâu còn ở trong tâm của mình được nữa!
Cho nên nó cụ thể rõ ràng. Và vì vậy mà ác pháp không có sanh khởi được, và thiện pháp thì tăng trưởng. Đó. Thì ngay về cái hơi thở thì chúng ta đã tu tập được như vậy rồi.
(26:27) Thì bây giờ đến kế tiếp, thì Đức Phật lại dạy cái Thân Hành Ngoại đây. Thân Hành Nội, thay vì phải Thân Hành Ngoại đi trước mà Thân Hành Nội phải đi sau mới đúng cách. Bởi vì mình phải tu tập tỉnh thức, rồi mình mới ngồi lại mình mới tu tập mới được.
Bây giờ Đức Phật lại dạy tới cái Thân Hành Nội, thì trong khi ở đây, cái bài đầu tiên thì các thầy lại thấy nè: các vị Tỳ Kheo đi đến một khu rừng, hay đi đến một gốc cây, hay ngồi một ngôi nhà trống, rồi mới tu được cái hơi thở đó.
Mà nếu bây giờ “lại nữa”, cũng đang ngồi thì làm sao đi? Thì ở đây “lại nữa” là cái bài kế Đức Phật lại dạy Thân Hành Niệm này:
“Lại nữa, này các Tỳ Kheo! Tỳ Kheo đi biết rằng tôi đi, hay đứng biết rằng tôi đứng, hay ngồi biết rằng tôi ngồi, hay nằm biết rằng tôi nằm. Thân thể được sử dụng như thế nào vị ấy biết thân thể như thế ấy. Trong khi vị ấy sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, các niệm và tư duy thuộc về thế tục đoạn trừ. Nhờ đoạn trừ các pháp ấy, nội tâm được an trú, an tọa, chuyên nhất, định tỉnh. Như vậy các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo tu tập Thân Hành Niệm”.
Như vậy là cái bài này ở cái đoạn sau này Thầy nói rằng, khi mà chúng ta thực hiện Tứ Chánh Cần thì cái chỗ mà “trong khi vị ấy sống không phóng dật”, chúng ta lúc bấy giờ có phóng dật không?
Bây giờ cái hành động Thầy đưa tay Thầy biết Thầy đưa tay nè, Thầy đi Thầy biết Thầy đi nè, Thầy ngồi Thầy biết Thầy ngồi nè, Thầy nói Thầy biết Thầy nói nè, Thầy nằm Thầy biết Thầy nằm nè, Thầy mặc y, Thầy mang bát Thầy biết nè. Mỗi hành động Thầy làm Thầy đều biết cái hành động đó. Cũng như bây giờ Thầy đang quét sân nè, Thầy biết Thầy đang quét sân. Mà Thầy sợ nó quên quét sân đi, Thầy nhắc “tôi quét sân tôi biết tôi quét sân”.
Thì như vậy luôn luôn lúc nào Thầy giữ gìn cái tâm của Thầy luôn luôn lúc nào cũng ở trong cái hành động của mình, thì như vậy là những việc dục lạc của thế tục nó còn cám dỗ Thầy được không? Tâm Thầy nó còn phóng ra theo các pháp được không? Nếu mà phóng ra thì nó là niệm ác mất rồi.
Cho nên áp dụng vào Tứ Chánh Cần thì chúng ta thấy rằng, trong cái Thân Hành Niệm nó làm chúng ta tỉnh táo, rất tỉnh táo và chúng ta đoạn dứt các pháp ác, chấm dứt các pháp ác không cho sanh khởi. Đó là cái pháp tu Thân Hành Niệm.
Và như vậy chúng ta, cái đầu tiên chúng ta thấy rằng, cái bài kinh này Đức Phật phải dạy cái đi, đứng, nằm, ngồi, hành động của chúng ta ở bên ngoài trước, thì tới cái hơi thở sau, là nó hay nhất. Bởi vì cái ngồi nó có thời gian ngắn, mà cái đi, mà làm tất cả những công việc nó có thời gian dài chúng ta để tập tỉnh thức.
“Lại nữa, này các Tỳ Kheo! Tỳ Kheo khi bước tới, bước lui, biết rõ mình đang làm. Khi ngó tới, ngó lui, biết rõ mình đang làm”. Nghĩa là biết mình đang ngó tới, ngó lui đó.
“Khi co tay, khi duỗi tay biết rõ mình đang làm. Khi mang áo Tăng già lê, mang bát, mang y biết rõ mình đang làm. Khi ăn, uống, nhai, nếm biết rõ mình đang làm.Khi đứng, ngồi, ngủ, thức, nói, im lặng biết rõ mình đang làm.
Trong khi vị ấy sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, các niệm và tư duy thuộc về thế tục được đoạn trừ. Nhờ đoạn trừ các pháp ấy, nội tâm được an trú, an tọa, chuyên nhất, định tỉnh. Như vậy này các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo tu tập Thân Hành Niệm”.
(29:47) Đó thi, rõ ràng là đây là cái phần mà chúng ta tu tập Thân Hành Niệm rất rõ mà. Nhưng mà đổi ngược lại, cái bài mà tu tập này nó sẽ nằm ở trước, cái thứ tự của nó phải trước, rồi sau đó chúng ta mới tu tập về hơi thở chỗ chúng ta tu về thân hành niệm. Thì cái đó nó hay, quá hay và tuyệt vời, đúng là biết cách sắp xếp cho từng giai đoạn tu trước, tu sau.
Còn bây giờ ngay vô tu hơi thở, thì người đó ngồi chút xíu là bắt đầu họ bị đau hay hoặc này kia, họ bất an rồi, họ bị thọ đánh rồi, rồi họ ngồi một hơi đó thì bắt đầu họ rơi vào vô ký, hôn trầm. Bởi vì đang ở trong cái chánh niệm thì họ không có vọng tưởng, thì họ cũng bị rơi vào vô ký, chừng đó họ biết ở đâu mà họ là chánh niệm được nữa? Đó họ mất đi. Cho nên đây là cái sai.
Mà khi mà tu tập cái Thân Hành Niệm Ngoại nó đã tỉnh thức rồi, bắt đầu họ ngồi nửa tiếng một tiếng là tỉnh thức, nó không bị rơi vào hôn trầm, thùy miên, vô ký.
Cái đó là những cái kinh nghiệm đã dạy mình, cho nên mình biết rằng khi mà bố cục một cái bài pháp thì phải cái pháp nào nói trước, cái pháp nào nói sau, bố cục như vậy là bố cục sai.
(30:54) “Lại nữa, này các thầy Tỳ Kheo, các thầy quán sát thân này, từ bàn chân trở lên trên cho đến đỉnh tóc, bao bọc bởi da chứa đầy những vật bất tịnh sai biệt. Trong thân này, đây là tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, thận, tủy, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, phân, mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, nước mủ, nước ở khớp xương, nước tiểu.
Này các Tỳ Kheo, cũng như một bao đồ, hai đầu trống đựng các loại hạt như gạo, lúa, đậu xanh, đậu mè, gạo đã xay rồi. Một người có mắt đổ các hột ấy ra mà quan sát: Đây là hạt gạo, đây là hạt lúa, đây là đậu xanh, đây là đậu lớn, đây là mè, đây là hạt lúa đã xay rồi.
(32:01) Cũng vậy, này các Tỳ Kheo, một Tỳ Kheo quán sát thân này từ dưới bàn chân trở lên trên cho đến đảnh tóc, bao bọc bởi da chứa đầy những vật bất tịnh sai biệt. Trong thân này: Đây là tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, phân, mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, nước mủ, nước ở khớp xương, nước tiểu.
Khi vị ấy sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, các niệm và tư duy thuộc về thế tục được đoạn trừ. Nhờ đoạn trừ các pháp ấy, nội tâm được an trú, an tọa, chuyên nhất, định tỉnh. Như vậy, này các thầy Tỳ Kheo, Tỳ Kheo tu tập như vậy gọi là tu tập Thân Hành Niệm.”
Cái bài pháp này có phải Thân Hành Niệm không các thầy? Khi nghe như vậy có phải là Thân Hành Niệm không?
Bây giờ chúng ta ngồi đây, cái ý của chúng ta nè, quan sát cái thân này nè, như là một cái bao nó chứa nào là răng, móng, lông rồi thịt, gân, xương, thận, tủy, tim, gan, phèo, phổi, thì đây là cái bao nó chứa đầy đủ ở trong đó đủ thứ hết. Thì mình ngồi mình quan sát cái thân của mình, như vậy có phải là Thân Hành Niệm không?
Đối với bài kinh như thế này mà gọi nó là Thân Hành Niệm, thì các thầy có chấp nhận không? Như vậy có phải là cái người mà kết tập kinh điển này là kết tập sai không?
Thân Hành Niệm là cái thân phải có sự động của nó mới Thân Hành Niệm chớ? Còn này nó có động đâu. Cái ý của chúng ta đang quan sát cái thân, tức là quan sát cái thân của chúng ta. Nó như là một cái bao để chứa tất cả những cái đồ bất tịnh này, phải không? Như vậy là Định Vô Lậu quán bất tịnh chớ không phải là Thân Hành Niệm! Nó đâu phải là Chánh Niệm Tỉnh Giác.
Bởi vậy khi đọc cái bài kinh chúng ta mới biết được cái bài kinh sai, bài kinh đúng. Mà đây là kinh Nguyên Thủy hẳn hòi, đàng hoàng, kinh Pali chớ đâu phải là kinh Đại Thừa đâu.
Còn nếu mà Đại Thừa mà Thầy đọc, bởi vì Thầy viết cái bộ Đường Về Xứ Phật mà trước đâyThầy bác biết bao nhiêu bài kinh của Đại Thừa không? Thầy đập xuống biết bao nhiêu! Nhưng bây giờ Thầy không có cho ra cái thứ đó đâu, nó động chạm biết bao nhiêu.
Còn đây là cái bài kinh Nguyên Thủy mà họ dám kết hợp vô như thế này để mà gọi là Thân Hành Niệm trong một cái bài như thế này. Thì thấy kiểu này là có phải cái bài Thân Hành Niệm không?
(34:29) Đây là Thầy muốn nói để cho chúng ta biết được cái sai cái đúng của kinh sách hiện giờ, là sai quá, người ta không có biết được cái đúng cái sai.
Mà đặt một cái tên Thân Hành Niệm là nó phải thực hiện. Hồi nãy Thầy có giải thích, từ cái tên của nó phải thực hiện cái hành động của nó ở trong cái pháp môn. Mà đây đặt cái tên của cái kinh này là Thân Hành Niệm, mà cái chỗ này có phải là Thân Hành Niệm không? Ngồi quán sát cái thân, cái thân nó cứng đờ đó chớ nó có rung động cái chỗ nào gọi là nó hành? Như vậy nó có đúng với cái tên không? Như vậy là sai.
Nó chỉ có một cái bài thứ nhất là hơi thở, một cái bài thứ hai là cái hành động của thân của chúng ta bên ngoài, đó là đúng, nhưng mà sự sắp xếp thì nó không đúng, cái trước cái sau.
Các thầy cứ lấy cái trí tuệ, cái suy nghĩ của mình, mà nghe những cái lời Thầy nói có đúng hay là sai. Chớ đừng có tin cái miệng của Thầy. Thầy nói theo cái ý của Thầy, cái sự hiểu biết của Thầy, còn quý thầy suy nghĩ cái lời của Thầy nói có đúng hay là sai. Bởi vì hầu hết quý thầy đều có một cái trí tuệ, ở trong cái trí tuệ.
Cho nên Phật ngày xưa cũng nói, ta nói đừng có tin ta, mà những gì ta nói mà làm có ích lợi, có sự giải thoát thì hãy tin, mà không có ích lợi, không có sự giải thoát, người ta chê, thì đừng có làm, nó không đúng đâu. Thì những lời mà Thầy nói ở đây thì các thầy còn suy nghĩ những cái lời Thầy nói đúng, sai.
Đó thì, toàn bộ cái bài kinh này nó rất nhiều chớ không phải. Họ nói kết hợp lại nó đủ các thứ ở trong này, nó tất cả những cái, thậm chí như Bốn Thiền nó cũng ghép vô đây nè, bốn cái định nó cũng ghép vô đây nè, mà nó nói gọi là Thân Hành Niệm của nó. Thì tất cả những cái này đều là cái sai của nó.
Thân Hành Niệm chỉ có một cái khoảng thời gian hành động nội và hành động ngoại, và nội, ngoại một lượt mà thôi. Cho nên trên Tứ Niệm Xứ, Thầy giảng về Tứ Niệm Xứ các con sẽ thấy rõ.
Ở trên Tứ Niệm Xứ, bắt đầu thì chúng ta tu về nhân tướng nó trước, rồi sau đó chúng ta mới tu về cái hành tướng của nó, thì hành tướng ngoại và hành tướng nội. Sau khi hành tướng ngoại và hành tướng nội xong rồi, thì chúng ta tu cái hành tướng nội và hành tướng ngoại đồng thời một lượt. Nó hai cái, vừa tu ở ngoại mà vừa tu ở trong nội nữa.
(36:38) Cũng như bây giờ quý thầy tu cái Chánh Niệm Tỉnh Giác, vừa đi mà vừa nương hơi thở, nó cả hai cái chớ không phải một cái, thành ra nội và ngoại.
Thì hơi thở của chúng ta như thế nào? Là nội phải không? Mà ngoại là hành động của chúng ta đi kinh hành, là ngoại. Lấy cái nội này, cái hành động nội này mà thực hiện với cái hành động ngoại kia, thì hai cái này nội ngoại đồng thời tu một lượt. Thì do đó không phải là sức tỉnh của chúng ta cao lên sao?
Cho nên ở trong Tứ Niệm Xứ xác định rõ mà, nội ngoại đồng tu mà. Còn bắt đầu tu cái ngoại, rồi tu cái nội, rồi mới nội ngoại đồng tu.
Thì ở đây nó có những cái sai, mà Thầy phải dạy để cho các con thấy rằng trong khi chúng ta phải lấy được những cái đúng, như thế nào đúng, để mà chúng ta tu tập. Chớ không phải đọc như thế này, cái bài kinh như thế này, rồi bắt đầu chúng ta ngồi đây mà quán bất tịnh.
Mà quán bất tịnh tức là tu Định Vô Lậu, tu Định Vô Lậu để đoạn diệt các pháp ác, đoạn dứt các pháp ác. Các pháp ác chưa sanh thì tu Chánh Niệm Tỉnh Giác và Định Niệm Hơi Thở để mà ngăn chặn không cho nó sanh. Các thầy hiểu chớ?
Bởi vì ngăn chặn tức là chúng ta tu ở trong tỉnh thức thì không có nó khởi ra được, phải không? Tỉnh thức ở trong hành động ngoại, tỉnh thức ở trong hành động nội, rồi tỉnh thức ở trong hành động nội và ngoại. Đó là như quý thầy kết hợp giữa cái hơi thở và cái bước đi kinh hành của mình hay việc làm của mình, đó là nội, ngoại.
Còn bây giờ mà quán bất tịnh tức là tu Định Vô Lậu, mà Vô Lậu là các pháp ác đã sanh, cho nên chúng ta phải đoạn diệt. Mà nó sanh ra cái pháp gì? Bây giờ nó chấp cái ngã nè, nó sân si, nó phiền não nè, thì chúng ta phải coi nó chấp cái thân này là ngã, hay là chấp cái tâm?
Mà nó chấp thân thì chúng ta mới quán bất tịnh, quán xem coi cái thân này, là cái bao da này nó sẽ chứa những cái gì, cái gì, hôi thúi bẩn thỉu như thế nào? Thì đó để mà chúng ta đoạn dứt cái chấp ngã của chúng ta.
Mà nó kiến chấp thì nó thuộc về tâm, thì chúng ta phải quan sát về cái tâm để mà chúng ta tu cái Định Vô Lậu, trên tâm quán tâm mà. Tu cái Định Vô Lậu để quét sạch cái kiến chấp của chúng ta, nó làm cho chúng ta đi vào đúng con đường của Đạo Phật.
Thì như vậy thì quý thầy thấy rằng, trong cái con đường tu tập của mình thì những cái bài kinh như vậy, thì chúng ta làm sao mà chúng ta tin nổi được mà chúng ta theo đó mà chúng ta tu?
Mà nếu mà cứ đọc cái bài kinh này Thân Hành Niệm rồi tôi tu đủ thứ cái này, tôi cứ đọc như vậy, mà cái danh từ mà đọc thì các thầy thấy, cái chỗ mà để mà khắc phục tham ưu, cái chỗ mà đoạn trừ các ác pháp, thì Đức Phật nói như thế này, chúng ta biết cái pháp nào mà chúng ta đoạn dứt nó nè:
(39:15) “Trong khi vị ấy sống không phóng dật”. Sông không phóng dật, bây giờ chúng ta sống không phóng dật chúng ta làm sao nè? Cái tâm mình nó cứ ngồi đây mà nó phóng nó nhớ cái này, nhớ cái kia, nó không phóng dật sao? Nó phóng dật đó chớ.
Vậy thì muốn không phóng dật thì phải làm sao? Thì rõ ràng là cái pháp hồi nãy mà chúng ta nương vào cái hơi thở, mà nương vào cái hành động đi thì cái tâm nó phóng được không, cái pháp đó nó làm cho tâm chúng ta có phóng được không?
Bây giờ chúng ta đang biết cái hơi thở nè, đang biết cái hành động đi, thì cái tâm nó còn cái chỗ nào mà nó phóng ra không? Thì nó có phóng dật đâu. Cho nên chúng ta nhiệt tâm, tinh cần ở trong những cái giữ gìn trong cái hành động, thì nó không còn cái kẽ hở, thì cái tâm nó không phóng dật.
Rồi bây giờ đó: “Các niệm và tư duy thuộc về thế tục”, tư duy tức là suy nghĩ các cái niệm, nó chưa có khởi ra. Vì cái pháp Chánh Niệm Tỉnh Giác nó làm cho các pháp đoạn dứt đi, nó không có khởi ra được, thì chúng ta có pháp nào đâu mà chúng ta lại tư duy nó, suy nghĩ nó như cái Định Vô Lậu, để mà chúng ta đoạn trừ? Đó, cho nên chúng ta có đoạn trừ gì đâu.
Do cái pháp Chánh Niệm đó mà chúng ta ngăn chặn các pháp ác, thì pháp ác không cho sanh, cho nên chúng ta đâu có cái pháp nào mà chúng ta cần nó phải đoạn trừ. Do đó thì tâm của chúng ta như thế nào?
Bây giờ nội tâm chúng ta sẽ an trú, an tọa, chuyên nhất, định tỉnh. Rõ ràng là quý thầy cứ giữ gìn, vừa hơi thở mà vừa cái hành động đi, hay hoặc là trong hành động đi, hay hoặc là chuyên nhất một hơi thở. Thì do đó quý thầy có thấy cái tâm của mình chuyên nhất và định tỉnh không? Và có thấy cái sự an tọa cho cái sự ngồi hay hoặc là sự đi của mình an ổn không? Chắc chắn là sẽ có sự an ổn.
Đó thì, như vậy là chúng ta có cần quán xét đoạn trừ không? Mà ở đây thì viết như vậy. Bây giờ đã tu cái pháp đó rồi, mà bây giờ còn phải đoạn trừ nó thì cái bài kinh đó, như vậy là chúng ta đã có cái pháp, đã ngăn chặn, đã làm cho nó không sanh thì cái gì mà còn sanh ở trong này mà phải đoạn trừ?
Cho nên ở đây chúng ta có pháp chúng ta tu thì chúng ta không có còn lo lắng nữa.
(41:27) “Lại nữa, này các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo như thấy một thi thể quăng bỏ trong nghĩa địa một ngày, hai ngày, ba ngày. Thi thể ấy trương phồng lên, xanh đen, nát thối ra, Tỳ Kheo quán thân ấy như thân này, tánh chất là như vậy, bản tánh là như vậy, không vượt khỏi bản chất ấy.”
Nghĩa là mình quan sát cái thây ma phồng lên, như vậy là, bây giờ thì quý thầy thấy trong cái bài kinh này, nó là một cái quán sát, mà quan sát một cái thân sình hôi, thúi như vậy, để chúng ta tu phá cái ngã của chúng ta, chấp cái thân là cái ngã của mình. Như vậy là mình tu cái Định Vô Lậu chớ không phải là tu cái định Chánh Niệm Tỉnh Giác.
(42:21) Cho nên ở đây mình biết rằng trong cái pháp Tứ Chánh Cần thì mình cần phải tu ba cái định, cái Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, một cái Định Niệm Hơi Thở, và một cái Định Vô Lậu. Có ba cái định, nhưng cái Định Chánh Niệm Tỉnh Giác và cái Định Niệm Hơi Thở là nó ngăn chặn các pháp ác, mà cái Định Vô Lậu thì nó đoạn dứt các pháp ác. Chúng ta phải hiểu được như vậy.
Thì ở đây thì chúng ta chỉ nói về Thân Hành Niệm, tức là chúng ta chỉ nói về cái phần hoạt động của cái thân, tu ở trong các hành động của cái thân, để ngăn chặn các pháp ác, chớ không phải tu ở trong cái Định Vô Lậu để mà quán xét, vì chưa tới cái phần này. Cho nên cái Định Vô Lậu thì phải nói trong cái phần khác, không phải nói ở trong cái Thân Hành Niệm, trong cái bài kinh này.
Cho nên ở đây tuy rằng chúng ta tu tập cái Định Chánh Niệm Tỉnh Giác và Định Niệm Hơi Thở thì như Thầy đã nhắc lại ở trong cái bài kinh này rồi, thì chúng ta đã thấy rằng từ cái hành động, đi, đứng, nằm, ngồi, co tay, mặc áo, ăn uống, tất cả mọi cái hành động đó đều là tỉnh thức trong cái hành động đó, gọi là Chánh Niệm Tỉnh Giác.
Rồi đồng thời cái hơi thở ra biết thở ra, mà hơi thở vào biết vào đó, thì chúng ta biết được cái hơi thở ra, vào như vậy đó, đó là Chánh Niệm Tỉnh Giác của cái hơi thở, mà cái danh từ của nó gọi là Định Niệm Hơi Thở, vì Định Niệm Hơi Thở Thầy đã nói nó là một cái trợ pháp để cho nó trợ các pháp khác. Sau này chúng ta nhập thiền định thì cũng đều nương vào cái hơi thở này mà chúng ta nhập các thiền định
(44:07) Nhưng đầu tiên mà chúng ta tu nó, thì đương nhiên được xem nó là Chánh Niệm Tỉnh Giác Định chớ không phải là Định Niệm Hơi Thở. Bởi vì giúp cho chúng ta tỉnh thức ở trong cái hành động nội, mà hành động nội tức là hơi thở ra, hơi thở vô. Cho nên ở đây gọi nó là Định Niệm Hơi Thở thì cũng được, hay gọi nó là Chánh Niệm Tỉnh Giác trong nội thân của chúng ta thì cũng được.
Vì vậy cái bài kinh Thân Hành Niệm này, nó chỉ có hai phần, một cái phần hơi thở và một cái phần hành động thân của chúng ta, thì nó xác định cho chúng ta biết hai cái định đó để ngăn chặn các pháp ác ở trong Tứ Chánh Cần, nó không cho sanh ra.
Và đến cái Định Vô Lậu thì nó phải quán xét thân bất tịnh, những các pháp đều vô thường, khổ, không, vô ngã của nó, tất cả những cái pháp đều là nó không thường còn, cho nên làm cho tâm của chúng ta không dính mắc và chấp đắm. Đó là Định Vô Lậu để các pháp khác mà nó khởi trong đầu của chúng ta ra, thì ngay đó chúng ta phải quán sát nó, rồi chúng ta diệt xả nó đi, đoạn dứt nó đi, không được kéo dài nó, thì đó là chúng ta đã đoạn các pháp ác.
Như vậy khi mà ngăn chặn không cho các pháp ác sanh khởi, và đoạn dứt các pháp ác đã sanh khởi, thì chúng ta đã có ba cái định để mà chúng ta tu tập, để thực hiện được cái Tứ Chánh Cần.
(45:37) Mà khi thực hiện được Tứ Chánh Cần như vậy rồi thì ngày ngày chúng ta sống trong thiện pháp, mà trong thiện pháp thì cái thiện pháp đó thì như Thầy đã nói, Thầy xin nhắc lại, là cái thiện pháp đó nó không phải là một cái việc mà đi làm từ thiện như từ lâu tới giờ, như từ nào tới giờ.
Như các con, các thầy, như các,mấy cô ở đây tu hành thì nghe thiện pháp, thì người ta không biết là cái thiện nào đúng mà cái thiện nào sai. Nhưng không ngờ là cái tâm chúng ta hoàn toàn, nó không tham, không sân, không si, nó không ở trong cái ác, cái thập ác, thì nó là thiện pháp chớ đâu phải là cái chuyện ở ngoài kia mà đem vào nó là thiện pháp!
Chuyện ở ngoài mà đem vào thiện pháp, đó là chuyện phóng sanh, chuyện đem việc bố thí, từ thiện đó là chuyện ở ngoài. Còn cái chuyện thiện pháp ở trong của chúng ta nó là Thập Thiện, không tham, không sân, không si, không trộm cắp, không tà dâm, không sát sanh, không nói vọng ngữ, ác ngữ, lưỡng thiệt, không nói phiếm ngữ, thì tất cả những cái đó là những cái ác pháp.
Còn cái mà chúng ta hiện giờ đã giữ gìn được cái tâm của chúng ta không có sanh khởi những cái ác pháp đó thì tức là thiện pháp. Mà tăng trưởng cái thiện pháp đó ra, tức là chúng ta kéo dài cái thời gian của cái tâm của chúng ta không có ác pháp đó, thì tức là tăng trưởng thiện pháp.
Chứ không phải làm những cái việc từ thiện bên ngoài mà đem vào gọi là tăng trưởng thiện pháp. Như mua chim cá phóng sanh, bây giờ mua một con, hai con, ba con là ít, bây giờ mua nhiều gọi là tăng trưởng, không phải! Mua một trăm, hai trăm, một ngàn, một triệu con gọi là tăng trưởng, không phải! Cái chuyện đó không phải là cái chuyện làm của một người tu ở trong Tứ Chánh Cần.
(47:35) Cho nên hiểu đúng thì nó sẽ được giải thoát, mà hiểu sai thì không giải thoát. Mà hiểu đúng thì tức là chúng ta có pháp môn tu tập đúng, đó là Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, đó là Định Niệm Hơi Thở, đó là Định Vô Lậu.
Vì vậy nội ba cái định này nó đã giữ cho chúng ta thực hiện được thiện pháp ở trong tâm của mình, tức là thực hiện được sự giải thoát ở trong tâm của mình. Một người biết được cách thức tu tập Tứ Chánh Cần, thì Thầy tin rằng các thầy sẽ được giải thoát.
Và đồng thời hôm nay sẽ đem cái bài Thân Hành Niệm, tức là cái hành động của cái thân để mà chúng ta đặt cái niệm mà chúng ta tu Tứ Chánh Cần, như cái bài pháp Thân Hành Niệm mà Phật đã dạy ở Trung Bộ.
Nhưng vì cái bài kinh này nó lộn xộn, nó đủ cách của nó ở trong này, đủ thứ ở trong này, cho nên Thầy đọc ra để mà quán xét được cái sai của một kinh, và đồng thời để nhắc lại cái bài kinh Phật dạy, đúng như vậy là Thân Hành Niệm, còn những cái khác thì chưa phải là Thân Hành Niệm.
Để chúng ta biết sau này, vì cái thời gian mà các con tu xong rồi, các con cần nghiên cứu kinh sách này nọ, đọc lại tất cả những kinh sách hết. Nghĩa là…
HẾT BĂNG
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Thời gian: 1998
Thời lượng: [47:43]
https://thuvienchonnhu.net/audios/phap-hanh-09-dinh-niem-hoi-tho.mp3
(0:00) Hôm nay Thầy bắt đầu Thầy dạy tiếp cái phần Tứ Niệm Xứ, nhưng Thầy xin nhắc lại Tứ Chánh Cần.
Vì vừa rồi Thầy đã dạy các con học về cách thức tu tập Tứ Chánh Cần. Bởi vì cái pháp Tứ Chánh Cần, các pháp ác chưa sanh không cho sanh, trên cái pháp Tứ Chánh Cần nó dạy như vậy, nhưng mà chúng ta biết cách nào mà chúng ta không làm cho các pháp ác sanh? Cho nên chúng ta có những cái loại định như: Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, Định Hơi Thở.
Rồi các pháp ác mà đã sanh thì phải mau đoạn dứt. Vậy chúng ta biết cách nào mà đoạn dứt? Do đó chúng ta biết được cái Định Vô Lậu, do cái Định Vô Lậu mà chúng quán xét thì chúng ta mới xả cái niệm ác đó đi, các pháp ác đó đi.
Vì vậy mà trong Tứ Chánh Cần chúng ta có ba loại cái định để mà chúng ta ngăn chặn không cho các pháp ác sanh và đoạn dứt các ác pháp đã sanh. Mà khi mà ngăn chặn không cho sanh, thì cái thiện pháp nó sanh khởi. Nó sanh khởi nghĩa là cái tâm của chúng ta nó không có ác pháp. Nó không có ác pháp tức là thiện pháp.
Thí dụ như nó không tham, không sân, không si, thì tức là thiện pháp không tham, không sân, không si nó ở trong tâm của chúng ta nó hiện tiền. Và chúng ta kéo dài cái thời gian đó ra, đó là chúng ta tăng trưởng cái thiện pháp, chớ không phải chúng ta thêm một cái thiện pháp nào hết.
Vì vậy mà chúng ta đã hiểu rõ được có ba cái pháp tu, ba cái pháp đó là Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, và Định Niệm Hơi Thở, và cái Định Vô Lậu, ba cái pháp đó để mà chúng ta sử dụng tu Tứ Chánh Cần.
Khi thông hiểu được ba cái pháp này, thì nhất là cái Định Niệm Hơi Thở, nó rất khó vì nó vừa là nó trợ giúp cho cái pháp Tứ Chánh Cần để tu, để chúng ta chánh niệm ở trong cái hơi thở, nhưng mà nó là một cái pháp để trợ cho các cái pháp khác nữa, chớ không phải trợ cho cái pháp Tứ Chánh Cần không.
(2:19) Cho nên hôm nay trước khi mà học về Tứ Niệm Xứ, thì Thầy sẽ nhắc lại để cho chúng ta rõ được cái Định Niệm Hơi Thở, mà chư Phật, nhất là Đức Phật Thích Ca Ngài đã dạy rất rõ ràng trong cái Định Niệm Hơi Thở.
Mà từ lâu thì Thầy chỉ dựa vào theo các cái hơi thở của các Tổ dạy như pháp An Bang, như Sổ Tức Quan tức là đếm hơi thở, hoặc là Tùy Tức, tức là khi mà đếm quá thuần thục thì chúng ta xả cái đếm để chúng ta còn nương theo hơi thở gọi là Tùy Tức. Nhưng những cái pháp đó nó không đúng với cái Định Niệm Hơi Thở của Phật đã dạy.
Hôm nay, vì soạn và viết ra để thành một cái Giáo Án Đường Lối Tu Tập Của Đạo Phật, cho nên những cái gì mà Đức Phật đã dạy thì Thầy dạy lại, Thầy triển khai Thầy dạy lại, còn cái gì không phải của đạo Phật thì Thầy không có dạy. Như trước kia Thầy đã tùy thuận Đại Thừa, kinh điển phát triển mà Thầy không có bỏ ra, hôm nay bỏ ra để chúng ta thanh lọc lại cái nào là của đạo Phật, những cái nào không phải của đạo Phật.
Cho nên chúng ta thấy Đức Phật cũng có dạy hơi thở, Định Niệm Hơi Thở, nhưng mà dạy khác hơn các Tổ. Do như vậy, thì hôm nay Thầy thêm để cái phần mà Định Niệm Hơi Thở. Vì chúng ta biết rằng cái hơi thở ra hơi thở vô mà khi để tu mà ngăn chặn các pháp ác thì chúng ta, nó có khác.
Là vì chúng ta tỉnh thức ở trong cái hành động nội thân của chúng ta, như ở trong Tứ Niệm Xứ, trên thân quán thân tu về hành tướng nội. Hành tướng nội là cái hành động của cái thân nội của mình, là cái hơi thở ra hơi thở vô. Nghĩa là hơi thở chúng ta dài, thì chúng ta nương theo dài mà chúng ta nương vào đó mà chúng ta tỉnh thức ở trong cái hành động đó để làm cho các pháp ác không sanh ở trong tâm chúng ta.
(04:34) Thì cái Định Niệm Hơi Thở đó là trong khi đó nó chỉ trợ giúp cho cái Tứ Chánh Cần. Mà trong khi mà tu cái Định Niệm Hơi Thở như vậy đó, thì các con cũng như quý thầy cũng phải biết rằng đây là Tỉnh Thức Chánh Niệm ở trong hơi thở, cho nên chúng ta thường dùng cái pháp hướng.
Nói chung là cái pháp nào như Chánh Niệm Tỉnh Giác Định tu ở trong mọi hành động, thì chúng ta cũng có cái pháp hướng chớ không phải là Thầy dạy ở đây Thầy không nhắc pháp hướng, nhưng mà quý thầy cũng nhớ rằng phải có cái pháp hướng.
Thí dụ như mình đi mười bước, hai chục bước mình nhắc: “Tôi đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành”, hoặc là tôi quét sân, thì mình quét năm, mười chổi thì mình nhắc: “Tôi quét sân tôi biết tôi quét sân”. Đó là cái pháp hướng mà, để nó kèm theo nó giữ cho cái tâm của mình đi dài dài một cái thời gian dài ra, mà không có một cái tạp niệm, hay hoặc là không có cái vô ký quên đi cái hành động mình đang làm công việc đó.
Thì cái Định Niệm Hơi Thở mà chúng ta hướng về cái hơi thở, hướng tâm về hơi thở, để cũng là nhắc, tức là cái pháp hướng này là pháp hướng nhắc tâm, để cho nó tỉnh thức ở trong cái hơi thở, cái tâm chúng ta tỉnh thức mãi, mà nó không bị mê, hay hoặc là không bị một niệm khác xen vô.
Cho nên thí dụ như mình tu về tỉnh thức cái hơi thở của mình, thì cái pháp hướng là các thầy cũng nhớ rằng mình nhắc, thí dụ như mình hít thở năm, mười hơi thở thì mình nhớ: “Tôi thở vô, tôi biết tôi thở vô. Tôi thở ra, tôi biết tôi thở ra.”
Tức là mình nhắc để cho mình biết mình thở vô, thở ra, thì đó là mình tập tỉnh thức. Còn trái lại cái Định Niệm Hơi Thở, thì nó cũng bắt đầu từ cái tỉnh thức đó, nhưng nó còn có những cái khác nữa, chớ không phải có bấy nhiêu đó không.
Cho nên ở đây Thầy muốn nhắc lại về cái Định Niệm Hơi Thở, là tại vì nó là một cái pháp môn trợ cho tất cả các pháp môn khác. Như Thầy có nói nó là một cái trợ động từ, nó cũng giống như một cái trợ động từ của Pháp ngữ để mà chia tất cả những cái động từ khác.
(06:36) Đó thì, hôm nay thì chúng ta thấy rằng trong cái hơi thở, cái Định Niệm Hơi Thở là cái định hơi thở đó, nó là cái pháp để mà giúp chúng ta tu hành các pháp khác.
Cho nên mới đầu thì chúng ta học chúng ta thấy rằng chúng ta chỉ hướng có: “Tôi thở vô, tôi biết tôi thở vô. Tôi thở ra, tôi biết tôi thở ra.” Đó là mình nhắc, rồi mình thở năm, mười hơi thở mình lại nhắc một lần, thì như vậy nó giúp cho mình tỉnh thức ở trong ba mươi phút, hay là một giờ khi mình tu tập.
Để cho mình tỉnh thức đó để mà ngăn chặn, nó ngăn chặn, cái mục đích của cái tỉnh thức đó không phải nó đem lại cái kết quả của cái hơi thở đó mà chúng ta nhập thiền, nhập định gì cả, mà nó ngăn chặn được cái ác pháp không sanh khởi ở trong tâm của chúng ta, như tham, sân, si, ham muốn cái này, thương nhớ cái kia, giận hờn cái nọ.
Cái mục đích của nó sẽ đạt được là ngay chúng ta giữ gìn được cái tâm ở trong cái hơi thở, thì chúng ta biết rằng tâm chúng ta không khởi ra niệm ác, không có thương, ghét giận hờn ai hết.
Vì nó mắc tỉnh thức ở trong cái hành động của hơi thở, cho nên nó đâu có sanh được pháp nào, cho nên ngay liền chúng ta thấy có sự giải thoát. Nó không còn một cái tâm niệm làm chúng ta buồn khổ hay là thương ghét, hay là giận hờn ai nữa, nó không có ác pháp.
Đó là chúng ta đã đạt nhờ cái Định Niệm Hơi Thở như vậy mà chúng ta đã đạt được cái cứu cánh. Cái cứu cánh là cái giải thoát, cái mục đích mà chúng ta thực hiện trong cái pháp tu đó. Cho nên ngay liền thì chúng ta thấy có sự giải thoát thật sự.
Thì cái sự giải thoát thật sự đó nó giúp cho chúng ta một cái kết quả rõ ràng và cụ thể là khi trong cái giờ phút tu thì chúng ta cũng thấy, mà sau cái giờ phút tu chúng ta bắt đầu đi vào những cái hành động như đi, đứng, nằm, ngồi, tất cả những cái hành động mà ngoại thân, chúng ta không tu cái Định Niệm Hơi Thở nữa, thì chúng ta cũng đang giữ cái tâm của mình không có niệm khởi.
Do đó ngày này qua ngày khác thì chúng ta hoàn toàn là không có ác pháp. Đó là cái mà chúng ta vừa cái Định Niệm Hơi Thở mà cũng vừa với cái Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, nó ngăn chặn được các pháp ác không sanh khởi trong tâm chúng ta, và khi nào mà lỡ nó có sanh một cái pháp gì đó, thì chúng ta đoạn dứt liền bằng cái Định Vô Lậu, như các con và cũng như các thầy cũng biết.
(08:52) Bây giờ Thầy kế tiếp cái bài Định Niệm Hơi Thở để chúng ta biết nó không phải tu có bấy nhiêu đó để mà đạt (đoạn) được cái niệm ác mà thôi, tăng trưởng cái niệm thiện mà thôi. Nó còn có những cái đặc biệt của nó, để mà nó tự thân của nó, nó cũng có vì những giải quyết cho cái giải thoát của cái thân, thọ tâm pháp của chúng ta.
Bởi vì ngoài cái thân, thọ, tâm, pháp Tứ Niệm Xứ này, bốn cái nơi mà để chúng ta tu tập, tức là bốn cái lĩnh vực mà để tu tập, thì chúng ta đều đặt các pháp trên đó mà tu tập. Tu tập cho tất cả bốn cái chỗ này nó trở thành tốt đẹp và nó trở thành thanh tịnh.
Chớ không phải là Tứ Niệm Xứ là có một cái gì mà, có cái pháp để làm cho một cái khác thanh tịnh, không phải. Tứ Niệm Xứ là chỉ bốn cái chỗ để chúng ta đặt các pháp trên đó mà chúng ta thực hiện cho nó thanh tịnh, bốn cái chỗ đó thanh tịnh.
(9:44) Bây giờ nói về cái Định Niệm Hơi Thở. Cái bài tập thứ nhất về Định Niệm Hơi Thở, nó có từ bài tập thứ nhất, bài tập thứ hai, bài tập thứ ba, chớ nó không phải có một cái bài mà “hơi thở ra tôi biết tôi thở ra,” mà “hơi thở vô tôi biết tôi thở vô” đâu. Đó là cái Chánh Niệm Tỉnh Thức của cái hơi thở đầu tiên chúng ta tu.
Cho nên ở đây đầu tiên thì Đức Phật có khuyên như thế này nè: một người muốn tu tập Định Niệm Hơi Thở thì cái vị đó phải đi đến một khu rừng, khu rừng là cái nơi vắng vẻ, cái nơi không có người ta đến.
Hay đi đến một cái gốc cây, ở cái nơi nào mà có cái gốc cây hay hoặc này kia, để cho mình ngồi ở bên gốc cây đó mình tu tập. Tức là cái cây có cái gốc thì cái cây nó có cái tàn nó mát mẻ, cho nên mình ngồi dưới gốc cây đó mình tu. Hay đi đến chỗ một cái nhà trống, chỗ nhà trống tức là cái nhà mà không có ai hết, họ bỏ trống rỗng.
Chúng ta sẽ vào những cái nơi vắng vẻ đó, cái nơi yên tĩnh đó mà chúng ta cái Định Niệm Hơi Thở. Thì trước tiên chúng ta muốn tu tập nó thì chúng ta đi chọn cái chỗ mà vắng vẻ như vậy, rồi bắt đầu chúng ta ngồi kiết già.
Ở đây Đức Phật không có dạy chúng ta ngồi bán già mà dạy chúng ta ngồi kiết già, nghĩa là phải chéo hai chân, lưng thì thẳng lên, rồi đặt cái niệm hơi thở trước mặt của chúng ta.
Nghĩa là như Thầy đã nói, cái niệm hơi thở của chúng ta mà đặt trước mặt, tức là cái tụ điểm chỗ đó, cái hơi thở ra và hơi thở vô. Như vậy thì cái nhân trung của chúng ta là cái chỗ mà nó, từ cái hơi thở hít vô thì nó cũng đi ngang qua đó, mà từ cái hơi thở ra nó cũng đi ngang qua đó, cho nên lấy cái chỗ tụ điểm đó mà chúng ta làm cái chỗ để tâm chúng ta tập trung ở chỗ đó, để biết cái hơi thở ra và hơi thở vô.
Cho nên đặt niệm ở trước mặt của chúng ta, tức là ở trước cái mặt của chúng ta là cái nhân trung của chúng ta đó, đặt cái niệm chỗ đó đó.
(11:38) “Vị ấy chánh niệm”, chánh niệm đây là không phải là tà niệm. Cái chánh niệm là cái tập trung tâm của chúng ta đó, là gọi là chánh niệm. Tức là mình đặt cái niệm hơi thở ngay tại cái chỗ tụ điểm, tức là mình chọn lựa cái chỗ nào đó thì mình mới đặt cái niệm hơi thở của mình, cho nó thở ra thở vô ở đó.
Cho nên Phật nói là chánh niệm hơi thở vô và chánh niệm hơi thở ra, nghĩa là mình đặt cái chỗ nào đó để cho cái hơi thở từ đó nó xuất phát ra vô, cho nên gọi là chánh niệm hơi thở vô, chánh niệm hơi thở ra.
Đó là cái thứ nhất để mà chúng ta biết chọn cái tụ điểm. Nếu mà tu tập không có chọn chỗ tụ điểm thì bây giờ chúng ta thở thấy nó thở chỗ này, lát nữa chúng ta thấy thở chỗ kia, lát nữa chúng ta thấy từ ở ngoài này nó xa rồi nó đi vô, hoặc là đi theo hơi thở, chạy đủ thứ cái chỗ nơi, cho nên nó không tập trung được, cái tâm nó không có gom lại tập trung được. Cho nên chúng ta phải đặt cho nó nằm yên một chỗ.
(12:39) Bây giờ cái bài tập thứ nhất, khi mà chúng ta đã đặt niệm đúng chỗ rồi, tức là có tụ điểm rồi, hơi thở ra hơi thở vô tại chỗ đó rồi, thì bắt đầu chúng ta tập cái bài tập thứ nhất. Đây quý thầy và các con hãy nghe cái bài tập thứ nhất về hơi thở.
Mà từ lâu thì Thầy cũng dạy hơi thở, Thầy cũng nhắc đi nhắc lại nhưng mà không có nói rõ ràng như hôm nay. Là vì hôm nay là dạy về cái giới hành, nó là sự tu tập nó làm cho chúng ta thanh tịnh ở trong giới, thân tâm chúng ta thanh tịnh không có phạm giới, nó làm cho chúng ta có đầy đủ đức hạnh giải thoát, làm cho mình không khổ mà người khác không khổ.
Thì cái hơi thở, bây giờ bài tập thứ nhất thì chúng ta tập như thế nào? Chúng ta ngồi ngay ngắn rồi, bây giờ chúng ta mới nhắc: “Thở vô dài, tôi biết tôi thở vô dài”. Bây giờ mình thở vô tức là hít vô đó, mà cái hơi thở của mình dài thì mình biết tôi thở vô dài. Phải không.
Bây giờ mình bắt đầu mình thở vô dài rồi, cái thứ hai thì mình phải thở ra, bởi vì hai hơi thở nó mới vào một cái “túc”, tức một hơi thở, một trọn vẹn một hơi thở. Cho nên bây giờ hít vô rồi thì bắt đâu thở ra, “thở ra dài, tôi biết tôi thở ra dài”, đó, rõ ràng là mình nhắc, tức là nhắc cái tâm của mình, như hồi nãy “tôi thở vô tôi biết tôi thở vô, tôi thở ra tôi biết tôi thở ra”, đó là mình nhắc như vậy.
(14:02) Nhưng bây giờ thì lại, về cái bài tập này nó thuộc về Định Niệm Hơi Thở, mà nó không phải trợ giúp cho Tứ Chánh Cần, mà nó tập luyện cho nó thuần thục để rồi mình dùng nó mà mình câu hữu với tất cả, tức là kết hợp với các pháp khác để mà tu tập.
Cho nên cái bài tập thứ nhất của nó “hít vô dài” hay là “thở vô dài, tôi biết tôi thở vô dài”, tức là mình nương theo cái hơi thở, rồi mình nói, mình hướng tâm, mình nhắc ở trong đầu của mình cái câu này. Rồi: “thở ra dài, tôi biết tôi thở ra dài”. Đó, là hai cái câu này nó kết hợp lại, nó làm một cái hơi thở của chúng ta, một hơi thở, tức là hít vô thở ra.
Rồi kế đó mình thấy bây giờ cái hơi thở của mình nó không có dài, mà mình nói dài là trật, nó không đúng. Cho nên mình thấy cái hơi thở mình nó ngắn, vậy cho nên bây giờ đó, mình mới sửa lại cho đúng theo cái hơi thở của mình. Mà muốn sửa đúng theo hơi thở của mình, thì mình thấy nó ngắn cho nên mình nói: “Thở vô ngắn, tôi biết tôi thở vô ngắn”.
Đó. Thì tức là đây là ở một hơi thở nè, mình hít vô thì mình nói: “Thở vô ngắn, tôi biết tôi thở vô ngắn”. Rồi bắt đầu bây giờ mình thở ra, thì mình nói theo cái hơi thở mình đang ra, “thở ra ngắn, tôi biết tôi thở ra ngắn”.
Rõ ràng là nhắc cho mình, cái pháp hướng này nhắc cho mình biết cái hơi thở của mình. Rồi trong khi mình nhắc như vậy thì mình lại làm thinh, mình không nói nữa, mà mình cứ thở ra thở vô để cho cái tâm mình nó biết cái thở ra vô ngắn như vậy.
Rồi một lúc nữa mình lại nhắc “Thở vô ngắn tôi biết tôi thở vô ngắn, thở ra ngắn tôi biết tôi thở ra ngắn”, tức là mình nhắc theo đúng như cái hơi thở của mình.
Do đó thì, nó nhắc làm cho mình kéo dài được năm, mười hơi thở nữa mà không có một tạp niệm. Và đồng thời nếu mình cứ để như vậy hoài, mình thở không nhắc nữa, thì lát nó quên đi. Nó quên đi thì nó có những cái vọng tưởng, cái tạp niệm khác. Do vì vậy đó mà mình phải nhắc lần nữa.
Mà mình tu tập như vậy, cái bài tập thứ nhất này mình tu tập như vậy, không có nghĩa là tu tập tỉnh giác ở trong hơi thở, tỉnh thức ở trong hơi thở. Mà cái bài tập này vốn để cho mình luyện tập để điều hòa cái hơi thở của mình, để ổn định cái hơi thở của mình, để mình biết rõ nó dài nó ngắn theo cái đặc tướng riêng của mình, để mình tu tập không cái mệt, không có khó khăn không có khổ sở cho cái thân của mình. Đó là cái bài tập thứ nhất.
Và cũng vì cái chỗ tu tập này nó làm cho mình quen đi với cái hơi thở, mình mới coi vậy chớ nó không quen đâu. Và đồng thời khi mình nhắc tới nhắc lui, đồng thời vừa thở mà vừa nhắc, thì nó cũng phải khéo léo mình mới nhận ra được cái hơi thở mình ngắn, hay là hơi thở mình dài. Hay hoặc cái sức mà mình thở dài mình chịu đựng nổi, nó không mệt, do đó mình tùy theo chỗ cái hơi thở đó mà mình rèn luyện.
(16:52) Và cái đầu tiên để cho chúng ta thấy rằng ở chỗ này nó không phải là cái Chánh Niệm Tỉnh Giác của trong hơi thở, mà cái chỗ này nó là cái Định Diệt Tầm Giữ Tứ.
Cái bài tập thứ nhất này, là cái định tu tập như vậy, nương vào cái hơi thở mà tu tập như vậy, để cho nó không có những cái niệm vọng tưởng xen vô. Thì cái định mà không có những cái vọng tưởng xen vô, thì cái chỗ mà tập luyện cái bài thứ nhất này, thì chúng ta tập luyện cái Định Diệt Tầm Giữ Tứ. Chớ nó không phải là cái định này là cái Định Niệm Hơi Thở, mà dùng cái hơi thở để chúng ta tu tập cái Định Diệt Tầm Giữ Tứ.
Có hiểu như vậy thì mới thấy được cái vấn đề mà Đức Phật dạy chúng ta từng bước một, tu tập từng chút, từng cách thức tu tập, chớ không phải là ào vô cái ngồi đó hít thở, hít thở cho hết vọng tưởng, thì cái chuyện đó chúng ta thật sự ra chúng ta chưa biết cách thức tu tập. Và cái người hướng dẫn mà như vậy thì cũng chưa biết cách hướng dẫn người.
Cho nên qua những cái bài mà Đức Phật dạy chúng ta tu tập thiệt là cơ bản, vững vàng. Mà mỗi một cái bài tập như vậy, để chỉ cho chúng ta biết cách thức tu tập, cái đó thuộc về cái loại định nào, để cho chúng ta biết.
Cho nên cái bài tập thứ nhất của Định Niệm Hơi Thở thì nó là cái bài tập để chúng ta tu tập cái Định Diệt Tầm Giữ Tứ. Đó nó có cái tên đó, cái tên định của nó là Định Diệt Tầm Giữ Tứ.
(18:20) Mà khi mà nói bây giờ tôi tu cái Định Diệt Tầm Giữ Tứ ở trên thân quán thân tu về hành tướng nội, mà tu cái Định Diệt Tầm Giữ Tứ, thì lúc bấy giờ quý thầy biết là cái định gì rồi, phải không?
Tức là mình phải biết cách thức mình tu cái gì rồi, tức là cái Định Niệm Hơi Thở trong cái bài tập thứ nhất của nó, lấy trong cái bài tập thứ nhất của cái Định Niệm Hơi Thở thì chúng ta biết đó là cái Định Diệt Tầm Giữ Tứ.
Đó, nó có như vậy chúng ta mới biết được cái pháp của Phật nó rất là tỉ mỉ để cho chúng ta luyện tập từng chút một, chớ khi không mà nhảy vô mà để tu mà hết vọng tưởng liền, thì thật sự ra thì các thầy phải tu mất cái thời gian rất lớn để mà ức chế tâm của mình.
Còn cái này Phật dạy, chúng ta tu tập thử coi, kết quả dữ lắm đó, chớ không phải là không đâu. Thầy thấy đây là, trải qua trước kia Thầy cũng chưa có biết cái đường lối này đâu, nhưng mà sau khi mà tu tập xong rồi, nhìn lại cái lời của Đức Phật dạy thật là có đủ kinh nghiệm, chớ không phải là không có kinh nghiệm, kinh nghiệm rất kinh nghiệm.
Từ cái chỗ mà hướng tâm, nhắc từng câu như vậy để cho cái tâm nó không có tạp niệm xen vô, cho đến khi mà kéo dài 30 phút hay một giờ mà không có một cái vọng tưởng nào xen vô, thật sự ra thì Thầy thấy không có cái pháp nào hơn là cái pháp này.
Mặc dù là quý thầy có sổ tức đi nữa, đếm từng hơi thở, cho đến cả trăm hơi thở nhưng vọng tưởng vẫn xen vô. Còn cái này chúng ta tu, chúng ta sẽ thấy rằng cái sức của chúng ta, tức là tùy theo cái đặc tướng của chúng ta mà chúng ta sẽ nỗ lực tu thì không có Tầm.
(19:50) Ở đây tới cái bài tập thứ hai. Ở đây cái bài tập thứ nhất thì Thầy đã xác định cho quý thầy biết rằng cái định đó là cái Định Diệt Tầm mà giữ Tứ đó. Bây giờ tới cái bài tập thứ hai.
Bài tập thứ hai cũng nương vào cái hơi thở mà tu tập, cho nên đây thì Đức Phật hướng tâm nhắc như thế nào trước: “Cảm giác toàn thân tôi sẽ thở vô, cảm giác toàn thân tôi sẽ thở ra”, tức là cái hướng tâm theo đó.
Nghĩa là bây giờ đó, khi mình tu tập cái Định Diệt Tầm Giữ Tứ nó đã không có Tầm nữa rồi, thì tức là nó sẽ có một sự an ổn. Mà cái sự an ổn đó thì tức là cái gì mà an ổn đó cho cái thân này? Thì cái cảm giác, cái cảm giác toàn thân chúng ta thấy nó có cái sự an ổn đó. Cho nên cái cảm giác toàn thân tôi biết.
Bởi vì lúc bấy giờ nó tỉnh thức, do cái chỗ mà không có cái tạp niệm xen vô đó, thì cái cảm giác toàn thân mình thấy rất rõ. Nó xảy ra cái gì mình thấy rất rõ, nó an lạc, nó không an lạc, biết rất rõ, nó rất là kỹ lưỡng.
Cho nên ở đây, đầu tiên vô cái bài pháp thứ hai này, thì Đức Phật dạy “Cảm giác toàn thân tôi sẽ thở vô, cảm giác toàn thân tôi sẽ thở ra”, thì nó cũng nương theo hơi thở. Và khi mà mình nhắc như vậy, mình lại thở năm, mười hơi thở, thì mình, cái cảm giác đối với cái thân của mình nó vẫn còn bàng bạc ở trong cái thân của mình, chớ chưa phải mất đâu.
Cho nên lúc bấy giờ, mất cái cảm giác đó đó, mà cái bài tập thứ hai này nó làm cho cái tâm của chúng ta nó có một cái trạng thái rất là an ổn. Từ đó chúng ta tiếp tục chúng ta tu cái hơi thở này.
Cái hơi thở mà “cảm giác toàn thân” này chúng ta tu, tu cho đến một lúc thì chúng ta lại thuần thục, thuần thục thì nó lại thấy rõ ràng một cái sự an tịnh của thân hành của mình.
Nghĩa là cái hơi thở ra vô mà nó có cái an tịnh ở trong đó. Cho nên lúc bấy giờ chúng ta cảm thấy có một cái sự an tịnh thật sự, tức là cái cảm giác toàn thân chúng ta thấy có sự an tịnh. Vì vậy mà bắt đầu thì chúng ta nói “an tịnh thân hành tôi sẽ thở vô, an tịnh thân hành tôi sẽ thở ra”.
Đó, bây giờ mình có một cái cảm giác của sự an tịnh của cái thân của mình, mà thân hành là cái động dụng của cái hơi thở chúng ta ra vô, mà chúng ta thấy an, rất là an ổn, mà rất là thanh tịnh. Cho nên mình nhắc cái câu đó, mình hướng tâm để cho cái trạng thái đó nó được an trú.
Cho nên Phật dạy như thế nào? Thiện xảo an trú trong định! Thiện xảo là mình phải khéo léo, mà khi nó có cái đó rồi thì mình nhắc cái đó đó, nó sẽ kéo dài cái đó ra. Mình nhắc cái trạng thái đó nó sẽ kéo dài ra.
(22:38) Thí dụ bây giờ mình có sự an tịnh rồi, mình nhắc “an tịnh thân hành tôi sẽ thở vô”, thở vô tức là mình nương vào hơi thở, nhưng mà cái cảm giác an tịnh đó là nó làm cho cái tâm của mình ở trong cái trạng thái để cho nó thích thú, để cho nó ham tu, để cho nó thoải mái, dễ chịu.
Mình nương hơi thở mà mình không thấy có sự an tịnh, không có sự thoải mái dễ chịu, thì mình tu mình lười biếng lắm. Nhưng mà ở đây mình thấy toàn thân an tịnh, qua cái hành động của nội thân của mình, mình nghe nó rất an ổn.
Cho nên ở đây “an tịnh thân hành tôi sẽ thở vô”, thở vô là cái hành động của cái thân, nội thân. “An tịnh thân hành tôi sẽ thở ra”, thì bây giờ đó mình thấy cái sự an tịnh nó đã được có rồi. Nó làm cho mình thấy thích thú, rồi bắt đầu mình thấy mình bây giờ cỡ mình không nhắc nó nữa nó vẫn còn có, cho nên cái tu tập của mình nó vẫn còn có liên tục chớ nó không có mất.
Thì trong cái bài tập thứ hai này, thì chúng ta thấy đây là cái thân, cảm giác toàn thân, rồi cảm giác an tịnh thân hành, hai cái này nó thuộc về thân. Cho nên bây giờ đó, khi mà cái bài tập thứ hai này mà nó đã được cái sự an tịnh, thì an tịnh nó sẽ có một cái cảm giác của nó, một cái cảm giác của nó như thế nào?
(24:03) Cái cảm giác nó vui mừng, lâng lâng ở trong lòng của mình. Cho nên ở đây, qua cái phần kế của cái cảm giác an tịnh này, thì Đức Phật dạy “cảm giác hỷ thọ tôi sẽ thở vô, cảm giác hỷ thọ tôi sẽ thở ra”.
Nghĩa là bây giờ mình thấy có cái niềm vui, cái niềm vui là do cái sự an tịnh này, nó thấy mình có những cái sự tu tập của cái Định Niệm Hơi Thở. Cái Định Diệt Tầm Giữ Tứ này nó mang lại cho mình có cái niềm vui, có sự an tịnh, có sự cảm giác toàn thân, cái sự an tịnh, rồi có một niềm vui nho nhỏ trong tâm hồn của mình, trong hơi thở ra và hơi thở vô của mình. Thì khi mà nó có cái niềm vui đó rồi thì cái thân của mình nghe nó nhẹ nhàng, khinh an vô cùng lận.
(24:52) Cho nên Đức Phật tiếp tới thì Đức Phật cũng nương theo hơi thở để mà lắng nghe được cái trạng thái an ổn, khinh an của cái thân của mình. Cho nên Đức Phật dạy, mình cũng nương hơi thở chớ đâu có lìa hơi thở được, lìa hơi thở thì coi chừng nó sẽ rơi vào chỗ xúc tưởng hỷ lạc mất đi.
Cho nên cứ ôm chặt hơi thở mà nhắc những cái đó, để cho nó, cái trạng thái do cái định mà nó xuất hiện, do cái định mà nó sanh ra mà nó không bị mất. Cho nên “Cảm giác lạc thọ tôi sẽ thở vô, cảm giác lạc thọ tôi sẽ thở ra”.
Hồi nãy hỷ là cái niềm vui, cái niềm mà nó có được cái sự an ổn thân tâm của mình qua những cái hành của thân, qua những cái cảm giác của toàn thân. Bây giờ cái hỷ đó đã làm cho mình vui, mà mình vui thì mình thấy rằng cái thân của mình bây giờ nó an lạc, nó nhẹ nhàng, nó phơi phới. Cái thọ lạc này nó đi đến nó làm cho chúng ta thấy quá là khinh an ở trong cái thân và tâm của chúng ta.
Cho nên ở đây khi mà có cái trạng thái đó rồi, thì lúc bấy giờ chúng ta cũng nương vào hơi thở, thỉnh thoảng chúng ta lại nhắc, nhắc nó một câu: “Cảm giác lạc thọ tôi sẽ thở vô, cảm giác lạc thọ tôi sẽ thở ra”.
Và đây là, các thầy cũng như các con, nếu mà học thuộc lòng cái này, khi nó có đến thì chúng ta hướng lên, bởi vì nó thuộc lòng. Còn khi mà nó có đến rồi chúng ta quên, không biết làm sao đây, nói làm sao đây? Thầy có dạy rồi mà mình không biết mình nói như thế nào đây? Lúc đó cứ nhớ chữ lạc, chữ hỷ rồi không biết nói làm sao, quên cái chữ “cảm giác”, hoặc là quên chữ “an tịnh” mất đi rồi.
Cho nên mình không biết làm sao mà cấu kết được cái pháp hướng. Do vì vậy đó mà các con và các thầy ghi chép lại cái câu này, là câu này từ ở trong kinh Đức Phật đã chọn để cho các đệ tử Người để thực hiện, cho nên chúng ta cũng nên ghi chép.
(26:42) Nhưng mà chúng ta có thể viết những cái câu pháp hướng khác, tùy theo cái đặc tướng của chúng ta, mà nó phù hợp hơn là những cái câu này của Phật dạy. Nhiều khi chúng ta dẫm lại cái pháp hướng của Phật, nó không trúng cái đặc tướng của chúng ta, nó làm chúng ta khó chịu.
Thí dụ như câu này nó dài quá, bắt buộc mình phải thở chậm quá, cho nên làm mệt, nương theo cái hơi thở mình nói một hơi, mình hướng tâm vừa thở mà vừa nói, mình phải ráng mình thở cho thiệt chậm đặng cho nó hết câu nói chớ gì! Do đó hết câu nói nó mệt muốn đứt hơi mình! Vì vậy mà an lạc không thấy, hỷ thọ không thấy, khinh an không thấy, mà thấy mệt, mà thấy khổ sở, đó là mình tu sai.
Cho nên do vì vậy mà cái đặc tướng của cái hơi thở của mình nó dài, thì mình tạo cái câu dài hơn để mình nhắc nhở. Mà cái thân của mình nó có cái đặc tướng thở cái hơi thở ngắn, mà mình thở chậm mà dài để mình hướng tâm cho hết cái câu theo hơi thở của mình, thì lúc bấy giờ mình sẽ hoàn toàn là mình thấy khó chịu.
Cho nên nó tùy theo cái hơi thở ngắn, hơi thở dài, rồi mình chế biến cái câu này nó nói theo cái hơi thở ngắn của nó, nó nhanh chóng hơn. Thí dụ như nói “an tịnh thân hành” thì mình chỉ bỏ chữ “thân hành” đi, thì mình nói: “An tịnh tôi sẽ thở vô, an tịnh tôi sẽ thở ra”.
Tức là mình biết cái gì an tịnh, cái thân của mình chớ gì? Thì mình bỏ bớt đi, thì nó làm cho nó vừa với cái hơi thở vô và hơi thở ra của mình. Đó là khi mà tu hành thì mình còn phải khéo léo để trạch pháp, chọn lấy một cái câu nó vừa hợp với cái khả năng riêng biệt của mình.
Bây giờ cái phần kế nữa. Thì chúng ta đã tu tới cái “Cảm giác lạc thọ tôi sẽ thở vô, cảm giác lạc thọ tôi sẽ thở ra”. Cảm giác tâm hành, bây giờ tới về phần tâm rồi. Hồi nãy là phần thân, rồi phần thọ, bây giờ về tới phần tâm:
“Cảm giác tâm hành tôi sẽ thở vô, cảm giác tâm hành tôi sẽ thở ra”. Thì hồi nãy thân cũng cảm giác, rồi tâm cũng cảm giác, bây giờ cái tâm nó cảm giác tâm khác à. Các con cũng như các thầy nên lưu ý về cái phần thân và phần tâm. Hai cái tuy rằng nó một cái danh từ gọi vậy chứ cái tâm nó khác, mà cái thân nó khác.
(29:08) Rồi bây giờ cái tâm của mình. cái tâm hành của mình, mà mình thấy nó an ổn, thì cho nên mình thở hơi thở mình cũng nương vào “An tịnh tâm hành tôi sẽ thở vô, an tịnh tâm hành tôi sẽ thở ra”.
Đó thì bây giờ đó, mình đã thấy cái sự an tịnh của tâm của mình như thế nào, thì mình biết cái tâm mình nó rất an tịnh như thế nào, thì mình rõ để mình hướng theo cái hơi thở, để mình an trú ở trong cái an tịnh đó, nó kéo dài ra. Tức là nhờ hướng như vậy, nó sẽ kéo dài cái trạng thái an tịnh đó. Còn nếu mình không hướng thì nó một lúc thì nó lại mất đi, nó không còn có nữa.
Rồi bây giờ đó, khi mà cái tâm của mình nó có sự an tịnh như vậy đó, thì mình có cái sự tỉnh thức đối với cái tâm rất rõ ràng và cụ thể lắm, cho nên cái cảm giác về tâm thì mình thấy rất rõ tâm mình như thế nào.
Còn bây giờ nhiều khi cái thân của mình nó có những cái cảm thọ mát, lạnh, nóng thì mình biết, nhưng mà nói về cái tâm thì mình thấy, mình không biết cái tâm nó cảm giác như thế nào, như thế nào thì mình không biết. Nhưng mà khi mình tu đó, rồi từ đó nó có cái sức tỉnh, thì mình thấy cái cảm giác về cái tâm của mình nó sao, nó không giống như cái thân đâu.
“Cảm giác về tâm tôi sẽ thở vô, cảm giác về tâm tôi sẽ thở ra”. Đó. Và khi mà mình tu tập tới cái hơi thở tới chỗ này rồi, thì mình thấy cái thân tâm của mình nó rất là an ổn, nó rất là khinh an, nó rất là nhẹ nhàng. Cho nên lúc bấy giờ luôn luôn lúc nào mình cũng vui vẻ, mình cũng thích thú ở trong cái sự tu tập.
Cho nên cái bài tập kế này về cái Định Niệm Hơi Thở, thì quý thầy cũng nên nhớ rằng khi mà nó đạt được những cái kết quả về tâm như vậy rồi, thì cái tâm vui mừng của mình, tức là cái tâm hân hoan nó sẽ thể hiện.
Lúc nào nó cũng vui vẻ, cho nên người ta chửi mình cũng không biết giận, là tại vì mình vui quá vui rồi, cho nên mình không biết giận ai hết. Người ta nói mình chó, trâu, mình thấy mình cũng vui nữa, không có buồn nữa.
Cho nên hầu hết là mình tu, tại vì mình tu không đúng cách, cho nên do vì vậy mà mình cố mình dùng cái Định Vô Lậu, mình cố mình hướng tâm mình xả nó. Nhưng mà mình nhớ rằng mình tu tập đúng cách rồi, tự nhiên cái tâm nó vui, nó vui rồi mình cũng dễ tha thứ mọi người nữa.
Mình vui quá mà, đâu có còn giận ai nữa, cho nên khi nghe người ta chửi mình mình cũng không biết giận nữa, vì cái tâm mình hân hoan. Cho nên ở đây cũng nương vào cái hơi thở mà tu tập cái tâm: “Với tâm hân hoan tôi sẽ thở vô, với tâm hân hoan tôi sẽ thở ra”.
Đó rõ ràng, mình nhắc. Ở đây nó có phần, có tâm hân hoan nhắc, thì rất là cụ thể. Mà không có tâm hân hoan nhắc, thì mình tu một lúc sau thì lại có hiện ra tướng hân hoan của cái tâm của mình. Đó.
Cái gì cũng vậy, mình cố gắng mình tu tập, thì đầu nó chưa có, nhưng mà sau nó lại có. Rồi khi mà cái tâm hân hoan mình nó đã có rồi, thì cái sức định tỉnh nó sẽ làm cho chúng ta biết rõ ràng hơi thở.
(32:16) Còn đằng này quý thầy tu thiền định, quý thầy ngồi. Khi mà có cái trạng thái hỷ lạc, an ổn cho quý thầy, thì lần lần cái tỉnh thức đó lại mờ mờ mờ mờ, nó lần lần lần, nó theo cái sự say say của hỷ lạc đó, nó làm riết, cái tâm của quý vị nó mất, nhiều khi nó vô ký nó không biết nữa. Nó thích cái an lạc, thích cái khinh an lắm, nhưng mà nó cứ ôm chặt theo cái đó, thì nó đi riết cái nó lạc mất.
Còn cái này nó càng lúc nó lại càng tỉnh táo lên, nó càng rõ ràng lên, cái sự hân hoan, cái sự an tịnh của thân, của tâm của mình như thế nào, nó càng biết rõ, càng lúc nó tỉnh táo, nó càng nhiều cái sức tỉnh táo hơn.
Cho nên lúc bấy giờ do cái sức tỉnh táo đó thì chúng ta cũng nương vào hơi thở để mà an trú cái sức tỉnh táo đó, nó kéo dài trong cái thời gian mà chúng ta tu tập thiền định.
“Với tâm định tỉnh”, đó bây giờ nó có tỉnh thức rồi, cho nên mình mới nhắc: “Với tâm định tỉnh tôi sẽ thở vô, với tâm định tỉnh tôi sẽ thở ra”.
Nhưng mà mình tu một thời gian, mà mình thấy cái tâm mình nó không định tỉnh, nó luôn luôn nó mờ mịt, nó muốn buồn ngủ, nó muốn hôn trầm gì đủ thứ, nó làm sao cũng không có tỉnh táo, mình nhắc: “Với tâm định tỉnh tôi sẽ thở vô, với tâm định tỉnh tôi sẽ thở ra”.
Mình nhắc một hơi thì mình nhìn lại mình thấy nó định tỉnh, nó sáng suốt ra. Đó. Rồi bây giờ trong cái hoàn cảnh của mình, nó có những cái đối tượng. Khi mình ngồi mình xếp chân lại để mình tu cái tâm không Tầm Tứ, Diệt Tầm Giữ Tứ đó, mà mình tu thì cái sự việc đó nó làm cho cái tâm của mình nó bận rộn, nó suy tư, nó lo lắng.
Thì bây giờ mình làm sao để cho nó hết suy tư lo lắng, để cho mình ngồi lại mình tu cho được? Nhiều khi nó có chuyện gì, rồi bắt đầu mình ngồi vô cái mình lo lắng, mình ngồi đó mình nhiếp tâm không được, nó cứ nghĩ ngợi cái này kia. Nhất là cái sợ hãi, nó làm cho mình không có yên tâm chút nào mà ngồi đó mà nhiếp tâm nổi hết.
(34:19) Cho nên vì vậy đó, mình phải nhắc cái tâm của mình “Với tâm giải thoát tôi sẽ thở vô, với tâm giải thoát tôi sẽ thở ra”. Thí dụ như vừa lúc nãy có một người chửi mắng mình, bây giờ mình ngồi lại nghe nó tức tối quá, mà nó không có được giải thoát như vậy, thì nó làm sao nó yên mà mình tu?
Cho nên mình phải dùng cái câu pháp hướng này. Nghĩa là nó đang giận hờn, tức bực ai đó, hay hoặc là nó đương thương, nhớ, hay lo lắng ai đó, hay hoặc mình có một người thân đang bệnh, mà giờ tâm nó cứ lo cho người thân, sợ uống thuốc không hết rồi chết đi, mình sẽ mất mẹ, mất cha mình đi, buồn quá!
Cho nên cái tâm nó làm cho mình bồn chồn, lo sợ đủ cách, thì mình ngay đó mình phải nhắc “Với tâm giải thoát tôi sẽ thở vô, với tâm giải thoát tôi sẽ thở ra”. Mình nhắc một hơi thì cái tâm nó bắt đầu nó an trú, nó không có còn sợ hãi, bồn chồn nữa, nó không còn lo lắng nữa.
Tùy theo mỗi cái đặc tướng, mỗi cái hoàn cảnh của mình nó xảy ra một cái gì, thì mình dùng cái câu pháp hướng đó để nhắc, để dẹp cái đó xuống đi, để đem lại cái sự bình tĩnh, định tỉnh cho cái thân tâm của mình.
Bởi vì cái tu tập này nó rất khéo léo. Cái tâm mình nó chưa được định tỉnh, mình ngồi lại thì nó chuyện này đến chuyện kia nó lăng xăng ở trong đầu, thì mình nhắc “Với tâm định tỉnh tôi sẽ thở vô, với tâm định tỉnh tôi sẽ thở ra”.
Rồi mình thở năm, ba hơi thở mình lại nhắc nó để cho nó định tỉnh. Cho nên nó định tỉnh được rồi, bắt đầu nó không còn rối nữa, ở trong đó nó không có loạn tưởng ở trong đó nữa.
Còn bây giờ cái hoàn cảnh của mình nó không giải thoát, mình ngồi lại thì tâm mình nó lăng xăng, lộn xộn, nó khó quá. Cho nên mình nhắc tâm mình phải giải thoát, làm cho nó giải thoát, cho nên nhắc riết một hơi cái nó xả những cái điều mà lăng xăng ở trong đầu nó, những cái lo lắng suy tư, những cái sợ hãi của nó.
Xả nó được rồi, bắt đầu chúng ta thấy mình an tịnh ở trong cái hơi thở. Cho nên lúc bấy giờ tâm của mình an tịnh, hay là thân của mình an tịnh, thì khi mình thấy nó an tịnh rồi, mình muốn kéo dài cái trạng thái đó ra thì mình nhắc “An tịnh tâm hành tôi sẽ thở vô, an tịnh tâm hành tôi sẽ thở ra”.
(36:20) Chớ không phải các thầy nghĩ rằng, không phải là mình sắp xếp từ bài một cho đến bài hai như thế này, rồi mình mới tu tuần tự thứ tự như vậy. Không phải đâu. Ở đây nó lộn xộn đủ thứ. Tùy theo cái tâm của mình lúc bấy giờ nó ở trạng thái nào thì mình phải dùng cái câu pháp hướng đó nó ở trạng thái đó.
Hoặc là mình đang muốn được ở trạng thái đó, cái tâm ước muốn mình được an ở trong cái trạng thái đó. Mà cái trạng thái đó bây giờ nó đang buồn khổ, thì mình nhắc cái trạng thái mình ước muốn để cho nó hân hoan để cho nó vui vẻ đó. Thì mình nhắc một hơi, mình nương theo hơi thở một lúc, thì nó sẽ đạt được cái kết quả của cái pháp hướng.
Các thầy, các con nhớ được không? Nhớ như vậy, thì chúng ta mới biết rằng, ở đây không thể nào mà sắp thứ tự rằng chúng ta phải tu cái pháp bài thứ nhất, bài thứ hai, bài thứ ba đâu.
Mà ở đây những cái câu này nó tùy theo những trạng thái, khi bắt đầu từ cái chỗ “Cảm giác toàn thân tôi sẽ thở vô, cảm giác toàn thân tôi sẽ thở ra”, tùy theo mọi cái hoàn cảnh mà chúng ta sử dụng câu đó trước, hay hoặc là câu kia sau, chớ không phải là có một thứ lớp.
(37:22) Còn nhất định là chúng ta mới đầu, chúng tu tập cái bài thứ nhất đó, về Định Niệm Hơi Thở, để mà chúng ta biết cái hơi thở, chánh niệm ở trong hơi thở dài, hơi thở ngắn của chúng ta.
Khi mà chúng ta nói dài trước, thì chúng ta biết rằng mình theo không có kịp, hơi mệt, cho nên vì vậy mình nên thở ngắn. Mình thở ngắn thì tức là nó vừa với sức của mình, thì mình hướng cái câu hướng đó, hoặc nhanh hơn, hoặc chậm hơn một chút, để cho nó vừa với cái đặc tướng hơi thở của mình.
Vì vậy mà cái bài tập thứ nhất thì các con sẽ đạt được những cái kết quả đầu tiên, tức là Diệt Tầm Giữ Tứ. Đó là cái Định Diệt Tâm Giữ Tứ
Bài tập thứ hai là tùy theo những cảm giác thân tâm của mình, mà có thể hướng tâm an tịnh trước, hoặc hướng tâm hỷ trước, hoặc hướng tâm lạc trước, hoặc hướng tâm cảm giác tâm hành trước, hay hoặc là thân hành trước. Tùy theo nó ở trạng thái nào thì chúng ta sử dụng cái pháp hướng đó ở cái trạng thái nấy.
Cho đến cái câu mà: “Với tâm giải thoát tôi sẽ thở vô, với tâm giải thoát tôi sẽ thở ra”, thì cái câu mà tâm giải thoát thở vô, thở ra này, thì rõ ràng là nó sẽ áp dụng đầu hay hoặc là áp dụng đuôi, tùy theo cái chỗ đó.
Bây giờ tới cuối cùng mình, “với tâm định tỉnh”, “với tâm hân hoan”, “với cảm giác về tâm”, rồi “cảm giác an tịnh tâm hành”, tất cả mọi cái, khi mà nó, cuối cùng, nó thấy được cái sự giải thoát của nó thì mình lại nhắc giải thoát. Nghĩa là ở trạng thái tâm nào thì chúng ta phải tu pháp hướng đó ở trạng thái tâm nấy.
(38:49) Bây giờ tới cái phần số sáu này, thì chúng ta thấy rằng cái phần này là cái phần mà chúng ta tu tập để xả cái tâm, để ly cái tâm của mình, tham, sân, si. Mà nó cũng là cái phần để mà chuẩn bị cho cái sự thuần thục để mà thực hiện cái Định Vô Lậu làm cho tâm tham, sân, si của chúng ta sạch, và cũng là một cái pháp trợ giúp thêm cho cái Tứ Chánh Cần để thực hiện được các thiện pháp cho trọn vẹn.
Bây giờ ở đây câu thứ nhất của nó đó, cũng nương vào cái hơi thở mà tu tập cái pháp này: “Quán vô thường tôi sẽ thở vô, quán vô thường tôi sẽ thở ra”.
Tại sao vô thường? Vì đây là mình tu các pháp mà, các pháp đều vô thường, thân chúng ta vô thường, tâm chúng ta vô thường, thọ chúng ta vô thường, tất cả mọi cái đều vô thường.
Chúng ta đã hiểu như vậy cho nên chúng ta ở đây, chúng ta tu rất dễ dàng, là vì chúng ta chỉ cần “quán vô thường tôi sẽ thở vô, quán vô thường tôi sẽ thở ra”, đó.
Thì như vậy là rõ ràng là mình thấy vạn pháp đều là vô thường, không có một cái vật gì mà nó thường hằng hết mà nó phải thay đổi, thay đổi hết, bữa nay nó vầy, ngày mai nó khác.
Cái bàn này trước kia nó mới, bây giờ nó cũ, rồi nó gãy, nó sắp hư, thì đó gọi là vô thường. Cho nên thân này hồi nhỏ nó khác, bây giờ nó già nó yếu, nó không còn mạnh khỏe nữa, thì nó là vô thường. Cho nên mình chỉ cần nhắc “Quán vô thường tôi sẽ thở vô, quán vô thường tôi sẽ thở ra”.
Đó là cái pháp tu, tu để nhắc cho mình biết vạn pháp đều vô thường, để không khéo rồi mình thấy “A cái bàn này đẹp quá!”Nhưng nó đẹp có một thời gian của nó trong hiện tại này, chớ ngày mai ngày mốt nó sẽ cũ, cũ rồi nó sẽ bị mục nát đi, nó đâu có còn thường nữa. Cho nên do mình biết nó vô thường, vì vậy cái đẹp của nó nó không quyến rũ mình được, cho nên mình không tham nữa.
(40:46) Bây giờ mình biết rõ là cái tâm của mình còn tham, tham ăn, tham ngủ, còn tham ái, tức là còn thương, còn giận hờn, ghét cái người này người kia, cho nên nó còn tham. Vì vậy đó mình cũng nương vào cái hơi thở, cái Định Niệm Hơi Thở này, để mình tu để mình ly tham, mình xả nó ra, mình làm cho nó rời ra, nó không còn dính ở trong cái lòng ham muốn của mình nữa.
Đó cho nên ở đây thì Phật dạy “Quán ly tham tôi sẽ thở vô, quán ly tham tôi sẽ thở ra”. Nghĩa là mình hít vô đó, thì mình hướng tâm theo cái hơi thở vô của mình, thì mình nói “Quán ly tham tôi sẽ thở vô”, rồi bây giờ cái hơi thở mình đi ra nè, thì mình cũng nói:_“Quán ly tham tôi sẽ thở ra”_. Đó, nghĩa là mình ly cái lòng tham, sân, si của mình, thì tức là mình ly cái tham thì mình nhắc cái ly tham đó.
Thí dụ như bây giờ mình quán đoạn diệt cái tham của mình, làm cho nó đừng có tham muốn, đừng có này kia. Bây giờ mình ly rồi, nhưng mà nó chưa có lìa, tức là chưa có đoạn được nó. Cho nên mình bắt đầu mình sẽ tiếp tục nương vào cái hơi thở, mình tu một cái thời gian để ly cho được cái tham của mình.
Mà bây giờ tiếp tục thì mình thấy nó ly được nhiều rồi, thì do đó mình trên cái bước đường tu tập về Định Niệm Hơi Thở, thì mình lại quán thêm: “Quán đoạn diệt tham tôi sẽ thở vô, quán đoạn diệt tham tôi sẽ thở ra”.
(42:13) Nghĩa là mình đoạn diệt cái lòng tham của mình, để cho mình nương theo hơi thở là mình nhấn mạnh, để cho mình diệt nó đi, đừng để cái tâm của nó ở trong cái tâm của mình. Đó thì như vậy là cái lối của Đức Phật dùng cái pháp hướng rất nhiều để cho mình ly tham, đoạn diệt, để mình được giải thoát.
Rồi bây giờ đó, nếu mà đoạn diệt được thôi, mà nó không đoạn diệt được, mà nó cứ lầy nhầy hoài, thì mình biết rằng cái pháp hướng này nó chưa đúng cách nó, nó còn dai quá.
Mình ly, mình lìa ra rồi mà mình đoạn không có được. Nó cứ còn, thỉnh thoảng nó còn chen vô, nó còn tới lui, cho nên mình hướng tâm mình đoạn không được. Mình thay đổi liền, mình phải hướng như thế nào để cho đúng cách đây? Đúng cách đây để rồi từ đó mình mới đoạn diệt nó được.
Thì do đó mình phải: “Quán từ bỏ tham tôi sẽ thở vô, quán từ bỏ tham tôi sẽ thở ra”. Đó, thì thấy như vậy thì, bây giờ mình đoạn diệt nó không được, sao nó không dứt, cho nên mình từ bỏ nó trước đã.
Hồi nãy mình ly nó ra, rồi bây giờ mình từ nó ra đi, mình từ bỏ nó nữa đi. Ly nó mà nó không cái chịu ly cho thật ly đi, nó cứ còn bám bám theo mình hoài, bây giờ mình từ bỏ nó đi. Thì mình từ bỏ nó, thì mình nương vào hơi thở để mình hướng tâm mình nhắc, mình nhắc nó mình từ bỏ.
Vậy thì chúng ta sẽ thấy có một cái tâm tham, mà ở đây chúng ta đã tu ba cái giai đoạn: quán ly tham, rồi quán đoạn diệt, và quán từ bỏ. Phải không.
(43:38) Bây giờ tới cái sân. Cái tham rồi, thì bắt đầu mình có thể mình thêm chỗ tham, mình bỏ chữ tham mình thêm chữ sân: “Quán ly sân tôi sẽ thở vô, quán ly sân tôi sẽ thở ra”. Đó mình chỉ thêm, mình bỏ chữ tham đi mình thêm chữ sân vô, thì như vậy là làm cho mình không còn sân nữa chớ gì?
Rồi bắt đầu mình “Quán đoạn diệt sân tôi sẽ thở vô, quán đoạn diệt sân tôi sẽ thở ra”. Mình đoạn diệt cái sân đi, đừng cái để cho nó còn nữa. Nhưng mà mình thấy sao nó cũng còn, cho nên mình phải quán từ bỏ. Do đó mình “Quán từ bỏ sân tôi sẽ thở vô, quán từ bỏ tham (sân) tôi sẽ thở ra”.
Đó, thấy như vậy: tham, sân si. Tham sân thì mình đã tu tập rồi. Bây giờ trong cái si, si là cái vô minh, mà đây chữ si của Phật muốn nói ở đây là cái chỗ ham ngủ, si là thùy miên, vô ký, ham ngủ đó, hay là hôn trầm.
Cho nên chữ si chỗ này không phải là chữ minh và chữ vô minh đâu. Nếu mình nói vô minh thì mình phải có một cái sức định để mình vén được cái màn vô minh của nó.
Nhưng mà muốn vén được cái màn vô minh đó thì trước tiên mình đập cái hôn trầm, thùy miên, cái vô ký, phải đập sạch nó. Nó không còn ham ngủ nữa, nó không còn ngồi đó mà ngủ gục nữa, thì nó sẽ minh được, nó sẽ sáng suốt, nó có trí tuệ.
Muốn được như vậy thì mình phải nhắc “quán ly si”, ly si tức là ly cái buồn ngủ, hay hoặc là “quán lìa xa cái tâm ngủ tôi sẽ thở vô, quán lìa xa cái tâm ngủ tôi sẽ thở ra”. Mình lìa xa cái lòng ham ngủ của mình.
Đó thì như vậy, rõ ràng là mình lìa cái si. Bây giờ mình gồm lại, mà nếu mình dùng ngắn, thì “quán ly si”, “quán lìa cái si”, “quán ly si tôi sẽ thở vô, quán ly si tôi sẽ thở ra”, hay hoặc là tùy theo từng chỗ dùng chữ, “quán ly vô minh tôi sẽ thở vô, quán ly vô minh tôi sẽ thở ra”.
Chữ vô minh cũng là si, mà ngay chữ si thì mình cũng quán được, mà ngay chữ ngủ, hôn trầm, “quán ly hôn trầm tôi sẽ thở vô, quán ly hôn trầm tôi sẽ thở ra”, hay hoặc là “quán ly thùy miên tôi sẽ thở vô, quán ly thùy miên tôi sẽ thở ra”.
(46:01) Đó, thì mình chỉ có thay đổi những cái chữ đó mình dùng. Thì mình bị cái bệnh nào, bệnh tham của mình thì mình quán ly tham, đoạn diệt tham, từ bỏ tham. Mà nếu mình hay sân, chuyện gì nó cũng dễ sân thì mình lại dùng câu này nương vào hơi thở để nhắc, để lìa cái sân của mình.
Tùy theo mọi cái đặc tướng, có nhiều người tham nhiều mà sân ít, có nhiều người sân nhiều mà tham không có, có nhiều người thì ham ngủ nhiều mà sân cũng không có, mà tham cũng không có mà ham ngủ.
Cho nên tất cả những cái này, do tùy theo những cái đặc tướng, mà chúng ta có ba cái: hành tướng, nhân tướng và đặc tướng. Do cái đặc tướng này mà chúng ta phải quán. Vì cái đặc tướng nào thì chúng ta đặt cái niệm đó ngay ở chỗ đó, mà chúng ta quán ly nó, đoạn diệt nó, và từ bỏ nó.
Đó, hôm nay về cái Định Niệm Hơi Thở là cái mục đích của nó để giúp cho chúng ta ly tham, ly sân, ly si, mà nó đã ly tham, đoạn diệt sân, và từ bỏ sân, thì nó trợ duyên cho Tứ Chánh Cần, nó giúp cho Tứ Chánh Cần toàn ở trong thiện pháp.
Nó trợ giúp, mà không trợ giúp trực tiếp, mà đây là cái sự trợ giúp gián tiếp của cái Định Niệm Hơi Thở. Còn cái Định Niệm Hơi Thở mà Chánh Niệm Tỉnh Giác, nó trực tiếp để ngăn chặn các pháp ác không sanh.
Đó các thầy thấy pháp gián tiếp, rồi cái pháp trực tiếp, thì mỗi một cái pháp nào nó cũng có cái sự trợ giúp ở trong đó. Nhất là cái Định Niệm Hơi Thở thì nó trợ giúp, nhưng mà trợ giúp bằng trực tiếp và trợ giúp bằng gián tiếp. Thì ở chỗ mà quán từ bỏ tham, sân, si này nó là cái gián tiếp.
HẾT BĂNG
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Thời gian: 1998
(0:00) Về cái Định Niệm Hơi Thở thì ở đây chúng ta cái phân rõ hai phần như Thầy xin nhắc lại đó.
Cái phần thứ nhất là Chánh Niệm Tỉnh Giác Định trong hơi thở, còn cái kia là Chánh Niệm Tỉnh Giác Định trong cái hành động của thân bên ngoài. Đó thì chúng ta thấy hai cái pháp này đều là cái pháp Chánh Niệm Tỉnh Giác cả hết, nhưng mà tỉnh giác hơi thở và tỉnh giác trong hành động, hai cái này nó thuộc về hành động nội và hành động ngoại mà thôi.
Còn cái Định Niệm Hơi Thở thì nó giúp cho chúng ta là tu cái Định Diệt Tầm Diệt (Giữ) Tứ, đó là pháp đầu tiên của nó.
Kế đó là những cái pháp mà nó trợ giúp gián tiếp cho cái Tứ Chánh Cần, làm cho các ác pháp sẽ bị đoạn diệt và nó giúp cho cái thân của chúng ta nó có những cái cảm giác, làm cho chúng ta thấy an lạc, làm chúng ta thấy hân hoan, làm chúng ta thấy định tỉnh, làm chúng ta thấy giải thoát. Nó giúp cho chúng ta thực hiện trên con đường càng tu càng thấy những kết quả thích thú, ham tu hơn, đó là cái Định Niệm Hơi Thở.
Nó chưa có áp dụng vào những cái định như Tứ Thiền hoặc là cái định khác nữa. Nó áp dụng tất cả mọi cái loại định thì cái Định Niệm Hơi Thở nó áp dụng rất nhiều. Thậm chí như Thất Giác Chi nó cũng áp dụng vào cái Định Niệm Thất Giác Chi nữa, nhưng ở đây vì chưa dạy tới Thất Giác Chi cho nên Thầy không có giảng dạy.
Nhưng ở đây bây giờ, chúng ta sẽ thấy được cái kết quả của cái Định Niệm Hơi Thở này, nó giúp cho cái thân và tâm của chúng ta thanh tịnh. Thanh tịnh tức là nó không còn tham sân si nữa tức là thanh tịnh, nó ly dục ly ác pháp cho nên nó thanh tịnh.
Ở đây Đức Phật khuyên chúng ta tu cái Định Niệm Hơi Thở để cho nó đạt được cái sự thanh tịnh. Nếu mà chúng ta tu tập thì chúng ta sẽ đạt được cái kết quả thanh tịnh đó:
“Tỳ kheo đi đến một khu rừng, hay đi đến một gốc cây, hay đi đến một căn nhà trống, ngồi kiết già lưng thẳng, đặt niệm trước mặt. Vị ấy chánh niệm thở vô, chánh niệm thở ra”.
Thì như vậy là nãy giờ mà Thầy đã đọc lại cái Định Niệm Hơi Thở, cách thức tu, thì bây giờ muốn cho cái thân và tâm và thọ của mình được thanh tịnh, thân, tâm, thọ và các pháp được thanh tịnh, tức là bốn chỗ này thanh tịnh đó, thì chúng ta thường xuyên mà tu tập như Thầy đã giảng hồi nãy, thì nó sẽ như thế nào?
“Tu tập như vậy làm cho sung mãn”, làm cho sung mãn tức là làm cho đầy đủ đó. Như vậy niệm hơi thở vô, hơi thở ra “sẽ có quả lớn, thì có lợi ích rất lớn”, nghĩa là nó có cái quả lớn để cho chúng ta, vì nó đem đến cho chúng ta được cái trạng thái thanh tịnh, rất thanh tịnh. Đó, thì đó là cái thứ nhất.
(02:48) Và đồng thời, cái quả như thế nào? Ở đây Phật cũng có dạy như vậy là trước khi mà chúng ta đi tìm cái nơi yên tịnh để chúng ta tu hành đó, rồi chúng ta cũng quán.
Bây giờ từ cái chỗ mà chúng ta quán cái hơi thở của chúng ta, như bắt đầu “cảm giác toàn thân”, cái bài thứ nhất mà “hơi thở dài”, “hơi thở ngắn”, thì nó là cái Định Diệt Tầm Giữ Tứ nó không quan trọng rồi.
Đến cái bài thứ hai thì chúng ta từ cái chỗ mà “cảm giác toàn thân” cho đến cái mà “quán từ bỏ tham sân si” của chúng ta, từ bỏ, đoạn diệt, rồi ly tham đó, cho đến chỗ cái chỗ “quán từ bỏ” đó, thì cái phần này nó sẽ giúp cho chúng ta có được những cái quả lớn của nó.
(03:39) Niệm hơi thở vô hơi thở ra sẽ được tu tập như vậy cho sung mãn thì chúng ta sẽ đạt được cái gì? Đạt được hai quả:
Ngay ở trong hiện tại thì chúng ta có Chánh Trí. Nó làm cho chúng ta sáng suốt, lúc nào nó cũng có sự hiểu biết, ai làm gì chúng ta cũng hiểu biết. Nghĩa là người ta chửi mình mình cũng vẫn hiểu biết. Mình hiểu biết, mà cái hiểu biết của cái Chánh Trí nó làm chúng ta không có giận cái người đó, ghét người đó. Nó đạt được cái Chánh Trí đó.
Nếu có cái quả thứ hai, thì ngay đó là chúng ta có được một cái quả, cái quả Bất Lai. Nghĩa là nó không có trở lui lại với cái đời sống phàm phu.
Ở đây bây giờ Thầy nói ví dụ nè, như Mật Hạnh bây giờ đã tu tập như vậy, khi bây giờ Mật Hạnh có ra đời, có thực hiện cái cuộc đời Mật Hạnh cũng vẫn là một người tốt chớ không bao giờ mà có phạm những cái bậy bạ, cái tầm bậy như con người chưa tu. Nghĩa là không có ác pháp đối với nó, nghĩa là ác pháp đến nó, nó vẫn có một cái Chánh Trí, nó biết được liền.
Cho nên ở đây nó có hai cái quả. Cái quả hiện tại mà cái người tu mà cái tâm nó quay vô, thì nó đạt được cái Chánh Trí. Nó thấy được cái đúng, cái sai. Nó không bao giờ nó bị cái đam mê của cái tà pháp bên ngoài mà cám dỗ làm nó sai. Nghĩa là nó không tiếp tục tu lại trên con đường tu nữa, nhưng mà nó vẫn có cái Chánh Trí.
Và nếu cái Chánh Trí đó nó sẽ có cái quả, cái quả đó là cái quả Bất Lai. Nó không đưa con người trở về cái phàm phu tục tử của đời sống của từ con người thô lỗ cho đến loài thú vật. Nó không đưa cái người đó trở về đó, mà từ cái chỗ đó, nó sẽ đưa trở về bậc Thánh, bởi vì cái Chánh Trí đó sẽ có cái kết quả, nó trở về bậc Thánh nếu nó đi tới. Còn nếu nó đứng lại đó thì nó vẫn chủ động được những cái xấu của người thế gian, cái ác của người thế gian.
Để rồi Thầy nói đây, rồi sau này thì các con sẽ tìm ở lại trong huynh đệ của các con, các con sẽ thấy lời nói của Thầy là đúng, cũng là cái lời nói ở trong kinh sách của Phật. Đây là cái quả của cái người tu tập, nó sẽ không mất cái quả giải thoát, cái quả đức hạnh đó nó không mất, nó không làm mất cái quả đó.
Chẳng hạn bây giờ các con thấy tu mình chưa có làm chủ sanh tử, chưa có gì hết, nhưng mà các con cũng sẽ được những cái quả rất lớn. Mà cái quả đó nó đạt được cái Chánh Trí, nó làm cho chúng ta vững vàng ở trên bước đường đời, hơn là lúc trước mà chúng ta chưa tu, nó có ác pháp. Mà ác pháp trong lúc đó chúng ta không biết nó là ác, cho nên chúng ta cứ làm, khi mà khổ rồi thì hay chớ còn chúng ta không biết.
(06:22) Còn cái này, khi mà Chánh Trí thì nó không bị sai lệch, nó không bị làm như cái người tục tử phàm phu, hung dữ như một con thú vật, nó trở về cái con người thật sự.
Nó còn một cái quả nữa. Tu tập trên đây thì sẽ được những bảy cái quả lận, nghĩa là nó có kết quả là bảy cái quả của nó, chớ không phải là một cái quả. Cái sự tu tập như hồi nãy cái bài Định Niệm Hơi Thở nó đem lại cái quả của nó như vậy, nó làm cho chúng ta tiến tới cái thiền định rất dễ.
Bảy quả của nó, quả thứ nhất là Chánh Trí, nó sẽ đoạn diệt được năm hạ phần kiết sử. Nghĩa là phải nói rằng mười phần kiết sử nhưng mà kết lại thì chúng ta sẽ thấy nó Thất Kiết Sử, nhưng mà nó diệt được năm cái hạ phần kiết sử. Cái Định Niệm Hơi Thở đó nó diệt được năm cái hạ phần kiết sử.
Cái trạng thái, thường thường cái người đó họ được ở trong cái trạng thái của cái tâm thanh thản của họ, chớ không phải là nó mất tiêu đâu. Họ thường thường họ cũng có thanh thản ở trong tâm của họ, cho nên họ cũng vẫn đạt được Bát Niết Bàn.
Rồi cái quả của họ nó hiện, trong hiện tại thì nó cũng sẽ có những cái Niết Bàn nó hiện tướng ra, nhưng mà cái Vô Hành Niết Bàn, nghĩa là có lúc nó ở trong cái vô thức của họ, nó cũng có cái trạng thái, nó làm cho họ rất là an ổn gọi là Vô Hành Niết Bàn.
Rồi Hữu Hành Niết Bàn nghĩa là bình thường trong những cái hành động hằng ngày của cái người này, nó có những cái hành động, mà cái hành động mang đến cho họ có cái niềm vui, cái niềm đó là cái niềm không tham, không sân, không si, không giận hờn.
Nó có cái trạng thái gọi là trạng thái giải thoát của họ. Mặc dù nó không được thường xuyên, nó không được sống thường xuyên, nhưng mà cái quả đó vẫn có đối với cái người mà tu cái Định Niệm Hơi Thở.
Hoàn toàn trong khi nó ngủ, tức là Vô Hành đó, nó không có hoạt động, thì nó cũng đạt được cái trạng thái yên tịnh trong giấc ngủ, chớ không phải là những cái ác pháp ở trong cái giấc ngủ đó, hoặc là làm bất an trong giấc ngủ đó, không có, nó được cái Vô Hành Niết Bàn.
Vì vậy thì cái người mà tu cái Định Niệm Hơi Thở đó, nó sẽ đạt được cái bậc Thượng Lưu. Thượng Lưu đây Đức Phật muốn nói là cái tâm Thượng Lưu chúng ta, biết xả bỏ, biết xả những cái lỗi lầm của người khác, tha thứ người khác. Cho nên nó được cái quả của nó là Thượng Lưu, luôn lúc nào nó không có hẹp hòi, nó không ích kỷ, nó không xấu xa, mà luôn luôn lúc nào nó có cái hành động cao quý của nó.
Và nó đạt được cái Sắc Cứu Cánh Thiên, là khi cái người này có chết đi thì họ cũng sanh vào cái cảnh trời Sắc Cứu Cánh, chớ nó không có mất cái quả. Mà cảnh trời Sắc Cứu Cánh thì các thầy biết rằng, ngay trong khi mà cái người tu đó họ đang sống trong mọi cái cảnh của thế gian này, nhưng mà tâm họ luôn luôn ở trong cái cảnh trời Sắc Cứu Cánh đó.
(9:38) Đó thì, nó được bảy cái quả tốt đẹp của nó. Kế đó thì cái người mà tu cái Định Niệm Hơi Thở này, thì họ thân không rung động, tâm không dao động, hai cái, thân không rung động.
Nghĩa là ngồi thiền thì nếu mà hướng tâm như vậy thì thân không rung động, bởi vì tỉnh, nó không mê. Còn nó mê nó sẽ chạy theo an lạc thì thân nó bồng bềnh, nó dao động. Cho nên đó mình thiếu cái pháp hướng để nhắc tâm, cho nên mình không có nhắc nó, cho nên cái thân mình nó bị dao động, nó bồng bềnh, bồng bềnh.
Như cháu Trang hồi còn ở đây tu hành hay nói, “Sao cái thân con ngồi khi mà hết vọng tưởng, nó bồng bềnh bồng bềnh, rồi lúc cái nó mất”. Thì đó là nó bị rơi vào cái trạng thái của tưởng, rồi nó thấy cái thân nó bồng bềnh, bồng bềnh, như nổi, như chìm, nó dao động, lúc lắc.
Ở đây cái người mà tu theo kiểu cách của Đức Phật như vậy, là cái thân không bị rung động và cái tâm cũng không dao động. Nhờ tu tập Định Niệm Hơi Thở vô hơi thở ra như vậy, làm cho sung mãn như vậy, nên thân không rung động, tâm không dao động.
Đó, nó có những cái kết quả. Và những cái kết quả đó là cái Định Niệm Hơi Thở chúng ta luyện tập để nó mang lại những kết quả này, để sau khi mà chúng ta đi vào thiền định khác thì nó không bị cái thân dao động, cái tâm dao động.
Mà nó có một phần giải thoát được các lậu hoặc nữa. Cái Định Niệm Hơi Thở này tu thì nó có một phần nó giúp chúng ta cũng giải thoát được các lậu hoặc. Trước khi giác ngộ, chưa chứng Chánh Đẳng Giác, đây là lời Đức Phật nói:
“Khi còn là Bồ Tát, ta tu tập nhiều với pháp môn này. Do ta tu tập nhiều với pháp môn này, thân ta và con mắt không có mỏi mệt, không có mỏi nhọc, và tâm ta giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ”.
Nghĩa là các pháp này, pháp kia, Đức Phật không bị dính mắc, không có chấp thủ vào những dính mắc đó. Cho nên do nhờ cái tu tập này mà Đức Phật không có bị dính mắc.
Mặc dù là tu cái cái pháp của các vị thầy dạy cho mình, tu cái Không Vô Biên Xứ, cho đến cái Định Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ. Nhưng mà tu được rồi thì Đức Phật cũng không dính mắc, không chấp thủ những cái pháp này, cho nên thoát ra khỏi một số lậu hoặc rất là lớn.
Cho nên cái Định Niệm Hơi Thở nó có cái giá trị như vậy, mà ngay từ đầu các con cũng như các thầy về đây, Thầy bắt buộc phải tập ổn định hơi thở nè, rồi tập làm cho có một cái tụ điểm để mà bám chặt cái hơi thở nè, rồi luyện cái hơi thở dài, chậm, để tạo thành cái tụ điểm. Từ luyện cái hơi thở bình thường mấy giây, tu tập để cho nó thuần thục ở trong hơi thở.
(12:28) Vì cái Định Niệm Hơi Thở nó có nhiều cái lợi ích như vậy và nó cũng là một cái pháp để mà chúng ta trợ duyên cho các pháp khác.
Cũng như một cái người học Pháp văn, thì người ta bắt buộc mình phải học chia cái động từ “avoir” hoặc “être”, nó phải cho làu, thuộc làu, để rồi dùng nó chia mà các động từ khác cho nó dễ dàng.
Thì ở đây thì các thầy cũng thấy rằng Thầy đã nhào nặn quý thầy. Các con phải luyện tập cái hơi thở, không có nói pháp nào hết, mà cứ vô cứ luyện tập hơi thở để cho nó thuần thục, nó quen với cái hơi thở, nó rất là thuần, do đó bây giờ mới áp dụng vào những cái khác thì nó mới dễ. Sau khi áp dụng vào cái khác thì vừa biết thở, mà lại vừa nhắc cho mình về cái pháp đó để xả tâm.
Bây giờ thí dụ như “Hít vô tui biết tâm tui cần xả tâm tham, thở ra tui biết tâm tui xả tâm tham”, đó là mình câu hữu với Định Vô Lậu chớ gì! Đó mình biết như vậy. Bây giờ “Hít vô tui biết thân tui không phải là ngã, thở ra tui biết thân tui không phải là ngã”, đó là mình câu hữu với Định Vô Lậu chứ gì, để mình diệt ngã chớ gì!
Đó, tất cả những cái này, nếu mà mình chưa thuần thục hơi thở, thì mình hít vô thì mình nói chưa có kịp, mà mình thở ra rồi mình nói cũng chưa có kịp.
Còn mình thở vô mình đã quen rồi, cho nên vì vậy mà mình thở vô cái mình nói, thì trong khi đó cái tâm mình nó hướng theo, nó lại đặt thêm một cái Định Vô Lậu, nó câu hữu với cái Định Vô Lậu, nó phá đi cái ngã, nó phá đi cái chấp ngã của mình. Nó làm cho mình không còn tham, sân, si, giận hờn nữa.
Hay hoặc là bây giờ “Hít vô tui biết tâm tui như cục đất, thở ra tui biết tâm tui như cục đất”, thì mình hít vô mình cũng nói, nó nương vào cái hơi thở nó rất tỉnh.
Như Thầy nói bây giờ, thí dụ như các con thấy nè, mình nương vào hơi thở mà mình tu cái Chánh Niệm Tỉnh Giác ở bên ngoài nữa, thí dụ như mình vừa đi mà mình biết hơi thở tức là mình câu hữu giữa hai cái định Chánh Niệm Tỉnh Giác của nội và Chánh Niệm Tỉnh Giác của ngoại, hai cái mình câu hữu, thì mình thấy sao mình đi sao nó tỉnh quá, nó đi hai, ba vòng mà nó không có tạp niệm. Thì đó là mình câu hữu giữa hai cái: hơi thở và cái hành động đi của mình.
Cũng như bây giờ mình vừa quét mà mình câu hữu được với cái hơi thở của mình nữa. Mình biết cái hơi thở ra, vô mà mình vừa quét, nó làm cho mình rất tỉnh trong cái thời gian, tức là gọi là nương hơi thở để mà biết rõ cái hành động đang quét sân hay quét nhà. Cách thức tu tập nó như vậy đó, tức là câu hữu như vậy.
(14:43) Cho nên cái Định Niệm Hơi Thở là nó để dùng để mình nhờ nó mà mình tu tập các định khác, mình vào định.
Cũng như bây giờ Thầy nói, bây giờ thí dụ như mình tu về cái Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền, thì mình rằng cái Nhị Thiền là phải diệt Tầm Tứ, mà cái Sơ Thiền thì phải ly dục ly ác pháp.
Mà bây giờ mình chưa có ly dục ly ác pháp thì mình “Hít vô”, bây giờ mình: ”Hít vô tui biết tâm tui ly dục ly ác pháp, thở ra tui biết tâm tui ly dục ly ác pháp”, mình nhắc tâm mình ly dục ly ác pháp. Nhưng bây giờ nó chưa ly mà mình nhắc nó, tức là ý của mình là muốn cho nó ly dục ly ác pháp, đó là mình câu hữu với cái Sơ Thiền.
Và đồng thời mình nhắc như vậy, và nhắc như vậy thì mình sống đúng cái giới hạnh, thì cái giới hạnh nó giúp cho mình ly những cái dục, ly những ác pháp. Và mình tập Tứ Chánh Cần, nó làm cho mình lìa các ác pháp đó ra. Và do cái sự tu tập đó, và do cái sự câu hữu này nó nhắc, nó làm cho những cái này nó kết hợp, nó thành một cái đạo lực.
Khi đó mình nhắc “Tâm như cục đất, không có giận hờn phiền não”, thì do đó tâm nó như cục đất không phiền não, thì nó sẽ ly dục. Vì vậy mình nói “Tâm phải ly dục ly ác pháp, nhập Sơ Thiền” là ngay đó nó sẽ nhập liền, nó sẽ ở chỗ trạng thái mà không có ham muốn, không có ác pháp.
Cho nên mình câu hữu như vậy thì mình nhắc, ngay đó là nó vô Sơ Thiền liền tức khắc. Thì bắt đầu bây giờ nó vô Sơ Thiền thì, bởi vì mình nương hơi thở để mình nhắc nó, thì khi mình nhắc như vậy, thì cái hơi thở ra vô này, thì nó là cái đường để cho mình đi vào cái Sơ Thiền.
Mà khi mà nó ly ác pháp rồi, thì bắt đầu nó còn hơi thở thì cái hơi thở nó do cái ly dục ly ác pháp sanh hỷ lạc. Nó sanh hỷ lạc, thì cái hỷ lạc đó nó làm cho chúng ta không có cái thấy cái hơi thở của chúng ta đang thở ở chỗ cái Sơ Thiền. Vì vậy mà chúng ta còn thấy một cái trạng thái ly dục ly ác pháp. Đó là cách thức là như vậy.
Bây giờ Nhị Thiền thì chúng ta nhắc: “Cái tâm phải tịnh chỉ Tầm Tứ!” Thì bắt đầu mình nhắc như vậy. Thì khi mà mình bảo “Cái tâm phải nương hơi thở, phải tịnh chỉ Tầm Tứ!”, thì lúc bấy giờ nó nương hơi thở ra hơi thở vô. Vì hằng ngày mình nương cái hơi thở, mình thở ra thở vô, để cho mình diệt Tầm diệt Tứ.
Như hồi nãy đó Thầy nói tu diệt cái Tầm mà giữ Tứ đó, “hít vô tui biết tui hít vô, thở ra tui biết tui thở ra” đó, “hít vô dài tui biết tui hít vô dài, thở ra dài tui biết tui thở ra dài”đó.
Đó là cái chỗ tu tập làm cho cái tâm của chúng ta nó nương vào cái hơi thở mà nó diệt Tầm Tứ. Thì bây giờ mình nhắc nó thì ngay đó là nó đã diệt Tầm Tứ để nó nương vào hơi thở, rồi từ đó nó nhập vào cái Nhị Thiền.
Đó thì các con và các thầy thấy, cái Định Niệm Hơi Thở nó có một cái giá trị rất cao, là nó trợ giúp cho chúng ta đạt được những cái kết quả mà chúng ta mong muốn. Đó.
(17:21) Thì đây là về cái phần Định Niệm Hơi Thở. Coi như là Thầy dạy hôm nay là các con biết từ căn bản, sơ cơ, cách thức tu tập về cái Định Niệm Hơi Thở, chớ không phải là dạy sổ tức, tùy tức đâu.
Nhưng mà trước kia là vì dạy theo các pháp môn của Đại Thừa, của kinh sách Nguyên Thủy, của các pháp mà của các Tổ dạy, thì Thầy thấy từ cái pháp sổ tức, tùy tức thì nó cũng là do cái chỗ tu tập để làm cho Tầm Tứ nó diệt, vọng tưởng nó hết, cho nên hướng dẫn các con nương vào cái chỗ sổ tức, chớ không hướng dẫn theo cái kinh sách của đạo Phật.
Mà bây giờ thì chúng ta đã thành lập một cái Giáo án đường lối của đạo Phật, thì tất cả những cái gì mà của các Tổ đặt ra, nó không phải là của đạo Phật mà của các Tổ, thì chúng ta để qua một bên.
Sau đó thì chúng ta sẽ có một bài kết hợp, cái gì mà làm cho lợi ích trên bước đường tu tập thì chúng ta lấy để mà nương theo đó mà hướng dẫn người tu. Cái gì mà nó không có lợi ích bằng cái pháp mà Phật dạy thì chúng ta nên bỏ nó.
Thí dụ như bây giờ cái pháp sổ tức, nó là cái pháp ức chế tâm, thì nó không bằng cái pháp mà chúng ta hướng tâm về hơi thở, do đó chúng ta thấy nó không kết quả, vì nó ức chế tâm thì dễ rơi vào các trạng thái định tưởng. Bởi vì ức chế tâm thì cái ý thức của mình nó không hoạt động, thì cái tưởng thức nó phải hoạt động.
Còn cái này, chúng ta ý thức nó vẫn còn hoạt động theo cái pháp hướng, cho nên nó không mất đi, do đó chúng ta không ức chế tâm, mà do vì vậy m chúng ta hướng để mà xả tâm. Từ cái xả tâm nó hết vọng tưởng, nó diệt Tầm Tứ bằng cách là nó ly cái tâm ra.
(18:55) Bây giờ đến cái giai đoạn tu tập Tứ Niệm Xứ rồi. Vậy thì tiếp tục ở trên cái bước đường mà tu tập Tứ Niệm Xứ, thì chúng ta đã bước qua một cái giai đoạn Niệm, thì tức là phải tới Định. Chữ Niệm ở đây, thì ở đây nó có bốn chỗ để mà chúng ta niệm.
Nhưng mà chữ Niệm, Tứ Niệm Xứ đây là bốn cái chỗ để đặt pháp. Chữ Niệm đây là pháp, cho nên chúng ta đặt cái pháp ở trên cái chỗ đó, cái nơi đó, để mà chúng ta tu tập cái nơi đó, chúng ta tu làm sao cho đạt được cái chỗ đó.
Cho nên khởi đầu tu tập thiền định, bởi vì ở đây đạo Phật nói chung hoàn toàn là thiền định, không có một pháp nào là không thiền định.
Mới đầu vô chúng ta tu tập Chánh Niệm Tỉnh Thức thì cũng là Thiền Định. Nếu không có cái pháp này, không có pháp Chánh Niệm Tỉnh Thức thì chúng ta không ngăn chặn được ác pháp, thì Tứ Chánh Cần chỉ là nói suông, không có nghĩa gì hết, không có cách thức tu rồi.
Cho nên nếu mà giải thích riêng từng cái pháp, như Tứ Chánh Cần riêng ra, thì chúng ta nói: các pháp ác chưa sanh không cho sanh, thì lấy cái gì không cho nó sanh đây, mà người ta bảo rằng mình đừng cho sanh?
Không cho sanh là tui làm sao tui không cho sanh? Nó tự ở trong tâm tui, nó tự các pháp ở ngoài nó đập vô, nó chửi mắng tui, nó làm cho tui khổ, thì tức là tui phải sanh, mà bảo tui đừng sanh là tui lấy cái gì tui chặn nó được đây?
Cho nên vì vậy nếu mà chúng ta lấy riêng nội cái pháp Tứ Chánh Cần mà tu, thì chắc chắn là chúng ta không biết rồi. Cho nên hầu hết là các thầy mà giảng dạy, các Hòa thượng mà giảng dạy về Tứ Chánh Cần nó độc lập riêng nó ra, thì coi như là các thầy đó không biết đâu, không biết pháp tu đâu.
(20:29) Cho nên nói Tứ Chánh Cần, chứ sự thật ra chúng ta tu những cái thiền định: Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, Định Niệm Hơi Thở, Định Vô Lậu, ngay trên đó chúng ta mới ngăn chặn được các pháp ác, và không cho các pháp ác tăng trưởng. Đó thì, nó phải có cái pháp để mà chúng ta tu tập.
Bây giờ chúng ta đã hiểu được như vậy, thì cho nên tất cả các pháp của Phật đều gọi là thiền định hết, không có pháp nào là không thiền định.
Chúng ta có cái quan niệm sai lầm, là hễ khi nào mà nói thiền định là phải khoanh chân ngồi kiết già, rồi ngồi đó hít thở hay niệm Phật gọi là thiền định. Hễ thấy ai ngồi thì gọi là thiền định, còn cái người mà đi họ không cho thiền định.
Mà ngay cả khi mà chúng ta đi kinh hành mà chúng ta nhiếp tâm, đó là Chánh Niệm Tỉnh Giác Định của người ta mà! Cái định ở trong cái hành động đi của người ta mà.
Trong khi người ta quét sân, người ta lặt rau, người ta nấu cơm, người ta làm mọi công việc, thì người ta tu ở trong cái Định Chánh Niệm mà, cái tâm của người ta đang giữ cái Chánh Niệm đó, cái niệm chân chánh đó để ở trong cái tỉnh thức đó.
Thế mà mình không cho người ta định, chỉ bảo rằng mình phải ngồi trước bàn Phật kìa, đốt cây hương lên kìa, rồi mới ngồi chéo chân ở trên đó, rồi ngồi hít thở đó. Mà trong khi hít thở đó, chắc gì mà cái tâm của người hít thở đó là nó đang yên tĩnh, không có vọng tưởng đâu?
Nó nghĩ tầm bậy tầm bạ, nó ham, nó ngồi đây mà nó nghe người ta ở ngoài bếp mà chiên xào gì đó, bắt đầu cái nước miếng nước mồm nó ngồi đó mà nó chảy ra, rồi nó nhớ ba cái đồ chiên đồ xào. Thì thử hỏi như vậy là lúc đó nó thiền hay là lúc đó nó thèm ăn?
Cho nên, khi mà ngồi thiền như vậy, thì thử hỏi khi mà người ta đi kinh hành vậy người ta có ngủ không? Còn mình ngồi, một lúc nghe nó an an, cái thân nó lặng lặng, cái bắt đầu gục xuống gáy vậy. Thì cái đó là thiền gì? Thiền gục chớ thiền gì!
Bởi vậy người ta nhập Tứ Thiền thì cái anh này lại nhập “ngủ thiền”. Anh ngủ ở trỏng, thành ra anh phải nhập “ngủ thiền” chớ sao! Anh hơn Phật là cái chỗ ảnh nhập “ngủ thiền”.
(22:14) Cho nên cái ngồi nó không có phải là cái chỗ thiền, nhiều khi nó lại sai lệch đi, nó chưa đúng. Nhưng cái ngồi cũng là một cái tu thiền, nếu mà tu đúng. Còn bây giờ mình tu mình cứ gục lên gục xuống, thì cái đó là thiền gì? Hay hoặc ngồi đó mà loạn tưởng nhớ cái này cái kia, thì cái đó là thiền gì? Đó là không phải thiền.
Còn bây giờ người ta đi như vậy, mình cho rằng người ta không tu thiền, thì cái đó sai. Tu phải vô chùa, phải gõ mõ, tụng kinh, cái đó là trật nữa! Cái đó là chửi lộn với ông Phật chớ tu cái gì?
Lâu lâu ông Phật ổng làm thinh, ông ngồi, ổng bằng xi măng ông ngồi đó, mình cứ réo tên Nam Mô A Di Đà Phật, tức là chửi ổng chứ gì, kêu tên ổng, chửi ổng! Nếu mà ông không bằng xi măng chắc là ông cũng không chịu nổi, ông buông chân xuống, ổng cũng rầy dữ: “Sao mày cứ kêu tên tao hoài?”
Bây giờ thử hỏi đi, mình ngồi đây mà ai kêu tên mình có tức không? Cứ réo cái tên mình hoài có tức không? Còn bây giờ ông Phật ổng ngồi đó, thí dụ như ông Phật Di Đà, cứ Nam Mô A Di Đà Phật, Nam Mô A Di Đà Phật, ổng tức mình “Tao, cái tên tao mình cứ gọi hoài!” Nó là những cái sai, nó không có đúng đâu.
Cho nên ở đây phải thực hiện là làm sao cho thân - thọ - tâm - pháp của mình nó được thanh tịnh, nó không bị ác pháp, nó làm cho được giải thoát nơi đó, thì cái đó là cái đúng.
Cho nên ở đây thì phải biết rằng tất cả những pháp của Phật đều là thiền định.
Khởi đầu tu tập thiền định, là bắt đầu từ Định Tư Cụ. Định Tư Cụ tức là Tứ Chánh Cần, các thầy thấy rất rõ. Bởi vì cái pháp này là pháp đầu tiên để mà chúng ta thực hiện thiền định. Mà Định Tư Cụ thì nó đã xác định cho chúng ta được ba cái định ở trên cái chỗ tu tập đó rồi.
Mà quý vị đã được học và thực hiện trên Tứ Niệm Xứ, nghĩa là trên cái Định Tư Cụ này, là Tứ Chánh Cần này, nó được thực hiện ở trên Tứ Niệm Xứ chớ không phải, là bốn chỗ mà chúng ta tu tập, thì lấy cái Định Tư Cụ này đặt ở trên bốn chỗ đó để tu tập cho bốn cái chỗ này nó được thanh tịnh, tức là thân - thọ - tâm - pháp của chúng ta.
(24:00) Cho nên Tứ Niệm Xứ là bốn lãnh vực được quý vị thực hiện các loại thiền định trên đó, gồm có mười sáu loại định. Nghĩa Đạo Phật đâu có nói một cái thứ thiền định đâu, mà mười sáu cái loại định, mà lấy bốn cái chỗ thân - thọ - tâm - pháp mà gọi cái tên chung của nó là Tứ Niệm Xứ.
Lấy bốn cái lãnh vực này để chúng ta thực hiện mười sáu cái loại định ở trên đó, để làm cho bốn cái chỗ này nó sạch sẽ, nó thanh tịnh, nó không còn ô nhiễm, nó không còn ác pháp nữa. Bốn cái chỗ này giải thoát là chúng ta giải thoát. Chớ không phải là chúng ta tu cái vấn đề ngoài.
Thí dụ như bây giờ mình niệm “Nam Mô A Di Đà Phật” để cầu cho mình được vãng sanh Cực Lạc, thì cái đó là vấn đề ngoài rồi. Mà ngay cái thân này không có gột rửa cho sạch sẽ thì thử hỏi làm sao mà cho nó hết giận, hết hờn? Ngay cái tâm này mà không có gột cho nó sạch sẽ thì nó buồn phiền, nó lo lắng, nó sợ hãi, nó thương, nó ghét, nó giận, nó hờn, nó đủ thứ.
Cho nên thân - thọ - tâm - pháp là bốn chỗ để mà chúng ta tu tập, làm cho nó không giận hờn phiền não, không đau khổ nữa.
Như cái thân của chúng ta nè, bị cái thọ nó làm cho cái thân chúng ta thấy đau nhức cái chân nè, nhức cái đầu nè, mà chúng ta không tu ở trên cái này, để khi mà cái thọ nó có đánh vào cái thân thì chúng ta không thấy đau đớn gì hết. Thì cái đó là mới cụ thể để giải thoát được cái bệnh ở trên thân của chúng ta.
Còn cái này chúng ta tu vấn đề ngoài, thí dụ niệm Phật nó có nhằm nhò gì ở trên thân này đâu? Cầu vãng sanh cực lạc thì nó có ăn thua gì? Còn bây giờ mình giữ Phật Tánh thì Phật Tánh nó cũng nhằm nhò gì ở trên cái thân này đâu? Phật Tánh thì nó vô hình này kia, tôi kiến tánh để thành Phật rồi, cần gì mà phải tu cái tâm này đâu?
Do đó thì cuối cùng thì mình không giải thoát cái thân tâm của mình, mà ngay trên cái này, cái thân tâm mình đang khổ nè, mà không có tu tập.
Còn ở đây chúng ta ngay ở trên bốn cái chỗ đó gọi là Tứ Niệm Xứ, trên bốn chỗ đó để mà tu tập. Tu tập làm cho bốn chỗ đó nó không còn đau khổ, nó không còn chết chóc, nó không còn sanh tử luân hồi, thì ngay bốn cái chỗ này là bốn cái chỗ mà chúng ta cần phải, lấy các pháp, cần phải rèn luyện, cần phải làm cho nó sạch sẽ, làm cho nó không còn đau khổ nữa. Bốn cái chỗ này không có đau khổ nữa, thì chúng ta gọi là giải thoát.
Vì thế bốn lãnh vực này rất quan trọng. Một con người ai cũng có bốn cái chỗ này. Người nào chúng ta cũng thấy là thân - thọ - tâm - pháp, phải không? Trong thân người, người nào cũng có bốn cái này hết, không có người nào là không có, ai cũng có hết.
Nhưng đối với người chưa tu tập, còn phàm phu, thì bốn chỗ này là bốn chỗ ô nhiễm bất tịnh. Nghĩa là tâm tham ăn, thân này ăn này, rồi tâm ham muốn cái này cái nọ kia, nó ô nhiễm đủ thứ hết, mà nó bất tịnh, nó đủ cách hết. Cho nên thân - thọ - tâm - pháp của cái người phàm phu thì nó là bất tịnh. Nhưng mà đối với người mà tu tập thì cái thân - thọ - tâm - pháp của họ lần lượt nó mới thanh tịnh.
Bốn chỗ này thường sanh khởi, vì nó bất tịnh đó mà nó đem đến cho chúng ta nhiều cái đau khổ. Cho nên nói, bốn chỗ này thường sanh khởi mọi thứ đau khổ của kiếp người.
Nghĩa là nơi thân nè, nếu mà thân không bệnh thì chúng ta không thấy khổ nè, mà thân có bệnh chúng ta thấy khổ không? Khổ nè. Mà tâm chúng ta không bị ai chửi nè, mà cứ bị ai chửi chúng ta thấy có khổ không? Rồi tâm của chúng ta nó không có, bình thường nó không gì hết, mà nó khởi nó thương nó nhớ, hay hoặc là cha mẹ nó bệnh đau chết, nó khóc lóc bù lù, bù loa bù lê, thì thử hỏi nó có khổ không?
(27:24) Đó, rõ ràng là nơi bốn cái chỗ này nó thường sanh khởi những cái niệm đau khổ của kiếp người.
Thì chúng ta biết được bốn cái chỗ đó như vậy đó, thì nó là địa ngục hay thiên đàng cũng nơi bốn chỗ này mà thôi. Cho nên bốn chỗ này mà không lìa xa ác pháp thì ngay đó là địa ngục cho kiếp người.
Nghĩa là ác pháp là cái tâm khổ, như mình sân là ác pháp, như mình tham là ác pháp, như mình ngu si là ác pháp, mình ham ăn ham ngủ là ác pháp đó. Cho nên nếu mà mình không lìa cái ác pháp này thì ngay đó là địa ngục của cái kiếp mình đó, luôn luôn lúc nào mình cũng khổ hết.
Còn nếu bốn chỗ này, thân - thọ - tâm - pháp này mà chúng ta lìa xa ác pháp, thì nơi đó là Niết Bàn, chớ đâu cần đi tìm Niết Bàn ở chỗ nào? Nơi bốn cái chỗ này mà chúng ta lìa được ác pháp, thì nơi đó là Niết Bàn.
Chắc chắn ai cũng biết được cái cảnh giới Niết Bàn, dễ dàng lắm, cụ thể lắm, nó rõ ràng. Không có ác pháp thì đó là Niết Bàn, mà có ác pháp thì đó là địa ngục, nó là đau khổ.
Tất cả các pháp môn của Phật đều lấy bốn chỗ này thực hiện. Nghĩa là cho nên luôn luôn pháp nào của Phật cũng ở trên bốn cái chỗ này để mà thực hiện hết. Cho nên tu tập, trau dồi, rèn luyện hay dứt bỏ đều ở trên cái chỗ này.
Bây giờ thí dụ như cái thân của chúng ta nè, ghiền thuốc nè, ghiền cafe nè, ghiền thuốc phiện nè, ghiền rượu nè. Thì ở chỗ cái thân ghiền nay nè, nó muốn uống rượu nè, nó muốn hút thuốc nè, nó muốn uống cafe nè, nó thèm nó khát nè.
Thì do đó chúng ta phải nỗ lực muốn làm cho nó thanh tịnh không còn ham muốn đó nữa, thì phải dứt bỏ không có được uống rượu nè, không được hút thuốc nè, không được uống cafe nè, không được hút á phiện nè.
Thì như vậy mình tự dứt bỏ mình, chớ không ai dứt bỏ cho mình được hết. Bởi vì cái này là do nhân quả mình đã tạo ra mình thành thói quen, thành nghiệp, thì mình phải chịu bỏ, chịu lấy, chớ còn ai mà làm giúp cho mình được.
Cho nên ở đây thì ngay từ ở trên cái chỗ thân - thọ - tâm - pháp này mà mình dứt bỏ, mình rèn luyện, mình trau dồi, thì nó sẽ trở thành những thiện pháp, nó làm cho mình được giải thoát.
Chớ không phải ngoài cái chỗ này, mình đi cầu khẩn, mình tu tập cái gì để cho nó giải thoát được, thì không bao giờ có được, mà phải ngay ở trên bốn cái chỗ này. Mà bốn cái chỗ này gọi là Tứ Niệm Xứ.
(29:37) Cho nên chúng ta học Tứ Niệm Xứ chúng ta phải hiểu được, rành cái chỗ này. Chứ nếu mà học Tứ Niệm Xứ mà không rành thì chúng ta coi như là cái pháp Tứ Niệm Xứ, cho nên người ta nói Tứ Niệm Xứ là “trái tim thiền định”. Có phải đặt tên vậy trúng không? Các thầy thấy đặt cái tên đó đâu có trúng.
Bởi vì nó là trái tim thiền định, mà thật sự ra, ở đây mình làm cho nó thanh tịnh, chớ nó là trái tim cái thứ gì? Mà bao nhiêu thứ định mà đem đặt lên đây để mà tu nó chớ đâu phải là nó là cái nhịp tim của chúng ta, để chúng ta thực hiện cái thiền định của Tứ Niệm Xứ này đâu?
Nếu mà nói như vậy thì Tứ Niệm Xứ là một cái loại thiền định để mà chúng ta để thực hiện các cái loại thiền định cao, thiệt cao siêu của nó, nó là cái gốc, nó là trái tim mà, cái nhịp tim, nhịp máu của chúng ta mà. Nhưng mà nói như vậy không có nghĩa đúng đâu.
Bởi vì bốn cái chỗ này là bốn cái chỗ ô nhiễm của một con người phàm phu tục tử. Chúng ta muốn giải quyết cho nó thoát khỏi bốn cái chỗ ô nhiễm này để cho nó thanh tịnh, thì chúng ta dùng các pháp Thiền Định khác mà đem về đây, để mà rèn luyện nó.
(30:44) Cũng như bây giờ Thầy ví dụ để cho thấy, như cái nhà mình ở đây ne, cất lên bằng tầm vông, trúc tre, nó xấu quá, nó không có đẹp đẽ. Cho nên từ đó mình mua những cái mành bằng nylon, mình trang trí cho những cái cửa sổ, rồi cửa cái, để làm hay hoặc là mua vài cái đèn như thế này để treo lên, để làm cho nó đẹp thêm, cho nó coi được một chút, thí dụ vậy.
Thì cái kia mình cũng phải đem những cái pháp khác để mà gọt rửa, để làm cho nó sạch ra. Bởi vì, cũng như cái nhà mình đây bây giờ nó dơ, thì bắt đầu mình phải đem nước mình rửa cho nó sạch. Chớ cái nhà dơ, rồi mình lấy cái nhà dơ này mình làm cho nó nữa, thì nó dơ nữa thì sao?
Cho nên ở đây mình biết cái nơi này nó đang bị bụi bặm, dơ bẩn, nó ô nhiễm, không có sạch, cho nên mình mới lấy cái bàn chải nè, mình mới lấy cái thùng nước nè, mình mới lấy xà bông nè, mình mới lấy thuốc tẩy mình đem vô đây nè, mình mới tạt nước, mình rửa, mình cọ cái chỗ này cho nó sạch.
Thì cái chỗ này đang bị cọ rửa sạch mà gọi nó là thiền định thì Thầy thấy, nó là thiền định gì?
(31:46) Có hiểu vậy thì mới biết được cái chỗ tu tập của chúng ta. Chính thân - thọ - tâm - pháp của chúng ta nó đang ô nhiễm nè. Nó đang tham mê nè, nó đang giận hờn, nó đang phiền não nè.
Mà bây giờ nó đang nhiễm như vậy đó thì chúng ta phải lấy Định Niệm Hơi Thở nè, chúng ta lại phải lấy định Chánh Niệm Tỉnh Giác nè, chúng ta lại phải lấy định Tứ Chánh Cần nè, chúng ta phải lấy Định Vô Lậu nè, chúng ta lại phải lấy Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền nè, chúng ta mới đem nó để mà rửa nó làm cho nó sạch nó đi, nhờ các thiền định này mà làm cho nó sạch đi.
Thì như vậy cũng như là các thiền định này nó cũng như là cục xà bông nè, nó bàn chải nè, nó bàn chà nè. Chúng ta chỉ còn có ra công mà chà cái nền này cho nó làm cho sạch, vách này chúng ta chà rửa cho nó sạch.
Thì như vậy rõ ràng là Bốn Niệm Xứ này nó có phải pháp chúng ta để tu đâu, mà nó nơi để chúng ta chùi rửa cho nó sạch, bởi vì nó đang nhơ bẩn, nó đang ô nhiễm, có đúng không? Thầy nói đây quý thầy cứ suy ngẫm có phải không?
Thân của quý thầy hiện bây giờ, nếu mà nói là tui không ô nhiễm, thì tức là thanh tịnh rồi. Mà thanh tịnh rồi thì cái thân của quý thầy nó đâu có còn bẩn thỉu như thế này? Tức là nó đâu còn bất tịnh. Phải không?
Cho nên do vì vậy mình mới xét cái thân mình nó còn bẩn thỉu lắm, nó còn bất tịnh lắm. Cho nên mình phải còn gột rửa. Mà còn gột rửa tức là còn tu chớ gì! Cho nên phải lấy cái pháp mà để gột rửa nó, mà cái pháp còn gột rửa nó thì tức là tu.
Cho nên ở đây không thể nói là Tứ Niệm Xứ là pháp môn được. Mà Tứ Niệm Xứ là bốn chỗ để chúng ta dùng các pháp môn khác để tu tập trên đó. Cho nên Thầy mới nói Tứ Niệm Xứ nó sẽ xác định được các loại thiền ở trên đó. Trước kia Thầy có tuyên bố những cái lời nói đó.
Hầu hết là người ta giảng về Tứ Niệm Xứ, người ta không lột trần được cái này. Dường như là Tứ Niệm Xứ là một cái pháp môn để tu chớ không là thấy nó được, ở trên đó nó xác định được. Cho nên cái người mà giảng về cái Tứ Niệm Xứ họ không xác định được các định ở trên Tứ Niệm Xứ. Như “ở trên thân quán thân” nè, tu cái định gì? Họ không xác định được.
Mà họ xác định được thì họ mới biết rằng cái thân này nó đang dơ bẩn cái này nè, nó đang nhiễm ô cái này nè, thì bắt đầu mình phải đem cái định này, tức là cái bàn chải này, cái cục xà bông này đem đến đây rửa nó, rửa cái chỗ đó cho nó sạch. Thì nếu mà đem cái bàn chải, cái cục xà bông, rồi đem nước đến mà rửa nó, thì cái đó nó gọi là cái tên gì? Rồi đem một cái vật khác để mà lau cho nó khô thì nó gọi là tên gì?
(34:21) Đó thì nó phải có cái tên. Thí dụ như trên thân quán thân nè, tu về nhân tướng, thì nó là Định Vô Lậu, nó khắc phục tham ưu. Mà trên thân quán thân tu về hành tướng ngoại thì nó có cái tên Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, trên thân quán thân tu về hành tướng nội thì có cái tên là Định Niệm Hơi Thở.
Đó rõ ràng nó xác định được cái định đem lại rửa sạch cho cái chỗ đó đó. Cái chỗ đó đang bẩn thỉu đó, thì chúng ta sẽ rửa cho nó sạch. Mà rửa cho nó sạch, thì tức là nó phải có một cái tên của Thiền Định đó, của cái pháp môn đó làm cho nó sạch. Thì như vậy gọi là chúng ta đã hiểu được Tứ Niệm Xứ, còn nếu mà không thì chúng ta không hiểu Tứ Niệm Xứ.
Bởi vì hầu hết là từ xưa đến giờ các thầy, quý Hòa thượng họ thuyết giảng, từ Nam Tông cho đến Bắc Tông mà thuyết giảng về Tứ Niệm Xứ, thì họ đều thấy Tứ Niệm Xứ là cái pháp môn chớ không phải là cái Tứ Niệm Xứ là bốn cái chỗ để chúng ta đem các pháp khác đến tu tập.
Đó. Bây giờ thí dụ như một người mà họ lấy Tứ Niệm Xứ để niệm Phật, như Thầy dạy lấy thân mà niệm Phật, tức là cái thân này nó đang ô nhiễm, đang bẩn thỉu, mà cái thân Phật kia nó sạch sẽ, nó thanh tịnh. Cho nên muốn cái thân này cho nó sạch sẽ, nó thanh tịnh như cái thân Phật, thì như vậy gọi là lấy thân niệm Phật, lấy cái thân này niệm cái thân Phật, làm cho cái thân này nó giống như cái thân Phật.
Cho nên vì vậy đó mà cái người niệm Phật là sẽ được giải thoát liền, cho nên gọi là Tứ Bất Hoại Tịnh. Cái bài pháp này Thầy đã có giảng rồi.
Cho nên hôm nay nói để thấy rằng, chúng ta bước vào cái Tứ Niệm Xứ chúng ta phải hiểu rõ được cái vị trí nó đang bất tịnh, đang ô nhiễm, mà chúng ta dùng các pháp khác để đến mà rửa, để chùi, để mà lau cho nó sạch, để mà quét dọn cho nó sạch bốn cái chỗ này. Mà bốn chỗ này mà sạch rồi, thì đó là giải thoát.
Cho nên ở đây chúng ta thấy rất rõ, nếu bốn chỗ này mà chúng ta không lìa xa ác pháp, thì ngay đó là địa ngục.
(36:27) Nghĩa là cái kiếp người của quý cô cũng như là quý thầy mà không lìa được ác pháp, thì ngay đó quý thầy có buồn rầu, giận hờn, phiền não, ham ăn, ham ngủ, ham vật chất, ham danh, ham lợi đủ thứ, nó làm cho quý thầy lăng xăng rất là khổ. Trái lại các thầy lìa ác pháp thì nơi đó là Niết Bàn, tức là mình buông xả ra hết, không còn một cái gì nữa, thì đó là mình được giải thoát.
Tất cả các pháp môn của Đức Phật đều lấy bốn chỗ này thực hiện trên đó, tu tập, trau dồi, rèn luyện và dứt bỏ. Bằng mọi cách làm sao bốn chỗ này xa lìa ác pháp và đoạn dứt tận gốc rễ của ác pháp, khiến cho bốn chỗ này được toàn thiện. Khi bốn chỗ này đã được toàn thiện thì đạo Phật gọi là thanh tịnh, gọi là giải thoát, gọi là Niết Bàn.
Đó, toàn thiện là nghĩa là không còn một chút nào mà ác ở trong đó hết, không còn một chút xíu nào ác trong đó hết, dù là một chút xíu như là một cái đầu cọng tóc của chúng ta, nó không còn một chút xíu nhỏ như vậy nữa, hay hoặc là như một hạt bụi rất nhỏ, nó không còn có trong đó, thì gọi là toàn thiện.
Mà toàn thiện thì nó là thanh tịnh, nó là giải thoát, nó là Niết Bàn. Nghĩa là bốn chỗ đó phải đạt được cái chỗ toàn thiện. Thì đạo Phật đâu có khó gì đâu, chúng ta thấy đâu khó gì, mà chính cái chỗ này nó mới là thiền định.
Bởi vậy người tu theo đạo Phật mà không biết rõ bốn lãnh vực này, tu ngoài bốn lãnh vực này, thì dù có tu ngàn kiếp cũng chẳng chấm dứt khổ đau và sanh tử luân hồi. Nghia là mình tu hoài bốn chỗ này.
Cho nên cái người mà xem nó là cái pháp môn để tu thì thử hỏi họ lấy cái Tứ Niệm Xứ này tu cái chỗ nào để họ được giải thoát? Họ chỉ lý luận tôi phải quán như thế này, thế khác, gọi là Minh Sát Tuệ chứ gì? Thì thực ra đâu có phải cái điều đó đâu!
(38:21) Cho nên tất cả những cái thiền mà gọi là Minh Sát Tuệ, rồi thiền này, thiền nọ kia đều là đặt ngoài cái vấn đè của thân - thọ - tâm - pháp của chúng ta. Mà khi họ có đặt trúng đi nữa, ở trên đó họ tu, mà họ không có được xác định được cái vị trí họ tu cái gì nữa, thì họ tu bậy rồi.
Bây giờ thí dụ như Thiền Tông, họ đặt họ lấy cái tâm của họ nè, “biết vọng liền buông” nè, họ lấy cái tâm, họ là giữ cái tâm họ nè, không có vọng tưởng nè, thì ngay đó là họ cũng lấy cái tâm họ tu chứ gì? Nhưng mà họ không xác định được bốn cái vị trí họ đang tu. Họ chỉ tu có cái tâm họ, thì họ có đạt được cái tâm họ giải thoát, còn cái thân họ bỏ.
Cho nên họ nói bây giờ thí dụ như, các pháp đến với họ, họ thấy toàn là huyễn giả. Đối với trí tuệ của họ, bát nhã, thì họ thấy nó là không, không có vật gì mà hiện hữu, không có vật gì mà nó thường hằng, cho nên họ thấy nó là vô thường.
Thì đó là cái phần họ đứng ở trên góc độ của tâm, họ quét sạch cái tâm họ, chớ còn cái thân, với cái thọ của họ đâu có sạch, cho nên cái đau của họ, họ cũng rên la như thường, họ đâu có làm chủ được. Rồi cái thân họ, bây giờ bảo ngưng thở họ cũng không làm được nữa.
Thì như vậy họ chỉ tu có cái phần tâm. Mà bốn chỗ tu chứ, ông Phật dạy bốn chỗ Tứ Niệm Xứ, mà họ tu có nhất xứ à. Nghĩa là họ lấy Phật Tánh, họ bây giờ “chẳng niệm thiện niệm ác”, thì ở trong tâm của mình chẳng niệm thiện niệm ác, thì họ tu có một phần đó thôi, mà họ làm chủ làm sao toàn diện được cái thân - thọ - tâm - pháp của họ?
Cho nên cái mà họ hiểu sai là vì họ đứng ở trên một cái góc độ của thân - thọ - tâm - pháp họ tu có một cái mà họ tưởng là họ giải thoát toàn diện, làm sao được? Người ta tu trong bốn cái này mà người ta còn chưa có giải thoát toàn diện, chưa có thoát ra khổ, huống hồ là tu có một cái nhỏ của bốn cái chỗ này. Nghĩa là trong bốn chỗ, chúng ta tu có một cái mà thôi, thì làm sao mà chúng ta thoát ra được?
Ở đây phải rõ, trên bốn lãnh vực này, nếu đặt sai pháp cũng tu không thành tựu nữa. Nghĩa là bốn cái chỗ này mà chúng ta đặt không đúng pháp. Nghĩa là bây giờ bốn chỗ này đầu tiên chúng ta phải đặt pháp gì?
Tứ Chánh Cần. Nghĩa là chúng ta phải dứt ác mà tăng thiện thì nó mới, bởi vì hiện bây giờ thân - thọ - tâm - pháp chúng ta đang ở trong ác pháp, chớ đâu phải là thiện pháp.
Nếu mà thiện pháp sao người ta chửi mình giận, nếu thiện pháp thì nó đâu có giận ai đâu? Còn này mình dễ giận, dễ hờn. Mà nếu nó thiện pháp sao cái thân này người ta đánh một cái vầy mình biết đau? Nếu nó thiện thì nó đâu có đau, còn cái này nó không thiện cho nên nó đau.
Nó nhiều cái như vậy. Mình nói là các pháp đều thiện, vậy thì người ta ở ngoài người ta chửi mình, tại sao nó thiện mà mình lại giận, thì nó phải là ác pháp, cho nên nó chưa có thiện.
Cho nên vì vậy mình phải tu để cho các pháp với cái tầm mắt của mình, với cái lỗ tai nghe của mình, với cái ý của mình tiếp xúc với cái pháp đó, hoàn toàn người ta chửi mình mà mình vẫn thấy thiện.
(41:08) Cho nên ông Phú Lâu Na Đức Phật hỏi: “Người ta chửi mắng ông, thì ông nghĩ như thế nào?” Thì ông nói “Người ta chửi mắng con thì người ta còn thương con, người ta chưa có lấy gậy gộc người ta đánh con”.
Thì ông Phật hỏi: “Người ta lấy gậy gộc người ta đánh ông, thì ông nghĩ như thế nào?” Thì ông nói người ta đánh ông thì người ta còn thương ông, người ta chưa có lấy gươm dao giết ông.
Thì ông Phật nói: “Nếu người ta lấy gươm dao người ta cắt cổ ông, người ta đâm ông cho ông chết đi, thì ông thấy như thế nào?” Nếu như vậy người ta cũng còn thương ông, cho nên người ta mới giết cái thân này để cho ông được giải thoát, thì người ta vẫn thương ông!
Cho nên Đức Phật nói: “Được! Ông đi qua xứ đó độ người ta!” Tức là Đức Phật đã trắc nghiệm được cái người đệ tử của mình xứng đáng làm một người đi độ chúng sanh rồi.
Còn mình chưa có được. Người ta vừa nói cái gì đó mình giận, chưa có đánh mình đâu, chớ phải đánh mình, mình còn giảy nảy lên, mình còn nằm đó mình đòi mạng, đòi thường mạng với người ta nữa.
Cho nên do những cái chuyện đó, vì vậy mà chúng ta phải thấy rằng cái chỗ thân - thọ - tâm - pháp chúng ta phải thực hiện sao nó cởi bỏ được những cái này, thì chính là những cái pháp Phật đã đặt ra để chúng ta tu tập ở trên bốn chỗ này.
Mà cái người tu hiện giờ họ chưa biết bốn chỗ này, họ cứ ngỡ rằng Tứ Niệm Xứ là một cái pháp môn. Cho nên hầu hết Thầy đọc lại các kinh sách của người ta triển khai những cái pháp Tứ Niệm Xứ này, hầu hết đó là cái pháp tu của họ, chớ không phải là bốn cái chỗ bất tịnh để mà chúng ta thực hiện các pháp khác.
(42:47) Cho nên mười sáu cái loại định của Phật thì chúng ta đem áp dụng ở trên bốn chỗ này hết, không có cái định nào mà chúng ta không có tu tập ở trên này.
Mà tu tập ở trên này không có nghĩa là tu tập để cho cái pháp định đó nó trở thành cái định, không phải đâu. Mà tu tập cho bốn cái chỗ này nó thanh tịnh, mà sư thanh tịnh của nó tức là bốn cái chỗ này nó đạt được nhập định. Cho nên Phật nói: “Thân định trên tâm”, mà “tâm định trên thân”.
Ví dụ, trên bốn lãnh vực này, đặt pháp môn Tịnh Độ, niệm Phật A Di Đà để cầu vãng sanh Cực lạc, Thiền Tông để ngộ Phật Tánh, Mật Tông để có oai lực thần chú v.v, thì các tông phái này chưa rõ Tứ Niệm Xứ.
Nghĩa là người ta nói rằng Tịnh Độ Tông nè, rồi Thiền Tông nè, rồi Mật Tông nè đều là pháp của Phật. Nhưng mà pháp của Phật mà không hiểu Tứ Niệm Xứ thì đó đâu phải là pháp Phật, đặt không đúng chỗ.
Mục đích ở đây là đem các pháp môn trau dồi, tập luyện, làm cho bốn chỗ này thanh tịnh, vì bốn chỗ này đang bị ô nhiễm, uế trược nên những pháp nào làm cho nó không còn ô nhiễm, uế trược nữa, thì đúng Chánh Pháp của Phật.
Còn cái pháp nào mà đem lên đó, mà không cái rửa sạch nó, mà lại còn thêm cho nó nữa. Thí dụ như bây giờ Thầy niệm chú nè, Thầy có thần thông nè, Thầy có phép tắc nè, thì cái tâm tham của Thầy nó lại lớn lên nữa.
Nó ham nữa, nó thấy như vậy người ta phục mình, người ta ghê gớm, người ta thấy mình kêu mây, hú gió, hóa lửa, phóng hào quang được, người ta sợ. Thầy niệm chú một cái nó hiện ra đủ thứ, ai cũng mê hết, coi như Thầy là bậc giáo chủ rồi, người có đủ thần thông rồi.
Nhưng mà không ngờ nó lại làm cho Thầy lại thêm những cái ô nhiễm thêm. Từ đó người ta đến người ta lạy lễ, cúng dường Thầy cái này cái khác, người ta sắm xe hơi này kia, cái gì Thầy cũng chấp nhận, cái tâm của Thầy nó đâu có xả ly đâu, cho nên cái gì cúng dường cũng chấp nhận hết.
(44:37) Người ta cúng dường tiền nhiều thì cất chùa to tháp lớn. Xe hơi có, tiền có, rồi cái gì cũng có, rồi bắt đầu bây giờ sao? Cái tâm dục nó phải sanh thì nó phải thích phụ nữ. Từ đó ông giáo chủ nào cũng rớt ở trên thân phụ nữ hết ráo! Thì như vậy là còn cái gì là gọi là thanh tịnh đâu! Cho nên từ chỗ thần thông nó mất tiêu thần thông hết, không còn cái gì hết.
Cho nên báo Công an nó thường đăng, giáo chủ này đến giáo chủ kia, Thầy có đọc cái tờ báo Công an mà Phật tử đem về, nhắc đến cái vị giáo chủ của xứ sương mù ở Đà Lạt. Thầy thấy ông ta cũng là từ cái chỗ mà ông có thần thông, nói cái chuyện quá khứ xảy ra này kia. Cuối cùng ông rơi trên phụ nữ, rồi thì bắt đầu ông nói cái gì cũng không trúng. Công an bắt, ông ta cũng không làm sao biết trước được, mất các cái pháp mà biết cái chuyện xảy ra.
Cho nên tất cả những cái đều bị ô nhiễm mà từ cái pháp tu sai lệch đó, đặt cái Mật Tông mà tu, nó làm cho người ta có thần thông đó, để rồi người ta bị ô nhiễm lại còn ô nhiễm nặng, bẩn thỉu lại càng bẩn thỉu nặng hơn nữa, ô trược lại càng ô trược hơn nữa!
Còn Tịnh Độ thì như Thầy đã nói, mơ hồ, trừu tượng, một cái thế giới siêu hình mà chưa hề có ai đi hết, mà ở đây cứ chổng khu tin rằng có. Cho nên gia đình ai có người chết thì chổng khu rước thầy chùa đến tụng niệm, cho cầu về đó. Ông nội ông về đó thì chắc ông Phật Di Đà mà có thật, ổng cũng chạy về cái trần gian này, ổng kêu công an lên trển còng đầu giùm mấy cái ông đó kéo về đây làm phước!
Thực sự như vậy mà, chớ làm sao chịu nổi! Ở đây cái tâm tham chúng ta tham quá trời quá đất, tìm nhiều cách đủ cách mà tham ô đủ cách mọi thứ. Mà giờ cứ ai cũng đụng cái rước ông thầy chùa để cầu để về trển, ai cũng cầu về được hết ở trển là chắc chắn cái xứ đó nó thành cái địa ngục ở trên đó. Ông Phật Di Đà ổng làm vua ở trên đó, bây giờ ổng cũng sợ luôn, ổng đâu có dám ở trển.
Cho nên thật sự là không có, chớ có là phải có ông Phật Di Đà chạy trốn về đây rồi. Thầy nói thật sự, đem ba cái người trần gian này lên trển thì cái xứ đó nó thành cái địa ngục. Ở đây nhiều khi chúng ta hở ra chút là chúng ăn trộm, ăn cắp đủ thứ. Mà đem cái thứ này về trển thì trộm cắp nó đầy xứ ở trên đó rồi, làm sao mà ông Phật Di Đà ở yên được? Lúc bấy giờ ông phải tổ chức một dàn công an kêu là dữ tợn nữa chứ còn lơ mơ thì làm sao mà thắng nổi, khó lắm chớ không phải dễ.
Cho nên ở đây, chúng ta nhằm cái mục đích của đạo Phật, chúng ta phải hiểu rõ, là nhằm ở chỗ cái thân - thọ - tâm - pháp tham sân si của chúng ta, chúng ta phải diệt cho được.
(46:55) Mà diệt được thì phải bằng cái pháp nào, chứ đâu phải bằng cái pháp cầu khẩn đi về Cực Lạc như vậy, đó là cái hiểu sai.
Rồi bây giờ chúng ta lại chấp nhận cái Thiền Tông, bây giờ chúng ta chấp nhận là cái Phật Tánh, để chúng ta ôm cái Phật Tánh đó để rồi nó có hết được cái tham sân si, cái làm chủ sanh tử này không? Hay là tới khi mà thọ chúng ta, thân chúng ta đau nhức, chúng ta cũng nhăn răng, cũng méo miệng ở trên giường bệnh?
Tất cả những cái này là những cái mà chúng ta đã đặt sai cái pháp. Ở trên bốn cái chỗ này để làm cho nó thanh tịnh, giải thoát. Đằng này các pháp môn trên không nhằm mục đích làm cho bốn chỗ này thanh tịnh. Nghĩa là các pháp đó đặt không có đúng chỗ, nó không có làm cho nó được thanh tịnh.
Cũng như bây giờ chúng ta thay vì chúng ta phải có nước, xà bông nè, rồi có bàn chải nè, hay hoặc có giẻ nè, để mà chúng ta lau cái sàn này. Trái lại chúng ta lấy thảm chúng ta trải thêm ở trên này nữa, thì cái lớp bẩn ở dưới này nó càng thêm bẩn thêm chớ có làm cái gì, mà trải thêm nữa thì nó có tốt lành gì đâu, nó bẩn là bẩn, bây giờ có trải thêm nó là Cực Lạc đi nữa nó cũng đâu có làm sao mà nó hết!
HẾT BĂNG
GIỚI HÀNH 11 - CÁC PHÁP TU TRÊN THÂN - THỌ - TÂM - PHÁP
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Thời gian: 1998
(0:00) … Người ta đặt cái pháp môn nó không đúng cái chỗ của nó. Cũng như bây giờ thay vì bây giờ mình dùng cái miếng giẻ để mình lau cái sàn này cho nó sạch, thì người ta lại dùng cái tấm thảm người ta trải lên, người ta làm cho khuất cái bẩn thỉu này đi. Nhưng mà che đậy sao được? Thầy nói che đậy không được đâu.
Cho nên nói bây giờ mình cầu về Cực Lạc, thì đó là cái tấm thảm để che đậy cái lớp bẩn của bốn cái chỗ bẩn thỉu này. Thiền Tông cũng vậy, nó cũng đi tìm một cái Phật Tánh để nó che đậy trên cái bẩn thỉu của thân nó, thì làm sao mà nó hết bẩn thỉu được?
Thiền Tông cũng vậy, đi tìm một cái Phật Tánh tưởng tượng, mê hoặc kẻ khác bằng bốn tánh Niết Bàn: thường, lạc, ngã, tịnh, thì có giải quyết gì được cho thân thọ tâm pháp thanh tịnh đâu? Thật sự ra, lấy cái Phật Tánh là làm cái tấm thảm để che trên cái sàn nhà dơ, thì nó cũng chẳng giải quyết gì được hết.
Ngược lại, chúng ta đem Tứ Chánh Cần đặt ngay trên bốn lĩnh vực này, áp dụng ba loại định Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, Định Niệm Hơi Thở và Định Vô Lậu, siêng năng tu tập, trau dồi, dứt ác tăng thiện, khiến cho bốn chỗ này có sự giải thoát an vui, thanh thản ngay liền tức khắc.
Phải rõ không? Các thầy thấy rất rõ mà, ngay ở trên chỗ đó mà mình đặt Tứ Chánh Cần, rồi mình thực hiện bốn cái loại thiền định này, nó làm cho ngăn được ác, nó làm cho chúng ta tăng trưởng cái thiện pháp, sống một cái cuộc sống an lạc, thanh thản ngay liền tức khắc trong cái kiếp đời tu. Chớ đâu phải mà tu đợi tới chừng chết rồi mới đi về Cực Lạc! Đó thì nó rõ ràng và cụ thể.
(01:41) Mà nếu mà người mà biết được cái sự giải thoát đó, thì chúng ta còn tha thiết gì với cái sang, cái đẹp, cái tiền bạc, của cải, xe hơi, nhà lầu ở thế gian này nữa không?
Thử hỏi bây giờ mình có khả năng mình làm được những cái đó đi, mà mình cứ giữ được những cái đó đời này đến đời khác cho mình không, hay là chỉ có cao lắm là trăm tuổi rồi cũng bỏ đi? Làm chi cho cực mà bỏ đi cho người ta ăn?
Thành ra trong cái vấn đề đó, chúng ta đam mê nó sai. Chạy theo những cái dục lạc thế gian nó có ích lợi gì? Mà nó làm cho bốn cái nơi của thân thọ tâm pháp của chúng ta càng ô nhiễm thêm, càng đau khổ thêm, có ích lợi gì?
Cho nên chúng ta hiểu biết, cái trí tuệ chúng ta hiểu biết. Chúng ta vô minh, chúng ta thấy mình làm được vậy là thiên hạ nói mình giàu sang này kia, mình đi ngoại quốc rồi có tiền nhiều. Sự thật ở bên đó hốt rác, mới dành dụm tiền mới gửi về đây, chớ ở bên đó bộ giàu hơn mình ở đây sao? Họ còn mạt rệp hơn mình ở đây nữa!
(02:36) Cho nên thật sự ra lấy cái giàu thì chúng ta sẽ thấy chúng ta chẳng bằng ai hết, mà lấy cái nghèo thì chúng ta cũng chẳng nghèo hơn ai hết. Bởi vì chúng ta nghèo còn có người nghèo hơn, mà giàu thì cũng có người giàu hơn.
Cho nên chúng ta phải lấy cái trung đạo, chúng ta chẳng sợ nghèo mà cũng chẳng sợ giàu, chỉ giữ làm sao cái tâm chúng ta thanh thản an lạc, lìa xa các ác pháp, thì lúc bấy giờ chúng ta mới thấy được cái sự giải thoát.
Còn giàu biết chừng nào gọi là cái mức giàu gọi là thỏa mãn chúng ta, mà nghèo đến cái mức độ nào gọi là nghèo cơ cực của chúng ta đâu? Cho nên có nhiều người đứng ở trong cái danh giả mà họ tưởng rằng đó là thật. Bây giờ gia đình mình nghèo, ai đâu mà mang cơm mang vợ cứ chê gia đình mình hoài sao? Sự thật nghèo mà không khổ, còn người ta giàu người ta khổ thì sao?
Cho nên ngày xưa ông Trang Tử, ổng đi đường ổng mặc quần áo rách rưới, chắp vá tùm lum, đội cái nón lá mà rách bên đây bên kia tơi tả. Có một cái người bạn gặp ông: “Trời ơi, tôi lâu nay mới gặp ông, ông nghèo khổ quá trời.” Ổng nói: “Anh nói trật rồi, tui nghèo thì nghèo chớ tui đâu có khổ, anh có biết tâm tui khổ không?”
Có nhiều người nghèo mà người ta không khổ, còn có nhiều người nghèo mà khổ. Nghèo mà nghĩ rằng mình thua người ta, mình này kia thì mình khổ.
Mà cái nghèo mà mình không thấy mình thua ai hết, tôi thấy đời tôi, tâm hồn tôi thanh thản, ngày có bữa cơm cũng tốt mà không có tôi cũng vui, tôi đâu có đòi hỏi mấy vấn đề đó đâu. Nghiệp của tôi nó vậy thì tôi an vui với vậy, cho nên tôi hoàn toàn giải thoát, không ngó lên mà không ngó xuống. Phước báu tôi có, tôi chẳng lo nó cũng giàu, mà tôi không có phước báu thì bây giờ tôi có muốn giàu nó cũng không giàu.
Cho nên cái lý của Phật pháp là giúp cho chúng ta, từ cái tri kiến hiểu biết đó, nó giúp chúng ta làm cho bốn cái chỗ này càng thanh tịnh.
(04:33) Bởi vậy, khi chúng ta tu hành mà chúng ta không có đặt cái pháp mà tu đúng, thì chúng ta không có giải thoát được. Một kết quả không có thời gian chờ đợi.
Nghĩa là, khi mà chúng ta đặt Tứ Chánh Cần vào mà chúng ta tu ba cái Định rồi, thì cái kết quả nó ngay liền tức khắc, chớ không phải có thời gian, chúng ta sẽ thấy có sự giải thoát nơi thân - thọ - tâm - pháp của chúng ta.
Chỉ ai có nhiệt tâm quyết tìm đường thoát khổ của kiếp làm người thì sẽ được giải thoát liền. Nghĩa là ngay liền chúng ta được giải thoát hoàn toàn, chớ không phải tu phải năm tháng, ba tháng, mà ngay liền chúng ta thấy sự giải thoát. Từ cái sự giải thoát nhỏ, chúng ta kéo dài cái thời gian đó, chúng ta sẽ thấy cái sự giải thoát lớn, từ đó chúng ta sẽ thấy làm chủ được sự sanh tử, chấm dứt được luân hồi.
Đây là đặt đúng pháp, tu đúng chỗ, nên cuộc sống được giải thoát hoàn toàn. Nghĩa là chúng ta đặt đúng cái pháp, cái pháp đó phải đặt đúng.
Cũng như bây giờ chúng ta chưa có tu Tứ Chánh Cần mà chúng ta vội ức chế tâm của mình bằng pháp môn Sổ Tức, hay hoặc là Định Niệm Hơi Thở đi, đó tức là chúng ta đã đặt pháp sai.
Thay vì cái pháp đó đúng chớ không phải sai, từ cái Định Niệm Hơi Thở cho đến cái Tứ Chánh Cần, nhưng mà biết rằng chúng ta phải tu như thế nào? Cái pháp nào đặt đúng cái vị trí nó? Mà trong cái lúc chúng ta mới tu, hay là tu lâu? Tu lâu thì chúng ta phải đạt được những kết quả nào, rồi từng đó chúng ta mới tiến tới tu các pháp khác,
Còn bây giờ chưa gì chúng ta đảo lộn. Cũng như một người chưa có tu giới luật, thì bắt đầu họ lại tu trí tuệ, hay hoặc là họ tu thiền định. Thì thử hỏi họ tu ngược ngạo như vậy làm sao họ có được cái Chánh Định đâu, họ làm sao họ được cái Chánh Tuệ đâu? Cho nên tất cả những cái mà họ được đều là tà tuệ, tà định chớ không phải là Chánh Định.
Cho nên mình tu hành mà không có một thiện hữu tri thức chỉ cho mình biết cái pháp đặt đúng cái thời điểm, đặt đúng trong cái giai đoạn của mình tu tập, thì mình sẽ tu sai.
(06:36) Như từ lâu tới giờ Thầy không dám triển khai các cái pháp này, sợ đụng chạm các vị Tôn túc, các bậc Hòa thượng họ đã giải thích sai cái Phật pháp, cho nên sợ làm động các thầy. Mà các thầy đó là những bậc thầy Tổ của mình, mình nói ra thì sợ làm mấy ông mắc cỡ đi, rồi mấy ổng gây gổ với mình đi, rồi coi mình không ra gì đi, thì thầy trò nó có những cái sự chướng quá.
Cho nên không dám nói, làm thinh mà chịu. Cho đến bây giờ mới dám bạo gan hé miệng nói một chút, là tại vì mình lớn tuổi rồi, sắp sửa chết rồi, không dám nói để mai mốt chết rồi ai nói cho?
Cho nên Thầy thấy bây giờ Thầy sáu mươi mấy tuổi rồi, mà Thầy không dám nói nữa đi, thì chắc chắn là mai mốt chết rồi ai dám nói? Còn nhỏ nhỏ tuổi thì đâu có dám nói. Lúc mà Thầy mới bốn mươi, năm mươi tuổi còn sức khỏe nói đâu được, mấy ông đó lớn tuổi ổng nẹt mình chết được. Còn giờ lớn rồi, chắc ổng cũng thấy mình già rồi thôi cũng nói sơ sơ chớ cũng không dám nói luôn.
Chớ còn nhỏ nhỏ như Thầy bây giờ, như Mật Hạnh nhỏ nhỏ vậy mà nói bậy là Thầy tát tai liền. Bởi vì nó còn nhỏ, mình có thể la mắng nó được, dù là bậy nó cũng không dám nói. Còn bây giờ Thầy già rồi, như cỡ này mà các Hòa thượng có rầy đi nữa, họ cũng nói nhẹ nhẹ chớ họ cũng không nói quá lố.
Cho nên già rồi dám ăn dám nói chớ còn nhỏ nhỏ nói bậy chúng đánh được. Cho nên ở đây bây giờ Thầy nói thẳng, thì họ có rầy la gì thì họ cũng nói, ở, nó cũng lớn rồi, nói ít ít, nói ít ít thôi. Đó là cái tâm lý mà, mình phải hiểu chung như vậy.
Cho nên bây giờ dám nói thẳng. Từ cái ngày nói thẳng thì cho nên phải đặt đúng pháp để mà tu. Vì vậy mà trong lúc này, người nào mà đủ duyên bước vào mà mới tu, Thầy nói đúng pháp thì các con sẽ tu nhanh.
Mà trước kia không có dám nói, nói sợ các thầy mình, ổng buồn, thứ nhất. Thứ hai, ổng già rồi ổng buồn ổng chết, thì ổng đổ tội cho mình, là tại mình nói ổng buồn ổng tức ổng chết, thì mình cũng ăn năn hối hận. Còn bây giờ đó, mình già rồi, thì ổng cũng già rồi, bất quá thì mình nói ổng có giận mình ông chết, mình cũng chết theo ông cũng không gì, thầy trò cùng chết với nhau có gì đâu!
Cho nên bây giờ cứ nói thẳng thôi. Mà nói thẳng thì để làm sao? Để cho cái thế hệ sau này người ta biết được cách thức tu tập, người ta không có lầm lạc đường tu của đạo Phật. Người ta không mất thì giờ, người ta tu mau thành tựu, người ta mới tu giải thoát liền.
(08:52) Cho nên ở đây Thầy nói mạnh: nếu chúng ta đặt Tứ Thánh Định trên bốn lãnh vực này để trau dồi tu tập và rèn luyện, khiến cho bốn chỗ này trở thành một đạo lực kinh khủng, một đạo lực kinh hồn, làm chủ được sự sống chết của kiếp người.
Nghĩa là khi mà chúng ta đặt cái Tứ Chánh Cần trên cái này chúng ta tu các định, thì chúng ta sẽ dứt ác, tăng trưởng thiện pháp, làm cho tâm của chúng ta giải thoát, làm cho cuộc đời chúng ta, sống cuộc sống của chúng ta, hàng ngày chúng ta thấy an vui thanh thản, không có còn khổ sở, không còn lo lắng, thương ghét ai hết, không còn giận hờn cái gì hết.
Đó là chúng ta đặt đúng cái Tứ Chánh Cần. Còn bây giờ nếu mà chúng ta đã thấy được cái tâm ly dục ly ác pháp rồi, thì bắt đầu chúng ta đem Tứ Thánh Định chúng ta đặt lên trên đó mà chúng ta tu.
Nghĩa là trên bốn cái chỗ này này. Chớ Tứ Niệm Xứ nó không có pháp nào hết, nó phải lấy các pháp đó mà để thực hiện ở trên đó. Cho nên lúc bấy giờ chúng ta đặt Tứ Thánh Định trên này mà chúng ta tu.
Thì từ cái chỗ Tứ Thánh Định này, nó tạo thành cho chúng ta cái một cái đạo lực kinh hồn, nghĩa là muốn làm chủ được cái sự sống chết của chúng ta rất dễ dàng.
Chỉ có Tứ Thánh Định này nó mới có thể làm chủ được sự sống chết, còn ngoài cái bốn Thánh Định này thì không có một thứ thiền định nào mà làm chủ được sự sống chết đâu.
Bởi vì có thứ thiền định nào mà nói rằng tịnh chỉ hơi thở, các hành trong thân ngưng? Chỉ có Tứ Thánh Định này mới dám xác định được. Khi tu mà nhập vào cái định đó, thì hơi thở phải ngưng, các hành trong thân ngưng, không có thở nữa.
Vì thế mà chúng ta biết nó đã làm (chủ). Vì cái người sống là còn thở, mà người chết có thở không? Ở đây quý thầy và các con bên nữ các con thấy rõ không? Cái người chết có thở không? Nếu mà còn thở ai dám nói người đó chết? Thế mà cái người mà nhập định hơi thở ngưng hoàn toàn mà không chết, thì không phải là làm chủ được cái sự sống chết sao? Nó rõ ràng.
(10:55) Vì thế chúng ta đã làm chủ được sanh, già, bệnh, chết, đạt được mục đích thoát khổ của đạo Phật. Bởi vì chính cái mục đích của đạo Phật là nhắm vào cái chỗ sanh, già, bệnh, chết, để mà chúng ta đạt được cái đó, chớ không phải đi đạt được cái Phật Tánh hay hoặc là đạt được cái cảnh giới Cực Lạc, hay hoặc là đạt được cái thần thông phép tắc như Mật Tông? Nó không có chuyện đó đâu.
Ở đây cái mục đích của nó là nhắm vào sanh, già, bệnh, chết, bốn cái khổ của kiếp người. Mà chúng ta đạt được cái mục đích đó, thì tức là đạt được cái mục đích của đạo Phật.
Đạo Phật ra đời là nhằm giải quyết cái khổ của con người, là giải quyết cái đời sống, sanh nó là cái đời sống, hàng ngày chúng ta tiếp duyên nhau, chúng ta sanh sống, chúng ta làm chuyện này chuyện khác, mà luôn luôn lúc nào chúng ta cũng thanh thản an vui, không có sự gì buồn rầu, giận hờn, phiền não, thì như vậy là chúng ta đã làm chủ được cái sanh.
Rồi bây giờ già, chúng ta làm chủ cho cái thân của chúng ta nè, đừng có già nè, thì chúng ta đi vào ở trong bốn cái thiền định này thì chúng ta sẽ làm chủ được.
Bây giờ cái bệnh nè, bệnh thì nó đau, nó nhức, nó khổ sở. Mà bây giờ cái thân của chúng ta nó làm chủ được cái bệnh, khi nó đau chúng ta bảo đừng đau thì nó không đau, thì đó tức là chúng ta làm chủ được nó rồi. Cho nên nhân quả chúng ta làm chủ được.
Và bây giờ chết thì hơi thở phải ngưng. Thế mà nó ngưng, mà chúng ta chưa cái bỏ cái thân này thì chúng ta phục hồi sự sống nó thở lại, nó sống. Rõ ràng là chúng ta làm chủ được cái sống chết rồi. Đó là cái mục đích của đạo Phật.
(12:17) Ngược lại các pháp môn kia giỏi lý luận, hý ngôn, mơ hồ, trừu tượng, huyễn hoặc, không thực tế và cụ thể, nên càng tu thì càng chạy theo danh lợi, ác pháp trên bốn lãnh vực này càng tăng trưởng nhiều hơn.
Nghĩa là trong khi đó người ta tu những cái pháp kia, thì mình thấy rõ ràng, càng ngày nó càng sai lệch, nó càng phá giới.
Tịnh Độ thì các thầy tu riết rồi thì ông nào cũng có vợ, có con, rồi cái chùa biến thành gia đình, sanh sống làm ăn, làm nghề này nghề kia. Người khéo léo thì làm nghề thầy thuốc, người vụng thì họ làm những cái chuyện khác, cày bừa, nuôi heo, gà, vịt. Chắc chắn là quý thầy có trực tiếp sống với trong cái thời Tịnh Độ hưng thịnh, thì các chùa đều là sống kiểu đó hết.
Thậm chí như bây giờ, cái ông thầy chùa ở cái chùa đó, mà ổng có ruộng, ổng cấy ruộng cấy lúa này kia, qua cái mùa có cá, ổng làm sao ổng bắt cá ổng ăn thịt hết, thì như vậy là rõ ràng là như thế nào? Y như cái người thế gian chớ đâu còn cái gì nữa, đâu có khác nhau.
Đó. Mà bây giờ thí dụ như, mấy vị đó hiện bây giờ họ đều là nằm ở trong Tịnh Độ, và bây giờ họ lại làm lớn ở trong Giáo Hội nữa. Rõ ràng là họ đi, làm sao bắt cá, họ xách luồng họ đi đặt ở theo cái đường nước chảy ở ruộng để mà bắt cá ăn. Mà bây giờ họ làm lớn, thì thử nghĩ coi cái Giáo hội của chúng ta như thế nào?
Nó lạ lùng lắm, nó lạ lùng lắm, thật sự nó rất là lạ lùng. Đạo Phật gì kì cục, Thầy chả biết gì.
Mà từ cái chỗ những cái pháp môn sai đó, nó không làm cho họ thanh tịnh, nó không làm cho họ dứt ác, mà họ làm ác, mà họ vẫn là một vị tu sĩ. Nó nhục nhã vì thấy những cái hình ảnh đó, mà đau lòng, mà đau đớn.
Họ ngồi ăn trong cái mâm ăn như thế này, bình thường! Họ ăn thịt cá chúng sanh như thường, họ coi không có thương yêu gì hết. Thậm chí có thầy, họ cũng làm lớn chớ không phải không, bánh mì người ta nhồi thịt vậy, ổng lại ổng nắm xé hai vậy ông ăn à. Ổng coi như ở trong đó đậu hủ không à.
Trời đất, Thầy nói thiệt ra, Thầy ngồi mà Thầy sượng sùng. Trời ơi, mình cái đầu cạo cũng giống như ổng, ổng đầu cạo làm như vậy, không biết là thiên hạ biết được họ cười cả đám nhau hết. Họ nói ông này cũng khéo giữ vậy thôi chớ cũng vậy thôi không có gì.
Đó. Đó là những cái mà làm đau khổ, mà chính Mật Hạnh là đi với Thầy đã chứng kiến được cái điều đó.
(14:36) Chúng ta lần lượt triển khai Tứ Niệm Xứ mà Đức Phật đã xác định dạy chúng ta tu tập những pháp nào trên đó.
Nghĩa là chúng ta triển khai ra cái Tứ Niệm Xứ này, và trong khi đó chúng ta tu về cái thân như thế nào, tu về cái tâm như thế nào, tu về cái thọ như thế nào, tu về các pháp phải dùng các pháp như thế nào để tu? Thì ở trên cái chỗ mà chúng ta tu tập đó, thì chúng ta phải biết rất rõ những cái pháp nào đặt ở trên bốn cái chỗ này mà tu tập.
Trước tiên thì chúng ta nên theo cái bảng tóm lược của Tứ Niệm Xứ. Nghĩa là nó tóm lược lại, chứ Tứ Niệm Xứ nó rộng rãi lắm, nó mênh mông lắm, bốn cái chỗ này chớ mỗi một cái chỗ nói ra nó rất nhiều.
Cho nên chúng ta phải theo cái bảng tóm lược, để rồi từ cái chỗ tóm lược đó, chúng ta mới giãn ra từng cái phần một, và mỗi một phần đó nó sẽ sử dụng cái pháp gì ở trên cái phần đó để tu tập.
Cho nên càng giãn ra thì Thầy e rằng các thầy và cũng như là các con hơi rối trí. Nhưng nhớ kỹ những gì mà Thầy dặn, đừng có nên mà để cái tâm, nghe để mà hiểu biết Tứ Niệm Xứ.
Bởi vì từ lâu tới giờ Thầy không muốn giảng Tứ Niệm Xứ, là vì cái Tứ Niệm Xứ là cái nơi mà để chúng ta đem các pháp đến đó, mà để chúng ta gọt rửa, trau dồi, làm cho bốn cái chỗ này thanh tịnh. Cho nên nó phải có những cái chi tiết của nó ở trong đó. Thân, thọ, tâm, pháp, nó có những cái chi tiết của nó trong đó rất là lớn. Mỗi cái chi tiết nó phải thực hiện như thế nào, chớ không phải là đơn sơ đâu.
Để nhận xét phải tu chỗ nào trước, chỗ nào sau, pháp nào trước, pháp nào sau. Nghĩa là chúng ta phải tóm lược cái bảng này, để rồi từ cái chi tiết đó, chúng ta mới đặt. Bây giờ muốn tu cái chi tiết chỗ này của Tứ Niệm Xứ nè, thì phải tu như thế nào?
(16:22) Bởi vì trong cái, thí dụ như bây giờ, trên cái thân nó đâu có, nó là tổng quát nói cái thân, nhưng mà cái thân hành nó khác, mà cái thân cái nhân tướng của nó khác, mà cái hành tướng nó khác, rồi hành tướng nội, hành tướng ngoại, rồi vừa hành tướng nội vừa hành tướng ngoại, nó nhiều cái việc ở trong đó lắm.
Cho nên nó không thể đơn giản được. Vì vậy mà giảng về cái thân, rồi cái thọ, rồi cái tâm, rồi cái pháp, mà cái nào nó cũng nhiều như vậy hết thì thử hỏi, nếu mà đem ra giảng sơ sơ thì chúng ta không thấy lối đâu. Mà chúng ta phải giảng từng cái, rồi từng cái định chúng ta đặt trên đó, rồi chúng ta phải tu như thế nào để cho nó phù hợp, để cho nó đúng cách.
Đó là cái phần giáo đầu cho cái Tứ Niệm Xứ hôm nay. Và cái phần mà đi vào chi tiết để Thầy sẽ, bởi vì sau khi nó sẽ trở thành, viết thành một cái cuốn sách, cái pháp tu nó in ra thành sách, để sau này, cái này thì khi mà in ra rồi, như Thầy giảng ở trong này thì các con thấy rằng, cái lời nói của Thầy thì nó có hơi đụng chạm với các ngài.
Nhưng mà khi viết nó thành sách thì không có đụng chạm ai hết. Nghĩa là trên bốn lãnh vực này làm cho nó thanh tịnh. Cho nên cuốn sách này chúng ta có thể xin phép ở đâu cũng được.
Nhưng dù có muốn xin phép như thế nào, thì chắc chắn là Thầy cũng gởi cho Chánh Trực, cho Chánh Đức, là vì có cái sự quen thân, có sự quen biết rồi. Từ cái cuốn đầu tiên được cái giấy phép cho đến những cái cuốn kế sau đó, nó khỏi mình phải đi lòng vòng chỗ này chỗ kia, rồi phải…
Bởi vì đời nó không có đơn giản. Muốn làm cho nên việc cái gì đó, thì tức là phải có quà biếu hay hoặc là có cái này kia, chớ khi không người ta không làm cho mình được đâu. Và cái chỗ nào mà nó đã quen rồi thì nó dễ hơn. Và đồng thời người ta cũng thấy rằng cái sách của mình nó không có ảnh hưởng chính trị, cho nên người ta thấy đó là một cái đường xây dựng tốt cho Phật pháp, cũng là một cái điều nêu lên để rõ ràng cho pháp tu.
Chánh Đức thì cũng quen thân được thì từ cái tác phẩm thứ nhất xin phép được, cho đến những cái tác phẩm thứ hai, thứ ba thì chắc chắn là trên cái vấn đề mà xin phép thì Thầy giao cho Chánh Đức sau này.
Thì đây là những cái điều kiện mà Thầy viết ra, nhưng mà cái tài liệu viết ra đây được thì Thầy cũng in một số ít, phát cho quý thầy trong nội bộ của mình biết để mà tu tập. Cho nên cái bảng tóm lược này và sau cái bảng tóm lược này thì chúng ta sẽ giảng từng chi tiết của nó.
(18:53) Cái bảng tóm lược thứ nhất là về cái bài pháp Tứ Niệm Xứ này, thì trước tiên là về cái mục lục của nó, thì chúng ta cũng phải cho cái lời tựa để giới thiệu về bốn cái lĩnh vực này. Thì cái chương thứ nhất của nó, thì nó nói về bốn cái lĩnh vực quan trọng, tức là bốn cái nơi quan trọng này.
Tức là cái đề mục của cái chương thứ nhất là bốn cái lĩnh vực quan trọng, chớ nó không nói Tứ Niệm Xứ, mà nó nói bốn lĩnh vực quan trọng, nó rất quan trọng cho cái cuộc đời tu tập của chúng ta.
Cái tiểu mục của nó trong bốn lĩnh vực này, thì cái tiểu mục của nó là bốn cái chỗ thường sanh đau khổ của kiếp người.
(19:39) Nghĩa là mình nêu lên cái thân nó sẽ sanh đau khổ gì, cái tâm nó sanh đau khổ gì, cái thọ nó đem đến cái đau khổ gì, và các pháp nó đem đến đau khổ gì cho chúng ta.
Đó thì, mình muốn biết rõ được bốn cái lĩnh vực này nó quan trọng đến cái mức độ nào cho cái cuộc đời tu hành, thì chúng ta phải biết cái khổ của nó trước tiên, để rồi chúng ta mới tu tập làm cho bốn cái chỗ này nó thanh tịnh, nó không còn khổ đau nữa.
Cho nên đem bốn cái chỗ này ra để mà chúng ta nói, thấy cho rõ, phân tích cho rõ ràng, để chúng ta thấy được cái khổ của cái thân như thế nào, rồi cái tâm như thế nào, rồi các cái cảm thọ của chúng ta đối với thân, thọ, tâm, pháp, của chúng ta. Rồi các pháp ở ngoài nó đánh đập vào, nó xâm chiếm vào, nó làm cho chúng ta, vì các pháp nó làm cho chúng ta dễ phiền não, sân hận, sợ hãi, lo lắng, buồn phiền, thương ghét, nhớ mong đủ cách, thì các pháp nó đến với chúng ta.
Bốn cái chỗ này là bốn cái chỗ nó đem đến cái đau khổ của kiếp người. Chúng ta vạch cho họ thấy từng cái chỗ đau khổ của bốn cái chỗ này, cho ai cũng thấy cho rõ ràng.
Thì trong bốn cái chỗ này nó phải có cái nhân tướng của nó, rồi nó phải có cái hành tướng của nó, rồi nó có cái đặc tướng của nó.
Thì cái nhân tướng của nó, do cái thân nó có cái nhân tướng, do cái tâm nó có nhân tướng, do cái thọ có nhân tướng của thọ, do các pháp có nhân tướng của các pháp.
Rồi trong những cái nhân tướng của thân, thọ, tâm, pháp đó, thì nó có cái hành tướng của thân, thọ, tâm, pháp của hành tướng. Rồi hành tướng nội, hành tướng ngoại, rồi cái hành tướng nội và ngoại đồng thời luôn.
Thì trong mỗi một cái tiểu mục như vậy, nói về hành tướng của nó thì chúng ta cũng phải nói tất cả những cái hoạt động. Nói về hành thì tức là nói về hoạt động. Còn nói về cái nhân tướng, tức là nói cái tướng của nó, cái tướng trạng của nó, để chúng ta hiểu biết được cái tướng trạng của nó.
Như bây giờ nói về thân tướng của chúng ta, thì cái thân của chúng ta nó phải có những cái bộ phận nào bộ phận nào, nó kết hợp lại nó mới thành ra cái thân.
(21:49) Cho nên muốn nói về cái nhân tướng thì đầu tiên chúng ta phải thấy Ngũ Uẩn, mà nói xa hơn nữa thì chúng ta phải thấy Thập Nhị Nhân Duyên.
Thì các thầy thấy, bây giờ nội cái nhân tướng không, thì phải giải thích cho các thầy thấy Ngũ Uẩn như thế nào, Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức như thế nào, nó kết hợp lại nó mới thành cái nhân tướng của quý thầy.
Thì trong cái nhân tướng của một thầy, thì nó phải có năm cái uẩn này, mà năm cái uẩn này, thì nói về Sắc Uẩn, thì nó do một cái sự kết hợp của tứ đại. Cái Sắc Uẩn là cái thân của chúng ta nó do kết hợp của tứ đại.
Cho nên nó đi ra từng phần, từng phần như vậy, thì quý thầy biết rằng khi mà giảng về Tứ Niệm Xứ nó phải chỉ cho rõ.
Và do cái sự kết hợp của tứ đại thì nó, nếu mà thiếu tiếp nhận vào cái tứ đại bên ngoài, tứ đại bên trong này nó sẽ sanh ra đau khổ. Cho nên nó bốn chỗ thường sanh đau khổ mà.
Mà cái nhân tướng của sắc thân của chúng ta là cái tứ đại, mà khi mà ở trong này nó thiếu đất, nó không có tiếp nhận đất vô, thì do cái đất ở trong này nó thiếu thì nó sanh ra bệnh, mà nó thiếu lửa thì nó cũng sanh ra bệnh, mà nó thiếu gió nó cũng sanh ra bệnh, mà nó thiếu nước nó cũng sanh ra bệnh.
Cho nên đó là cái nỗi khổ của người mang thân tứ đại mà họ không thấy. Ai cũng tưởng là cái thân tứ đại ngon lành lắm, nhưng mà thử không ăn, không uống thử coi, nó có ngon lành không? Nó nằm, nó đi không nổi chớ ở đó ngon lành.
Rồi cái hành tướng của nó, nó hành tướng đúng thì không nói gì, nó làm cho mình an ổn. Mà hành hướng sai, chúng đánh chúng đập mình đó. Cũng như hồi còn nhỏ mà đi hái trộm mận người ta thì người ta chửi mắng, người ta đánh mình, thì không phải là cái hành tướng đó sai hay sao?
Cho nên những cái hành tướng, nhiều cái hành tướng mà đem đến những cái khổ. Chúng ta coi chừng, một cái háy (mắt) của mình đối với người khác là họ cũng thấy ghét mình rồi đó. Thì như vậy là cái hành tướng của mình nó sẽ đem đến cái nỗi khổ.
Trong cái quá trình nhân quả, Thầy cũng sẽ diễn tả. Ở trong cái lộ trình, cái đường đi của nhân quả, nó đều do những cái hành động thân, khẩu, ý của nó. Thì ở đây cái hành tướng của chúng ta nó sẽ nằm ở trong thân này, nó cũng có ba cái chỗ hành tướng của nó, mới tạo ra được cái nhân quả, từ đó mà chúng ta giảng ra, thì tức là chúng ta sẽ thấy rất rõ ràng và cụ thể.
Rồi cái đặc tướng, đặc tướng là cái cá nhân riêng của mỗi người. Mỗi người nó có cái riêng biệt nhau chớ nó không giống nhau, cũng như cái gương mặt người này nhìn với người kia không giống nhau.
Ở đây chúng ta thấy, mười mấy người nè, nhìn coi có cái mặt người nào giống người nào không? Tự nhiên, người nào cũng khác. Cho nên, cái đặc tướng đó nó không thể nào người nào giống nhau.
Rồi cái tâm của chúng ta nó cũng vậy, nó không có người nào giống nhau người nào hết.
Cho nên ở đây nói về cái phần, giới thiệu về cái phần này thì tức là nó phải viết thành ra một cái bài để cho người ta đọc, người ta hiểu rất rõ ràng và cụ thể.
(24:44) Cho nên nếu mà nói về Tứ Niệm Xứ mà dạy thì đây là cả một cái công trình, viết ra thành sách cũng cả một công trình.
Bây giờ là chương một rồi đó. Thì cái chương hai thì chúng ta dạy về cái phần tu tập. Cái chương một thì chúng ta nói bốn lãnh vực và cái bốn chỗ thường sanh đau khổ, mà diễn tả từ cái nhân tướng, đặc tướng và hành tướng của nó để biết cái chỗ mà nó đưa đến những cái đau khổ cho chúng ta.
Thì nó đưa đến những cái đau khổ thì như hồi nãy Thầy nói, thì qua những cái hành và cái đặc tướng, và cái nhân tướng của nó, nó sẽ đưa tất cả những cái nhân quả của chúng ta, tức là thân khẩu ý chúng ta tạo nên những cái nhân quả mà diễn biến cho cuộc tái sinh luân hồi của chúng ta, là cái phần trong chương một. Nó làm chúng ta mãi mãi sống trong cái vòng tròn đau khổ mà không bao giờ chúng ta thoát ra khỏi.
Cho nên hầu như là cái chương một, chúng ta tới chừng mà kết luận nó đó, thì chúng ta nhấn mạnh vào ở chỗ cái nhân quả, cái hành động hằng ngày chúng ta nói nè, suy nghĩ nè, rồi thân của chúng ta làm cái này làm cái kia để đưa đi đến cái chỗ mà chúng ta đau khổ. Cho nên bốn chỗ này thường sinh đau khổ kiếp người mà. Cho nên chúng ta phải nói về nhân quả.
Đây là nói về một phần nhỏ nhân quả, nếu mà dạy, nếu mà viết thành một cái giáo trình đạo đức nhân quả thì nó cũng có một phần ở trong này mà thôi, chớ còn cái giáo trình nhân quả nó còn nhiều cái đường đi nước bước của nó ở trong cái nhân tướng, hành tướng và đặc tướng này chớ không phải là không có.
Nhưng mà ở đây thì mình tóm lược theo bốn cái lĩnh vực quan trọng này để nói cái khổ của nó mà thôi. Chứ sau khi mà viết cái giáo trình nhân quả để nó biến thành một cái đạo đức của đạo Phật để cho người ta hiểu biết, thì nó lại còn, trong cái nhân tướng, hành tướng và đặc tướng này, thì nó là cái lộ trình, cái đường đi của nhân quả.
Cho nên chúng ta viết rất kỹ về cái đạo đức này. Còn bây giờ chúng ta chỉ tóm lược để biết cho nó là bốn cái chỗ thường sanh đau khổ của kiếp người mà thôi.
(26:56) Chương hai thì trên thân quán thân tu về nhân tướng. Bây giờ cái phần tu. Bởi vì trong cái Tứ Niệm Xứ, Phật nói trên thân quán thân tu về nhân tướng.
Vậy thì tu về nhân tướng thì như thế nào? Đây là cái mục lớn của nó đó, cái chương hai, thì cái đề mục lớn của nó. Vậy thì trên cái nhân tướng như thế nào.
Cái mục nhỏ của nó là nhân tướng ngoại, nhân tướng ở bên ngoài, cũng như bây giờ da nè, rồi lông nè, rồi móng tay, móng chân nè, rồi mắt nè, mũi, miệng mình nè, tất cả những mọi cái phần mà ở bên ngoài thân của mình đó, là nhân tướng ngoại.
Bây giờ nhân tướng nội thì tim, gan, phèo, phổi, ruột, mật, tất cả những cái phần ở bên trong gọi là nhân tướng nội. Rồi nhân tướng nội và ngoại, nghĩa là vừa bên trong mà vừa bên ngoài nữa.
Đó thì như vậy là mình ở trên thân quán thân tu về nhân tướng, thì nó thuộc về cái loại định nào mà để đưa vào ở trên chỗ này mà tu cái này?
Đó thì như vậy là chúng ta cũng đã biết rằng nếu mà tu ở về cái nhân tướng ngoại, nhân tướng nội và cái nhân tướng nội ngoại này thì nó chỉ có cái Định Vô Lậu mới đặt ở trên này mà tu. Do cái Định Vô Lậu đó cho nên chúng ta mới quán xét cái tướng ngoại của nó như thế nào, cái nhân tướng nội như thế nào và cái nhân tướng nội ngoại như thế nào?
Vì quán xét chúng ta mới thấu suốt được cái nhân tướng của nó. Do đó chúng ta thấu suốt thì chúng ta thấy cái nhân tướng nội, nhân tướng ngoại và nhân tướng nội ngoại này nó không có cái gì là tồn tại là vĩnh viễn. Nó là bất tịnh, nó là hôi thúi, nó là như thế này thế khác, đủ thứ làm uế trược.
Mà khi mà giảng rồi thì chúng ta suy nghĩ, lời của Phật dạy rất đúng, không có sai. Cho nên cái này là cái Định Vô Lậu. Nó làm cho chúng ta không còn chấp đắm, nó không còn dính mắc ở trong cái thân của chúng ta.
Coi nó, từ lâu chúng ta xem nó, cái thân của chúng ta như cái ngã, cho nên khi mà chúng ta dùng cái Định Vô Lậu mà quán xét cái này rồi thì chúng ta thấy cái thân mình, thôi thấy gớm quá rồi, không có còn chấp nó là cái ngã rồi.
Cho nên chúng ta chấp nó cái ngã như thế nào? Ôi thôi nó hơi nhức đầu là chúng ta đã hoảng sợ rồi. Nó hơi đau cái gì là chúng ta lo cho nó quá chừng rồi, sợ nó chết đi uổng! Đó cho nên nó muốn cái gì, rồi nó muốn ăn cái gì đó chúng ta đem cho nó ăn, sợ nó ốm, ăn cái gì mà coi bộ không cái bổ thì sợ nó mất sức!
(29:36) Chúng ta thương cái thân quá độ, chấp cái thân của chúng ta quá lớn. Cho nên khi mà chúng ta tu cái Định Vô Lậu, đặt cái niệm Định Vô Lậu ngay trên chỗ mà nhân tướng nội, nhân tướng ngoại rồi nhân tướng nội ngoại này mà chúng ta quán xét, thì chúng ta không còn chấp cái thân là cái ngã nữa.
Mà cũng không thấy cái thân là của mình nữa. Nó là của ai đâu á, nó ở xứ nào đâu á, nó do một cái nhân quả nó kết hợp lại, nó tạo thành cái nhân duyên hợp lại, gọi là cái thân là của mình, chớ sự thật ra nó không phải là của mình gì hết.
Cho nên vì cái chỗ tu tập Vô Lậu mình mới thấu suốt được, do cái chỗ mà trên Tứ Niệm Tứ này quán xét được, nhờ cái Định Vô Lậu mà quán xét, nó làm cho mình thấy nó rõ ràng cụ thể, nó không còn mờ mịt mà chấp cái thân này là của mình, chấp cái thân này là cái ngã của mình, mình không còn chấp nữa, mình mới thấy là đúng.
(30:25) Bây giờ về cái phần thứ tư thì trên thân quán thân tu về hành tướng, hồi nãy là nhân tướng, bây giờ về hành tướng. Vậy thì về cái hành tướng của nó, thì nó có những cái hành tướng nội và hành tướng ngoại, và hành tướng nội ngoại.
Về hành tướng ngoại là cái động dụng cái thân mình đi tới, đi lui, mang y, mặc bát đó, là hành tướng ngoại. Làm công việc này, làm công việc kia, là hành tướng ngoại.
Vậy thì cái hành tướng ngoại này, trên thân quán thân tu về hành tướng ngoại này là cái định gì? Bởi vì nhiều khi cái hành động này nó đem đến cho chúng ta những cái nhân quả ác nè, những nhân quả thiện nè.
Mà hành động này phải tập cái định gì để cho nó tỉnh thức nè, không có làm những điều ác nè, cho nên nó dứt được cái thân hành này, nó làm cho cái thân của chúng ta thanh tịnh, nó không có ác pháp ở trên đó, cho nên chúng ta tu cái định gì?
Cái định Chánh Niệm Tỉnh Giác. Nó theo dõi từng cái hành động nó. Hành động nó bây giờ, nó đi nó đạp chết một con kiến, à chúng ta biết đây là cái hành động sai, không đúng, hành động ngoại này là có ác, vô ý. Từ đây về sau có ý không được đạp chết côn trùng nữa, đó là hành động không từ bi, không biết thương sự đau khổ, sự chết chóc của chúng sanh.
Cho nên từ đó chúng ta có những cái ý tứ từng cái bước đi, từng cái hành động, làm chúng ta tỉnh thức ở trong mọi cái thiện pháp, mà không có để vô ý để mà xảy ra ác pháp, đó. Thì đó là hành tướng ngoại.
(31:49) Và bây giờ về cái hành tướng nội thì tu cái định gì? Hành tướng nội, thì hơi thở thở ra, thở vô, đó là cái động dụng bên trong thân của chúng ta mà, do vì vậy mà chúng ta biết đó là Định Niệm Hơi Thở. Phải không. Thì ở ngoài thì Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, trong thì hành tướng nội, thì nó là Định Niệm Hơi Thở.
Mà như là mình hồi nãy là mình đã áp dụng cho cái Tứ Chánh Cần, từ cái Định Vô Lậu là trên thân quán thân tu về nhân tướng, nó là Định Vô Lậu để đoạn dứt các ác pháp.
Rồi từ bây giờ mình mới tiến tới là hành tướng ngoại, hành tướng nội, thì rõ ràng là cái định Chánh Niệm Tỉnh Giác và cái Định Niệm Hơi Thở, làm cho chúng ta ngăn chặn không có cho các ác pháp sanh khởi. Thấy rõ ràng chưa.
Rồi bây giờ hành tướng nội và hành tướng ngoại, chúng ta kết hợp luôn cả hai cái hành động này để trở thành một sức tỉnh thức vô cùng, làm chúng ta đạt được cái kết quả cụ thể cho cái sức tỉnh thức.
Đó thì chúng ta thấy, trên những cái phần mà đơn sơ, Thầy ở đây chưa có giải thích cho nó cụ thể ra, nhưng mà phải nói tóm lược, khái lược để chúng ta thấy được cái phần mà chúng ta tu tập từng phần, từng phần đó. Mà mỗi cái phần nó đều có một cái định nó xác định ở trên đó.
Mà nãy giờ chúng ta chỉ nói về trên thân quán thân, chớ chưa có nói về trên thọ quán thọ, rồi trên tâm quán tâm, rồi trên pháp quán pháp, thì thử hỏi bây giờ mỗi cái như vậy, nó bao nhiêu cái chuyện mà chúng ta phải nói ở đây? Chúng ta phải viết ở đây, biết bao nhiêu giấy mà để viết, biết bao nhiêu điều để nói đây?
(33:23) Bây giờ trên hành tướng nội và ngoại xong rồi, thì bắt đầu bây giờ trên thân quán thân tu về đặc tướng cũng trên cái thân này, quán cái thân tu về đặc tướng.
Vậy thi bây giờ chúng ta nhiếp thở hơi thở, mà chúng ta tu về Định Niệm Hơi Thở, mà chúng ta thấy sao mình hít thở như vậy nó mệt quá đi, như vậy là cái đặc tướng của mình nó không được, mình phải thay đổi ngay liền.
Mình thay đổi thì nó nghe nó an lạc, à như vậy là cái hơi thở mình phải thở như vậy nó mới được. Tức là mình thở dài quá nó mệt, hay hoặc là mình thở ngắn quá nghe nó tức tối quá, nó làm cho mình khổ sở.
Cho nên ngay cái đạo Phật thì phải có sự giải thoát hoàn toàn mà không có sự giải thoát tức là mình đã tu sai. Cho nên dựa theo cái đặc tướng này mà biết chúng ta áp dụng trong Phật pháp sai hay là đúng.
Ngồi lại thiền tu, đi kinh hành tu mà chúng ta thấy có sự an lạc giải thoát thì đúng pháp, mà không có sự an lạc giải thoát mà ngồi lại đau nhức khổ sở, thì tức là tu sai, chúng ta tu sai. Bởi vì cái phần thân của chúng ta nó ngồi kiết già mà nó đau nhức, nó sai nó làm chúng ta bị lệch lạc nè.
Rồi về cái tâm nó cũng vậy, nó có những cái sai của nó. Mà chúng ta sai là nó sẽ có những cái rối loạn nó làm cho chúng ta khó chịu, làm chúng ta khổ sở, nó không có sự giải thoát, không có sự an lành, thì tức là chúng ta đã tu sai. Cho nên dựa trên cái thân, trên thân quán thân tu về đặc tướng thì chúng ta phải rõ.
(34:52) Bây giờ về chương ba. Chương ba thì trên thọ quán thọ tu về nhân tướng của thọ. Cho nên cái nhân tướng là cái tướng của thọ. Cái thọ có tướng chớ đâu phải không tướng. Cho nên cái tướng của nó như thế nào?
Thì như vậy là chúng ta sẽ nói lên cái tướng của nó, để cho quý thầy biết cái tướng của nó, thì cái đó là nhân tướng nội rồi nhân tướng ngoại của cái thọ.
Bởi vì nói, trong đạo Phật có nói nhân tướng, đặc tướng và hành tướng thì cái thọ nó có hành, nó có nhân tướng của nó, nó có hành tướng của nó, rồi nó có đặc tướng của nó chớ, đâu có phải riêng.
Cho nên trong cái bước đường mà tu về cái thọ, trên thân mà quán thọ tu về nhân tướng của nó, thì chúng ta tu cái định gì? Vậy thì trong khi mà chúng ta tu về nhân tướng của cái thọ thì chúng ta phải tu cái định nào mà để mà phá cái thọ đây?
Đâu có phải mà chúng ta tu cái định Chánh Niệm Tỉnh Giác, đâu có phải tu cái Định Vô Lậu được, mà chúng ta phải tu Tam Thiền. Chúng ta phải đặt cái Tam Thiền ở trên cái thọ để mà chúng ta tu, bởi vì nơi Tam Thiền chúng ta mới xả thọ được chớ.
Mà tiến tới để mà xả cái thọ, thì tức là chúng ta phải ly tất cả các cái trạng thái hỷ tưởng. Cho nên khi mà ly tất cả trạng thái hỷ tưởng, thì chúng ta ly nó được xong thì chúng ta mới nhập Tam Thiền, từ đó chúng ta mới tu ở trên cái thọ. Nghĩa là trên bước đường mà chúng ta đạt được cái trạng thái của Tam Thiền, thì bắt đầu từ đó chúng ta mới xả được cái thọ.
Mà xả được cái thọ thì từ cái nhân tướng của thọ, nhân tướng nội, nhân tướng ngoại, rồi nhân tướng nội ngoại của thọ, thường thường là lúc này nó sẽ đánh chúng ta rất nhiều, nó cản đường không cho chúng ta nhập. Từ cái đoạn đường của Tam Thiền đi đến Tứ Thiền, thì cái đoạn đường này chúng ta sẽ bị cái thọ đánh chúng ta rất lớn.
(36:53) Cho nên chúng ta phải đặt ngay từ ở trên đó là những cái thiền định nào? Thì bây giờ phải đặt nó là từ Tam Thiền cho đến Tứ Thiền. Thì cái quãng đường mà Tam Thiền, Tứ Thiền này là chúng ta tu về cái tướng nội và tướng ngoại. Chớ đâu có phải đặt cái Chánh Niệm Tỉnh Giác ở chỗ này được.
Cho nên nếu mà không xác định được cái này thì đương nhiên chúng ta chưa nói trên thọ quán thọ để khắc phục tham ưu. Bây giờ nó đau quá chúng tôi phải khổ sở chớ, phải ưu phiền chớ, làm sao mà cho nó hết được cái ưu phiền được? Nó nhức quá rồi, chúng tôi phải khổ sở rồi. Thế cho nên tham ưu, chúng tôi phải ưu phiền rồi, chớ làm sao mà chúng tôi hết ưu phiền được.
Cho nên vì vậy mà chúng ta phải làm sao khắc phục được cái thọ này? Thì do đó cái nhân tướng của nó, phải khắc phục được cái nhân tướng của thọ nè, cái ngoại tướng của thọ nè, cái nội ngoại của cái tướng của thọ.
Chúng ta phải tu tập từ cái Tam Thiền đến Tứ Thiền để chúng ta phá cho sạch cái thọ, cho nên chúng ta làm chủ cái cảm giác đau đớn. Cho nên Thầy nói ở Tứ Thiền, cái trạng thái vắng lặng mà đạt được, thì từng đó chúng ta mới có thể phá được cái thọ, mới làm chủ được cái bệnh.
Đó như vậy là các thầy cũng đã biết được, hôm nay chúng ta đứng trên Tứ Niệm Xứ trên thân quán thân, chúng ta phải tu tất cả những định gì? Chánh Niệm Tỉnh Giác Định nè, Định Vô Lậu nè, phải không, cái Định Niệm Hơi Thở nè. Nhưng mà trên thọ quán thọ còn tu cái đó nữa không? Lại tu từ Tam Thiền đến Tứ Thiền.
Đó thì, mỗi một cái trong bốn cái trụ xứ này, mà chúng ta phải đặt cái pháp đúng, thì chúng ta mới giải quyết được nó.
Chớ còn nếu mà không đặt đúng cái pháp, như bây giờ trên thọ quán thọ mà đem Tịnh Độ lên đó mà ngồi mà niệm Phật, thì thử hỏi làm sao mà đạt được cái kết quả này? Mà trên thọ mà muốn diệt cái thọ này không còn làm chủ, mà đem ông Phật Tánh ngồi lên trên này, thì thử hỏi ở đây thì làm sao mà dẹp được cái thọ? Nó làm sao đúng cái chỗ nó!
Cũng như thầy nói bây giờ mình đem nước, xà bông với cái bàn chải để mình rửa cái sàn nhà này, mà mình lấy tấm thảm mình trải lên thì làm sao cái sàn nhà này sạch? Cái ví dụ để cho chúng ta thấy rõ.
Cho nên trên nhân tướng, chúng ta tu cái nhân tướng rồi thì bây giờ chúng ta phải tu cái hành tướng, hành tướng của thọ.
Hành tướng của thọ rõ ràng là, từ cái chỗ chân này, nó nhức nó kéo tới cái đầu của mình, rồi từ cái đầu này nó đau nó kéo xuống cái chân, nó chạy bên đây, nó đau nó nhói bên kia. Thì đó cái hành tướng nó chạy qua chạy lại. Có khi nó đau chỗ này, có khi đau chỗ khác, có khi đau cái phổi, có khi đau cái gan, khi đau cái ruột, nó đau tùm lum đủ thứ hết.
Đó là những cái thọ mà cái hành tướng là cái chỗ nó đang di chuyển từ cái bệnh này, cũng chẳng hạn bây giờ như chúng ta đau gan nè, chúng ta đi uống thuốc, hết đau gan, nó về đau tim, thế bây giờ uống thuốc tim, nó hết đau tim cái nó nhảy qua nó đau bàng quang, ruột của chúng ta. Nó đau cái này nó đau cái kia, nó không bao giờ dừng cái thọ, cái tướng mà nó đi, nó từ cái chỗ này nó đi đến cái chỗ khác, nó di chuyển như vậy.
(39:57) Như vậy là chúng ta phải biết cái hành tướng của nó để mà chúng ta chặn đứng tất cả những bệnh trạng, cái thọ của nó, nó không có đi tầm bậy nữa.
Cho nên vì vậy đó, khi mà nó nhảy đi đến cái chỗ này, bây giờ chúng ta ngồi đây nè, nó đau hai cái chân nè. Đó, bây giờ chúng ta tập trung, nó căng cái đầu nè. Thì bây giờ muốn cho cái chân nó đừng đau nè, cái đầu nó đừng nhức nè, thì chúng ta phải dùng những cái pháp, cái định như thế nào?
Và cái định đó nó phải ở trạng thái nào để mà chúng ta đẩy lùi tất cả những cái hành động của thọ, cho nên mới làm chủ được cái thọ chớ? Mà đặt đúng pháp thì chúng ta sẽ thành tựu được. Cho nên ở đây chúng ta đặt cái giai đoạn từ cái Tam Thiền cho đến cái giai đoạn đến Tứ Thiền để chúng ta phá thọ.
Đó thì cái tướng, hành tướng nội và hành tướng ngoại của thọ, đau bên ngoài rồi đau bên trong. Thí dụ như bây giờ ngoài da mình nó ngứa ngáy thì nó là hành tướng ngoại. Vậy thì hành tướng ngoại mình phải dùng cái pháp nào để làm cho cái hành tướng ngoại này, cái thọ hành tướng ngoại này nó sẽ dứt? Rồi cái hành tướng nội, nó phải làm sao cho dứt?
Tất cả những cái này là những cái mà luyện tập để làm chủ được cái đau khổ cái thọ của chúng ta. Rồi bây giờ trên cái thọ của chúng ta, chúng ta đâu có phải mà tu về nhân tướng và hành tướng nó như vậy là đủ, mà còn tu về cái đặc tướng của nó nữa.
Có người thì họ bịnh cái này cái nọ kia, nhưng mà có người lại không có cái bịnh đó, mà ta lại có mang cái bịnh đó. Nó có những cái bịnh đặc biệt, ngoài ra những cái thọ khác nó không giống nhau. Cho nên chúng ta gặp những cái trường hợp đó chúng ta phải dùng cái pháp để mà phá cái thọ đó luôn, chớ không có để.
(41:35) Đó là cái chương ba, nó nói về cái thọ. Bây giờ tới chương tư, trên tâm quán tâm tu về nhân tướng của tâm.
Vậy thì cái tâm của chúng ta nó nhiều cái tướng, cái tướng tâm của chúng ta, cái tướng nội, tướng ngoại, rồi tướng nội và ngoại nó kết hợp. Thì do đó chúng ta phải thực hiện trong cái nhân tướng, hành tướng và cái hành tướng nội và hành tướng ngoại của nó.
Từ cái nhân tướng cho đến những cái hành tướng, chúng ta đều phải hiểu cái tâm của mình như thế nào? Mà đặt về cái tu về cái nhân tướng của tâm này, để mà làm chủ cho nó, nhất là những cái hành tướng nội và hành tướng ngoại của cái tâm này, thì chúng ta sẽ tu, đặt cái thiền gì tu cái này?
Đó, chúng ta sẽ đặt cái thiền gì mà tu nó ở trên này? Bây giờ chúng ta phải đặt Nhị Thiền ở trên cái chỗ mà quán tâm. Bởi vì chỉ có Nhị Thiền nó mới dừng những cái tâm lăng xăng của chúng ta thôi, chớ còn ngoài cái Nhị Thiền này thì làm sao mà chúng ta đứt được cái tâm lăng xăng.
Cho nên chúng ta lấy Tam Thiền mà đặt cái chỗ này, thì Tam Thiền nó chỉ có cái nước là phá thọ, ly hỷ, trú xả, phá thọ thôi, chớ nó đâu có ở cái chỗ này mà nó tịnh chỉ Tầm Tứ đâu.
Cho nên cái nhân tướng nội, nhân tướng ngoại và nội ngoại của nó và hành tướng nội, hành tướng ngoại của cái tâm, thì nó chỉ nằm ở trên cái Nhị Thiền mà nó có những cái tướng này. Cho nên chúng ta phải đặt cái Nhị Thiền ở trên đó mà chúng ta thực hiện cái quán diệt tầm.
Đây là cái phần chương bốn, trên tâm quán tâm tu về nhân tướng, rồi hành tướng, rồi đặc tướng của nó. Đó. Thì như vậy là chúng ta sẽ thấy rằng trên cái bước đường mà tu tập, chúng ta biết đặt cái định nào ở trên cái chỗ đó để mà chúng ta tu.
Bây giờ chúng ta ly hỷ trú xả (ly dục ly ác pháp) chúng ta nhập cái Sơ Thiền rồi, tức là chúng ta tu tập Tứ Chánh Cần rồi, tức là lìa ác mà tăng trưởng thiện rồi. Bây giờ chúng ta mới tiếp tục tới cái định Nhị Thiền, thì tâm chúng ta coi vậy chớ nó đâu có nằm yên đâu, cho nên chúng ta phải tịnh chỉ Tầm Tứ.
Do tịnh chỉ Tầm Tứ đó thì chúng ta phải tu trên nhân tướng nó, nội tướng, rồi hành tướng nó, hành tướng nội, hành tướng ngoại nó, đó. Chúng ta phải biết được những cái động dụng của nó để rồi chúng ta tịnh chỉ nó.
Đó là cái phần thuộc về tâm. Mà sau này giải thích về những cái tâm của chúng ta, mỗi một cái niệm tâm nó khởi lên, nó đưa đến chúng ta có những cái đúng cái sai, rồi có những cái tưởng của nó nữa. Bởi vì thuộc về tâm thì nó nằm ở trong cái tưởng thức nữa, cho nên nó có nhiều cái tưởng của nó, cho nên gọi là vọng tưởng.
(44:36) Chương năm thì trên pháp quán pháp tu về nhân tướng các pháp. Nhân tướng ngoại nè, nhân tướng nội của các pháp nè, rồi nhân tướng nội ngoại nè. Rồi hành tướng nội, hành tướng ngoại, hành tướng nội ngoại. Rồi trên pháp, quán tu về đặc tướng của nó nữa.
Thì các pháp đây là nói về vạn hữu, tất cả mọi vật xung quanh chúng ta là các pháp, từ cái nhà, cái cửa, cái bàn cái ghế, cũng đều là các pháp. Mỗi một cái pháp mà nó làm cho tâm chúng ta không lìa ra được, thì nó đem lại nỗi đau khổ của chúng ta.
Cho nên cái này sẽ đặt pháp nào tu trên này đây? Định nào mà tu ở trên các pháp đây? Để cho nó lìa xa đây? Thì cái này, cái mà Tứ Niệm Xứ mà trên pháp quán pháp này, để mà cho làm chủ được các pháp này, thì chúng ta phải tu tập Tam Minh, lấy Tam Minh đặt trên này mà tu.
Chớ không phải lấy Tứ Thiền đâu. Bởi vì con đường từ Tam Thiền đến Tứ Thiền, nhập được Tứ Thiền thì chúng ta mới hoàn toàn điều khiển được cái thọ, đó là trên thọ quán thọ.
Còn bây giờ, ở trên pháp mà quán pháp, mà tu về các pháp để làm chủ các pháp, thì chỉ có một cái trí tuệ mới làm chủ các pháp, chớ không có cái thiền định nào mà làm chủ các pháp được hết.
Bởi vì pháp đó nó xâm chiếm mình, ngay đó là mình không có làm cho động tâm, dao động tâm mình, đều là do cái trí tuệ vô lậu, thì nó mới đạt được cái trên pháp mà quán pháp.
Cho nên nó đòi hỏi ở chúng ta phải đạt được cái sức định siêu việt, làm chủ được sự sống chết của thân chúng ta rồi, thì chừng đó chúng ta mới phát hiện được Tam Minh, mà Tam Minh chúng ta mới làm chủ được các pháp.
Cho nên chúng ta mới, từ đó chúng ta mới, khi mà chúng ta đạt được cái chỗ mà từ cái phá cái thọ, phá âm thanh, phá cái thọ, chúng ta nhập được cái Tứ Thiền rồi, thì bắt đầu từ chỗ Tứ Thiền đó, chúng ta mới đặt ở trên pháp mà tu các pháp, để làm chủ toàn bộ nó thì chúng ta phát ra.
Bởi vì các pháp nó có cái thời gian quá khứ của các pháp, và cái thời gian hiện tại của các pháp, và cái thời gian tương lai của các pháp. Cho nên lúc bầy giờ chúng ta đạt được Tam Minh thì cái thời gian nó sẽ bị cắt đứt, sẽ không còn có thời gian nữa.
Cho nên trong hiện tại chúng ta dùng pháp hướng…
(Xem tiếp ở Pháp hành 12)
HẾT BĂNG
PHÁP HÀNH 12 - TAM MINH: NĂNG LỰC LÀM CHỦ CÁC PHÁP
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Thời gian: 1998
(tiếp theo Pháp hành 11)
(0:00) Thân định trên tâm mà tâm định trên thân rồi, thân tâm nó thành ra một khối duy nhất của định rồi, thì bắt đầu hướng tâm, Thầy nhắc. “Bây giờ cái hộp này nè, bay lên!” Thầy chỉ ra lệnh như vậy.
Lần thứ nhất nó không bay, lần thứ hai không bay, lần thứ ba không bay, lần thứ tư nó bay lên, tức là cái đạo lực của Thầy nó đã truyền lệnh được nó bay lên. Nó có một sức mạnh vô hình nó đẩy cái này lên.
Bắt đầu Thầy thấy cái hộp này nhẹ, nó bay được, chưa chắc là cái ca này nặng hơn nó bay được. Thầy bảo, Thầy cũng ở nhập vào trong cái định đó, tức là cái định mà Thầy đã phá thọ rồi, nó không còn đau đớn, thân tâm của Thầy đều lặng an hết, thì Thầy mới hướng tâm Thầy nhắc: “Cái ca đựng nước này bay lên!”
Thầy chỉ ra lệnh như vậy thôi, thứ nhất nó không bay, nó nặng quá, nó không phải như cái hộp này. Bây giờ cái hộp này Thầy bảo nó bay liền đó, nó nhẹ hơn, nhưng mà cái này nó nặng, Thầy bảo chưa. Thầy bảo lần thứ nhất, lần thứ hai, lần thứ ba, cái ca nước này nó bay lên như thiệt.
Đó là chúng ta tu tập cái đạo lực để mà chúng ta thực hiện Tam Minh, để chúng ta làm chủ pháp. Như vậy là cái pháp này Thầy làm chủ không? Đó Thầy làm chủ, không làm chủ sao Thầy bảo nó bay nó bay? Như vậy thì rõ ràng là Thầy làm chủ pháp chớ.
Cái đồng hồ này Thầy bảo bay nó bay, Thầy bảo cái nhà này: “Bay lên, dời ra ngoài kia ở!”, thì cái nhà này tự nhiên nó bứng gốc, nó đi ra ngoài kia nó nằm, thì như vậy là Thầy làm chủ được pháp chớ.
Cho nên đức Phật nói, khi mà một cái người mà tu tập Tứ Như Ý Túc, thì cái tay của họ rờ mặt trăng, mặt trời chơi chớ không phải, nghĩa là họ ngồi đây họ rờ mặt trăng, mặt trời.
Thì trong cái quãng mà trên cái Bốn Niệm Xứ này để mà thực hiện các pháp, mà làm chủ được các pháp đó, thì các thầy thấy, từ cái thân, thọ, tâm, pháp mà chúng ta tập đặt tất cả các cái pháp ở trên đó để mà tu tập làm chủ chớ gì? Thì bây giờ tới trên các pháp để mà tập làm chủ các pháp thì cũng phải có một quá trình tu tập.
Cho nên chúng ta làm chủ nó là chúng ta phải sai nó phải nghe theo lệnh mình, “Cái bàn này bay!” là nó bay, phải không? Dù nó nặng bao nhiêu nó cũng phải bay hết, truyền lệnh là nó phải nghe thôi. Ở đây không phải thần thông, mà cái đạo lực của chúng ta làm chủ vũ trụ, mà một người tâm thanh tịnh mới làm được.
Còn bây giờ nghe nói Thầy nói như vậy, các thầy nói “Mong mình tu tập, để được mai mốt mình bảo bàn ghế nó bay lộn xộn ở trong nhà này chơi, nó bay qua bay lại coi chơi cho đẹp!” thì cái kiểu đó ngàn đời quý thầy cũng không làm sao mà làm được hết.
Trừ ra cái tâm của quý thầy không có ham muốn cái điều đó nữa thì nó mới được, còn ham muốn cái điều đó thì không bao giờ có, ham muốn cái thần thông nó không có đâu. Cho nên cái tâm này xả hết, xả hết, ly hết, lìa hết, đoạn hết, không còn tham muốn cái danh, cái lợi gì hết. Mà còn tham muốn thần thông, thì các thầy biết cái gì, cái danh, cái danh mình là người siêu việt.
Nhưng mà cái đạo lực của Phật, cái người mà tu mà làm chủ được sự sống chết, họ bảo cái hơi thở ngưng được thì cái chuyện này họ phải làm được.
Bây giờ mình bảo hơi thở mình không ngưng, thì mình làm sao mình bảo cái hộp này bay? Mình chưa làm chủ được cái thân của mình thì làm sao mình bay được? Mà làm chủ được cái thân, tức là làm chủ được một cái pháp, bởi vì cái thân của chúng ta cũng là một pháp trong vạn hữu mà.
(03:11) Đó thì như vậy là trên pháp quán pháp tu về nhân tướng, hành tướng của nó.
Hành tướng tức là chúng ta bảo vật này bay thì nó bay, cái hành của nó mà.
Còn nhân tướng như thế nào? Bây giờ có một mình Thầy ngồi đây chớ gì, Thầy bảo: “Cái thân này phải biến ra một cái thân nữa, ngồi đây cho hai người!”, thì nó ngồi đây có một thân nữa. Như vậy rõ ràng là về cái nhân tướng.
Cũng như bây giờ ở đây có cái bàn nè, Thầy bảo: “Cái tâm này phải biến ra một cái bàn nữa ở đây nè, y như vầy nè!”, thì nó làm ra một cái bàn để nằm đó. Thầy ngồi đây trơ trơ, Thầy thấy nó có hai cái bàn rõ ràng, mà hai cái bàn không biết ai làm mà đóng sao mà sẵn, Thầy nói ra là nó có để nằm đó, nó đem đặt đó liền tức khắc.
Thì như vậy là Thầy tu về cái nhân tướng của các pháp, làm chủ các pháp, sai khiến các pháp.
(04:05) Cho nên trong bốn Tứ Niệm Xứ các con thấy nó đủ hết các pháp của Phật ở trên này chứ đâu phải là chỉ có Bốn Niệm Xứ này để tu vào thiền định không đâu.
Cho nên người ta nói về cái Tứ Niệm Xứ người ta tưởng rằng mình tu Tứ Niệm Xứ để cho mình từ đó, từ cái bốn cái chỗ này mình mới được Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền, đâu phải! Mỗi cái nơi của nó phải đặt pháp gì tu, mà cái pháp đó nó sẽ mang được cái kết quả của nó.
Cho nên khi mà nó mang được kết quả của nó, thí dụ như tu về hành tướng, tu về trên thân quán thân tu về hành tướng, thì nó sẽ dứt các pháp ác, nó làm cho thân nó không còn ác pháp, bởi vì thân hành mà.
(04:40) Các thầy nghĩ, trong thân chúng ta nó có ba hành động, hành động của thân là hành động của cái thân, rồi hành động của cái khẩu, cái khẩu nó cũng nằm ở trong cái thân, hành động của cái ý, cái ý cũng ở trong cái thân của chúng ta.
Cho nên trong thân của chúng ta có ba hành động. Cho nên trên thân quán thân là chúng ta tu những cái hành động đó, là hành động dứt ác mà tăng trưởng thiện, những cái hành động đó nó phải thiện. Vì vậy là chúng ta đứng ở trên nhân quả để mà chúng ta thực hiện cái nhân, dứt cái nhân ác mà tăng trưởng cái nhân thiện, để tạo thành cái quả thiện.
Thì trên thân chúng ta phải tu những pháp đó, cho nên Chánh Niệm Tỉnh Giác nè, Định Vô Lậu nè, Định Niệm Hơi Thở nè, phải không? Trên cái thân.
Mà tới cái thọ thì chúng ta lại tu cái định khác rồi, nó không giống nhau chút nào hết. Mà tới cái tâm thì chúng ta lại tu cái định khác nữa rồi. Mà nói về các pháp, thì chúng ta tu cái gì?
Hồi nào tới giờ các thầy được nghe thuyết giảng rằng Tứ Niệm Xứ như vậy không? Có ai dám kết hợp Tứ Niệm Xứ ở trên pháp mà nói rằng cái pháp bay lên nó bay lên? Như vậy là Thầy ở trên các pháp mà Thầy điều khiển làm chủ, như vậy là Thầy bảo cái thân này chết sống thì Thầy làm chủ được rồi.
Cho nên trong Tứ Niệm Xứ nó gồm đủ vì nó thanh tịnh, vì nó đã rửa sạch, nó không còn ô nhiễm nữa, cho nên nó làm được những cái chuyện này. Cho nên “tịnh chỉ” chớ không phải là tịnh để mà chỉ tất cả những mặt, ngưng tất cả những cái điều kiện khác, làm tất cả những cái siêu việt khác.
Đó các thầy thấy. Nó vi diệu như vậy mà chúng ta không nỗ lực tu, chúng ta tiếc gì một cái nhà lầu, tiếc gì một chiếc xe hơi mà không dám bỏ, mà trong khi chúng ta chỉ thực hiện như vậy có gì đâu mà khó?
Từ cái chỗ dứt ác để tiến vào cái chỗ nhân quả, làm chủ được cái nhân quả thiện ác, để đi đến cái chỗ mà chúng ta điều khiển các pháp ở trong vũ trụ này. Muốn cái gì nó làm cái nấy, mà chỉ có cái tâm thanh tịnh mà thôi.
Tại sao chúng ta lại làm không được? Thanh tịnh là nó không giận, không hờn, không phiền não, không tham, không muốn, không gì hết, bỏ hết. Đời có gì mà chúng ta giữ nó được đâu?
Tới cuối cùng chúng ta bỏ thân này mà chúng ta vẫn còn, chúng ta đâu phải mất. Chúng ta còn gì? (06:48) Những gì mà chúng ta tu tập được thì nó còn chớ làm sao nó mất.
Đó, cho nên ở đây thì các thầy thấy từ cái chỗ mà trên pháp quán pháp tu về nhân tướng, hành tướng của nó và đặc tướng của nó, thì đều là chúng ta thực hiện thần thông, thực hiện những cái đạo lực của chúng, cho nên chúng ta điều khiển các pháp.
Đầu tiên thì chúng ta thấy rất rõ, nếu mình không làm chủ các pháp thì các pháp nó đến nó xâm chiếm làm cho tâm mình trở về với cái tâm phàm phu tục tử.
Cái thứ hai, mình sai khiến được các pháp, làm cho các pháp theo ý muốn của mình, cho nên từ đó mà Tứ Như Ý Túc, ý mình muốn sao nó làm như vậy. Cho nên bắt đầu từ đó thì Tam Minh chúng ta thực hiện, thì cái trí tuệ Tam Minh chúng ta hoàn tất được, thì các pháp trong thế gian này đối với chúng ta chỉ là một cái chuyện không có đáng kể đối với chúng ta nữa.
Đó như bây giờ, một cái người mà cái tâm không còn ham muốn cái gì hết, mà họ tu thực hiện được cái đạo lực của Phật như vậy rồi, họ đi vào trong rừng không có nhà cửa gì hết, thì họ chỉ cần bảo: “Tại khu rừng này nè, cái tâm phải biến ra một cái nhà có tiện nghi hẳn hòi, đèn điện nước đàng hoàng”, thì ngay đó giữa rừng nó hiện lên một cái nhà sạch sẽ, khang trang, màn mùng, chiếu giường đầy đủ hết.
Chúng ta vô đó mà ngủ thẳng cẳng. Nghĩa là có cửa cổng gác đóng ngoài đàng hoàng hẳn hoi, có hai thằng lính gác nữa, khỏi sợ ăn trộm ăn cướp, khỏi sợ cọp beo gì hết. Nghĩa là chúng ta nằm ngủ thẳng cẳng ở trong cái nhà.
Nhưng mà sáng hôm sau chúng ta bảo: “Cái tâm này, phải dỡ cái nhà dẹp đi!”, thì ngay đó cái nhà mất tiêu, còn cái khu rừng. Chúng ta ngủ trong rừng mà như là ngủ trong nhà, không phải sướng sao?
Chúng ta muốn cái gì nó được cái nấy, như vậy rõ ràng là cái quyền năng của chúng ta đã làm được những cái chuyện, chớ đâu phải chúng ta làm không được.
Nhưng mà ở đây chúng ta không phải là mục đích chúng ta để đạt được để làm chuyện huyền thoại, kêu là trò ảo thuật đó đâu, chúng ta không làm những chuyện đó. Nhưng mà chúng ta nói để mà chúng ta thấy cái năng lực của chúng ta muốn làm cái gì làm.
Bây giờ Thầy nói như thế này, trên cái nhân tướng của các pháp, thì thân của chúng ta là một pháp. Bây giờ chúng ta đã nhập ở trong cái định đó rồi thì thân của chúng ta như cái thây ma bất động rồi. Phải không.
(09:10) Chúng ta bảo như thế này nè, chúng ta ra lệnh: “Cái tâm này biến cái thân này làm một thân nữa!”, thì cái thân này nó biến ra một cái thân nữa nó ngồi đó, do cái tâm điều khiển nó ra làm cái thân này.
Còn bây giờ, cái thân này, cái tâm nó nói, bây giờ Thầy mới ra lệnh nè: “Cái thân này phải biến làm cái bàn!”, thì cái thân này, các thầy với mấy con không thấy cái thân này nữa, mà chỉ thấy có cái bàn. Cái tâm nó làm cho cái thân này mất tiêu, mà cái thân này nó trở thành cái bàn.
Cái đặc biệt của cái pháp tu nó như vậy. Cho nên trước khi mà chúng ta tu ở trên các pháp mà quán các pháp, để mà tu về cái Tứ Như Ý Túc, thì về cái Dục Như Ý Túc, chúng ta muốn cái gì thì chúng ta làm cái nấy.
Còn bây giờ, Thầy sai như thế này: “Cái tâm này, biến ra cái bàn!” thì cái tâm nó biến ra bàn, thì Thầy còn ngồi đây, Thầy ngồi Thầy coi cái bàn, thấy cái bàn, cái tâm nó biến ra cái bàn, chớ không phải là cái thân Thầy biến.
Mà Thầy bảo: “Cái tâm này biến cái thân này ra cái bàn!” Thì ngay đó cái thân Thầy mất tiêu, còn cái bàn, có cái bàn không. Bởi vì mình muốn gì thì nó làm theo cái nấy.
Còn muốn bảo nó: “Cái thân này biến ra một thân nữa!”, thì nó làm thêm một thân nữa. Mà cái thân này muốn biểu nó biến ra một thân, thì nó biến ra một thân, mà một thân này biến ra trăm thân, nó biến ra trăm thân.
Cho nên trong khi mà tu tập, thì chúng ta cứ dùng pháp hướng nhắc nó. Nó chưa biến thì nó phải biến, từ cái dễ cho đến cái khó. Giống như hồi nãy Thầy nói cái hộp này, bảo nó bay, nó không bay. Nhắc một lần không bay, hai lần không bay, ba lần nó bay lên, nó phải bay.
Bởi vì mình đã có sự sai khiến được các pháp trong khi mình rèn luyện tu tập. Bảo cái lỗ tai: “Quay vô, không cái được nghe âm thanh!”, bây giờ cái chuyện đó nó quay vô nó không nghe âm thanh, thì tức là mình đã có quyền lực rồi đó, có đạo lực rồi. Phải không.
Mình bảo hơi thở ngưng, nó ngưng, tức là nó đã nghe lời mình rồi đó, thì cái chuyện mà mình bảo cái này nó sẽ tiếp tục nó làm hết.
Bảo cái hộp này biến ra cái hộp nữa, nó biến y như thường. Chúng ta cầm hai cái hộp chúng ta không biết cái nào thiệt mà cái nào giả, cái nào là mới biến ra, cái nào cũng giống nhau hết trơn, cầm cái nào cũng y vậy, chúng ta chẳng biết cái nào thiệt cái nào giả.
Đó là những cái mà chúng ta sẽ thực hiện tu tập, nhưng không phải để biểu diễn làm cái trò đùa cho thiên hạ coi. Ở đây không phải, chúng ta nhằm mục đích để làm chủ sự sống chết của chúng ta, chấm dứt luân hồi, đó là cái chính. Cho nên ở đây chúng ta nỗ lực xả tâm, không nghĩ đến điều này.
(11:40) Nhưng mà khi mà tu đến đây rồi, chúng ta phải thực hiện. Không có người nào mà tu tới đây mà bỏ Tứ Như Ý Túc, bỏ Tam Minh. Nghĩa là nhập tới định Tứ Thiền rồi thì phải thực hiện tới. Dù là một năm, hai năm chúng ta cũng phải thực hiện cái này, chúng ta phải tu tập xong.
Đó thì Thầy nói như vậy, rõ ràng là trên Tứ Niệm Xứ để chúng ta xác định được bốn cái chỗ mà chúng ta thực hiện được những cái siêu việt của con người, được những cái sự làm chủ sanh tử của nó, bằng những cái pháp này.
(12:10) Đó thì hôm nay nói tóm lược lại cái bài Tứ Niệm Xứ, chớ chưa có giảng gì Tứ Niệm Xứ đâu, mà đây là chỉ tóm lược để thấy chúng ta đứng ở trên cái vị trí của Tứ Niệm Xứ mà thực hiện các pháp, các thiền định.
Nãy giờ các thấy thấy chúng ta mới có tu tập, chưa có nói đến cái định vô tướng, định bất động. Chúng ta chưa có đặt nó ở chỗ nào hết đâu. Nhưng mà sau này ở trên bốn cái chỗ này chúng ta sẽ đặt nó.
Chúng ta chỉ nói tóm lược để chúng ta biết rằng chúng ta đặt cái định nào ở trên rồi chúng ta tu. Kế đó những cái định gì, như cái định bất động tâm, như cái định bất động thân như thế nào? Lúc bấy giờ thân tâm chúng ta nó sẽ nằm ở chỗ nào?
Bây giờ cái thân nó ngồi thiền mà lúc lắc thì chúng ta phải tu cái định đó để cho cái thân không lúc lắc, nó bất động. Thì tất cả mười sáu cái loại định đều là chúng ta sẽ thực hiện ở trên Tứ Niệm Xứ này hết, không phải chỗ nào.
Cho nên Thầy nói các con bỏ cuộc đời đi tu theo Thầy, thật sự không có phí đâu. Nhưng mà tại các con chưa có hiểu được cái vi diệu, cái cao quý của Phật pháp. Người ta bỏ hết tất cả những cái thế gian này hết mà người ta nỗ lực người ta thực hiện Chánh Pháp của Phật, thì người ta thực hiện.
Bởi vì đây là pháp của Phật mà, Tứ Niệm Xứ là pháp Phật mà, Thầy có pháp nào đâu, Tứ Thánh Định của Phật mà, chớ Thầy có pháp nào đâu? Thầy là người được thừa kế, được tu tập nó mà thôi! Cho nên bây giờ Thầy dạy lại các con.
Mà hầu hết là các bậc Tôn túc Hòa thượng xưa nay chưa có triển khai ở trên cái Tứ Niệm Xứ này, cho nên người ta chưa có biết đem cái định ở trên cái chỗ này mà tu tập. Người ta chỉ thấy cái Tứ Niệm Xứ là cái pháp, ở đó mà tu tập cái đó thôi. Cho nên họ tu tập cái đó là họ tu tập làm sao? Họ không biết ở đó là cái định gì tu hết à.
Cũng như trên thân quán thân thì trong kinh Phật dạy như thế này: “Trên thân quán thân tu về nhân tướng để khắc phục tham ưu”, làm cho mình hết tham ưu thôi, mà không biết. Như vậy họ chưa biết ở cái lời nói đó là Phật đã xác định cái định gì, chưa biết đâu. Họ chưa có biết.
Cũng như Thầy nói, thí dụ như Thầy nói cái Định Diệt Tầm Giữ Tứ, thì trong khi đó chúng ta vừa hít thở biết hơi thở ra và biết hơi thở vô, rồi chúng ta biết cái hơi thở dài, hơi thở ngắn, thì ngay nói: “Tôi hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra” thì ngay đó người ta biết rằng cái người đó đang tu cái Định Diệt Tầm mà Giữ Tứ.
Còn mình nghe người ta nói “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”, thì đó là mình nói Định Niệm Hơi Thở, thì sai rồi! Nhưng cái Định Niệm Hơi Thở nó có cái tên là Định Diệt Tầm Giữ Tứ, mà trong khi phải sử dụng nó ở trong cái giai đoạn đó thì gọi là Định Diệt Tầm Giữ Tứ.
(14:39) Còn cái này người ta nói “Hít vô tôi biết hít vô, thở ra tôi biết thở ra”, thi luc bấy giờ nghe nói vậy nói đó là Định Niệm Hơi Thở, thì họ cũng nói đúng vậy, nhưng mà họ chưa biết đó là cái Định Diệt Tầm Giữ Tứ. Phải không.
Cho nên Thầy nói, nhiều khi một cái tên của nó vậy, chớ chúng ta phải biết được nhiều cái vị trí của nó, giải quyết được những cái gì? Cái Pháp đó nó giải quyết cho chúng ta thoát được cái gì? Cái mục đích của nó, cái pháp đó tu, nó đem đến cái kết quả cho cái việc gì chúng ta đang tu đó?
Cũng như bây giờ mình cầm một cái miếng giẻ, mình lau cái bàn, hay hoặc mình lau cái sàn này, mình lau cái cục gạch này, thì cái cục gạch này nó sẽ được sạch sẽ theo ý muốn mình như thế nào? Thì cái sự lau của mình đó, mình biết được mình lau đó nó sẽ sạch.
Như bây giờ nó có một cái vết bẩn với cái miếng gạch này, thì cái mục đích của Thầy là muốn xóa cho hết cái vết bẩn này, cho nên Thầy cầm cái miếng vải Thầy lau cho hết cái vết bẩn này, còn thì Thầy lau hoài, lau chừng nào hết thôi.
Mà nó hết tức là nó thanh tịnh. Thì cái mục đích của cái pháp đó nó làm cho chúng ta sạch cái vết bẩn đó, cho nên chúng ta nỗ lực thực hiện cho hết vết bẩn.
Cũng như bây giờ Tứ Chánh Cần nè, thì phải thực hiện cái Định Chánh Niệm Tỉnh Giác nè, cái Định Niệm Hơi Thở nè, Định Vô Lậu nè. Thi cái mục đích nó là phải làm cho hết các ác pháp, cho nên bây giờ ác pháp còn thì chúng ta phải tu tập hoài, chừng nào mà nó hết thì chúng ta mới thôi.
Cũng như Thầy lau cái miếng gạch có cái vết bẩn, mà cái vết bẩn nó sạch thì thôi, mà nó còn thì lau hoài, lau cho hết. Cái mục đích nó phải làm cho hết cái đó.
Cho nên cái định đó nó xác định cho chúng ta tu phải làm được cái đó. Cũng như cái định, tất cả các định mà tu về Tứ Như Ý Túc hay hoặc Tam Minh thì nó làm cho các pháp, phải làm chủ được các pháp, nó không xâm chiếm được tâm mình, tức là vô lậu, đoạn diệt lậu hoặc.
(16:28) Điều khiển nó theo ý muốn của mình, nó thể hiện qua những ý muốn của mình, thì nó phải thực hiện trong cái pháp đó, nó làm cho mình bảo cái gì cái vật đó phải nghe theo, thì đó là Tứ Như Ý Túc, đó là Tam Minh.
Thì như vậy là, rõ ràng là hôm nay trên Tứ Niệm Xứ thì quý thầy được học, được biết được cái vị trí mà chúng ta sẽ tu tập, làm chủ được từng cái phần đó.
Như đặt trên thân thì phải làm chủ về cái phần của thân, đặt trên tâm thì làm chủ được cái tâm, đặt trên thọ thì phải làm chủ được cái thọ, mà đặt trên các pháp thì phải làm chủ các pháp.
(17:10) Cho nên các pháp là nó rộng rãi, nó mênh mông, mà mình làm chủ được cái pháp này, cái hộp này biểu bay, thì cái bàn này phải bay, cái nhà này phải bay. Đó, nhưng do đó thì chúng ta muốn như thế nào được như thế nấy.
Thì cái nhà này, cái hộp này, cái bàn này bay được, thì thử hỏi cái thân Thầy ngồi kiết già, ngồi xếp chân như thế này, Thầy bảo nó bay lên hay không bay? Bay! Bởi vì cái thân Thầy cũng là một pháp như cái bàn, cái ghế, đâu có gì mà nó lại không bay?
Đó, thì trên cái bước đường tu tập của chúng ta, chúng ta phải thực hiện cho được những cái điều mà Phật đã dạy. Mà Phật dạy các thầy thấy, những cái định này quý thầy đã học hết rồi. Chỉ còn bây giờ các thầy nỗ lực tu cho đúng. Thầy nói ba tháng đến sáu tháng mà quý thầy nỗ lực, chắc chắn là quý thầy phải đạt được.
Quý thầy thấy nó tuyệt vời, Phật pháp hay quá! Chỉ có mình đem công mình nỗ lực, mà mình nỗ lực thực hiện được, thì nó sẽ đem đến những cái kết quả, vừa giải thoát của mình, không còn đau khổ của cuộc đời này nữa, vừa chấm dứt sinh tử, vừa làm chủ được bệnh, vừa làm chủ được cái sự sống chết, muốn chết hồi nào chết, muốn sống hồi nào sống.
Hạnh phúc vô cùng, không còn gì hạnh phúc bằng! Và điều khiển các pháp theo ý muốn của mình hết, muốn cái gì được cái nấy.
(18:24) Nhưng không phải là chúng ta làm trò hý luận, làm cái trò ảo thuật cho thiên hạ xem. Chúng ta không phải những người cầu danh, tầm thường, nhỏ mọn như vậy.
Chúng ta là những người không có ham danh, cho nên chúng ta không thể hiện những cái bậy bạ đó, những cái không đúng đó, cái ảo thuật đó. Chúng ta thực hiện được cái sự sống chết chúng ta là hạnh phúc cho chúng ta rồi.
Cho nên bây giờ chúng ta (không) làm người phàm phu tục tử như bao nhiêu người khác, ăn ngày một bữa, sống không thèm khát một cái gì khác hết. Ai cám dỗ gì chúng ta cũng không ham, ai đem tiền bạc cho chúng ta cũng không thích hết, ai đem danh lợi chúng ta cũng không màng hết, mọi mọi chúng ta đều tránh hết.
Chúng ta biết đời là khổ, mọi pháp đều là có sự cám dỗ trong đó, chúng ta tránh hết, không ham muốn gì hết. Đúng cái điều kiện để mà giúp ích bao nhiêu người lợi, thì cái thần thông này chúng ta dám thị hiện, mà không ích lợi chúng ta không thị hiện.
(19:18) Như Thầy đã nói cho các con thấy, Thầy ước ao có một ngày nào đó Hòa thượng chỉ cần mời Thầy về Tu viện Trúc Lâm. Nghĩa là thầy trò tâm tình nhau. Còn bây giờ mà Thầy về đó Thầy thăm, rồi Thầy làm cái điều này điều khác, thì người ta nói Thầy ngoại đạo, Thầy không bao giờ về.
Nhưng Hòa thượng có cái nhã ý muốn mời Thầy về đó, rồi thầy trò tâm tình, Thầy mới nói cái chuyện tu hành của Thầy, rồi Thầy mới thể hiện cho Hòa thượng thấy những cái điều đó. Nhưng mà chỉ có một mình Hòa thượng chớ còn nếu mà có năm ba chúng mà ngồi xem thì nhất định là hoàn toàn Thầy không làm.
Thầy (thưa) với Hòa thượng: “Bây giờ đó, trên cái bước đường tu tập con sẽ làm chủ được như vậy, vậy, con sẽ thể hiện cho Hòa thượng xem thấy cái chỗ tu tập của con như vậy.”
Thì từng đó Hòa thượng chấp nhận, thì bao nhiêu chúng mà theo Hòa thượng, thì được cái sự hướng dẫn của Thầy, thì Hòa thượng chọn, Thầy không có bao giờ mà Thầy cầu danh mà Thầy lộ tướng Thầy ra hướng dẫn họ đâu.
(20:14) Hòa thượng cái chọn số chúng của Hòa thượng như thế nào, người mà quyết tu, cho vào một góc. Thầy chỉ đến đó Thầy ở một thời gian với Hòa thượng năm tháng, mười tháng, một năm. Thầy đi tới lui Thầy chơi vậy thôi, chớ Thầy không thấy Thầy dạy ai hết, nhưng mà đôi mắt Thầy luôn luôn để ý những cái người mà Hòa thượng đã chọn.
Thầy cho những người đó phải sống đúng giới hạnh ly dục ly ác pháp hẳn hòi đàng hoàng. Thì Thầy nằm úp, Thầy chỉ ẩn mình mà Thầy hướng dẫn họ, để cuối cùng họ đạt được những cái điều kiện đạo đức của đạo Phật rõ ràng.
Còn bây giờ, khi không mà Thầy về đó Thầy làm chuyện đó, thì bậy, khoe khoang. Hòa thượng chỉ, thầy trò mới tình cảm nhau. “À, bây giờ Thông Lạc tu như thế nào, Thông Lạc trình lại cho thầy xem coi có đúng hay không, coi thầy tu tới chỗ nào, mà Thông Lạc tu tới chỗ nào?”
Thầy mới trình tất cả những cái này. Tâm tình, thầy trò nhau tâm tình, rồi chứng minh để trên con đường tu của mình, để cho thầy mình biết rằng đó là như vậy đó, để cho thầy mình có cái niềm tin, từng đó mới đem hết cái khả năng thầy trò hợp tác nhau để hướng dẫn người tu.
Chớ không khéo để lỡ bước người ta, uổng cuộc đời tu hành, mà đi tới đâu? Như nãy giờ Thầy nói, bây giờ ở trên tâm Thầy nè, chúng ta tu cái tâm nè, “biết vọng liền buông” nè. Buông đi, buông hết được có cái tâm, còn cái thân chúng ta không làm chủ, thì nó có lợi ích gì đâu?
Cho nên Thầy nói để cho thấy rằng, chúng ta tu nó không đúng bốn cái chỗ này thì nó không thể làm chủ toàn diện đâu. Bốn cái chỗ này mà Đức Phật đã xác định là Tứ Niệm Xứ, bốn cái nơi mà chúng ta phải tu tập, để làm chủ toàn bộ, làm chủ cả thân, tâm, tất cả mọi cái mà ở trên bốn cái chỗ này chúng ta làm chủ hết. Đó là con đường của đạo Phật nó chỉ định rất rõ ràng.
Chớ không phải chúng ta tu cái chuyện ngoài, mà tu ngay cả thân, tâm của chúng ta ở đây nè, trong thân của chúng ta đầy đủ. Đó thì chúng ta nỗ lực tu ngay chỗ đó gọi là Tứ Niệm Xứ.
(22:04) Bây giờ các con đã được học Tứ Niệm Xứ, từ lâu tới giờ nghe nói Tứ Niệm Xứ chớ chưa biết phải không? Hôm nay biết rõ rồi, biết được cái vị trí, biết được cái chỗ mà chúng ta tu tập.
Từ lâu chúng ta tu chớ chúng ta chưa biết tu cái gì, làm cái gì cho nó tốt đó, phải không? Các thầy cứ nghĩ rằng mình tu giải thoát sinh tử thôi, chớ chưa biết làm cái chỗ nào mà cho nó giải thoát sinh tử, phải chưa?
Bây giờ Thầy dạy Tứ Niệm Xứ mới biết cái được chỗ mà chúng ta làm chủ được giải thoát sinh tử rồi đó, hiểu rồi phải không? Hiểu rồi thì tới đây phải nỗ lực tu, tu sao cho mà vừa lòng Thầy, Thầy giảng Thầy mới không buồn.
Chớ tu mà Thầy giảng hết sức như vậy, Thầy nói quá rõ như vậy đó. Phật dạy hồi xưa, thì ngày đó các vị tỳ kheo trong thời đức Phật thì đã hiểu rồi. Nhưng mà từ khi Đức Phật tịch rồi, thì không còn ai giảng nữa, cho nên không ai hiểu được cái pháp này hết. Cho nên họ chỉ nói lớ quớ, lớ quớ vậy thôi chớ họ không biết đâu hết.
Bây giờ Thầy đã dạy rõ rồi, thì do đó các con phải nỗ lực tu. Tu gì? Thầy nói quá mệt mà các con tu không được là Thầy buồn khổ vô cùng.
Mà các con tu được, tức là Thầy nói có mệt, bây giờ cái thân của Thầy bây giờ có nát đi nữa Thầy cũng vui nữa. Bởi vì Thầy nói ra mà có người làm được thì Thầy sẽ chịu.
Cho nên các con ở bên nữ các con cũng phải ráng, ráng đền đáp ơn Thầy chớ. Thầy nói hết mình, từ lâu đến giờ Thầy chưa dám nói, Thầy không muốn nói. Mà bây giờ Thầy nói là tại vì Thầy thấy Thầy tuổi già rồi, nay mai Thầy sắp sửa đi rồi, Thầy thúc đẩy các con tu dữ lắm đó.
Mà nếu mà các con tu chơi chơi thì chắc chắn là Thầy đi mất rồi, chừng đó đừng có nói uổng quá Thầy không ở lại để mà dẫn dắt các con nữa.
Thầy biết chớ, Thầy biết cái tuổi thọ Thầy bao lâu Thầy biết chớ, Thầy không biết sao được. Mà Thầy không biết thì Thầy làm sao Thầy thúc hối mấy con, Thầy biết chớ! Mà sự thật ra thì đối với cái thân của Thầy, Thầy có thể kéo thêm tuổi thọ Thầy thêm được, nhưng mà kéo thêm làm gì cho nó khổ mấy con?
Nếu mà mấy con không nỗ lực tu thì Thầy kéo thêm làm gì, ở đây mà cứ nuôi cơm mấy con hoài? Lẽ ra mấy con lớn rồi phải mần nuôi cha nuôi mẹ, chớ sao lại để cha mẹ mần nuôi con hoài? Cho nên các con phải nỗ lực tu.
(24:06) Đó, Thầy nhắc nhở như vậy. Chớ Thầy biết cái tuổi của Thầy là tới đâu, Thầy biết trước. Bởi vì mình tu mà mình không biết thì mình tu làm gì? Nhưng ai hỏi Thầy, Thầy không biết gì hết, mà đối với mấy con Thầy nói vậy để các con biết.
Bởi vì Thầy lo lắng cái này, lo lắng cái kia, lo lắng cái nọ, là Thầy đã biết cái tuổi Thầy nó chỗ nào, chớ còn Thầy không biết Thầy lo đâu. Thầy nói ờ mình còn sống năm, mười năm nữa chớ gì! Thầy không phải là kẻ mờ mịt đâu!
Thầy biết bữa nào Thầy đi, ngày nào Thầy đi, tháng nào Thầy đi, năm nào Thầy đi, Thầy biết điều đó hết, cái nhân quả của Thầy nó tới đâu Thầy biết. Nhưng mà Thầy muốn sống thêm thì cái chuyện đó không phải là khó đối với Thầy.
Nhưng mà Thầy muốn các con phải thực hiện đúng với cái nhân quả, để rồi cái sự ra đi của Thầy nó cũng thanh thản. Nghĩa là Thầy làm xong cái nhiệm vụ với cái tuổi đời của mình, đã đúng với cái nhân quả, Mà sanh ra làm người, nó phải có nhân quả tới đó mà thôi, trả hết duyên nghiệp nó … (Không nghe rõ)
Còn bây giờ kéo thêm, tức là mình kéo thêm cho cái thân nó sống thêm, để mà trợ giúp các con để cho tu, cuối cùng thì các con lại dễ duôi. Các con lại nói Thầy chắc có lẽ là sống một kiếp, hai kiếp, ba kiếp, năm kiếp, mười kiếp nữa. Mình sáu bảy trăm tuổi, thì Thầy có thể ngàn tuổi cũng được, đâu có sao!
Cho nên các con tu hoài, tu cầm chừng, tu cầm chừng, thì tức là không cái tới đâu hết. Cho nên Thầy thấy được cái điều, mà Thầy biết, các con cũng phải nỗ lực thật sự.
Và hôm nay Thầy dạy Tứ Niệm Xứ. Tứ Niệm Xứ các con đã rõ rồi, Thầy cái chưa giảng vào chi tiết. Đây là mới là cái bảng tóm lược của Tứ Niệm Xứ, nhưng mà xác định được các định của nó, tu tập được pháp nào ở trên đó rồi. Các con thấy chưa, phải rõ không?
Các con biết đặt cái pháp nào tu cái chỗ, cái xứ nào. Cái nơi đó, cái chỗ đó tu, mà muốn tu cái chỗ đó thì phải cái pháp đó để tu, chớ cái pháp khác các con đặt tu không trúng đâu.
Cũng như bây giờ mình lấy cái bàn chải, cái thùng nước, mình chà cái cục gạch này cho sạch, mà mình không lấy, mình lại lấy chuyện khác, thì mình lấy cái nồi cơm mình đem mình đặt đó, thì nó còn dính lọ thêm chớ nó có làm sao sạch được. Nó trật đi.
Cho nên cái bốn chỗ này Thầy đã đặt cho các con biết được những cái pháp để mà các con tu tập. Mà các pháp đó thì có phải ngoài kinh sách của Phật không? Đâu có ngoài! Ông Phật đã xác định được điều đó mà. Cho nên bây giờ ở trên đó mà Thầy dạy các con tu thì cũng không có ngoài các pháp đó.
Bây giờ thì gần 5 giờ rồi, thôi Thầy nghỉ các con.
(26:28) Hôm nay Thầy dạy tiếp tục Tứ Niệm Xứ. Bởi vì hôm kia đó thì Thầy mới chỉ đọc cái bài tóm lược của Tứ Niệm Xứ, nhưng vì những cái câu hỏi của cô Diệu Quang mà Thầy chưa trả lời hết, thì đình lại để trả lời cái những câu hỏi của thầy Chơn Thành.
Cho nên cô Út thì có hỏi những cái câu hỏi như thế này, nhưng mà Thầy chưa có trả lời, nhưng mà có một câu nhằm thì nó vào ở trong cái bài học Tứ Chánh Cần.
Cái câu của cô Út hỏi: “Ý thức thanh tịnh có phải là Phật Tánh không thưa Thầy?” - Cái ý thức thanh tịnh có phải Phật Tánh không.
Bởi vì cô thường nghe nói “chẳng niệm thiện niệm ác”, thì trong lúc cái ý thức của chúng ta đang biết cái không có niệm thiện niệm ác, đó là cái lối của Thiền Tông đó, thì cho nên cái ý thức mà thanh tịnh đó có phải là Phật Tánh không?
Hầu hết là bên Thiền Tông người ta nói “chẳng niệm thiện niệm ác”, thì cái đó là cái ý thức thanh tịnh, cho nên cô hiểu ngay được chỗ đó cô hỏi.
Thầy thì cũng không có nghĩ đến cái điều này, nhưng mà cô lại hiểu rằng cái ý thức mình không có phân biệt, không có nghĩ thiện nghĩ ác, thì cái đó nó có phải là Phật Tánh đúng vậy không, hay là nó chỉ mới cái ý thức của chúng ta thanh tịnh thôi? Ý cô hỏi như vậy đó.
Cá câu kế thì cô hỏi: “Thế nào là sự sai khác giữa trí tuệ và thức?”
Cô Út cổ cũng hay có cái sự suy tư, cỏ hỏi Thầy: cái trí tuệ là cái sự hiểu biết cái này, cái nọ, cái kia, hay hoặc là người ta nói ra cái mình hiểu liền đó, thì có trí tuệ. Nhưng mà cái thức nó cũng nằm ở trong cái chỗ đó. Đó thì các con với các thầy phải suy ngẫm lại cái chỗ mà cô Út hỏi cái chỗ đó.
Thầy sẽ trả lời, các con sẽ thấy trí tuệ với cái thức có khác nhau không.
Cho nên cô hỏi trí tuệ với cái thức nó có khác nhau không, đó. Chớ không khéo thì chúng ta, trong cái trí tuệ hiểu biết chúng ta muốn nói cái này kia, thì nó có cái thức chớ, biết nó mới nói chớ không biết làm sao chúng ta nói?
Như vậy là cái thức với cái trí tuệ này, nó một hay là nó hai, hay hoặc là nó, hai cái nó hợp chung nhau lại để nó hiểu biết cái này, cái kia? Đó là cái ý của cô Út hỏi.
(28:53) Rồi cổ hỏi kế nữa: “Thế nào là vô minh, mà thế nào là minh? Vô minh như thế nào?”
Cô giải thích thêm cái chỗ này để cô hỏi cho rõ ràng: “Vô minh có phải là không hiểu gì hết, nghe ai nói gì mình cũng không biết hết, thì cái đó có phải là vô minh không? Còn minh có phải là hiểu biết mọi thứ, cái gì mình cũng biết hết, thì cái đó gọi là minh?”
Cô hỏi cái đó phải cái đó là minh hay không, hay là minh như thế nào, mà vô minh như thế nào?
Đó là những cái. Cô hỏi câu kế nữa: “Trí tuệ có nghĩa như thế nào?”- Cái trí tuệ mình có nghĩa như thế nào? Hồi nãy thì cô hỏi “Thế nào là sự sai khác giữa trí tuệ và thức?”, bây giờ cô hỏi riêng: “Trí tuệ có nghĩa là như thế nào?”
Đó thì coi như là cô Út cổ cũng sâu sắc lắm, cổ cũng hỏi những cái hỏi mà nếu mà một cái người thầy mà lơ mơ thì chắc chắn là cũng khó trả lời.
Ngay cả cái chỗ câu hỏi mà cổ hỏi ý thức thanh tịnh, Thầy giật mình Thầy nói, đâu có ngờ từ lâu tới giờ, người ta đâu có nghĩ rằng cái chỗ mà “chẳng niệm thiện niệm ác” là ý thức thanh tịnh, chớ đâu phải là cái Phật Tánh, đâu phải là cái tâm thức của chúng ta đâu. Nó mới có ý thức thanh tịnh thôi.
Rồi tưởng thức nó cũng chưa thanh tịnh, cho nên nó còn mộng tưởng. Rồi ý thức của chúng ta nó chưa thanh tịnh, cho nên nó mới nghĩ niệm thiện niệm ác, nó mới ham muốn cái này cái kia. Mà bây giờ nó thanh tịnh tức là nó không ham muốn nữa.
Đó thì nó có cái chỗ mà để Thầy sẽ trả lời với các con.
Cô còn hỏi câu kế nữa: “Tu tập như thế nào mà Chánh Tri Kiến sanh khởi?”
Nghĩa là từ lâu tới giờ mình cứ mình cũng hiểu biết cái này kia, mình cũng thấy cái đúng cái sai, nhưng mà mình tu tập thế nào mà luôn luôn lúc nào nó cũng phải có cái Chánh Tri Kiến sanh khởi, chớ còn nếu mà không có Chánh Tri Kiến sanh khởi thì mình cứ giận hờn phiền não.
“Con dạy hoài mọi người mà con thấy như là cái Chánh Tri Kiến họ không có khởi ra được, cho nên họ không có giải thoát được tâm của mình.”
Đó là những câu hỏi cô hỏi mà Thầy chưa có trả lời, vì mắc trả lời cho Chơn Thành. Cho nên tiếp tục thì cô cũng sẽ hỏi những câu hỏi kế nữa, nghĩa là vấn đáp, vấn đạo, là làm cho chúng ta rõ được cái con đường mà chúng ta tu tập, nó càng rõ hơn nữa, còn nếu mà không có hỏi thì như chúng ta lờ mờ lắm.
(31:14) Cũng như khi mà nghe Thầy nói, mình tu Tứ Chánh Cần thì các pháp ác mình không cho sanh, rồi các pháp ác có sanh thì mình nỗ lực mình đoạn dứt trong ba cái loại định. Nhưng mà khi đoạn dứt như vậy thì cái tâm của mình lúc bấy giờ nó có giống ở chỗ cái ý thức thanh tịnh này không?
Hầu hết là các con sẽ nghĩ rằng cái tu Tứ Chánh Cần như vậy nó sẽ giống như Thiền Tông, nó làm như cái chỗ không niệm thiện niệm ác. Không, các thầy nên nghĩ rằng ở đây, ở Tứ Chánh Cần nói là pháp thiện và pháp ác, chớ không có nói niệm thiện, niệm ác.
(31:50) Nhưng mà bên Thiền Tông, khi mà Lục Tổ Huệ Năng ngài dạy cho Thượng tọa Minh, thì ngài nói: “Chẳng niệm thiện niệm ác thì bản lai diện mục của Thượng tọa hiện tiền”, phải không? Cho nên chẳng niệm thiện niệm ác.
Còn ở đây chúng ta, cái pháp ác chúng ta ngăn chặn, mà chúng ta nuôi dưỡng cái pháp thiện, cho nên khi mà chúng ta thấy cái Sơ Thiền mà Phật có nói rõ đó. Vì các pháp ác mà chúng ta ngăn chặn không cho sanh khởi, và đoạn dứt các pháp ác, thì các pháp ác chúng ta biết rằng tham, sân, si. Mà tham sân si nó không có, thì không có nghĩa là ở trong cái trạng thái như là chúng ta ức chế tâm không niệm thiện niệm ác.
Cho nên Phật nói: ly dục, ly ác pháp, do ly dục sanh hỷ lạc, do ly dục sanh hỷ lạc có Tầm có Tứ. Lúc bấy giờ cái người đó họ còn có sự suy tư, họ còn nghĩ, bởi vì họ nghĩ thiện họ cũng tốt chớ đâu phải không, ai cấm họ?
Thí dụ như bây giờ Thầy không có khởi tâm tham, sân, si hay hoặc là khởi tâm nói vọng ngữ hay hoặc cái này, cái kia ở trong đầu, Thầy không có nghĩ, thì đó là đang ở trong toàn thiện.
Nhưng mà bây giờ cái đầu của Thầy nghĩ, bây giờ mình thấy cái người đó, hay hoặc là một cái con vật đó đang bị, cũng như thí dụ như thấy một con chó nó tha con gà đi, thì chúng ta sợ con gà bị con chó nó giết chết đi, cho nên chúng ta khởi cái niệm là hãy cứu con gà đi, thì cái đó là thiện chớ có bắt buộc chúng ta không khởi cái niệm đó đâu, phải không?
Cũng như bây giờ chúng ta thấy một đứa bé nó đi qua đường mà nó sợ, hay hoặc một bà già đi qua đường sợ xe cộ nhiều quá, chúng ta khởi niệm: “À bây giờ đưa cái bà già này qua bên lộ, đưa đứa trẻ này qua bên lộ.”
Hay hoặc là trong cái buổi tối rồi, có một người đi lỡ đường mà họ đến nhà mình họ xin tá túc đỡ, thì mình cũng khởi cái niệm: “À như vậy là mình xét coi cái người này tốt hay là người xấu, nếu mà người tốt thì mình giúp đỡ cho họ trú ngụ qua đêm.”
Đó thì như vậy là những cái niệm mà mình khởi như vậy có nghĩa là Tầm Tứ chớ, có Tầm có Tứ chớ. Cho nên ở đây ly dục ly ác pháp, do ly dục sanh hỷ lạc, nhập Sơ Thiền có Tầm có Tứ.
Cho nên một người mà nhập Sơ Thiền thì họ có năm cái điều kiện ở trong đầu họ. Nhập Sơ Thiền mà họ ly dục thì họ có năm cái điều kiện. Tầm Tứ họ có nè, nhất tâm họ có nè, chớ không phải là họ hết. Các ác pháp thì họ diệt hết, họ không có để trong tâm của họ những cái niệm mà làm cho họ đau khổ, làm cho họ thương ghét.
Thì như vậy rõ ràng là nó sai khác với cái “ý thức thanh tịnh” của Thiền Đông Độ.
(34:51) Đó thì cái câu hỏi mà của cô Diệu Quang hỏi cái chỗ này: “Ý thức thanh tịnh có phải là Phật Tánh không thưa Thầy?”
Đúng là tại người ta nhận cái ý thức thanh tịnh đó là Phật Tánh. Nhưng Đức Phật cũng đã xác định rằng cái ý thức mà thanh tịnh đó không phải là Phật Tánh, không có phải là Phật Tánh, mà Đức Phật nói rằng: Ý thức thanh tịnh nó sẽ đưa cái người đó đi vào cái chỗ Không Vô Biên Xứ, đây là một cái bài kinh.
Vì cô Út hỏi, mà Thầy thì sợ trả lời theo cái ý của mình, thì mọi người sẽ nghi rằng Thầy đặt điều. Nhưng mà đây là cái bài kinh của Phật, cho nên Thầy có nhớ Thầy đọc ở trong cái bài kinh đó, cái bài kinh đó gọi là “Đại Phương Quảng Kinh”, thì có một người cư sĩ hỏi Đức Phật, cái ý thức thanh tịnh nó như thế nào đó.
Thì vị cư sĩ đó hỏi: “Ý thức thanh tịnh không liên hệ với năm căn có thể đưa đến gì?” Năm căn là gì các thầy và các con biết không? Năm căn là như thế nào, bởi vì ý thức là có ý căn ở trong đó rồi, cho nên cái ý căn nó bỏ ra. (36:04) Nó có sáu cái căn, mà ở đây chúng ta tính năm căn, là nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý.
Nhãn là con mắt chúng ta nè, nhãn căn là cái con mắt, mà nhĩ căn là lỗ tai chúng ta. Căn là cái phần gốc của năm cái điều này, nó có năm cái: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, phải không, bỏ cái ý đi.
Thì khi mà chúng ta ngồi chúng ta chẳng niệm thiện niệm ác, thì cái ý thức của chúng ta bây giờ nó đang ở trong cái chỗ không niệm thiện niệm ác, tức là nó thanh tịnh.
Nó thanh tịnh không có liên hệ với năm căn, tức là nó nghe mà nó không phân biệt, cho nên ở bên Thiền Tông Độ nói không phân biệt, nói vô phân biệt.
Nó thấy mà nó không phân biệt, nó không nghĩ, nó không có khởi nghĩ rằng cái màu này màu xanh, màu đỏ, màu vàng. Nó thấy màu xanh, màu vàng thì màu xanh màu vàng cũng hay vậy chớ nó không có phân biệt. Nó nghe cái âm thanh đó trầm bổng thì nó cũng không phân biệt, mà nó có nghe thôi chớ nó không phân biệt.
Cho nên lúc bấy giờ, ở đây cái người cư sĩ này hỏi: “Ý thức thanh tịnh không liên hệ với năm căn, nó có thể đưa đi đến đâu, đưa đến cái chỗ nào?”
Thì Đức Phật trả lời: “Này hiền giả, ý thức thanh tịnh không liên hệ đến năm căn có thể đưa đến Hư Không Vô Biên Xứ”. Hư Không Vô Biên Xứ, đó là cái câu Đức Phật trả lời mà. Thầy nói rằng ý thức của cái người mà ý thức chẳng niệm thiện niệm ác, sẽ lần lượt họ sẽ đi vào những cái định tưởng, thì Hư Không Biên Xứ Tưởng.
Các con nghe Thầy nói, khi trước kia Thầy xác định như vậy, nhưng mà không đem cái bài kinh để xác định. Hôm nay đem cái bài kinh của Phật để xác định cho các con thấy rõ ràng là Thầy nói rằng: khi một người tu Thiền Đông Độ, thì họ do ức chế tâm họ mà diệt Tầm Tứ, cho nên ý thức họ nó không có vọng tưởng, nhưng mà họ sẽ rơi vào các định tưởng, Thầy chỉ nói vậy thôi.
Ở đây thì Đức Phật xác định cho biết là ý thức thanh tịnh không liên hệ với năm căn nữa, tức là vô phân biệt rồi, thì lúc bấy giờ nó sẽ đưa đi đến Hư Không Vô Biên Xứ, tức là Không Vô Biên Xứ đó. Mà hư không là vô biên, thì lúc bấy giờ nó có thể đưa đi đến chỗ nào nữa? Nó có thể đưa đi đến thức vô biên.
Cho nên Hòa thượng Thanh Từ, khi mà tu Hòa thượng thấy cái tâm mình nó phủ trùm đó, là Thức Vô Biên, cái biết nó phủ trùm đó, là Thức Vô Biên. Cho nên Hòa thượng lạc vào ở trong cái “Thức Vô Biên Xứ”.
Mà Thức Vô Biên Xứ thì tại vì nó có cái chữ “vô biên” cho nên nó sẽ đưa cái vị đó đi đến cái chỗ “Vô Sở Hữu Xứ”.
Mà “Vô Sở Hữu Xứ” thì họ ngỡ tưởng đó là cái chỗ “phản bổn hoàn nguyên” của họ đó, chỗ mà không có xứ sở, không có tên, không có tuổi, không có vật gì hết, hoàn toàn là không có một cái gì trong đó hết, thì đó là họ tưởng đó là cái chỗ “phản bổn hoàn nguyên” của họ.
Nhưng mà họ lạc vào ở trong ba cái xứ, ba cái định tưởng này, nếu mà họ tu đúng, họ rơi vào chỗ này. Còn nếu họ không tu đúng, thì từ cái chỗ Không Vô Biên Xứ này, họ đã tưởng mình đã phủ trùm nè, hay là Thức Vô Biên Xứ nè, họ đã tưởng mình đã phủ trùm rồi.
Từ đó họ bị các pháp tưởng, họ gặp các pháp tưởng, cho nên họ ở trong cái chỗ này loanh quanh mà họ không ra được. Đây là một cái bài kinh của Phật đã xác định được cái Thiền Đông Độ, nó đứng ở trong vị trí nó, ở chỗ ý thức thanh tịnh.
(39:34) Cho nên Lục Tổ Huệ Năng nói: “Chẳng niệm thiện niệm ác, bản lai diện mục hiện tiền”, tức là ý thức thanh tịnh chớ gì, nó chẳng có niệm thiện niệm ác. Mà bây giờ cái ý thức của chúng ta, chớ đâu phải là tâm thức của chúng ta.
Còn một cái người mà người ta nhập Tứ Thiền là cái ý thức người ta phải ngưng, và tưởng thức người ta ngưng, cho nên người ta hết mộng, do đó cái tâm thức người ta mới đánh thức dậy, cái Thức Thức nó mới đánh thức dậy. Vì vậy cái Thức Thức đó nó không phải là ý thức thanh tịnh nữa.
Đó thì hôm nay do cái câu hỏi của cô Út mà Thầy phải lật cái cuốn kinh mà trước đây Thầy đọc, hồi sáng này Thầy phải đi tìm cái câu để mà đáp cho nó đúng với cái lý của đạo Phật. Chớ còn Thầy nói nó chỉ rơi vào trong cái định tưởng thì cô Út hỏi Thầy, Thầy cũng nói rơi vào trong định tưởng thì cô Út không tin.
Cô nói: “Thầy nói vậy thì cũng chưa xác định lắm. Bởi vì cho nên Thiền Đông Độ con gặp khách mà họ hỏi, thì coi như họ tự đắc chỗ này lắm, còn nói rơi vào tưởng như Thầy thì họ cũng chưa tin Thầy đâu.”
Hôm nay thì rõ ràng là lời của Phật đã nói chớ không phải là Thầy nói. Nhưng mà cái chỗ tu và cái chỗ nói của Thầy qua kinh nghiệm của Thầy nó không sai với Phật. Đó là để rồi sau này Thầy trả lời rất nhiều những cái điều kiện mà cô Út hỏi Thầy, Thầy sẽ trả lời hết để làm sáng tỏ được cái con đường tu tập.
(40:59) Và cũng do cái chỗ hỏi này mà Thầy xác định cái Tứ Chánh Cần và cái chỗ “chẳng niệm thiện niệm ác” của Thiền Đông Độ, để thấy chỗ Tứ Chánh Cần nó khác cái chỗ mà, chúng ta tu Tứ Chánh Cần nó khác cái chỗ “niệm thiện niệm ác”.
Bởi vậy hồi nãy Thầy có xác định, cái Tứ Chánh Cần nó chỉ nói rằng pháp thiện và pháp ác, chớ không nói niệm thiện niệm ác, đó thì nó có khác. Bởi vì lấy trong thập ác và thập thiện, thì chúng ta cân ra thì chúng ta thấy, nếu thập ác có thì thập thiện nó không có, mà thập thiện có, thì thập ác không có, chớ không phải chúng ta giữ niệm thiện niệm ác.
Cho nên khi đó chúng ta ly dục ly ác pháp thì chúng ta có Tầm có Tứ, có Hỷ, có Lạc, cho nên nó có năm cái quả vị của cái trạng thái ly dục ly ác pháp, là có Tầm, có Tứ, có Hỷ, có Lạc, và có Nhất Tâm.
Nhất tâm là bây giờ các con thấy rõ ràng, bây giờ cái tâm của chúng ta đang ở trong một cái trạng thái không có một cái niệm nào hết, hoàn toàn duy nhất có một cái tâm của mình với cái trạng thái hỷ lạc của nó do ly dục sanh hỷ lạc. Đó là có cái nhất tâm.
(42:24) Nhưng mà trong cái nhất tâm đó nó có Tầm có Tứ. Khi nó khởi một niệm gì, là do cái niệm thương đối với chúng sanh, cái tâm từ của nó mà, nó còn ở trong Tứ Vô Lượng Tâm nữa. Cho nên cái niệm của nó không phải là gọi là cái niệm ác, giúp đỡ một cái người khác đang gặp cái tai nạn thì đâu có nghĩa rằng nói đó là niệm ác được.
Mà bên Thiền Tông thì khởi một cái niệm như vậy thì cái ý thức của họ không thanh tịnh, họ không cho có cái niệm nào xen vào đó. Cho nên họ “chăn trâu”, họ “giữ ông chủ”, hoặc là họ “tri vọng”, là có mục đích là không có niệm thiện niệm ác, nghĩa là toàn bộ không có niệm thiện niệm ác.
Còn ở đây chúng ta có niệm thiện được chớ đâu phải không. Cho nên trong bài “Song Tầm”, song tầm tức là hai cái niệm song song với nhau, thì Đức Phật dạy chúng ta nên diệt cái niệm ác, cái Tầm ác, chớ không phải là cái niệm.
Cái Tầm ác, còn cái Tầm đây nó không phải là cái niệm, mà cái Tầm là cái sự suy nghĩ của chúng ta, cái tư duy của chúng ta, gọi là Tầm. Còn cái diệt Tầm diệt Tứ thì diệt cả những cái niệm vọng tưởng của chúng ta luôn hết, cả Tầm Tứ cũng không cho khởi lên hết đó, thì không cho suy nghĩ hết đó, thì đó mới là Thiền Đông Độ.
Cho nên nó ức chế mà không cho một niệm nào, không cho khởi một niệm nào ra phân biệt cái này, cái nọ, cái kia. Còn ở đây chúng ta thấy cái sự đau khổ, chúng ta khởi cái niệm, thấy đau khổ chúng ta khởi cái niệm thiện chúng ta giúp đỡ.
Đó thì học về Tứ Chánh Cần mà không rõ thì chúng ta sẽ lầm nó là, coi như là tu theo Thiền Đông Độ, tức là chẳng niệm thiện niệm ác.
Còn ở đây phải biết phân biệt cho rõ, do cái chỗ biết phân biệt cho rõ đó, thì chúng ta mới thấy được cái đường tu của mình nó rõ ràng. Mà nếu nó không cái rõ ràng thì chúng ta sẽ lầm lạc, còn bây giờ nó rõ ràng rồi thì chúng ta không lầm lạc nữa, coi như chúng ta tu Tứ Chánh Cần không phải là tu chẳng niệm thiện niệm ác.
Thì rõ được như vậy thì chúng ta mới thấy rằng con đường chúng ta khác, không có giống cái con đường của Thiền Đông Độ. Còn nếu không thì chúng ta lầm cái pháp này nó cũng giống ở cái pháp Thiền Đông Độ, thì cái đó là cái hiểu sai.
(44:47) Cho nên Thầy, do cái câu hỏi này Thầy muốn làm sáng tỏ thêm cái phần mình tu Tứ Chánh Cần, để không có hiểu lầm lạc.
(44:57) Đó thì trong cái Tứ Chánh Cần mà hiểu được rõ như vậy, thì hàng ngày các con nỗ lực tu tập, thì các con sẽ lìa được năm cái chi, lìa xa được năm chi, năm chi đó gọi là ác pháp. Năm chi đó gọi là tham, sân, si, mạn, nghi.
Thì năm cái chi này mà lìa được thì chúng ta mới gọi là ly dục ly ác pháp. Mà ly dục ly ác pháp thì chúng ta có năm cái đức. Năm cái đức tức là năm cái quả, mà năm cái quả đó là Hỷ, Lạc, Tầm, Tứ và Nhất Tâm. Cái kia nó lìa ra năm cái, thì cái này nó đạt được năm cái quả của nó, thì mới thể hiện được một cái định Sơ Thiền của nó.
Đó thì chúng ta thấy đi vào đạo Phật thì chúng ta phải rõ, nếu một người mà chưa ly năm cái điều kiện là tham, sân, si, mạn, nghi. Mà chưa có lia nó được năm cái đó thì nó không bao giờ mà nó có năm cái đức của nó, năm cái quả của cái ly đó, cho nên năm quả đó là Tầm, Tứ, Hỷ, Lạc và Nhất Tâm.
Đó thì các con nhớ rất rõ. Bởi vì mình lìa cái này thì mình phải được cái này, còn mình lìa chưa được thì nó chưa được cái gì hết.
Đó cho nên cố gắng mà giữ được cái niệm thiện, luôn luôn sống ở trong thân và tâm của chúng ta mà đừng cho một cái niệm ác, dù ai nói nặng nói nhẹ như thế nào, đừng có khởi nghĩ đến cái ăn, cái uống, cái này, cái kia, đừng có nghĩ đến những cái nhà, cái cửa, hoặc là những cái tư riêng gì cả hết.
Bỏ hết, bỏ hết, để cho cái tham, sân, si của chúng ta nó đều lắng xuống hết, ác pháp nó đều đi hết, thì lúc bấy giờ chúng ta mới thấy được cái kết quả của sự giải thoát của Tứ Chánh Cần rất là rõ ràng và cụ thể.
Chúng ta có pháp tu mà, Tứ Chánh Cần chúng ta có pháp thiền…
HẾT BĂNG
PHÁP HÀNH 13 - CÁC PHÁP MÔN DẪN VÀO THẾ GIỚI TƯỞNG
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Thời gian: 1998
(Tiếp theo Pháp hành 12)
(0:00) Do câu hỏi này Thầy mới trở lại Tứ Chánh Cần để đình lại cái Tứ Niệm Xứ, để trả lời cho nó rõ ràng ở trong cái pháp Tứ Chánh Cần, để chúng ta biết tu Tứ Chánh Cần không có nghĩa là tu Thiền Đông Độ, không có nghĩa là “chẳng niệm thiện niệm ác”. chớ không khéo rồi nói chúng ta sẽ tu “niệm thiện niệm ác”.
Cho nên phân biệt được như vậy thì chúng ta thấy rõ rồi.
(00:27) Bây giờ thì trước khi mà tiếp tục học những chi tiết của Tứ Niệm Xứ, thì chúng ta sẽ nghe những câu hỏi vấn đạo, vì những cái vấn đạo này nó cũng có cái liên quan ở trong cái cuộc sống tu hành của chúng ta.
Cho nên trong cái năm nay là cái năm mà chúng ta học Giới Hành, mà cái vấn đạo nó làm sáng tỏ, tức là cái hỏi nó làm sáng tỏ cho cái con đường thực hành của chúng ta hơn, làm chúng ta hiểu từng những cái danh từ, từng những cái hành động tu tập, cái đúng, cái sai để từ đó chúng ta tu tập cho nó đúng, nó không có còn tu sai nữa.
Vì nhiều khi Thầy bận công việc, không có gần bên các con, thì trong khi sai, các con tu sai thì các con ôm lấy chịu, chờ Thầy về, hay hoặc là chờ gặp Thầy, thì lúc bấy giờ nó sẽ lạc rất xa, cái thời gian rất dài nó sẽ khó xả.
Cho nên hôm nay, trong cái phần vấn đạo thì cô Út đứng ở trong cái góc độ qua những bài giảng, tuy rằng cô không có dự nghe, nhưng mà mỗi lần giảng rồi thì về cô có trực tiếp đến hỏi Thầy, thì Thầy có tóm lược lại những cái ý trong cái buổi dạy đó như thế nào, để cho cô theo đó mà cô hỏi Thầy, để rút tỉa.
Qua những cái danh từ cũng như là những cái kinh nghiệm mà cô có hiểu biết được cái phần thực tập của mình, rồi cô rút tỉa ra cô hỏi Thầy, coi có đúng hay sai theo cái giáo lý của đạo Phật.
Cho nên năm nay trong năm nay mà chúng ta học về Giới Hành, nó rất là có giá trị. Mà hầu hết là có một số người rất là thiếu phước mà không được nghe những cái điều này, thì Thầy nghĩ rằng, một ngày nào đó thì những cái bài vấn đạo này nó cũng sẽ in thành sách, để nó chỉ cho rõ chúng ta hiểu biết con đường tu tập của chúng ta, đúng theo đạo Phật như thế nào.
(02:27) Bây giờ về phần vấn đạo thì thầy Chân Thành hỏi Thầy:
“Kính bạch Thầy, con dùng câu pháp hướng “Thân tâm như cục đất, phải ly dục ly bất thiện pháp, không còn tham, sân, si, không còn trộm cắp, không còn sát sanh, không còn dâm dục, không còn nói vọng ngữ, không còn nói lời phù phiếm, không nói lời hung ác, không nói lời lưỡng ngữ!” để tu tập Tứ Chánh Cần.
Ngoài giờ thời khóa đã qui định, trừ lúc ngủ còn thì lúc nào rỗi là con tu để nhắc tâm không phóng dật thay cho những câu pháp hướng khác. Câu pháp hướng này là chủ lực cho việc tu tập hằng ngày của con. Như vậy có được và đã đúng phương pháp tu chưa?”
Đó là thầy Chơn Thành, thầy đã lập một cái câu pháp hướng rất dài và gồm hết trong đó nó có những cái giới luật và nó cái những cái thiền định, cái Sơ Thiền đó, ly dục ly ác pháp đó, và còn có ba độc tham, sân, si nữa.
Cho nên do cái câu pháp hướng như vậy, thầy hỏi nghe thì nó rất là đầy đủ, rất là trọn vẹn dữ lắm đó, nhưng mà hỏi Thầy coi nó đúng chưa, hay hoặc là nó còn thừa, hay hoặc là nó thiếu cái nào để cho Thầy bổ túc thêm câu pháp hướng.
Vì như các con cũng đã biết rằng trong con đường tu của đạo Phật, cái pháp hướng nó có cái một quyền lực, nó có một cái đạo lực, nó có một cái oai lực, nó có một cái thần lực. Từ chỗ biến cái trí tuệ bén nhạy cho đến trở thành một cái đạo lực siêu việt, thì từ cái pháp hướng đó mà sanh ra, ngoài cái pháp hướng thì nó không có sanh ra.
(4:20) Nhưng mà đặt cái trạch pháp một cái pháp hướng, tức là chọn lựa một cái câu để trở thành pháp hướng, rất là khó, nó không đơn giản đâu. Cho nên coi vậy chớ trạch pháp đúng thì nó hiệu quả, mà trạch pháp không đúng trong cái trạng thái, cái vai trò của nó đang có phận sự để làm cái việc đó, mà mình đặt sai tên, sai tuổi của nó rồi, thì tức là nó không có hiệu quả đâu.
Cho nên ở đây thầy Chơn Thành đưa ra, nêu ra cái chỗ câu hỏi này có mục đích là nhắc nhở các con cũng như các thầy, khi đặt một cái pháp hướng thì phải có một sự chọn lựa rất kỹ.
Cho nên trong Thất Giác Chi, Phật nói Trạch Pháp Giác Chi đó, nếu không thì Đức Phật đâu có dạy là trạch pháp làm gì? Trạch pháp tức là phải chọn lựa rất kỹ, nó là một cái pháp giác chi, nó chỉ cho đó là cái Bồ Đề, mà Bồ Đề có nghĩa là giải thoát. Trạch một cái pháp đó ra để cho nó làm cho mình được giải thoát.
Thí dụ như “Tâm như cục đất, không còn tham, sân, si nữa!” thì có phải tâm mình như cục đất mà không còn tham sân si, thì nó giải thoát chớ?
Cho nên cái trạch pháp một cái câu pháp mà nó như vậy, gọi là Trạch Pháp Giác Chi. Một cái câu làm cho thân tâm mình được giải thoát, cho nên gọi là trạch pháp. Trạch pháp nghĩa là chọn lựa, mà chọn lựa rất là kỹ, mà chọn lựa trong cái câu pháp đó, để làm cho mình trở thành giải thoát, trở thành Bồ Đề đó, giác chi là Bồ Đề đó.
Cho nên cái câu pháp mà chọn lựa như vậy để làm cái pháp hướng, nó không phải mình đụng đâu mình cũng nói đại, hay hoặc là mình ghi đại, không phải đâu! Mình suy nghĩ kỹ coi cái tâm mình lúc bấy giờ nó như thế nào?
(06:01) Lúc bấy giờ nó đang sân nè, hay hoặc là đang vô minh nè, hay hoặc là đang tham muốn cái gì, hay hoặc là nó còn thích cái gì, thì mình đặt cái câu pháp hướng cho đúng cái tâm trạng của mình lúc bấy giờ, thì mình nhắc nó thì nó có hiệu quả.
Đó thì, phải hiểu được cái trạng thái tâm của mình thì trạch pháp nó mới tốt.
Đáp: “Trạch Pháp Giác Chi là tìm một câu hay chọn một câu pháp hướng cho đúng thời điểm.”
Đúng cái thời điểm, tức là cái thời điểm đó, cái tâm trạng mình cái gì đó, cái hoàn cảnh đó nó xảy đến cho mình, và cái tâm trạng của mình lúc bấy giờ nó đang ở trong cái tâm trạng gì?
Nó bình thường hay hoặc nó giận hờn, nó phiền não, nó đau khổ như thế nào đó, thì cái câu pháp hướng nó phải chọn rất kỹ để cho nó đúng cái thời điểm đó, và nó đúng cái tâm trạng đó, cái hoàn cảnh đó, thì mình hướng tâm mình nhắc thì nó hiệu quả.
“Nếu câu pháp hướng đó không có hiệu quả thì phải chọn câu pháp hướng khác tùy ở đặc tướng của mọi người.”
Mình đã đặt cái câu pháp hướng đó, nó đúng với cái tâm trạng, cái hoàn cảnh, cái thời điểm nó đúng, nhưng tại sao nó lại không có hiệu quả? Nó không có hiệu quả, cho nên mình mới xem lại cái khả năng của mình. Cái câu đó nó dài quá, nó làm cho mình lộn xộn, lúc nhớ lúc quên, thì tức là nó đã do cái đặc tướng mà mình không nhớ được. Do đó mình phải làm cho nó ngắn lại, để cho mình tiếp nhận nhanh và ra lệnh cho nó gọn, thì cái tâm mình nó chịu ra lệnh hơn là nó chịu nhắc nhở suông.
Cũng như có đứa trẻ thì nó chịu ngọt ngào, mà có đứa trẻ thì làm dữ nó mới nghe theo, còn có đứa thì khuyên lơn nó nó nghe theo liền.
Cho nên cái pháp hướng, thì chúng ta dùng để mà điều khiển cái thân của chúng ta, cái tâm của chúng ta, nó cũng như là chúng ta biết thiện xảo, hay là khéo léo để mà hướng dẫn, hay hoặc là dạy dỗ một đứa trẻ, hay hoặc là một con vật.
Thí dụ như, chúng ta biết cái tính của con voi hay con ngựa đó, cái tính nó như vậy, cái đặc tướng nó như vậy, cho nên mình dụ dỗ như vậy, mà mình không có nạt nộ nó. Còn mình biết cái đặc tướng của nó như vậy đó, thì mình nạt nộ hơn là dụ dỗ, tùy theo cái chỗ đặc tướng đó.
Cho nên ở đây chúng ta cũng phải quán xét được cái đặc tướng của chúng ta, từ đó cái câu pháp hướng chúng ta phải chọn phải đúng ở chỗ đặc tướng đó nữa.
“Câu pháp hướng trên của con…”
Đây là Thầy, bởi vì Chân Thành hỏi Thầy câu pháp hướng đó có đủ hay không đó, cho nên Thầy giải thích cái phần trạch pháp, trạch cái câu pháp hướng ra, để cho các con biết chung là các con phải chọn lấy cái câu cho đúng thời điểm, đúng tâm trạng, đúng hoàn cảnh, rồi còn tùy ở cái đặc tướng của mình nữa.
Còn bây giờ trả lời cho câu của Chân Thành:
“Câu pháp hướng của con trên đây, tuy đầy đủ nhưng lại thừa, thừa như thế nào?
Không còn trộm cắp, không còn sát sanh,…”
Nghĩa là bây giờ Chân Thành thì đâu có còn trộm cắp, không còn sát sanh nữa mà nói không còn trộm cắp, không còn sát sanh? Thì đó là thừa ở trong cái câu pháp hướng rồi. Bây giờ mình đâu có trộm cắp, đâu có sát sanh nữa. Thừa!
“Nếu con không nói vọng ngữ, không nói lời phù phiếm, không nói lời hung ác, không nói lời lật lọng, thì lại thừa thêm một phần nữa.”
Nếu mà những cái này mình không nói nữa, là lại thừa thêm. Mình thấy hiện bây giờ tâm trạng mình nó đã đạt được được những cái, nó đã ly được những cái pháp ác khác rồi, bây giờ nó còn những cái pháp ác nào?
(9:31) Thì trong khi cái tâm mình chưa xả được những cái đó đó, thì mình đặt cái pháp hướng ngay đó, nó gọn mà nó ngắn. Chớ không khéo nó dài luộm thuộm, mà những cái đó nó bằng thừa, là vì mình bây giờ không trộm cắp, không sát sanh, không tà dâm, không vọng ngữ nữa, mà giờ mình cũng nhắc nó nữa thì coi như nhắc nó hoài, nó cũng tức cái tâm nó, “Tui có làm vậy nữa đâu mà biểu tôi vậy hoài?”, thành ra nó cũng giận!
Thí dụ như một đứa bé nó nói, rầy nó đừng ăn vụng nữa, mà giờ nó hết ăn vụng rồi mà cứ rầy nó hoài, bảo đừng có ăn vụng nữa thì nó gây lại liền, nó nói: “Con có ăn vụng nữa đâu mà mẹ cứ nói con ăn vụng hoài, con đâu có lấy ăn vụng nữa?”
Đó là những cái, cho nên vì vậy cái pháp hướng nó cũng như vậy, cái tâm mình nó cũng như vậy, nó không phải đơn thuần.
Cho nên vì vậy đó, nếu mà xét qua cái câu pháp hướng này mà nó đúng, là tất cả những từ ở trên này con đều hoàn toàn là phải có như vậy hết thì con dùng nó thì đúng. Mà nếu có những cái con mà đã dứt được, có những cái con từ nhỏ chí lớn không có làm, mà bây giờ nhắc nó như vậy là sai!
Đó, thì đó cái pháp hướng đó dài dòng quá, mà nó lại không đúng với cái tâm trạng của mình, không đúng với cái trạng thái tâm mình.
Thì như vậy, một cái câu hỏi như vậy nó làm cho chúng ta sáng sủa hơn, để trên bước đường tu chúng ta chọn lấy những cái câu pháp hướng cho đúng để mà chúng ta nhắc tâm mình.
“Cho nên chọn một câu pháp hướng phải đúng tâm trạng mình ở trạng thái chưa xả ra được, chưa điều khiển được, chưa chủ động được. “
Nghĩa là bây giờ sân mình còn sân nè, thì đó là mình phải đặt cái pháp hướng cho có xả cái sân. Bây giờ tâm mình còn ham muốn cái gì đó, nó còn tham nè, cho nên mình đặt cái câu pháp hướng phải có cái từ “tham” ở trong đó cho nó xả cái tham ra, đó như vậy thì nó mới đúng được cái câu pháp hướng.
Thầy nhắc lại, cho nên chọn một câu pháp hướng phải đúng tâm trạng mình ở trạng thái chưa xả. Chớ xả rồi thôi đừng cái nhắc nữa, mà chưa xả thì nhắc.
Cũng như bây giờ Thầy điều khiển, Thầy bảo: “Cái hơi thở tịnh chỉ đi, nhập Tứ Thiền!” thì bắt đầu cái hơi thở Thầy nghe lời tịnh chỉ, mà Thầy cứ nhắc nó hoài vậy nó ghét Thầy lắm! Cho nên nó đã làm theo Thầy rồi mà cứ bảo nó hoài sao được? Cho nên Thầy đâu có cần nhắc nó nữa!
(11:36) Bây giờ câu kế nữa.
*Hỏi: “*Kính bạch Thầy! Người tuổi trẻ…”
Như vừa rồi Thầy có nhắc lại cái câu hỏi này, thì ở đây Thầy trả lời luôn để viết thành văn luôn:
“Kính bạch Thầy! Người tuổi trẻ và người nhiều tuổi tu có gì khác nhau, giống nhau? Theo chỗ con hiểu, người trẻ tuổi ít huân tập ở đời nên dễ tu hơn, người nhiều tuổi do huân tập các pháp thế gian nên khó tu hơn, hay do luật nhân quả mà người trẻ tuổi và người nhiều tuổi nhiễm tập nhiều đời, tốt hay xấu mà dẫn đến tu lâu hay mau là do duyên nghiệp này?
Đáp: “Ở đây sự huân tu không phải ở một kiếp, nên không thể so sánh tuổi trẻ và nhiều tuổi được!”
Nghĩa là bây giờ đó mình đang ở trong cái đạo tràng này, ai cũng có duyên tu hết, nhưng mà có người tu mau mà có người tu lâu, là tại sao?
Là tại vì cái người mà tu mau đó, họ đã huân nhiều cái đời, đã tu trước rồi. Còn mình có gieo cái duyên tu chớ mình chưa có tập luyện, cho nên mình dù là có tuổi trẻ đi nữa, mình cũng tu lâu nữa.
Mình mới có tu có kiếp này à, còn người ta tu đã năm, ba kiếp rồi, cho nên bây giờ người ta nhiếp tâm cái nó vô, người ta xả cái tâm quá dễ dàng, người ta ly dục ly ác pháp nó dễ, là vì nhiều đời người ta có xả rồi.
Còn bây giờ mình mới nghe đó, mình tập, mình cố gắng, mình giữ gìn đủ cách, mình tập luyện từ Chánh Niệm Tỉnh Giác cho đến Định Niệm Hơi Thở, rồi Định Vô Lậu để mình xả ác pháp, mình mới tu cho nên mình xả rất là khó khăn, nó cứ tới lui.
Chớ không phải là người tuổi trẻ là người mà vào tu là không có nhiễm. Mình nghĩ rằng nhiễm có cuộc đời này thôi, chớ sự thật ra mình đã nhiễm nhiều đời. Thầy nói thí dụ như một người tuổi trẻ vào tu, mà nhiều đời họ nhiễm, cái nhiễm đó nó sẽ đánh thức họ hoài.
(13:32) Họ đời này họ đâu có nhiễm, họ vào tu thí dụ tám tuổi, hay là ba tuổi, hay là năm tuổi, họ đến, họ ở tu trong một cái chùa với một vị chân tu giới luật thanh tịnh, nghiêm túc. Do đó họ đâu có bị nhiễm gì đời đâu, nhưng mà họ lại tu rất là khó.
Nhiều khi họ nói, họ chưa biết đời thì họ tu khó hơn là những cái người đã biết đời rồi bỏ dễ, họ luận như vậy. Nhưng sự thật ra đời của họ huân tu nó quá ít trong những cái đời trước chớ không phải là trong hiện đời.
Cho nên dù họ có cái duyên phước được gặp Phật pháp tu, nhưng mà cái nhân đời của họ nó nhiều, nhiều kiếp huân. Cho nên tới đây trong cái sự tu tập của họ nó vẫn có những cái nghiệp đời của họ, cái sức thu hút của đời, ham muốn của đời nó đánh mạnh họ. Nó đánh mạnh bằng cách này, bằng cách khác để nó bạt họ ra khỏi cái môi trường tu, nó làm cho họ mất đi cái tu hành.
Đó là cái nghiệp đời trước của họ chớ không phải là cái nghiệp đời nay, bởi vì đời nay họ đâu có nhiễm? Nhưng mà đời trước họ đã bị nhiễm rất nặng.
Nhưng mà họ gieo duyên Phật pháp, có cái duyên cúng dường, có cái duyên quý báu Chánh Pháp của Phật. Họ có thể vì Phật, vì Pháp bảo của Phật mà họ dám hy sinh họ, họ dám chết. Nhưng mà cái duyên đó họ có nhưng mà vì họ không có cái duyên tu nhiều đời.
Còn cái người mà tu nhanh là nhờ họ nhiều đời họ huân tu, họ nỗ lực, họ gạn lọc thân tâm của họ, cho nên trong kiếp này họ tu rất nhanh.
“Tu lâu hay là mau là do nhiều đời đã tu tập, chớ không phải trẻ tuổi dễ tu mà nhiều tuổi khó tu.
Tu theo đạo Phật chỉ có sự quyết tâm và đầy đủ nghị lực, gan dạ, chặt đứt, bứt bỏ những gì đang ràng buộc, trói buộc đưa đến sự đau khổ.”
Nghĩa là cái người mà tu theo đạo Phật, là có cái sự quyết tâm rất là cao. Khi mà hiểu biết được cái đời con người là khổ thì họ quyết tâm, họ nghị lực. Họ quan sát cái gì mà đang trói buộc họ, để đưa họ đi đến cái chỗ khổ đau của đời họ?
Họ quan sát, từ cái nhà cửa, của cải, tiền bạc, từ anh em, chị em, cha mẹ, tất cả những cái này, mà Đức Phật gọi là ái kiết sử, nó là một cái sợi dây vô hình nhưng mà trói rất chặt.
(15:56) Từ đó chúng ta biết được rõ ràng là những cái này là những cái làm cho chúng ta đau khổ, làm cho cuộc đời chúng ta phải trôi lăn trong nhiều kiếp để mà tái sanh luân hồi, thọ lấy đời này đến đời khác đều là đau khổ. Thương ghét cũng là đau khổ, thương ghét là ác pháp, như Thầy đã giảng.
Do đó chúng ta biết rằng phải đem hết sức lực của mình, chặt đứt! Bởi vì thí dụ như bây giờ mình thương mẹ mình, mà mình chặt đứt, đừng có để cho nó nhớ nghĩ nữa, thì nó làm cái khổ tâm mình rất lớn, mà mình đã biết được đạo rồi thì chặt đứt cái này để mà cứu mẹ mình, chớ không phải ngồi đây mà nhớ mẹ, thương mẹ, hay hoặc thương cha mình trong cái cảnh cơm không có ăn, áo không có mặc, mình phải nghĩ cách nào làm cho bà có cơm ăn áo mặc, thì cái đó là cái sai của mình.
Khi mình biết Phật pháp, mình phải chặt đứt tất cả những cái này, để cho mình được giải thoát, từ đó mình mới đem cái sự giải thoát này mà hướng dẫn cha mẹ mình đi đến con đường giải thoát.
Mặc dù là cơm không có ăn, áo không có mặc, nhưng giải thoát quý hơn là đem cơm đem áo đầy đủ cho cha mẹ mình, mà vẫn trôi lăn trong lục đạo, vẫn chịu thọ khổ từ đời này đến đời khác.
Đó thì cái người chỉ tu theo đạo Phật, chỉ có cái sự quyết tâm và đầy đủ những cái nghị lực gan dạ như vậy mới dám chặt đứt, mới bứt bỏ, chớ cái tình cảm mà chúng ta nối liền với những người thân của chúng ta rất là khó chớ không phải dễ.
“Nếu chưa chặt đứt, bứt bỏ được thì hãy theo lời Phật dạy: “Quán từ bỏ tôi thở vô, quán từ bỏ tôi thở ra!””
Đó Thầy đã dạy rồi đó các con thấy, trên thân quán thân về hành cái tướng nội của nó, quán từ bỏ.
(17:30) Cho nên ở đây Thầy lặp lại để chúng ta thấy rằng, khi mà chúng ta bứt chưa được thì chúng ta hãy bứt cho được.
Mà bây giờ cái nghị lực, cái gan dạ của chúng ta nó cố gắng nó bứt, nó lìa, nhưng mà ngồi ở trong chùa thì chúng ta vẫn nhớ cha nhớ mẹ, nhớ dòng họ, anh em chị em, hoặc là nhớ tiền nhớ bạc hoặc là nhớ xe nhớ cộ, hoặc là nhớ đủ cách đủ loại ở trong đó. Do đó thì chúng ta phải tu như thế nào, phải tập như thế nào?
Bởi vì mình thấy cái tâm mình bây giờ mình quyết mà nó chưa có dứt được, chưa có chặt đứt được. Cho nên chúng ta phải quán, như lời Phật dạy, “Quán từ bỏ tôi thở vô”, tức là nương vào cái Định Niệm Hơi Thở mà nhắc ở trong tâm chúng ta phải từ bỏ, thì trong tâm chúng ta biết là từ bỏ cái gì?
Bây giờ chúng ta đương nhớ mẹ mình, bứt rứt trong lòng của mình hết sức, đương thương nhớ bà mẹ của mình, thì bây giờ đó mình biết cái trạng thái tâm của mình, vậy thì trong khi mình “quán từ bỏ tôi thở vô, quán từ bỏ tôi thở ra”, tức là từ bỏ cái lòng thương mẹ đang dày vò trong tâm mình.
Hay hoặc là bây giờ mình đang giận hờn nè, thì mình quán từ bỏ cái gì? Quán từ bỏ cái tâm sân của mình. Cái gì mà đang ở trong lòng của mình thì ngay đó là mình quán, tức là nương vào cái hơi thở mà tu, nhắc cái tâm của mình, dùng cái pháp hướng quán từ bỏ đó.
“Cho nên ở đây Phật dạy “Quán từ bỏ tôi thở vô, quán từ bỏ tôi thở ra”, hay “Quán đoạn diệt tôi thở vô, quán đoạn diệt tôi thở ra.”
Đó là những cách thức tu tập chặt đứt, bứt bỏ. Ai là người siêng năng thì tu mau, ai là người lười biếng thì tu lâu.”
Nghĩa là mình biết được pháp đó rồi, hàng ngày mình cứ lo mình quán, mình chặt đứt bứt bỏ cho hết, xả bỏ ra hết, thì chắc chắn là cái tâm trạng đang thương nhớ đó, cứ hàng ngày nương vào hơi thở, cứ quán từ bỏ. Và đồng thời cái tâm mà nó nhiếp ở trong cái hơi thở như vậy, nó đâu còn nhớ còn thương gì! Cho nên ngay cái chỗ hơi thở đó chúng ta đã từ bỏ rồi.
Mà cái quán từ bỏ nó lại nhắc cái tâm của chúng ta, cho nên bây giờ chúng ta lìa cái hơi thở ra, thì chúng ta thấy cái tâm thanh thản, không còn nhớ thương nữa, tức là chúng ta đã từ bỏ, chúng ta đã làm được. Đó cách thức tu là tu như vậy đó.
Đó là trả lời, ở đây là cái trả lời tuổi trẻ và tuổi già, để cho biết được cách thức mà chúng ta tu mau hay là nhanh.
Nhưng mà dù sao đi nữa, nếu đời trước chúng ta có tu nhiều kiếp thì đời này chúng ta chỉ nhắc một lần, hai lần là chúng ta xong. Còn đời trước chúng ta chưa tu, thì đời nay chúng ta phải nhắc một trăm lần, hai trăm lần nó mới được.
(20:06) Bây giờ cái câu hỏi khác:
Hỏi: “Kính bạch Thầy! Người muốn tu chứng thì phải ly 18 loại hỷ tưởng khỏi thân tâm của mình.”
Như Thầy đã dạy, nó có 18 loại hỷ tưởng mà các thầy các con đã chép rồi đó, đã biết 18 loại hỷ tưởng rồi. Mà cái người mà tu Thiền Đông Độ thì người ta bị rơi vào cái Không Vô Biên Xứ đó, Hư Không Vô Biên đó, khi mà cái ý thức thanh tịnh thì họ bị rơi vào đó rồi.
Cho nên ở đây câu hỏi này thì nó cũng nhằm vào cái chỗ Thiền Đông Độ chớ không phải gì khác hết. Bởi vì cái chỗ này là cái chỗ mà chúng ta rất cần để mà xả ly 18 loại tưởng để chúng ta vượt qua, chớ còn không thì chúng ta cũng nằm đó mà chịu chết như các Thiền Đông Độ mà thôi.
“Vậy mà có một số đạo sư” - đây là câu hỏi kế đây, câu hỏi trong cái câu hỏi đó, nghĩa là chúng ta lìa 18 loại tưởng:
“Vậy mà có một số đạo sư đã dùng 18 loại hỷ tưởng này để dạy cho các đệ tử của mình. Lấy sắc tưởng, hương tưởng, thinh tưởng, vị tưởng, xúc tưởng và pháp tưởng v.v, khiến cho người tu hành mê mờ không phân biệt đâu là Chánh Pháp của Phật, đâu là tà thuật của ngoại đạo, sống dở chết dở, đạo không ra đạo, đời không ra đời, tu tập nhiều năm mà chẳng đi đến đâu và chẳng đạt mục đích gì. Hiện giờ có rất nhiều học giả cũng đang ở trạng thái này, ngỡ rằng mình đang hòa đồng với vũ trụ.
Vì lợi ích chung cho mọi người, con xin Thầy chỉ dạy để mọi người sớm giác ngộ, không bị lầm lạc trên đường tu tập, cứu mình ra biển khổ, và cũng không uổng phí cả cuộc đời.”
Đáp: “Từ pháp môn Tịnh Độ đã biến Phật giáo thành một tôn giáo mê tín, cúng bái tụng niệm, cần an, cầu siêu v.v. Loại pháp môn này hướng dẫn hành giả vào thế giới sắc tưởng. “
Đó thì, bây giờ nói vè 18 loại tưởng, hỏi Thầy 18 loại tưởng, rồi đưa ra một số người dùng các loại tưởng để tu, thì Thầy chỉ định cho thấy như Tịnh Độ Tông, người ta dùng sắc tưởng mà người ta làm cái pháp môn để người ta hướng dẫn người khác đi vào cái thế giới đó.
(22:30) “Đến Thiền Tông đã biến Phật giáo thành một tôn giáo hữu ngã.”
Có ngã tức là Phật Tánh đó, chấp chặt một con người nào cũng phải có Phật Tánh hết, cho nên đó là cái ngã rồi.
“Loại pháp môn này hướng dẫn hành giả vào thế giới pháp tưởng.”
Đó cho nên nó có cái tưởng nó ra, cho nên nó lạc vào Hư Không Vô Biên Xứ đó, nó bị lạc vào trong đó mà nó trở thành cái pháp tưởng. Nó lấy cái pháp tưởng mà làm cái thế giới nó để tu tập.
“Cho nên nó có cái sự “phản bổn hoàn nguyên, phủ trùm vạn hữu”.”
Những cái danh từ của Thiền Đông Độ nó dùng đó, nó chỉ để cho chúng ta thấy được. Trong 18 loại tưởng này, thì Tịnh Độ nó dùng cái sắc tưởng mà nó đi vào, còn Thiền Đông Độ thì nó dùng cái pháp tưởng mà nó đi vào, cho nên nó có mới cái những cái danh từ của nó. Còn Tịnh Độ thì nó có những cái danh từ riêng của nó, “cầu vãng sanh Cực Lạc”. Đó. Còn ở đây, thì nó đi vào cái chỗ không phải cầu nữa, mà “phản bổn hoàn nguyên, phủ trùm vạn hữu”.
“Giáo lý Nguyên Thủy của Đức Phật đã xác định không dạy điểm khởi thủy của con người, thế mà Thiền Tông có điểm khởi thủy hoàn nguyên.”
Hoàn nguyên là mình trở về cái gốc của nó chớ gì? Đó, phản bổn, là trở lại cái gốc, hoàn nguyên, trở về cái nguồn gốc của nó, đó thì cái câu “phản bổn hoàn nguyên”. Mà đạo Phật xác định rằng cái khởi điểm của con người không có, vậy thì nó trở về cái khởi điểm nó là cái chỗ nào mà gọi là gốc, gọi là cái nguyên gốc, cái nguyên thủy của nó?
Đạo Phật đã xác định, trong bài Mười Hai Nhân Duyên, Đức Phật đã xác định rõ ràng. Và trong cái Giáo án của Thầy đã dạy rồi đó, thì các thầy cũng thấy rằng: Con người từ nhân quả sanh ra và chết đi cũng trở về nhân quả.
Thì bây giờ chúng ta “phản bổn hoàn nguyên” trở về nhân quả, thì có lý do gì? Thì nhân quả nó có giải thoát không? Nó là thiện ác mà làm sao giải thoát đâu? Cho nên trở về đó thì cũng như là cái người bình thường không tu thì cũng trở về đó vậy!
Cho nên nếu mà nói đạo Phật có cái khởi điểm thì nó không phải là đạo Phật. Vì có khởi điểm tức là có cái ngã chấp, còn không có cái khởi điểm tức là không có ngã chấp.
(24:47) Cho nên đạo Phật xây dựng cái giáo lý của mình, cái giáo lý duyên khởi thì nó là một cái vòng tròn, cho nên nó không có một cái khởi điểm, nó không có cái điểm khởi đầu.
“Thiền Tông lạc vào pháp tưởng mà không biết, cảm thấy mình hòa đồng trong vũ trụ hay là “phủ trùm vạn hữu”. Theo Phật giáo, người tu hành phải đạt được mục đích.”
Nghĩa là cái người tu hành phải đạt được mục đích, chớ không phải là hòa đồng vũ trụ hay là “phủ trùm vạn hữu”. Mà đạt được cái mục đích gì? Cái mục đích đó là mục đích gì? Cho nên Thầy ghi:
“Theo Phật giáo người tu hành phải đạt được mục đích, mục đích đó là gì?”
Đó thì bây giờ đê trả lời cái câu hỏi mà tự Thầy hỏi đó, mục đích đó đó:
“Làm chủ sanh, lão, bệnh, tử. Đó là bốn cái nỗi khổ của con người.”
Cho nên ở đây chúng ta thấy cái sự tu tập của mình, là mình nhắm vào cái mục đích làm sao làm chủ được cái cuộc sống của mình, làm sao làm chủ được cái tuổi già của mình, làm sao làm chủ được cái bịnh tật và đến khi mà mình chết, làm sao mình làm chủ, đừng có để khổ quá khổ.
“Xưa Đức Thế Tôn đã tuyên ngôn bốn câu kệ, khi mình đã đạt được mục đích:”
Bốn câu kệ nó như thế này:
“Thiên thượng thiên hạ
Duy ngã độc tôn.
Nhất thiết thế gian
Sanh lão bệnh tử.”
(26:19) Đó là Hán tự thì Thầy tạm dịch để cho quý thầy và các con hiểu. “Thiên thượng thiên hạ” có nghĩa là trên trời dưới trời. “Duy ngã độc tôn” có nghĩa là chỉ có mình ta. “Nhất thiết thế gian” - hết thảy trong thế gian này. “Sanh lão bệnh tử” - ta là người vượt qua sanh, lão, bệnh, tử, nghĩa là ta là người làm chủ được sanh, lão, bệnh, tử.
Thì cái mục đích đã đạt được thì còn tu cái gì nữa? Đó thì, cái mục đích của đạo Phật là như vậy, chớ có phải cái mục đích của đạo Phật là để trở về “phản bổn hoàn nguyên”, để “phủ trùm vạn hữu”. Cho nên Thiền Tông nó đi lạc, nó không đúng với cái mục đích của đạo Phật rồi.
“Mục đích Thiền Tông là “phản bổn hoàn nguyên, phủ trùm vạn hữu” để làm gì, với ý nghĩa của cuộc đời này?”
Khi mà chúng ta trở về với cái nguồn gốc của chúng ta, phủ trùm vạn hữu như vậy, để nó có cái lợi ích gì cho cái đời sống của chúng ta, hay là chúng ta cũng còn tham sân si, giận, phiền não?
Cho nên dù là chúng ta có phản bổn hoàn nguyên, có phủ trùm vạn hữu, thì tâm tham chúng ta cũng còn. Chúng ta cũng thích nằm trên nệm êm, giường cao rộng, chúng ta cũng thích mặc đồ sang đẹp, chúng ta cũng thích ăn uống phi thời. Thì như vậy rõ ràng là chúng ta có giải thoát được chưa? Đời sống chúng ta cũng còn như cái đời sống của phàm phu.
Thì như vậy có “phản bổn hoàn nguyên” đi nữa, thì chúng ta vẫn là một con người tầm thường chớ cũng không giải thoát được gì.
“Nếu “phản bổn hoàn nguyên, phủ trùm vạn hữu” mà làm chủ được sanh lão bệnh tử thì cũng nên tu tập.”
Nếu mà bây giờ chúng ta “phản bổn hoàn nguyên” nè, mà “phủ trùm vạn hữu”, mà bây giờ chúng ta làm chủ được cuộc sống nè, thì cuộc sống người tu sĩ ba y một bát, sống cái đời sống không còn có một cái vật gì, xả hết. Trái lại bây giờ những cái người mà tu Thiền Đông Độ thì họ không có như vậy đâu. Cuộc sống của họ hoàn toàn đầy đủ lắm chớ không thiếu đâu.
Rồi kế đó đó, già họ không làm chủ được nè. Họ không biết cách làm sao làm chủ được! Rồi bệnh nè, họ cũng không biết làm chủ đâu, họ chỉ bảo: “bệnh thì cứ bệnh, kệ nó, mình cứ đừng có dao động tâm của mình là được!” Thì như vậy là rõ ràng là cắn răng chịu đựng đau chớ không phải.
Rồi đến chết thì, “Chết mặc chết, tử mặc tử, ăn thua gì, mình Phật Tánh cứ còn đó chớ đâu phải là mất mát gì đâu! Chết cái thân chớ đâu phải là chết Phật Tánh đâu mà sợ!” Cho nên họ nói như vậy chớ sự thật ra họ không có làm chủ được cái chết.
Cho nên vì vậy mà chúng ta thấy, nếu mà “phản bổn hoàn nguyên, phủ trùm vạn hữu” mà làm chủ được sanh lão bệnh tử, thì đó là cũng là cái mục đích của đạo Phật đi.
Đằng này, nó không nhằm được cái mục đích đó, do đó nó không thể giải quyết được bốn cái khổ này, thì không giải quyết được bốn cái khổ của đời người. Cho nên chúng ta không có tu tập.
“Nhưng nhìn lại đời sống của thiền sư,”
Nghĩa là các ngài nói, mà nó được như vậy thì chúng ta nên tu, nhưng mà bây giờ chúng ta muốn xét được cái đó có phải là làm chủ được sanh lão bệnh tử không, cho nên chúng ta mới nhìn lại cái đời sống, tức là chúng ta quan sát lại các vị tu thiền coi họ có làm chủ được chưa?
Đó bây giờ chúng ta mới nhìn lại. Khi mà nhìn lại cái đời sống của thiền sư thì chúng ta thấy họ chưa làm chủ được cái cuộc sống, cho nên họ còn ăn uống phi thời, còn chạy theo vật chất, còn ham ngủ.
“…còn đang đắm chìm trong vật chất thế gian. Đời có gì thì thiền sư có nấy.”
(29:35) Nghĩa ở ngoài đời bây giờ người ta có gì, thì (mình) có nấy, người ta có xe hơi thì mình cũng có xe hơi. Người ta có cái gì thì mình có nấy.
“Cho chí đến như cái ăn, cái ngủ, thiền sư còn ăn uống phi thời, ngủ nghỉ phi thời, giường cao nệm ấm, áo quần sang đẹp v.v…”
Đó là họ chưa có ly mà, họ chưa cái xả mà, họ còn sống như thế gian. Nhưng mà họ nghĩ rằng cái đó là cái mình đừng có chấp dính nó thôi, mình ăn mặc sang đẹp chớ không chấp dính nó đâu thôi. Sự mà thật ra, mình nói mình một lý, nhưng mà mình đã mang mặc nó thì tức là mình bị dính mắc chớ làm sao mà mình nói rằng mình hết dính mắc?
“Sanh mà không làm chủ được tức là chưa có ly dục ly ác pháp, thì làm sao mà làm chủ được già, bệnh, chết? Thì “phản bổn hoàn nguyên, phủ trùm vạn hữu” có lợi ích gì? Chỉ chẳng qua thiền sư lạc vào pháp tưởng mà không biết, nên rất đáng thương. Từ bao thế kỷ, bao thế hệ đã lầm đường lạc lối, uổng phí cuộc đời tu hành.
Thiền sư cứ nghĩ rằng mình kiến tánh là thành Phật, Phật thì có sẵn, chỉ cần thấy mà thôi, chẳng cần tu gì hết, chỉ vì chưa thấy tánh nên phải tu để thấy. Từ pháp “tri vọng”, “tham thoại đầu”, “tham công án” đều là pháp tu để kiến tánh. “
Nghĩa là tu cái đó để mình nhận ra cái tánh. Cho nên có người thì vừa thấy hoa đào nở thì họ cười, có người thì vấp té ngộ đạo, đó là thấy tánh của họ. Đó cho nên họ tu tập những cái tu tập của họ để mà ức chế cái Tầm Tứ, để mong cho các ngài ngộ được cái tánh Phật.
(31:19) Cho nên khi mà ngộ được cái tánh thì thôi, không có gì hết. Chớ họ đâu có tu mà ly dục ly ác pháp đâu? Họ đâu có làm cho cái tâm họ hết tham sân si đâu? Mà họ chỉ làm sao cho mình thấy tánh. Mà thấy tánh thành Phật thôi thì, đã thành Phật rồi thì đâu còn tham sân si, cho nên họ nghĩ vậy.
Cho nên vì vậy mà họ nỗ lực họ tu “tri vọng”, họ “tham thoại đầu”, “tham công án” để cho họ kiến tánh mà thôi. Cho nên thường thường họ tham những cái đó, bỗng dưng nó “bùng vỡ”, tức là bùng vỡ gì? Là họ đã kiến tánh, tức là họ nhập vào cái thể tánh đó.
“Còn pháp tu ly dục ly ác pháp thì trong kinh Đại Thừa dạy, thấy các pháp là không, thấy các pháp là hư huyễn.”- hay là huyễn giả, không thật.
Trong kinh Đại Thừa thì có cách thức tu ly dục ly ác pháp, có cách thức tu. Cho nên thấy các pháp đều là không, như Bát Nhã, thấy các pháp đều là hư huyễn, thì đó là kinh Duyên Giác, không thật, đó là kinh Duyên Giác. Thì đó để làm gì? Bởi vì, khi mà người ta chửi mình, thì mình thấy nó là huyễn giả, nó thấy là không, cho nên mình không tức giận. Đó là cái cách thức ly dục ly ác pháp của nó.
Cũng như bây giờ tâm mình khởi ham muốn một cái vật gì đó, mình nói mọi vật đều là huyễn giả, có gì mà phải ham muốn. Do đó cái tâm nó không ham muốn nữa. Đó là cách thức tu để ly dục ly ác pháp của Đại Thừa kinh.
Chớ còn Thiền Tông thì không có đâu. Thiền Tông không có pháp nào mà ly dục ly ác pháp hết. Chỉ có Đại Thừa thì nó còn có một ít ở trong những cái tư tưởng của giáo lý Nguyên Thủy, nó có rút tỉa được một số cái giáo lý Nguyên Thủy ở trong Đại Thừa. Tức là nó còn giữ lại cái bản chất Nguyên Thủy của Phật giáo ở trong cái kinh sách Đại Thừa một chút đó.
Cho nên nó có cái tu tập về ly dục ly ác pháp. Nhưng những cái tu tập đó nó không làm cho nó sạch thật sạch cái tâm của nó đâu, nó không sạch đâu. Dường như là cái pháp đó là cái pháp trốn chạy, chớ không phải là. Thấy mọi vật đều là huyễn giả để mình trốn chạy cho cái tâm mình nó đừng có giận hờn, đừng có ham muốn thôi, chớ sự thật ra nó đang ham muốn rất nhiều. Tránh né nó , gọi là tránh né.
Cho nên hầu hết là một số người tu mà về cái pháp “không” - “thấy các pháp là không” đó, “ngũ uẩn giai không” đó, thấy các pháp đều là huyễn giả đó, thì họ có giảm bớt, họ có sống cái đời sống an ổn thật. Nhưng mà cái tâm cho thật sạch đó, thật hết ham muốn thì chưa hết, chưa có người nào hết. Nghĩa là hiện giờ thì chưa thấy người nào hết.
“Những pháp dạy trong kinh Đại Thừa chỉ có pháp lìa mà chưa có pháp đoạn.”
Đó Thầy ở đây Thầy phân tích rất rõ mà. Đó là cái lối nó lìa, nó ly ra, nó lìa ra thôi, nó lìa các pháp thôi, nhưng mà nó chưa sâu, cho nên nó chưa có pháp đoạn.
(34:07) “*Vì thế thiền sư có giảm bớt tham sân si nhưng không đoạn dứt được. Vì kinh sách Đại Thừa và Thiền Tông không có pháp hành đoạn dứt nên đối với đời sống”* - đời sống tức là sanh y đó - “thiền sư chưa làm chủ tâm mình, còn chạy theo ngũ trần.”
Tức là chạy theo sắc thanh hương vị xúc pháp đó, còn chạy theo ngũ trần đó.
“Cho nên người muốn tu hành giải thoát khỏi sanh lão bệnh tử mà tu theo kinh sách Đại Thừa và Thiền Tông thì cũng như người khát nước mà uống nước muối.”
Đó là cái chỗ mà Thầy đem một cái ví dụ để thấy rằng, muốn giải thoát mà tu theo cái kiểu như vậy thì như người khát nước mà lấy nước muối mà uống. Đây là một cái sự thật chớ không phải là bài bác họ. Nhưng mà các thầy cũng như các con suy ngẫm lời Thầy nói và lời của Thầy so sánh ở đây để thấy đó là một cái sự thật như vậy.
Vì trải qua một cái thời gian mười mấy hai chục năm, nhiều người đi theo Thiền Đông Độ, họ tu với Hòa thượng Như Luật, hoặc là Hòa thượng Thanh Từ, thì bây giờ xét lại họ đã được những gì, và họ đã làm chủ được những gì? Thì chúng ta xét rồi chúng ta suy ngẫm lời Thầy nói có đúng hay không?
Đừng tin ở lời Thầy nói mà cứ xem xét những người đang theo các bậc Hòa thượng này tu hành các pháp môn đó, rồi sẽ thấy. Có người tu cũng hai ba chục năm chớ không phải ít.
Rồi xem lại những cái bậc thầy của họ, cái bậc mà đã giảng những cái pháp đó ra, xem coi họ, đời sống họ có ly dục chưa? Có ly ác pháp chưa? Họ có làm chủ được cái đời sống họ chưa? Hay họ còn đang đắm nhiễm qua cái hình thức khéo che đậy mà thôi, qua cái lý luận khéo che đậy mà thôi, chớ sự thật ra thì họ còn đang sống ở trên cái dục lạc đó.
“Đạo Phật đã xác định: Con người do nhân quả sanh ra, chết đi trở về nhân quả. Do nhân quả sanh ra thì làm sao có khởi điểm ban đầu của con người mà gọi là “phản bổn hoàn nguyên”?
Kinh sách Đại Thừa do ảnh hưởng Bà La Môn giáo mới có Đại Ngã và Tiểu Ngã. “
(36:15) Đó thì, Bà La Môn giáo thì nó có xây dựng cái Đại Ngã, và cái Tiểu Ngã. Một con người chúng ta là cái Tiểu Ngã và cái Đại Ngã thì nó rộng lớn mênh mông.
Ví dụ như mỗi một con người là một cái Tiểu Ngã, và cái Đại Ngã như là cái biển mênh mông nước, còn cái Tiểu Ngã như là một giọt nước. Khi một người mất đi rồi thì cái giọt nước nó sẽ nhiễu vào trong cái Đại Ngã, nó hòa tan thì coi như không còn cái Tiểu Ngã mà nó trở về với cái Đại Ngã, do đó nó mới có cái chỗ “phản bổn hoàn nguyên” đó.
Đó là ảnh hưởng của Bà La Môn giáo là kinh sách Đại Thừa.
“Kinh sách Thiền Tông thì ảnh hưởng Lão Giáo mới có bản thể vũ trụ.”
Đó thì do Lão Giáo nó mới có những cái câu ở trong kinh Nam Hoa (Đạo Đức Kinh) nói “Đạo khả đạo phi thường đạo, danh khả danh phi thường danh” đó, cái câu của Lão Tử viết ở trong cái cuốn Kinh Nam Hoa (Đạo Đức Kinh) đó .
Thì cái đó cái chỗ bản thể đó nó không tên, không tuổi, không gì hết. Ai có tên, có tuổi, có hình, có dáng thì nó không phải là bản thể của vũ trụ. Cho nên Thiền Tông thì nó ảnh hưởng Lão Giáo nó mới có cái danh từ, nó mới có những cái tên là “bản thể vũ trụ”, nó mới có cái tánh, rồi cái thể, rồi cái Phật Tánh.
“Đối với đạo Phật, những việc này chỉ là một hý luận. Một hý luận là một cái điều mà luận chơi cho vui, chớ chẳng có ích lợi và thiết thực gì cho loài người.”
Nghĩa là cái này nó chẳng cái đem đến cho chúng ta có cái lợi lạc giải thoát cho chúng ta một cái gì hết. Cho nên Đức Phật gọi cái này là cái hý luận.
Và trong sáu mươi hai lập luận của ngoại đạo ytg cái thời Đức Phật thì nó cũng có xây cái bản thể vũ trụ này, bởi vì ở trong đó nó Bà La Môn mà, nó có Đại Ngã và Tiểu Ngã. Cho nên nó cũng đã có rồi, vì vậy mà Đức Phật gọi cái đó là hý luận.
Hý luận, lập luận chơi cho vui, cao thấp, hơn thua cho vui chơi, chớ còn không có cái lợi ích thiết thực. Đối với đạo Phật thì cái gì thực, còn cái hý luận thì không có đùa chơi như vậy.
“Vì thế Đức Phật chỉ thẳng cho mọi người biết có 18 loại tưởng. Tịnh Độ Tông chiếm sắc tưởng, làm cứu cánh của mình, Thiền Tông chiếm pháp tưởng làm cứu cánh của mình.”
Đó hai cái Tông này, thì họ chiếm một cái tưởng để họ làm cái chỗ cứu cánh của họ. Xác định để chúng ta thấy cho rõ và đồng thời sau này thì quý thầy cứ về suy ngẫm lại những cái điều mà kinh điển Phật đã chỉ cho chúng ta biết mười tám cái loại tưởng. Và đồng thời ở đây Thầy xác định cho biết rằng cái Thiền Tông nó chiếm cái tưởng nào và cái Tịnh Độ Tông nó sẽ chiếm cái tưởng nào.
“Do thế lấy tưởng mà cho rằng Phật cũng như người ngu, nghe vang mà tưởng tiếng, thấy bóng cho là hình, đó là hình thức điên đảo vô minh, nên tu đời này sang đời khác cũng chẳng ra gì.”
Đó thì, mình nghe tiếng vang mình cho là tiếng, thì đó là mình ngu. Mình nhìn thấy hình bóng mà mình cho đó là hình, là thật, thì đó là mình sai. Bởi vì tưởng nó chỉ là cái bóng dáng mà thôi, chứ nó không có thật. Dù là pháp tưởng, dù là sắc tưởng, nó cũng đều là bóng dáng mà thôi, nó không thật.
(39:38) “Kính bạch Thầy! Khi nhập Tứ Thiền, các hành trong thân đều ngưng nghỉ hoàn toàn. Huyết trong tim vẫn đi trong các ống mạch nuôi khắp châu thân.
Lúc đó nó đọng lại hay ở trạng thái bình thường? Và bộ não còn hoạt động gì không, hay cũng ngưng hoạt động? Và hơi thở tịnh chỉ hoàn toàn, thân hiện giờ giống như một pho tượng, đến khi muốn phục hồi trở lại trạng thái bình thường không khó khăn gì.
Nếu thật sự như vậy thì thật là vi diệu, hy hữu thay đạo Phật, không có pháp nào trên thế gian này sánh được. Và lý thuyết âm dương ngũ hành trong y học chỉ còn là giả thuyết”.
Ở đây thầy Chơn Thành hỏi cái này thì, Thầy nói rằng nếu mà Tứ Thiền thực sự ra Tứ Thiền thì phải đạt như vậy. Nhưng mà chưa biết nó là cái ngưng hoạt động vậy như thế nào mà con người chúng ta phục hồi lại được. Chớ không khéo nó ngưng hoạt động rồi nó sẽ đi tiêu luôn, nó không phục hồi lại được. Ở đây Thầy sẽ giải thích để cho thấy cái sự phục hồi lại sự sống của chúng ta khi nhập định.
Đáp: “Khi người nhập Tứ Thiền, hơi thở tịnh chỉ, mà hơi thở đã ngưng thì tất cả những sự hoạt động trong thân đều ngưng hoạt động…”
Tại sao cái hơi thở mình nó quan trọng lắm, các thầy tất cả lưu ý! Cái hơi thở mình còn thở thì tất cả những bộ phận ở trong thân chúng ta nó theo cái nhịp của hơi thở mà nó, tim cũng vậy, nó cũng phải theo cái nhịp của hơi thở mà nó hoạt động.
Mà nếu hơi thở dừng rồi thì bắt đầu tim nó cũng phải dừng, bao tử nó cũng phải dừng, gan ruột gì nó cũng phải dừng hết, nó không hoạt động được cái gì hết, coi như là hơi thở ngưng là ngưng hoạt động hết.
Cũng như bây giờ Thầy nói như cái máy mà cái bộ phận hút gió với xăng nó không có, thì cái máy đó nó cũng chỉ ngưng liền tức khắc. Mà nó ngưng rồi thì bánh xe con, bánh xe lớn ở trong cái máy đó cũng ngưng hết, chớ không làm sao nó chạy được hết.
Đó thì cái hơi thở là cái vấn đề quan trọng, cũng là như cái xe mà chỗ xăng với không khí nó hòa khí nhau đó, để mà nó đốt cháy nó làm cái xe chạy đó, cái máy chạy đó, thì cái chỗ đó là cái hơi thở của chúng ta đó.
Cho nên ở đây chúng ta biết được, khi mà cái hơi thở nó tịnh chỉ rồi thì các hành ở trong thân nó phải ngưng, mà nó ngưng như thế nào để mà nó sống đây? Đây, bây giờ nó ngưng hoạt động hoàn toàn, máu thì dừng lại, không có chạy, không có đi được nữa, nó đứng lại hết.
Nghĩa là bây giờ cái máu đó nó tới đó, cái vừa cái hơi thở ngưng, là bắt đầu cái máu đó nó đứng lại đó, nó không cái đi tới nữa được, nó không chạy tới nữa. Bởi vì cái tim nó ngưng rồi, nó không còn cái sức đẩy nữa, nhưng không đông đặc.
(42:30) Nó không đông đặc, là nó còn cái gì mà nó không đông đặc? Hơi ấm trong người còn, không mất. Nghĩa là cái hơi nóng trong người còn, thì cái máu nó không đông đặc, nó đứng lại đó chớ nó không đông đặc. Còn cái hơi ấm trong người mất thì cái máu nó đông đặc liền.
“Những phần tế bào não trên đầu chúng ta từ lâu đã hoạt động cùng với nhịp thở…”
Nghĩa là bây giờ chúng ta đang thở thì nó có cái phần tế bào đó, nó hoạt động với cái nhịp thở của chúng ta đó. Thì nó đang hoạt động, nó điều khiển những cái thần kinh ở trên não bộ chúng ta, để đưa tay, đưa chân, hay muốn cái gì đó, đều do cái sự điều khiển của nó ở trên đó.
Thì những cái phần tế bào não mà nó hoạt động theo cùng cái nhịp của hơi thở, hòa hợp với cái bộ máy đang hoạt động của cái cơ thể thì, cái người mà hơi thở ngưng, thì tất cả cái tế bào đó nó ngưng theo hết, nó không có hoạt động nữa.
“…từ lâu đã hoạt động cùng với nhịp thở thì hiện giờ đều ngưng hết. Những phần tế bào nào từ lâu chưa hoạt động…”
Bây giờ ở trong đầu chúng ta nó có những cái phần tế bào não từ lâu nó chưa cái hoạt động, nó không cái hoạt động theo cái hơi thở, cho nên nó nằm yên đó nó chưa hoạt động dâu.
Bây giờ chúng ta mới, bây giờ thì khi mà cái tụi này nó ngưng hoạt động, cái tụi tế bào não này nó ngưng hoạt động theo cái hơi thở, theo cái bộ máy làm việc của nó chung nhau đó, thì nó ngưng với nhau thì nó ngưng hết. Cho nên cái tụi này bắt đầu nó hoạt động, tụi kia ngưng là nó bắt đầu nó hoạt động.
Vì nó hoạt động cho nên cái hơi ấm ở trong người chúng ta còn, còn nếu mà nó không hoạt động thì cái hơi ấm trong người chúng ta mất luôn.
(44:17) Cho nên cái người chết là do cái bộ não, do cái phần tế bào não n1 không hoạt động, mà nó hoạt động được là do chúng ta đã tu tập đánh thức nó chớ không phải khi không mà nó hoạt động đâu.
Nếu mà hơi thở chúng ta bây giờ đương mạnh nè, bình thường nè, mà chúng ta chưa biết cách nhập định nè, chúng ta chưa đánh thức được cái tế bào não đó hoạt động, thì trong khi đó mà chúng ta nhảy xuống sông tự tử, hoặc làm gì cho chúng ta ngộp chết đi, không có thở được đó, thì ngay đó là cái cơ thể chúng ta máu nó sẽ đông đặc và nó không có, nó lạnh liền tức khắc, nó không còn có cái hơi ấm nữa, nó mất đi.
Đó thì ở đây Thầy giải thích rất là tỉ mỉ để chúng ta thấy được cái phần mà đánh thức cái phần tế bào não, để cho nó thay thế cái tụi tế bào não kia ngưng nghỉ đó.
Bởi vì trong cái đầu của chúng ta nó có nhiều cái loại tế bào, mà có một số nó chưa làm việc, mà bây giờ chúng ta đánh thức nó để nó làm việc.
Vì thế hơi ấm trong người không mất, sáu căn không bị hư hoại, thân mới phục hồi lại dễ dàng. Bởi vì sáu căn mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của chúng ta nó không bị hư hoại.
Những cái vật mà có thể dễ bị hư hoại là mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của chúng ta. Mà nó nhờ cái tế bào não mà từ lâu nó không làm việc, bây giờ nó đứng ra nó làm việc, nó hoạt động, mà nó giữ lại cái cơ thể chúng ta, để chúng ta phục hồi lại, mà nó không bị hoại diệt.
“Khi người tu nhập Tứ Thiền, đó là giai đoạn đánh thức tế bào não mà từ lâu nó chưa hoạt động.”
(45:51) Nghĩa là bây giờ mình ở trên cái đoạn đường xả hỷ, xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh đó, cái đoạn đường mà hằng ngày mà tập để mà điều khiển. Thí dụ như bây giờ Thầy hướng tâm Thầy nhắc này: “Hơi thở phải tịnh chỉ nè, các hành trong thân phải tịnh chỉ nè!”, thì bắt đầu nó tịnh chỉ được bao nhiêu?
Nó tịnh chỉ được một phút, cái bắt đầu nó thở trở lại, chớ đâu có tịnh chỉ lâu đâu. Cho nên nó tịnh chỉ được một phút, là tức là nó kéo dài được một phút đó, là nó đánh thức cái tụi kia dậy, cái tụi mà không làm việc đó, tế bào não mà không làm việc đó, bây giờ nó đánh thức đó. Khi mà nó đang ngưng như vậy đó, thì cái pháp hướng có cái hiệu quả là nó làm cho cái hơi thở này ngưng, thì cái tụi kia bắt đầu nó hoạt động.
Nhưng mà nó chưa hoạt động thì bắt đầu cái tế bào não mà làm việc với hơi thở, thì bắt đâu nó thúc đẩy, thì hơi thở nó phải thở trở lại, coi như là chúng ta không kéo dài được lâu, chỉ trong vòng một phút.
Rồi lần lượt chúng ta tập dần tập dần điều khiển, cái lực pháp hướng nó điều khiển, nó làm cho hơi thở dừng và nó đánh thức cái tế bào não kia bắt đầu thức dậy làm việc. Và do tuần tự, tuần tự bắt đầu tụi kia nó trỗi dậy nó làm việc hết, thì bắt đầu cái này nó ngưng luôn.
Cho nên chúng ta ngồi một ngày, hai ngày cho đến một tháng, hai tháng vẫn dễ dàng mà không khó khăn, và cơ thể không bị hư hoại.
“Khi nó chịu hoạt động thì hơi thở chúng ta mới tịnh chỉ. “
Nghĩa là tịnh chỉ hoàn toàn. Khi mà tụi này chịu hoạt động rồi thì lúc bấy giờ cái lệnh của pháp hướng của chúng ta nó mạnh lắm. Nó hướng như vậy đó mà cái tế bào não mà trong đầu chúng ta nó chưa chịu hoạt động thì nó chỉ có một chút rồi nó bắt đầu ngộp thở chết…
(Xem tiếp ở Pháp hành 14)
HẾT BĂNG
PHÁP HÀNH 14 - CƠ THỂ KHI NHẬP ĐỊNH - CÁCH DÙNG PHÁP HƯỚNG
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Thời gian: 1998
(tiếp theo Pháp hành 13)
(0:00) Cho nên nó có sự phản ứng. Cũng như bây giờ ai bóp mũi mình, mình giẫy giụa dữ lắm, mình phản ứng để mình chống lại sự chết của mình.
Cho nên thí dụ bây giờ người ta bóp cổ mình nghẹt thở không được, mình giẫy giụa, cho đến cuối cùng mà mình giẫy không nổi thì mình mới chịu chết, chớ mình không có nằm yên để người ta bóp mình chết đâu. Đó là một cái phản xạ tự nhiên của nó.
Thí dụ như trên con đường mình đi ngang vầy, trời nhá nhem tối rồi, mình thấy một cái sợi dây nó quăn queo giống như con rắn, mình đi vừa chợt thấy cái mình nhảy qua liền. Nó không phải là có cái ý thức mình điều khiển, đó là phản xạ tự nhiên của cơ thể của mình.
Cho nên vì vậy đó mà cái pháp hướng của chúng ta truyền lệnh cho hơi thở tịnh chỉ, thì nó tịnh chỉ như vậy, thì nó ngưng như vậy một chút, thì nó có cái sự phản xạ để nó bảo vệ cơ thể nó. Bắt buộc cái pháp hướng nó giữ cho cái hơi thở phải tịnh chỉ dài hơn nữa, thì cái tụi kia bắt buộc nó phải phản xạ, nó phải làm cho cơ thể nó sống, tức là nó phải trỗi dậy nó hoạt động.
Cho nên đó là những cái cách thức mà nó thay thế để cho cơ thể nó không bị chết, nó không có bị hoại diệt cơ thể. Cho nên nó phải hoạt động, chớ còn không hoạt động thì nó chết. Cho nên cái phản xạ tự nhiên của nó phải có khi cái tụi này bị cái pháp hướng nó ức chế, nó làm cho cái tụi này ngưng đi, thì cái tụi kia phải phấn khởi, phấn khởi tức là hoạt động trở lại.
Do như vậy đó mà chúng ta nhập định mà chúng ta không bị hoại diệt cơ thể. Khi nó chịu hoạt động thì hơi thở chúng ta mới tịnh chỉ hoàn toàn, lúc bấy giờ chúng ta mới nhập được Tứ Thiền.
(1:33) “Cái hay nhất của đạo Phật ở chỗ chỉ dùng pháp hướng mà không ức chế điều khiển.”
Nghĩa là chúng ta chỉ dùng pháp hướng nhắc thôi, chớ không phải chúng ta nhắc như vậy là chúng ta nín thở đâu, không phải đâu. Nếu mà nín thở tức là chúng ta ức chế hơi thở của mình. Ức chế hơi thở của mình là không hay đâu, nó làm chúng ta bị rối loạn cơ thể và rối loạn thần kinh đó.
Cho nên cái đó không tốt. Chúng ta chỉ dùng pháp hướng nhắc thôi. Do cái tâm mà thanh tịnh, nó ly cái ác pháp ra rồi, thì chúng ta nhắc nó có cái hiệu lực rất lớn, nó làm cho cái hơi thở tịnh chỉ. Bởi vì tịnh chỉ mà chớ không phải là đình chỉ, hay hoặc là định chỉ, mà tịnh chỉ.
Tịnh là do lực thanh tịnh của tâm mà nó điều khiển, nó làm cho cái hơi thở ngưng, chớ không phải chúng ta ức chế cái hơi thở bằng cách điều khiển làm cho nó thở chậm chậm rồi ngưng, rồi nín thở. Thì cái đó là, nếu một người mà tu thiền định tưởng thì họ thở bằng rốn, thở bằng chân lông của họ thì lúc bấy giờ họ tu tập bằng cách ức chế.
Ức chế tức là họ thở chậm chậm chậm, hoặc là họ nín thở lại, rồi họ tưởng, họ dùng cái tưởng của họ, họ tưởng như là họ thở bằng rốn hoặc hay hoặc là thở bằng lỗ chân lông.
(02:36) Do họ nín như vậy chừng khoảng độ một phút, hai phút, rồi họ thở lại, rồi một lát nữa họ nín, rồi họ lại tưởng như vậy, rồi họ lại thở lại. Họ tập riết rồi như vậy là khi mà họ nín luôn một cái thời gian, thì tức là ức chế cái này thì nó phải hưng phấn cái kia. Nó hưng phấn là nó qua một cái tưởng nó hưng phấn, thì coi như là hơi thở nó thở theo lỗ chân lông.
Như các nhà yoga đã biểu diễn ở bên Liên Xô, mà báo chí và đài phát thanh đã có đăng những cái tin tức cho chúng ta biết. Dìm họ trong nước họ không chết, tức là họ thở bằng lỗ chân lông. Chôn ở trong đất họ không chết, tức là họ luyện bằng những cái định tưởng đó, bằng những cái tưởng đó đó.
Còn ở đây chúng ta không có ức chế nó chút nào hết, chúng ta không có thở chậm, thở nhẹ, chúng ta chỉ điều khiển, rồi tự nó, nó chậm nhẹ, hoặc là chúng ta điểu khiển nó tịnh chỉ, rồi tự nó nó ngưng. Rồi nó ngưng rồi nó phục hồi trở lại, rồi nó ngưng, cứ như vậy chúng ta dùng pháp hướng cho đến khi tất cả các tế bào kia nó hoạt động trở lại, thì lúc bấy giờ nó tịnh chỉ luôn, nó ngưng luôn.
Chừng nào mà chúng ta điều khiển nó trở lại, thì chúng ta nhắc nó hoạt động trở lại: “Hơi thở thở lại!”, thì nó bắt đầu thở lại. Thì nhắc nó lại, thì cái tụi tế bào kia bắt đầu nó trỗi dậy nó làm việc, thì cái tụi tế bào này nó nằm yên nó xuống ngủ.
Đó là cái hay nhất của cái pháp môn của đạo Phật là cái chỗ chúng ta dùng pháp hướng chớ không có dùng cái sự ức chế. Còn các cái ngoại đạo, các tôn giáo khác, người ta đều dùng sự cái ức chế mà điều khiển qua một cái tưởng của mình.
(4:04) Thí dụ như một nhà luyện võ công, hay hoặc khí công, họ cũng đều dùng cái tưởng của họ hết. Khi họ vận nội công thì họ cũng phải dùng tưởng họ, họ dùng khí công họ cũng phải dùng cái tưởng của họ. Còn ở đây họ ức chế, họ gồng cái tay lên, rồi họ tưởng như là tất cả những cái sức mạnh gồm vào trong đó một cái lực của nó, như vậy họ gọi là nội công.
Còn chúng ta thì không có gồng không có gì hết, chỉ nhắc nhẹ nhàng như vậy thôi, rồi tuần tự đó, do chúng ta giữ được cái trạng thái mà nó yên lặng, vắng lặng, thì chúng ta sẽ hướng được, đừng có để cho nó mất cái trạng thái đó thì không được.
Cũng như cái tâm mà chúng ta nó cứ nghĩ ngợi cái này, kia, nọ, mà chúng ta cứ bảo nó tịnh chỉ thì không được rồi. Cho nên cái tâm của chúng ta phải thanh tịnh rồi. Mà cái tâm thanh tịnh đến cái mức độ vắng lặng, thì cái chỗ thanh tịnh của nó là cái chỗ hết tham, sân, si, không còn giận hờn, phiền não, không còn ham muốn vật dụng thế gian này nữa hết.
Cho nên do cái chỗ thanh tịnh này mà cái pháp hướng đó nó có cái hiệu quả, điều khiển được cái sự sống chết của chúng ta là ở chỗ này.
“Điều khiển sai khiến bằng một lực vô hình của tâm.”
Nghĩa là coi như là đây là mình điều khiển bằng cái lực của tâm chớ không phải là bằng cái cơ thể của chúng ta, bằng cái ức chế, bằng cái điều khiển, bằng các cơ. Thí dụ bây giờ Thầy thở chậm, Thầy dùng cái cơ thở chậm của Thầy, hay hoặc là dùng cái cơ nín thở, thì đây là dùng cơ. Còn cái này chúng ta dùng cái lực của nó bằng tâm, chớ không phải dùng cái lực của bằng cơ, bằng thân của chúng ta, bằng các cơ của chúng ta.
“Điều khiển sai khiến bằng một lực vô hình của tâm, vừa tịnh chỉ hơi thở, mà vừa đánh thức các tế bào não.”
Nó hay tuyệt là ở chỗ đó.
“Cách thức tu tập rất là khoa học, không có khổ công tu tập như thiền yoga.”
Nghĩa là cách thức chúng ta tu tập theo thiền của đạo Phật thì nó không có khổ công, chúng ta chỉ dùng hướng vậy thôi, mà chúng ta đạt được cái mức này.
Thí dụ như bây giờ, chúng ta tu nẻ, ly dục ly ác pháp nè, thì do cái Tứ Chánh Cần mà chúng ta đạt được cái tâm thanh tịnh đó là ly dục ly ác pháp. Mà khi ly dục ly ác pháp được rồi, thì chúng ta còn Tầm Tứ thiện, vì vậy cho nên bây giờ chúng ta mới diệt cái Tầm Tứ thiện đi, vì vậy mà chúng ta mới nhập Nhị Thiền.
Nhập Nhị Thiền thì chúng ta diệt Tầm diệt Tứ, cho nên trong khi đó diệt Tầm Tứ nhập Nhị Thiền thì cái trạng thái tâm chúng ta rất là yên lặng. Từ cái chỗ ở yên lặng đó, từ cái chỗ mà tâm diệt Tầm Tứ ly dục ly ác pháp đó, thì chúng ta mới điều khiển diệt Tầm Tứ nó rất dễ, chúng ta cũng chỉ hướng tâm thôi, chớ chúng ta cũng không phải ức chế nó, cho nên chúng ta rất dễ dàng.
(06:26) Vì trong khi mà ly dục ly ác pháp chỗ Sơ Thiền đó, thì chúng ta biết là có cái nhất tâm rồi, cho nên Phật nói nó có cái nhất tâm nè, Hỷ, Lạc, Tầm, Tứ, Nhất Tâm, nó có năm cái quả của chúng ta tu tập mà.
Như vậy là chúng ta thấy có năm cái quả của Sơ Thiền rồi, thì cái Nhất Tâm đó để mà chúng ta tiếp tục ở trong cái trạng thái của Nhị Thiền, mà trạng thái Nhị Thiền tức là trạng thái yên lặng.
Từ cái trạng thái yên lặng đó, chúng ta mới tiến sâu vào để xả 18 cái loại tưởng, thì chúng ta đạt được cái trạng thái vắng lặng, luôn luôn lúc nào trong hư không này không còn nghe âm thanh nữa.
Từ cái chỗ vắng lặng này, chúng ta mới tiến tới chúng ta phá thọ, chúng ta phá tất cả những cái thọ, cho nên xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh đó, để mà nhập Tứ Thiền.
Thì khi mà xả hết cái thọ tức là cái hơi thở tịnh chỉ, hơi thở nó ngưng nghỉ. Hơi thở nó ngưng thì các hành trong thân chúng ta sẽ bắt đầu phải ngưng hết, do vì vậy đó mà chúng ta nhập Tứ Thiền.
Mà cái cách thức điều khiển của nó thì chúng ta thấy nó không có khổ công. Còn yoga nó phải rèn luyện khổ công, phải tập thân thể như thế này, trồng chuối ngược, rồi ngồi trên một cánh tay, rồi quay như thế nào, đủ cách đủ kiểu của yoga, luyện cái thân của mình hết sức, rồi luyện cái hơi thở.
Từ cái hơi thở, yoga thì nó có ba cái hơi thở chớ không phải hai hơi thở như chúng ta đâu: hơi thở ra, hơi thở vô và hơi thở nín, nó ba hơi thở mà. Cho nên vì vậy mà nó, khi tập tới hơi thở nín, nó rất quan trọng, người mà không biết thì nó sẽ ra máu. Còn cái người có kinh nghiệm tu họ hướng dẫn thì không đến đỗi, nhưng mà cái hơi thở nín nó sẽ làm cho người ta thở bằng chân lông hay hoặc là thở rốn.
Thế mà vi diệu hy hữu ít có pháp nào sánh kịp, bởi vì đối với Phật pháp, như mình nghe nói về yoga thì mình thấy là cái thiền đó tập luyện hết sức.
Người ta ở trên một cái núi cao như Hy Mã Lạp Sơn, trời lạnh buốt như vậy mà người ta chỉ choàng một chiếc áo mỏng như thế, như Thầy vầy, mà mỏng hơn nữa, mà người ta không thấy lạnh. Người ta ở trên cái tầng cao rất lạnh mà người ta không thấy lạnh. Cho nên người ta luyện tập cơ thể rất là vĩ đại.
Thì sự thật ra một cái người mà nhập Tứ Thiền rồi họ cũng làm cho những cái khi hậu, họ làm chủ được những cái khí hậu, ngay khi nóng họ cũng làm cho khí hậu mát mẻ, họ điều hòa được thời tiết, họ làm cho mát mẻ, khi mà lạnh họ cũng điều hòa được. Cho nên họ vẫn thản nhiên, người khác thì lạnh run, chớ còn đối với với người mà nhập Tứ Thiền họ vẫn điều hòa được không khí, khi mà họ ở trong cái trạng thái của thiền định đó.
Bởi vì họ chỉ dùng pháp hướng thôi họ đã có cái lệnh của pháp hướng rồi. Khi mà ở trong cái trạng thái vắng lặng, họ không có nghe âm thanh rồi, thì họ ra lệnh, không khí hay hoặc là cái khí trời hôm nay đương lạnh vậy, họ bảo “Phải ấm áp!”, thì ngay đó là cả toàn thân họ nghe ấm áp, không bao giờ mà nghe lạnh. Mà bây giờ nó nực nội, họ chỉ cần ra lệnh, thì cái thời tiết nó sẽ mát mẻ, nó không còn nóng nảy nữa.
Đó là cái quyền lực của một cái người tu, nó có một cái năng lực, có cái đạo lực như vậy đó. Cho nên chúng ta tu không có uổng đâu. Tại vì chúng ta chưa biết chỗ ly dục, ly ác pháp, cho nên chúng ta đi nó lầm lạc, nó đi ngang ngửa, nó xen vào ở trong những cái ức chế, rồi bị tưởng, rồi chúng ta tu riết nó sai.
(9:40) Bây giờ câu hỏi kế.
Hỏi: “Kính bạch Thầy! Khi tu các định dùng câu pháp hướng phải cho rõ ràng, mạch lạc, không nhầm lẫn, thong thả, khoan thai, không vội vàng, gấp gáp, đúng đối tượng, tâm trạng, thì hiệu quả đến ngay liền, bằng không thì ngược lại, hiệu quả không có, vọng tưởng khởi lên, loạn tưởng, tùy miên, phóng dật xen vào, hôn trầm, thùy miên, hôn tịch, vô ký kéo tới. Có đúng không, thưa Thầy?”
Đúng, bởi vì khi mà cái pháp hướng của chúng ta sai, mà tu hành nhiều khi chúng ta nhắc đại rồi thôi. Không phải! Chúng ta tuần tự những ý nghĩ của cái pháp hướng mà chúng ta đặt. Chúng ta khi mà nhắc, cái tâm của chúng ta rất tỉnh táo, nhắc từng cái ý nghĩ rất là thâm sâu của nó.
Thì ở đây Chơn Thành đã nắm được cái chỗ hướng tâm, phải thong thả, phải nhẹ nhàng, không có vội vàng, gấp gáp gì hết, đúng đối tượng. Trong khi tâm của chúng ta nhắc mà nó, thì ngay liền nó rất là tỉnh táo.
Còn nếu mà chúng ta không khéo mà chúng ta cũng nhắc cho có nhắc đó, hướng cũng có hướng đó, nhưng mà loạn tưởng, thùy miên nó phóng vào, hôn trầm, hay hoặc là vô ký, hôn tịch nó liên tục, thì cái chuyện đó là tại mình hướng cho có hướng thôi, chớ thật sự hướng phải tuần tự.
Bây giờ nó đang bị hôn trầm nè, mà hướng cho nó hết hôn trầm, là tuần tự phải hướng, phải nhắc cái tâm của mình như thế nào? Khi mà nhắc cái câu pháp hướng rồi thì cái tâm nó tỉnh ngay liền, nó không bị hôn trầm.
Như vậy là rút tỉa từ những kinh nghiệm đó, thì cho nên Chân Thành mới hỏi Thầy câu này. Nếu mà không có gì, cái câu pháp hướng mà thắng được cái hôn trầm thì Chân Thành không biết mà hỏi câu này đâu.
(11:29) Đáp: “Tu mà không có nhiệt tâm, không có nghị lực, không cái ráng sức thì chẳng mang lại kết quả gì.”
Nghĩa là trong khi tu mà dùng cái pháp hướng như vậy, mà không có nhiệt tâm để mà nói lên một cái câu nói hướng tâm cho nó rõ ràng, cho nó đầy đủ ý nghĩa của nó. Mình chỉ như là tụng cái Chú Vãng Sanh vậy, hay hoặc là Chú Đại Bi vậy, đọc lia lịa vậy, chớ không có ý nghĩa gì ở trong cái đầu chúng ta hết thì nó không phải đâu.
Cái pháp hướng nó có một cái ý nghĩa thâm sâu của nó. Khi mình hướng ra rồi, nó có một cái nghị lực, nó làm cho mình mạnh mẽ để rồi mình không có lười biếng, nó không có dễ dãi với mình nữa, mà nó có cái sự quyết chiến quyết thắng trong đó. Đó thì cái pháp hướng nó phải đúng cách của nó thì nó như vậy.
(12:23) Cho nên ở đây trong cái chỗ tu tập thì nó cần phải có cái sự nhiệt tâm, nó cần phải có cái nghị lực, nó cần phải có sự ráng sức mình. Trong khi mình bị một trạng thái nào đó, thì cần phải có sự ráng sức để dẹp nó, mà muốn ráng sức dẹp nó, thì phải đem hết cái nghị lực chống trả lại nó.
Thí dụ bây giờ nó buồn ngủ, mà mình không có nghị lực, tức là mình phải đi nằm ngủ chớ không thể nào mình thắng được. Bây giờ mình thấy cái cục kẹo đó mình muốn ăn, mà mình không nghị lực thì mình lấy mình bỏ miệng mình nhai à, không thể nào. Mà người có nghị lực nhất định là không ăn, chết bỏ, nhất định thèm chết bỏ, không ăn. Thì như vậy nó mới có nghị lực.
Cho nên cái nghị lực nó giúp chúng ta dứt liền, không có để chúng ta phạm phải những cái sai lầm đó. Cho nên như vậy nó mới có mang lại những cái kết quả.
“Tu mà không trạch pháp kỹ lưỡng, không rõ đặc tướng của mình, dùng pháp hướng không đúng pháp, đúng chỗ, đúng trạng thái đối tượng tâm, thì chẳng có hiệu quả gì, như con đã nêu ở trên.”
Nghĩa là mình phải tu, phải trạch pháp cho đúng cách thì nó mới có hiệu quả, mà nếu không đúng cách thì không có hiệu quả.
Nhưng Thầy lại thêm chỗ này để biết rằng, tu mà không cái nhiệt tâm, không có nghị lực, không cái ráng sức, thì nó cũng không có kết quả gì hết. Bởi vì mình đã chọn lấy cái tu rồi, cũng như mình đã chọn lấy cuộc đời, thì mình phải ráng sức để mà làm sao cho cuộc đời mình đem đến một cái hạnh phúc.
Phải có tiền sống nè, phải có cơm gạo ngày hai bữa, ba bữa phải đầy đủ nè, phải người ta có gì mình có nấy để cái đời sống của mình nó đầy đủ những vật chất như người khác. Mà mình phải làm cách nào, tìm mọi cách để làm ra bằng cái mồ hôi nước mắt của mình, cho xứng đáng với cái đầu óc, cái suy tư của mình.
Thì cái người tu chúng ta cũng vậy, phải nghĩa rằng mình chỉ còn cái gia tài là của mình, là phải đạt được cái gia tài đó, là bằng cái giải thoát của thân tâm của mình. Cho nên mình không tu thôi, mà đã tu không có nghĩa là mình cất cái chòi lá lẹt xẹt đó mình cứ ở vậy hoài, không phải đâu! Mình phải giải thoát cho hoàn toàn.
(14:31) *Hỏi:* “Kính bạch Thầy! Khi con tu Hiện Tại An Lạc Trú Định, con hướng tâm nhắc hơi thở chậm, chậm dần nhẹ dần, thì thấy có hiệu quả, nhưng cơ hoành và cơ bắp theo hơi thở nên có cảm giác căng tức. Vậy là tốt hay là xấu?”
Đáp: “Xấu.”
Nghĩa là lúc bấy giờ mình nhắc cái hơi thở mình chậm nhẹ, thì bắt đầu mình thấy có, từ cơ hoành ở trong ngực, trong bụng mình đó, và cơ bắp của mình nghe hơi căng, cảm giác căng tức, thì cái đó là không tốt rồi, xấu rồi.
“Khi cơ hoành và cơ bắp có cảm giác căng tức, thì con nên dùng pháp hướng khác mà thư giãn nó.”
Nghĩa là bây giờ bởi vì cái pháp hướng kia rồi nó, cái cơ hoành và cái cơ bắp của mình đó, nó theo cái pháp hướng của hơi thở chậm nhẹ. Do cái sự chậm nhẹ nó quá cái sức của cơ thể, cho nên cơ hoành và cơ bắp đó nó phải nương theo với cái sức chậm nhẹ đó, mà nó co thúc, nó làm cho nó căng lên, nó làm cho con thấy căng tức.
Cho nên bây giờ con phải dùng một cái pháp hướng để cho các cái cơ này, mặc dù bây giờ hơi thở chậm nhẹ thì con đừng có hướng nó bảo “Ngừng lại!”(15:47) Vì con sợ quá thì con bảo nó ngưng lại, hay hoặc là thở lại bình thường thì con không tiến bộ đâu, mà con cứ để cho nó chậm nhẹ theo cái chậm nhẹ của pháp hướng điều khiển nó.
Thì bắt đầu con muốn cho cơ hoành và cơ bắp của con nó trở về trạng thái thư giãn bình thường mà không còn làm căng tức, thì con hướng tâm tiếp. Con thấy có trạng thái gì thay đổi trong thân của con, mà đã có cái gì mà không đúng, thì tức là con phải dùng cái pháp hướng khác mà đặt cái đó xuống liền.
Đây Thầy có ghi cái pháp hướng nó như thế này: Bây giờ con sẽ hướng tâm, con nhắc nó: “Cơ hoành và cơ bắp phải thư giãn bình thường, không được căng tức nữa!”, con ra lệnh nó như vậy. Mà khi con ra lệnh một lần nó chưa, nó còn theo hơi thở chậm nhẹ đó, thì con ra lệnh lần nữa.
Ra lệnh đôi ba lần như vậy, thì cái cơ hoành và cơ bắp đó nó sẽ thư giãn bình thường, và thư giãn bình thường thì ngay đó cái hơi thở của con nó không chậm nhẹ nữa. Nó lại đứng lại. Thì lúc bấy giờ nó không có làm cho cơ thể con bị rối loạn nữa, cho nên nó đã phản ứng trở lại, nó giữ cái hơi thở con ở cái mức độ mà không có làm cơ hoành và cơ bắp nó căng thẳng.
Con thấy, từ cái chỗ đó là những cái chỗ mà chúng ta để sửa những cái sai của chúng ta.
Thí dụ như bây giờ mình đang ở trong cái trạng thái của một cái hơi thở an ổn, thì bắt đầu nó có một cái gì nó cảm giác như cái mũi mình nặng, cái đầu mình nặng, hoặc là cái tai mình lớn, hay cái thân nó bự ra. Thì lúc bấy giờ đó mình mới nhắc, mình nhắc mình hướng, mình phá những cái trạng thái đó đi, đừng có để.
Hay hoặc là mình đang ngồi mình yên lặng thế này, bỗng dưng mình thấy xung quanh mình ánh sáng sáng lên hết. Đó thì lúc bấy giờ đó, mình ngay liền mình cũng dùng pháp hướng để mình phá cái tưởng đó đi, chớ không để cho cái tưởng đó. Vì để cái tưởng đó tâm mình một lúc sau nó sẽ dính vào cái ánh sáng đó.
Cho nên tất cả những cái này là những cái chúng ta có pháp để phá, mà có pháp để tu, để mà tiến tới con đường nó suôn sẻ, chớ không khéo thì chúng ta bị lạc.
Các thầy và các con nhớ kỹ trong vấn đề này. Tuy rằng, cái câu hỏi và cái câu đáp tuy đơn sơ, chớ có những cái kinh nghiệm để trong lúc chúng ta tu tập, bất kỳ gặp một cái gì, chớ không phải là cơ hoành cơ bắp này đâu, các con không gặp cái này nhưng mà gặp cái khác.
Bây giờ khi mình đang tu như vậy, mình bảo hơi thở chậm nhẹ, thì bắt đầu nó chậm nhẹ, chậm nhẹ, chậm nhẹ, mà nghe sao nó tức, nó nhức cái tim này quá chừng, nó đau lói chỗ này quá. Ngay đó do đó thì phải dùng pháp hướng cho cái chỗ đau đó nó giảm xuống và nó bình thường trở lại, không được đau nữa.
Đó thì, trong khi mà mình đã hướng tâm mình nhắc cái này, thì cái hơi thở chậm nhẹ đó bắt đầu nó, mình cũng nương vào cái hơi thở đó chớ mình đâu có gì đâu, nhưng mà thấy hơi thở nó không còn xuống chậm nhẹ nữa, nó giữ lại liền tức khắc.
(18:17) *Hỏi:* “Kính bạch Thầy! Khi một người nhập định lâu ngày, một tháng trở lên, năm mười năm, các hành trong thân ngưng nghỉ, vậy các tế bào còn hoạt động hay không? Râu, tóc, móng tay, móng chân có mọc hay không mọc?”
Những câu hỏi này là Thầy thấy có nhiều cái mà trường hợp người ta nói rằng nhập định mà râu tóc đều mọc, hay hoặc móng tay, móng chân mọc. Thì ở đây câu hỏi này cũng để chúng ta hiểu biết được những cái sắp tới mà chúng ta có thể nhập định mà chúng ta biết được.
Đáp: “Khi một người nhập định lâu ngày Diệt Thọ Tưởng Định,”
Đây Thầy lấy ví dụ là lâu ngày chỉ có cái định Diệt Thọ Tưởng Định,
“Thân hành, khẩu hành và ý hành đều ngưng nghỉ hoàn toàn, thì các tế bào cũng ngưng hoạt động.“
Các con cứ nghĩ đi, thì cái gì mà nó ngưng hết? Hoàn toàn, thân hành là do cái thân của mình nè, cái khẩu hành cũng ngưng nè, ý hành nó cũng ngưng, toàn bộ nó ngưng hoàn toàn hết, thì các tế bào trong đó nó cũng ngưng. Mà các tế bào ngưng thì râu, tóc, móng tay, móng chân nó cũng ngưng mọc chớ sao lại nó mọc được?
Các thầy nó thấy đúng chớ đâu. Nó hoạt động thì nó mới mọc ra, còn nó không hoạt động thì làm sao nó mọc được? Phải hiểu như vậy. Cho nên chúng ta thấy nó phải có một cái cụ thể, chớ không phải là cái mơ hồ được, cái tưởng tượng được, mà đây là cái thực tế!
Tại sao vậy? Tại vì toàn bộ thân Ngũ Uẩn của chúng ta ngưng nghỉ, nó ngưng hoàn toàn thì cái lực vô thường không còn tác động. Bởi lực cái vô thường nó tác động là khi chúng ta còn hoạt động, nó tác động thì nó mới vô thường, nó vô thường thì râu tóc của chúng ta nó mới mọc ra. Nó mọc ra theo cái kiểu vô thường của nó, nó thay đổi mà.
Cho nên bắt đầu từ cái tuổi mà mới sinh ra, rồi nó phát triển dần dần, tức là nó vô thường đó. Thì khi nó hoạt động. chớ còn cỡ nó sinh ra rồi nó nằm nó chết đó thì nó còn cái gì nữa mà nó lớn lên nữa được, nó đâu có hoạt động được nữa.
Nếu mà một cái người nào mà mới sanh ra tám tuổi đi, bây giờ chúng ta đem thủy (ngân), đem cái này kia chúng ta ngâm cái xác đó đi, hay hoặc là đem một cái thuốc ướp xác đi, đừng có cho cái xác nó thúi đi, cái thây ma nó thúi đi, nó không có bị hư hoại, bị rữa đi. Thì lúc bấy giờ đó, thì các thầy sẽ thấy như thế nào?
Đứa trẻ đó bây giờ mà có ngâm 100 năm đi ở trong cái bồn thủy như thế này, thì nó cũng bây lớn đó, chớ nó đâu có lớn ra được nữa. Bởi vì nó ngưng hoạt động hết mà, làm sao mà nó phát triển được, nó lớn? Nó đâu có vô thường được nữa.
“Tại vì toàn bộ thân Ngũ Uẩn ngưng nghỉ, thì lực vô thường không còn tác động vào thân này được nữa.(21:03) Dù hành giả nhập định một ngàn năm vẫn giữ cơ thể như mới lúc nhập định.”
Nghĩa là không có già thêm.
Cho nên Thầy nói chỉ ở Nhị Thiền thôi, diệt Tầm Tứ thôi, cái ý không khởi, thân ngồi bất động nè. Cái thân ngồi bất động, cái ý không khởi nè, cái miệng không nói nè, thì nó cũng đã không thay đổi cái cơ thể của chúng ta rồi, thì còn gì mà râu tóc nó mọc ra. Thì huống hồ là người ta nhập cái Diệt Thọ Tưởng Định.
“Cho nên luật vô thường biến hoại cơ thể con người khi toàn thân con người còn hoạt động. Khi toàn thân ngưng hoạt động thì cơ thể không biến hoại thay đổi nữa, vì thế râu tóc ngưng mọc. Râu tóc, móng tay, móng chân còn mọc thì cơ thể còn vô thường trong từng giây từng phút thay đổi của cơ thể.
Bên Trung Quốc thời nhà Đường có câu chuyện huyền thoại, một vị thiền sư nhập định một ngàn năm, móng tay, móng chân, râu tóc (mọc) ra dài quấn quanh mình của vị thiền sư.”
Cái câu chuyện là thiền sư đó, sau cái đời nhà Tuỳ thì Phật giáo suy, cho nên cái vị thiền sư đó mới đến ngồi ở dưới một cái gốc cây, rồi nhập định ở đó. Rồi cái gốc cây nó lớn nó bao quanh cái vị đó, nó lớn nó bao quanh lại hết ở trong cái thân cây đó. Một ngàn năm sau mà cái cây nó lớn quá, nó bao mất cái vị đó đi.
Cho đến khi mà đời nhà Đường lập quốc, thì Phật giáo thịnh, thì vua nhà Đường mới sai người đi lên rừng đốn cây đem về để mà làm lầu đài. Thì chặt cái cây nó lại văng cái người nhập định đó ra, do đó thì thấy râu tóc, móng tay, móng chân vì ngồi như vầy mà nó quấn cùng mình hết. Nghĩa là bởi vì cái cây, rồi nó đâu có đi ra dài được, thành ra râu tóc là nó mọc nó quấn quanh hết.
Do đó thì vua nhà Đường mới hỏi cái người này là con người hay là ma quỷ. Hỏi một vị thiền sư, thì vị thiền sư nói đây là một vị nhập Diệt Thọ Tưởng Định cho nên nó như vậy. Vậy thì muốn cho cái người này tỉnh dậy thì lấy cái đồng la, sai lính lấy đồng la đánh. Đánh một hơi thì vị này xuất định, quả đúng là cái vị này xuất định.
(23:24) Và hỏi ra thì mới biết là vị này nhập vào cái năm nào trong đời nhà Tuỳ, ở lúc nào, thì tính ra thì nó là một ngàn năm.
Đó là câu chuyện huyền thoại vậy, nhưng mà sự thật nó có đúng không? Ở đây nếu mà không có Chân Thành hỏi cái câu này thì chắc chắn là câu chuyện đó ai cũng tin rằng sự thật như vậy. Cho nên đây Thầy sẽ đập vỡ những cái sai lệch nữa.
“Nếu không có người nhập định được thì câu chuyện này ai cũng tin là có thật. Phải nói đây là bọn đại bịp vua chúa của nhà Đường, bịa đặt ca ngợi Thiền Tông, nhưng không có kinh nghiệm,”
Tức là không nhập định được đó. cho nên tưởng tượng ra mà bịa đặt.
“nên tưởng tượng ra mà bịa đặt câu chuyện. Bọn vua chúa nhà Đường không ngờ luật vô thường không thể nào chi phối vào hành giả nhập Tứ Thánh Định, chớ chưa nói đến Diệt Thọ Tưởng Định.”
Nghĩa là nhập tới Nhị Thiền là thấy luật vô thường nó còn chưa có tác động được huống hồ là Tứ Thánh Định, huống hồ là đến Diệt Thọ Tưởng Định.
“Người không nhập được định của Phật ngồi tưởng tượng theo kiểu Thiền Đông Độ thì râu tóc, móng tay, móng chân luôn phải mọc.”
Nghĩa là bây giờ người tu thiền Đông Độ thifg ngồi đây chẳng niệm thiện niệm ác, nhưng mà họ tưởng tượng rằng, có thể nó ngồi vậy là có thể râu tóc mọc này kia nọ, sự thật ra thì họ chưa có phải ở trong cái chỗ mà diệt Tầm Tứ, họ mới ở chỗ ý thức thanh tịnh mà thôi, cho nên râu tóc của họ vẫn mọc. Vì vậy mà họ tưởng tượng ra chắc là nhập định cũng râu tóc cũng mọc vậy thôi chớ không có gì.
“Tại sao vậy? Tại vì nhập thiền định Đông Độ khẩu hành, thân hành, ý hành không ngưng nghỉ,”
N ghĩa là luôn luôn nó còn hoạt động mà, làm sao mà móng tay móng chân như bình thường được.
Bây giờ Thầy nói như thế này, một người ngồi nè, không niệm thiện niệm ác nè. Đó thì bây giờ cho họ ngồi một năm đi nữa, thì cái khẩu hành. thì cho là cái khẩu hành họ ngưng nghỉ đi, tức là Tầm Tứ nghỉ đi, thì cái thân hành là hơi thở không ngưng nghỉ nè, rồi cái ý hành họ là cái bộ não nó cũng không ngưng nghỉ nè, tức là thọ tưởng không ngưng nghỉ nè, mà thử hỏi làm sao một cái người mà ngồi mà chẳng niệm thiện niệm ác mà ngồi được một tháng, hai tháng đâu? Đâu bao giờ có cái chuyện đó đâu.
(25:47) Cho nên thí dụ như bây giờ họ ngồi trong vòng chừng 5 tiếng, 10 tiếng, hay một ngày đêm đi, thì họ cũng phải đứng dậy họ đi kinh hành hoặc này kia nọ. Bởi vì họ ngồi lâu phải mỏi mệt, phải tê phải nhức à, cho nên vì vậy mà cái khẩu hành họ có ngưng không? Không ngưng. Bởi vì khi mà họ đứng dậy họ đi thì cái khẩu hành họ đâu còn ngưng được nữa. Đó thì, như vậy là râu, tóc, móng tay, móng chân nó phải mọc ra bình thường.
“Do thế mới biết rõ Thiền Đông Độ không làm chủ sanh, già, bệnh, chết.”
Do cái chỗ này mình mới biết rõ không làm chủ.
Vì vậy mà tưởng tượng, ở trên cái chỗ này mà tưởng tượng là Diệt Thọ Tưởng Định là ngồi thiền râu, tóc nó mọc như vậy, cho nên mới nói đây là Diệt Thọ Tưởng Định. Bởi vì lâu nay nó đâu có nhập được mà ngồi cả nghàn năm như vậy, cho nên chỉ có bên Tiểu Thừa, bên Nguyên Thuỷ nó mới có thể nhập được vậy, mà cái định đó gọi là Diệt Thọ Tưởng Định hay Diệt Tận Định thì nó mới có thể kéo dài được một ngàn năm như vậy.
Thì cái ông Hoà thượng này ổng cũng dựa theo kinh sách mà ông nói thôi, tức là vị thiền sư này cũng dựa theo kinh sách mà nói, chớ ông cũng chả biết được cái điều này, cho nên thấy, tưởng tượng ra là, coi như là râu tóc phải mọc như vậy thôi, chớ không có gì hết.
Đây là sự tưởng tượng ra cái câu chuyện, huyền thoại ra câu chuyện, chớ không phải có một người nhập định thật được như vậy. Nếu có như vậy thì người ta đã xác định được râu, tóc, và móng tay, móng chân có mọc hay không, người ta đã biết được.
“Thiền Đông Độ là một loại thiền lạc vào pháp tưởng, nên họ tưởng khi nhập định cơ thể như một người bình thường nên râu, tóc vẫn mọc.”
Đó thì, hầu hết là ở bên Trung Hoa tu sĩ Phật giáo thì họ đều tu Thiền Đông Độ, cho nên họ phải nghĩ trong cái vấn đề đó là nhập định là như vậy thôi, chớ không có thể nào. Chớ họ đâu có tu cái thiền của đạo Phật đâu mà họ biết rằng nhập định sao là đúng, sao là sai.
Cho nên họ cũng nói ưỡng thôi, nghĩa là không thể ông vua hỏi mà mình không nói, thì coi như là mình không biết, phải nói thôi. Mà nói theo kiểu mà mình chả biết mà nói như mình biết, tội là cái mình không biết mà mình nói mình biết, cái đó là cái đau lòng nhất, cái đó là cái vọng ngữ nhất của các vị thiền sư Đông Độ.
Thà là mình không biết mình nói mình không biết, để rồi mình đi tìm cái mình không biết đó mà trở thành biết, còn bây giờ mình không biết mà mình nói mình biết, mà mình chẳng biết gì hết, thì cái đó là cái tội nhất.
Cũng như tâm của mình có tham mà mình không biết mình có tham, thì cái đó thiệt là quá tệ. Tâm có tham thì biết tham, tâm không tham thì biết không tham, tâm có sân thì biết sân, tâm không sân thì biết tâm không sân. Đó là những cái chỗ mà chúng ta cần phải hiểu đó.
(28:29) Hỏi: ”Kính bạch Thầy! Ý nghĩa và lợi ích của việc ngồi kiết già trong khi tu thiền nhập định như thế nào? Ngồi bán già và các tư thế ngồi khác tốt và xấu, xin Thầy chỉ dạy cho con rõ.”
Những điều kiện này nó tuy đơn sơ vậy chớ mà cũng có hỏi thì nó mới có hiểu, chớ còn không hỏi thì nhiều khi chúng ta cũng không hiểu nó như thế nào.
Đáp: “Tư thế ngồi kiết già là một tư thế ngồi rất vững vàng hơn các tư thế ngồi khác.”
Nghĩa là mình phải công nhận rằng cái tư thế ngồi thiền mà ngồi kiết già rất là vững vàng. Nó có thể gom tâm rất dễ, thân nó gom, rồi tâm nó gom lại.
“Lợi ích của tư thế ngồi này là thân tâm gom lại dễ dàng nằm trên một tụ điểm. Tụ điểm chỗ thân tâm gom lại là một định lực sau này.”
Nghĩa là cái tư thế mà ngồi kiết già thì nó tạo cho chúng ta thành một cái tụ điểm rất dễ, cái sức gom tâm chúng ta rất dễ. Mà cái tụ điểm, mà chỗ để gom tâm để sau này nó trở thành một cái định lực, từ đó chúng ta mới nằm ở trên cái định lực, cái tụ điểm đó đó, mà chúng ta dùng cái đạo lực mà để điều khiển cả sự sống chết của chúng ta, chớ không phải ngoài cái chỗ đó mà chúng ta điều khiển được.
Cũng như bây giờ mình đặt cái tâm mình ở đâu ngoài, mình bảo nín thở hay hoặc là tịnh chỉ hơi thở, thì làm gì nó có tịnh chỉ được. Khi mà muốn điều khiển cái hơi thở chúng ta ngưng nghỉ, thì chúng ta phải đem cả cái tâm của chúng ta phải nằm ở trên cái tụ điểm đó, tức là nằm ở trên cái định lực đó, để rồi từ cái sức định lực đó, mà chúng ta biến nó trở ra một cái pháp hướng của nội tâm của chúng ta, nó trở thành cái sự điều khiển cho hơi thở tịnh chỉ.
“Tư thế ngồi này dễ gom tâm quán chiếu.”
Nó vừa dễ gom tâm mà tư thế này dễ quán chiếu hơn, trí tuệ chúng ta sáng suốt hơn, và nó phóng ra những trí tuệ rất là dễ dàng phát triển, cái tư thế mà ngồi kiết già.
“Bán già và các tư thế ngồi khác gom tâm khó hơn, dễ sanh lười biếng, trí tuệ khó phát triển hơn, nên sự quán chiếu thường bị vô minh che mờ.”
(30:35) Nghĩa là mình tu cái Định Vô Lậu mà mình ngồi trong cái tư thế thường vầy mình suy tư đó, mình quán chiếu đó, mình suy tư điều này thế kia thì nó không có sáng suốt đâu. Nhiều khi mình ngồi tư thế bình thường này, thì mình quán chiếu thì nó không có sáng suốt, nó không có xả được cái tâm của mình.
Cho nên phần nhiều chúng ta mà muốn xả được cái tâm mình thì mình ngồi kiết già, rồi mình đặt cái niệm đó mình quán chiếu cái niệm đó, mình xem xét cái niệm đó xong xuôi, thì càng lúc thì mình càng sáng ra. Tự nhiên nó làm cho mình thấu rõ được cái chỗ mình quán xét, chỗ mình quán chiếu.
“Nhưng khi đã nhập được định rồi, thì tư thế ngồi nào hoặc bốn oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi đều nhập định được cả.”
Mới đầu chúng ta tu thì chúng ta cũng nên lấy cái tư thế ngồi kiết già mà chúng ta tập đầu tiên để chúng ta gom tâm và tạo tụ điểm. Sau khi mà chúng ta nhập định được rồi thì nó không cần ở chỗ cái tư thế ngồi kiết già, hay hoặc là ngồi tư thế nào chúng ta cũng nhập định được hết, đi cũng nhập định được, đứng cũng nhập định được, nằm cũng nhập định được, chớ không phải cần ngồi kiết già mà nhập định.
“Nhưng tu thiền định phải biết mọi oai nghi đều tu tập được cả, không riêng gì ngồi kiết già, nhưng không được bỏ kiết già. Vì ngồi kiết già là cũng là một phương pháp rèn luyện ý chí của người tu.”
(32:00) Chúng ta cũng phải nhớ rằng cái tư thế ngồi kiết già cũng là cái phương pháp rèn ý chí của mình đó. Bởi vì nó chéo chân nó đau nó nhức, nếu mà mình không ý chí thì mình thấy đau quá, kéo lên đau quá thôi xả ra, thôi ngồi kia tu cũng tu được chứ có gì đâu. Do đó ý chí mình nó cùn nhụt, nó không có cái nghị lực, nó không chiến thắng được.
Còn cái người mà kéo lên đau nhức kệ, nhất định là phải ngồi cho được, cho nên vì thế nó cũng rèn luyện cho mình những cái ý chí nó mạnh mẽ hơn. Thì như vậy chúng ta cũng không nên bỏ kiết già, nhưng mà khi mà chúng ta nhập định được rồi thì tư thế nào chúng ta cũng nhập định được chớ không phải là cần ngồi kiết già.
Bởi vì thiền của đạo Phật nó không chỉ nhắm vào có cái chỗ ngồi. Như chúng ta đi kinh hành đó, đi biết chúng ta đi đó, tức là tu hành tướng ngoại, là đó là Định Chánh Niệm Tỉnh Giác thì nó cũng là thiền định rồi, chớ đâu phải cần?
Cho nên bây giờ chỉ có mình tu về cái hơi thở, tức là cái hành động nội thân của mình đó, thì mình ngồi lại để cho tâm nó gom lại. Thứ nhất là nó cần thiết là cái Định Niệm Hơi Thở, nó là trợ pháp cho các pháp khác, thì mình ngồi nó càng tốt, để cho mình trợ các pháp khác, mình tu các pháp khác.
Thí dụ như bây giờ mà quán từ bỏ đó, thì mình dùng cái hơi thở, tức là mình ngồi trong tư thế đó để quán từ bỏ, thì tức là nó có một cái tâm nó xoáy vào đó để nó phá vỡ cái tâm tham sân si của mình, cái lậu hoặc của cái thân tâm mình. Cho nên từ đó mình “quán từ bỏ tôi hít vô, quán từ bỏ tôi thở ra”, thì do đó mình nương cái hơi thở đó để mình tỉnh thức, rồi dùng cái pháp hướng mình nhắc từ bỏ cái tâm tham sân si của mình.
Thì đó là cách thức mình ngồi, còn cách thức mình đi thì tập tỉnh thức mình đi, thì cũng là cái một oai nghi tu thiền, đều tốt.
Thì ở đây Thầy khuyên rằng tất cả oai nghi chúng ta đều tu được, nhưng mà hiện cái oai nghi nào tu theo cái oai nghi nấy, cái thiền nào tu theo oai nghi đó chớ không phải là, nó có nhiều cái thiền mà cần ngồi thì chúng ta ngồi, mà không cần thì chúng ta đừng có bắt nó ngồi, mà chúng ta phải tu ở trong cái oai nghi đó.
(34:07) Hỏi: “Kính bạch Thầy! Trong khi con tu các định dùng các câu pháp hướng đã thuộc làu, có khi lại quên mất mãi mới nhớ ra được, như vậy con đã tu sai chỗ nào?”
Bây giờ Thầy đáp đây:
““Có khi con quên mất câu pháp hướng” - đó là con đã chọn nhiều câu pháp hướng quá, nên có khi vào tu thì lại quên đi.”
Nghĩa là con chọn rất nhiều câu pháp hướng.
“Con nên chọn pháp hướng nhắm vào mục đích của việc mà muốn đạt được. Chỉ cần một câu ngắn, đầy đủ ý nghĩa, đập phá, xả, đoạn dứt ác pháp hay là tâm dục đó mà con chưa có đoạn dứt được.”
Nghĩa là dùng cái câu pháp hướng trong cái thời điểm này đang tu cái gì, muốn đạt được cái mục đích đó thì mình đặt cái câu pháp hướng đó, thì cái câu pháp hướng đó vừa ngắn gọn, thì chúng ta nhớ rằng, một câu pháp hướng nhắc tâm và một cái câu pháp hướng truyền lệnh, thì như vậy, khi nào mà thấy nó không đạt được thì chúng ta mới dùng cái câu pháp hướng truyền lệnh.
Cũng như bây giờ Thầy nói, như hơi thở nè, “hít vô tôi biết tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”, đó là cái câu pháp hướng nhắc.
Còn cái câu pháp hướng truyền lệnh: “Cái tâm phải biết cái hơi thở, chú ý cái hơi thở, không được khởi vọng tưởng!”. Thì đó là cái pháp hướng truyền lệnh.
Còn cái pháp hướng nhắc tâm “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”, đó là nhắc cái tâm mình cho mình biết thở vô thở ra.
Như vậy thì cái câu pháp hướng nó càng gọn, mà nó đầy đủ cái ý nghĩ, mà cái mục đích mình muốn đoạn dứt cái đó, thì cái nó là chắc chắn, nó mạnh mẽ, nó tạo cho một cái lực rất mạnh.
Còn mình nói nó dài, cái câu pháp hướng mà nó dài, nó yếu lắm, về cái lực của đạo nó cũng yếu nữa. Chỉ câu pháp hướng dài là nhắc tâm nhẹ nhàng, cũng như cái lời khuyên con.
Còn cái câu pháp hướng mà ra lệnh như cái lời đe doạ, “Mày mà còn đi chơi với bạn bè mày nữa thì tao giết mày, tao không để mày!”, đó là cái câu pháp hướng truyền lệnh, “Từ đây mà tao thấy cái mặt mày mà ở trong cái quán đó nữa thì tao giết mày!”, thì đó là cái câu truyền lệnh.
(36:26) Còn cái câu “Con đừng có vào cái quán đó chơi, ở đó là bạn bè hư thân mất nết, rượu chè, bài bạc này kia, con chơi rồi lớn lên con sẽ trở thành một cái tên lưu manh, nó không đúng này kia…”, đó là cái lời khuyên lơn con mình. Tức là cái pháp hướng đó là pháp thường nhắc, cho nên nó nhẹ nhàng mà nó nhiều, nó nói tùm lum đủ thứ hết.
Còn cái câu pháp hướng càng gọn, “Mày chết, mày vô đó tao giết mày!”, đó là cái câu nói là pháp hướng, thì chúng ta phải biết sử dụng những cái câu, nhưng mà cái câu pháp hướng nhắc tâm nó càng gọn bấy nhiều nó càng tốt chớ không phải.
Thí dụ “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”, “hơi thở vô tôi biết vô, hơi thở ra biết ra”,“hơi thở vô”, mình nhắc nó vậy, “hơi thở vô, hơi thở ra”, thì khi mình thở ra mình nói “thở ra”, khi thở vô mình nói thở “vô”, cứ vậy mình nói, nó càng ngắn tức là cũng nhắc tâm.
Thí dụ như bây giờ cái ý thức của mình hay có vọng tưởng thì mình nhắc: “ý thức phải tỉnh!”, mình nhắc nhẹ “ý thức phải tỉnh”, thì mình nhắc cho nó, cứ lát nhắc chút, lát nhắc chút thì nó tỉnh, nó không có phóng khởi ra vọng tưởng.
Tuỳ theo ở tâm của mình, đặc tướng của mình mà mình đặt cái pháp hướng cho ngắn ngọn, thì nó sẽ không quên. Còn cái câu pháp hướng mà dài quá, khi mà mình muốn hướng mình không nhớ, nhiều quá rồi bây giờ không nhớ hết, đọc hết trở lại. Chỉ còn có nước lật cái tờ giấy ra mà đọc thì mới được, chớ còn bây giờ không đọc thì quên hết.
Đó thì, do cái chỗ mà con đặt những pháp hướng như vậy thì con hay quên, là bởi vì nó nhiều. Có khi mà con tu một cái định đó, mà con hai, ba câu pháp hướng, cho nên nhớ được câu này thì nó lại quên câu khác.
“Ví dụ con tu Định Niệm Hơi Thở hoặc Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, mà vọng tưởng cứ xen vào làm con thất niệm nơi hơi thở, thì có hai cách đặt pháp hướng.”
Đây là Thầy đem những cái ví dụ để cho con nương vào đó mà đặt. Là nhắc tâm thì “hơi thở vào tôi biết hơi thở vào, hơi thở ra tôi biết hơi thở ra”. Đó là cách thức mà hướng tâm, nhắc tâm. Bây giờ truyền lệnh tâm nè: “vọng tưởng hãy dừng, không được xen vào”, đó là mình nhắc, trong khi đó mình đang nương hơi thở.
“Nếu dùng pháp hướng ngắn hơn, dễ nhớ hơn, thì mình sẽ nhắc tâm của mình bằng pháp hướng ngắn hơn “hơi thở vô, hơi thở ra”,”
Tức là mình thở vô mình nhắc “hơi thở vô”, rồi mình thở hết hơi thở vô, rồi bây giờ bắt đầu thở ra, “hơi thở ra” mình nhắc “hơi thở ra.
Mình còn ngắn hơn nữa, nhắc ngắn hơn nữa, thì khi mà hơi thở vô mình nói “vô”, khi ra mình nói “ra”, đó mình nhắc ngắn hơn nữa.
(39:14) Mình chỉ có dùng một chữ mà nó cũng trở thành một câu pháp hướng của mình đó, “ra”, “vô”, “ra”, “vô”, cứ theo cái hơi thở mình nhắc “ra” “vô”, rồi mình ngưng, một phút sau mình nhắc, “ra”, “vô”. Và cứ như vậy nó làm cho cái sức tỉnh của mình nó nương vào hơi thở mà nó không bị vọng tưởng.
Truyền lệnh tâm “vọng tưởng dừng!”, đó mình truyền lệnh tâm, mình bảo “vọng tưởng dừng’, thì đó là mình truyền lệnh, mình dùng những cái danh từ ngắn gọn như vậy.
Còn mình dài thì nhắc nó lê thê nó dài, nó không mạnh. Mình chỉ “ra!”, “vô!”, “ra!”, “vô!” như vậy là mình biết là hơi thở ra vô rồi, mình dùng những cái danh từ nó gọn, ngắn.
Đó là những cách thức mà mình trạch cái câu pháp hướng của mình cho nó đúng với cái đặc tướng, cái hoàn cảnh của mình, nó làm cho mình không có quên.
(40:09) Hỏi: “Kính bạch Thầy! Các cụm từ mà Đức Phật đã đặt ra Thất Kiết Sử, Ngũ Triền Cái, Thánh phòng hộ sáu căn, xin Thầy giải thích cho con được hiểu?”
Đó, những cái cụm từ này, nhiều khi các con cũng có nghe nói Thất Kiết Sử nè, Ngũ Triền Cái nè mà không biết sao nó cũng có tham, sân, si gì tùm lum ở trỏng, không biết nó giống nhau khác nhau chỗ nào? Bây giờ thầy Chân Thành hỏi, thì một người hỏi, Thầy trả lời bao nhiêu người sẽ hiểu.
Đáp: “Thất Kiết Sử là bảy cái pháp trói buộc con người, khiến cho đau khổ. Bảy pháp đó gồm:”
Bảy pháp đó gồm có đó, nó gồm có cái gì đây?
“Một là ái kiết sử.”
Thứ nhất là ái kiết sử.
“Ái kiết sử có nghĩa là lòng thương yêu, ưa mến, thích thú của mình, nó đã trói buộc mình, làm cho mình đau khổ.”
Nghĩa cái lòng thương yêu của mình đối với một cái đối tượng nào đó, một cái vật gì đó, đối với cha mẹ anh em, đều nó thuộc về ái kiết sử. Cho nên cái lòng thương yêu đó nó trói buộc mình, nó làm cho mình đau khổ.
Hoặc là mình ưa thích một cái vật gì đó, thì cái đó cũng thuộc về ái kiết sử, cho nên nó trói buộc mình dữ lắm. Bây giờ thí dụ như mình ưa thích cái nhà, thì chính cái nhà đó là cái ái kiết sử, cho nên nó trói buộc mình, làm cho mình ưa thích nó, vì vậy mà mình chịu đau khổ đủ cách, đó là ái kiết sử.
“Sân kiết sử là lòng sân, buồn, tức, giận, dữ của mình đã trói buộc mình, làm cho mình buồn khổ.”
Nghĩa là nó kéo cho mình triền miên, nó luôn luôn nó miên mật ở trong cái lòng của mình, nó làm cho mình cứ giận, nó kéo dài hoài hoài, cho nên nó trói buộc mình, nó làm cho mình không có bao giờ nguôi cái lòng sân đó được, lòng giận hờn đó được. Đó là cái sân kiết sử, nó trói buộc mình, nó làm cho mình kéo dài hoài, nó buộc mình hoài.
(41:58) “Ba: kiến kiết sử. Kiến kiết sử là sự cố chấp hiểu biết của mình, cho là đúng, còn tất cả sự hiểu biết của người khác cho là sai. Vì thế nó tự trói buộc lại mình, làm khổ mình, ai nói gì mình cũng chẳng nghe.”
Thí dụ như bây giờ mình nói như thế này, tôi thì tuổi trẻ, còn nhỏ chưa biết đời, cho nên phải hiểu đời rồi tu mới dễ xả bỏ, còn bây giờ chưa biết đời mà xả bỏ, tôi chưa có biết gì hết, tôi xả bỏ khó lắm. Do đó cái ý kiến, cái kiến chấp của mình là vậy.
Nhưng mà người ta nói đời là khổ, đừng có nhiễm nó, nhiễm nó là xả không có được, nhưng mà mình cứ mình chấp, mình chấp là có cái ý của mình như vậy, là mình phải hiểu đời mình mới xả được, còn mình chưa hiểu. Do cái chỗ kiến chấp đó thì nó là kiến kiết sử, nó trói buộc mình hoài, nó làm cho mình không có chấp cái lời nói của cái người có kinh nghiệm đi qua.
Vì vậy mình bị trói buộc ở trong đó, cho nên mình cứ ray rứt, mình khổ đau, mình phải như thế nào, thế nào, nó làm cho mình phải tìm hiểu chớ còn không hiểu thì mình… Nhưng mà khi mà đã hiểu rồi, thì tới chừng đó thì lời của những người mà người ta, những cái hiểu biết của người ta, tức là kiến là cái hiểu biết của người ta, người ta nói quá đúng rồi, bây giờ mình có rồi mình không xả được rồi!
Trời ơi! Bây giờ có vợ, có con một bè rồi làm sao bây giờ mình xả đây? Trời ơi mình bỏ nó đâu có được, cho nên vì vậy mà bây giờ mình dở chết dở sống. Hồi đó không có thì khoẻ quá, mà bây giờ có thì khổ quá. Đó cho nên kiến kiết sử là nó trói buộc mình rất chặt.
“Nghi kiết sử là lòng nghi ngờ, tự trói buộc mình, làm khổ mình, mà chẳng bao giờ chịu rời bỏ.”
Nghĩa là cái lòng nghi của mình, mình nghi cái gì đó, mình không có chịu bỏ cái lòng nghi đó, cho nên do cái chỗ đó mình sẽ mất đi cái nghị lực, mình mất hết cái nghị lực của mình. Mình nghi cái chỗ đó. Thí dụ bây giờ mình nghi cái pháp đó tu không được, thì mình hết có muốn tu nổi rồi.
“Một người học trò mà nghi thầy dạy mình là tu chưa tới nơi, lòng nghi này làm cho mình không còn tu tập được nữa. (44:06) Như nghi đức Phật là không đúng, hay đạo Phật không đúng, thì không còn theo đạo Phật tu nữa.”
Đó là cái nghi mà nó sẽ mất đi cái chỗ tu tập của mình. Cho nên cái nghi kiết sử này nó trói buộc, nó làm cho mình không có xả ra được, nó trói buộc mình. Do đó, từ đó cái người học trò mà xa thầy, họ nghi ông thầy bằng cách này cách khác, mà họ không có tự tìm hiểu cho nó rõ ràng.
Do đó họ bị cái nghi đó mà họ không còn tu tập được với pháp của một vị thầy nữa. Cũng như mình nghi Phật, thì tức là mình không thể nào mình theo đạo Phật được. Đó là cái nghi nó trói buộc mình, từ đó mình bị trói buộc mà mình không có tự sáng suốt lấy ra.
Bởi vậy Đức Phật dạy, cũng như Thầy dạy, cái gì Thầy nói thì đừng có tin Thầy mà hãy suy ngẫm, suy ngẫm rồi thấy đúng mới tin. Như vậy nó có còn nghi không? Nó không còn nghi.
Còn bây giờ Thầy nói thì không chịu nghe, không có chịu nghe cái lời giảng dạy của Thầy, do đó không chịu suy ngẫm có đúng hay không, cho nên vì vậy đó mà mình đâm ra mình nghi Thầy bằng cách này, cách khác, từ đó mình không còn tu tập nữa.
“Năm: mạn kiết sử, là lòng ngã mạn, kiêu căng, tự đắc, tự trói buộc mình, lúc nào cũng tự xem mình là trên hết. Do lòng hiu hiu tự đắc này đã làm khổ mình,”
Tức là đã trói buộc đó, đã làm mình rất khổ mà mình không có hay biết gì, mình tưởng mình ngon, tưởng mình hay đó, cho nên mình cứ tự coi như là mình ngon nhất đó. Thì do đó nó tự làm cho mình trói buộc mình mà mình không có chịu bỏ cái chỗ đó.
Cho nên hầu như người ta có một chút ít học thức nào đó, bỗng dưng người ta có cái mạn kiết sử liền tức khắc, nó trói buộc họ, họ coi cái chỗ học của họ là hơn hết, cho nên họ bị cái ngã mạn, cái mạn đó.
“Sáu là hữu tham kiết sử.”
Hữu tham kiết sử là những cái vật mình có sẵn rồi, như bây giờ mình có cái nhà, cái đồng hồ, cái bàn, ghế, cái này kia, những cái vật mình có sẵn rồi, mà bây giờ những cái vật này nó mất đi, mình buồn nè, mất đi mình tiếc nè, ai làm hư thì mình giận, mình chửi người ta nè. Thì đó gọi là hữu tham kiết sử, nó làm cho mình buông xả không được, tức là mình bị trói buộc.
Cũng như cái nhà mình bây giờ có người nào lại họ lấy đi, hay hoặc cái bàn này họ lấy đi, thì tức là mình phải nói: ”cái bàn này của tui, không phải của ông đâu, ông lấy không có được!” do đó tức là mình không có rời bỏ được cái của.
(46:36) Thầy nói thậm chí như một tu sĩ chúng ta có một cái bình bát thôi, mà cứ sửa sang cho cái bình bát đẹp là cái người đó cũng bị hữu tham kiết sử rồi đó chứ chưa nói. Xả hết!
Cho nên thí dụ như chúng ta một có cái gì tốt, mà người ta xin thì vui lòng cho liền, thì cái người đó không bị hữu tham kiết sử, còn mình thấy cái vật này tốt, không dám cho, thì tức là mình còn bị hữu tham kiết sử nó trói buộc mình với cái vật đó.
Thí dụ cái đồng hồ của Thầy đây, mà ai hỏi xin Thầy nói “Đồng hồ này hư rồi, thôi để Thầy kiếm cái đồng hồ khác!” Nhưng mà đó là cái hữu tham kiết sử, Thầy muốn giữ nó đó, Thầy khéo léo nói vậy đó chớ Thầy muốn giữ nó Thầy không muốn rời nó đó, nó có những cái kỷ niệm của Thầy này kia, hồi đó có một cái người bạn nào đó mà biếu Thầy, bây giờ bỏ nó thì mất cái tình kỷ niệm.
(Xem tiếp ở Pháp hành 15)
HẾT BĂNG
PHÁP HÀNH 15 - NGŨ TRIỀN CÁI VÀ THẤT KIẾT SỬ
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Thời gian: 1998
(tiếp theo Pháp hành 14)
(0:00) Giải thích như vậy thì chắc chắn là quý thầy có lẽ cũng hiểu rất rõ chớ.
Cho nên ở đây, cái gì mà chúng ta có mà chúng ta bỏ ra không được, thì cái đó gọi là hữu tham kiết sử, tức là bị trói mình với cái vật đó, thì đó là hữu tham kiết sử.
“Vô minh kiết sử là điều mình không hiểu mà cứ nghĩ rằng mình hiểu.”
Cũng chẳng hạn là như các thiền sư đó, họ không hiểu mà họ cứ nghĩ rằng mình đã hiểu. Cũng như không hiểu Diệt Thọ Tưởng Định mà họ dám nói đùa như vậy đó, râu tóc mọc dài như vậy đó! Đó là cái họ không hiểu, mà cái đó là cái vô minh của họ, mà họ không biết.
“Ví như các thiền sư Đông Độ, không hiểu Tứ Thánh Định mà cứ cho mình là hiểu, nên xếp loại nó vào thiền Tiểu Thừa, Phàm Phu Thiền hay Ngoại Đạo Thiền.”
Nghĩa là mình không hiểu nó, mà bây giờ mình dám xếp loại nó vào những cái loại thiền như vậy, thì tức là mình chẳng biết gì hết.
Cho nên theo trong kinh sách, thì ngài Khuê Phong, ngài viết kinh sách đó, ngài thiền giáo, ngài dung hòa trở lại để cho nó đồng hành trên một đường tu hành, cho nên ngài xếp loại năm loại thiền. Do đó cái thiền mà chúng ta đang tu, Tứ Thiền đó, thì ngài xếp cho nó vào cái loại Thiền Phàm Phu, Thiền Tiểu Thừa.
Cho nên cái đó là cái gọi là vô minh kiết sử, cái không biết mà ngài cứ ngỡ rằng ngài biết, cho nên ngài xếp loại rồi bây giờ sau này ai cũng theo đó mà xếp làm năm cái loại thiền định, thì cái loại thiền Tiểu Thừa, thiền Phàm Phu này do từ ngài Khuê Phong đặt ra, chớ cũng không phải là ai đặt ra. Chúng ta biết được cái nhân vật làm ra cái điều này.
Rồi bây giờ chúng ta cứ ngỡ rằng ngài thiền sư Khuê Phong là một ngài Thánh cho nên biết tất cả. Sự thật ra ông chẳng có nhập được cái Tứ Thiền chút nào hết, ông cũng chẳng biết nó tịnh chỉ hơi thở như thế nào hết, mà ông dám bảo rằng nó là thiền phàm phu!
Mà không ngờ rằng trong cái loại thiền này thì Đức Phật đã xác định cho chúng ta biết rõ ràng là Thánh trú, cái bậc Thánh mới ở trong cái loại thiền này. Phạm trú, tất cả những Phạm trú là cái đức hạnh Phạm Thiên, nó ở trong cái này, Như Lai trú, tức là bậc Như Lai mới trú vào ở trong cái chỗ này.
Đức Phật xác định cho chúng ta biết là bốn cái loại thiền nó như vậy, thì nó là những bậc Thánh, mà bây giờ là Phàm Phu Thiền thì Thầy thấy, chỉ phàm phu nó mới nhập cái định đó, chớ còn Thánh đâu ở trong đó làm chi?
(2:27) Đó là cái sai của họ. Cho nên đây là tới cái bảy, vô minh là cuối cùng, nhưng mà cái không hiểu mà người ta xếp, người ta coi như mình hiểu.
Cũng như nhiều khi mình thương nhớ hoặc này kia nọ trong lòng của mình đó, mà mình không hiểu, thì tức là cái đó là cái vô minh kiết sử. Nó làm cho mình dính mắc ở trong cái chỗ mình không hiểu đó, nó trói buộc mình trong cái chỗ không hiểu đó, mà mình cứ cho mình hiểu.
(2:54) “Ngũ Triền Cái là năm cái màn che.”
Hồi nãy có tham, sân, si, mạn, nghi, rồi nó có cái ái kiết sử và cái hữu tham kiết sử, còn ở đây thì nó tham, sân, si, mạn nghi thôi.
Cái tên thì coi như là, nó chỉ có cái tên đầu thì nó giống nhau: tham, sân, si, mạn, nghi, còn cái tên sau cùng, thì cái kia là “kiết sử”, là trói buộc, còn cái này là “triền cái”, là cái màn che. Cho nên Ngũ Triền Cái là năm cái màn che che đậy, nó che đậy, nó làm cho chúng ta không có thấy.
Cho nên ở đây, tham là lòng tham muốn của chúng ta, cái lòng tham muốn nó che đậy, nó làm chúng ta không thấy cái đúng, cái sai, cái thiện, cái ác. Do cái chỗ đó nó mới đem đến cho chúng ta khổ đau.
Nó che đậy đi chớ nó không trói buộc như cái kia, còn cái kia nó trói buộc.
Như cái hữu tham kiết sử đó, chúng ta thấy tham ở đây, nhưng mà lại có hữu tham kiết sử, cái vật có rồi mà chúng ta bỏ không được, chúng ta bị dính mắc trói buộc, thì cái đó là hữu tham kiết sử. Còn ở đây nó không có cái gì hết, mọi cái nó thấy, mọi cái nó che đậy.
Thí dụ như bây giờ, người ta nói uống rượu là sẽ ghiền, là sẽ nguy hiểm, sẽ bịnh tật, nhưng mà cái lòng tham uống rượu đó, thì nó che đậy đi, nó không có thấy nó là tai họa, nó không có thấy là cái sự khổ.
Thí dụ như bây giờ một cái người tham sắc dục đi, người ta nói tham sắc dục là khổ, nó sẽ sanh con đẻ cháu, nó sẽ đem tới cái khổ này đến cái khổ khác, rồi cơm ăn áo mặc nó khổ.
(04:39) Thế mà cái người tham ấy, nó che đậy cái lòng tham, nó che đậy đi, họ nghe nói khổ vậy chớ họ không có tin, cho nên họ lấy vợ, lấy chồng rồi họ mới sanh con đẻ cái ra. Chừng nào họ khổ thì họ mới biết khổ thôi, chớ còn họ, cái lòng tham muốn đó họ vẫn còn, cho nên nó che đậy họ, họ thấy khổ họ chịu khổ chớ còn họ không nghĩ gì đến để giải khổ hết.
Khổ là khổ à, chớ họ không chấp nhận khổ à. Đó là cái lòng tham nó che đậy, chớ không phải là trói buộc, mà nó che đậy làm cho họ không có sợ cái khổ, không có thấy cái đó là nguy hiểm, không có thấy cái chỗ đó là khổ đau.
Ví như thấy một chiếc xe Honda, hoặc là chiếc xe Dream, khởi tâm tham muốn, tìm mọi cách làm để có tiền mua sắm nó, đó là cái khổ thứ nhất. Đến khi mua sắm được chiếc xe rồi thì chạy xảy ra tai nạn, gãy chân gãy tay, đó là cái khổ thứ hai.
Cho nên hiện giờ chúng ta thấy cái xe chúng ta ham, chúng ta không thấy những cái tai nạn, cái khổ đó đâu. Bây giờ làm ra có tiền để sắm chiếc xe, thì chúng ta thấy nó phải vất vả cực khổ, chớ không lé đi ăn trộm cắp người ta được. Thì nó phải có một cái tích lũy một thời gian nó mới có được cái đồng tiền.
Rồi bắt đầu bây giờ có xe rồi, thì không lẽ mà để xe ở trong nhà chơi sao, cho nên phải chạy, chạy tới chạy lui. Hôm nào xe đụng, gãy tay gãy chân nằm nhà thương, bây giờ cưỡi không được, để xe đó ngó, mà lại là khổ đau. Cho nên bây giờ mới biết, mà biết được thì nó đã muộn rồi.
Mà khi mà cái lòng ham đó thì nó không thấy gãy chân gãy tay đâu, mà nó thấy cái xe là ngon, chớ nó đâu biết rằng cái tai nạn nó sẽ xảy đến cho cái lòng tham đó, cái lòng ham muốn đó, cho nên gọi là tham triền cái.
Cái tham đó là tham triền cái, nó che đậy, nó không thấy cái khổ đó, nó làm cho mình không thấy. Cho nên thế mà khi lòng tham muốn người ta không thấy cái khổ, nên gọi là tham triền cái, ngăn che không thấy cái khổ.
(06:37) “Sân triền cái tức là lòng tức giận, ngăn che không thấy khổ.”
Do không cái thấy cái nỗi sân của mình là khổ, vì vậy đó mình chửi mắng, mình đánh đập người ta, mình nổi giận lên, mình rút gậy hay hoặc là rút dao mình chém người ta đi.
Thì lúc bấy giờ đó, thì mình không thấy được cái nỗi sân khổ nơi thân của mình, mà mình chỉ hả cái cơn sân của mình bằng cách là mình đánh trả, chửi mắng người ta lại. Do đó nó càng lúc nó đi đến cái khổ càng khổ hơn nữa.
Thì cái sân triền cái nó che đậy, nó không thấy ngay từ cái bắt đầu mình nổi sân đó, đó là cái khổ rồi, nó không thấy, cho nên nó che đậy. Vì vậy nó tiến tới những cái mà mình chửi người ta, rồi mình lấy gậy, lấy dao mình chém người ta, đó là những cái nó đem đến những cái khổ, mà sau này đi nằm nhà thương, hoặc ở tù, nó còn khổ dài dài hơn nữa.
“Ví dụ khi nghe người khác mạ nhục, tức giận rút cây hoặc dao rựa đánh hoặc là chém người ta cho hả cơn giận. Khi hết cơn giận thì khổ phải ôm lấy, như nằm nhà thương, hoặc là ở tù.”
Đó thì, những cái đó, nó bởi vì cái cơn sân lúc bấy giờ, hầu hết là người ta không có thấy cái khổ, mà người ta thấy cái sân không à, chớ người ta không thấy cái khổ. Thì cái sân đó nó che đậy, thì nó gọi là sân triền cái.
“Lòng sân che đậy không thấy sự khổ sẽ đến với mình rẫy đầy trong cuộc sống hằng ngày, nên gọi là sân triền cái.
Si triền cái là cái màn che trí tuệ làm cho nó không hiểu biết Chánh Pháp, tà pháp, thiện, ác.”
Đó, cái si triền cái nó không phải như là cái vô minh kiết sử. Cái si triền cái đây là cái màn che, nó che cho mình không có rõ được cái Chánh Pháp, không rõ được cái tà pháp.
Cho nên thí dụ như bây giờ chúng ta không rõ được Thiền Đông Độ, không rõ được Tứ Thiền của Phật, chúng ta không rõ, Chánh Pháp cũng không rõ mà tà pháp cũng không rõ, rồi không rõ được cái thiện, cái ác nữa.
Như hồi nào tới giờ thì các thầy cứ nghe nói thiện ác, thì biết thiện ác như vậy. Nhưng mà khi mà nói đến thiện thì chưa ai biết được cái tâm của chúng ta trong khi nó ở trong cái trạng thái như thế nào đó mà gọi là tăng trưởng thiện?
Bây giờ nó không tham, thì lòng mình không tham, thì tức là nó là thiện! Mà từ hồi tới giờ thì mình cũng ở trong thiện đó mà mình không biết, tức là mình bị si triền cái che đậy.
Bây giờ Thầy mới triển khai cái si triền cái này, để mà nói ra, để phá vỡ cái màn này, thì bây giờ mới biết thiện là ở chỗ mức độ nào. Chớ hồi nào tới giờ thiện này thì nhiều người cũng chưa có hiểu được cái thiện của Tứ Chánh Cần đâu.
(09:23) Bởi vì không thập ác thì nó là thập thiện chớ có gì đâu. Đó thì cái chỗ này mà nếu không triển khai ra, thì người ta cứ ngỡ là cái thiện là ở đâu đem vào, cho nên nó phải tăng trưởng nó, phải làm nó nhiều hơn.
Vì vậy mà các nhà từ thiện, hay hoặc là các vị thầy nghe chữ Thiện này, thì họ mau mau là đi gọi người cứu trợ đầu này đầu kia, cuối cùng thì cái thiện này chỉ là Tứ Vô Lượng Tâm mà thôi, chớ không phải là cái thiện của thập thiện, thập ác.
“Ví dụ người ta nói thiền xuất hồn, Thiền Đông Độ, Mật Tông, Tịnh Độ Tông là của đạo Phật, chúng ta liền tin theo mà không cần suy tư, đó là si triền cái.”
Tức là chúng ta không cần suy nghĩ coi nó có đúng hay sai như thế nào, tin theo liền!
“Mạn triền cái là cái tánh tự kiêu, tự đại che ngăn làm cho mình không thấy cái chỗ dở của mình.”
Nhiều khi ở đời con người ta có cái giỏi, mà cũng có cái dở. Mà vì cái mạn triền cái nó che, cho nên nó không thấy cái dở của mình, mà nó thấy cái hay của mình không.
Người ta nói cái túi khôn của mình mình treo trước mặt, còn cái túi dại của mình thì treo sau lưng đó. Mình không thấy được nó, không thấy cái dại của mình, mà cứ thấy mình cái khôn không à.
Cho nên đời của mình, mình dở là dở chỗ đó. Mà cái dở đó tức là bị cái mạn triền cái, cái tánh ngã mạn, kiêu căng của mình, tự nghĩ rằng mình hơn người, giỏi hơn, cái gì mình cũng hiểu biết hết, cho nên do đó mà mình trở thành dại.
(11:03) “Ví dụ mình ăn uống phi thời, phá giới luật, có vợ con mà vẫn xem mình là một vị Tỳ Kheo, một vị thầy tu, hiu hiu tự đắc lên pháp đường giảng thuyết, mà không biết xấu hổ. Đó là bị mạn triền cái che ngăn.”
Nghĩa là một cái việc làm đó nó không phải là cái vị trí của một người phá giới mà đi làm, thế mà mình học, mình thuyết, mình nói hay được, là mình trèo lên đó mình ngồi mình nói. Mình ăn uống phi thời, mình không giữ gìn giới luật của Phật, mình trèo trên cái pháp tòa đó mình thuyết pháp mình nói.
Thì mình nói theo cái lý của Phật pháp, kinh điển của Phật pháp mà trong khi mình làm những cái điều mình nói không được đó, mà mình không biết xấu hổ, đó là mình bị cái mạn triền cái ngăn che, cho nên mình không biết xấu hổ. Nếu mà cái người này họ không có cái mạn triền cái này, thì ngay đó họ không làm cái điều này đâu.
Thầy đem những cái ví dụ như vậy để chúng ta hiểu được cái mạn triền cái với cái mạn của kiết sử nó không giống nhau đâu.
“Năm: nghi triền cái là lòng nghi ngờ ngăn che không thấy sự thật.
Ví dụ người ta nói pháp môn Tịnh Độ là mê tín, Thiền Tông là pháp môn chấp ngã, mình không tin, nghi ngờ lời nói đó là sai, vì những pháp môn này do các Tổ truyền lại, chỉ tin vào các Tổ mà không chịu tìm hiểu cho rõ ràng, đó là bị nghi triền cái ngăn che.”
Nghĩa là mình nghi cái lời người ta nói. Mình nghe người ta nói rồi, mình đừng có nghi ngờ, mà mình nói: “Đây có lẽ là một cái sự thật, để mình tìm hiểu coi những cái pháp môn này có đúng cái lời nói này hay không?”
Cũng như Thầy nói, đừng có tin Thầy, mà hãy suy ngẫm, phải tìm, suy nghĩ lại coi cái lời nói Thầy có đúng không, nếu đúng thì tin. Mà bây giờ không chịu suy nghĩ, mà cứ Thầy nói như vậy là bài bác pháp môn của người ta chứ không phải là đúng. Cho nên đó là cái nghi, cái nghi lời nói của Thầy nó không đúng.
Nhưng khi mà Thầy nói ra, mình muốn cho nó rõ thấu, đừng có nghi ngờ, thì mình phải suy nghĩ lời nói đó. (13:11) Rồi mình tìm hiểu những người tu hành theo các pháp môn đó, họ có đạt đúng như vậy không, hay hoặc là họ đang ở trong cái chỗ mà Thầy nói sự thật như vậy. Do đó, thì cái lòng nghi nó không bị che mờ.
Còn nếu mà mình nghi rồi mình không chịu tìm hiểu một cái gì hết, thì cái nghi đó nó che mờ mình, rồi mình cho rằng từ xưa đến giờ Tổ truyền lại như vậy, nhiều người truyền lại như vậy, chắc chắc là phải đúng, còn Thầy chỉ nói như vậy là nói sai, không đúng. Thì cái đó là cái không đúng, bởi vì Đức Phật nói: “Ta nói cũng đừng tin ta, mà hãy suy ngẫm những điều ta nói có đúng hay không, rồi hẵng tin.”
Ở đây là cái chỗ cuối cùng là hồi nãy phân chia ra để thấy cái nghi triền cái và cái Thất Kiết Sử nó có những cái khác nhau như vậy đó, cái thì che ngăn, còn cái thì trói buộc.
(14:01) “Thánh phòng hộ sáu căn, nghĩa là giữ gìn: mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý tiếp xúc với sáu trần: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp không cho dính mắc, chấp đắm bằng Định Vô Lậu đặt trên Thân Niệm Xứ của mình tu tập.”
Thì trong cái chỗ Thánh phòng hộ như thế nào? Thánh phòng hộ là lúc nào chúng ta cũng giữ gìn mắt, tai, mũi, miệng tức là sáu căn của chúng ta, khi mà tiếp xúc với sáu trần thì giữ gìn đừng có cho nó dính mắc, hoặc giữ gìn không cho nó tiếp xúc.
Thí dụ như bây giờ mình sống độc cư, tức là cái lối giữ gìn mình không cho tiếp xúc, đó là phòng hộ sáu căn. Còn khi mà mình lỡ có tiếp xúc, thì mình tìm mọi cách để không cho nó dính mắc, thì đó gọi là phòng hộ sáu căn, hay gọi là Thánh phòng hộ sáu căn.
Nhưng mà muốn tu tập được cái chỗ không dính mắc này, thì lúc bấy giờ chúng ta đem cái Định Vô Lậu mới đặt ở trên cái thân niệm của chúng ta. Vì thân niệm của chúng ta mới có sáu căn, mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý, cho nên chúng ta mới hóa giải được cái sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp nó tiếp xúc vào mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý chúng ta, nó trở thành những cái dục, cái ái dục của chúng ta, nó làm cho chúng ta khởi ham muốn.
Cho nên muốn giữ gìn nó Thánh phòng hộ, thì chúng ta lấy Định Vô Lậu đặt trên Thân Niệm Xứ, để mà chúng ta tu tập thì chúng ta mới xả bỏ được, chúng ta mới phòng hộ được sáu căn.
Còn không thì, chúng ta phải sống độc cư, giữ gìn nó đằng xa gọi là phòng hộ đằng xa, thì chúng ta sống độc cư không tiếp xúc, không cho mắt, tai, mũi, miệng của mình tiếp xúc với sáu trần, thì chúng ta khỏi cần tu Định Vô Lậu
(15:39) *Hỏi:* “Kính bạch Thầy! Tại sao lại có sự phân chia Phật giáo thành hai trường phái, Bắc Tông và Nam Tông? Sự phân chia này mỗi trường phái mang một đặc tính gì và giúp ích gì cho sự trường tồn của đạo Phật?”
Đáp: “Sau khi Đức Phật tịch, giáo đoàn không ai điều khiển, nội số tu sĩ trẻ phát triển kiến giải của mình, soạn kinh, viết sách luận theo sự hiểu biết của mình. Các vị Trưởng lão lớn tuổi không ngăn được sự phát triển của tuổi trẻ, đã làm lệch lạc Phật pháp quá nhiều. Muốn bảo trì Chánh Pháp, các vị trưởng lão quyết tâm giữ chánh pháp của Phật, không cho vị nào thêm bớt một chữ vào tạng kinh đã được kết tập.
Các vị Tỳ Kheo trẻ tuổi không bằng lòng nên nhóm họp nhau, bàn bạc riêng tư với nhau, từ đó chia làm hai bộ phái:
Một: Thượng Tọa Bộ, bây giờ gọi là Nam Tông. Vì Thượng Tọa Bộ các vị tu sĩ giữ gìn tạng kinh Nguyên Thủy, đi về phương nam hoằng hoá độ sanh truyền đạo Phật sang các nước ở phương nam nên gọi là Nam Tông.
Hai: Đại Chúng Bộ, bây giờ gọi là Bắc Tông, kinh sách tự soạn ra theo kiến giải của mình, nên kinh sách được gọi là kinh sách phát triển Đại Thừa. Kinh sách này chỉ dựa vào một số pháp môn trong kinh sách Nguyên Thủy rồi thêm chân, thêm râu ria, đệm vào những pháp môn của ngoại đạo đủ loại mê tín, thiếu thực tế cụ thể, thiếu pháp hành và mang nhiều tính chất trừu tượng. Trường phái này đi truyền giáo về các nước phương bắc nên gọi là Bắc Tông.
Nam Tông giữ gìn đặc tính nguyên thủy của Phật pháp. Bắc Tông thì phát triển và hòa nhập vào phong tục tập quán và các tôn giáo khác của mỗi nước, nên Phật giáo Bắc Tông không còn mang tính chất nguyên thủy của lúc ban đầu, y áo, ăn, mặc, lối sống không còn giống như Phật giáo lúc Đức Phật còn tại thế.”
(17:52) Nghĩa là quý thầy thấy, bây giờ đó, y áo của phái Bắc Tông, ở Nhật Bổn thì nó cũng khác, ở Trung Hoa nó mặc cũng khác, đến Việt Nam rồi nó cũng khác. Nó không có một cái hình thức thống nhất như thời Đức Phật. Nhưng nguyên thủy Nam Tông thì nó vẫn giữ, đến nước nào thì nó cũng vẫn giữ y cái y áo của đức Phật, cái hình thức ở bên ngoài của Nam Tông nó vẫn giữ nguyên.
Còn Phật giáo Bắc Tông, nó qua Nhật Bổn thì cái áo cái y của nó khác rồi, nó không giống như ở Nam Tông, ở Bắc Tông của Việt Nam . Rồi Bắc Tông của Trung Hoa thì nó ảnh hưởng ở Việt Nam rất nhiều, cho nên Việt Nam mình mặc y áo thì nó giống Trung Hoa, từ cái áo tràng, cái áo này kia rồi cũng giống Trung Hoa. Còn Nhật Bổn, coi vậy chớ nó không có ảnh hưởng Trung Hoa nhiều, nên cái y áo của nó theo cái lối y áo của dân tộc nó.
Cho nên cái áo mà các con mặc đó, là áo của Trung Hoa, chớ không phải của Việt Nam mình. Nhưng nó khéo léo hơn nữa là người Việt Nam mình lấy cái màu của người dân cày ruộng của mình đó, tức là màu đà đó mà làm cái áo tu sĩ của mình. Đó, người Việt Nam mình nó cũng còn giữ được cái bản chất của Việt Nam mình.
Phật giáo thay đổi như vậy đó, nghĩa là tới cái y áo nó cũng không còn giữ cái nguyên chất cái nguyên thủy của nó nữa.
“Phật giáo Bắc Tông còn mang cái danh Phật giáo, còn pháp môn tu tập đầy ắp những ảnh hưởng pháp môn của ngoại đạo. Sự trường tồn và phát triển của Phật giáo Bắc tông là sự trường tồn phát triển của giáo pháp Ấn Độ, của các tôn giáo Ấn Độ mang tên Phật giáo mà thôi.
Phật giáo Nam Tông còn giữ được sắc thái Phật giáo, giáo lý còn những bài kinh chính gốc.”
Nghĩa là trong giáo lý của Phật giáo Nam Tông thì nó còn những cái bài kinh chính gốc.
“Tuy cũng có những sự thêm bớt nhưng không làm mất tính chất nguyên thủy. Phật giáo Nam Tông không bị ảnh hưởng của các tôn giáo khác, nhưng vẫn bị ảnh hưởng phong tục tập quán của con người.”
(19:56) Nghĩa là nó đến các xứ mà nó truyền đạo thì nó bị ảnh hưởng tập quán của cái xứ đó, cái tập quán cái phong tục của xứ đó, nhưng mà nó không có mất cái tính chất nguyên thủy của nó.
“Sự trường tồn và phát triển Phật giáo Nam Tông là sự trường tồn phát triển Phật giáo chính gốc, nhưng các sư tu hành bị ảnh hưởng Phật giáo Bắc Tông,”
Cái phần nhiều là hiện bây giờ thì các sư đều có chịu ảnh hưởng của Bắc Tông hết.
“Nên đã không sống không đúng giới luật.”
Phần nhiều là các sư bên Nam Tông bây giờ nó không sống đúng giới luật là vì ảnh hưởng của Bắc Tông.
“Tu thiền định không có người tu chứng hướng dẫn, tự kiến giải tu tập, nên đã lạc hướng như Thiền Minh Sát Tuệ tĩnh lặng của thiền sư Ajahn Chah không đúng Chánh Pháp của Phật đã lạc vào định tưởng.”
Đó là tất cả những cái mà con hỏi Thầy về Bắc Tông và Nam Tông, thì Thầy phân tích để cho thấy được cái sự lầm lạc của hai cái tông phái này.
(20:55) *Hỏi:* “Kính bạch Thầy! Trong Ngũ Triền Cái có tham, sân, si, mạn, nghi. Trong Thất Kiết Sử cũng có hữu tham kiết sử, mạn kiết sử, nghi kiết sử, sân kiết sử, tên giống nhau nhưng tính chất có khác nhau không?”
Đáp: “Ngũ Triền Cái và Thất Kiết Sử khác nhau, tính chất không giống nhau, một bên thì ngăn che, một bên thì trói buộc, Thầy đã giảng ở trên rồi.”
Nghĩa là hồi nãy Thầy giảng về Thất Kiết Sử và Ngũ Triền Cái.
(21:29) Hỏi: “Kính bạch Thầy! Pháp hành mà Thầy dạy chúng con ngày hôm nay, theo con hiểu thì Thầy đã dạy cách đây 17 năm, vì chúng sanh chưa đủ duyên nên Thầy chưa chỉ thẳng. Có phải vậy không thưa Thầy?”
Đáp: “Đúng vậy! Lúc bấy giờ ít ai chịu nghe Thầy, nên Thầy tùy thuận họ, lái dần để đi vào Chánh Pháp của Phật.”
Tức là cái lối khéo léo của Thầy, không nói thẳng ra, vì nói thẳng ra thì chắc chắn người ta sẽ chống báng Thầy rất nhiều. Cho nên do đó thì Thầy cũng tùy thuận họ, rồi lần lượt mà lái dần, cho đến khi mà có cái Giáo án này ra đời.
Là vì thấy có một số người đã theo mình tu được đúng cách của Phật giáo, cho nên mới lái vào, chớ còn mới ngay đầu mà bắt họ ăn ngày một bữa và sống độc cư, nhẫn nhục, tùy thuận, thì chắc chắn là không ai còn theo Thầy lúc đầu đâu.
(22:24) Hỏi: “Kính bạch Thầy! Người có tâm bất động là người giữ gìn các niệm thiện trong tâm của mình và ngăn chặn đoạn dứt ác pháp, các ác pháp không cho sanh khởi trong tâm. Có phải vậy không thưa Thầy?”
Đáp: “Đúng vậy! Nhưng ở đây con phải hiểu, phân biệt niệm thiện, niệm ác của Thiền Đông Độ không giống pháp ác, pháp thiện của Tứ Chánh Cần.”
Vì câu hỏi này, rồi hồi nãy cô Út hỏi Thầy hôm qua hôm kia Thầy có chưa trả lời, hôm nay thì Chân Thành hỏi Thầy, thì nhân cái chỗ này Thầy cũng trả lời luôn để mà thấy cho rõ.
“Đúng vậy! Nhưng ở đây con phải hiểu biết phân biệt niệm thiện, niệm ác của Thiền Đông Độ, nó không giống pháp ác, pháp thiện của Tứ Chánh Cần.”
Ở đây tại sao Thầy không có dùng cái niệm ác, niệm thiện như là Thiền Đông Độ mà Thầy dùng pháp ác, pháp thiện? Pháp ác, pháp thiện mới đúng, chớ còn mà dùng cái niệm thiện, niệm ác ở đây là tự niệm của mình nó khởi lên, còn cái này, pháp thiện, pháp ác là tự bên ngoài.
Bây giờ tâm tham có cái đối tượng mình mới tham, không có đối tượng làm sao tham? Có sân, có cái sự gì nó mới sân, nó có cái pháp nó làm cho mình sân, cho nên pháp thiện và pháp ác.
“Niệm thiện của Thiền Đông Độ là niệm thiện của Tứ Vô Lượng Tâm.”
Các con hiểu, chớ nó không phải là niệm thiện của thập thiện đâu.
“Niệm thiện của Thiền Đông Độ là niệm thiện của Tứ Vô Lượng Tâm.”
Nghĩa là khởi lên nghĩ một cái niệm đó, niệm thiện đó đó, là phải giúp người này, hay làm gì người này người nọ kia, chớ nó không có nghĩ là cái niệm thiện là cái chỗ mà không niệm của chúng ta đâu. Nghĩa là chúng ta không tham, không sân si thì nó là thiện. Bây giờ tâm mình nó không tham, không sân si thì nó là thiện, còn nó có tham, có sân si là ác.
(24:06) Bây giờ nó không tham không sân si, thì đối với cái Thiền Đông Độ nó không tham, không sân si, nó ngồi yên lặng như vậy, nó không niệm gì hết, thì nó cho là Phật Tánh, cái bản thể của nó, nó khác. Còn mình thì không phải, mình cho nó là thiện chớ không phải Phật Tánh.
Cho nên ở đây Tứ Chánh Cần cho cái trạng thái đó là trạng thái thiện, Thập Thiện, nó không có cái niệm ác ở trong đó, tức là nó thiện. Còn ở bên đó nó không phải cho cái đó đâu.
Cho nên ở đây chúng ta phải hiểu, cái thiện của Thiền Đông Độ là cái thiện của Tứ Vô Lượng Tâm. Bắt đầu bây giờ mình ngồi mình khởi nghĩ, ở bây giờ mình phải đem cái này mình giúp người kia, mình giúp người nọ đó là thiện, cho nên cái niệm đó phải dừng.
Chớ còn cái thiện của chúng ta, thì cái mà không niệm của chúng ta là cái thiện, còn cái của họ, là cái không có niệm đó, thì cái đó là cái bản thể của họ, cái Phật Tánh của họ. Nó khác rồi, hai cái nó đều khác nhau.
Vì vậy mà cái chỗ hiểu của họ đó là phải hiểu cái thiện của họ là Tứ Vô Lượng Tâm. Còn niệm ác của Thiền Đông Độ là phải nói là thập ác, cũng có tham, sân, si trong đó nó mới có ác, chớ còn nếu không có thì làm sao nó ác được?
“Còn chỗ không niệm thiện, niệm ác là Phật Tánh của họ.”
Tức là chỗ mà không niệm thiện niệm ác đó, tức là “chẳng niệm thiện niệm ác, bản lai diện mục hiện tiền”đó, đó là cái câu nói của Lục Tổ Huệ Năng, thì đó là chỗ mà không niệm thiện, niệm ác, tức là không có niệm Tứ Vô Lượng Tâm đó. Và không có cái niệm ác, là thập ác của chúng ta đó, thì nó chỉ gồm có hai cái đó.
Cho nên hầu hết là người ta chỉ nghĩ cái niệm thiện như là Thiền Đông Độ chớ không phải là niệm thiện như Thầy đã giảng rồi.
Bởi vì cái niệm thiện của Thầy giảng trong Tứ Chánh Cần, thì bên đây ác, thì bên đây thiện. Mà cái ác không có thì cái thiện chớ không có cái gì khác hơn, nó thấy nó rõ hơn.
Còn cái kia chúng ta thêm nó vào, đem ở ngoài nó vào, nghĩ ngợi nó ngoài vào, cho nên Thiền Đông Độ, nó bắt buộc nó phải dừng cái đó, cái niệm đó.
(25:58) “Ngược lại pháp thiện của Tứ Chánh Cần là không pháp, còn pháp thì rơi vào Ngũ Triền Cái.”
Nghĩa là trong pháp Tứ Chánh Cần, nó là không pháp, nó không có cái pháp nào hết, “ngược lại thì pháp thiện của Tứ Chánh Cần là không pháp.”
Nó không có cái pháp, nghĩa là mình ngồi đây mà không có cái pháp nào hết, tức là nó không có cái pháp ác ở trong đó, thì nó là pháp thiện, phải không.
“Còn hễ mà còn có pháp thì nó rơi vào Ngũ Triền Cái và Thất Kiết Sử.” Khi mà nó khởi ra một cái niệm, thì tức là nó sẽ rớt vào cái Ngũ Triền Cái và Thất Kiết Sử, nó thuộc về lậu hoặc, nó ác pháp.
“Pháp thiện trong Tứ Chánh Cần là một trạng thái tâm ly dục, ly ác pháp.”
Đó các con nhớ nè. Bởi vì ở đây Thầy giải thích cái chỗ này thêm để thấy rõ nè. Pháp Thiện trong Tứ Chánh Cần, bắt đầu bây giờ Thầy nói lại để cho nghe nè:
“Ngược lại, pháp Thiện của Tứ Chánh Cần là không pháp,”
Nó không có cái pháp nào trong đó hết, còn hễ nó có là tức là pháp ác, mà nó không có là tức là pháp thiện. Hễ còn có cái pháp thì tức là ngay đó chúng ta rơi vào cái Ngũ Triền Cái và Thất Kiết Sử. Mà Ngũ Triền Cái, Thất Kiết Sử thì nó thuộc về lậu hoặc rồi, nó là thuộc về pháp ác.
“Pháp Thiện trong Tứ Chánh Cần là một trạng thái tâm,”
Nghĩa là lúc bấy giờ, cái tâm của chúng ta nó phải ở trong cái chỗ vô lậu hoặc mà, cho nên gọi là ly dục ly ác pháp, có Tầm có Tứ. Tức là nó còn có cái sự suy nghĩ mà, nó còn có sự suy nghĩ chớ nó đâu phải mất, nó còn sự tư duy mà, nó còn có sự tác ý ra được mà, cho nên nó có Tầm có Tứ.
“Còn Thiền Đông Độ, chỗ “chẳng niệm thiện, niệm ác” là chỗ ức chế tâm không vọng tưởng xen vào nên không Tầm Không Tứ.”
Nó hoàn toàn nó không Tầm không Tứ. Còn cái này nó có Tầm có Tứ mà.
“Để phân biệt rõ ràng con nên tư duy quán xét để không lầm lộn với Thiền Đông Độ.”
Ở đây thì chúng ta quán xét cho kỹ cái chỗ này thì chúng ta không có lầm lộn với Thiền Đông Độ.
Như hồi nãy Thầy đã nói rồi, đó là những điều mà cần phải hiểu. Khi dạy Tứ Chánh Cần, Thầy cũng không có lưu ý cái phần này, nhưng mà vì thứ nhứt là Cô Út vừa hỏi bữa đó thì Thầy chưa có kịp trả lời, bữa nay thì Chân Thành hỏi, thì nó cũng nhằm cái chỗ để mà trả lời để cho chúng ta thấy được cái thiện và cái ác của Tứ Chánh Cần, và cái thiện và cái ác của Thiền Đông Độ.
(28:32) Hỏi: “Kính bạch Thầy! Người ức chế tâm lại càng làm cho tâm bùng khởi lên dữ dội, ví như lò luyện gang khi gặp nước thì lại bùng cháy lên mãnh liệt. Cũng như mấy ông hoạn quan thời xưa diệt dục, thân dục, thì tâm dục lại khởi lên dữ tợn, có phải vậy không thưa Thầy?”
Đáp: “Đúng vậy. Người tu thiền định ức chế tâm nên thường rơi vào định tưởng, nên thường gặp trạng thái này, cảnh giới kia.”
Nghĩa là khi mà chúng ta dùng đẻ mà giữ cái tâm “chẳng niệm thiện, niệm ác” thì đó là lối ức chế tâm. Cho nên lúc bấy giờ khi mà ức chế cái tâm mà nó đạt được, nó không vọng tưởng nữa, nó không tác ý ra nữa, thì ngay đó nó có những cái trạng thái sai hoặc là trạng thái khinh an, hỷ lạc, hoặc là những cái trạng thái này kia, mà hầu hết là các con đã thấy. Đây là những cái trạng thái mới khởi sự.
(29:35) Nếu mà lâu nữa, như Thầy tu một cái thời gian lâu về cái pháp “tri vọng” đó, thì nó rơi vào những cái trạng thái rất là đặc biệt, như ngồi tại chỗ mà thấy người đi, tất cả những cái hiện tượng đó nó xảy ra cho chúng ta. Như thấy cái thân nó bay bổng lên, nó nhẹ nhàng nó bay lên, rồi thấy cái thân nó lúc lắc, nó bồng bềnh, nó đủ cách.
Đó là những cái tưởng mà chúng ta, nó đã ở trong cái trạng thái ức chế tâm mà nó sanh ra.
“Vì thế càng tu lại càng sai, tâm dục lại càng lớn, háo danh, đắm lợi, mê sắc dục, nhưng khéo che đậy mà thôi.
Bởi vậy theo đúng pháp Phật dạy thì tu tập rèn luyện thân tâm mình, ngày giảm đi một ít nhờ có quyết tâm và bền chí. Mỗi ngày đều kiểm tra lại tâm mình có kết quả hay chưa kết quả, có tu sai hay tu đúng.
Nếu tu đúng thì có kết quả, bằng tu sai thì chẳng kết quả, vì Đức Phật đã xác định: “Đạo của ta ai đã tu tập thì có kết quả ngay liền, không có thời gian chờ đợi!”
Đức Phật đã xác định như vậy. Khi mà chúng ta tu một cái pháp nào đó, thì chúng ta quán xét lại trong một cái thời gian qua, thì chúng ta thấy có kết quả. Mà ngay trong cái chỗ tu đó mà nó có sai, nó làm chúng ta tức lói, mệt nhọc, khó chịu, thì đó là chúng ta tu sai rồi, chúng ta phải sửa lại.
Cho nên ngay cái sự tu, chúng ta đã biết liền. Nó giúp cho thân tâm chúng ta an ổn, chúng ta tu đúng, mà nó không an ổn, tức là sai, cứ như vậy là chúng ta biết chúng ta tu sai. Mà khi biết tu sai rồi mà chúng ta không biết sửa, thì chúng ta hỏi, mau hỏi, “như vậy con gặp cái trạng thái đó như vậy, bây giờ nó gặp như vậy…”
Thí dụ như Chân Thành gặp cái trạng thái là mình điểu khiển cái pháp hướng làm cho hơi thở chậm dần, và nhẹ dần xuống, rồi bắt đầu các cơ hoành và cơ bắp của mình bắt đầu nó co, nó làm cho căng tức lên, thì do đó hỏi Thầy liền, thì coi nó đúng hay sai, để cái người mà người ta có kinh nghiệm người ta giúp cho mình, để mình phá nó, thư giãn nó trở lại, nó làm cho mình trở về trạng thái bình thường, mà không bị rối loạn cơ thể.
Đó là những cái cách thức mà chúng ta tu tập để cho chúng ta được làm chủ cái sự sống chết của chúng ta.
(31:47) Bây giờ thì Thầy tiếp tục trong cái bài học về kinh Tứ Niệm Xứ. Ở đây thì Đức Phật đã dạy bài kinh này cho nên đi vào những cái chi tiết. Và từ lâu tới giờ thì dựa theo kinh này, mà các nhà học giả đã diễn đạt ra nhiều sách gọi là “bốn lãnh vực” hay là kinh Tứ Niệm Xứ, đều là theo những bài kinh này mà họ đã diễn ra, nhưng họ không ngờ rằng đó là những cái định mà họ không biết.
Cho nên chúng ta đọc lại những cái kinh gốc này để rồi chúng ta thấy cái sự xác định của Thầy có đúng hay không:
“Này các Tỳ Kheo, đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết Bàn đó là Bốn Niệm Xứ. Thế nào là bốn?
Này các Tỳ Kheo, ở đây Tỳ Kheo sống quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời. Sống quán thọ trên thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời. Sống quán tâm trên tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời. Sống quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời”.
Nghĩa là bốn cái chỗ này đều là cái mục đích của nó là tu ở trên cái thân này để chế ngự cái tham ưu. Tham là cái lòng dục, lòng ham muốn của mình, ưu là sầu não, buồn phiền ở trong lòng gọi là tham ưu. Cho nên cái pháp này ở trên bốn cái chỗ này, để mà chúng ta khắc phục được cái sự khổ đau của chúng ta.
Đây là một cái bài viết nói ngắn như vậy thì chúng ta chưa biết chúng ta đã tu cái gì. Trên thân quán thân thì chúng ta chưa có biết gì hết, chưa có biết nó thuộc về cái định gì hết.
Đây bây giờ chúng ta lại nghe Đức Phật dạy tiếp. Đây là cái tóm lược, tóm tắt thế nào là bốn, cho nên Đức Phật chỉ nói bốn cái đơn sơ là trên thân quán thân như vậy thôi chứ chưa nói.
(33:49) Bây giờ đức Phật mới dạy chúng ta tiếp để chúng ta thấy rằng cái tu tập tiếp của nó như thế nào. Nó đi từ cái tổng quát, rồi tóm lược, rồi để đi đến cái chỗ chi tiết của nó:
“Và này các thầy Tỳ Kheo, thế nào Tỳ Kheo sống quán thân trên thân?”.
Hồi nãy ở trên thì Đức Phật đã nói tóm lược đó, Tỳ Kheo sống quán thân trên thân đó. Bây giờ sống quán thân trên thân như thế nào? Bây giờ Đức Phật mới giải thích cho chúng ta nghe:
“Này các thầy Tỳ Kheo, ở đây Tỳ Kheo đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, và ngồi kiết già, lưng thẳng, an trú chánh niệm trước mặt.
Tỉnh giác vị ấy thở vô, tỉnh giác vị ấy thở ra. Thở vô dài vị ấy tuệ tri tôi thở vô dài, hơi thở ra dài vị ấy tuệ tri tôi thở ra dài. Hơi thở vô ngắn vị ấy tuệ tri hơi thở vô ngắn, hơi thở ra ngắn vị ấy tuệ tri tôi thở ra ngắn.
Cảm giác toàn thân tôi sẽ thở vô vị ấy tập, cảm giác toàn thân tôi sẽ thở ra vị ấy tập. An tịnh toàn thân tôi sẽ thở vô, vị ấy tập, an tịnh toàn thân tôi sẽ thở ra vị ấy tập.
Này các thầy Tỳ Kheo, như người thợ quay hay là người học trò người thợ quay thiện xảo, khi quay dài tuệ tri tôi quay dài, hay khi quay ngắn tuệ tri tôi quay ngắn. Như vậy, này các thầy rỳ kheo, Tỳ Kheo thở vô dài tuệ tri tôi thở vô dài, hay thở ra dài tuệ tri tôi thở ra dài, hay thở vô ngắn tuệ tri tôi thở vô ngắn”.
(35:39) Chữ “tuệ tri” Thầy xin dịch ra cho nó dễ hiểu, tuệ tri tức là tôi biết đó.
“Hay thở ra ngắn tuệ tri tôi thở ra ngắn.
Cảm giác toàn thân tôi sẽ thở vô, vị ấy tập. Cảm giác toàn thân tôi sẽ thở ra, vị ấy tập. An tịnh toàn thân tôi sẽ thở vô, vị ấy tập. An tịnh toàn thân tôi sẽ thở ra, vị ấy tập.
Như vậy vị ấy sống quán thân trên thân nội thân, hay sống quán trên thân ngoại thân, hay sống quán thân trên cả nội ngoại thân.
Vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên thân, hay sống quán tánh diệt tận trên thân, hay sống quán tánh sanh diệt trên thân.
Có thân đây vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm, và vị ấy không nương tựa, không chấp trước vật gì trên đời. Này các thầy Tỳ Kheo, như vậy là Tỳ Kheo sống quán thân trên thân”.
Như vậy là một cái bài kinh như vậy đó, tức là bây giờ Đức Phật nói bài tóm lược của Đức Phật thì Tỳ Kheo sống quán thân trên thân.
Vậy thì sống quán thân trên thân như thế nào? Thì tức là Đức Phật dạy chúng ta nương vào hơi thở cái đã, rồi sau đó thì quán thân của chúng ta, nội ngoại thân, mọi cái, ở trên thân, nội ngoại thân, cái này cái kia, tất cả những cái này.
Như vậy là sau khi mà đọc bài này rồi, thì các con thấy cái định của Đức Phật dạy, chúng ta tu cái định nào ở trên cái thân này chưa? Như Thầy đã giảng thì các con biết rõ ràng là cái Định Niệm Hơi Thở, Đức Phật đã dạy cái Định Niệm Hơi Thở trước.
(37:23) Tức là bây giờ, Định Niệm Hơi Thở tức là quán thân trên nội thân tu về hành tướng rồi, ở trong cái bài kinh này có nói cái đó không? Có nói nó về hành tướng không? Nhưng khi mà chúng ta đọc, chúng ta biết cái hơi thở ra, hơi thở vô là động rồi, mà động là phải hành chớ, cho nên nó thuộc về hành tướng nội rồi, đó.
Mà hành tướng nội thì như vậy là Đức Phật đã chỉ cho chúng ta tu về cái nội trước, mà cái ngoại sau. Ở đây thay vì bài kinh này trên thân quán thân, thì phải tu về cái tỉnh giác trước để chúng ta phá được cái buồn ngủ, chớ còn nếu mà ngồi đây mà hít thở, hít thở như vậy thì nó sẽ bị hôn trầm.
Như vậy là chúng ta thấy cái bài kinh mà sắp xếp như thế này nó hơi thiếu kinh nghiệm tu tập. Cho nên có nhiều người mới vô mà lo tu hơi thở thì nó dễ bị hôn trầm, thùy miên, vô ký.
Đó thì bây giờ là cái bài thứ nhất là nói về Định Niệm Hơi Thở, còn cái phần tóm lược thêm ở trên thân quán ngoại thân, nội thân này kia, chỉ nói thêm đây là nói như vậy, chớ sự thật ra nó tới cái bài kế chúng ta mới thấy quán ngoại thân đây.
“Lại nữa này các thầy Tỳ Kheo.”
Cái bài đầu tiên này Đức Phật nói trên thân quán thân mà tu về hơi thở thì chúng ta thấy là Định Niệm Hơi Thở rồi.
Còn những phần mà Đức Phật nói thêm như thế này, thì cái phần này nó chưa phải là lúc chúng ta nói, như trên thân quán thân ngoại nội, quán thân, quán tánh ở trên thân của chúng ta, thì đây nó thuộc về những cái tâm tánh, nó thuộc về tâm nữa rồi. Ở trên thân mà quán cái tâm của chúng ta, thì đây là chưa phải cái chỗ mà chúng ta tu, mà ở đây chúng ta chỉ lấy có một cái đoạn về hơi thở mà chúng ta xác định nó là Định Niệm Hơi Thở.
Còn bây giờ nếu mà theo Đức Phật nói: “Như vậy, vị ấy sống quán thân trên nội thân, hay sống quán thân trên ngoại thân”.
(39:20) Nếu mà nội cái Định Niệm Hơi Thở này mà trên ngoại thân thì nó không đúng rồi. Ngoại thân thì cái hành tướng ngoại nó ở đâu? Mà nói về cái hơi thở mà nói về cái nhân tướng của nó, thì đâu có phải hơi thở là cái nhân tướng của cái thân đâu! Cho nên nếu mà đem cái khúc sau này ra, thì chúng ta thấy rất là khó hiểu.
Nhưng ở đây Đức Phật nói rằng chúng ta phải tu cái hơi thở này, thì đó là do cái quán trên ngoại thân rồi nội thân, rồi này kia. Ở đây theo Thầy thấy người ta không hiểu mà người ta sắp xếp như vậy. Đây các thầy sẽ nghe tới, đây ngoại thân nè:
“Lại nữa, này các thầy Tỳ Kheo, tuệ tri đi tôi đi, hay đứng tuệ tri tôi đứng, hay ngồi tuệ tri tôi ngồi, hay nằm tuệ tri tôi nằm.”
Nghĩa là, “tuệ tri” nghĩa là “tôi biết”. “Tôi nằm tôi biết tôi nằm, tôi ngồi tôi biết tôi ngồi”, thay vì chữ dịch “tôi biết” đó.
“Thân thể được sử dụng như thế nào, vị ấy tuệ tri thân thể như thế ấy. Vị ấy sống quán thân trên nội thân, vị ấy sống quán thân trên ngoại thân, vị ấy sống quán thân trên nội ngoại thân. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên thân, hay vị ấy sống quán tánh diệt tận trên thân, hay vị ấy sống quán tánh sanh diệt trên thân.
Có thân đây, vị ấy trú chánh niệm như vậy với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm, và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỳ Kheo, như vậy Tỳ Kheo sống quán thân trên thân”.
(41:03) Đây để xác định cho thấy rõ. Khi mà mình đi mình biết mình đi, khi mình ngồi mình biết mình ngồi, khi mình nằm mình biết mình nằm, mình sử dụng, cái thân mình được sử dụng như vậy, tức là mình tu Chánh Niệm Tỉnh Giác Định.
Mà thân mình hành động cái gì mình biết nó đang hành động cái nấy, thì đó là Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, nương theo cái hành tướng ngoại. Đó là trên thân quán ngoại thân, tu theo hành tướng, thấy rõ.
Bây giờ hồi nãy, trên thân quán nội thân tu về hành tướng nội là Định Niệm Hơi Thở.
Bây giờ tu trên thân quán ngoại thân, trên thân quán thân tu về hành tướng ngoại, do đó thì chúng ta biết được đó là Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, do hành động của thân của chúng ta nó hoạt động như thế nào thì chúng ta biết cái hành động như thế nấy.
Cho nên ở đây mới đầu, thì chúng ta thấy rất rõ. Bây giờ thân Thầy ngồi Thầy biết thân Thầy ngồi, thân Thầy đứng Thầy biết thân Thầy đứng, thân Thầy đi Thầy biết thân Thầy đi, nghĩa là cái thân Thầy động dụng như thế nào Thầy biết theo cái nấy.
Cho nên cái chỗ này các con phải suy ngẫm cho kỹ nè, bởi vì đây nó thuộc về cái phần mà chi tiết để tu tập.
Bây giờ đii kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành, thì quý thầy tập trung cái bước đi của mình. Còn ở đây đi kinh hành tôi biết cái thân tôi đang đi kinh hành, tức là biết cái thân mình đang hoạt động chớ không phải biết chỗ đi kinh hành.
Lưu ý cái chỗ đó mới thấy được cái chỗ mà cái hành động ngoại nó có nhiều cái tướng trạng, cái tướng để suy ngẫm, để mà chúng ta thấu hiểu được cái pháp hành cho rõ ràng cụ thể.
(42:53) Cũng như bây giờ co tay nè, duỗi tay nè, thì theo cái hành động đó, mình biết cái hành động đó co tay, duỗi tay, làm tất cả mọi công việc biết đó, thì nó là một trong những cái pháp mà tu tập Chánh Niệm Tỉnh Giác.
Nhưng mà thân Thầy ngồi Thầy biết thân Thầy ngồi nè, thân Thầy đi Thầy biết thân đang đi nè, biết cái thân đang đi chớ không phải là đang tập trung dưới bước chân đi.
Có hiểu vậy thì mới thấy được cái pháp của Phật nó phân tích từ những cái vi tế, nhưng mà nó cũng đều nằm trong cái Chánh Niệm Tỉnh Giác Định chớ không phải là rời khỏi cái Chánh Niệm Tỉnh Giác Định.
Nhưng mà đây là cái sơ khởi để chúng ta tu cái Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, nghĩa là mình đi mình biết mình đi, mình đứng mình biết mình đứng.
Đó thì như vậy là chúng ta gọi là trên thân quán thân tu về hành tướng ngoại, hồi nãy là hành tướng nội rồi. Bây giờ thêm một đoạn nữa:
“Lại nữa, này các thầy Tỳ Kheo:
Tỳ Kheo bước tới bước lui biết rõ mình đang làm, khi ngó tới ngó lui biết rõ mình đang làm, co tay, co duỗi biết rõ mình đang làm, mang áo, mang y, mang bát biết rõ mình đang làm. Khi ăn, khi uống, khi nếm, biết rõ mình đang làm, khi đại tiểu tiện biết rõ mình đang làm, khi đứng, khi ngồi, khi ngủ, khi thức, khi nói, im lặng, biết rõ mình đang làm.
Như vậy vị ấy sống quán thân trên nội thân.”
(44:24) Ở đây là quán thân trên nội thân. Thì cái hành động mà mình biết mình đang làm cái này kia nọ, thì ở đây cái bài kinh nói rằng mình quán trên cái nội thân của mình.
Vậy thì cái hành động của nội thân này, theo cái chỗ bài kinh này, thí dụ như bây giờ mình ngồi ăn không có nghĩa mình tập trung trong cái hành động ăn, mà mình chỉ biết mình ăn.
Thì cái hành mà biết mình đang ngồi ăn thôi, chớ còn mình không có theo cái hành động nhai rồi gắp từng món ăn, hoặc cái này kia bỏ vào, thì cái đó là nương theo cái hành động ngoại, còn cái này là nó nương toàn diện.
Bây giờ biết tôi đang ăn cơm thì biết tôi đang ăn cơm, thì nó tổng quát biết cái hành động là cái thân tôi đang ngồi ăn cơm, chớ không biết, không để ý cái hành động đang gắp món ăn bỏ vào miệng, rồi nhai, rồi ngon, đắng cay ở trong miệng mình, thì những cái cảm giác đó, những cái lạc thọ đó, thì nó không phải là ở chỗ này.
Mà ở chỗ này cái mục đích của Phật là bắt đầu người khởi sự tu Chánh Niệm Tỉnh Giác, thì chúng ta biết cái tổng quát trước, ngồi tôi biết tôi ngồi, rồi thôi tôi không biết nữa. Nghĩa là ngồi tôi biết tôi đang ngồi vậy thôi.
Rồi bây giờ, thí dụ như đi tôi biết tôi đi, nhưng mà tôi không có chú ý với cái bước đi, nhưng mà tôi biết cái thân tôi đang đi, bây giờ mình đang đi thì mình biết cái thân mình đang đi.
Rồi tôi ngồi tôi biết cái thân tôi đang ngồi, và bây giờ tiếp tục ngồi, thì bây giờ nó ngồi yên đó, nhưng mà tôi biết cái thân tôi đang ngồi, có hiểu vậy không?
Chớ không phải là cứ mình đứng lên rồi ngồi xuống, đứng lên ngồi xuống vậy đó, gọi là mình biết mình đang đứng lên ngồi xuống, thì không phải.
Đức Phật muốn nói cái đó đó, để cho biết rằng cái hành động của mình, bắt đầu mình tu cái Chánh Niệm Tỉnh Giác đó, là mình phải tu từng cái tổng quát trước.
Nghĩa là bây giờ thân ngồi là biết tôi ngồi, mà bây giờ thân đi thì biết đi, chớ không có, biết cái thân nó đang đi đó chớ còn không có biết cái chân mà nó bước đi.
Từ đó rồi sau này chúng ta lần lượt chúng ta sẽ tới tất cả những cái hành động đi ma biết đi, đứng biết đứng, ngồi biết ngồi đó.
“Lại nữa này các Tỳ Kheo, khi bước tới bước lui biết rõ mình đang làm.”
Đó là đọc rồi.
(46:39) “Lại nữa, thầy Tỳ Kheo quan sát từ thân này, dưới bàn chân trở lên, cho đến đảnh tóc, bọc bởi da và chứa đầy những vật bất tịnh sai biệt trong thân này, đây là tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, thận, tủy, hoành cách mô”.
Đây là cái lối tu trên thân quán thân tu về nhân tướng rồi đó. Tức là mình quán xét cái thân của mình, da thịt này kia ở bên ngoài, và bây giờ nó gồm chung ngoại thân là da, móng, lông, tóc, đó là ngoại thân, mồ hôi, nước mắt, nước mũi, đó là những cái ngoại thân của mình.
(Xem tiếp ở Pháp hành 16)
HẾT BĂNG
PHÁP HÀNH 16
VÔ MINH VÀ MINH
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Thời gian: 1998
Thời lượng: [47:16]
https://thuvienchonnhu.net/audios/phap-hanh-16-vo-minh-va-minh.mp3
(tiếp theo Pháp hành 15)
(0:00) Như vậy là nó tu ở trên cái thân này, quán nội ngoại thân đó, chớ không phải là ngoại đâu. Mà ở đây thì nói quán ở bên ngoài không, thì nó không đúng, mà quán ở bên trong không, thì cũng không đúng, mà quán nội ngoại, cả ở trong mà cả ở ngoài, mà đây là tu về cái nhân tướng của thân chúng ta.
Bởi vì cái bài cũng dài cho nên Thầy không đọc hết, đọc những cái đoạn mà có thể nói rằng nó cụ thể cho cái chỗ mà chúng ta đang tu tập. Đó thì:
“Lại nữa, này các thầy Tỳ Kheo quan sát thân này”
Bây giờ nó còn ở trên cái nhân tướng tu tập, cho nên quan sát thân này đó, ở trong cái vị trí của các giới, sự sắp đặt trong thân. Trong thân này nó do địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại, tức là chúng ta quán cái thân này nó do tứ đại mà hợp nhau lại.
“Này các Tỳ Kheo, như một người đồ tể, thiện xảo, hay một đệ tử của người đồ tể giết một con bò, ngồi cắt ra từng mảnh, phân phần tại ngã tư đường.
Cũng vậy này các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo quán sát thân này về vị trí các giới, về sự sắp đặt các giới trong thân này, có địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại”.
Nghĩa là như thế này. Nghĩa là khi quán xét thân này cũng như một cái người đồ tể mổ xẻ một con bò vậy, nghĩa là chúng ta mổ xẻ nó như thế nào?
Chúng ta thấy nó từng cái gió như thế nào, ở trong thân này có gió, tức là phong đại. Quán bốn cái đại mà, phong đại, rồi hơi ấm của chúng ta là hỏa đại, rồi nước ở trong thân của chúng ta là thủy đại, rồi những cái da thịt của chúng ta, tóc, lông, móng tay, xương, thì nó là địa đại.
Thì quán tất cả những cái phần đó, chúng ta quán xét tất cả trong thân của chúng ta, có phải nó nằm ở trong bốn cái đại này không?
Đó là cái cách thức để mà chúng ta tu về cái Định Vô Lậu, quán xét cái thân của chúng ta để nó đừng có dính mắc, nó đừng có chấp cái thân của chúng ta là cái ngã, nó rời khỏi cái tâm tham đắm, nó là cái ngã của mình.
Cho nên mình đặt được như vậy tức là mình khắc phục được cái sự tham ưu của mình. Đó là cái chỗ để quán tứ đại của cái thân. Thì đây cái quán tứ đại như vậy nó cũng nằm ở trên cái Định Vô Lậu, (2:22) đặt cái Định Vô Lậu ở trên thân quán thân tu về nhân tướng đó.
Rồi kê, cái bài kế nữa Đức Phật cũng dạy:
“Này các thầy Tỳ Kheo, Tỳ Kheo như thấy một thi thể bị quăng bỏ trong nghĩa địa, một ngày, hai ngày, ba ngày, thi thể ấy phồng lên, trương phồng lên, xanh đen lại, nát thối ra.
Tỳ Kheo quán thân ấy như sau: thân này tánh chất như vậy, bản tánh là như vậy, không vượt khỏi tánh chất ấy. Như vậy vị ấy sống quán thân trên nội thân, hay sống quán thân trên ngoại thân, hay sống quán thân trên nội ngoại thân, hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên ngoại thân”.
Nghĩa là thấy cái vô thường, cái bất tịnh, cái hôi thối của cái thân sình lên, xọp xuống, thối nát như vậy. Rồi mình quán xem xét từ ở trong thân nội ngoại của mình, đó là cái lối để mà quán tu cái Định Vô Lậu đó, để cho mình đừng có cái chấp thân mình là của mình, đừng có chấp cái thân là quý, là đẹp, coi nó, ai đụng tới nó là dễ giận, dễ hờn đó.
Đó là cái lối của Đức Phật để cho mình nhìn được cái thân nó hôi thúi, bẩn thỉu, cái thân nó chẳng có ra gì hết.
Đây một cái bài kế nữa. Bởi vì ở trên thân của chúng ta tu nó nhiều như vậy đó, để mà chúng ta đặt cái Định Vô Lậu mà chúng ta quán xét như vậy:
“Tỳ Kheo thấy như một cái thi thể bị quăng bỏ trong nghĩa địa, bị các loài quạ ăn, hay bị các loài diều hâu ăn, hay bị các chim kên ăn, hay bị các loài chó ăn, hay bị các loài dã can ăn, hay bị các loài côn trùng ăn.
Tỳ Kheo quán thân như vậy, thân này tánh chất như vậy, bản chất là như vậy, không vượt khỏi tánh chất ấy. Như vậy vị ấy sống quán thân trên nội thân, sống quán thân trên ngoại thân, sống quán thân trên nội ngoại thân”.
Đó là cách thức tu về cái Định Vô Lậu trên nội ngoại thân để quan sát thấy cái sự tan rã, cái sự tàn tạ của côn trùng, của các loài vật ăn thịt thân của cái người chết như vậy. Thì cái thân của chúng ta nó cũng như vậy thôi. (04:33) Cho nên so sánh lại thì chúng ta không còn chấp cái thân nữa.
Cái cách thức này là Phật dạy chúng ta để thấy, bởi vì ở bên Ấn Độ nó có cái rừng kêu là, người ta lâm táng.
Nó có bốn cái chỗ táng. Người ta hỏa táng là đem cái thân này đốt đi. Rồi người ta điạ táng là như mình đó, mình chôn cái thân này hôn ở trong đất đi, đào cái lỗ mình chôn đi gọi là địa táng. Rồi người ta thủy táng, là người ta cột một cái cục đá hay hoặc là người ta tẩm liệm mình trong một cái quan tài, rồi người ta đem mấy cục đá người ta treo ở trên cái quan tài đó, rồi người ta thả xuống nước, rồi nó chìm ở dưới sông đi, do đó gọi là thủy táng. Còn cái lâm táng, thì người ta đem cái thân thây ma đó, người ta đem vô trong rừng, người ta bỏ đó ở trong cái rừng đó.
Cho nên vì vậy mà chó, hay hoặc là chim kên, hay hoặc là những loài ăn thịt dơ thịt thối đó, thì chúng sẽ đến xé cái thây ma đó nó ăn. Rồi từ đó thì chúng ta đi vào trong cái rừng đó chúng ta quan sát, chúng ta thấy cái thân của con người nó như vậy đó.
Cái đầu, cái chân, cái tay, con chó, con vật nó gặm nó xé, nó tan nát, nó rách rưới, nó thấy mà ghê tởm, nó không có còn cái gì mà gọi là chúng ta thấy đẹp đẽ cả hết, làm cho chúng ta thấy ghê gớm.
Đó là cái cách thức mà để chúng ta quán xét, tức là cái Định Vô Lậu đó, chúng ta quán, ở trên cái định đó mà chúng ta đặt cái thân của chúng ta mà chúng ta quán.
Cho nên nội, ngoại thân, từ cái trong, cái ngoài, ruột, gan, phèo, phổi của mình, đều là mình thấy được cái sự bị xé, cắn hoặc là vày bừa ở trong đất nó dơ bẩn rồi kia nọ, để chúng ta thấy chúng ta không còn có thương cái thân của chúng ta nữa, không có còn ưa cái thân của chúng ta nữa.
(6:20) Đây kế nữa thì cũng Định Vô Lậu đây nữa:
“Tỳ Kheo như thấy một thi thể bị quăng bỏ trong nghĩa địa, với các bộ xương còn liên kết với nhau, còn dính thịt và máu, và còn các đường gân cột lại; với các bộ xương còn liên kết với nhau không còn dính thịt, nhưng còn dính máu, còn được các đường gân cột lại; với các bộ xương không còn dính thịt, dính máu nữa, còn lại các đường gân cột lại; chỉ còn có xương không dính lại với nhau nữa, rải rác chỗ này chỗ kia.
Ở đây là xương tay, ở chỗ kia là xương chân, ở đây là xương ống chân, ở chỗ kia là xương bắp vế, ở đây là xương mông, ở chỗ kia là xương sống, ở đây là xương sườn, ở đây là đầu, chỗ kia là xương cánh tay.
Tỳ Kheo quán thân thấy như vậy, thân này tính chất là như vậy, bản tánh nó như vậy, không vượt khỏi tánh chất này.
Như vậy vị ấy sống quán thân trên nội thân, hay sống quán thân trên ngoại thân, hay sống quán thân trên nội ngoại thân. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên thân. Hay vị ấy sống quán tánh diệt tận trên thân. Hay vị ấy sống quán tánh sanh diệt trên thân.
Có thân đây, vị ấy sống an trú, chánh niệm, tỉnh giác như vậy. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì ở trên đời này”.
Vì mình thấy cái thân mình như vậy đó, thì mình không còn chấp trước, mình không còn dính mắc cái vật gì, không còn ham muốn gì nữa hết. Vì thấy cái thân người ta như vậy, thân mình nó cũng vậy thôi, cho nên từ đó mình không còn có ham muốn cái gì hết.
Cho nên do cái chỗ mà quán xét này, từ đó cái ái kiết sử của mình mình cũng dứt bỏ nữa, mình không thấy mình phải thương ai, cũng cái thân thiệt là nó tồi tệ, nó không thể nào tưởng tượng nổi được.
Cho nên từ đó vật gì mình cũng bỏ hết, không còn ham thích một cái gì nữa hết, nghĩ cái thân mà mình nhìn trước mắt với thân mình nó cũng chẳng khác chút nào hết.
Cho nên quán từ cái nội, ngoại, rồi nội ngoại thân của mình, rồi trên thân mình quán tánh sanh diệt của nó, nó cũng y như vậy. Rồi quán tánh diệt tận nó, nó cũng vậy.
Cho nên đó là những cái lời Đức Phật đã dạy chúng ta để chúng ta quán xét, làm cho tâm của chúng ta nó không còn dính mắc, chấp đắm nữa.
Đó là những bài để cho chúng ta học về cái Định Vô Lậu, để chúng ta biết để mà quan sát
“Tỳ Kheo như thấy một thi thể bị quăng bỏ trong nghĩa địa, chỉ còn toàn bộ xương trắng màu vỏ ốc, chỉ còn một đống xương lâu hơn ba năm, chỉ là xương thối trở thành bột.
Tỳ Kheo quán thân ấy như vậy, thân này tiánh chất là như vậy, bản tánh là như vậy, không thể vượt khỏi tánh chất ấy. Như vậy vị ấy sống quán thân trên nội thân, hay sống quán thân trên ngoại thân.”
(09:21) Nghĩa là Đức Phật nói khi mình thấy cái bộ xương đó, rồi cái bộ xương đó nó chỉ còn cái hôi thúi của nó thôi. Nó chỉ còn có cái bột hôi thúi đó thôi.
Thì chúng ta thấy, chúng ta có đi hốt cốt chúng ta thấy, xương chúng ta khoảng mười năm, hai chục năm nào đó, hốt lên chúng ta thấy còn có cái nắm bột ấy thôi, mà cái nắm bột đó nó hôi thối chớ nó không phải nó… Cho nên các con thấy, khi ma mang những cái hài cốt ở Hóc Môn về đây để trong nhà, chúng ta nghe cái mùi hôi, cho nên chúng ta chôn hết. Đó thì, nó có cái mùi hôi thúi.
Nếu mà chúng ta trực tiếp mà chúng ta nhìn thấy cái nắm xương nó mục, nó mục hết nó không còn cái xương nào, nó mục thành ra nó còn cái chất bột hôi thúi đó thôi. Đó thì, có đi hốt cốt, có đi lấy cốt thì chúng ta thấy được cái này rõ ràng lắm.
Cho nên khi mà thấy như vậy rồi mới xét cái thân của mình, nó còn cái gì? Nó đâu có cái gì mà trường tồn? Nó cũng trở thành một nắm bột hôi thúi đó, một ngày nào nó có ra gì đâu. Cho nên khi mà quán xét thấy như vậy rồi mới quán xét lại cái bản thân của mình.
Cho nên Phật nói: “Trên thân quán nội thân, ngoại thân để thấy tính chất nó như vậy.”
Do quán cái thân của mình từ đó̉ mình không còn chấp đắm, dính mắc nữa, cho nên mình không còn có bị ái kiết sử, bị tất cả sự thương ghét nó làm cho mình đau khổ, hay hoặc là bị những cái sân hận, phiền não, nó làm cho mình đau khổ nữa. Mà mình xả bỏ, mình thấy mình ngao ngán cuộc đời quá, không có gì hết, cái thân này quá khổ đau, cho nên bỏ hết.
Đây là trên thân quán thân. Rồi kế tiếp là trên thọ quán thọ.
Thầy xin dừng lại, ngày khác mình sẽ tiếp tục ở trên cái phần trên thọ quán thọ, rồi trên tâm quán tâm, rồi trên pháp, để nghe Phật dạy.
(11:18) Như vậy là nãy giờ Đức Phật dạy chúng ta, đầu tiên là dạy chúng ta ở trong cái Chánh Niệm Tỉnh Giác của hai phần:
Cái phần thứ nhất là nội về hơi thở và phần thứ hai là các hành động của chúng ta bên ngoài, từ cái tổng quát chung của cái hành động chung là cái thân, rồi đến cái hành động chi tiết của chúng ta đi, đứng, nằm, ngồi, làm tất cả mọi công việc. Thì đó là đi những cái những phần đó, để mà chúng ta tập tỉnh thức mà thôi.
Kế đó thì cái sự tỉnh thức chúng ta có cái độ cao rồi, rồi từ đó chúng ta mới “trên thân quán thân” tu về nhân tướng. Tu về nhân tướng thì chúng ta mới quán nó bất tịnh, quán nó như thế này, quán nó như thế khác, chúng ta thấy rõ ràng cái thân của chúng ta như vậy, để làm chúng ta không còn chấp ngã nữa.
Đây là cái phần trên thân quán thân tu về hành tướng nội, hành tướng ngoại, và tu về nhân tướng, nhân tướng nội và nhân tướng ngoại của nó.
Đó là cái phần để đọc, sau này thì khi mà nghe cái bài kinh này rồi, nếu mà muốn rõ nữa thì các thầy và các con có thấy cái chỗ nào cần hỏi, hỏi Thầy sẽ giảng. Còn bây giờ Thầy đọc như vậy có nghĩa là để chúng ta tổng quát mà thôi. Còn khi mà chúng ta cần phải hỏi một cái gì để làm sáng tỏ ra bài này, thì do cái sự hỏi đó nó mới làm cho chúng ta thấy rõ ra, và chúng ta sẽ đạt được kết quả.
Đó thì bài kinh Tứ Niệm Xứ. Cho nên khi mà viết nó ra thành sách thì Thầy phải đi vào những cái chi tiết rất là cụ thể, rõ ràng, cho nên nó còn đòi hỏi ở một cái thì giờ để mà làm công việc này. Cho nên ở đây giảng để chúng ta hiểu mà tu mà thôi.
Cho nên chúng ta muốn làm cho cái thân tâm của chúng ta thanh tịnh và làm chủ được nó thì phải ở trên nó mà tu tập. Mà tu tập thì chúng ta quán như vậy để cho cái tâm của chúng ta không dính mắc ở trong cái thân của chúng ta.
(13:05) Thường thường thì chúng ta chấp cái thân của chúng ta dữ lắm, chấp chặt lắm, cho nên nó mới có ái kiết sử, nó mới có thương, có ghét, có giận, có hờn, có tham, sân, si.
Cho nên vì vậy mà chúng ta không đoạn trừ được Thất Kiết Sử, mà không dẹp được cái Ngũ Triền Cái, nó làm cho cuộc đời của chúng ta điêu đứng và tâm chúng ta không thanh tịnh.
Mà tâm không thanh tịnh thì đừng có mong gì mà nhập Tứ Thiền, nhập Diệt Thọ Tưởng Định được, đừng có mong chúng ta có được cái đạo lực siêu việt.
Cho nên những điều mà Thầy nói về tu tập, trên pháp quán pháp, điều khiển các pháp, mà chúng ta không làm chủ được các pháp đang xâm chiếm tâm ta, thì chúng ta không làm chủ được cái pháp mà bảo nó bay hay này kia được. Cho nên đó là những cái khó chớ không phải dễ.
Mà nếu không thông suốt được những cái thân bất tịnh, hôi thúi, bẩn thỉu này thì chúng ta mãi cứ chấp cái thân là cho đẹp, rồi cứ cố gắng mà sửa sang cho nó đẹp thêm, dầu thơm này kia. Sự thật ra nó hôi thúi là nó hôi thúi, có gì đi nữa thì cũng che đậy bên ngoài đó mà thôi, chứ nó ở trong nó bất tịnh vô cùng lận, nó không còn cái giá trị quý báu gì hết. Cho nên khi đó chúng ta nên bỏ nó đi, dẹp đi.
Và cái tập Chân Thành vấn đạo thì Thầy sẽ photo, và đồng thời photo xong Thầy sẽ gởi cho mấy con (mỗi) người một tập, để đọc lại và nghiên cứu qua những cái lời hỏi, để cho mình thấu rõ được cái hành động tu tập cho rõ ràng, để nó mang lại những cái kết quả tu tập của mình.
Đến đây thì năm giờ rồi, thôi Thầy xin nghỉ, ngày mốt có thể chúng ta tiếp tục Tứ Niệm Xứ. Chừng nào Thầy giảng hết Tứ Niệm Xứ và Thầy mong chờ đợi những câu hỏi của các con, để rồi Thầy sẽ coi như là mình mổ xẻ ra cho nó hết những cái Tứ Niệm Xứ, để chúng ta biết các pháp hành.
Còn nếu không có hỏi, không có thưa hỏi thì chúng ta khó mà hiểu. Thầy giảng rồi coi như là lỗ tai bên đây, nó sẽ chui qua bên kia đi mất đi. Còn cái hỏi đó chớ nó có những cái thấm thía nó làm chúng ta nhớ mà không quên. Đó thì các con cũng như các thầy khi học thì chúng ta cần phải có sự thưa hỏi.
Chúng ta thấy cái chỗ nào cần thưa hỏi, chúng ta ghi chỗ đó để chúng ta tìm hiểu. Có khi Thầy đọc qua như vậy mà Thầy không có giảng, Thầy cứ nghĩ rằng Thầy hiểu như các con hiểu rồi, thì do đó Thầy không có giảng qua cái chỗ đó, do cái chỗ đó mà các con không hiểu.
Từ cái danh từ, cho đến những cái hành động tu ở chỗ đó như thế nào, thì các con hỏi thì Thầy sẽ phân tích ra rất rõ ràng và kỹ lưỡng, để các con thấy rõ mà tu tập và biết được cái pháp Tứ Niệm Xứ là cái pháp vi diệu nhất, làm cho bốn chỗ này thanh tịnh nhất, mà cứu cánh nhất cuộc đời của chúng ta tu theo đạo Phật.
Đến đây Thầy xin chấm dứt, các con nghỉ.
(15:52) Giờ chúng ta tiếp tục cái bài học hôm qua. Nhưng trước khi học cái bài Tứ Niệm Xứ thì Thầy sẽ trả lời một số của các cô cũng như của quý thầy hỏi để chúng ta biết được cái bài học, càng có hỏi những cái ý của những cái bài học mình học qua, mình hỏi thì nó sẽ rõ ràng hơn.
Chớ về kinh sách của đạo Phật thì những cái từ nó cũng làm chúng ta rất khó, và những cái ý của nó để mà hiểu, nó cũng còn khó hơn nữa. Cho nên khi mà không hiểu một cái gì thì chúng ta hỏi, để rồi chúng ta hiểu cho được, để biến nó trở ra một cái hành động tu tập, nó mới có những cái kết quả của sự tu tập.
Cho nên ở đây hôm rồi thì cô Diệu Quang hỏi Thầy, nhưng còn mấy câu hỏi nữa mà chưa trả lời xong, cho nên hôm nay Thầy tiếp tục trả lời cho cô Diệu Quang.
(16:47) Cô hỏi*:* “Kính bạch Thầy! Ý thanh tịnh có phải là Phật Tánh không thưa Thầy? Theo con nghĩ, câu nói của Lục Tổ Huệ Năng: “Chẳng niệm thiện niệm ác, bản lai diện mục hiện tiền” đó là “ý thức thanh tịnh” phải không thưa Thầy? Người tu thiền mà đạt được ý thức thanh tịnh này sẽ đưa về đâu?”
Bây giờ tới cái phần mà Thầy đáp. Ở trong cái câu hỏi này nó có ba câu hỏi. Một câu hỏi thứ nhất là hỏi về cái “ý thức thanh tịnh”. Câu hỏi thứ năm (hai) là cái “ý thức thanh tịnh” có phải là “bản lai diện mục” hay không? Câu hỏi thứ ba của cái câu hỏi này đó là cái “ý thức thanh tịnh” sẽ đưa chúng ta đi về đâu? Nó có được giải thoát hay không đó, ý như vậy.
Đáp: “Các thiền sư Đông Độ do lạc vào tưởng định, lấy “ý thức thanh tịnh” làm Phật Tánh.”
Ở đây Thầy không phải là có một cái ý bài bác của Thiền Đông Độ, mà vì cái chỗ dạy của Pháp Bảo Đàn Kinh đó, tức là lời của Lục Tổ Huệ Năng dạy, bảo “chẳng niệm thiện niệm ác, thì bản lai diện mục hiện tiền” cho nên cái “bản lai diện mục hiện tiền” đó là Phật Tánh, mà chỗ chúng ta “chẳng niệm thiện niệm ác” đó, thì cái chỗ đó là cái chỗ “ý thức thanh tịnh”, chớ nó không phải là cái gì.
Bởi vì cái ý thức chúng ta nè, bây giờ trong khi chúng ta đang sống này, đây là cái ý thức chúng ta nè, nó phân biệt nó biết nè, chúng ta khởi cái niệm thiện, niệm ác chúng ta biết, đó là ý thức.
Bây giờ nó không có khởi niệm thiện, niệm ác thì cái ý thức đó nó thanh tịnh, chớ nó không phải là cái tâm thức. Có nhiều người tưởng là cái tâm thức của chúng ta. Chúng ta phải trải qua đóng cái ý thức nó dừng lại, nó không làm việc, đóng cái tưởng thức nó không làm việc, thì cái tâm thức chúng ta mới hoạt động.
Còn bây giờ cái ý thức của chúng ta nó mới thanh tịnh, chứ chưa phải nó ngưng. Do cái chỗ tưởng này thì coi cho nó là Phật Tánh. Vì vậy mà ở đây Thầy chỉ thêm tại sao mà người ta hiểu Phật Tánh mà nó không đúng.
“Khi ngủ sáu thức đều ngưng hoạt động, thì ý thức không còn biết gì.”
Đó thì cái ý thức bây giờ nó thanh tịnh đó, bây giờ sao nó không thanh tịnh hoài, nó không biết hoài, mà khi chúng ta ngủ nó cũng phải biết chớ, thì nó mới là Phật chớ? Sao mà Phật còn ham ngủ?
Cho nên khi mà ý thức đó nó không nghĩ ngợi niệm thiện, niệm ác, thì ít ra thì chúng ta ngủ, nó cũng không niệm thiện niệm ác thì nó cũng phải thức nó biết đó chớ?
Bởi vì thường Thiền Đông Độ nó dạy chúng ta là “hằng biết”, hằng biết là nó biết hoài hoài luôn liên tục. Nhưng bây giờ nó không niệm thiện, niệm ác mà lại ngủ thì nó lại quên mất đi.
Còn bây giờ chúng ta tu tập chúng ta ức chế cái niệm thiện, niệm ác đi, nó không có, thì coi như nó hằng biết. (19:45) Nhưng mà khi chúng ta ngủ rồi thì nó lại, sáu thức nó đều ngủ hết đó, thì cái ý thức nó cũng ngủ luôn, cho nên chúng ta không biết.
“Khi ngủ sáu thức đều ngưng hoạt động,”
Sáu cái thức nó ngưng hoạt động, nhưng mà sáu căn chúng ta hoạt động, chớ không khéo các con với quý thầy hiểu, sáu thức ngưng hoạt động, tưởng là nó không hoạt động. Sự thật ra các cái căn của chúng ta, sáu căn nó hoạt động, như nhãn căn, nhĩ căn nó còn hoạt động. Nhưng mà cái thức thì nó không hoạt động.
Cái thức thuộc về tâm, mà cái căn thuộc về vật chất, nó thuộc về thân. Cho nên các căn nó hoạt động, khi chúng ta ngủ nó còn hoạt động, chớ không phải nó ngưng, nó ngưng là khi nào nó chết thì nó mới ngưng.
Đó thì bây giờ:
“Khi ngủ sáu thức đều ngưng hoạt động thì ý thức không còn biết nữa, như vậy rõ ràng ý thức thanh tịnh không phải là Phật. Phật sao lại là mê ngủ như vậy, đây là một sự tưởng của các thiền sư Đông Độ.
Câu dạy của Lục Tổ Huệ Năng “chẳng niệm thiện niệm ác, bản lai diện mục hiện tiền” là chỉ cho ý thức thanh tịnh. Người tu thiền đạt được ý thức thanh tịnh, sẽ đưa đến Không Vô Biên Xứ, rồi đến Thức Vô Biên Xứ.”
Tức là Không Vô Biên Xứ, tức là họ đạt được cái trạng thái “không” đó. Nghĩa là ngồi đó mà không có niệm gì hết, gọi là Không Vô Biên Xứ. Thì Không Vô Biên Xứ rồi thì họ mới thấy cái trạng thái phủ trùm của họ. Trạng thái phủ trùm của họ thì do đó họ mới thấy Thức Vô Biên Xứ.
“Trong kinh Đại Phương Quảng, trang 643, Kinh Trung Bộ, tập một, Đức Phật đã dạy:”
Tức là Đức Phật đã xác định được cái trạng thái này đẻ cho chúng ta biết. Chớ không phải đây là một cái sự tưởng tượng ra mà Thầy đặt, mà chính ngày xưa Đức Phật cũng đã chỉ định được cái trạng thái này.
“Này hiền giả! Ý thức thanh tịnh không liên hệ đến sáu căn”.
(21:46) Cái ý thức mà nó thanh tịnh tức là nó không niệm thiện niệm ác, nó không liên hệ với sáu căn tức là nó không phân biệt.
Bây giờ mắt là nhãn căn, mà lỗ tai là nhĩ căn, mà bây giờ nó liên hệ, cái ý thức đó nó liên hệ với mắt, nó thấy cái sắc, nó phân biệt cái đó màu xanh, màu đỏ, thì cái đó là không đúng là cái chỗ nó thanh tịnh. Mà nó không liên hệ thì nó không phân biệt cái đó là màu xanh, màu đỏ, màu trắng, tức là vô phân biệt đó.
Trong Thiền Đông Độ người ta dạy mình là vô phân biệt, là cái chỗ mà không liên hệ với năm căn đó. Bởi vì nó sáu căn, nhưng mà bây giờ nó là ý căn nó đang hoạt động làm việc, nó đang làm việc ở chỗ ý thức, cho nên người ta còn rút tỉa ra năm căn.
(22:23) Năm căn tức là nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân đó.
“Nó không liên hệ đến năm căn, có thể đưa đến Hư Không Vô Biên Xứ.”
Tức là Đức Phật nói: Khi mà cái ý thức nó thanh tịnh như vậy, thì nó không liên hệ với năm căn, tức là nói là cái ý thức thanh tịnh không phân biệt, vô phân biệt rồi thì nó sẽ đưa hành giả đến cái trạng thái Hư Không Vô Biên Xứ.
Mà đã Hư Không là vô biên thì nó có thể đưa hành giả đó đến Thức Vô Biên Xứ. Mà Thức Vô Biên Xứ, là vì Thức là vô biên, cái Thức mà nó phủ trùm rồi đó, tức là nó vô biên rồi đó, thì có thể đưa đi đến Vô Sở Hữu Xứ, nghĩa là không còn vật gì nữa hết, tức là cái chỗ mà “phản bổn hoàn nguyên” đó, cái chỗ mà không có vật, không có gì hết đó. Đó là cái chỗ Vô Sở Hữu Xứ đó.
Đó thì Đức Phật đã xác định cho chúng ta thấy rõ cái trạng thái mà chỗ ý thức thanh tịnh đó, nó sẽ đưa đi đến vào trong ba cái định này. chớ không phải là nó đưa chúng ta đi đến cái Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Định, nó chỉ có đưa đi vào ba cái định tưởng này mà thôi.
Chúng ta loanh quanh ở trong ba cái định tưởng này, chúng ta tưởng đó là Phật Tánh, tưởng là giải thoát, nhưng mà sự thật ra nó không giải thoát.
“Những danh từ của Thiền Đông Độ chỉ những trạng thái của định tưởng: “phản bổn hoàn nguyên, phủ trùm vạn hữu”.”
Thì những cái định tưởng mà chúng ta thấy, như là cái danh từ để chỉ “phản bổn hoàn nguyên”, “phủ trùm vạn hữu” thì nó là những cái định tưởng như là Không Vô Biên Xứ Tưởng, Thức Vô Biên Xứ, Vô Sở Hữu Xứ, đó là ở trong ba cái trạng thái, ba cái định tưởng đó.
(24:15) Bây giờ câu hỏi kế:
Hỏi: “Thế nào là sự sai khác giữa trí tuệ và thức?”
Bây giờ cái trí tuệ của chúng ta nè, bây giờ nó khởi ra một cái niệm, nó hiểu cái này, nó hiểu cái kia, nó biết cái nọ, đó là chúng ta nói là cái trí tuệ.
Còn cái thức thì nó cũng là biết. Thì cái trí tuệ nó cũng biết, cái thức nó cũng biết, như vậy là giữa trí tuệ với cái thức này nó có sự sai khác hay không? Chớ không khéo rồi cái trí tuệ cũng là cái biết, nhưng mà cái thức là cái biết, hai cái này nó có hợp chung lại hay không, hay là không hợp chung? Đó là những cái câu hỏi như vậy, để chúng ta phân biệt được chỗ cái trí tuệ và cái thức của chúng ta.
Ở đây Thầy sẽ đáp
“Sự sai khác của trí tuệ và thức là trí tuệ cần phải tu tập, học tập, còn thức thì cần phải liễu tri.”
Chữ “học tập”, “tu tập” nè, bây giờ có cái chuyện đó mình không có biết, cũng như bây giờ mình chưa có học tới cái lớp đó, thì mình chưa cái biết những cái bài vở đó.
Cũng như bây giờ một người học sinh mà họ chưa cái học Đại số học, thì họ chỉ học Số học không, thì họ có chưa biết cái Đại số học như thế nào. Nhưng bây giờ họ đã học, họ đã học thì họ đã biết được Đại số học, thì cái biết đó đó, cái biết thêm cho họ biết được cái Đại số học đó, gọi là trí tuệ, tức là cái trí tuệ mà tích lũy, cái đó gọi là trí tuệ.
Nghĩa là bây giờ họ chưa biết cái nghề Y Khoa là cái gì, nghĩa là họ chưa có biết cái tim, gan, phèo, phổi con người ra như thế nào. Thì do đó bây giờ họ học tập rồi, thì cái mà bây giờ họ biết được cái bộ phận ở trong người của chúng ta là ngũ tạng rồi này kia, họ biết được, thì cái biết đó gọi là trí tuệ.
Cho nên cái trí tuệ ở đây xác định, cái trí tuệ là cái chỗ mà tu tập, học tập nó sẽ hiện ra, còn nếu mà chúng ta không chịu học tập thì chúng ta không biết, thì cái đó không phải là trí tuệ.
Tu tập mà nó có trí tuệ là từ Định sanh Tuệ, nó làm cho cái tâm chúng ta lặng lẽ rồi nó phát ra, chúng ta mới thấy được cái này mà hiểu được cái kia. Từ lâu chúng ta không thấy hiểu cái đó, mà bây giờ chúng ta lại hiểu thấu được những cái đó, phát minh ra được những cái này, phát minh ra được những cái kia, là do cái sự tu tập.
Còn bây giờ chúng ta chưa biết cái gì hết mà chúng ta học tập, như bây giờ một đứa bé mới có năm, sáu tuổi, nó chưa biết chữ A, chữ B, C, do bây giờ nó được học tập A, B, C rồi nó ráp vần lại nó đọc, thì cái mà bây giờ nó đã đọc được, cái đó gọi là trí tuệ.
Có phân biệt được như vậy mình mới hiểu được cái chữ trí tuệ chớ không khéo rồi mình không hiểu.
(27:06) Còn cái thức thì như thế nào? Cái thức thì nó cũng biết vậy, nhưng mà cái thức nó nằm ở chỗ nào đây? Cái thức thì ở đây nói cái thức đó, cần phải liễu tri.
Liễu tri nghĩa là cái trí tuệ chúng ta biết được cái tâm của chúng ta tham, sân, si là khổ, mà bây giờ mỗi chút thì chúng ta biết nó bỏ, quyết tâm bỏ đó. Nghĩa là thấy cái đó là cái không phải, cái ác pháp rồi, quyết bỏ đó, nhưng mà nó cứ hễ đụng tới là nó phiền não. Cái trí tuệ thì biết rồi, biết cái đó là bậy rồi, nhưng mà bỏ thì bỏ không được.
Cho nên bây giờ chúng ta mới thấy được cái thức, cái thức thì cần phải liễu tri. Thì cái trí tuệ chúng ta biết được cái đó là khổ, nhưng mà chúng ta bỏ không được, vì vậy bây giờ chúng ta mới thấy được cái thức. Mà cái thức mà nó liễu tri, tức là nó thấm nhuần được cái chỗ khổ đó, nên bây giờ người ta chửi, mình hết giận. Cho nên cái thức là cái phải liễu tri, mà nó liễu tri thì nó mới hết giận. Còn bây giờ chúng ta, cái trí tuệ chúng ta biết cái đó khổ, nhưng chưa liễu tri.
Cho nên chữ “liễu tri”, “liễu” nghĩa là thông suốt, thấm được cái lý, “tri” là biết một cách rất là thấm cái lý của nó. “Liễu” là toàn diện, thâm sâu ở trong đó, cho nên nó không còn cái đối tượng, cái pháp ở ngoài mà làm động được cái tâm của chúng ta, gọi là “liễu tri”.
(28:28) Đó thì vì vậy cho nên ở đây cái thức thì cần phải liễu tri, mà cái trí tuệ thì cần phải tu tập và học tập. Như vậy thì bây giờ chúng ta mới phân biệt được những cái gì mà là cái trí tuệ, những cái gì mà chúng ta hiểu, mà những cái gì mà chúng ta buông xả được, chứ nếu không, chúng ta không thực hiện được cái liễu tri thì chúng ta xả không được đâu. Chúng ta chỉ có cái trí tuệ hiểu biết mà chúng ta không có liễu tri thì chúng ta không xả được.
Ở đây thầy giải thích thêm để hiểu:
“Trí tuệ do tu tập hoặc học tập thấy biết một sự vật đúng như thật.”
Bây giờ chúng ta nghe nói Khổ Tập Diệt Đạo thì chúng ta thấy chúng ta hiểu rồi đó, nhưng mà liễu tri cái Khổ Tập Diệt Đạo thì chúng ta chưa liễu tri. Đó Thầy đem một cái ví dụ để mà thấy chỗ thấm nhuần của chúng ta chưa.
Cho nên thức thì nó cần phải liễu tri. Thì cái thức với cái trí tuệ của chúng ta nó chỉ sai khác nhau ở chỗ đó, chớ nó không có sai khác ở chỗ nào được hết.
Nghĩa là bây giờ vừa thấy một cái vật đó, thì ngay đó là cái thức nó đã nhận, thì cái trí tuệ chúng ta cũng đã biết cái đó rồi, cho nên nó không có thấy nó sai khác chỗ nào được hết.
Nhưng mà thấy cái đó, mà bắt đầu cái trí tuệ chúng ta thấy cái đó, thì cái tâm dục của chúng ta khởi lên ham muốn cái vật đó. Thì cái liễu tri biết cái vật đó là khổ, còn trái lại cái trí tuệ chúng ta biết cái đó khổ, nhưng nó không xả, nó còn tham muốn chớ chưa hết. Nhưng mà khi mà liễu tri được cái vật đó là một cái sự khổ thật, thì cái liễu tri đó nó sẽ không bị dính mắc cái tâm chúng ta vào cái vật đó, cho nên gọi là liễu tri.
Đó thì trong cái sự tu tập mà phân biệt được như vậy thì chúng ta tu tập để chúng ta liễu tri. Vì vậy mà hàng ngày chúng ta hướng tâm, quán tâm của mình như cục đất đó, để làm gì?
“Tâm tôi như cục đất, không tham, sân, si nữa”. Thì khi mà cái thức của chúng ta, cái mà biết của chúng ta, nó liễu tri được cái “tâm như cục đất và không tham, sân, si nữa”, thì chừng đó ai chửi mình, mình không giận nữa, ai làm gì mình cũng không ham muốn nữa hết, đó là nó đã thấm nhuần. Cho nên:
“Thức liễu tri là sự hiểu biết thấm nhuần thâm sâu của các pháp.”
Nghĩa là các pháp nào đến với nó thì nó liễu tri, tức là nó hiểu thâm sâu và đúng như thật, chớ không có hiểu một cách lầm lạc.
Đó thì ở đây những cái câu hỏi như vậy, nó làm cho chúng ta biết được từng cái hiểu biết của chúng ta, trong con người, trong thân của chúng ta, trong tâm của chúng ta. Mà chúng ta biết được cái danh từ dùng đó, nó có cái nghĩa, nó phải có cái sự sai khác, và có cái sự trùng hợp với nhau ở trong đó.
Do vì vậy mà chúng ta biết rằng, hiện giờ chúng ta là người có trí tuệ, biết cái đó, nhưng chúng ta chưa liễu tri. Vậy thì chúng ta phải dùng cái pháp hướng, một ngày, hai ngày, năm ngày hay hoặc một năm, hai năm, hay năm năm, mười năm, để cho cái thức của chúng ta nó liễu tri được cái pháp đó, nó làm cho chúng ta không bị dính mắc trong cái pháp đó. Còn cái trí tuệ chúng ta không biết.
Cho nên khi mà phân biệt được cái này rồi, thì chúng ta biết con đường tu của chúng ta, như thế nào là iễu tri, mà như thế nào là là trí tuệ.
(31:30) Câu hỏi kế của cô Diệu Quang hỏi Thầy:
“Thế nào là vô Minh, thế nào là Minh?”
Đáp: “Vô minh là thấy biết các pháp không đúng như thật.”
Nghĩa là bây giờ đó, mình thấy cái thân này là thật, đó là thấy không đúng rồi đó. Thấy cái thân này là của mình, là không đúng rồi. Mà chấp cho cái thân này là cái ngã của mình, là đó là cái trật rồi, cái sai rồi, bởi vì mình thấy không đúng.
Mà cái thấy không đúng, như vậy chớ không phải là mình không biết đâu, mình biết rõ cái thân, nhưng mà mình cho cái thân mình là có thật, cho cái thân mình là của mình, không phải của người khác. Nhưng mà không ngờ nó không phải là của mình, cũng không phải là của ai hết, nó chỉ là duyên hợp thôi. Không ngờ mình không hiểu đúng như vậy, cho nên vì vậy mình lầm chấp. Mà mình lầm chấp thì nó làm cho mình đau khổ.
Cho nên ở đây Thầy đáp:
“Vô Minh là thấy biết các pháp không đúng như thật,” nghĩa là thấy sai. Thấy sai, cho nên mình thấy sai là mình thấy cái thân này là của mình nè, mình thấy cái thân này là cái ngã của mình nè, cho nên vì vậy mình chấp nó là tôi đó, do đó cho nên mình không thấy nó đúng như thật, cho nên mình bị lầm chấp nó.
“Ví dụ thấy thân này lầm chấp cho là ngã, là của mình hoặc cho tâm mình là linh hồn, là ý thức, là thanh tịnh, là Phật Tánh, đó là Vô Minh.”
Nghĩa là thậm chí như cái người mà cho ở trong cái thân này đó, cho cái tâm của mình là Phật Tánh, hay cho cái biết của mình là Phật Tánh, thì cái người đó là cái người đã vô minh. Cho nên các thiền sư nói họ minh chớ sự thật ra họ đang vô minh, họ lầm chấp một cái bản ngã của họ mà họ không thấy, cho nên họ chưa phải là minh, mà họ là vô minh.
“Cho nên có người cho có linh hồn. Vì cho có linh hồn đó mà người ta phải cầu siêu, cầu an, phải cầu khẩn thế này, thế khác.”
Chết đi thì người ta tưởng tượng như cái linh hồn đó nó còn quấn quýt ở bên những người thân của mình, đó là những cái vô minh, cái không thấy rõ. Vì vậy mà người ta đốt tiền, vàng mã, đốt nhang để cúng cho những linh hồn đó, để về mà hít những cái hơi nhang đó để mà cho nó no bụng, thì thiệt là mình ngu si quá ngu si, quá mê muội, vô minh quá vô minh.
Cho nên cái ý thức thanh tịnh là Phật Tánh, đó cũng đều là những cái sự vô minh không à, mình cho đó.
Bởi vì cái thân Ngũ Uẩn của chúng ta, nó có năm uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Năm cái uẩn này khi một người chết rồi, thì nó rã tan tành, nó không còn một cái uẩn nào hết, nó không còn có cái linh hồn, nó không còn có cái tâm thức nào mà còn lại hết, nó toàn bộ nó mất tiêu hết, nó không còn một cái vật gì ở trong cái thân Ngũ Uẩn này. Hiện giờ thì người nào cũng có thân Ngũ Uẩn đó, nhưng mà khi chết rồi thì nó không còn có một cái vật gì mà còn lại ở trong đó hết.
Nó còn lại để đi tiếp tục tái sanh luân hồi là cái hành động hàng ngày chúng ta thiện với ác, cái hành động đó nó tạo thành một cái nghiệp, cái nghiệp lực, nó đi tái sanh để mà trả những cái nhân quả thiện ác của nó kế tiếp mà thôi, chớ nó không phải có một cái gì còn ở trong thân này, để chuyển qua bên kia để trả cái nghiệp nhân quả đó, không phải.
(34:46) Cho nên nhân quả nó không có trả nhân quả, mà nhân quả thì nó phải thọ lấy, có khổ, có này, có kia, tự nó thôi. Cho nên khi mà thân chúng ta khổ là cái nhân quả khổ chớ không phải ta là người chịu khổ.
Nhưng vì chúng ta lầm chấp, vô minh lầm chấp, cho nên chúng ta thấy chúng ta đang bị đau, đang bị khổ, đang bị hành hạ. Đó là cái lầm chấp, cái ngu si của chúng ta, lầm chấp, không hiểu đúng Chánh Pháp, không hiểu đúng cái thật sự của pháp, cho nên chúng ta mới đau khổ, chúng ta mới rên la, chúng ta mới thấy nghèo đói, chúng ta mới thấy là danh, là này kia nọ. chớ sự thật chúng ta lầm, chúng ta vô minh.
Nghĩa là bây giờ mình nghèo, mình thấy mình muốn phải làm sao cho bằng người, hơn người, đó là mình đã vô minh, mình không thấy được cái sự thật của nhân quả. Mà khi thấy được nhân quả thì chúng ta có thấy cái gì là phải hơn, phải thua với ai đâu.
Mà chính ở trong cái ngã mạn, ở trong cái mạn, thì Đức Phật nói có ba cái ngã: Cái thứ nhất là mình hơn, tức là ngã mạn, cái thứ hai là mình thấy bằng người khác, cái thứ ba là mình thấy kém, ba cái này đều thuộc về mạn. Đó thì, do cái lầm chấp đó mới sanh ra cái ngã mạn của chúng ta.
Cho nên chúng ta nói: “Ờ, bây giờ phải danh dự, phải làm sao cho mình, phải có nhà sang, cửa đẹp, phải có xe hơi, phải có đủ thứ, để cho bằng người ta, hơn người ta, để cho người ta đừng chê mình.”
Vậy người ta chê mình là cái gì, mà khi mà mình đã làm người minh rồi, mình hiểu rồi, thì cái gì là của mình nữa đâu? Để cho mình chạy theo một cái danh hão như vậy, để cho đời của mình quá khổ? Tại sao mình điên đảo quá vậy, mà không thấy nhân quả?
Nhân quả, khi mình tạo cái nhân nào, thì cái đời sống của mình hiện giờ, mình đang thọ những cái quả đó. Nghèo đói cũng do cái nhân quả không tốt của mình, thì tại sao mình lại làm cho nó trở thành giàu sang lên được sao? Chuyện đó không bao giờ có.
Cho nên vì vậy mà chúng ta là cái người minh, thì chúng ta thấy rất rõ, đó là một cái hình ảnh giả tạo, không thật. Mà do cái vô minh mà mình lầm chấp, do cái ngu si không thấy các pháp nó thật sự, cho nên mình lầm chấp tưởng cái đó là cái danh dự, tưởng cái đó là cái này cái kia, cho nên mình cứ cố gắng để cho mình tạo cái danh, tạo cái đó để mà che đậy cái sự nghèo đói, cái sự này. Nghèo đói là do nhân quả chớ đâu phải nghèo đói là do mình làm?
“Thân này do duyên hợp mà thành, lầm chấp trong thân này có Phật Tánh thường, lạc, ngã, tịnh, đó là vô minh.”
Đó thì, ở đây cái người tu, mà người ta cũng lầm chấp không thấy cái thân là do đất, nước, gió, lửa hợp lại, hay hoặc là Ngũ Uẩn hợp lại, có thân tâm ở trong này, có thọ ở trong này, thì thân Ngũ Uẩn hợp lại, sắc, thọ, tưởng, hành, thức hợp lại để thành thân.
Thế mà lầm chấp cái thân này, ở trong đó khi chết rồi nó còn có một cái thường hằng, cho nên gọi là Phật Tánh “thường, lạc, ngã, tịnh”, nó có bốn cái đức của nó là thường, lạc, ngã, tịnh. Cũng đó là một sự vô minh của các thiền sư.
(37:46) Còn minh là sao đây? Đây là chỉ để cho chúng ta biết được cái sự vô minh, cái sự ngu muội, cái sự không thấy thật sự, cho nên chúng ta chạy theo một cái giả dối, một cái duyên hợp.
Duyên hợp nó đâu có bản chất thật của nó được? Nó hợp rồi nó phải tan, cũng như mây hợp rồi mây tan, thì làm sao mà nó thường xuyên cái đám mây đó ở trên trời được!
Cho nên ở đây, thì khi mà hiểu biết được Phật pháp, thì chúng ta nhìn đời bằng cái đôi mắt nhân quả. Và nhìn cái cuộc sống mọi vật, các pháp ở trong thế gian này đều là do những cái duyên hợp.
Vì vậy mà bây giờ các nhà khoa học người ta cũng thấy rằng các pháp đều, các vật dụng đều là những cái điều kiện hợp lại mới có. Cũng như cái bàn này nó cũng phải là duyên hợp rồi, từ cái cọng mây người ra vót ra, rồi từ đó những cây đinh, rồi từng đó những cái sợi mây người ta cột lại, rồi người ta đóng nó thành cái bàn.
Chớ đâu khi không mà một mình nó nó thành cái bàn được sao? Không lẽ lấy cây đinh nó là cái bàn? Không lẽ lấy cọng mây này để ra rồi nói cái bàn? Ít ra nó cũng phải có những cái việc của người ta kết hợp lại, thì do cái duyên mà kết hợp lại nó mới thành được cái bàn.
Đó thì chúng ta lầm chấp, ngỡ tưởng là có một cái gì đó duy nhất, nó không có hợp lại mà nó thành, thì cái này là không có rồi.
(39:05) “Minh là sự hiểu biết các pháp như thật, thấy đời là khổ, biết rõ nguyên nhân sanh khổ, biết rõ sự đoạn diệt - một trạng thái an lạc, thanh thản, nhẹ nhàng, biết rõ tám nẻo đi đến đoạn tận khổ đau của kiếp người. Biết rõ trong thân này khi hoại diệt không có linh hồn, thần thức, không có một vật thường hằng, bản thể, vạn hữu, Phật Tánh, Chơn Như, đây gọi là Minh.”
(39:35) Người mà biết rõ như vậy thì người đó mới gọi là Minh. Còn người mà không biết rõ, lầm chấp nó ở trong đó là có cái này cái kia còn, hoặc là lầm chấp nó là cái ngã của mình, đây là của mình, cái thân này của mình, cái tâm này của mình, chớ không phải của người khác, thì cái người đó là người vô minh. Còn cái người mà biết rõ nó không phải gì của mình hết, cho nên không lầm chấp.
Do cái sự mà biết rõ đó, mà hồi nãy Thầy nói cái trí tuệ, thì chúng ta chưa hiểu rồi chúng ta nhờ học, nhờ nghe mà chúng ta hiểu. Do nhờ học, nhờ nghe mà chúng ta hiểu đó, thì cái đó gọi là trí tuệ. Bây giờ chúng ta thấm nhuần được cái lý đúng đó, thì bằng cái thức liễu tri của chúng ta. Cho nên khi mà chúng ta không còn chấp nữa, thì do đó nó phải có cái sự liễu tri của nó, chớ không phải là nội cái hiểu biết đó mà nó rõ như vậy được.
Bây giờ cô Diệu Quang hỏi kế tiếp:
“Kính bạch Thầy! Người ta nói Vô Minh là không hiểu gì hết, và Minh là hiểu biết mọi thứ. Có đúng không thưa Thầy ?”
Nghĩa là người ta nghĩ, từ lâu đến giờ người ta suy nghĩ, cái chữ Vô Minh đó. Hồi nãy giờ Thầy giải thích cái chữ Vô Minh với chữ Minh rồi, nhưng mà bây giờ trả lời lại cái câu hỏi của cô Diệu Quang, thì cô hỏi Vô Minh có nghĩa là, người ta nói rằng cái người mà không hiểu gì hết, nó là Vô Minh. Còn cái Minh là hiểu đủ thứ, cái gì cũng hiểu hết, gọi là Minh. Cho nên nhiều người nghĩ là cái trí tuệ chúng ta, người nào mà có trí tuệ là cái người hiểu biết đủ thứ hết.
Cho nên cái hiểu biết đủ thứ đó, thì cái người đó phải là cái người có học tập, huân học biết bao nhiêu sách vở, nghiên cứu biết bao nhiêu loại thì mới gọi là sự trí tuệ hiểu biết đó. Còn nếu mà hiểu biết với một cái góc độ nhỏ nào đó thì chưa phải là hiểu biết toàn diện, đây là hiểu biết cái trí tuệ chúng ta nhỏ mà thôi.
Còn cái tu tập mà phát triển được cái trí tuệ, thì cái sự hiểu biết đó, thì như Đức Phật đã nói cho chúng ta biết: “Những gì mà ta nói với các thầy, như cái nắm lá cây ở trong bàn tay của ta, còn cái sự tu tập mà ta biết như cái rừng lá cây.”
(41:47) Thì các thầy nghĩ coi, cái rừng lá cây nhiều hay là nắm lá cây ở trong tay nhiều? Thì cái sự mà Đức Phật đã hiểu biết, cái trí tuệ cuả Đức Phật đã biết tất cả mọi pháp, mọi thứ ở trong thế gian này, trong cái vũ trụ này, thì nó như rừng lá cây.
Mà hiện bây giờ Đức Phật mà đã nói ra những cái điều mà chúng ta học tu đây, thì nó nhằm vào cái chỗ giải quyết của chúng ta, chớ không phải là hí luận, không phải nói cái chuyện mênh mông ở bên ngoài. Do đó thì những cái bài pháp mà Đức Phật mà nói cho chúng ta để biết tu tập đó, thì như cái nắm lá ở trong bàn tay.
Vậy mà cái sự hiểu biết này, mà đến ngày nay khoa học cũng không dám bác nó được. Lời nói của Đức Phật ngày xưa gần 2550 năm nay rồi, mà những lời Đức Phật là những lời cụ thể, khoa học, không có cái khoa học nào mà có thể nói rằng Đức Phật nói sai được.
Nhưng mà các tôn giáo khác, thì trải qua một thời gian dài như vậy đó, thì nhìn lại, vì cái huyền thoại thần thánh hóa một bậc nào đó, cho nên nhìn lại những cái lời dạy, như ngày xưa thì trong Thiên Chúa Giáo, thì cho rằng cái quả đất này là vuông. Nhưng mà bây giờ thì những nhà thám hiểm, khoa học chứng minh cho rõ ràng là trái đất chúng ta tròn. Như vậy là giáo lý kinh điển đó đã sai, khoa học đã xác định như vậy.
Còn Đức Phật nói: “trong một cái ly nước vô lượng trùng”. Trong khi chúng ta nhìn cái ly nước trong đâu có thấy trùng, nhưng mà Đức Phật dám xác định như vậy. Thì bây giờ khoa học chúng ta cũng xác minh ở trong đó có trùng.
Đó thì chúng ta thấy, cái lời ngày xưa đức Phật nói với cái hôm nay khoa học, thì gần như là cái lời nói của Đức Phật rất là xác thực, cụ thể.
Các nhà khoa học thì phải dùng những cái máy móc tinh vi để mà đi tìm kiếm những cái vi tế đó. Trái lại Đức Phật thì không cần, với cái trí tuệ của mình, đã biết, đã nói đúng, mà từ xưa đến giờ, từ cái thời mà người ta còn ở trong những cái bộ lạc, chứ chưa phải là thành lập những cái nước văn minh như chúng ta bây giờ. Thế mà trong cái thời Đức Phật đã nói, tới bây giờ nó không sai một cái gì.
Và những cái mà Đức Phật hiểu biết như rừng lá cây, đó là trí tuệ của Đức Phật đó, còn những cái mà Đức Phật thuyết cho chúng ta như nắm lá ở trong tay.
Đó thì, cái sự không hiểu biết, không có nghĩa là chữ “Vô Minh” có nghĩa là người ngu, người không biết gì hết, nghĩa là không hiểu biết. Người ta hiểu mà người ta hiểu lầm, như hồi nãy Thầy giải thích, đó là Vô Minh.
(44:35) Còn Minh ở đây không có nghĩa là cái sự hiểu biết mênh mông. Theo như Đức Phật, cái sự hiểu biết mênh mông nó cũng chẳng ích lợi gì cho mình! Mà mình hiểu đúng pháp, đúng sự thật của nó để cái tâm mình nó không dính mắc, thì tức là nó sé giải thoát được chính mình. Tức là mình phải liễu tri cái pháp đó, làm sao mà thấm nhuần được, mà thấy rõ thật sự được các pháp nó như vậy.
Phật nói khổ, nhưng mà bây giờ thì mình cũng biết khổ chứ không phải không biết khổ, nhưng mà cái thật sự mà khổ của cuộc đời, thật sự mà nói khổ, thì chúng ta chưa thấy nó khổ hoàn toàn. Vì nó còn có cái lạc, làm cho chúng ta thấy, như lời Đức Phật nói, nó không khổ hoàn toàn, Đức Phật nói khổ mà nó có không khổ hoàn toàn như mình hiểu.
Nhưng mà Đức Phật thấy cái chỗ lạc, đó là khổ hơn cái chỗ khổ của chúng ta. Nhưng mà chúng ta không biết cái lạc đó là khổ, cho nên chúng ta chạy theo cái lạc mà sợ cái khổ.
Như bây giờ cái đầu mình nhức, thì mình sợ nhức đầu, nhưng mà ăn cái miếng ngon thì mình thích ăn. Tức là đời nó có cái đó, và cái đó là cái làm cho mình lầm chấp nó là ngon, nhưng mà nó là cái ảo giác, chớ không phải là cái thật.
Bỏ vô miệng ngon, cũng như giờ người ta tạo ra những cái bột ngọt để nấu nướng, để bỏ vào mình ăn mình thấy ngon. Nhưng mà sự thật cái đó nó có bổ béo gì cho cái cơ thể của chúng ta không, hay nó hại cho cơ thể của chúng ta? Nó chỉ tạo ra cái ảo giác cho chúng ta thấy ngon mà thôi.
Đó là những cái cách thức mà Đức Phật thấy cái lạc của thế gian nó là con rắn độc, cho nên chúng ta bị nhiễm cái nọc độc đó mà chúng ta bỏ không được, cái mà đáng đau buồn nhất! Còn khổ thì chúng ta sợ rồi, chúng ta bỏ dễ rồi! Ai mà đau nhức không sợ? Cho nên chúng ta thấy cái thọ khổ thì chúng ta ai cũng ngán hết. Nhưng mà cái thọ lạc thì ai cũng mê hết.
(46:21) Nhưng mà cái lạc đó chính là cái độc nhất, cái độc hơn là cái thọ khổ của chúng ta. Đó thì cái sự hiểu biết mà không rõ như vậy đó, thì nó là Vô Minh. Chớ còn cái người nào thì chắc ai cũng có hiểu biết, đã là con người thì tức là chúng ta phải có sự hiểu biết thôi.
“Còn cái Minh của Đạo Phật ở đây cũng xác định cho chúng ta, không phải là cái sự hiểu biết mênh mông, mà cái sự hiểu biết như thật, để chúng ta giải thoát được tâm của mình, hiểu đúng pháp, hiểu đúng cách.
Và khi hiểu đúng cách, đúng pháp thì tâm chúng ta ly dục ly ác pháp. Mà tâm đã ly dục, ly ác pháp thì tâm thanh tịnh, từ cái tâm thanh tịnh đó, nó đi vào định. Từ cái định đó nó phát ra trí tuệ, từ cái trí tuệ đó chúng ta mới hiểu một cách như rừng lá cây.
Đó là cái chỗ mà Đức Phật dẫn ta vào cái trí tuệ, là cái trí tuệ vô sư không có thầy dạy, không có kinh sách dạy. Chúng ta hiểu hơn cả kinh sách của các bậc Thánh nhân.
Thí dụ như, không ai dám bảo rằng Khổng Tử là một vị giáo chủ của Nho giáo rằng nói sai, nhưng mà Thầy dám nói rằng Khổng tử đã viết sai, đã nói sai. Tại sao vậy? Tại Ngài viết sai là vì Ngài…”
(Xem tiếp ở Pháp hành 17)
HẾT BĂNG
PHÁP HÀNH 17
QUẢ VỊ TU CHỨNG KHÔNG PHÂN CAO THẤP
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Thời gian: 1998
(tiếp theo Pháp Hành 16)
(0:02) Thiện và bất thiện của đạo Phật xác định rất rõ. Thiện là an vui, là hạnh phúc, là yên ấm, không có đau khổ trong đó. Mà Khổng Tử bảo: “Nhơn chi sơ, tánh bổn thiện”, người mới sanh ra là thiện. Thiện sao lại đứa bé này lại khóc? Nếu thiện thì phải cười chớ?
Nghĩa là chẳng làm khổ mình khổ người, tức là cái đạo đức của đạo Phật là đạo đức nhân quả, tức là thiện, ác. Vậy thì khi mà làm chúng ta khổ, chúng ta khóc, thì có phải là chúng ta thiện đâu? Chúng ta đang ở trong ác pháp. Đứa bé sanh ra khóc thì đứa bé ở trong pháp ác, chớ tại sao gọi là thiện?
Cho nên những cái điều kiện mà xác định của một vị Thánh nhân mà còn sai thì huống hồ chúng ta là phàm phu tục tử, làm sao chúng ta không sai? Cho nên từ cái sai đó chúng ta mới có cái sự suy ngẫm, mới hiểu biết để chúng ta thấy không sai.
Cũng như bây giờ, chúng ta thấy nè, kinh điển Đại Thừa cũng xác định rằng có Phật Tánh, rồi Thiền Đông Độ cũng xác định rằng có Phật Tánh, có một vật thường hằng: thường, lạc, ngã, tịnh. Thế rồi chúng ta suy ngẫm lại nơi cái bản thân chúng ta khi những cái người chết rồi thì họ còn những cái gì?
Tại sao nếu họ còn thì họ phải hiện về cho chúng ta, nói cho chúng ta biết trong khi chúng ta đang ở trong ý thức này? Trái lại khi mà nằm mộng mị thì chúng ta thấy những người chết. Mà sao hằng ngày chúng ta sống như thế này, sao chúng ta không thấy những người chết về nói chuyện với mình?
Đó là những cái cụ thể và xác định rõ ràng là người chết không có linh hồn, nếu có linh hồn thì về.
Còn bây giờ cái tưởng của chúng ta nằm chiêm bao, mộng tưởng mà thấy cha mẹ, ông bà mình chết, thì đâu có nghĩa là cha mẹ ông bà mình hiện hồn về trong tưởng để gặp cái linh hồn của mình? Mà chính cái tưởng của chúng ta đã biến hiện ra cái hình ảnh huân tập.
(2:02) Chúng ta ví dụ. Như ông cha của mình, như ông nội, bà nội mình chết mười năm, hai chục năm, mà nằm chiêm bao mình thấy ông nội, bà nội mình vẫn không già hơn cái tuổi mà khi hồi mới chết. Là như vậy sao?
Hiện giờ thì mặt ông khác nè, râu ông khác chớ! Hồi ông chết mới có ba mươi tuổi à, hay là bốn mươi tuổi à, mà bây giờ tóc râu lẽ ra bốn chục năm nữa, mà bây giờ mình nằm chiêm bao, mình còn thấy ông ta sao không bạc tóc, cũng còn đen như vậy, cũng còn cái gương mặt tuổi trẻ như vậy? Thì như vậy có phải linh hồn của ông không?
Tất cả những cái này đều là những hình ảnh huân tập ở trong cái ý thức của chúng ta, để rồi từ cái tưởng thức đó nó hoạt động, nó đưa ra như một cuộn phim ảnh mà thôi. Cho nên tất cả những cái này là cái giả dối của cái tâm, của cái tưởng thức của chúng ta tạo thành cái thế giới siêu hình.
Cho nên do vì vậy mà chúng ta không có Minh, mà không có Minh tức là chúng ta không hiểu thấu rõ, không hiểu thấu rõ thì chúng ta lầm lạc.
Từ lầm lạc thì chúng ta sẽ bị người khác gạt, nói rằng con đường này là có Phật Tánh nè, con đường này là có như thế này, thế khác, để rồi chúng ta chấp nhận nó, rồi chúng ta đi mãi, đi mãi, cuối cùng thì Phật Tánh đâu không thấy mà thấy cuộc đời đau khổ của mình cũng còn nguyên như trước.
Đó là nói về cái Minh và cái Vô Minh.
(3:28) Còn bây giờ thì cô Diệu Quang lại hỏi tiếp Thầy:
“Kính bạch Thầy! Tu tập như thế nào mà chánh tri kiến sanh khởi?”
Cái chánh tri kiến, bởi vì hồi nãy, cái trí tuệ mà mình thấy biết cái này cái kia, các pháp, thấy cái vật này vật kia, mình đều bị lầm chấp.
Bây giờ mình muốn được cái này nó không lầm chấp, tức là cái trí tuệ mình nó không bị lầm chấp cái vật gì hết, thấy đó mình phải biết cho rõ. Mà làm sao để cho cái trí tuệ mà chánh tri kiến đó, nó sanh khởi, nó tiếp với các pháp khác thì nó lại hiểu biết được các pháp đó, nó rõ ràng, và nó làm cho cái tâm người đó không dính mắc, không giận hờn, không phiền não?
Cũng như bây giờ người đó chửi mình mà mình có chánh tri kiến rồi thì tức là mình không có giận. Mà mình chưa có chánh tri kiến mình mới tức, người ta nói mình “chó”, thì mình giận quá! Họ nói vậy là mình phải chửi họ “trâu” mới được chớ còn không chửi như vậy không được! Cho nên mình đâm ra mình phiền não, mình tức.
Vì vậy mà, ở đây cô Diệu Quang hỏi Thầy:
“Kính bạch Thầy, tu tập như thế nào mà chánh tri kiến sanh khởi?’’
(04:35) Đáp: “Có hai duyên để tu tập.”
Muốn tu tập cái chánh tri kiến để sanh khởi, để khi người ta chửi mình mình không giận, hay hoặc là có chuyện gì xảy ra cho mình mình không buồn, để cho tâm của mình được giải thoát, thì ở đây Thầy trả lời cho cô Diệu Quang, thì có hai duyên để tu tập.
“Một là tiếng nói của người khác.”
Tức là đối tượng đó các con, mình phải tu trong đối tượng đó.
“Hai là Như Lý Tác Ý.”
Như lý là pháp hướng đó. Đó thì các con thấy rõ ràng, Thầy cũng dạy các con phải tu trong đối tượng thì cái tâm của các con nó mới xả ra, nó mới ly dục ly ác pháp. Mà ở đây, để làm gì? Cái mục đích ở đây để nó phát khởi chánh tri kiến, để khi người ta chửi mình không giận. Nếu mình tu mà không có đối tượng thì tới chừng đó có đối tượng chửi mình thì mình giận.
Mà bây giờ mình tu có đối tượng, thì cái đối tượng đó hằng ngày nó làm cho mình phiền não giận hờn, thì bắt đầu mình từng tập cái Như Lý Tác Ý, tức là từng tập cái pháp hướng. Từng tập cái pháp hướng nó thấm nhuần theo cái đối tượng. Bữa nay mình thấy còn giận nè, nhưng mà mai kia, mốt nọ, sao nay hết giận rồi?
Tức là mình biết là do hai cái pháp này mà chánh tri kiến mình nó phát sanh khởi rồi, mà nó sanh khởi rồi thì tức là mình không còn giận nữa.
Đó thì như vậy rõ ràng là từ lâu tới giờ mình tu đúng pháp chớ không phải là sai pháp.
“Cái thứ nhất, tiếng nói của người khác, tức là đối tượng, tu tập trong đối tượng, tu tập ở trong động. “
Nghĩa là trong cảnh động, chứ không có cảnh mà trốn, tránh, né để rồi ở trong thất mà ngồi tu, thì cái tâm ngàn đời nó cũng không sanh khởi được cái chánh tri kiến này được.
Đó thì, như vậy là chúng ta đã tu đúng cách là phải tu trong đối tượng, tu ở trong cảnh động.
“Như Lý Tác Ý tức là pháp hướng tâm”
Mà tu như vậy thì các con cũng như các thầy thấy, là cái tu tập như vậy gọi là tu tập chánh tri kiến, để được tâm giải thoát, tuệ giải thoát, thì phải có sự hỗ trợ của năm chi.
Nếu muốn được phát khởi như vậy thì mình phải tu hai cái duyên này, tức là đối tượng và Như Lý Tác Ý. Mà muốn để đạt được cái tri kiến giải thoát này hoàn toàn với cái tuệ giải thoát, thì tức là nó phải có sự hỗ trợ của những cái phần khác, chớ không phải là nội mình tu ở trong đối tượng rồi Như Lý Tác Ý mà thành tựu được đâu.
(7:03) Nó còn phải có những cái chi phần khác để hỗ trợ nó, có năm cái chi phần để hỗ trợ nó, để cho nó thực hiện được cái chánh tri kiến giải thoát này. Bởi vì nó tri kiến, mà còn lại tri kiến được tâm giải thoát, rồi tuệ giải thoát nữa.
Cho nên nó phải, khi mà tu tập, nó không có nghĩa là, tuy nói rằng muốn khởi cái chánh tri kiến thì nó phải có hai duyên tu tập, thì đó là hai cái duyên trực tiếp, còn những cái duyên khác, cái chi phần khác, nó không trực tiếp nhưng mà nó giúp cho hai cái duyên đó để cho cái người tu đạt được cái chánh tri kiến, giải thoát được cái tâm và cái tuệ giải thoát.
Vậy thì năm cái chi này là gì? Năm cái chí này là cái chi thứ nhất, là giới luật. Cái chi thứ hai là mình phải nghe người ta thuyết giảng, như các con và các thầy nghe Thầy thuyết giảng, đó là nghe.
1- Và cái chi thứ nhất, thì nó là giới luật, tức là giới luật của Phật đưa ra, là mình phải sống cho đúng, đừng có sống sai, đừng có sống phạm giới.
2- Cái thứ hai là phải nghe, nghe cái lời giảng dạy, nghe cách này cách kia để cho mình hiểu, làm cho cái sự hiểu biết của mình nó đúng cái pháp, nó không có sai.
3- Rồi nghe rồi để làm gì? Nghe rồi để thảo luận. Thảo luận như thế nào? Các con nghe rồi cái chỗ đó không hiểu, mới bàn tới bàn lui. Bàn tới bàn lui tức là các con hỏi những cái câu hỏi, đó là thảo luận đó các con.
Như bây giờ các con nghe Thầy giảng rồi các con cái chỗ đó không hiểu, các con mới hỏi Thầy. Đó thì, hỏi Thầy tức là các con sẽ thảo luận, phải không? Thầy sẽ trả lời cho các con, tức là thảo luận để mà cho ra cái pháp đó để cho hiểu.
Nhưng ở đây chúng ta mới thấy có ba cái điều kiện, còn hai điều kiện nữa là gì?
4- Điều kiện thứ tư, thì chúng ta phải “chỉ”, chỉ tức là chúng ta tu ở trong cái tỉnh giác, làm sao cho cái tâm của mình được định tỉnh mà nó không khởi một cái niệm gì, ít ra thì cũng phải một tiếng đồng hồ. Để cho nó định tỉnh được, nó định tỉnh nó mới phát sáng ra được cái chánh tri kiến của mình, nó mới thấy đúng được, đó là chi thứ tư.
5- Chi thứ năm là gì? Chi thứ năm là quán. Quán là nhiều khi, khi mà được Thầy giảng rồi, về mình mới suy tư, mình quán xét lại những cái lời nói của Thầy coi đúng hay sai, suy nghĩ coi nó như thế nào, suy nghĩ nên tìm ra những cái lý mà tự mình đã phát sáng ra để tìm.
Thì các con thấy rõ ràng, từ cái “chỉ” nó mới phát sáng ra được cái “quán”.
(09:29) Do đó thì có năm chi này để chúng ta thực hiện được, để hỗ trợ cho hai cái pháp, tiếng nói đối tượng con người và Như Lý Tác Ý, để cho hai cái duyên này nó thực hiện được cái chánh tri kiến sanh khởi. Từ đó trước mặt của chúng ta mọi vật nó đều đi qua, thì chúng ta đều làm chủ, bởi vì chúng ta có chánh tri kiến sanh khởi rồi.
Đó là cái mà chúng ta cần phải học và hiểu, để chúng ta biết, để mà chúng ta rèn luyện mình trong những cái sự tu tập. Chớ không, đâu phải là chuyên môn nội cái Tứ Chánh Cần không? Nhưng ở đây không phải là chúng ta, ngoài cái Tứ Chánh Cần thì chúng ta thấy như thế nào nè?
Tiếng nói của người khác tức là chúng ta lấy đối tượng để tu ở trong những cái pháp của chúng ta đã học, từ Chánh Niệm Tỉnh Giác Định nè, từ Định Niệm Hơi Thở nè, cho đến Định Vô Lậu nè. Thì tất cả những cái đó là chúng ta đã tu tập để mà đối với cái đối tượng của tiếng người khác.
Rồi trong khi tu tập đó thì luôn luôn lúc nào chúng ta cũng dùng cái pháp hướng Như Lý Tác Ý rồi, thì rõ ràng là có rồi.
Vậy thì khi mà thực hiện cho đạt được cái này, thì chúng ta phải có năm chi phần, phải lấy cho được. Mà nếu chúng ta tu cái Tứ Chánh Cần, mà chúng ta không sống giới luật, không sống thiểu dục tri túc, thì chúng ta không bao giờ mà ngăn chặn các ác pháp được hết. Cho nên chúng ta phải sống đúng giới luật, lấy giới luật phòng hộ sáu căn, sống thiểu dục tri túc, thì mới đúng.
Thì Thầy cũng sẽ trả lời sau này những cái câu hỏi mà nó cũng nhằm vào cái chỗ tu tập đó. Còn ở đây Thầy chỉ giới thiệu để cho chúng ta biết rằng, khi tu thì đừng nghĩ rằng bây giờ tôi tu cái tiếng nói, đối tượng của người khác, Như Lý Tác Ý, thì tôi tu đây là một pháp nữa sao. Không phải một pháp đâu!
Nhìn ở trên Tứ Chánh Cần chúng ta đã có ba cái loại định để tu ở trên đó rồi, thì ba loại định trên đó, thì tức là chúng ta sống ở trong cái hoàn cảnh có đối tượng, để mà chúng ta ngăn các pháp ác. Mà ngăn các pháp ác, đoạn dứt các pháp ác, thì do cái định nào, định nào?
(11:22) Thì như vậy là chúng ta đã Như Lý Tác Ý, nó đã đúng như vậy. Nhưng mà ở đây muốn nói rằng, để cái chỗ đó nó sanh khởi được chánh tri kiến, thì từ ở chỗ mà tu Tứ Chánh Cần, mà do ba định này thì nó sẽ sanh chánh tri kiến. Để thêm cái phần chúng ta hiểu rõ được cái đường lối của đạo Phật, chớ nó đâu phải đây là một cái pháp riêng!
Nhiều khi các con, các thầy nghe tới đây tưởng đó là cái pháp riêng nữa rồi, thì chắc chắn là Thầy dạy muôn đời, các thầy càng rối thêm chớ không bao giờ mà biết nó là cái chỗ nào hết. Đó là những cái hiểu lầm lạc mất đi.
Cho nên nhiều khi nghe riết rồi cái rối đầu, không biết chỗ nào tu nữa hết. Trời ơi, Thầy dạy tiếng nói của người là phải tu nữa nè, Như Lý Tác Ý là tu cái khác nữa nè. Trời ơi nhiều quá! Gì mà Định Niệm Hơi Thở rồi Định Vô Lậu, rồi Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, rồi nào là Tứ Niệm Xứ trên thân quán thân, nó tùm lum đủ thứ hết! Trời ơi, bây giờ biết cái nào tu bây giờ? Rối ren ở trong đầu!
Nhưng mà không phải, nói là nói để cho hiểu, hiểu để gồm lại, chúng ta biết chúng ta tu trong cái định đó nó có những cái đó, chớ không phải khác.
Thì các con cũng như quý thầy thấy rõ ràng là khi chúng ta mà tu được những cái này để cho có cái chánh tri kiến, thì giới luật, nghe tức là văn đó, văn là nghe đó, nghe rồi thảo luận, rồi chỉ, quán, năm cái chi phần này chúng ta phải tu tập.
Thì ở trong Định Niệm Hơi Thở hay là định Chánh Niệm Tỉnh Giác Định đều là có chỉ ở trong đó hết rồi. Rồi Định Vô Lậu là có quán ở trong đó rồi. Cho nên tất cả những cái này, bây giờ còn có cái là nghe, rồi hỏi.
Đó bây giờ hôm nay được nghe Thầy giảng này, là nghe, rồi bây giờ hỏi Thầy là thảo luận. Còn giới luật thì các con đã sống đúng rồi, thì như vậy là nó có thêm hai cái phần nghe và thảo luận thôi. Từ hôm đó tới nay thì không có hỏi, cho nên nó không có sự thảo luận mà thôi.
(13:010) Hỏi kế tiếp Thầy:
“Kính bạch Thầy, như thế nào là sự tái sanh trong tương lai xảy ra?”
Nghĩa là trong cuộc sống mình hôm nay đang sống như thế này, thì như vậy là trong tương lai mình sống như vậy, cái sự tái sanh nó sẽ xảy ra hay là không xảy ra? Hay hoặc là mình tu như vậy, mà là mình bị ngăn chặn không cho nó sinh ra?
Đáp: “Bị vô minh ngăn che, bị tham ái trói buộc, như vậy con người tiếp tục tái sanh trong tương lai.”
Ở đây Thầy trả lời rất là ngắn gọn ở chỗ cái câu này nè. Trong cái câu này nè, “bị vô minh”, tức là hồi nãy Thầy có giảng cái chữ vô minh, ngăn che mình không thấy các pháp, cho nên mình lầm chấp thân mình là ngã, tâm mình là có một cái Phật Tánh thường còn, cho nên đó là những cái mình chấp để cho mình chạy theo những cái trần cảnh, cái trần, các pháp trần.
Bị tham ái, là lòng thương yêu của mình nó trói buộc mình, thì cái người đó mà thấy thấy mình, bây giờ mình thấy mình nè, có những cái mình còn lầm chấp, mình cho thân mình, tâm mình là cái ngã, là cái thân của mình.
(14:14) Tại sao mình biết là mình còn cái ngã, mà mình biết rằng mình còn cái chấp thân của mình? Là tại vì người ta chửi mình mà mình thấy mình còn giận, người ta nói cái gì đó mình thấy mình còn buồn, thì cái đó là cái bị ngăn che, cho nên mình bị lầm chấp, bị vô minh rồi. Mà cái người bị vô minh, mà còn buồn, còn phiền não, còn giận hờn như vậy đó, là cái người đó còn bị tái sanh luân hồi.
Rồi bây giờ nếu mà mình không cái còn giận hờn, phiền não nữa, nhưng mà mình thấy mình còn thương anh, nhớ em, còn nhớ con, nhớ vợ, còn lo lắng cho đời sống thế này, thế khác, còn tham cái máy này, cái xe kia, thì cái người đó còn buộc, tức là họ còn phải tiếp tục tái sanh luân hồi nữa, chớ không thể nào họ trốn khỏi hết.
Đó thì, câu hỏi của cô Diệu Quang là hỏi “như thế nào”, nghĩa là như thế nào mà tái sanh ở trong tương lai?
Vì vô minh, vì bị tham ái, mà phải tái sanh trong tương lai. Nếu chúng ta có Minh thì tham sân si không có, mà chúng ta không tham ái tức là không thương ghét ai hết, thì tức là chúng ta sẽ không tái sanh luân hồi, không còn tiếp tục ở trong cái tái sanh nữa.
“Con người bị vô minh ngăn che, có nghĩa là con người không thấy đúng sự vật, nên lầm chấp cái không phải cho là phải, cái không đúng cho là đúng, nên thường tạo ra nghiệp ác hoặc thiện. Do nghiệp ác thiện mà tiếp tục tái sanh luân hồi.”
Nghĩa là cái nghiệp ác thiện đó nó tiếp tục xảy ra, nhưng vì mình lầm chấp cho nên mình thấy cái đúng, cái sai, cái này cái kia, do đó mà mới tạo ra nghiệp thiện nghiệp ác.
Còn tham ái tức là lòng thương yêu, ưa thích, nghĩa (là) lòng thương yêu cái này kia, mà bây giờ mình còn ưa thích ăn uống, thì mình còn biết đó là cái tham ái của mình chứ gì, mình ưa thích cái áo này đẹp, mình ưa thích cái ca này nó tốt, thì do đó ưa thích nó.
Thì cái sự ưa thích đó, và cái sự thương ghét, nhớ thương những người thân của mình bằng cách này bằng cách khác khác, thì cái đó là cái nhân, cái đó là cái ưa thích, nó tạo ra cái nhân quả nghiệp ác thiện ở trong đó. Do cái nghiệp ác thiện mà tiếp tục tái sinh luân hồi nữa, thì do đó tương lai mình phải tái sanh luân hồi.
Và cái tâm trạng đó mình biết thì mình còn phải biết tái sanh luân hồi. Mà cái tâm trạng đó nó hết, thì tức là mình chấm dứt tái sanh luân hồi.
(16:30) Hỏi: “Kính bạch Thầy! Người nhập Sơ Thiền phải lìa pháp gì, được những pháp gì?”
Thì hồi nào tới giờ thì các con thấy Thầy dạy Sơ Thiền chớ gì. Nhưng mà Thầy nói ly dục ly ác pháp nhập Sơ Thiền, do ly dục sanh hỷ lạc, có Tầm có Tứ. Thầy nói như vậy, thì bây giờ các con cũng thấy ly dục ly ác pháp.
Nhưng mà ở đây, cô Út hỏi lại, cô Diệu Quang hỏi lại Thầy: “người nhập được Sơ thiền phải lìa những pháp nào?” Chớ còn bây giờ ly dục ly ác pháp, là lìa dục lìa ác pháp chớ gì? Bây giờ cô Út hỏi lại, để cho nó rõ ràng hơn, mình phải lìa, có phải ly dục ly ác pháp là cái pháp gì, được những pháp gì. Và khi nhập Sơ Thiền thì mình được cái cứu cánh của nó, được cái quả vị của cái Sơ Thiền, những cái pháp nào? Cô Út muốn hỏi vậy.
Đáp: “Người nhập Sơ Thiền phải lìa năm chi phần.”
Hồi nãy thì chúng ta nói ly dục ly ác pháp. Chúng ta thấy nó gọn, nó không có phân chia ra rõ ràng lắm. Nhưng ở đây thì Thầy phân chia ra cho rõ ràng.
Người nhập Sơ Thiền phải lìa năm chi phần, nó có năm cái chi phần ở trong cái Sơ Thiền đó mình phải lìa, thì mình mới nhập được Sơ Thiền, mà mình không có lìa bỏ năm cái chi phần đó thì mình không có nhập được Sơ Thiền.
Chứ không phải đơn giản như chúng ta gồm lại là ly dục ly ác pháp là nhập Sơ Thiền. Cái đó là tóm tắt lại một cái danh từ, nhưng mà ở đây phân ra làm năm chi phần để mà chúng ta lìa bỏ:
“1- Từ bỏ tham dục.
2- Từ bỏ sân.
3- Từ bỏ hôn trầm, thùy miên.
4- Từ bỏ trạo hối.
5- Từ bỏ nghi.”
Đó là năm cái chi phần này, là cái người đó phải lìa xa ra, phải bỏ ra, chớ còn nếu mà cái người mà còn một cái ở trong này thì chưa phải là nhập Sơ Thiền.
Nếu một người còn ham ngủ, ngồi mà hôn trầm mà nói tôi nhập Sơ Thiền thì được không? Không được. Bởi vì nó năm chi phần mình phải lìa ra mà, mà bây giờ mình còn hôn trầm thì không được.
Bây giờ tui ngồi đây mà tui không có vọng tưởng, diệt Tầm Tứ đi, không có vọng tưởng gì hết, nhưng mà cái sân tôi còn nè, thì như vậy là tôi chưa phải nhập Sơ Thiền đâu. Tôi chỉ ức chế tâm tôi hết vọng tưởng chớ sự thật ra tôi chưa có phải là hết, tôi phải bỏ cái sân nè.
Bây giờ tôi còn thấy cái món ăn đó thèm nè, mà tôi ngồi thiền một hai giờ nó không vọng tưởng, thì cái còn thèm, tham dục như vậy thì chưa phải là người nhập Sơ Thiền.
Sơ Thiền để xác định mình phải bỏ năm chi phần, mà năm chi phần đó thì chúng ta thấy mới gọi là ly dục ly ác pháp chớ, mới đúng chớ? Nếu mà bây giờ mình nói, bây giờ tôi chỉ cần có hết vọng tưởng, ngồi thiền mà không có vọng tưởng là tôi đã nhập Sơ Thiền, thì cái đó là cái sai, không đúng.
Ở đây nó đã chỉ cho các con thấy rõ ràng. Cho nên chúng ta muốn nhập được thiền định, đầu tiên thì chúng ta phải bỏ tham dục, từ bỏ sân hận, từ bỏ hôn trầm thùy miên, từ bỏ trạo hối, từ bỏ nghi. Đó thì tất cả những cái này phải từ bỏ.
Vậy thì cô Diệu Quang lại hỏi Thầy: khi bỏ những cái pháp này rồi thì chúng ta có được những cái gì? Chớ không lẽ chúng ta bỏ rồi thì bắt đầu chúng ta nhập Sơ Thiền thôi rồi cũng như vậy thì nó không có nghĩa lý gì.
Vậy thì nhập Sơ Thiền để làm gì? Hay là nó không ngơ nó tuốt luốt ở trong đó rồi làm gì đây? Cho nên cô hỏi vậy để chúng ta xác định rằng trong khi nhập, mà bỏ năm cái chi phần này rồi, thì chúng ta sẽ có được những cái gì ở trong trạng thái của lúc chúng ta bấy giờ?
(19:53) Đã bỏ cái này ra thì nó phải có những cái khác vô chớ? Chứ không lý rồi bỏ cái này ra rồi không có cái gì thì chúng ta trở thành một cây đá sao? Cho nên cái ý của cô Diệu Quang là muốn hỏi như vậy. Nếu mà chúng ta bỏ cái này ra rồi thì chúng ta sẽ trở thành cây đá mất rồi. Vậy ngồi thiền thành cây, thành đá, thôi đi ngồi thiền, đi tu để làm gì?
Cho nên ở đây Thầy sẽ giải thích cho rõ:
“Và thành tựu được năm chi phần.”
Nghĩa là hồi đó mình bỏ năm chi phần này, thì mình sẽ đạt được năm cái chi phần khác.
“Chi phần thứ nhất là Tầm, chi phần thứ hai là Tứ, chi phần thứ ba là Hỷ, chi phần thứ tư là Lạc, chi phần thứ năm là Nhất Tâm.”
Nghĩa là trong khi một người tu mà nhập được Sơ Thiền, thì người ta thành tựu được năm chi phần đó: Tầm Tứ đầy đủ, Hỷ Lạc có, Nhất Tâm có, thì như vậy là đúng là chúng ta đã ở trong cái trạng thái Sơ Thiền.
Còn bây giờ nếu mà chúng ta có Hỷ Lạc, mà Nhất Tâm không có nè, rồi Hỷ Lạc có, Nhất Tâm có, mà Tầm Tứ không có, thì tức là không phải nhập Sơ Thiền. Nó còn thiếu một chi phần là cũng không nhập Sơ Thiền được, chớ không phải là. Nó phải đủ năm chi phần này thì mới gọi là nhập Sơ Thiền.
Đó là cái phần của cô Diệu Quang, Thầy trả lời hết rồi.
(21:06) Bây giờ Thầy tiếp tục để trả lời phần của thầy Chân Huệ.
Thầy Chân Huệ hỏi: “Kính bạch Thầy! Tại sao thường dùng câu “quán thân trên thân, quán thọ trên thọ”, có ý nghĩa như thế nào?’’
Đáp: “Quán thân trên thân nghĩa là ở trên thân quan sát, xem xét kỹ lưỡng, để hiểu về thân con người một cách như thật, không còn hiểu lầm lạc ở trên cái thân đó nữa. Thì quán thọ cũng vậy.”
Nhưng mà các con thấy, đây là chúng ta ở trên thân quán thân mà tu về nhân tướng, tức là quan sát trên cái nhân tướng của nó, do đó chúng ta quan sát hiểu cho rõ về cái thân của chúng ta. Thì chắc chắn là các thầy cũng biết đó là cái Định Vô Lậu rồi, quán bất tịnh rồi quán này quán kia đó, quán vô thường đó.
Đó là cái chỗ “trên thân quán thân”. Thì cái chữ “trên thân quán thân”, nghĩa là trên cái thân của chúng ta, chúng ta mới nhìn nó mà quan sát như là nhìn quan sát một cái vật gì bên ngoài.
Chúng ta nhìn cái ca này quan sát, nhìn cái hộp băng này chúng ta quan sát, thì cái sự quan sát đó thì cũng như là chúng ta ở trên cái thân của chúng ta mà chúng ta quan sát nó, quan sát nó trong nhân tướng.
Rồi bây giờ chúng ta quan sát ở trong cái hành tướng ngoại, rồi quan sát trong hành tướng nội. Đó, rất là kỹ lưỡng ở trên cái chỗ tu tập này, rất kĩ lưỡng.
Cho nên ở đây thì thầy Chân Huệ hỏi Thầy “quán thân trên thân, quán thọ trên thọ có ý nghĩa như thế nào?”Thật sự ra thì nó là một cái, câu hỏi này tuy ngắn, nhưng mà Thầy giải thích luôn cả cái hành của thân, cả cái hành nội, hành ngoại của thân, rồi cả cái nhân tướng của thân, như vậy nó mới đủ. Đó là Tứ Niệm Xứ đã dạy như vậy.
Cho nên “trên thân quán thân”, tức là ở trên đó mà quan sát, xem xét kỹ lưỡng, để tìm hiểu về cái thân của mình, về thân hành nội, và thân hành ngoại, về nhân tướng của thân của mình, bằng cách này bằng cách khác, để mình thấu rõ.
Mà mình thấu rõ nó để làm gì? Mình thấu rõ nó, bởi vì ở trên cái thân của chúng ta là cái thân ô nhiễm, cái thân bất tịnh, cái thân ham muốn, cái thân đòi hỏi. Cho nên chúng ta thấu rõ để mà chúng ta ngăn chặn những cái ham muốn, ô nhiễm đó, mà làm cho nó thanh tịnh trở lại.
Cho nên ở trên đó mà quan sát như vậy để cho khắc phục được tham ưu đó, tức là chúng ta làm cho nó đừng có đắm nhiễm các pháp của thế gian nữa.
(23:24) Bây giờ Chân Huệ hỏi kế Thầy:
“Kính bạch Thầy! Tham công án và tham thoại đầu như thế nào? Xin Thầy giải thích cho con rõ.”
Ở đây thì chúng ta không dạy tham công án, tham thoại đầu, nhưng mà Chân Huệ hỏi thì Thầy, dù sao đi nữa các con cũng sắp sửa sẽ là, khi mà các con tu xong, hoặc là đủ duyên thì các con hướng dẫn người khác tu hành, thì người ta cũng có thể người ta hỏi về cái vấn đề các pháp môn thiền khác, như Thiền Đông Độ, tham công án, thoại đầu. Thì các con cũng được Thầy giải thích, rồi ngày nào đó các con cũng sẽ giải thích cho họ mà không có sai khác, để cho họ hiểu biết thêm, chớ sự thật chúng ta không tu cái pháp này.
Đáp: “Tham công án và tham thoại đầu khác nhau, không giống nhau.”
Hai cái pháp này nó không giống nhau. Bởi vì Chân Huệ hỏi Thầy: “Kính bạch Thầy, tham công án và thoại đầu khác nhau như thế nào? Xin Thầy giải thích cho con rõ.” Nghĩa là hai cái pháp này tu tập nó có khác nhau hay không, hay là giống nhau?
(24:31) Ở đây thì Thầy trả lời:
“Tham công án và tham thoại đầu khác nhau, không giống nhau”- đó là câu trả lời thứ nhất.
“Tham công án tức là tham nghi tình.
Ví dụ đưa ra một công án, hoặc là hai công án, thì chúng ta nêu lên cái công án thử, rồi chúng ta thấy cái nghi tình ở chỗ nào.”
Công án thứ nhất, “Trước khi trời đất chưa sanh, ta là cái gì?” hoặc là “Niệm Phật là ai?” Đó, thì cái chỗ cái nghi tình, tức là cái câu hỏi, bởi vì “cái gì”, “là ai”, thì đó là cái chỗ để nhấn mạnh hỏi.
Vậy thì cái nghi tình đó, nó sẽ đặt ngay cái chỗ “cái gì”, “là ai”. Tức là câu hỏi đó. Như “cái gì”, “là ai”, và giữ câu hỏi đó trong cái ý thức của chúng ta, kéo dài thời gian cái ức chế tâm, ức chế Tầm Tứ, cho đến khi ngộ được, tức là giải đáp được cái câu hỏi “cái gì”, “là ai”, giải đáp được, thì lúc bấy giờ nó bùng vỡ, nó ngộ được cái chỗ hỏi đó.
Thí dụ như: “Trước khi trời đất chưa sanh ra mọi vật, chưa sanh mình ra đó, thì mình là cái gì?” Đó. Cái câu hỏi nó làm cho cái ý thức của chúng ta không thể suy nghĩ ra được, cho nên nó luôn luôn nó giữ cái ý thức cho nó vắng bặt, nó không nghĩ ra được nữa.
Bởi vì cái ý thức nó không thể tìm hiểu ra được, cho nên do đó nó vắng bặt đi, mà nó vắng bặt thì cái tưởng thức nó sẽ thay thế vào. Cái tưởng thức nó thay thế vào thì nó bùng vỡ, nó ngộ.
Bởi vì cái ý thức không thể làm việc này được, mà chỉ có tưởng thức nó mới làm việc được. Mà cái ý thức nó còn suy nghĩ thì nó không hiểu nổi gì hết. Cho nên “Niệm Phật là ai?” Ai niệm Phật đây? Thì do đó mình không biết là cái người nào mà niệm Phật đây? Thì vì vậy, do vì cái câu hỏi như vậy đó, thì gọi là nghi tình, hay là tham nghi tình, tức là tham công án.
Kéo dài cái thời gian ức chế tâm đó, để mà diệt Tầm Tứ đó, tức là không còn ý thức nữa, cho đến khi mà ngộ, tức là đáp được cái câu hỏi đó mới xong. Ngộ được câu hỏi đó tức là ngộ tất cả các công án khác. Như vậy Thiền Tông gọi là triệt ngộ.
Nghĩa là mình ngộ được cái câu đó rồi, cái câu hỏi đó mình đã đập vỡ nó được rồi, mình hiểu rồi, qua cái sức tưởng, pháp tưởng của mình. Mình hiểu được rồi, thì bắt đầu tất cả những cái công án khác ở trong Thiền Tông mình đều hiểu hết, không có chỗ nào không hiểu. Mà chỗ nào cũng hiểu hết đó, gọi là triệt ngộ.
Là vì ở trong thời gian chúng ta dùng cái câu hỏi đó mà chúng ta ức chế cái tâm chúng ta không có ý thức mà phân biệt cái này cái nọ kia nữa, cho nên nó không có khởi một cái niệm gì được, nó bị kẹt chính ở trong cái câu hỏi đó. “Ta là cái gì?” hay hoặc là “Cái gì đây?” Đó nó cứ hỏi hoài ở trong đầu, cứ một lát chúng ta khởi ra cái niệm hỏi, lát chúng ta khởi niệm hỏi.
(27:26) Chớ nếu mà chúng ta không hỏi thì nó sẽ có một cái niệm vọng tưởng khác nó xen vô sao? Cho nên chúng ta muốn kéo dài cái đó nó thì thỉnh thoảng chúng ta đề kháng cái nghi tình đó lên. “Cái gì?”, để chúng ta nhắc để cho cái câu hỏi nó luôn luôn, cái nghi tình nó luôn luôn nó ở trong cái đầu của chúng ta, mà các niệm khác nó không sanh khởi.
Mà nó không sanh khởi được thì nó ức chế được cái ý thức của chúng ta. Mà nó ức chế được cái ý thức của chúng ta thì cái tưởng thức nó phải hoạt động. Mà nó hoạt động, cái tưởng thức nó hoạt động, thì ngay cái hỏi là “cái gì”, “là ai” thì nó biết liền à, bởi vì nó là tưởng rồi, cho nên nó biết liền, nó biết là cái gì rồi.
Chỗ mà ý thức ngưng, thì cái đó mới là cái gọi là Phật Tánh. Cho nên ở đây chúng ta kéo dài cái trạng thái đó, mà khi nó đã hiểu biết ra, thì nó biết ra cái đó là cái gì. Cho nên cái như vậy gọi là triệt ngộ, ngộ hết tất cả những công án.
“Tham thoại đầu tức là tham đầu câu nói.”
Các thầy với các con hiểu, thoại là nói, mà tham thoại đầu, là đầu câu nói. Nghĩa là chúng ta chưa cái nói ra cái lời nào hết, thì ngay cái chỗ sắp sửa nói, chưa nói đó, thì chúng ta tham ngay cái chỗ đó. Thì như vậy là các thầy sẽ hiểu ngay chỗ đó là cái chỗ gì, cái chỗ “chẳng niệm thiện niệm ác” đó.
Rõ ràng cái chỗ mà không ý thức nghĩ ngợi một cái gì hết đó, thì đó là cái chỗ thoại đầu đó. Cho nên cái danh từ nó thì nói như vậy để mà chúng ta tham thoại đầu, chứ sự thật đó là một cái pháp để chúng ta ngồi lại giữ cái tâm của mình nó không có cái niệm vọng tưởng.
“Cách thức này giống như người giữ tâm, ức chế tâm để cho niệm thiện niệm ác không sanh khởi. Niệm thiện niệm ác không sanh khởi tức là “bản lai diện mục”.”
Đó cho nên, do cái chỗ tham thoại đầu thì nó ngộ được cái “bản lai diện mục” của nó, tức là Phật Tánh của nó.
Đó thì, ở chỗ Chân Huệ hỏi về hai cách tu, hỏi về cái tham thoại đầu với tham công án, đến đây thì Thầy đã giải thích cho về cái tham thoại đầu và tham công án.
(29:30) Còn riêng về phần các thiền sư mà thoại đầu với công án, thì họ dạy theo La Quảng thiền sư, hay hoặc là theo Hư Vân Hòa Thượng, thì nó có sách vở của nó. Nhưng mà ở đây đại khái Thầy giải thích như vậy để chúng ta hiểu, biết cách thức họ tu, đơn sơ vậy. Còn cái mà họ vẽ ra thế này thế khác nữa thì chúng ta không đi vào cái chi tiết của họ nhiều, nhưng mà chúng ta biết như vậy.
(29:54) Hỏi: “Kính bạch Thầy! Bên Đại thừa dùng chữ Thinh Văn, Duyên Giác và Bồ Tát”
Chân Huệ hỏi Thầy Duyên Giác, Bồ Tát mà thôi. Còn ở đây thật sự ra, ở đây thì phải nói rằng trong kinh điển thường nói Thinh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, thì câu hỏi của Thiện (Chân) Huệ thì nó chỉ có hai là Duyên Giác và Bồ Tát. Thầy thêm cái chữ Thinh Văn để cho nó đủ toàn bộ, để cho đủ cái chỗ cấp bậc của kinh điển Đại Thừa nó sắp xếp, để coi nó sắp xếp như thế nào?
Hỏi: “Kính bạch Thầy! Bên Đại Thừa thường dùng chữ Thinh Văn, Duyên Giác và Bồ Tát, có phải để chỉ người tu đạt được quả vị nào đó hay không? Xin Thầy dạy bảo cho con được phân biệt”
Đáp: “Bên Đại Thừa thường xếp loại cao thấp quả vị tu, cũng như cách thức làm lợi ích chúng sanh nhiều hay ít.”
Nó tùy theo cái chỗ mà nó sắp xếp để mà nó có cái cao cái thấp, cho nên nó mới có Tam Thừa đó. Tam Thừa ở đây là Thinh Văn Thừa nè, Duyên Giác Thừa nè, Bồ Tát Thừa nè.
Cho nên nói ví dụ lấy ví dụ như Thinh Văn Thừa là xe dê, rồi Duyên Giác thừa là xe nai, rồi Bồ Tát thừa là xe trâu vậy đó, nghĩa là xe lớn, còn mấy cái kia là xe nhỏ, xe con, không có xứng đáng. Do đó mà nó có ý nghĩa như vậy.
Đáp: “Bên Đại Thừa thường xếp loại cao thấp quả vị.”
Tức là đứng ở trên cái chỗ đó mới xếp loại cao thấp quả vị của cái người tu,
“Cũng như cách thức làm lợi ích cho chúng sanh nhiều ít, lấy cái chỗ độ chúng sanh.”
Cho nên Bồ Tát Hạnh nó có, chớ ai bao giờ mà nói Thinh Văn Hạnh bao giờ, hay hoặc là Duyên Giác Hạnh đâu? Không có cái đó, nhưng mà có nói là Bồ Tát Hạnh.
“Nên Thinh Văn là bậc nghe pháp Phật dạy mà đoạn dứt phiền não, đắc quả A La Hán.”
(31:52) Cái người mà nghe Phật dạy rồi nỗ lực tu tập đoạn dứt phiền não, đắc quả A La Hán gọi là Thinh Văn.
“Chưa có làm lợi ích cho chúng sanh”
Tức là chưa độ chúng sanh, gọi bậc Thinh Văn. Mình vừa nghe Phật dạy pháp, rồi bắt đầu mình nỗ lực mình đoạn dứt các cái pháp ác, xa lìa các pháp ác, để rồi mình thành tựu được thiện pháp, mình chứng được Niết Bàn, chứng được quả A La Hán, mình gọi là Thinh Văn.
“Bậc Duyên Giác là bậc giác ngộ thông suốt lý Mười Hai Nhân Duyên nên xả bỏ đoạn dứt Ngũ Triền Cái và Thất Kiết Sử, chứng quả A La Hán, tự mình tu, không phải nghe Phật dạy.”
Người nào mà nghe những cái bài thuyết pháp của Phật rồi tu chứng quả A la hán thì gọi là Thinh Văn. Còn cái người nào mà tự mình tu mà thông suốt được cái lý mười hai nhân duyên, để rồi đoạn dứt cái cuộc sống của mình đó, tức là đoạn dứt sanh, “sanh đã tận, Phạm Hạnh mới xong” đó, họ bứt bỏ hết tất cả những cái dây mơ, rễ má trói buộc họ đó, thì họ tự tu như vậy đó, thì gọi là Duyên Giác, họ chứng quả được A La Hán.
Cái tu chứng này không do Phật dạy mà do tự người đó, mà tự ngộ ra, tự tu ra, cho nên bậc Duyên Giác còn gọi là Độc Giác Phật. Độc Giác Phật là ông đó ông tự tu ông chứng, chớ không có cái người nào mà giúp ổng hết.
Ví dụ như cuộc sống của Thầy, Thầy đã thực hiện một đời Độc Giác, cho nên không có người hướng dẫn cái pháp, mà Thầy tự tu để mà ngộ lấy những cái sự giải thoát cho chính mình. Rồi bây giờ đem ra giảng dạy cho các con, thì các con đều là bậc Thinh Văn, còn Thầy là Duyên Giác mà thôi. Đó thì Duyên Giác là tự mình tu, còn các con bây giờ nghe Thầy dạy rồi tu, rồi giải thoát được, thì các con là Thinh Văn.
Còn cái tu mà giải thoát, thì Thầy Duyên Giác giải thoát sao, thì các con Thinh Văn cũng giải thoát như vậy, chớ nó không có hơn cao thấp, không phải là Thinh Văn thấp hơn là Duyên Giác mà Duyên Giác là cao hơn Thinh Văn, không phải.
Hai cái này nó y như nhau, nó giống nhau, nhưng mà vì cái hành trì mà tu tập, thì các con được nghe Thầy giảng dạy, đem kinh nghiệm của Thầy dạy lại, cho nên gọi là Thinh Văn. Còn Thầy Duyên Giác là tự Thầy ngộ ra được một cái lý của Phật pháp rồi đoạn dứt các tham, sân si, phiền não của mình, rồi ngộ ra được những cái lý đó mà không có Phật dạy, tự mình, cho nên còn gọi một cái tên nữa, bậc Duyên Giác còn gọi cái tên là Độc Giác Phật.
Cho nên các con nghe nói Độc Giác Phật chớ các con không biết là Duyên Giác hay là Độc Giác Phật. Do cái chỗ hỏi này nó có, bởi vì trong nhà Phật, nếu chúng ta học mà chúng ta không hiểu hết những cái điều kiện này, thì coi như là sự thiếu khuyết của chúng ta rất lớn, chúng ta phải học và phải hiểu hết.
(34:42) “Đại Thừa cho hai bậc tu này là Tiểu Thừa”
Nghĩa là cho cái bậc Độc Giác Phật này, gọi là Duyên Giác này, với Thinh Văn này là Tiểu Thừa là cái xe nhỏ, chớ không phải là xe lớn, còn Đại Thừa là cái xe lớn.
“Trong kinh Đại Thừa Niết Bàn cho hàng Thanh Văn, Duyên Giác”
Nghĩa là cái Thanh Văn, Duyên Giác mà Thầy nói lại gọi là Tiểu Thừa đó,
“Như là trẻ con chưa biết gì hết, còn Đại Thừa như người lớn biết tất cả.”
Đó ở bên Đại Thừa thì nó phân biệt, nó cho chúng ta thấy, đó là trong cái bộ kinh Đại Thừa Niết Bàn, Duyên Giác đó, ở trong đó nó có những cái bài kinh dạy, thì Thầy đã đọc và đã nhớ nó như vậy rất rõ ràng. Là hiện bây giờ những cái lời văn viết ở trong đó nó cũng còn y như thế này, nó có sự so sánh phân biệt để chúng ta thấy rất rõ, chớ không phải là Thầy đặt cái chuyện này ra, mà chính ở trong kinh Niết Bàn đã nói, cái bài kinh đó đã nói cái này rất rõ.
“Trong kinh Đại Thừa Niết Bàn, cho hàng Thinh Văn, Duyên Giác như trẻ con chưa biết gì hết, còn Đại Thừa thì như người lớn tuổi biết tất cả. Tiểu Thừa như người mới vô trồng, còn Đại Thừa như người gặt hái quả.”
Nghĩa là Tiểu Thừa như người mới có gieo, mới có cấy cái cây lúa xuống thôi chớ chưa có hột lúa ăn, còn Đại Thừa là người đã gặt lúa, đã hái quả đem về ăn rồi.
(36:07) “Tiểu Thừa như đứa trẻ mới học, tập viết, tập đọc, còn Đại Thừa như người đã đọc qua kinh điển cao siêu và thâm mật.”
Đó nó so sánh ở trong đó, những cái danh từ đó đều là do kinh đó mà so sánh như vậy.
Thì các con cũng thấy rằng, Đại Thừa nó nói vậy chớ nó không làm được chủ sanh tử, mà nó dám nói rất là cao siêu, nó là thâm mật lắm, nó là như người đã đọc qua kinh điển cao siêu thâm mật, nó là như người mà đã viết rành chữ. Còn Tiểu Thừa như là đứa trẻ mới có tập viết, tập đọc mà thôi, cũng như người nông dân mà mới gieo trồng cây lúa thôi, chưa có gặt hái được ăn. Còn Đại Thừa thì nó đem về nó ăn rồi, tức là cái quả của nó lớn như vậy đó.
“Đó là mục đích thâm độc,”
Ở đây Thầy kết luận chỗ mà, khi mà cái bài kinh này, do mấy con hỏi, buộc lòng Thầy phải có những cái lời nói và cũng là phải giải thích, rồi cũng phải có cái kết luận của nó.
“Đó là mục đích thâm độc của Phật giáo phát triển, diệt Phật giáo nguyên thủy khôn khéo, mà người có trí tuệ mới nhận ra được.”
Bởi vì nó xếp loại như vậy chớ nó không phải nó bác Phật giáo nguyên thủy là ngoại đạo này kia, nó không có nói, mà sách nó viết cái hàng đó.
Mà sự thật nó không có tu cái pháp của Nguyên Thủy đâu. Từ cái bắt đầu vô, nếu mà nó sắp loại là Tiểu Thừa thì nó phải đi từ cái Tiểu Thừa nó đi lên, nó không bao giờ tu đâu. Cho nên các thầy thấy, hầu hết là các nhà Đại Thừa họ không bao giờ họ giữ giới đâu. Cho nên họ không có đi tu từng cái Tiểu Thừa đâu.
Nếu mà nó sắp xếp là cái Tiểu Thừa là cái cấp bậc như mình lớp một, lớp hai đi, thì ít ra các nhà Đại Thừa họ phải đi từ cái lớp một, lớp hai lên chớ? Đằng này họ bỏ lớp một, lớp hai, họ nhảy qua, họ vô đại học họ ngồi ở trên đó.
Họ nói là tôi là thâm sâu, cao siêu, hiểu biết những kinh điển cao rồi, còn cái Tiểu Thừa thì mới có tập viết, tập đọc, bập bẹ, có nhằm nhò gì với tôi đâu! Mà ông ta ổng không chịu tập viết, tập đọc mà ổng trèo lên đại học ông ngồi, thì thử hỏi, các con thấy ông học được không?
Cho nên đó là cái thâm độc của ngoại đạo, của tôn giáo khác mà trong lúc bấy giờ ở bên Ấn Độ, nó khôn khéo, nó đội lốt tu sĩ Phật giáo, rồi nó vô đó nó triển khai cái pháp. (38:24) Nó cũng dựa vào đó nó nói Phật thuyết này kia nọ, nhưng mà nó dìm lần, dìm lần xuống Chánh Pháp của Phật một cách khôn khéo, rất là khôn khéo.
Thậm chí như kinh Nguyên Thủy mà nó còn dám thêm bớt ở trong đó, nó làm đảo lộn tất cả những cái bài kinh, làm chúng ta bây giờ không biết cái bài kinh đó, như thế nào tu trước, như thế nào tu sau? Nó dám như vậy, nó dám làm những chuyện đó.
Như vậy các thầy thấy các Tổ, mà gọi là 33 vị Tổ, mà họ xiển dương về cái đường lối Đại Thừa, thì trong đó đã 33 vị Tổ chớ không phải là một vị Tổ nữa, 28 vị Tổ ở Ấn Độ, còn 6 vị Tổ ở Trung Hoa.
Nó đã triển khai tất cả những cái giáo pháp này để nó dìm cái giáo pháp của chính của đạo Phật xuống. Bây giờ chúng ta đi tìm lại, chúng ta thấy rất là vất vả, gian nan. Mà trong khi nó tu chẳng ra gì hết, bởi vì nó bỏ cái lớp A, B, C tập đọc, tập viết mà.
Đó cho nên ở đây Thầy kết luận để cho chúng ta thấy, đó là mục đích thâm độc của ngoại đạo mà Thầy nói rằng “Đó là thâm độc của Phật giáo phát triển, diệt Phật giáo nguyên thủy khéo léo mà người có trí mới nhận ra được”.
Người không trí thì không nhận ra được, người không trí thì cứ nhận đó là Đại Thừa, đó là Phật giáo rồi, Phật giáo này ngon rồi. Mình mà tu được Đại Thừa là ngon rồi, vừa tu mà vừa độ người, nghĩa là hạnh phúc biết bao, làm lợi ích cho chúng sanh, nó có gì đâu!
“Còn Bồ Tát là hàng đẳng cấp cao, tu tập từ sơ địa đến thập địa, là quả vị Phật, không qua đường lối tu tập của Tiểu Thừa.”
Nghĩa là không có đi qua cái đường lối của Tiểu Thừa. Từ cái sơ địa nó vẽ ra một cái đường lối khác của nó tu, cho nên nó không có, nó dìm Phật giáo xuống Tiểu Thừa, nhưng không bao giờ nó tu cái pháp Tiểu Thừa đó, mà nó tu từ cái sơ địa cho đến thập địa mà thôi.
Ở đây Thầy cũng kể sơ ra để cho các thầy thấy rằng cái thập địa nó gồm có cái gì, chớ nếu không đó Thầy nói thập địa, rồi tới chừng đó người ta hỏi thập địa là gì, tên gì, không biết gì hết trơn mới chết được đó chớ.
Cho nên ở đây nó không phải là nó có những cái tên thập địa này không, mà nó còn nhiều tên nữa lận, đọc trong kinh sách của Đại Thừa nó đặt ra nhiều tên thập địa lắm chớ nó không phải không. Nhưng mà đây Thầy thấy rằng cái này nó cũng tạm để cho các thầy và các con sau này cũng hiểu.
“Thập địa nó gồm có: một là Càn huệ địa.”
Nó có những cái tên, từ của nó dữ tợn lắm!
“Hai là Tánh địa; ba là Nhập nhơn địa; bốn là Kiến địa; năm là Bạt địa; sáu là Ly dục địa; bảy là Dĩ biện địa; tám là Chi Phật địa, chín là Bồ Tát địa; mười là Phật địa.”
Bởi vì nếu mà mình học về Phật pháp mà mình không nghiên cứu kỹ về vấn đề này, thì trong khi như Chân Huệ mà hỏi Thầy mà Thầy không giảng hết cái này, thì các con cũng không cái hiểu được, mà giảng hết thì nó cũng mất thì giờ nhiều lắm cho con đường tu tập.
Nhưng dù sao chúng ta là những người văn, tức là chúng ta học, học phải hiểu biết, hiểu biết để chuẩn bị cho chúng ta đương đầu với cái con đường của ngoại đạo, nó đang dìm Phật giáo, dìm kinh sách của Phật giáo, dìm cái chân lý của Phật giáo xuống tận dưới bùn, nó không bao giờ nó để cho ngóc đầu dậy.
“Trái lại, trong kinh Nguyên Thủy thì Bồ Tát chỉ là một người tu chưa chứng, chưa thành đạo.”
Ở trong kinh Nguyên Thủy thì nó xác định rằng, một vị Bồ Tát là một người tu chưa chứng. (41:59) Thí dụ như Bồ Tát Phổ Minh đi xuống, từ ở trên cung trời Đâu Suất đi xuống thế này, đi tái sanh thành Đức Phật Thích Ca sau này, đó là Bồ Tát.
Cho nên Bồ Tát tu chưa chứng. Gì mà trải qua nhiều đời nhiều kiếp Bồ Tát phải tu hạnh nhẫn nhục, phải tu tùy thuận bằng lòng, phải tu Tứ Vô Lượng Tâm, đó là những cái hạnh tu của những vị Bồ Tát.
Coi như là đâu có làm sao mà những vị Bồ Tát này nhập Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền được. Tất cả những bậc A La Hán người ta mới làm được chuyện đó, còn Bồ Tát thì chỉ nhẫn nhục mà thôi.
Cho nên cái trạng thái nhẫn nhục đó mà Thầy thường nói với các con, là trạng thái của cõi trời Đâu Suất. Cái người mà nhẫn nhục được thì cái người đó sẽ ở trong cái cõi trời Đâu Suất chớ chưa phải là ở cõi trời nào hết. Tức là cái trạng thái tâm của chúng ta là, trạng thái đó là cõi trời Đâu Suất.
Cho nên Bồ Tát tu nhiều đời nhẫn nhục, rồi bố thí, cả thậm chí như bố thí thân mạng của mình cho cọp ăn, bố thí cả vợ con, tất cả những cái đó đều bố thí, tất cả hết. Cho nên tu đó, hạnh nhẫn nhục, bố thí đó, thì làm những cái điều đó.
Cho nên cái một người cư sĩ, thường thường quý thầy họ hay nói cái vận của họ, nghe nó cũng, cái vận Đại Thừa, khi có một người cư sĩ nào đến làm công quả hoặc là cúng dường cái gì đó, thì họ kêu cái vị cư sĩ đó là Bồ Tát, coi như là sơ phát tâm Bồ Tát đó, hay hoặc là sơ địa Bồ Tát.
Cái người mà mới làm công quả chùa, cày cấy thì làm phụ, mà nấu cơm, nấu nước thì vô mà làm phụ, gọi là công quả đó, thì cái đó gọi là Bồ Tát. Hoặc là cái vị đó đem tiền bạc, cơm gạo đến cúng dường thì gọi cái vị đó là Bồ Tát. Cho nên nó có cái điều kiện họ gọi cái danh từ đó.
Cho nên ở đây chúng ta phải hiểu rằng, đứng ở trong góc độ Nguyên Thủy thì cái vị Bồ Tát đó chưa có thành tựu gì hết. Còn ở bên Đại Thừa thì vị Bồ Tát đó là một cái đẳng cấp cao, họ là cái xe lớn rồi, cho nên họ vừa chở họ, mà vừa chở bao nhiêu người ở trên đó nữa đi.
Cho nên từ đó họ chở đi luôn xuống dưới hố hết trơn hết trọi! Vì vậy bây giờ đó, chùa thì phạm giới, phá giới, thiếu đạo đức, cho nên họ chở luôn xuống dưới hố thẳm, cho nên vì vậy mà nhìn hình ảnh đó mà chúng ta đau lòng.
(44:28) Bây giờ cô Diệu Tịnh hỏi, cô hỏi cũng có nhiều, nhưng mà Thầy sẽ đáp ở trong cái tập của cô, để cho cô hiểu qua cái chỗ tu tập. Còn cái gì chung thì Thầy sẽ nêu ra đây, để rồi chúng ta sẽ học chung nhau trong cái vấn đề tu tập. Còn cái vấn đề riêng thì Thầy sẽ trả lời ở trong tập nhật kí.
Hỏi: “Nói đến Tứ Niệm Xứ là nói đến thân, thọ, tâm và pháp. Tu tập như thế nào mà Đức Phật còn cho nó có tên là Niệm lực? Xin Thầy chỉ dạy cho con rõ.”
Đáp: “Đặt tất cả các pháp của Đức Phật trên bốn niệm này, tức là trên bốn chỗ thân, thọ, tâm pháp.”
Nghĩa là tất cả pháp của Phật đều là chúng ta đặt ở trên đó để mà tu hết, không có pháp nào mà đặt ngoài cái chỗ đó mà tu. Cho nên Thầy có giảng rồi đó. Khi mà lấy một cái pháp mà mình đặt ở ngoài cái chỗ đó thì mình không giải thoát được bốn cái chỗ đó đâu.
Thí dụ như Tịnh Độ đặt cái pháp niệm Phật để cầu vãng sanh, thì tức là ngoài chỗ đó rồi. Mình cầu vãng sanh tức là mình cầu vào thế giới khác, chớ không phải là cầu giải thoát ở nơi thân tâm mình, cho nên nó sai, nó không đúng đâu.
Cho nên tất cả các pháp của Phật hiện mà chúng ta tu hành đó, nó đều dồn ở trên bốn cái chỗ này mà chúng ta tu hành.
“Các pháp tu của Phật có công năng làm cho bốn chỗ này thanh tịnh, tức là quét sạch những niệm ác Ngũ Triền Cái và Thất Kiết Sử ra khỏi.”
Đó thì, tất cả các pháp nó tập trung, nó dồn lên trên bốn chỗ này để mà tu tập đó, nó làm cho tất cả các pháp ác, lòng ham muốn đều là ra khỏi cái nơi đây, nó làm cho bốn cái chỗ này thanh tịnh hết.
“Tất cả các pháp tu tập của Đức Phật được gom lại trên bốn chỗ này nên nó trở thành một sức lực mạnh mẽ, gọi là Niệm Lực.”
(46:20) Nghĩa là dồn hết tất cả các pháp của Phật, từ Ngũ Lực, Ngũ Căn cho đến Thất Bồ Đề, Tứ Niệm Xứ, Tứ Chánh Cần, Tứ Như Ý Túc, Tam Minh, tất cả những cái này đều là tập trung ở trên bốn cái chỗ này để mà tu tập, chớ ngoài bốn chỗ này thì không thể nào tu tập cái gì hết hơn hết.
Cho nên nó tập trung như vậy mà các pháp, pháp nào nó cũng là vi diệu, pháp nào nó cũng có những cái lực của nó ở trong đó hết. Cho nên nó tập trung nhiều như vậy, cho nên mới gọi nó là Niệm Lực. Tập trung ở trên bốn cái chỗ này, mà bốn chỗ này là bốn cái nơi, cho nên bốn cái nơi đó gọi là Niệm Lực.
“Vì thế Tứ Niệm Xứ còn có tên là Niệm Lực, Niệm Căn.”
Bốn cái chỗ này là cái căn gốc nó mình tu tập, mình đem các pháp kia mình tu tập, cho nên nó là trở thành một cái gốc, cái gốc của cái niệm.
Mà nếu mà mình không có đem những cái pháp này mà đặt ở trên…
HẾT BĂNG
PHÁP HÀNH 18 - QUÁN THÂN, THỌ VÀ TÂM TRÊN TỨ NIỆM XỨ
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Thời gian: 1998
(00:00) Thầy nhắc lại:
“Tứ Chánh Cần không tu tập trên các pháp, cũng không tu tập trên Tứ Chánh Cần.”
Nghĩa là Tứ Chánh Cần không có tu tập ở trên các pháp, mà các pháp thì cũng không tu tập trên Tứ Chánh Cần. Thì ở cái câu trả lời của Thầy, nghĩa là cái Tứ Chánh Cần này, nó phải đặt ở chỗ nào chớ nó không phải đặt ở trên các pháp đó mà nó tu.
Nghĩa là bây giờ, Tứ Chánh Cần nó không đặt ở trên Chánh Niệm Tỉnh Giác, nó cũng không đặt ở Định Niệm Hơi Thở mà nó tu, nó cũng không đặt ở trên Định Vô Lậu mà nó tu. Cho nên Tứ Chánh Cần này nó không có tu tập ở trên các pháp khác, mà các pháp khác cũng không tu tập ở trên Tứ Chánh Cần.
Cái câu này thì các con thấy, bây giờ mình tu Định Niệm Hơi Thở, thì có phải mình ở trên cái Tứ Chánh Cần này mà mình tu đâu?
Đó thì bây giờ Thầy giải thích thêm.
“Tứ Chánh Cần là pháp môn dùng để quét sạch ác pháp.”
Bởi vì trong cái pháp môn Tứ Chánh Cần thì Đức Phật nói: các ác pháp chưa sanh thì không cho sanh, mà hễ sanh thì quyết tâm là phải diệt. Cho nên nó ngăn chặn, nó không có cho các ác pháp sanh khởi. Đó gọi là Tứ Chánh Cần.
Cho nên cái Tứ Chánh Cần này, nó quét sạch các ác pháp đó ở đâu? Nó ở trên thân, thọ, tâm, pháp, tức là ở trên Tứ Niệm Xứ. Đó. Cái Tứ Chánh Cần là cái pháp nó quét sạch các ác pháp ở trên Tứ Niệm Xứ.
Tức là chúng ta lấy Tứ Chánh Cần này, đặt ỏ trên bốn cái chỗ này để mà tu tập, để làm cho nó quét sạch các pháp ác ở trên bốn cái chỗ này. Vì trên bốn chỗ này nó đang có pháp ác, cho nên chúng ta mới đem Tứ Chánh Cần đến đó mà chúng ta đặt trên đó mà chúng ta quét.
Cũng như bây giờ cái sàn nhà của mình đây dơ, cho nên Thầy mới tìm vải, tìm bàn chải hay là tìm xà bông, Thầy lấy nước Thầy đem tới đây Thầy dội, Thầy rửa, Thầy lau, Thầy chùi nó, làm cho nó sạch.
Thì cái pháp Tứ Chánh Cần là đem lên chỗ cái Tứ Niệm Xứ để nó quét sạch các cái bẩn thỉu ở trên Tứ Niệm Xứ.
“Do muốn quét sạch ác pháp ở trên Tứ Niệm Xứ thì Tứ Chánh Cần phải kết hợp.”
Các con nghe “kết hợp”, chớ không phải là Tứ Chánh Cần tu ở trên các cái định kia, mà nó kết hợp với các pháp khác. Nó kết hợp với ai? Nó kết hợp với Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, nó kết hợp với Định Niệm Hơi Thở và nó kết hợp với Định Vô Lậu. Thấy chưa? Nó kết hợp.
À bây giờ cái pháp của tui, thì tui biết rằng tui phải ngăn chặn tụi ác, nhưng mà ở trên bốn cái niệm này, bốn cái chỗ Tứ Niệm Xứ này nó thường xuất phát mà tui ngăn chặn không có nổi! (2:53) Anh hãy đến giúp tôi để chặn cái đầu này, anh hãy giúp tôi chặn cái đuôi này, để cho nó đừng có sanh ra nữa!
Thì cái anh định Chánh Niệm Tỉnh Giác, thì ảnh chặn cái đầu, cái anh Định Niệm Hơi Thở ảnh chặn cái đuôi, cái anh Định Vô Lậu ảnh đè trên cái bụng của cái Tứ Niệm Xứ. Cái Tứ Niệm Xứ nó không vùng vẫy được nữa cho nên nó toàn bộ là thiện pháp. Nó không khởi ra được nữa. Cho nên cái anh Tứ Chánh Cần này ảnh khôn lắm. Ảnh kết hợp với mấy anh kia.
Cũng như là bây giờ một mình mình, nước mình yếu thì mình đánh không lại một cái nước lớn, cho nên mình hợp với mấy nước nhỏ, hợp nhau lại, nó đông lên, cái bắt đầu đó mình đánh người ta được. Thì cái anh Tứ Chánh Cần này, một mình tui mà vô đánh cái Tứ Niệm Xứ này, quét cái Tứ Niệm Xứ này, thì quét không có được, thì các anh phải phụ tui! Đó là nó kết hợp, nó liên minh nhau lại, nó đánh.
Chớ không phải là Tứ Chánh Cần này tu tập ở trên các pháp đó, cũng như các pháp đó mà tu tập ở trên cái Tứ Chánh Cần, mà nó liên minh, nó kết hợp lại để nó đánh. Cho nên Phật mới dạy là “câu hữu” đó, câu hữu là kết hợp. Các con hiểu chưa? Có hiểu được vậy chúng ta mới biết được cái sự kết hợp, chớ không phải là trên dưới.
(04:05) Hỏi: “Kính bạch Thầy! Khi tu tập các pháp trên,”
Tức là Tứ Chánh Cần, Định Niệm Hơi Thở, Định Vô Lậu, Định Chánh Niệm Tỉnh Giác.
“Thì tâm không còn tham sân si, phiền não, thương ghét, giận hờn, cũng không còn lòng ham muốn, cũng sạch, thì còn phải tu ly dục, ly ác pháp nữa hay không?”
Cô hỏi Thầy như vậy. Nghĩa là cô nghĩ rằng nó còn có những cái pháp tu để ly dục, ly ác pháp nữa, chớ không phải nội bấy nhiêu đây mà nó hết. Đúng vậy, cô nghĩ thì cũng đúng, nhưng mà chưa đúng lắm đâu. Để Thầy giải thích để mà thấy.
(4:43) Đáp: “Chính tu tập Tứ Chánh Cần là lìa tham, sân, si, mạn, nghi, Thất Kiết Sử. Đó là ly dục, ly ác pháp. Mà đã ly dục, ly ác pháp thì còn pháp nào tu tập để mà ly nữa?”
Nghĩa là bây giờ mình dùng Tứ Chánh Cần mình đã ly hết rồi, tức là tham, sân, si, mạn, nghi và Thất Kiết Sử mình đã lìa nó ra được rồi, thì đó là ly dục, ly ác pháp rồi chớ còn gì? Vậy thì con hỏi còn phải pháp nào để mà tu tập nữa hay không? Đâu còn pháp nào tu tập!
“Mà muốn tu tập Tứ Chánh Cần,”
Hồi nãy là Tứ Chánh Cần nó liên minh với các pháp khác, nó kết hợp với các pháp khác để nó ngăn chặn các pháp ác. Nhưng mà trước khi Tứ Chánh Cần muốn khởi quân để mà đi đánh, để mà dẹp ở trên cái Tứ Niệm Xứ này, dẹp giặc ở trên bốn cái chỗ này, thì nó phải chuẩn bị nào là thóc, gạo, thực phẩm, rồi súng đạn, hay là gươm giáo, và nó phải rèn luyện, nó phải hằng ngày, hằng đêm nó sản xuất ra cho đủ cái thứ mà để đi đánh giặc chớ?
Như vậy là trước khi mà Tứ Chánh Cần nó thực hiện ở trên bốn Tứ Niệm Xứ này, thì nó phải còn làm cái gì trước đó chớ, phải không? Các con hiểu không? Cho nên nó phải làm cái gì đây?
Vậy thì cho nên những cái này, thì cô Diệu Tịnh, cô còn nghi rằng, nếu mà các pháp ác này ly rồi, thì nó không biết ly dục, ly ác pháp này còn cái pháp nào tu nữa không? Tức là cô còn thấy có những cái pháp mà mình chưa tu, mà không biết nó tu ở chỗ nào đây.
Ở đây thì Thầy nhắc lại:
“Muốn tu tập Tứ Chánh Cần thì các con phải sống đúng giới luật.”
Đó là giới luật đó các con. Nghĩa là trước khi mình muốn tu tập Tứ Chánh Cần này ngăn các pháp ác đó, thì mình phải sống đời sống giới luật.
(06:33) Còn bây giờ, một cái người mà muốn tu Tứ Chánh Cần, mà ăn uống phi thời, chạy theo xem hát, rồi đi chơi đi bời, uống rượu, rồi cà phê thuốc lá đủ loại hết, thì thử hỏi tu Tứ Chánh Cần có ngăn chặn được không?
Cho nên trước khi mà tu tập Tứ Chánh Cần, thì các con phải sống đúng giới luật chớ. Đó. Mà phải sống đúng giới luật rồi, thì các con phải tập sống thiểu dục tri túc, ít muốn biết đủ! Rồi trong khi đó các con cũng phải “Thánh phòng hộ sáu căn”, luôn luôn phải phòng hộ mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình chớ!
Đó là những cái pháp mà trước khi để thực hiện Tứ Chánh Cần. Sau khi đời sống của chúng ta đúng giới luật, lấy giới luật phòng hộ sáu căn, đời sống chúng ta phải thiểu dục, tri túc, chúng ta phải bứt bỏ được những cái gì mà chúng ta cần phải xả bỏ, là chúng ta xả sạch, để cho chúng ta rảnh rang thanh thản. Từ đó chúng ta đem Tứ Chánh Cần đặt ở trên Tứ Niệm Xứ mà chúng ta quét, thì chắc chắn nó phải sạch thôi!
Còn bây giờ, nhà cửa, vợ con gì tùm lum tà la, phải đi làm kiếm tiền từng đồng từng cắc, phải gặt từng bó lúa, từng giạ lúa về nuôi vợ, nuôi con, thì thử hỏi bây giờ, Thầy nói làm sao mà tu Tứ Chánh Cần cho được? Nó không có dễ đâu!
Đó là những cái mà chúng ta phải chuẩn bị để chúng ta bước vào Tứ Chánh Cần. Như vậy là các con đã thấy, rõ ràng là cái sự tu tập của chúng ta có một cái sự chuẩn bị hoàn toàn.
Cũng như là một nhà quân sự, họ muốn đi chiếm đất nước người nào, hay hoặc là họ muốn giải phóng quê hương họ, họ phải chuẩn bị. Phải là như thế nào, thế nào, để rồi mới tác chiến với người ta mới thắng chớ! Thì cái nhà quân sự họ phải có chiến thuật, chiến lược.
Thì ở đây chúng ta ví như mình là một người chiến sĩ, để mà chiến thắng được cái thân, thọ, tâm, pháp của mình, thì tức là mình phải đi vào trong cái chiến thuật, chiến lược mà Phật đã vạch ra, để chúng ta trở thành là người chiến thắng.
Nếu mà chúng ta không chuẩn bị như vậy, giới luật không sống đúng nè, không thiểu dục tri túc nè, không phòng hộ sáu căn nè, mà vội đem Tứ Chánh Cần, đem đó thì giặc nó sẽ giết chúng ta liền tức khắc chớ chưa chắc là chúng ta đã giết giặc.
Đó thì đến đây là cái phần câu hỏi của các con đã xong. Kỳ tới thì nó có những câu hỏi khác. Có Hải Tâm có hỏi Thầy nhưng mà vì Thầy chưa có kịp trả lời, và suốt buổi sáng nay Thầy vừa trả lời một số các câu hỏi.
(08:59) Bây giờ thì chúng ta tiếp tục, chúng ta học Tứ Niệm Xứ, để biết rằng chúng ta sẽ đặt những pháp nào ở trên bốn cái chỗ này, rồi tu cái gì, làm cái gì ở trên bốn cái chỗ này, để chúng ta rõ hơn nữa. Bởi vì ở đây chúng ta đang đi ở trong cái giới hành, cái pháp hành, mà chúng ta không rõ Phật pháp, thì coi như là chúng ta tu tà pháp.
Và trong cái hành động mà hằng ngày chúng ta tu tập, thì chúng ta gom lại chúng ta biết cái gì? Nhiều khi mà chúng ta học mênh mông như thế này, rồi chúng ta tu điên tu khùng nữa. Các con biết tu điên tu khùng như thế nào không? Học đúng đó, nhưng mà vì mình tu cái sức của mình, cái khả năng của mình.
(9:39) Đó Thầy nhắc lại, cái khả năng của mình tu có ba mươi phút à, mình tỉnh giác chừng năm phút hay mười phút thôi, đi kinh hành năm phút, mười phút thôi, mà mình làm suốt ngày, thì thử hỏi cái đầu mình nó còn cái thứ gì đâu nó chịu nổi, nó rối loạn! Mà nó rối loạn mà ức chế kiểu đó, thì nó càng rối loạn nữa.
Ở đây chúng ta biết rằng nó có hai cái phần ức chế, cái phần ức chế bằng cơ và cái phần ức chế bằng tâm.
Ức chế bằng cơ là bây giờ chúng ta tập trung trong cái hơi thở, chúng ta biết hơi thở ra vô nè, thì chúng ta ráng làm sao để giữ cho nó biết hoài hoài, nó kéo dài cái thời gian ra hoài. Thì do đó chúng ta ráng gồng hai cái tay, chúng ta gồng lên như thế này, cái răng chúng ta cắn chặt, con mắt chúng ta nhìn chăm chăm cái lỗ mũi chúng ta, đó là chúng ta ức chế tâm của mình bằng cơ.
Còn ở đây chúng ta ức chế tâm của mình nó bằng tâm chớ không phải bằng cơ. Như vậy là như thế nào? Chúng ta ngồi rất tự nhiên, thân thể chúng ta không gồng chỗ nào hết, không gom chỗ nào hết. Nhìn một cách cũng nhẹ nhàng chớ không phải là chăm chăm như chúng ta tập tụ điểm.
Xưa thì chúng ta tập tụ điểm cho nó quen đi, quen mắt, quen tai chúng ta đi, còn bây giờ chúng ta tu để xả tâm của chúng ta, ly dục, ly ác pháp. Cho nên do đó chúng ta ngồi rất tự nhiên, và chúng ta chỉ có dùng pháp hướng.
Mà pháp hướng nhắc tâm, tức là ức chế đó. Cách thức đó là cách thức ức chế (bằng) tâm. Cho nên nó nhẹ nhàng, nó thanh thản. Vì vậy mà nó không bị rơi vào cái tưởng, cái loạn tưởng. Do chúng ta tu đúng cái sức, đúng cái mực của chúng ta.
Thì một ngày, thí dụ như cái sức của chúng ta mới tu, cái tâm chúng ta tỉnh thức ít, thì chúng ta đi một vòng cái Tổ đường này, chúng ta đi một vòng kinh hành, chúng ta giữ được như vậy là một phút. Bắt đầu từ kia mà chúng ta đi vòng cho tới kia, nó là một phút.
(11:32) Mà một phút thì chúng ta (vừa) đi vừa hướng tâm nhắc: “Tôi đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành”, hay hoặc là “Thân tôi đi tôi biết thân tôi đi”. Tức là mình nhìn cái thô là tổng quát của cái thân của mình, mình không nhìn hai bước chân của mình, mà mình nhìn cả cái thân động đang đi, thì mình nhắc. Thì mình nhác, mình đi tới đó thì mình dừng lại.
Chớ bây giờ mình cứ tu luôn, tu luôn, rồi có cái niệm gì xen vô, rồi mình cũng ráng mình nỗ lực cho hằng ngày mình tu, như vậy nó không bao giờ nó được miên mật hết. Nó không được tỉnh thức ở trong cái miên mật đó, mà nó làm cho mình mệt người, làm cho mình đủ cách, cho nên bây giờ nó rối.
Mà bị ức chế như vậy, cái phần tuy rằng mình không gồng mình, mình không ức chế bằng cơ nhưng mà mình ức chế bằng tâm của mình. Mình cứ nhắc nó hoài, nhắc nó hoài. Do đó một ngày mình tu nhiều để mình mong ba tháng cho nó xong, rồi sáu tháng cho mình có đủ những cái đạo lực của mình nữa, nghe lời Thầy nói, nhưng mà càng muốn mau thì các con lại càng chậm!
Chúng ta không muốn mau mà chúng ta tu có chất lượng! Bây giờ cỡ cái sức chúng ta, một phút thì chúng ta tu một phút, rồi chúng ta xả nghỉ đi. Chúng ta xả nghỉ đi, chớ chúng ta không có tu liên tục. Mà chừng trong vòng nửa tiếng, một tiếng chúng ta tiếp tục trở lại, chúng ta tu trong một phút, chúng ta đạt được một phút.
Bây giờ ngồi thiền hít thở nè, một phút chúng ta giữ cái tâm chúng ta ở trong cái hơi thở của chúng ta, không có một niệm nào hết. Nhưng mà cái sức của chúng ta không thể ngồi ba, bốn lần, năm hay mười phút như vậy.
Cho nên chúng ta tu một phút rồi, chúng ta thấy hoàn toàn chủ động điều khiển, rõ ràng là pháp hướng chúng ta, rõ ràng trong một phút không có một niệm nào. Xả, chúng ta đi chơi. Nó nghĩ gì nó nghĩ, nó làm gì, nó nghĩ gì chuyện gì cũng được, kệ nó!
Nhưng mà ở đây, thứ nhất là chúng ta trói chặt cái chân của chúng ta, giữ độc cư! Chúng ta giữ tâm chúng ta không ăn phi thời, giữ tâm chúng ta không lười biếng đi ngủ bậy bạ. Do đó khi mà nó muốn ngủ thì chúng ta đi kinh hành hoài, nó không ngủ được, cho chừng nào tới giờ ngủ chúng ta ngủ. Chúng ta phải chiến thắng nó từng phút như vậy, do cái chỗ tu tập đúng cách như vậy.
Chúng ta đi kinh hành không có nghĩa là luôn luôn lúc nào chúng ta cũng phải tập trung ở trong bước đi chúng ta đâu. Đi ở đây chúng ta chỉ có sức tập trung có một phút thôi, thì chúng ta tu một phút, rồi chúng ta đi chúng ta không có tập trung nữa. Đi cũng như một cái người bình thường họ không tu tập gì hết, họ đi cho nó đừng buồn ngủ thôi.
Thì cách thức đó nó sẽ phục hồi lại cái sức để mà chúng ta tu tập trong cái phút kế, nó rất là có chất lượng. Một ngày chúng ta tu ba lần, bốn lần, mà ba lần, bốn lần đó làm chủ, hơn là chúng ta tu nhiều mà nó rối loạn, rồi nó sanh loạn tưởng, nó thế này thế khác, nó làm chúng ta rối lên, thấy mình tu không kết quả gì hết.
(14:08) Còn về pháp hướng Thầy xin nhắc cho các con biết. Nó không có đơn sơ đâu. Nghĩa là cái trạng thái định của tâm chúng ta có ở mức nào, thì cái pháp hướng nó sẽ có hiệu quả ở mức đó.
Cũng như bây giờ cái đầu của chúng ta nhức, cái thân chúng ta đau, mà chúng ta cũng nghe cái người mà Thầy dạy rằng nói: “Cái thọ này là vô thường, cái đau này phải đi khỏi thân này đi!”, mà cái tâm của mình thôi nó còn nhớ, còn nghĩ tùm lum tà la, đụng ai nó cũng giận hờn phiền não, thấy ăn uống nó cũng còn thèm cái này cái kia, thì ông này có nhắc nó một ngàn lần thì cái thọ nó cũng không đi đâu hết, nó càng đau nhức thêm nữa. Càng nhắc, tâm nó lại càng tập trung ở trong chỗ đau, còn đau luôn nữa.
Đó thì, cái đó không phải là cái chỗ trạng thái để mà diệt cái thọ, mà chính cái chỗ đó phải đi uống thuốc, chớ không phải là diệt cái thọ.
Mà khi cái tâm của chúng ta, ngồi được một phút không vọng tưởng, Thầy nói chỉ một phút không vọng tưởng, thì cái pháp hướng đó nó có hiệu quả, nhưng nó hiệu quả với cái bệnh nào? Cái bệnh ít ít thì có hiệu quả, chớ cái bệnh mà nó đau ruột thừa ở trong đó mà chúng ta nhắc, biểu nó đừng có, hết đau, thì chắc chắn là nó không thể nào nó dừng lại được đâu. Chúng ta phải hiểu.
Thí dụ như bây giờ cái cơn đau của người ruột thừa thì người ta phải nhập tới Tứ Thiền người ta mới thắng được cái thọ đó chớ đâu phải. Bởi vì trong y học có nói, khi một người đau ruột thừa thì nó là tiếng thét của cơ thể, nó đau quá nó la đó! Cho nên còn cái đau mà như nhức đầu, cảm, là cái tiếng nói thầm thì của nó.
Đó là trong cái y học, họ ví cái thân thể của chúng ta, nó có cái tiếng nói của nó chớ, cái tiếng nói của thọ đó. Cho nên, thí dụ như đau ít ít, lai rai chúng ta thấy như thường, đó là tiếng nói của nó.
Cho nên ở đây, trên cái phần học tập, chúng ta phải biết được, áp dụng được cái pháp hướng của chúng ta.
Thí dụ như bây giờ một người ngồi, hay hoặc đi kinh hành, mà trong kinh hành của họ là trong ba mươi phút nó không có một niệm, nó tỉnh thức ở trong hành động đó trong ba mươi phút, và họ ngồi lại, họ tỉnh thức ở trong cái hơi thở của họ ba mươi phút, thì cái người này họ sẽ hướng tâm có hiệu quả. Khi mà hướng tâm đúng với cái thọ của họ, thì họ hướng tâm cái thọ đi.
Còn bây giờ chúng ta được một giờ thì chúng ta sẽ hướng, cái lực của nó nó mạnh hơn. Bởi vì từ cái đạo lực của pháp hướng đó, nó theo với cái định lực của nó, cái định lực nó có được bao nhiêu thì nó theo, cái sức tỉnh thức của nó bao nhiêu thì nó có cái hiệu quả của cái pháp hướng bấy nhiêu. Còn bây giờ chúng ta chưa có cái định lực gì hết mà chúng ta hướng thì không có hiệu quả.
Cho nên các con người nào mà hướng mà thấy có hiệu quả chút chút đó, ít ít đó, thì cái định lực nó khá. Còn cái người nào mà khá hơn nữa thì thấy nó có hiệu quả hơn nữa, thấy hôm nay mình nhắc được.
(17:04) Cái người nào mà sâu hơn nữa, tức là người ta đến cái chỗ người ta tịnh chỉ cái hơi thở, thì lúc bấy giờ người ta bảo “cái thọ im đi”. Người ta bảo như vậy, chứ sự thực ra người ta ra lệnh như vậy chứ người ta đang ở trên cái trạng thái nó tịnh chỉ hơi thở, người ta nhập vào trạng thái đó, cho nên trạng thái đó nó sẽ làm cho cái thọ tác động không được, cho nên nó không đau.
Mà nó không đau, trong khi đó người ta chỉ ở trong đó một thời gian là một giờ hoặc hai giờ, nhập định ở trong đó. Thì khi mà người ta xuất định ra, thì cái cơ thể nó sẽ tự ở trong cái sự ngơi nghỉ của nó, nó sẽ phục hồi lại cái chỗ bệnh, nó làm cho chúng ta hết bệnh.
Cũng như Thầy cũng đau thần kinh tọa chớ không phải là Thầy không đau, nhưng mà Thầy nhờ cái pháp hướng mà Thầy đuổi nó đi được, nhưng mà muốn đuổi như vậy Thầy cũng phải ở trong cái trạng thái đó chớ. Chớ còn trạng thái mà Thầy đang nói chuyện với quý thầy mà Thầy dùng pháp hướng thì nó không hiệu quả đâu.
(17:54) Coi như là chúng ta phải đạt được cái mức định nào thì chúng ta phải dùng cái pháp hướng ở mức định đó, nó mới sử dụng mới được.
Chẳng hạn là như bây giờ cái tâm của mình đó, nó chưa, mình chưa có cái đời sống đúng giới luật, mình còn thèm ăn thèm uống, mình còn thích nói chuyện, mình còn này kia nọ, thì mình bảo: “Cái tâm như cục đất, đừng có tham, sân, si!”, thì chắc chắn là cái hiệu quả nó không có đâu.
Nhưng mà mình sống đúng cái đời sống giới luật đức hạnh, thiểu dục tri túc rồi, thì lần lượt mình tu tập, mình nhắc cái tâm của mình nó đoạn dứt tham, sân, si thì nó lần lượt nó nín.
Bởi vì cái trạng thái mà chúng ta đã sống đúng giới hạnh, đã ly dục, ly ác pháp, đã thiểu dục tri túc, đã phòng hộ sáu căn tất cả, thì chúng ta hướng tâm, thì khi mới đầu, thì nếu mà chúng ta mới tập sống như vậy, thì nó còn những cái khổ đau của cái lối sống đó.
Như bây giờ chúng ta ăn ngày một bữa, thì sáng chúng ta thấy đói, chiều chúng ta thấy đói, thì lúc bấy giờ chúng ta cũng chưa có hiệu quả mà nhắc nó hết tham, sân, si đâu.
Cho nên sau khi mà chúng ta thuần được ở trong cái cảnh ăn ngày một bữa mà không thấy đói, không thấy thèm muốn ăn gì nữa đó, thì bấy giờ chúng ta tu nhắc cái tâm đừng có tham, sân, si nữa, thì lần lượt nó giảm, nó có hiệu quả.
Đó Thầy nói, ở cái chỗ nào thì nó có cái trạng thái nấy, nó mang đến cho cái kết quả của chúng ta, nó tùy theo chỗ đó mà cái pháp hướng chúng ta sử dụng để nó trở thành một cái lực. Nhưng mà cái lực của nó phải từ ở chỗ cái tâm mà chúng ta được định tỉnh, thanh tịnh, thì nó mới có kết quả.
Chớ còn bây giờ có nhiều người nói: “Sao con hướng hoài mà nó cũng không được, nó không hết, nó không hiệu quả gì hết, nó không hết!”, mà mình không nghĩ là cái tâm của mình lúc bấy giờ nó đang ở chỗ cái định nào? Nó đang được ở những cái gì? Thì tức là trước cái chỗ hướng tâm đó, để đạt được đó, mà mình chưa thực hiện trọn vẹn cái pháp trước đó.
Đó thì, như vậy thì hôm nay Thầy nói để chúng ta biết, để mà chúng ta thực hiện cho nó đúng với cái cách thức tu tập.
(19:47) Bây giờ Thầy xin nhắc lại cái bài Kinh Tứ Niệm Xứ:
“Này các thầy Tỳ Kheo, như thế nào thầy Tỳ Kheo sống quán thọ trên thọ?”
Bởi vậy cái phần này là cái phần rất là kỹ lưỡng các con. Trên thân rồi, bây giờ tới trên thọ, rồi trên thọ rồi trên tâm, rồi trên pháp, mỗi cái Đức Phật có giải thích, và đồng thời Thầy rút tỉa qua kinh nghiệm của Thầy, Thầy thêm để nó làm cho sáng tỏ những cái bài pháp này.
Bởi vì Tứ Niệm Xứ là cái chỗ quan trọng để mà giải thoát nó khỏi sanh, già, bệnh, chết, nó khỏi đau khổ ở trên đó đó, cho nên nó quan trọng. Cái bộ kinh gọi là Tứ Niệm Xứ là cái bộ kinh rất là quan trọng đối với cái đời người mà tu theo đạo Phật đó, chớ không phải thường đâu.
Cho nên ở đây thì chúng ta phải cố gắng mà lưu ý. Bởi vì trên cái thân là cái nhân tướng của thân, rồi cái hành tướng của thân, hành tướng nội, hành tướng ngoại của nó rồi, thì bây giờ tới cái thọ đây. Các thầy phải lưu ý về cái phần thọ, nhiều khi cái trí chúng ta không hiểu nổi nó đâu.
“Này các thầy Tỳ Kheo, như thế nào mà thầy Tỳ Kheo sống quán thọ trên các thọ?
Này các thầy Tỳ Kheo, ở đây Tỳ Kheo khi cảm giác lạc thọ, tuệ tri tôi cảm giác lạc thọ.”
Đó thì trên cái thân này, ở trên cái cảm giác thọ của mình, khi mà lạc thọ, bây giờ thí dụ lạc thọ là cái gì đây?
Bây giờ Thầy đang nực nè, mà cơn gió nó thổi qua thì nghe mát, thì cái đó là cái cảm giác lạc thọ, mà cảm giác lạc thọ đó ai biết? Tôi biết cảm giác lạc thọ đó chớ ai! Người khác có biết được cái thân Thầy mát đó không?
Cũng như bây giờ Thầy bưng cái ly nước này, Thầy uống cái ly nước này, trong khi đó Thầy đang khát nước, thì Thầy uống, cái cảm giác của Thầy uống cái ly nước nghe nó đã khát, nó không còn khát nữa. Do đó cái cảm giác đó gọi là lạc thọ.
Cũng như bây giờ Thầy ăn một cái bánh, cái bánh đó nó làm cho Thầy thấy nó ngon, nó ngọt, nó thích thú ở trong đó, thì cái cảm giác nó ngon ngọt, thích thú đó gọi là lạc thọ.
(21:50) Mà ăn biết nó ngon ngọt, lạc thọ đó gọi là “tuệ tri cảm giác lạc thọ”. Nghĩa là mình làm cái đó, mình ăn cái đó, rồi mình biết cái đó, tức là ở trên cái chỗ thọ đó, quán thọ là cái chỗ mà mình biết được cái đó.
Còn bây giờ mình ăn mà mình không biết nó ngọt, nó cay đắng gì thì cái chuyện đó là không đúng.
Cho nên trong cái chuyện Tây Du Ký, Thầy thấy có cái người đệ tử của ông Tam Tạng là Bát Giới. Khi mà mấy cái người này họ đi hái trái nhân sâm họ ăn thì họ ăn từ từ, họ nghe mùi, nghe vị, đó là cách thức ăn ở trên thọ quán thọ đó.
Còn cái ông này, ổng kê cái ổng nuốt ọt cái mất, ổng không biết nó mùi vị gì, ổng nghe nói là trái nhân sâm là ngon, là sống trường sanh, là ổng kê vô miệng là ổng lật đật ổng nuốt, thành ra ông không biết ngọt hay chát, hay cay đắng gì trong đó hết. Cho nên ổng nuốt rồi ổng đòi hỏi, “Bây giờ mấy anh ăn nghe nó làm sao?” “Trời đất ơi, mày nuốt rồi còn cái gì đâu mà biết!”
Cho nên ở đây, Thầy mới nói như này nè, trên thọ quán thọ tức là tuần tự ở trên cái cảm giác của lạc thọ chúng ta như thế nào, thì chúng ta biết rõ, gọi là trên thọ quán thọ.
“Khi cảm giác khổ thọ, tuệ tri tôi biết cảm giác khổ thọ”.
Nghĩa là bây giờ cái chân tôi nhức ở chỗ này, hay hoặc là nhức dưới ngón chân, tôi biết ở dưới ngón chân đó nhức, hay hoặc là nhức ở ngón tay, hay hoặc là nhức ở trên đầu, thì ngay cái chỗ nào tôi biết ở chỗ đó, rõ ràng là cái chỗ đó gọi là khổ thọ.
Còn bây giờ, nhức ở dưới ngón chân mà tôi nghĩ rằng nó nhức ở trên cái bắp đùi, thì cái đó là tôi chưa có cảm giác cảm thọ đúng chỗ, nó sai.
Cho nên đó gọi là “trên thọ quán thọ” để mà rõ thấu được cái lạc, cái khổ của nó.
“Khi cảm giác bất khổ bất lạc thọ, tuệ tri tôi cảm giác bất khổ bất lạc thọ.”
Bất khổ bất lạc thọ là như thế nào? Là nghĩa là bây giờ cái thân của tôi nó không có cái lạc, mà nó cũng không có cái khổ. Nó không đau nhức, mà giờ nó cũng không ăn bánh trái gì, nó cũng không thấy ngon thấy dở gì hết, nó bình thường. Cho nên đó là cái cảm giác bất khổ bất lạc thọ. Thì tôi cũng biết rõ cái cảm giác bất khổ bất lạc thọ đó, tôi rõ biết.
(23:58) “Hay khi cảm giác lạc thọ thuộc về vật chất,”
Ở đây Đức Phật muốn phân tích cho chúng ta thấy rõ nè.
“Hay khi cảm giác lạc thọ thuộc về vật chất”
Bây giờ thuộc về vật chất như thế nào? À, có một cái người họ co cái cây họ đánh vào mình, thì đó là mình cảm giác cái cây đánh vào mình có đau.
Mà nếu mà mình cảm giác một cái lạc thọ của một cái chất khác, người ta đem cho mình một cái ly nước uống mát, người ta đem cho mình cái ly sữa uống ngọt, hoặc là người ta cho mình cái bánh, đó là mình cảm cái giác vật đó nó ngon, nó ngọt như vậy, thì cái cảm giác đó ở trong cái thọ của mình, nó cảm giác được cái vật đó ngon.
Cho nên mình nói cái bánh này ngon, cái bánh này ngọt, cái bánh này cay, bánh này đắng, bánh này mặn… thì đó là mình cảm giác, cái cảm giác đó, biết được cái vật đó thuộc về cái vật đó, nó ngon ngọt cay đắng đó.
“Tuệ tri tôi cảm giác lạc thọ thuộc vật chất, hay khi cảm giác lạc thọ không thuộc vật chất.”
Nghĩa là bây giờ có một người tu thiền, họ ngồi họ mới nghe trong cổ họ nó toát ra cái nước bọt nó ngọt, thì nó không ăn một cái cái bánh nào hết, cho nên từ ở trong cổ họ, họ nghe nó ngọt ngào trong đó, thì đó là cái cảm giác nó không thuộc về vật chất, mà nó lạc thọ không thuộc về vật chất.
Thí dụ như nó không có một cơn gió thổi qua, mà tui nghe trong thân của tui nó mát mẻ, do như vậy thì cái đó là cảm giác không phải thuộc vật chất, không phải là cái chất ở bên ngoài mà tác động vào.
“Hay khi cảm giác khổ thọ thuộc về vật chất…”
Đó là hồi nãy Thầy nói, khi mà người ta đánh mình đó, thì mình biết đau đó gọi là khổ thọ. Hay khi mình ăn một cái bánh, mà cái bánh đó đắng, hay thiu, thì đó là cái cảm giác khổ thọ, cho nên mình nhả ra liền chớ mình không có nuốt vô. Thì trong khi đó tôi phải cảm giác, tuệ tri tức là tôi biết.
“Tôi biết, tôi cảm giác cái khổ thọ thuộc vật chất, hay khi cảm giác khổ thọ không thuộc vật chất, hay khi cảm giác bất khổ bất lạc thọ thuộc vật chất.”
Nghĩa là bây giờ, một cái vật gì đó mà nó không làm cho mình có cái cảm giác lạc, cũng như không có cảm giác khổ.
Thì ví dụ như bây giờ cái tờ giấy này, nó để trên cái tay của tôi, thì tôi không thấy không có cảm giác nó đau, cũng không có cảm giác gì nó đem đến hỷ lạc của nó hết. Như vậy là cái vật chất này nó không làm cho tôi cảm giác lạc thọ, cho nên nó không bị ảnh hưởng của khổ thọ và lạc thọ. Do đó thì nó phải nằm ở trong cái chỗ không lạc không thọ, không thọ lạc mà không thọ khổ.
(26:46) “Như vậy vị ấy sống quán thọ trên các nội thọ, hay sống quán thọ trên các ngoại thọ.”
Nghĩa là ở đây, Đức Phật nói ở trên đó để cho chúng ta biết cách thức mà chúng ta cảm thọ ở trên cái thọ. Biết đó để làm gì? Biết đó để chúng ta diệt nó, để chúng ta trừ nó bằng những cái pháp mà chúng ta đã đặt trên nó. Chớ không phải là biết nó mà chúng ta dứt nó được đâu, mà biết nó để mà chúng ta dùng cái các pháp khác để mà chúng ta làm cho ly những cái này nè, làm cho nó lìa nè.
Thí dụ như bây giờ Thầy đang có cái cảm giác biết rằng cái đầu của Thầy, ở trong nội thọ của Thầy, nó đang nhức ở trong này nè, nó đang đau trong này nè, thì bắt đầu bây giờ Thầy biết rất rõ như vậy, cái cảm giác rất rõ như vậy. Cho nên Thầy dùng cái pháp để Thầy đuổi cái thọ đó đi.
Như Thầy dùng nó để tịnh chỉ, coi như là xả khổ, xả lạc. Thầy xả khổ để cho nó hết cái đau đó đi, thì lúc bấy giờ Thầy phải ở trong cái trạng thái, phải nhập vào cái trạng thái của Tứ Thiền, tức là Thầy phải đem cái Tứ Thiền Thầy đặt ở trên cái chỗ cảm thọ đó, để làm cho nó diệt cái cảm thọ đó đi. Do đó Thầy không còn đau nữa.
Nghĩa là Thầy quét sạch cái khổ thọ đó trên cái Tứ Niệm Xứ, bốn cái chỗ này. Thân, thọ, tâm, pháp của Thầy, quét sạch nó ra, không có cho nó khổ thọ đó nữa, hay hoặc khổ lạc đó nữa.
“Như vậy là vị ấy sống quán thọ trên các nội thọ, hay sống quán thọ trên các ngoại thọ, hay sống quán thọ trên các nội thọ ngoại thọ.” Cả hai bên hết.
Đó thì, các con thấy rằng, trong cái bước đường tu tập của chúng ta đó, từ cái chỗ mà Đức Phật dạy chúng ta để mà biết những cái cảm thọ, từ cái cảm thọ trong thân, nội thân của chúng ta, từ cái cảm thọ vật chất ở bên ngoài tác động vào cái thân của chúng ta: thọ lạc, thọ khổ, thọ bất lạc bất khổ.
Nghĩa là chúng ta quán nội thọ, quán ngoại thọ. Bây giờ ở ngoại thọ chúng ta nó như thế nào? Nó có cái cảm thọ như thế nào? Nó ngứa, tức là ngoại thọ đó. Mà bây giờ ở trong ruột chúng ta nó đang đau, hay hoặc tim chúng ta đang đau, thì đó là nội thọ đó, nội thọ ở trong thân của chúng ta.
Bởi vì ở trên thân nó mới có cái thọ, chớ không phải là cái thọ tự nó ở ngoài đó mà nó đau nhức ở ngoài được, mà nó phải ở trên cái, cái thọ khổ là ở trên (thân).
(29:12) Cũng như bây giờ ở trên cái thân này, về cái thọ mà chúng ta quán, thì cái thân này nó mới có cảm giác là thọ lạc, nó mới có mát mẻ ở trên cái thân. chớ không phải là ở ngoài cái thân này mà nó có cái cảm thọ, thì cái cảm thọ nó sẽ đặt ở ngoài cái hư không, hay hoặc đặt ở trên cái bàn, thì nó nhằm nhò gì ở đây mà chúng ta lại có cảm thọ?
Cho nên chúng ta biết nó ở bên trong, tức là những cái đau, những cái nhức nó ở trong xương, trong cốt chúng ta, nó không phải ngoài da. Mà ở ngoài da chúng ta có cái mụn ghẻ, nó lở nó loét, rồi nó đau nhức, tức là nó ở ngoại. Còn cái nội thì ở trong, như tim gan phèo phổi của chúng ta, nó đau nhức ở trong đó, hay ung thư trong bụng, thì đó là nó ở nội.
Cho nên cái thọ nó nằm ở đâu thì chúng ta quán theo nội, ngoại ở đó. Và bây giờ ở trong đau mà ở ngoài đau, thì đó là nội ngoại thọ.
Hiểu như vậy thì chúng ta biết, mà khi biết như vậy rồi thì chúng ta biết bây giờ cần phải dùng cái pháp gì để mà tống cái nội ngoại thọ này cho nó ra, để nó khắc phục được cái tham ưu, nó làm cho mình không có còn đau khổ nữa, chớ không khéo thì đau đớn thì mình phải khổ sở rồi.
Bây giờ Đức Phật dạy tiếp:
“Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên các thọ.”
Cái tánh của thọ nó sanh khởi. Bây giờ nó không nhức nè, nhưng mà mình biết rằng cái tánh sanh khởi của thọ nó sẽ, một lát nữa nó sẽ nhức. Thí dụ như bây giờ Thầy đặt thành cái ví dụ để cho quý thầy hiểu.
Bây giờ đó mình chéo chân lên mình ngồi kiết già nè, thì quý thầy sẽ biết rằng cái tánh sanh khởi của cái thọ, nó sẽ ở trên cái chỗ ngồi kiết già này, là hai cái chân này nó sẽ bắt đầu nó tê nè, rồi nó thấy nhức nè, nó sẽ sanh khởi.
Do đó mình ngồi, bây giờ thí dụ như một người ngồi ba mươi phút, mà bây giờ mình ngồi lên ba mươi phút tới một giờ thì cái tánh sanh của cái thọ nó sẽ từ ở trên cái thân đó mà nó tiếp diễn nó sanh. Từ cái tê cho đến đau nhức, rồi từ cái tê đau nhức đó nó sẽ trở thành nóng, rồi nó giảm xuống, rồi nó tăng lên, thì tức là tánh sanh khởi của nó.
Có khi thì nó không đau, rồi có khi nó đau. Có khi mình chéo chân lên đau liền, mà có khi chéo chân lên không đau liền. Đó là cái tánh sanh khởi của thọ.
“Hay quán tánh diệt tận trên các thọ”
Nghĩa là sống quán tánh diệt tận ở trên các thọ, mình xem xét cái tánh diệt tận của nó. Bây giờ nó đau rồi nó lại hết đau.
Cũng như bây giờ đó, mình nằm đây, cái đầu mình nhức nè, rồi mình quán cái tánh diệt tận của nó, (31:43) thì mình xem thấy nè, bây giờ mình nằm yên ở trên cái tụ điểm của mình, tức là cái nơi mà tâm định đó, thì mình nằm yên trên đó, thì mình thấy nó lần lần nó giảm lần, giảm lần, giảm lần. Cái tánh mà nó diệt tận nó làm cho cái thọ không có khổ. Và cái tánh sanh khởi của nó, ngày càng nó đau nhiều nhiều lên, tức là cái tánh sanh khởi của nó.
“Hay là sống quán tánh sanh diệt trên các thọ.”
Nó sanh ra rồi nó diệt mất, tức là có khi nó đến nó đau mình, rồi có khi nó hết. Cũng như bây giờ nó đau cái bụng, nhưng mà lát nó hết, thì đó là mình quan sát cái tánh sanh diệt của các thọ. Như vậy để làm gì? Để cho mình biết nó là vô thường, để cho mình biết nó không phải thật, cho nên mình không bị chấp nó, mà mình không sợ.
“Vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy.”
Nghĩa là trên cái chánh niệm đó mình quan sát, mình thấy rất rõ, mình ở trong cái niệm đó mình biết từng cái sanh khởi, từng cái diệt của các thọ, từng cái cảm giác đối với cái vật chất ở bên ngoài, và đối với cái nội tâm, ngoại tâm của mình, tất cả những cái cảm thọ đó đều là mình biết rất rõ, và mình luôn luôn tập trung theo những cái trạng thái mà nó xảy ra của cái thọ đó.
Thì để làm gì? Để cho mình biết cái đó để cho mình phải sử dụng như thế nào, để mình làm cho nó thoát ra cảnh khổ của cái thọ.
“Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước mọi vật gì ở trên đời này.”
Nghĩa là, do thấy như vậy để cho mình buông xả hết mọi vật, vì cái tánh sanh khởi như vậy, vì cái thọ như vậy, cho nên do vì vậy đó, mình chấp một cái vật gì trên đời, thì thử hỏi có làm cho mình không (có) hết tánh sanh khởi này không? Cho nên đó là cái sức quán của Định Vô Lậu.
Ở đây Đức Phật muốn tu diệt cái cảm thọ này là trên cái nhân tướng của thọ này, để mà chúng ta quán xét, để mà chúng ta hoàn toàn là tu tập cái Định Vô Lậu, để làm cho chúng ta không có bị dính các cái pháp khác của thế gian, không có bị chấp trước của cuộc đời này mà dính mắc để làm cho chúng ta đau khổ.
“Này các Tỳ Kheo, như vậy là Tỳ Kheo sống quán thọ trên các thọ.”
Đó thì, ở đây cái này là sống quán thọ trên cái thọ như vậy là tóm lược một cái bài này, để làm cho chúng ta quan sát được cái thọ của mình, và đồng thời khi đau, khi nhức, khi thế nào, thì mình đặt cái pháp đó mình sẽ đuổi nó ra, làm cho nó không còn đau nhức, không còn khổ sở ở trên cái thân thọ của mình nữa, nó làm cho mình không còn có cái cảm giác đau khổ đó nữa, làm cho mình không còn tham ưu, phiền não với cái thân đau khổ của mình nữa, nó làm cho mình trở về thanh thản, an lạc.
(34:24) Cho nên bây giờ đó, mình quan sát được từng cái tâm sanh khởi, cái tánh sanh khởi của nó, rồi do đó mình mới quan sát, từng đó rồi bắt đầu mình biết à đây như thế nào, thế nào, vì vậy mà bây giờ mình phải dùng cái pháp gì để mà tận diệt nó, để mà ly nó ra cho khỏi cái thân này?
Đó thì mình biết rõ được như vậy thì khi mà cái thọ của mình đến, bây giờ thí dụ như có một người nhức cái đầu, thì biết rằng cái đầu mình đang nhức “tôi nhức đầu tôi biết tôi nhức đầu” rồi. Vậy thì mình phải dùng cái pháp nào để cho hết nhức đầu đây? Mà cái sức định tỉnh của mình nó chỉ mới ở trong cái Định Niệm Hơi Thở có ba mươi phút thôi. Nghĩa là ba mươi phút không vọng tưởng chớ gì! Bây giờ các con sẽ đặt cái Định Niệm Hơi Thở.
Đây là Thầy dạy cách thức để mà chúng ta tu ở trên các pháp này. Mà cái sức của mình nó được ba mươi phút không có cảm thọ, vậy thì bây giờ mình mới gom tâm mình trên một cái tụ điểm của hơi thở. Rồi bắt đầu đó mình mới hướng tâm mình nhắc: “Cái tâm phải tập trung trong hơi thở!”
Mặc dù cái đầu nó đang đau nè, nhưng mà mình bắt nó phải tập trung trong hơi thở, thì mình hướng tâm: “Cái thọ phải lìa khỏi cái thân này, không có được ở đây nữa!” Và đồng thời thì cái tâm của mình nó bám chặt ở trên cái tụ điểm của cái hơi thở đó, nó thở ra, thở vô, thở ra vô, nó cứ bám chặt, bám rất chặt, thì một lúc sau nó bám chặt như vậy, thì cái thọ lần lần, cái truyền lệnh của mình rồi, cái thọ nó lần lần lần lần nó đi.
Mà bây giờ nói thật sự ra, nếu mình không truyền lệnh thì cái tâm bị dao động, cho nên mình không có yên mà mình ở trong hơi thở. Mà mình truyền lệnh, mình tin rằng cái truyền lệnh của mình thì cái thọ này nó sẽ đi khỏi, nó không còn nhức cái đầu nữa. Do đó mình nỗ lực, mình an ổn, mình an tâm mình tu tập, mình an tâm mình nằm yên, mình không bị dao động.
Do đó chỉ trong vòng một phút cho đến năm phút là cái đầu mình không thấy đau nữa. Bởi vì mình nằm đó, chớ còn mình nằm chỗ khác là mình bị đau hoài không hết.
Đó là cách thức của Thầy để mà chỉ cho cái người mới có nhiếp tâm được ba mươi phút cũng có thể xả thọ được, nhưng mà xả thọ được đó nó cũng phải kéo thời gian từ năm mười phút nó mới hết cảm giác đau. Còn không thì nó đau ít ít, nó đau nhẹ hơn, nó không có đau quá đau. Vì cái tâm mà bám chặt ở hơi thở thì nó làm cho cái trạng thái đau nó nhẹ xuống, nó không còn đau nữa.
Cho nên cái sức định chúng ta càng cao thì cái thọ này nó không có làm cho chúng ta thấy đau, vì cái sức định của chúng ta nó đang ở trong cái ba mươi phút, mà chỉ nhiếp ở trong hơi thở đó, thì nó còn đau rất nhẹ, nó không có đau nhiều nữa.
(36:49) Và đồng thời thì nếu mà chúng ta bám chặt thì nó cũng sẽ hết đau. Và nếu mà chúng ta có xả ly được các ác pháp, thì cái chỗ này chúng ta hướng tâm, mặc dù là bây giờ có ba mươi phút ở trong hơi thở thôi nhưng mà nó vẫn cũng hết đau, là tại vì chúng ta xả được cái tâm thanh tịnh.
Đó là cách thức mà chúng ta tu tập để phá đi cái thọ ở trên thân, thọ, tâm, pháp của chúng ta. Đó thì cái bài kinh này là cái mục đích để chúng ta phá thọ.
(37:12) Bây giờ tới cái bài kinh kế:
“Này các thầy Tỳ Kheo, như thế nào là thầy Tỳ Kheo sống quán tâm trên tâm?”
Hồi nãy trên thọ, bây giờ trên tâm.
“Này các thầy Tỳ Kheo, ở đây Tỳ Kheo với tâm tham, tuệ tri, biết…”
Tuệ tri tức là tôi biết đó
“…biết tâm có tham.”
Nghĩa (là) tâm khởi ham muốn cái gì đó, thì cái vị Tỳ Kheo đó biết cái tâm mình còn ham muốn.
“Tâm không ham muốn thì vị đó biết tâm không ham muốn. Tâm có sân thì vị ấy biết tâm có sân. Tâm không sân thì biết tâm không sân. Tâm có si thì biết tâm có si. Tâm thu nhiếp thì biết tâm thu nhiếp”.
Nghĩa là bây giờ mình thu nhiếp, nhiếp cái tâm mình ở trong hơi thở thì mình biết nó đang thu nhiếp được hoàn toàn, thì rõ ràng là mình đang biết.
“Tâm tán loạn thì biết tâm tán loạn.”
Nghĩa là tâm mình nghĩ cái này, nghĩ cái kia, nghĩ cái nọ, nó nghĩ đủ thứ hết, nó liên tục, từ cái này rồi nghĩ tới cái khác, thì mình biết cái tâm của mình đang tán loạn.
“Hay với tâm quảng đại thì biết tâm quảng đại, tâm không quảng đại thì biết tâm không quảng đại. Tâm hẹp lượng thì biết tâm hẹp lượng. Tâm hữu hạn thì biết tâm hữu hạn. Tâm vô thượng thì biết tâm vô thượng. Tâm có định thì biết tâm có định. Tâm có tỉnh thì biết tâm có tỉnh. Tâm có tuệ thì biết tâm có tuệ. Tâm không định thì biết tâm không định. Tâm có giải thoát biết tâm giải thoát. Còn tâm không giải thoát thì biết tâm không giải thoát.”
Đó là trên cái tâm của mình, mình biết từng cái tâm của mình nó như thế nào. Bây giờ tâm mình qua cái thọ nó không đau, thì mình biết nó không đau, mà qua cái thọ mình biết nó có đau thì mình biết nó có đau, tức là trên tâm mình quán được cái tâm.
“Như vậy vị ấy sống quán tâm trên nội tâm, hay sống quán tâm trên ngoại tâm, hay sống quán tâm trên nội ngoại tâm. Hay sống quán tánh sanh khởi trên tâm.”
Nghĩa là nó muốn sanh khởi một cái niệm nào đó, thì cái tánh sanh khởi của nó, nó cũng sẽ báo trước cho chúng ta biết như thế nào. (39:27) Thì do đó nếu một người tu tỉnh thức thì chúng ta thấy rất rõ ràng cái tánh sanh khởi của nó.
Và khi mà chúng ta quán như vậy thì cái tánh sanh diệt, tức là nó sanh ra rồi nó diệt, thì chúng ta cũng thấy:
“Hay sống quán tánh sanh diệt trên tâm.
Có tâm đây vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì ở trên đời này. Này các Tỳ Kheo, như vậy là Tỳ Kheo sống quán tâm trên tâm.”
Ở đây cái tâm của chúng ta nó nghĩ ngợi, nó làm cái gì, nó khởi niệm gì chúng ta cũng đều biết nó hết, cho nên chúng ta lúc nào cũng chánh niệm tỉnh thức ở trên những cái niệm của nó. Cho nên như vậy là chúng ta đâu có ức chế nó chỗ nào đâu? Các thầy thấy.
Mà khi nó có những cái niệm đó, nó không đúng, nó là ác pháp, thì chúng ta sẽ đoạn dứt liền, nó là thiện pháp thì chúng ta tăng trưởng. Mà nó không niệm gì hết tức là nó ở trong Thập Thiện. Mà Thập Thiện thì chúng ta biết nó là Thập Thiện, vì vậy mà chúng ta cũng vẫn tăng trưởng, tức là vẫn kéo dài cái trạng thái đó ra. Mà bây giờ nó có cái niệm tốt, tức là thiện, thì chúng ta tăng trưởng cái niệm đó lên cho nó tốt. Thì cái sự suy nghĩ như vậy đó, gọi là Tầm, Tứ.
Cho nên cái người mà nhập Sơ Thiền ly dục, ly ác pháp thì có Tầm có Tứ chớ đâu phải hết. Cho nên cái niệm thiện nó có khởi, vì vậy mà chúng ta đâu có ức chế hoàn toàn là cái tâm chúng ta chẳng niệm thiện niệm ác đâu? Cho nên nó vẫn thản nhiên, thanh thản.
Còn (cái) này quý thầy không hiểu, mà quý thầy tu giống như là cái người Thiền Đông Độ, suốt ngày để cho nó miên mật không có một niệm gì xen vào trong đầu của mình hết, thì tức là quý thầy đã tu sai rồi. Cho nên nó rối loạn quý thầy, nó làm cho quý thầy, nó đánh cho quý thầy đủ cách hết, để rồi nó làm cho quý thầy loạn tưởng.
Chớ còn cái này tự nhiên, mình sống tự nhiên không có gì hết. Bây giờ niệm thiện tôi biết niệm thiện nè, mà tâm tôi có sân tôi biết nè. Tâm sân thì tôi phải tu pháp gì để cho tâm tôi hết sân nè, tôi phải quán nè, phải như thế nào nè, để chừng một chút xíu là nó hết sân, chớ không phải để kéo dài một ngày, hai ngày!
Đó là mình biết rõ được tâm của mình như vậy. Cho nên gọi là “trên tâm quán tâm”, là quán sát cái tâm của mình, từng phút từng giây như vậy, nghĩa là mình phải tỉnh giác ở trên cái tâm của mình như vậy. Mà tỉnh giác như vậy thì không có nghĩa là ức chế.
(41:13) Cho nên mình có Tầm mà, có Tứ, có suy nghĩ mà, có hiểu biết, để rồi từ đó mình biết, à bây giờ tâm mình còn sân nè, thì mình phải tu cái pháp nào? Vậy thì bây giờ nó sân cái chuyện gì? Mà sân cái chuyện đó mình chưa có thấu rõ thì mình phải đem cái (Định) Vô Lậu quán xét, mình quán xét vô, thì mình thấy rõ rồi thì mình xả tâm ra.
Mình xả tâm ra thì nó không còn giận nữa, nó hết giận rồi, mình nó hết giận rồi thì mình biết tâm mình không sân. Tâm mình không sân thì bây giờ nó đang an, an thì mình đang giữ cái an đó, nó không còn niệm gì nữa thì thôi.
Mà nó có niệm gì khác, mình nói “Niệm này thiện thì nên tăng trưởng!”, mình suy tư cái niệm đó, quán xét cái niệm đó. Như vậy là suốt ngày mình thấy mình ở trong cái lành thôi.
Còn bây giờ nếu mà nó có cái niệm gì mình lo lắng, mình bận rộn đến cái đời sống vật chất, ăn uống cái này kia, đó là niệm ác hết. Còn nếu mà cái niệm thiện là cái niệm gì mà làm cho người khác không khổ, làm cho người khác được hạnh phúc, được an vui, thì đó là niệm thiện. Mà niệm gì mà đem lại cho mình khổ thì cái niệm đó là ác niệm.
Mình lo lắng không biết mấy đứa con bây giờ nó làm ăn như thế nào, như vậy là nó sẽ nghèo khổ hay hoặc là nó sẽ bán tiệm nó đi. Mình ngồi đây thí dụ mình lo vậy, tức là mình bị niệm ác rồi, cho nên ngay đó là mình biết cái tâm mình nó đang khởi niệm ác. Vì vậy đó mình phải diệt nó đi bằng cái định gì?(43:02) Tức là cái tâm niệm của mình ngay đó là mình phải biết dùng cái pháp nào để mà đoạn dứt nó.
Biết áp dụng như vậy thì cái kết quả của quý thầy, của các con sẽ được giải thoát, mà hằng ngày sống như một người bình thường mà tâm hồn thanh thản, an lạc, đâu có chuyện gì mà xen vào trong cái đầu mình được.
Cho nên mình tu mà coi như là không tu gì hết, coi như bình thường, mà ai chửi ai mắng ai gì cũng không giận hết. Thì như vậy là rõ ràng mình đã biết được cái tánh sanh khởi của cái tâm của mình rất rõ.
Cho nên khi có người ta nói nặng lời nói, hay nói gì đó, mà ngay đó là mình đã biết được cái tâm của mình, cho nên mình chặn đứng ngay liền bằng cái pháp mình đã học, mà Thầy đã dạy năm rồi.
(43:39) Bây giờ chúng ta lại học kế một bài nữa. Bây giờ thân, thọ, tâm rồi bây giờ tới bài kế nữa là pháp.
“Này các thầy Tỳ Kheo, thế nào là Tỳ Kheo sống quán pháp trên các pháp? Này các thầy Tỳ Kheo, ở đây Tỳ Kheo sống quán pháp trên các pháp đối với năm triền cái.”
Nghĩa là năm triền cái là một cái pháp, các con hiểu chưa? Đây là pháp, là lời của Phật dạy, năm cái này là năm cái khổ, năm cái triền cái này là năm cái màn ngăn che làm cho mình không thấy đúng sự thật, làm cho mình đau khổ đây.
Đó là, đối với bây giờ trên cái pháp năm triền cái này, mình mới quán xét nó. Mình mới quán xét để coi như là mình xé cho tan nát cái ngăn che này đi. Đó là trên pháp mình quán pháp. Thì như vậy là các pháp, như cái bàn, cái ghế nó là các pháp đó.
(44:46) Mà bây giờ các pháp mà lời Phật của dạy chúng ta tu hành, thì như năm triền cái này cũng là pháp. Mà năm triền cái này, chúng ta đã quán sát ở trên năm cái pháp này để chúng ta thấu rõ nó, nó ngăn che chúng ta như thế nào, để từ đó chúng ta bứt xé nó, bỏ nó đi, không có để cho nó ngăn che nữa.
Thì bây giờ chúng ta lấy pháp của Phật mà chúng ta quan sát lại pháp, dùng cái tâm của chúng ta mà quan sát lại những cái lời của Phật dạy, tức là các pháp của Phật.
“Này các thầy Tỳ Kheo, thế nào là Tỳ Kheo sống quán pháp trên các pháp đối với năm triền cái?
Này các thầy Tỳ Kheo, ở đây Tỳ Kheo nội tâm có ái dục, tuệ tri nội tâm có ái dục, nội tâm không ái dục tuệ tri nội tâm không ái dục”.
Nghĩa là, Đức Phật (nói) Ngũ Triền Cái như thế nào? Tham, sân, si, mạn, nghi. Mà tham ở đây, nó thuộc về ái dục, thì bắt đầu bây giờ trên cái thân tâm của mình đây, mà nó có một cái niệm khởi lên về ái dục, thì tức là mình biết cái tâm của mình nó có ái dục. Mà tâm của mình bây giờ nó không có khởi cái niệm ái dục thì mình biết rằng tâm không ái dục. Cho nên “nội tâm tôi biết không ái dục.”
Và “với ái dục chưa sanh nay sanh khởi”, thì từ cái chỗ mà hồi nãy nó không sanh mà bây giờ nó khởi sanh ra cái tâm niệm ái dục, cho nên bây giờ mình cũng phải biết, với cái ái dục nó sanh khởi, nó đang sanh khởi thì mình biết nó đang sanh khởi.
Và bây giờ mình lại biết ái dục đã sanh nay đã được đoạn diệt. Cái tâm sanh khởi đó bây giờ mình dùng cái Định Vô Lậu mình quán xét, cho nên cái tâm ái dục đó nó được đoạn diệt thì mình cũng biết rằng cái tâm ái dục đó đã được đoạn diệt.
Và mình biết như vậy thì đó là mình quán, mình quán cái pháp gọi là tham, sân, si đó. Tức là trên các pháp đó nó bị đoạn diệt rồi, nó không có còn là ái dục nữa. Cho nên do tu cái Định Vô Lậu đó mà bây giờ cái ái dục đó bắt đầu nó đã…
(Xem tiếp ở Pháp hành 19)
HẾT BĂNG
PHÁP HÀNH 19 - QUÁN CÁC PHÁP TRÊN BỐN NIỆM XỨ
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Thời gian: 1998
(00:00) Chúng ta giữ Chánh Niệm Tỉnh Thức. Chúng ta thấy ở trong cái hơi thở của mình, cái Chánh Niệm Tỉnh Thức.
Bây giờ chúng ta ngồi đây chúng ta biết chúng ta ngồi nè: “Thân tôi ngồi tôi biết tôi ngồi”, rồi bây giờ giờ mình ngồi đây mà cái tâm mình không có gì hết, tức là mình tu cái Định Sáng Suốt chớ gì? Rõ ràng là mình ở trong cái Định Sáng Suốt chớ gì?
Bây giờ mình có không nương hơi thở, mình không có nương có hành động của nội ngoại thân của mình, mà mình nương vào cái chỗ ngồi của mình mình biết mình ngồi thôi. Rồi mình ngồi đây, nó lặng lẽ, nó thanh thản như thế này thì đó là Định Sáng Suốt rồi. Đó, mình không tu mà nó cũng có cái Định Sáng Suốt đó rồi.
Rồi bắt đầu bây giờ có một cái niệm đến, thì cái niệm đó nó tham hay dục hay hoặc là sân thì mình biết rõ ràng. Vậy thì bây giờ mình dùng cái gì đây, để mình đoạn diệt nó đây?
Thì có phải là ở trên các pháp ác mà Tứ Chánh Cần đã dạy: “Các pháp ác chưa sanh không cho sanh, mà đã sanh thì đoạn diệt”. Mà bây giờ nó không sanh thì mình đâu có gì đâu mà đoạn, thì mình giữ cái thiện pháp đó, còn bây giờ nó sanh thì mình phải đoạn.
Bây giờ Thầy đọc kế tiếp.
“Hay nội tâm có sân, tuệ tri nội tâm tôi có sân”.
Nghĩa là tâm mình sân mình biết mình có sân.
“Hay nội tâm tôi không sân, tuệ tri nội tâm tôi không sân. Và với sân hận chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy. Và với sân hận kia đã sanh nay được đoạn diệt”.
Nghĩa là nói chung cái tâm sân, tâm si, tâm nào trong Ngũ Triền Cái này nó đều được chúng ta hiểu rõ từng chút. Tương lai nó không sanh chúng ta cũng biết, mà hiện tại đang sanh chúng ta cũng biết, hiện tại đang diệt chúng ta cũng biết. Đó là trên pháp mà quán các pháp, vì các pháp đó là tham, sân, si, mạn, nghi.
Mà tham, sân, si, mạn, nghi có nằm trên bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp của chúng ta không? (1:56) Nếu không thì tức là nó thanh thản, nó an lạc, nó giải thoát, mà nếu có thì nó là không giải thoát. Cho nên nếu có thì chúng ta dùng pháp để mà diệt nó.
(02:06) Bây giờ thì các thầy thấy, như nói cái tham sân si, mà si của Ngũ Triền Cái là gì? Là hôn trầm, thùy miên, tức là cái buồn ngủ, cái ham ngủ đó. Trên cái bước đường tu tập của mình, mà khi mình còn bị hôn trầm, thùy miên, tức là mình còn bị niệm si của triền cái. Mà niệm si của triền cái thì mình phải tu tập như thế nào?
Bây giờ mình thấy mình có nè, ở trong này: “Nội tâm tôi không có hôn trầm, thùy miên và với hôn trầm, thùy miên chưa sanh nay sanh khởi”. Do nay mình biết nó sanh khởi hôn trầm thùy miên, như bây giờ mình ngồi tu hơi thở nè, bắt đầu cái bị hôn trầm, bị thùy miên, bị buồn ngủ, mình gục xuống đi, thì tức là mình biết rõ ràng là mình đang bị hôn trầm, chớ đâu phải mình không biết! Mình biết vậy thì mình phải dùng định gì để mình phá, phải không? Mà mình dùng cái định gì mình phá nó đây?
Mình biết rằng chỉ có cái định Chánh Niệm Tỉnh Giác Định là phá được thôi, mà mình tu cái Định Chánh Niệm Tỉnh Giác là mình phải đi kinh hành chớ mình ngồi đó đâu có được. Bởi vì nó là hôn trầm, cho nên cái thân mà ngồi yên thì nó dễ bị hôn trầm. Vì vậy mà mình muốn tu thì mình phải đi kinh hành.
Mà đi mình kinh hành, mình đi ở đây không có nghĩa là mình tập trung liên tục ở trong cái tỉnh giác đó, tỉnh giác của cái bước đi của mình. Bởi vì sức của mình mình đi có một phút à, mà bây giờ mình cứ đi hoài cho nó hết buồn ngủ, thì mình cứ tập trung như vậy nó lại ức chế, nó làm cho mình sanh loạn tưởng, do cái chỗ mà tu tập không biết cách.
Bây giờ nó hôn trầm thì mình đi kinh hành, mà mình đi với một cách thư giãn của mình, mà mình chỉ nhắc: “Cái hôn trầm này phải lìa khỏi cái thân này, chớ không được ở đây!”
Do đó thì mình cứ đi một cách không tập trung, không có gì hết, và đồng thời mình làm sao cho cái thân mình động, để nó đừng có buồn ngủ nữa mà thôi. Và thường xuyên mình nhắc: “Cái hôn trầm phải đi đi, không có được ở đây!” Và nhắc như vậy nhưng mà phải đi, chớ không phải nhắc mà ngồi đó thì nó cũng hôn trầm à!
Cho nên mình nhắc nó, bảo nó đi, thì mình phải đi thôi, và mình đi nhưng mà mình đừng có tập trung nhiều ở trong cái bước đi của mình. Mình chưa có đủ cái sức để mà tỉnh thức ở trong bước mình cả nửa tiếng hay hoặc một tiếng đồng hồ để cho nó hết hôn trầm. Cho nên ở đây mình cứ đi, đi tới, đi lui, đi qua, đi lại.
Rồi có lúc thầy mình thấy khỏe thì mình nhắc: “Đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành. Chân mặt bước, tôi biết. Cân trái bước, tôi biết” Tôi nhắc vậy rồi tôi đi tôi biết, được bao nhiêu hay bao nhiêu, nhưng mà mình cố gắng mình đi.
Và cố gắng mình cứ đi như vậy, mình tập tỉnh thức được, cái sức của mình được mức nào thì mình cứ tập, mà quên thì kệ nó, mặc tình. Miễn là mình cứ động thân cho nó phá cho sạch cái thùy miên hôn trầm này.
(4:56) Cho nên ở đây ai có hôn trầm thùy miên, thì tức là ở trên pháp mà quán pháp, ở trên Tứ Niệm Xứ Phật dạy mà “trên pháp quán pháp”, gặp cái pháp hôn trầm thùy miên này thì phải phá nó, phải đoạn diệt nó bằng những cái pháp mà Thầy đã dạy sẵn rồi Đức Phật đã dạy, đó là Định Chánh Niệm Tỉnh Giác.
Phải đi kinh hành, phải dùng pháp hướng mà nhắc nó. Mục đích ở đây không phải đang tu ở trên cái Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, mà đang đi kinh hành để phá hôn trầm bằng cái Chánh Niệm Tỉnh Giác Định.
Nghĩa là có lúc thì mình đang tỉnh ở trên bước đi, nhưng mà có lúc thì không tỉnh ở trên bước đi, có quên, hoặc là có lúc đang suy tư một cái điều gì để mà phá cái hôn trầm. Mình đang đi mà mình suy tư, tức là mình dùng cái Định Vô Lậu để mình kèm vô, để làm cho cái trí của mình càng ngày càng tỉnh ra.
Mình suy tư: “Hôn trầm, thùy miên là ngu, là si, là làm cho mình không có sáng suốt, làm cho mình mất trí tuệ, làm cho mình trở thành một người thiếu đức, thiếu hạnh, ham ăn, ham ngủ! Do đó phải đi, đi cho tới chết! Chừng nào mà hết thì mới không đi, chớ không có nghe theo lười biếng mà nằm xuống, mà phải đi!”
Bắt buộc, ra lệnh như vậy, làm cho cái tâm, cái nghị lực của chúng ta nó mạnh lên, chúng ta cứ bước đi.
Như vậy là sau một thời gian nỗ lực mà dùng pháp hướng và nhiệt tâm, tinh cần, nỗ lực và khắc phục, thì cái hôn trầm, thùy miên nó sẽ hết, chớ không phải còn ngồi tu hay hoặc này kia nữa. Những cái tu khác đều bỏ hết xuống, chỉ còn có cái tu này mà thôi, nghĩa là chỉ lấy cái định Chánh Niệm Tỉnh Giác Định mà phá nó.
(06:47) “Hay nội tâm có trạo hối”
Bây giờ nó là Ngũ Triền Cái, năm cái pháp mà, bây giờ trạo hối tức là loạn tưởng đó. Bây giờ nó có loạn tưởng của nó, thì nó khởi cái niệm trạo hối.
Trạo hối là nó có cái điều gì làm cho mình hối hận, rồi nó cứ nghĩ cái đó mà nó buồn, nó tức. Hoặc là nó thấy cái người đó làm cái chuyện sai như vậy mà họ không biết hối hận, không biết xấu hổ, cho nên mình rối loạn hết trong cái tâm của mình. Mình thấy người đó làm như vậy là không đúng này kia, cho nên đó là cái làm cho mình thấy bực tức.
Do cái chỗ đó, mình phải tu tập cái gì? Trong khi mà cái tâm mình nó bị trạo cử như vậy đó, thì lúc bấy giờ đó, mình ngồi lại, mình nhất định là mình giữ cái hơi thở của mình trong một phút, hai phút mà nó được yên.
Sau khi yên rồi thì mình bước ra, mình đi kinh hành một vòng, hai vòng, rồi mình trở lại, mình tu trong một phút, hai phút, rồi mình bước ra mình đi kinh hành. Vì một phút, hai phút mình chủ động mình điều khiển được nó không trạo hối, tức là nó không loạn tưởng nữa. Rồi mình đi một vòng mình trở lại mình tu trong một phút, hai phút nó không trạo hối nữa, rồi mình đi một vòng.
Và mình cứ thay đổi hai cái định, cái định thứ nhất là cái Định Niệm Hơi Thở, mà mình tu với cái sức của mình, không được quá, vì quá thì nó sẽ ngồi đó nó không có chủ động được thì loạn tưởng nó sẽ phóng vào. Tức là vọng tưởng nó phóng vào, rồi loạn tưởng nó tiếp theo, nó triền miên ở trong cái loạn tưởng đó.
Cho nên mình chỉ cần mình ngồi lại năm phút hay ba phút với cái sức của mình mà nhiếp không có vọng tưởng đó, thì mình nương vào cái hơi thở để mình bám chặt nó, nhưng mà biết là cái sức của mình cỡ khoảng đó thôi, thì mình bám cho thật chặt, rồi cái bắt đầu mình xả ra.
Mình xả ra mình đi kinh hành, thì mình đi kinh hành mình tập trung ở nơi cái hành động, cái chân mình đi, do đó mình đi một vòng rồi mình trở lại, mình ngồi lại, mình nhiếp trong hơi thở.
(08:48) Như vậy là, mình tập như vậy thì cái trạo hối và cái tâm tán loạn nó sẽ dứt đi, nó không còn nữa. Và khi mà mình, như vậy có nghĩa là mình tu tập suốt ngày sao? Không! Mình tu tập mình làm chủ được cái lúc bấy giờ nó trong một phút, hai phút, hay là ba phút hay là ba mươi phút, hay là một giờ đó thôi, rồi bây giờ bắt đầu mình xả ra.
Bây giờ nó loạn tưởng, cái gì nó cứ đến nó loạn tưởng, thì mình bảo nó: “Cái này là ác pháp, đi đi, không có được ở đây!” Mình tu cái Tứ Chánh Cần, mình dẹp cái ác pháp đó, nó làm cho cái tâm mình lo, tâm mình này kia, thì qua cái niệm này, nó nằm ở những cái, “trên tâm quán tâm” mà, cái niệm đó nó đưa đến cho mình tham, sân, si như thế nào, thì cái phần đó là phần tâm.
Còn cái phần này là cái phần loạn tưởng, thì cái cái phần mà nó “trên pháp” này nó đã đưa đến như vậy, mà chúng ta thì tu những cái pháp này để mà chúng ta diệt cái pháp loạn tưởng này.
Còn bây giờ chúng ta xả ra, xả ra thì chúng ta ở trên cái pháp Tứ Chánh Cần chúng ta tu, thì chúng ta quan sát các pháp đó ác hay thiện? Nếu thiện thì chúng ta tăng trưởng, mà ác thì chúng ta đoạn dứt.
Cho nên chúng ta biết áp dụng, và biết tu tập thì trong một ngày một đêm chúng ta thấy thanh tịnh, rất là thanh tịnh. Mà rất khỏe, tu rất an ổn, không có mệt nhọc.
Tuy rằng lời nói của Thầy như vậy, nhưng khi mà áp dụng vào thân của mình, thì còn phải xem cái đặc tướng của mình như thế nào. Và đồng thời thì phải trình lên những cái đặc tướng đó khi mà mình nỗ lực mình làm như vậy mà không kết quả. Còn nếu mình không trình, thì tức là mình để âm thầm mất thời gian vô ích của mình, nó không có ích lợi gì cho cái con đường tu tập của mình hết.
(10:34) Bây giờ tới cái tâm nghi, thì với cái tâm nghi này:
“Hay nội tâm có nghi, tôi biết nội tâm tôi có nghi”.
Hồi nãy chúng ta “quán các pháp trên các pháp”, thì cái hôn trầm rồi, rồi cái trạo hối. rồi bây giờ đến cái tâm nghi, bởi vì trên Ngũ Triền Cái mà chúng ta tu tập.
Hay nội tâm có nghi thì chúng ta biết rằng nội tâm có nghi, hay nội tâm không nghi chúng ta biết nội tâm chúng ta không nghi. Với cái nghi chưa sanh thì chúng ta biết chưa sanh, với đã sanh thì chúng ta biết cái nghi đã sanh.
(11:21) Do cái lòng nghi của mình có hay không có, đã có sanh khởi thì chúng ta biết theo cái tâm nghi của mình, từ đó chúng ta phải dùng cái định nào để mà chúng ta tu tập?
Đó là cái Định Vô Lậu. Chúng ta quán xét lại cái nghi đó như thế nào, nó có đúng sai? Và chúng ta đứng ở trên góc độ của nhân quả mà chúng ta xem. Nếu mình nghi cái đó mà người ta không có, thì tức là mình sẽ tội như thế nào? Tức là cái quả đó sẽ ra sao? Cho nên đứng trên nhân quả.
Vì vậy mà khi thông suốt được cái lý đó rồi thì cái tâm nghi nó sẽ xả đi, nó không còn nghi nữa. Nó thấy mình làm cái điều đó sai trái, không đúng, cái tâm nghi như vậy nó chưa đúng. Do vì cái chỗ quán xét của Định Vô Lậu, nó làm cho cái tâm nghi bị quét sạch đi.
Cho nên đối với pháp Ngũ Triền Cái, chúng ta hoàn toàn là chúng ta đã quét sạch nó bằng những cái định mà chúng ta đã sắp đặt ở trên đó để mà chúng ta tu tập.
“Như vậy vị ấy sống quán pháp trên các nội pháp, hay sống quán pháp trên các ngoại pháp, hay sống quán pháp trên các nội ngoại pháp. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên các pháp, hay sống quán tánh diệt tận trên các pháp, hay sống quán tánh sanh diệt trên các pháp.
Có những pháp ở đây, vị ấy sống an trú, chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm, và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời.
Này các thầy tỳ kheo, như vậy là tỳ kheo sống quán pháp trên các pháp đối với năm triền cái”.
Đó thì các con thấy, đối với năm triền cái này là năm cái pháp của Phật, mà năm cái pháp của Phật nó đặt ở trên thân, thọ, tâm, pháp của chúng ta, chúng ta quán sát từng chút, từng chút. Để rồi nó có cái pháp gì thì chúng ta phải, nó có một cái xảy ra như thế nào, thì chúng ta dùng cái đó mà chúng ta tu tập, chúng ta quét sạch nó. Chớ nếu mà không dùng nó quét sạch thì chúng ta không bao giờ hết được.
(13:25) “Lại nữa, này các thầy tỳ kheo, tỳ kheo sống quán pháp trên các pháp đối với năm thủ uẩn”.
Bây giờ cũng còn ở trên pháp, mà pháp này là pháp năm thủ uẩn, tức là nói về cái thân Ngũ Uẩn của chúng ta nè, để chúng ta không còn chấp nó, để không còn dính nó, để xả nó, để không thấy nó là mình, là bản ngã của mình.
Bây giờ chúng ta tiếp tục, bây giờ đối với năm thủ uẩn. Năm thủ uẩn là một cái pháp: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức Uẩn.
Đối với cái thân ở trên thân Ngũ Uẩn này, thì chúng ta phải đặt nó ở trên bốn cái chỗ niệm này, tức là Tứ Niệm Xứ này, chúng ta mới đặt cái thân này mà chúng ta quán sát cái thân Ngũ Uẩn.
“Đây là Sắc, đây là Sắc Tập, đây là Sắc Diệt. Đây là Thọ, đây là Thọ Tập, đây là Thọ Diệt. Đây là Tưởng, đây là Tưởng Tập, đây là Tưởng Diệt. Đây là Hành, đây là Hành Tập, đây là Hành Diệt. Đây là Thức, đây là Thức Tập, đây là Thức Diệt.”
(14:31) Đó thì như vậy thì thấy rõ ràng là Phật dạy như thế này nè: “Đây là Sắc Tập”. Sắc Tập như thế nào? Mình phải hiểu rõ mình mới biết Sắc Tập.
Bây giờ thân chúng ta đây là cái Sắc, bây giờ Sắc Tập, thí dụ như bây giờ nó tập hợp trở lại, nó gom trở lại, thì bắt đầu nó gom trở lại như thế nào? Đây là cái thân của chúng ta, rồi đây là những cái thực phẩm mà chúng ta bỏ vào nuôi cái thân của mình, gọi là Sắc Tập.
“Đây là Sắc Tập”, thí dụ như bây giờ một người, bây giờ đây là một cái thân của chúng ta nó tập khởi cái gì? Nó tập khởi những cái bệnh tật, đó là nó tập khởi trở lại đó, nó sanh ra những cái thọ, đây là cái thọ.
Bây giờ thí dụ như nó tập khởi. Bây giờ cái Sắc của chúng ta nó không có những cái vật này, bây giờ nó tập khởi xung quanh cái Sắc của chúng ta, nó làm cho chúng ta có cái bàn, cái này, thì đó là nó gây cho chúng ta có cái sự dính mắc.
Đó thì nó “tập” để làm gì? Nó “tập” để nó tạo ra cái khổ, cho nên đây là “Sắc Tập”. Đây là sắc, đây là cái thân, thì cái thân chúng ta hoàn toàn độc lập có mình nó đây. Bây giờ Sắc Tập, thì bây giờ nó những cái bàn, cái ghế, cái nhà cửa này, các vật dụng này, rồi bà con, anh em ruột thịt của mình ds, bắt đầu nó gom lại, nó làm cho mình, những cái vật này nó làm cho gom lại, nó tạo thành một cái Sắc Tập.
Một cái Sắc Tập thì nó tạo cho mình như thế nào? Có người này, người kia, có cái bàn, cái ghế thì nó mất, nó làm cho chúng ta đau khổ. Cho nên ở đây mình phải rõ được cái Sắc Tập và Sắc Diệt, lần lượt mình bỏ ra, bỏ ra làm cho những cái này, nó còn lại đây một cái Sắc thôi. Cho nên từ đó nó rã lần, rã lần ra, nó làm cho mình không có khổ đau nữa.
(16:21) “Đây là Thọ”, đây là cái cảm giác của mình nè, cảm giác mình đang không bất lạc thọ, bất lạc, bất thọ khổ nè, mà đây là thọ lạc. Bây giờ nó tập hợp tất cả các thọ lại, bây giờ là cái thân thọ nè, bây giờ là cái tâm thọ nè, mình đang tức mà cái chân bị đau nữa nè, đó là “tập”, nó tập cái thọ lại. Cái chân mình bị ghẻ đau, mà cái tâm mình nó lo lắng cho cho cái mụn ghẻ này, thì đó gọi là tập thọ.
“Đây là Thọ Diệt.” Bây giờ từ cái chỗ mụn ghẻ này hết đau, và đồng thời cái bệnh nó hết, đó là cái Thọ Diệt. Hay hoặc là bây giờ cái đầu nhức, mà bây giờ mình dùng cái pháp hướng mà cái đầu nó hết nhức, thì đó là cái Thọ Diệt.
“Đây là Tưởng”, đây là cái tưởng của mình nè, bây giờ mình nghĩ cái này, nghĩ cái kia đó là Tưởng Tập, nó tập lại. Nếu mà những cái tưởng này nó là thiện, thì nó làm cho mình không có sao hết, mà nó là tưởng ác thì tức là nó nghĩ ngợi, nó suy tư, nó tính toán điều này, mưu mô cái kia, đó là tưởng ác.
Bây giờ cái tưởng của mình, cái vọng tưởng của mình trong này nó không có tập lại, mà hoàn toàn là nó không có niệm tưởng nào hết thì đó là Tưởng Diệt.
“Đây là Hành, đây là Hành Tập, đây là Hành Diệt.”
Cái Hành Tập như thế nào? Cái hành động như bây giờ thân mình đang đi mình biết đi, rồi đầu mình suy nghĩ, thì đó là Hành Tập. Nó vừa đi mà vừa suy nghĩ, nó là Hành Tập, các hành nó tập lại, nó tập hợp trở lại, mà vừa đi mà vừa suy nghĩ. Hay hoặc là vừa đi mà vừa tính toán điều này thế kia, tức là “tập”.
Mà bây giờ mình đương đi, mà mình không có nghĩ ngợi, không có gì hết, mà cũng không có biết cái hành động đi của mình, đây là Hành Diệt, đó.
“Đây là Thức”, cái thức đây là cái biết của mình đây. Mà “đây là Thức Tập”, bây giờ Thức Tập, bây giờ nó biết c ái này, cái nọ, nó biết cái bàn, cái ghế, cái tập giấy, cái này nọ kia, nó tập hợp trở lại, những cái biết này đủ thứ đồ vật này, tất cả những cái này gọi là Thức Tập.
Bây giờ “Thức Diệt”, là bây giờ nó ngồi đây mà nó không còn biết cái gì nữa hết, thì tức là nó diệt, cái thức nó diệt. Cái ý thức nó đã không phân biệt một vật gì nữa, tức là nó diệt, tức là cái ý thức thanh tịnh.
“Như vậy vị ấy sống quán pháp trên các nội pháp, hay sống quán pháp trên các ngoại pháp, hay sống quán pháp trên các nội ngoại pháp. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên các pháp, hay sống quán tánh diệt tận trên các pháp, hay sống quán tánh sanh diệt trên các pháp.
Có những pháp ở đây những vị ấy sống chánh niệm như vậy với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời này.
Này các tỳ kheo, như vậy là tỳ kheo sống quán pháp trên các pháp đối với năm thủ uẩn”.
(19:11) Bây giờ thì các con cũng như quý thầy thấy rõ, là ở đây Phật dạy chúng ta trên cái Tứ Niệm Xứ này, nó rất rõ ràng.
(19:19) Bây giờ đối với năm thủ uẩn là chúng ta đặt ở trên cái thân, thọ, tâm, pháp của chúng ta, thì cái “Thọ” của Thọ Uẩn nó không phải là cái Thọ của Tứ Niệm Xứ, các thầy phải nhớ kỹ.
Bởi vì cái Thọ Tứ Niệm Xứ là cái chỗ nó đang ô nhiễm, nó đang sẵn có rồi, thì cái thọ của Thọ Uẩn này, khi mà đem nó đặt ở trên bốn cái chỗ này để quan sát nó, thì cái thọ của cái Tứ Niệm Xứ này nó gần giống như là cái thọ của Thọ Uẩn, nhưng mà nó là vì cái “uẩn” cho nên nó khác, nó khác với cái thọ Tứ Niệm Xứ,
Bởi vì cái thọ, hay hoặc cái thân, thọ, tâm, pháp, thì thân thọ tâm pháp ở đây nó là bốn chỗ. Mà Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức - Sắc tức là cái thân chớ không phải gì khác, Thọ là cái thọ giống như là cái thọ của Tứ Niệm Xứ, mà tâm là cái Thức, tức là cái tâm. Sắc, Thọ Tưởng, Hành, Thức - Thức tức là ở trên cái tâm, cái tâm ở trên Tứ Niệm Xứ thì nó giống như cái Thức ở trên cái Ngũ Uẩn.
Như vậy là chúng ta sẽ phân biệt được như thế này. Bây giờ nói về cái tâm ở bên Tứ Niệm Xứ là như là cái Thức bên Ngũ Uẩn, nhưng mà cái tâm bên Tứ Niệm Xứ nó vừa là cái ý thức mà nó cũng vừa là cái tâm thức của chúng ta nữa.
Cho nên cái ý thức của chúng ta là cái ý thức bị đắm nhiễm, bị phân biệt, bị chia chẻ, nó bị các pháp trần lôi cuốn ở trong cái sự phân biệt, chia chẻ, đắm đuối, nó sanh ra cái dục, cái lòng ham muốn của nó, đó là ý thức. Do đó ở trên cái tâm Tứ Niệm Xứ thì nó có cái ý thức nằm ở trên đó và nó có cái tâm thức của nó ở trên đó.
Cho nên ở đây chúng ta mới dùng năm cái uẩn này, mà pháp năm uẩn này đặt ở trên cái Tứ Niệm Xứ này thì đương nhiên coi như năm uẩn nó là cái thân của chúng ta, cái thân nó đủ Sắc Thọ Tưởng Hành Thức của chúng ta, là nó gồm cái thân của chúng ta, coi như là cái thân và tâm, và thọ, cảm giác của chúng ta đều là đặt ở trên bốn cái chỗ này.
(21:39) Coi như bốn chỗ này nó không phải là cái Ngũ Uẩn, tại sao vậy? Tại vì cái thân Ngũ Uẩn nó là một cái khối thân của chúng ta, còn bốn cái chỗ này là nó ở trên cái Tứ Niệm Xứ, cái Ngũ Uẩn này là đặt nó để mà gột rửa để làm cho sạch cái đó.
Cho nên ở đây lấy cái thân Ngũ Uẩn này để quán xét lại, để làm cho bốn cái chỗ này nó sạch ra, chớ không phải làm cho cái thân Ngũ Uẩn này nó sạch, mà làm cho bốn cái chỗ này nó thanh tịnh, nó sạch, chớ không phải làm cho bốn (năm) cái Ngũ Uẩn.
Vì vậy ở đây chúng ta nghe Thọ, thì ở bên cái Tứ Niệm Xứ cũng có thọ. Mà cái Thọ của Ngũ Uẩn thì hiện bây giờ là cái thọ của một cái duyên hợp, của năm duyên để nó tạo thành cái thân người.
Còn ở đây là bốn cái pháp: thân, thọ, tâm, pháp, cho nên cái pháp, là các pháp Phật dạy như nãy giờ chúng ta học, hay hoặc là các pháp như bàn, ghế, nhà cửa, lời nói của người khác, cũng đều là các pháp. Những cái pháp đó để mà, (làm) cái đối tượng của thân, của thọ và của tâm chúng ta để đối với các pháp mà nó hóa giải được, nó làm cho tâm của chúng ta giải thoát được.
Cho nên bây giờ đây là cái pháp Ngũ Uẩn, nó đặt ở trên bốn cái chỗ này thì đương nhiên là chúng ta thấy ở trong bốn cái pháp này nó cũng đều nằm ở trên cái thân của chúng ta, cái thân Ngũ Uẩn này.
Cho nên nó giống, nhưng mà phải hiểu rằng nó không giống. Nó giống tại vì là cái thân của chúng ta nó có Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức, thì Tứ Niệm Xứ có thân, thọ, tâm, pháp, thì những cái này nó đều giống như cái Ngũ Uẩn.
Nhưng ở đây, chúng ta do cái pháp Ngũ Uẩn mà chúng ta quán xét những cái thân, thọ, tâm, pháp của chúng ta, để chúng ta quét cho sạch những cái ô trược, những cái uế trược, những cái lầm chấp, cho rằng cái thân của chúng ta là thật có, là của mình, là cái bản ngã thật của nó.
Vì vậy cho nên ở đây chúng ta quán xét. để mà chúng ta xả cho được cái thân Ngũ Uẩn của chúng ta, bằng ở trên bốn cái chỗ này, làm cho bốn cái chỗ này đừng có lầm chấp nữa, đừng có lầm chấp cái thân Ngũ Uẩn là thật. Để không khéo thì chúng ta lầm chấp cái thân Ngũ Uẩn này là của mình, là bản ngã của mình. Do đó cho nên mới đặt cái pháp này lên trên bốn cái chỗ này mà quan sát nó.
(24:15) Cho nên vì vậy mà các thầy lầm, nghe cái Thọ, thì các thầy tưởng là cái Thọ của Ngũ Uẩn là cái thọ của Tứ Niệm Xứ. Không phải! Ở đây Đức Phật muốn nói rằng, cái pháp này, cái thân Ngũ Uẩn này là cái pháp, nó không phải là của ai cả, nó là một cái pháp.
Cho nên lấy cái pháp này mới đặt lên trên, gọi là “trên pháp quán pháp”, mà đem cái pháp Ngũ Uẩn này mà đặt ở trên Bốn Niệm Xứ này, cho nên trên cái chỗ này mà chúng ta quán sát nó.
Quán sát nó để mà chúng ta làm cho bốn cái chỗ này nó sạch sẽ, nó tốt đẹp, nó không còn bị dính mắc, nó không bị lầm chấp nữa, làm cho nó nhìn, nó thấy được cái Ngũ Uẩn này là cái giả, là cái tan rã, là cái mất tiêu, là không còn một cái gì ở trong đó hết khi mà nó đã chết!
Làm cho chúng ta rõ được như vậy, để chúng ta không lầm chấp là cái thân này là thật của mình, cái thân này là bản ngã, cái thân này là của mình nữa, để nó buông ra cái Ngũ Uẩn này đi.
Cho nên trong Kinh Bát Nhã nói “Ngũ Uẩn giai không” đó, tức là nó không có cái gì hết. Cho nên vì vậy đó mà chúng ta đặt ở trên này, vì ở trên thân, thọ, tâm, pháp của chúng ta thường chấp cái đó mà làm cái ngã. Cho nên bây giờ đặt nó, cái pháp này lên trên thân, thọ, tâm, pháp của chúng ta để mà chúng ta quán xét, để mà chúng ta phá cái ngã, mà cái lầm chấp đó là bốn chỗ này nó đang bị lầm chấp.
Đó, hiểu được như vậy mới thấy được “trên pháp quán pháp” để mà tu, chớ nếu mà chúng ta hiểu chúng ta thấy thân, thọ, tâm, pháp cái danh từ nó cũng rất là giống. Nhưng mà đây là nói một cái hợp chất: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức là một cái hợp chất, còn thân, thọ, tâm, pháp là cái bốn chỗ để mà chúng ta thực hiện cho đúng, để phá cái ngã của Ngũ Uẩn, của cái khối hợp chất này.
(26:07) Đó, cái khối hợp chất là cái thân của chúng ta đây, mà coi như trên thân của chúng ta nó có bốn cái chỗ để mà chúng ta quán xét cái pháp này, để mà chúng ta phá nó đi.
Nghĩa là Thầy muốn nói như thế này, nghĩa là năm cái uẩn này nó là cái pháp để chỉ cho chúng ta biết rằng cái thân của chúng ta gồm lại có năm cái uẩn, năm cái uẩn là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức.
Nó là cái pháp chớ không phải là cái thân của chúng ta, cái thân của chúng ta ở đây. Nó là cái pháp để chỉ cho cái thân của chúng ta là những cái duyên đó, nó hợp lại nó làm cái thân của chúng ta.
Cho nên bây giờ đưa cái pháp này lên, để chúng ta quán xét, để chúng ta biết các cái pháp này là cái pháp nó duyên hợp, nó tạo thành cái thân của chúng ta, để mà chúng ta không bị lầm chấp nó là cái ngã.
Thầy muốn nói cái chỗ này, nó hơi khó là vì không biết là quý thầy có hiểu không? Nhưng mà Thầy muốn vạch ra cho thấy, vì cái chỗ thân, thọ, tâm, pháp với Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức có nhiều cái danh từ giống nhau, và nó nhiều cái cảm thọ ở trong đó nó giống nhau, và cái Thức nó cũng giống nhau, cho nên sợ các thầy không hiểu.
(27:20) Bởi vì đây là pháp, nhớ kỹ, đây là pháp. Còn đây là Niệm, cho nên cái Niệm nó khác. Cái Niệm là cái vị trí, cái chỗ, còn cái pháp là cái lời nói để cho chúng ta nhận xét qua cái tâm của chúng ta. Còn cái chỗ đó nó ở trên cái thân của chúng ta, còn cái pháp đó nó chỉ cho cái thân của chúng ta. Đó các thầy hiểu chỗ Thầy muốn nói.
Bởi vì có những cái danh từ nó như vậy, thì Thầy qua cái chỗ diễn tả của Thầy, thì Thầy diễn tả cỡ mức đó để cho các con hiểu rằng, giữa cái thân Ngũ Uẩn, giữa cái Tứ Niệm Xứ nó không phải là một. Chớ không khéo nghe nói là một thì như vậy tức là “trên thân quán thân” hơn là “trên thân quán các pháp”.
Cho nên ở đây Đức Phật đưa ra đó là cái pháp để chỉ cho cái thân, còn ở đây là cái Niệm ở trên cái thân. Đó cho nên nó có cái giống, là chỗ cái thân này từ đó mà nó xuất phát ra được những cái chỗ - cái Niệm của nó. Còn cái này là các pháp để chỉ cho cái thân này nó hợp lại, nó thành ra các pháp đó, mà chúng ta bị lầm chấp như thế nào mà chúng ta khổ đau với nó.
Hiểu được như vậy thì chúng ta mới thấy rằng, đặt ở trên, cái pháp Ngũ Uẩn này ở trên thân thọ tâm pháp này để mà chúng ta giải quyết được cái lầm chấp ngã và cái thân này của mình, cái Sắc này của mình, cái Thọ này của mình, cái Tưởng này của mình, và các Hành là của mình và cái Thức là của mình, để phá cái đó đi, thì làm cho chúng ta không còn cái chấp ngã nữa.
(28:57) Và nếu trên Chánh Niệm Tỉnh Giác mà chúng ta nỗ lực mà chúng ta tu hành trên cái niệm hiểu biết như vậy, chúng ta thường nương vào đó mà chúng ta dùng cái pháp hướng để nhắc đi nhắc lại, để chúng ta phá đi.
Cho nên trong Định Niệm Hơi Thở Phật nói như thế nào? Bây giờ đó mình biết là cái thân này nó vô thường, cái thân này không phải ngã:
“Tôi biết thân này không phải ngã tôi hít vô, tôi biết thân này không phải ngã tôi thở ra. Tôi biết thân này không phải của tôi, tôi hít vô, tôi biết thân này không phải của tôi, tôi thở ra.”
Đó là chúng ta cái nương hơi thở mà hướng tâm để phá cái ngã, tức là tu ở trên pháp Ngũ Uẩn, các thầy thấy chưa? Do đó ở chỗ này, chúng ta biết đặt được cái hơi thở ở trên này để mà chúng ta phá cái Pháp trên Tứ Niệm xứ, trên bốn cái chỗ mà lầm chấp cho đó là, cái thân Ngũ Uẩn của chúng ta là thật, là chơn thật, là của mình. Đó, vì vậy mà nương vào cái hơi thở để nhắc nó, để mà phá nó, để cho nó không có lầm chấp nữa.
(30:05) Bây giờ bài kế tiếp:
“Lại nữa, này các tỳ kheo, tỳ kheo sống quán pháp trên các pháp đối với nội xứ, ngoại xứ. Này các tỳ kheo, thế nào là tỳ kheo sống quán pháp trên các pháp đối với nội xứ, ngoại xứ? Này các thầy tỳ kheo, ở đây tỳ kheo tuệ tri con mắt nội xứ và ngoại xứ”.
Thì các thầy biết rằng, mát tai mũi miệng thân ý và ngoại xứ thì có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, đó là nội xứ và ngoại xứ. Nó rõ ràng, để mà tiếp xúc nhau.
“Này các thầy tỳ kheo, ở đây thầy tỳ kheo tuệ tri con mắt và tuệ tri sắc”.
Có con mắt này thấy cái ca này, thì nếu mà mình không biết, mà mình biết thì tức là mình phải nhận ra nó rõ ràng.
“Do duyên hai pháp này, kiết sử sanh khởi.”
Nó khởi ra ham muốn, muốn có cái vật này, cho nên con mắt nó thấy cái sắc là cái vật này, do đó nó sanh ra cái dục, tức là nó muốn có cái ca này, dục tức là lòng ham muốn của mình đó.
Cho nên nó gọi là sáu nội xứ và ngoại xứ của nó. Ngoại là bên ngoài, nội là cái gì? Nội là con mắt của mình, ngoại là cái ca này. Đó là mình hiểu như vậy, tức là khi mà con mắt mình tiếp xúc với cái vật bên ngoài, thì lúc bấy giờ mình tuệ tri được nó.
Cho nên mình thấy hai cái duyên pháp này nó sanh ra kiết sử, nó làm cho mình ham thích. Tức là nó trói buộc mình, nó làm cho mình cần phải có cái này, cho nên nó bị trói buộc. Do đó khi mình biết được cái tâm của mình nó sanh ra cái lòng dính mắc đó, cái kiết sử, thì như vậy mình tuệ tri như vậy, mình cũng biết như vậy.
“Với kiết sử chưa sanh, nay sanh khởi.”
Tức là cái lòng ham muốn mình nó sanh ra.
“Vị ấy tuệ tri”
Tức là vị ấy biết
“Với kiết sử đã sanh”, hay hoặc là nay nó đoạn diệt, thì mình biết bây giờ nó hết tham rồi. Còn hồi nãy nó ham thì mình biết nó ham, còn bây giờ nó hết ham rồi, nó thấy mà nó không ham nữa. Hồi nãy thì nó vừa thấy nó ham muốn, bây giờ nó thấy mà nó không ham muốn, là mình biết là nó đoạn diệt rồi.
“Vị ấy tuệ tri như vậy và với kiết sử đã đoạn diệt tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy”.
(32:17) “Tuệ tri tai”
Thì cái lỗ tai đối với tiếng, cái lỗ mũi thì đối với mùi, tất cả sáu cái giới của nó, mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý đối với sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, tất cả những cái này nó đều do cái chỗ đó mà nó sanh ra những cái kiết sử, nó làm cho trói buộc mình dính với cái vật đó, dính với cái Sắc đó, để cho mình sanh ra những cái tâm tham muốn.
Mà sanh ra những cái tâm ham muốn thì mình biết nó ham muốn, thì bắt đầu mình tìm cách mình đoạn diệt nó, mà nó không có sanh ra ham muốn, thì mình khỏi cần đoạn diệt. Mà nó có sanh ham muốn mà mình nỗ lực mình đoạn diệt, thì mình biết nó là đoạn diệt rồi, nó không còn sanh nữa.
Thì như vậy là tâm mình tu tới đâu mình biết mình giải thoát được đến đó một cách rất rõ ràng. Nhìn cái pháp này thấy nó ham muốn biết liền, nhìn cái pháp kia thấy nó không ham muốn biết liền, mà nó không ham muốn cũng biết liền.
Do cái chỗ đó là cái chỗ mình tuệ tri, cái chỗ mình hiểu biết, để làm cho cái tâm mình không dính mắc các pháp.
Như vậy là trên pháp quán pháp mà mình biết rõ như vậy. Vậy khi tâm mình bị dính mắc đó thì mình phải đem Định Vô Lậu mình quán xét để cho mình xả cái vật đó ra, nó không còn dính mắc với cái vật (đó) nữa.
Vậy thì, bây giờ ở đây thì người ta, ở trong bài kinh này không bảo mình phải dùng cái Định Vô Lậu mà chỉ nói là phải đoạn diệt. Vậy thì mình biết muốn đoạn diệt cái vật này ra khỏi con mắt của mình đang dính nó, đang khởi cái tâm tham muốn, thì do đó mình phải đem cái Định Vô Lậu mình phá đi, mình mới quán xét, mình thấy cái vật này nó như thế nào, làm sao để cho mình đừng có dính mắc nó nữa, để cho nó được vô lậu, nó không còn bị trói buộc nữa.
“Vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các tỳ kheo như vậy là tỳ kheo sống quán pháp trên các pháp đối với sáu nội xứ”.
Nghĩa là mình sống mà mình làm cho nó chấm dứt được như vậy đó, đó là mình trên các pháp đó mà mình đã chấm dứt được như vậy, tức là mình không bị dính mắc trong cái tâm tham muốn của mình.
Mà tâm tham thì ác pháp, thì quý thầy cũng đã thấy rõ rồi, bởi vì tham, sân, si, mà hễ mình có tham muốn một cái vật gì nó là ác pháp rồi. Nó khởi ra ham muốn, nó thấy vật này mà nó ham muốn, tức là bị ác pháp tham rồi. Cho nên vì vậy mà ngay đó là phải tìm mọi cách đoạn dứt.
(34:39) Cho nên ở trong Tứ Chánh Cần dạy mình thấy rất rõ. Là khi mà mình bị cái ác pháp rồi, thì ngay đó là mình cần phải đoạn dứt, đoạn dứt thì mình tu cái Định Vô Lậu rồi, phải không?
Còn mình ngăn chặn nó không cho (sanh) thì cái Chánh Niệm Tỉnh Giác Định và cái Định Niệm Hơi Thở. Rõ ràng là những cái pháp này đều dạy chúng ta đặt tất cả những cái định này ở trên này để thực hiện nó chớ không có gì hết.
Cho nên ở đây, khi mà thấy con mắt mình dính cái vật này, mà mình muốn cho nó đừng có sanh khởi dính cái vật này, thì bắt đầu mình phải tu Định Vô Lậu, thì như vậy là rõ ràng ở trên Tứ Chánh Cần vẫn tu Định Vô Lậu để cái ác pháp tham này, cái tâm tham muốn của chúng ta nó sẽ dứt, thì tức là ác pháp chứ gì!
Ở đây chúng ta nghe không phải là ác pháp tâm tham trong đó, nhưng mà trong thập ác và Thập Thiện thì tham là một ác (pháp) mà, mà đây là tham dục, tham là ham muốn chớ có gì.
Đó, thì thấy như vậy rõ ràng là ở trên cái Tứ Niệm Xứ, dù là chúng ta quán cái pháp của Phật dạy, cái pháp đó nó không ngoài cái Tứ Chánh Cần, phải không? Mà cũng không ngoài các cái định mà chúng ta đang tu. Cho nên chúng ta đâu có rối ren vì phải tu cái này, cái kia đâu?
Cho nên đọc cái Tứ Niệm Xứ này nếu mà không giải thích thì chúng ta thấy bây giờ trên pháp đó phải quán về cái Ngũ Uẩn như vậy, như vậy là sao?
Nên hồi nãy thầy nói Định Niệm Hơi Thở chúng ta nương thì chúng ta phá cái Ngũ Uẩn rồi đó, phải không? Nhưng mà chúng ta câu hữu với cái Định Vô Lậu để mà chúng ta phá, thì chúng ta quán: “cái Sắc, cái thân Ngũ Uẩn này không phải là của tôi, tôi hít vô, không phải là của tôi, tôi thở ra!”
Rõ ràng là mình câu hữu được cái (Định Niệm) Hơi Thở với cái Định Vô Lậu trở thành một cái pháp hướng để mình nhắc nó, để mình xả được cái thân Ngũ Uẩn của mình, đó là cái trên pháp Ngũ Uẩn. Còn bây giờ ở đây thì nó trên sáu cái nội xứ và ngoại xứ để cho mình phá cái tâm dính mắc của mình, thì nó cũng là Định Vô Lậu rồi.
Thì các thầy thấy, trên toàn bộ cái Tứ Niệm Xứ, từ hồi nào tới giờ Thầy đã đưa ra, từ cái Tứ Chánh Cần, mà đem ba cái pháp để mà tu tập Tứ Chánh Cần, thì Tứ Chánh Cần nó nói tổng quát rất rõ ràng là các pháp ác và các pháp thiện.
Ở đây thì mọi sự dính mắc tức là bị tham ái của chúng ta, cho nên vì vậy mà muốn đoạn tham ái là ác pháp thì trên Tứ Chánh Cần nó đã xác định cho chúng ta biết rồi, thì trên Tứ Niệm Xứ này thì chúng ta cũng dùng Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, Định (Niệm) Hơi Thở và Định Vô Lậu mà chúng ta tu tập, phải không?
Cho nên vì vậy mà trên pháp này chúng ta vẫn làm chủ được những cái điều như ở Tứ Chánh Cần mà chúng ta tu tập, chớ đâu phải ngoài các pháp khác mà tu tập đâu?
(37:05) “Lại nữa, này các thầy tỳ kheo, tỳ kheo sống quán pháp trên pháp đối với Bảy Giác Chi”.
Bây giờ lấy pháp Giác Chi chúng ta tu. Hồi nãy thì chúng ta lấy sáu xứ ngoại, sáu xứ nội chúng ta tu. Phải không. Cứ lần lượt các pháp của Phật đều là phơi bày ở trên cái chỗ tu chúng ta ra hết, chớ đâu phải là chúng ta tu cái gì khác hết. Mà để ở trên thân, thọ, tâm, pháp chúng ta tu, chứ đâu có phải ngoài cái thân, thọ, tâm, pháp chúng ta mà tu cái khác được.
“Này các thầy tỳ kheo, thế nào tỳ kheo sống quán pháp trên pháp đối với Bảy Giác Chi?
Này các thầy tỳ kheo! Ở đây tỳ kheo nội tâm (có) Niệm Giác Chi, tuệ tri nội tâm tôi có Niệm Giác Chi. Hay nội tâm tôi không có Niệm Giác Chi, tuệ tri…”
Cái Niệm Giác Chi là cái niệm gì, các thầy biết không? Chữ “Giác Chi” đây là Bồ Đề, mà nghĩa của Bồ Đề là giải thoát. Phải không.
Bây giờ cái Niệm Giác Chi của tôi, bây giờ nó có ở trong nội tâm tôi nè, phải không? Thì tức là cái tâm giải thoát của mình chớ cái gì? Mà tâm giải thoát của mình là tâm thiện chớ gì? Cho nên bây giờ tôi ngồi đây mà nó không có ác pháp, không tham, không sân, không si, thì đó là tôi đang giữ cái Niệm Giác Chi của tôi.
Thì như vậy rõ ràng là Đức Phật dạy như thế nào? Đó là cái Định Sáng Suốt chớ gì. Hay hoặc là cái định giữ cái tâm của mình luôn lúc nào nó cũng thanh thản, an lạc, thì đó là Niệm Giác Chi chớ gì!
Bởi vì chữ Giác Chi như Thầy nói, đó là Bồ Đề, mà Bồ Đề tức là giải thoát, mà giải thoát thì nó có tham, sân, si ở trong đó đâu? Đó thì như vậy rõ ràng là trên Niệm Giác Chi mà giữ được cái tâm này, thì nó có phải là chúng ta tu Định Sáng Suốt không? Chúng ta giữ được cái tâm thanh thản, như vậy là đó là Niệm Giác Chi của chúng ta chớ gì!
“Hay nội tâm không Niệm Giác Chi, chúng ta biết nội tâm không có Niệm Giác Chi.
Và với Niệm Giác Chi chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy. Với Niệm Giác Chi đã sanh khởi, đã viên thành…”
Nghĩa là bây giờ khi mà nó sanh khởi, như Mật Hạnh trước kia nó sanh khởi, nó ngồi đó cái tâm nó quay vô, nó cứ biết hơi thở, nó an lạc vô cùng, nó không có quay ra nữa, đó là Niệm Giác Chi đã sanh đó, tức là niệm Bồ Đề nó sanh rồi đó.
Còn nếu mà bây giờ mình cứ ngồi đây, một chút nghĩ cái này, một chút nghĩ cái kia, toàn là pháp ác, toàn là pháp thiện, thì cái Niệm Giác Chi chưa có sanh đâu.
Cho nên hiện giờ nói về cái Niệm Giác Chi thì quý thầy chưa có sanh. Bởi vì cái tâm nó chưa chịu quay vô thì nó chưa có sanh, mà khi mà nó quay vô rồi thì nó sanh, thì Tầm Tứ diệt, nó không có còn nghĩ ngợi một cái gì khác hết, ác pháp không xen, mà coi như là toàn là cái tâm thiện của mình không, ở trong thiện pháp không, đó là Niệm Giác Chi.
(39:45) “Hay nội tâm có Trạch Pháp Giác Chi…”
Nghĩa là bây giờ đó, mình thấy về cái trạch pháp, bây giờ Niệm Giác Chi rồi Trạch Pháp Giác Chi chứ gì, mà cái trạch pháp tức là chọn lựa.
Bây giờ mình hướng tâm như thế này, mình nói “cái hơi thở tịnh chỉ”, mà cái hơi thở bây giờ nó ngưng rồi, thì cái đó là cái nội tâm của Giác Chi, mình đã điều khiển nó ngưng.
Thì “Giác Chi” là Bồ Đề, mà “Trạch Pháp” là trạch pháp biểu nó ngưng, mà bây giờ mình ra lệnh nó đã ngưng, thì cái “Trạch Pháp” đó là cái trạng thái, ở trong cái chỗ, (nhờ) cái trạch pháp đó nó đã ngưng hoàn toàn.
Chớ không phải là trạch pháp, mình dùng danh từ Trạch Pháp là mình chọn lựa cái pháp đó. Và đồng thời cái pháp đó nó hướng tâm, nó bảo cái đó làm đúng theo cái trạch pháp đó, thì đó là cái kết quả của trạch pháp đó, gọi là Trạch Pháp Giác Chi.
Bây giờ Thầy bảo: “Cái tâm như cục đất, không tham, không sân, không si!” , phải không? Mà bây giờ cái tâm của Thầy ai chửi mắng nó cũng không tham, không sân si, nó giống như cục đất rồi, thì đó gọi là Trạch Pháp Giác Chi, phải không? Bởi vì Giác Chi là Bồ Đề, nó đâu còn sân.
Còn bây giờ cái tâm Thầy nói nhưng mà nó còn sân, thì nó chưa phải là Trạch Pháp Giác Chi thành tựu. Các con hiểu chỗ đó chưa?
Nghĩa là cái kết quả của cái trạch pháp đó nó đã thực hiện được, thì cái đó gọi là Trạch Pháp Giác Chi. Còn cái kết quả nó chưa ra được, nó còn có lúc giận, lúc không giận, thì cái đó nó chưa được.
Cũng như bây giờ nói: “Diệt Tầm Tứ, nhập Nhị Thiền!”, mà bây giờ nó diệt có chút xíu rồi cái nó bung ra, thì như vậy nó chưa là diệt hẳn Tầm Tứ. Cho nên cái đó, cái pháp mà mình trạch pháp, để mình nhắc “Tầm Tứ phải tịnh chỉ!” nhưng mà tịnh chỉ có một chút. Hay hoặc là mình nói “Tầm Tứ tịnh chỉ!” mà nó không tịnh chỉ, thì như vậy chưa phải gọi cái đó là Trạch Pháp Giác Chi. Phải không.
Mới đầu thì chúng ta trạch pháp là chúng ta chọn lựa một cái câu trạch pháp cho phù hợp với đặc tính của mình. Bây giờ mình dùng cái câu đó mình nhắc nó mà nó thành tựu được, nó tịnh chỉ được, thì cái đó là Trạch Pháp Giác Chi.
Cho nên có những câu hỏi, có người hỏi, bây giờ thí dụ như mình hướng tâm tịnh chỉ hơi thở và tịnh chỉ hơi thở nó khác nhau như thế nào?
Bây giờ mình hướng tâm, tức là mình còn nhắc cái tâm mình cho nó làm như cái lời mình hướng đó. Và bây giờ nó đã, mình nhắc nó, nó đã làm được theo như cái lời mình nói rồi, thì cái đó là tịnh chỉ. Còn cái mình đang nhắc, thì cái đó gọi là hướng tâm nhắc nó. Đó thì, hai cái này nó có khác nhau, bởi vì mình nhắc nó chớ nó chưa có nghe lời như vậy.
(42:19) “Hay nội tâm có Tinh Tấn Giác Chi,”
Còn Tinh Tấn, nó siêng năng lắm, tự nó nó siêng năng, nó siêng năng tự nó chớ không phải là mình bắt ép nó. Nó không có lười biếng, nó không ham có ngủ, nó không có gì hết, luôn lúc nào nó cũng muốn ở trong cái tâm đó.
Thì người mà thấy được cái Tinh Tấn Giác Chi này, là người mà ở đây Thầy thấy, là thầy Mật Hạnh đã gặp cái Tinh Tấn Giác Chi. Thầy nói nó không có lười biếng nữa, mà nó ngồi đó nó cứ quay vô, nó bắt mình ngồi hoài, mà mình thích thú chớ không phải là mình thấy nó mỏi mệt gì hết, nó làm cho mình thích tu cho nên nó gọi là Tinh Tấn Giác Chi.
Trong cái Tinh Tấn nó có cái Bồ Đề giải thoát đó, nó làm cho mình ham tu, thích tu, mà không phải ham cái kiểu mà mình ham tầm thường. Cũng như bây giờ mình ham như thế này, thế khác, thì cái đó nó không phải, mà cái này tự nhiên nó có cái sức tinh tấn của nó, nó làm cho mình thích ở trong đó vậy, cho nên mình không có xả, mình không có buông ra, còn bây giờ mình ngồi mình tu một hơi mình muốn xả ra!
Thì cái đó nó thuộc về Tinh Tấn Giác Chi.
“Hay nội tâm có Hỷ Giác Chi…”
Hỷ Giác Chi là cái nội tâm của mình nó luôn luôn nó có cái niềm vui của nó. Tự nhiên nó như vậy mà mình không cần phải nhập định nó mới có. Nhưng mà bây giờ nó đã có cái Hỷ Giác Chi, thì tự nhiên nó xuất phát ra như vậy.
Bây giờ thí dụ như Thầy bảo Thầy hướng tâm Thầy nhắc “Cái Hỷ Giác Chi phải có!”, nhưng mà nó không bao giờ nó có. Tự nó nó đến với mình, nó làm cho mình có một niềm vui an ổn ở trong thân tâm của mình.
Mà khi một cái niềm vui an ổn thân tâm, thì cái thân của mình bao giờ cũng phải có cái lạc của Giác Chi. Hai cái này, Hỷ Giác Chi với Khinh An Giác Chi, là bao giờ nó cũng phải kèm với nhau một bên chớ nó không có xa nhau, nghĩa là có Hỷ thì tức là có Khinh An. (44:10) Cho nên hai cái này nó vẫn có, hễ mà Hỷ Giác Chi có thì Khinh An Giác Chi nó phải có.
Mà khi Khinh An Giác Chi có thì Định Giác Chi nó phải có, nó không làm sao, bởi vì đó là cái tự nhiên chớ không phải là chúng ta, thí dụ như bây giờ Thầy nhập trong Tứ Thiền, thì cái Định Giác Chi nó phải có ở trong Tứ Thiền. Bây giờ Thầy nhập Tam Thiền thì cái Định Giác Chi ở trong Tam Thiền nó phải có, mà Thầy nhập cái định Nhị Thiền thì cái Định Giác Chi ở Nhị Thiền nó phải có.
Thì trong khi cái Hỷ Giác Chi của Nhị Thiền, của Tam Thiền, của Tứ Thiền thì nó phải có cái định, cái Hỷ của Giác Chi, cái Khinh An của Giác Chi ở cái mức định đó. Khi mà chúng ta nhập vào cái định đó thì cái Giác Chi nó sẽ có đi theo cái định đó. Cho nên cái mà nó có như vậy gọi là Định Giác Chi.
Cho nên nó có thì chúng ta cứ nương vào chỗ đó mà chúng ta sống ở trong cái cảnh Giác Chi đó, tức là cái trạng thái Bồ Đề đó mà chúng ta ở, chúng ta kéo dài cái thời gian ra.
“Hay nội tâm có Định Giác Chi…”
Thì cái định nó tự nhiên, khi mà chúng ta vào nhập định, chúng ta gom tâm lại, thì lúc bấy giờ nó có một cái trạng thái nó làm cho chúng ta an ổn, tức là giải thoát đó. Thì lúc bấy giờ trong cái định đó nó có cái trạng thái Giác Chi đó, thì cho nên gọi là Định Giác Chi.
(45:25) Bây giờ trong nội tâm chúng ta có Xả Giác Chi. Bây giờ chúng ta thấy chúng ta không còn ham muốn cái gì, cái gì đến với chúng ta có (như) không, cũng như nó không có ham cái gì nữa hết, cho nên đó là cái Giác Chi nó xả.
Chớ không phải là bây giờ chúng ta phải quán cái này nó bẩn, hay hoặc là bất tịnh như thế nào, để nó bỏ, cái này nó nối tiếp cho cái sự đau khổ thế này thế khác, để mà chúng ta không chấp, thì cái này nó chưa phải là Xả Giác Chi đâu.
Chúng ta bỏ đó chúng ta quán, rồi chúng ta không có sắm, không có mua nó nữa, mà cũng không xin nữa, người ta cho cũng không thèm lấy nữa, nhưng mà nó chưa phải là Giác Chi….
(Xem tiếp ở Pháp hành 20)
HẾT BĂNG
PHÁP HÀNH 20 - CHIẾN THẮNG TRÊN MẶT TRẬN SINH TỬ
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Thời gian: 1998
(tiếp theo Pháp Hành 19)
(0:00) Gần tới giờ, nhưng mà chúng ta phải học hết cái bài này. Chút xíu nữa, còn một chút nữa là hết, chúng ta nghỉ.
Khi mà chúng ta Xả Giác Chi như vậy, thì tức là nó ở trong một cái trạng thái buông xả hết vật chất. Thậm chí như cả cái thân này nó cũng không còn tiếc nữa, ai có muốn lại xin cái đầu nó cho liền, nó cũng không có nói đừng có làm vậy, đau đớn hay này kia. Bây giờ xin cái gì nó cũng cho hết. Nghĩa là Xả Giác Chi.
Thí dụ như bây giờ người ta nói: “Thầy làm ơn thầy cho tôi cánh tay đi”, thì nó vẫn chặt nó cho liền, nó cũng không thấy đau thấy đớn, nó cũng không thấy gì hết, đó gọi là Xả Giác Chi. Bởi vì trong cái Xả Giác Chi nó có một cái khinh an, nó làm cho cái tâm người đó không còn dính mắc cái vật gì hết, đối với thân này (nữa).
Cho nên chúng ta nói về Thất Giác Chi, thì hầu hết là chúng ta phải thực hiện tất cả những cái pháp tu cho nó rất là rốt ráo rồi, thì lúc bấy giờ cái giác chi nào nó cũng có hết.
Chớ không phải chúng ta tu tập cái giác chi được, mà chúng ta tu tập các pháp trên kia như là Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, Định Niệm Hơi Thở, Định Vô Lậu. Chúng ta tu tập những cái đó để cho chúng ta thực hiện được những cái tâm ly dục ly ác pháp, rồi nhập Bốn Thiền.
Sau khi nhập Bốn Thiền rồi thì chúng ta muốn ở trong cái giác chi nào, cái Trạch Pháp, cái Khinh An Giác Chi, cái Hỷ Giác Chi, cái Niệm Giác Chi, hay hoặc là cái Xả Giác Chi, Định Giác Chi, chỗ nào là chúng ta cũng có hết. Nghĩa là chúng ta muốn cái chỗ đó là cái chỗ đó có.
Cho nên tu tập như vậy mới gọi là rốt ráo, mới có thành tựu được. Còn bây giờ nói vậy chớ, người ta xin mình ngón tay vầy cái mình tiếc, nói giờ tui mười ngón mà chặt tui lấy một ngón vầy, là tui thành chín ngón làm sao? Coi sao được? Thì như vậy là mình còn sợ xấu rồi.
Còn cái người có mà cái Xả Giác Chi, xin ngón tay họ chặt ngón tay họ cho. Họ thấy không phải là cái chuyện họ còn tiếc đối với cái thân này nữa, cái gì họ cũng xả hết, họ không tiếc cái gì, xin cái gì họ cho cái nấy, xin cái chân họ cũng chặt cho cái chân nữa. Mặc dù là, họ không có suy nghĩ là như thế nào hết.
Nghĩa là người đời người ta nói, nếu mà cho cái chân như vậy chắc mình đi cà nhắc, rồi mình đi có một chân làm sao? (2:01) Nhưng mà người mà Xả Giác Chi họ không có quan trọng cái vấn đề đó, một chân hai chân gì cũng được, tại vì cái nghiệp của mình vậy. Cho người ta cái chân đó mình cái chống cây gậy thêm mình đi không có gì sợ.
Còn bây giờ mình sợ mắc cỡ, chống cây gậy người ta nói ông cụt chân, ông có một chân thì mình xấu hổ. Còn cái tâm Xả Giác Chi không có xấu hổ gì nữa, nó không có cái gì mà nó còn chướng ngại trong tâm hết.
(2:21) “Này các thầy Tỳ Kheo, như vậy là Tỳ Kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Bảy Giác Chi”.
Đó là bây giờ chúng ta đã tu tới cái Bảy Giác Chi, là chúng ta đã hiểu được cái giác chi nó như thế nào. Chớ không phải có nhiều người giảng pháp (Thất) Giác Chi là phải đem giác chi đó ra để tu tập.
Nhưng mà trong khi đó, chúng ta tu tới đó nó sẽ xuất hiện cái giác chi đó, thì trong khi đó, khi mà xuất hiện giác chi đó, thì chúng ta phải giữ cái giác chi đó, do đó gọi là tu giác chi.
Thí dụ như bây giờ có cái khinh an, có một cái tâm Niệm Giác Chi, thực hiện ra cái niệm đó như vậy, thì chúng ta cứ giữ cái niệm đó kéo dài hoài, thì chúng ta sống ở trong cái Niệm Giác Chi đó, tức là cái Bồ Đề đó, cái giải thoát đó.
Đến đây chúng ta xin chấm dứt. Ngày mốt chúng ta sẽ tiếp tục học Tứ Niệm Xứ nữa và chúng ta tiếp tục học Tứ Thánh Định. Thì đến đây xin (mời) các thầy nghỉ.
(3:18) Giờ chúng ta sẽ tiếp tục bài học. Trước khi học thì Thầy trả lời một số câu hỏi của các thầy và các cô. Bữa nay chúng ta sẽ học hết cái bài Tứ Niệm Xứ, và đồng thời thì có một số quí thầy hỏi về cái Tứ Niệm Xứ có những cái phần rất là cụ thể. Rồi Thầy cũng sẽ trả lời.
(3:46) Câu hỏi thứ nhất, ở đây là Hải Tâm, nhưng mà hôm nay Hải Tâm Thầy thấy là chắc đi bận công việc gì rồi.
Hỏi: “Thưa Thầy! Tâm bất động là tâm dễ quay vào trong phải không thưa Thầy? Trạng thái như thế nào biết tâm quay vào trong? Khi tiếp duyên nhiều muốn tâm quay vào trong thì con phải tu như thế nào?”
(04:14) Đáp: “Tâm ly dục ly ác pháp là tâm bất động.”
Khi nào mà cái tâm của mình mà nó ly được cái lòng ham muốn với các ác pháp như tham, sân, si thì nó sẽ là bất động. Mà tâm mà nó bất động thì nó không còn phóng dật.
Phóng dật - chữ “phóng dật” của Phật ở đây là cái tâm của mình nó chạy theo trần cảnh, mà cái tâm gọi là chạy theo trần cảnh, thì nó do sáu cái cửa của nó mà nó chạy theo.
Thí dụ như mắt thì nó thấy cái sắc, cái vật này, vật kia, cái hình ảnh này, hình ảnh kia. Tai thì nó nghe âm thanh. Mũi thì nó ngửi mùi hương, mùi thơm, mùi thúi. Lưỡi thì nếm những cái vị.
Do ly ác pháp với cái tâm dục, thì cái tâm nó sẽ không phóng dật ra. Mà nó không phóng dật tức là sáu cái mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình, nó sẽ đóng lại. Tức là không phải là nó nhắm mắt lại hay hoặc là nó bịt lỗ tai nó lại, nó vẫn nghe, nhưng mà cái tâm nó không có duyên theo những cái cảnh vật, âm thanh, sắc tướng ở bên ngoài. Cho nên vì vậy mà cái tâm luôn luôn lúc nào nó cũng thanh thản.
Còn cái tâm mà phóng dật, luôn luôn nó chạy ra ngoài, cho nên mỗi cái sắc tướng, hình sắc, âm thanh gì bên ngoài thì nó bị dính mắc liền. Nó thấy cái đó nó phân biệt ra cái đó nó đẹp, cái đó nó xấu, cái đó nó như thế này, thế khác. Cho nên nó làm cho cái tâm nó dễ bị dính mắc.
Chữ “phóng dật” ở đây có nghĩa là cái tâm luôn luôn nó đón tiếp những cái, sáu cái trần ở ngoài. Nó đón tiếp, rồi nó nhận vào, rồi nó sanh ra cái tâm thương mến, hay hoặc là giận hờn phiền não, nó mới trở thành cái ác pháp.
Đó cho nên vì vậy khi mà cái tâm ly dục ly bất thiện pháp là cái tâm bất động, mà cái tâm bất động là tâm không phóng dật. Nó không chạy theo trần cảnh nữa, tự nó quay vào trong thân nó, bây giờ nó cứ nhìn vào cái hành động của thân nó.
Cái thân thở nó biết nó thở, cái thân nó rung động một cái gì ở trong thân nó nó đều biết rõ hết. Mà lúc bấy giờ, không phải nó quay vô như vậy mà nó buồn ngủ, nó bị hôn trầm, nó rất tỉnh táo. Mà nó không chịu nghe ra ngoài nữa mà nó cứ nghe ở trong thân của nó mà thôi.
Lúc bấy giờ cái người mà tu tập đó, khi mà cái tâm nó quay vào trong rồi, thì cái người tu tập không cần phải tập trung trong hơi thở hít thở này kia, mà tự nó nó biết cái hơi thở của nó, rồi cái hơi thở nó tự động nó nhẹ nhàng, nó thanh thản, nó thơi thới, nó làm cho chúng ta luôn lúc nào cũng không có dụng công, không có cực nhọc cái gì hết.
Nghĩa là ngồi đâu thì nó dính đó, nó dính với cái tự nhiên của nó, nó dính với cái hơi thở của nó vậy đó. Đó gọi là tâm ly dục ly ác pháp.
(06:52) “Mỗi động dụng của thân nó đều biết rất rõ…”
Cái gì ở trong thân của nó nó biết rõ.
Còn bây giờ ở trong thân của chúng ta động dụng chớ cái tâm của chúng ta nó mắc ở ngoài, nó luôn luôn nó tiếp xúc sáu trần ở ngoài, nó chờ đón, nó nằm ở chỗ nào đó nó chờ đón, mà nó không có chịu quay vô trong. Cho nên nhiều khi cái thân của chúng ta sắp sửa bệnh nặng, thì nó phải có những cái trạng thái diễn biến của bệnh đó, nhưng mà chúng ta cũng không biết nữa.
Còn cái người mà cái tâm quay vô trong thì những cái trạng thái mà có thể sắp xảy ra, một cái bệnh gì đó, như bây giờ cái tay của chúng ta sắp sửa mọc cái mụn ghẻ, thì cái hiện tượng, cái tâm của cái người phóng vô trong, thì cái hiện tượng sắp sửa mà nó nổi lên cái mụn ghẻ, nó phải có báo cái hiện tượng ở tại chỗ đó, nó sẽ như thế nào.
Nhưng vì cái trạng thái mà nó sắp sửa, cái thọ ở chỗ đó đó, nó chưa có thô, nó quá vi tế, cho nên cái tâm chúng ta mắc phóng ra ngoài, cho nên nó không biết cái đó.
Đến chừng mà nó nhức nhối này kia, khó chịu, thì lúc bấy giờ cái tâm nó mới chịu quay vô cái chỗ đau đó. Do đó mà chúng ta mới thấy cái chỗ đó bắt đầu nó đỏ, nó sưng lên, rồi bắt đầu đó mà nó nung mủ, nó làm cho chúng ta đau đớn, khổ sở, khó chịu. Đó là cái tâm nó phóng ra ngoài, cho nên cái vi tế ở trong thân của chúng ta xảy ra thì nó không biết.
Cũng như bây giờ chúng ta ngồi đây chứ chúng ta chưa biết cái nhịp tim chúng ta đập, nhưng mà khi nào chúng ta tập trung được thì chúng ta thấy cái nhịp tim của chúng ta đang, rõ ràng là ở trong thân chúng ta đang hoạt động đó.
Như bây giờ cái mạch máu nó đương lưu thông, nó chạy trong khắp cùng cơ thể chúng ta, nhưng mà bây giờ chúng ta không biết nó đang chạy hay không chạy, chúng ta chẳng nghe gì hết. Do đó là cái tâm của chúng ta nó chưa có quay vào trong.
Vì cái sự quay vào trong đó mà Đức Phật gọi là định tỉnh, tức là tỉnh giác đó, cái sức định tỉnh giác đó. Cho nên chúng ta hiện giờ mà tập ức chế tâm cũng là tập cho cái tâm nó quay trở vào trong để cho nó tỉnh giác đó.
Còn cái này, khi mà mình ly dục ly ác pháp rồi thì cái tâm nó thanh tịnh thì nó có cái sức tỉnh giác đó, cho nên nó quay vào trong, cho nên nó rất tỉnh, cứ mỗi mỗi cái hành động gì ở trong thân nó đều biết hết. Đó.
“Tâm quay vô lúc nào cũng thanh thản, nhẹ nhàng, hỷ lạc.”
Hễ mà cái tâm mình quay vô rồi, thì biểu nó ra ngoài nó cũng không ra nữa, biểu nó tiếp nhận một cái gì đó thì nó cũng không tiếp nhận nữa, nó không có ra ngoài. Cho nên nó thanh thản, nó nhẹ nhàng, nó hỷ lạc.
“Vì không phóng ra nên lúc nào tự nó cũng quay vào trong, mọi hoạt động trong thân nó đều biết rõ.”
Nhưng lại bên ngoài, thì nó cũng chẳng biết cái gì ở bên ngoài hết. Nghĩa là cái gì ở trong thân thì nó biết mà ở bên ngoài thì nó không biết. Âm thanh, sắc tướng bên ngoài nó không có nghĩa gì đối với nó hết, bây giờ không có tác động, không làm cho nó khởi cái ham muốn gì ở bên ngoài được hết.
(09:43) “Khi tiếp duyên nhiều”, ở ca hỏi này: “Khi tiếp duyên nhiều, muốn cho tâm mình quay vô thì mình phải cái tu pháp gì?”- Nó hỏi Thầy như vậy. “Khi tiếp duyên nhiều, muốn cho tâm quay vào trong, thì phải tu tập cái gì”- Thì Thầy trả lời:
“Khi tiếp duyên nhiều…”
Tức là mình tiếp duyên chuyện này, chuyện nọ, kia, nói chuyện này, chuyện kia với người khác.
Nhưng mà đây là những cái chuyện mà mình nói, đây là những cái chuyện cần thiết, chớ không phải là cái chuyện phiếm mà ngồi nói chuyện thiên hạ đó, thì cái chuyện đó thì nó không đúng tính cách của người tu rồi.
Cho nên chúng ta miễn nói về cái người hay nói chuyện phiếm, mà đây là nói cái chuyện, là vì bắt buộc, là có khách mình phải tiếp chuyện. Họ nói, mình chịu khó mình ngồi đó để mình nghe họ vậy thôi, hay hoặc là họ hỏi một hai cái gì đó, mình trả lời với họ thôi.
Đây là cái sự bắt buộc, chớ còn thực sự ra cái sự tiếp duyên của mình, thì mình không bao giờ mình muốn tiếp duyên, một người mà tu thì không bao giờ muốn tiếp duyên hết. Cho nên trong đạo Phật nói mình sống trầm lặng, sống một mình, ca ngợi và tán thán sự trầm lặng đó, sự độc cư một mình mình.
Cho nên cái tiếp duyên này là vì cái sự bắt buộc mà tiếp duyên, nhưng mà mình tiếp duyên như thế nào đúng, như thế nào sai?
(10:57) Bây giờ tiếp duyên, thì tức là, trong khi mà mình muốn mà tiếp duyên như vậy, là mỗi cái sự kiện mà mình tiếp, thì mình phải quán xét cho nó, cái đó là cái sự bắt buộc của mình chớ không phải cái mình muốn tiếp duyên họ. Và những cái duyên mà họ nói chuyện này, chuyện kia, nó làm cho mình bị động tâm, thì mình quán xét, mình xả bỏ nó đi.
Thí dụ như gia đình mình, mình chưa có biết cái gia đình mình xảy ra gì, thì mình tiếp duyên với người khách đó, họ nói gia đình mình hôm nay nó bị vầy, bị khác, làm cho mình động tâm, thì mình phải quán xét qua nhân quả của mình, xả nó đi.
Mà muốn cái tâm mình nó được quay vào trong, thì luôn luôn lúc nào mình cũng tu tập Tứ Chánh Cần để cho mình thấy cái ác pháp mà mình ngăn chặn nó, mình ngừa nó, không cho nó xâm chiếm vào cái tâm của mình, thì do đó cái tâm nó sẽ quay vào trong.
Cho nên ở đây Thầy trả lời:
“Khi tiếp duyên nhiều, con muốn tâm quay vào trong thì phải tu tập Tứ Chánh Cần, ngăn ngừa các ác pháp không cho sanh, đoạn dứt các ác pháp, dùng pháp hướng và Định Vô Lậu xả tâm nhanh chóng.”
Nghĩa là có ba cái loại định, mà trong khi mà chúng ta tu Tứ Chánh Cần thì chúng ta dùng ba cái loại định đó. Ba cái loại định đó thì nó ngăn ngừa, nó làm cho các pháp ác không sanh và đoạn dứt các pháp ác.
Do các pháp ác không sanh thì cái tâm nó sẽ quay vô. Bởi vì mình ly dục ly ác pháp, tức là ở trong các pháp ác nó không sanh được, mà nó không tăng trưởng được, thì tức là, đó là ly dục ly ác pháp.
Đó là cái giai đoạn, mà cái câu hỏi để cho chúng ta biết tu tập, để cái tâm nó quay vào trong. Mà cái người mà thường tu tập ba cái định này, thì cái tâm nó sẽ quay vào trong. Nghĩa là tới một ngày nào đó nó xả được các pháp ác rồi thì nó sẽ quay vào trong.
(12:48) Hỏi: “Hôm nay con được Thầy và cô Diệu Quang cho học thêm về Tứ Chánh Cần, Định Tư Cụ, đó là giới hành và Tứ Niệm Xứ để thân tâm được thanh tịnh. Nó rất quan trọng và quý giá vô cùng. Nhờ đó chúng con tu tập các thiền định sau này, nên phải nỗ lực siêng năng, đem hết nghị lực mới thực hiện được. Chớ không đơn giản tầm thường như bao nhiêu người tưởng vào chùa là ăn chay niệm Phật, tụng kinh, bái sám, sống hiền lành là xong. Hồi xưa con cũng nghĩ như vậy, nhưng bây giờ con đã biết cả một sự chiến đấu đầy gian nan.
“Thắng vạn quân không bằng thắng chính mình. Thắng mình mới là chiến công oanh liệt.” Quyết tâm thực hiện cho bằng được đạo giải thoát không phải là việc làm tầm thường. Thưa Thầy và cô Diệu Quang có phải vậy không?
Nhưng tại sao có người nghe qua họ nói tu dễ. Xin Thầy giải thích cho chúng con rõ!”
Đó là một cái câu hỏi để rồi Thầy sẽ giải đáp cái câu hỏi này, để cho thấy rằng từ cái chỗ mà, quan niệm rằng cái sự đi tu là nó dễ dàng, sự thật ra nó không dễ dàng, phải hết tâm, phải có nghị lực, phải có gan dạ, phải có sự bền chí thì nó mới có tu tập được.
(14:14) Đáp: “Tu không phải là việc dễ làm, nếu một người chưa tu hành thì nghe qua cho là dễ. Tại sao từ 18 năm nay, bao nhiêu tu sĩ và hiện giờ các con cũng tu hành, vẫn chưa viên mãn?
Tại vì mọi người nghĩ tưởng tu là dễ dàng, nên đầu óc nghe sao tu vậy, không chịu tổ chức lại, sắp xếp và hoạch định một phương hướng tu tập có kỹ thuật và khoa học, cho phù hợp với khả năng và bản chất của mình thì kết quả sẽ cụ thể, rõ ràng và nhanh chóng!”
Ở đây Thầy trả lời cho thấy rằng, cái tu hành đúng là nó không có phải dễ dàng đâu.
Là tại vì chúng ta nghe sao rồi chúng ta về tu vậy thôi, chớ chúng ta chưa biết cách sắp xếp nó như thế nào cho nó có một cái kỹ thuật, mà sắp xếp như thế nào cho nó có cái khoa học, để cho mình tu tập nó mới có tiến bộ, chớ còn không khéo thì, nghe đâu tu đó, nghe đâu tu đó thì tu riết chúng ta tu rối đầu hết mà chúng ta chẳng có kết quả.
Tại vì mọi người nghĩ tưởng, nghĩ tưởng ra tu là dễ dàng, cho nên khi mà nghe cái bài giảng đó rồi, như Tứ Niệm Xứ nè, hay hoặc Tứ Thánh Định nè, hay hoặc Tứ Chánh Cần, nghe nó vậy rồi bắt đầu chúng ta cứ tập trung tu.
Cứ tu thôi, chớ không sắp xếp được cái, tổ chức sắp xếp lại, hoạch định những cái định đó phải tu giờ nào, phút nào, hay hoặc là trường hợp nào, hay hoặc trạng thái nào phải tu cái định đó. Đó là chúng ta hoạch định.
Thí dụ như bây giờ, chúng ta sắp xếp là một ngày một đêm có bốn thời, mỗi thời thì chúng ta tu ba giờ hay hoặc hai giờ. Rồi trong ba giờ đó chúng ta phải tu cái gì trước, cái gì sau, và đồng thời phải cho hợp với cái đặc tướng của mình.
Nhiều khi chúng ta đặt cái giờ đó là tu cái định đó, nhưng mà cái giờ đó, cái trạng thái của cái tâm của mình nó không phải ở trong cái trạng thái để tu cái định đó, vì vậy mà chúng ta phải thay đổi để mà tu một cái định khác cho nó phù hợp và nó có kết quả.
(16:22) Và cái sức của chúng ta, thời gian mà dài chúng ta không đủ sức để mà tu, cho nên chúng ta lại tu ngắn hơn, vừa với sức của mình hơn.
Cho nên do đó chúng ta phải thấy rằng, cái kỹ thuật mà sắp xếp lại, mà hoạch định một cái phương hướng cho có một cái tổ chức tu tập hẳn hòi, nó rõ ràng và cụ thể, thì nó mới có thể tu tập được.
Chớ không phải là, nghe như vậy chúng ta thấy dễ quá, “ở bây giờ mình tu cứ mình ngăn chặn không cho ác pháp, cuối cùng thì tâm nó ly dục ly ác pháp!” Nó không phải dễ như vậy đâu.
Mà khi bắt tay vào thì suốt một ngày một đêm là 24 tiếng đồng hồ, mà 24 tiếng đồng hồ chúng ta nghe như vậy chúng ta cứ tập, tập nỗ lực, tập riết, đầu óc chúng ta nó rối bời, nó buồn ngủ, nó làm cho loạn xị xà ngầu hết.
Nghĩa là bây giờ nó từ cái chỗ mà chúng ta đang có những cái tâm nghĩ ngợi cái này kia, bây giờ bắt buộc nó không nghĩ ngợi gì, nó cứ theo hành động chúng ta hoài, đó là một dạng của nó mới.
Cho nên vì vậy mà, trong khi cái tâm của chúng ta và cái thân của chúng ta nó chưa quen cái đó đâu, nó bắt đầu nó vật vã lại chúng ta, nó phản đối lại chúng ta. Nó làm chúng ta thấy nó mệt nhọc mà nó chẳng có kết quả gì ở trong con đường tu, nó làm cho chúng ta thấy hết muốn tu luôn.
Đó là chúng ta chưa có biết cách tổ chức, sắp xếp lại, hoạch định một cái phương hướng, nó có kỹ thuật khoa học hẳn hòi, và nó còn phải phù hợp vào thời gian cho đúng nữa, thì chúng ta sẽ tu nó nhanh chóng.
Hầu hết là Thầy nhìn chung, chúng ở trong Tu viện từ 18 năm nay cho đến giờ, thì hoạch định cái chương trình tu nó không có phù hợp. Cái phương hướng hoạch định cái chương trình tu nó không có phù hợp, nó không có đúng với cái kỹ thuật khoa học mà chúng ta hoạch định một cái chương trình gì làm ăn cái gì đó.
Thì ở đây cái sự tu tập chúng ta cũng vậy. Chúng ta phải hoạch định một cái phương hướng, một cái kế hoạch cho nó phù hợp, cho nó đúng với cái khả năng của mình, để khi mình vào mình tu, tuy rằng mình tu trong một phút, mà trong một phút với cái định đó là cái kết quả chúng ta nó hẳn hòi.
Sau một phút đó chúng ta nghỉ một giờ cũng được nữa. Nhưng khi nghỉ đâu có nghĩa chúng ta tiếc rằng bây giờ, cái thời gian mình nghỉ nhiều quá, mình bỏ uổng, thôi mình cũng tu đi, bây giờ mình đâu có gì đâu, nghe trong người cũng khỏe. Nhưng mà tu là nó có cái tai hại.
Nó không có kết quả, mà nó đem đến những cái hậu quả là nó kéo dài cái thời gian chúng ta mất thôi chớ không có gì. Bởi vì chúng ta tu nhiều quá thì có loạn tưởng, hay hoặc là có trạo hối, hoặc là có thùy miên, nó làm chúng ta nó không có tỉnh táo chút nào.
Cho nên coi thì nó dễ dàng, nhưng mà thực sự là nó khó. Vì vậy mà phải sắp xếp đâu cho nó có một cái phương hướng tu tập có kỹ thuật, có khoa học hẳn hòi.
“Tất cả pháp hành Thầy đã dạy rất đầy đủ, để các con tu tập đến nơi đến chốn. Nhưng chỉ còn biết cách tổ chức, sắp xếp cho hợp với khả năng của các con, thì kết quả rất cụ thể.”
Nghĩa là mình phải suy tư, rồi mình sắp xếp, mình thấy cái khả năng cái thân và tâm của mình, phải tu trong một buổi nó mấy phút, thì chúng ta sẽ tu trong một buổi mấy phút thôi, chúng ta tu chi cho nhiều! Rồi chúng ta nghỉ.
(19:31) Mà nghỉ đâu có nghĩa là ức chế cái tâm mình, bảo nó đừng có niệm này niệm kia? Khi mình đã nghỉ là mình trở về với cái bình thường của nó như một người bình thường mà chưa biết tu, thì nó nghĩ gì nó nghĩ.
Nhưng mà khi tới cái giờ mình tu, thì hoàn toàn mình bảo nó là không được nghĩ. Thì lúc bấy giờ mình với cái sức khả năng của mình, trong một phút, hai phút, thì mình bảo sao nó phải nghe à, thì sức của mình nó làm được cái chuyện đó.
Còn bây giờ cái sức của mình chưa làm được trong năm, ba phút mà mình đã làm tới một giờ, hai giờ, thì thử hỏi làm sao mình làm cho được? Mình làm với cái sức của mình không đủ thì mình làm sao mình làm được cái chuyện lớn đó được! Cho nên mình làm với sức của mình trong cái nhỏ.
Thí dụ như cái sức của Thầy, xách chừng có mười ký, mà Thầy ôm đồm cả một trăm ký thì thử hỏi Thầy chỉ còn có nước kéo lết đó chứ còn làm sao mà Thầy lôi nó được!
Đó thì, các con cũng phải hiểu được cái chỗ tu tập của chúng ta.
Cái sức tu tập nghĩa là không thể nào một người mà vô ngồi suốt một, hai tiếng đồng hồ, ba, bốn tiếng đồng hồ mà cái tâm không có niệm vọng tưởng, đó là một cái, cũng như là chúng ta đi kinh hành hay hoặc làm tất cả mọi hành động, mà suốt từ giờ này đến giờ khác, năm, ba tiếng đồng hồ như vậy mà nó không có một niệm khác xen vô. Thì cái điều đó chúng ta hiện là chúng ta cũng nghĩ rằng, chúng ta biết rõ ràng mà.
Mà bây giờ mình tu tập thì mình biết, trong một phút là đã thấy nó có cái niệm khác xen vô rồi, thì do đó mà cái sức của mình ráng một phút là cũng hết sức rồi đó, chứ chưa nói.
Bởi vì mình phải sắp xếp làm sao cho nó phù hợp, và mình biết cái pháp nào tu trước, cái pháp nào tu sau, nếu là một cái trạng thái bình thường.
Còn nếu bây giờ, trong cái giờ đó, mình sắp xếp cái giờ đó mình tu cái định đó, như Định Niệm Hơi Thở, mà bây giờ nó buồn ngủ quá, mà mình cũng nói: “bây giờ cái này là giờ tu Định Niệm Hơi Thở!” thì cứ khép chân ngồi, thì tức là mình ngu si quá độ rồi!
Mắc hôn trầm rồi mà cứ ngồi lên đó, một chút thì nó gục tới gục lui, chớ làm gì mà chúng ta tỉnh nữa mà chúng ta tu ở trong hơi thở được?
(21:24) Cho nên ngay, tuy rằng cái giờ chúng ta sắp đó là giờ cái Định Niệm Hơi Thở, nhưng mà ngay đó mà thấy nó bị hôn trầm, hay hoặc là chúng ta vừa ngồi lên, năm phút hay ba phút mà thấy nó bị hôn trầm, nó gục một cái, hai cái, là ngay đó là chúng ta xả chúng ta sẽ tu một cái định khác.
Mặc dù giờ đó là giờ của Định Niệm Hơi Thở, nhưng mà chúng ta biết rằng Định Niệm Hơi Thở chẳng qua là tu tỉnh thức, tỉnh thức chớ chúng ta chưa có nhập định gì được hết.
Vậy thì cái tỉnh thức của cái hành động đi kinh hành, nó cũng là tỉnh thức. Thì như vậy là chúng ta bỏ cái ngồi chúng ta đứng dậy, chúng ta tu kinh hành thì làm sao chúng ta có hôn trầm nữa, gục (nữa)? Mình đi làm sao mình gục, phải không?
Do cái chỗ mà mình tu nó vừa với cái sức, cái thời gian tu và cái thời gian nghỉ của mình khi mình mới tu, thì cái thời gian mình ngủ nghỉ nó phải, bởi vì mình chưa quen cho nên mình thức nhiều thì nó bị hôn trầm nhiều chớ sao, cho nên mình thức ít, vừa sức. Rồi lần lượt mình tu, cái sức tỉnh nó tăng lên, thì cái sự ngủ nó giảm lại, Nó giảm lại thì mình tăng cái giờ giấc mình (tu) lên!
Có vậy thôi, rồi bắt đầu cái sức tỉnh mình càng dài ra, thì mình tăng lên từ một phút cho đến mười phút, hai mươi phút. Còn đằng này thì chúng ta tu nhiều quá, quá cái sức.
Đức Phật đã có ví dụ mà Thầy đã nhắc đi nhắc lại rất nhiều. Một cây đàn, nó có những cái dây mà căng lên để mà thành tiếng, để mà gảy ra tiếng, âm thanh, thì cái dây đàn nếu mà chúng ta căng nó chùng quá thì cái dây đàn nó sẽ không thành tiếng, thành tiếng đúng cái âm của nó, mà nó thẳng quá thì nó cũng đâu có xài được, và nó đứt dây nữa.
Cho nên quý thầy nghe tu được giải thoát mau, như Thầy nói rằng trong ba tháng, rồi đến sáu tháng thì xong, thì quý thầy nỗ lực, mà nỗ lực không đúng cách thì ba tháng, sáu tháng không xong mà lại đứt dây đàn, nó không còn thành âm thanh nữa.
Cho nên ở đây mình ba tháng, sáu tháng mà biết cách sắp xếp,nó có kỹ thuật, có khoa học ở trên bước đường tu tập, hợp với khả năng, với thời gian tu tập của mình. Thì lúc bấy giờ đó, thì mỗi một lần một chút mà mình tăng lên, thì trong ba tháng thì kết quả cụ thể, rõ ràng. Nghĩa là ba tháng mình đạt thành là do mình tu có chất lượng hẳn hòi.
“Trang bị một giáo pháp đầy đủ các pháp hành, có kỹ thuật, có khoa học, có chiến thuật, có chiến lược, để bắt đầu một cuộc chiến tranh về nội tâm, giành lại chủ quyền sanh tử luân hồi và đem lại một đời sống thanh bình, an lạc. Đó là nhiệm vụ của Thầy.”
Nghĩa là hôm nay Thầy trang bị cho các con một cái giáo pháp đầy đủ những cái pháp hành. Đụng cái gì thì nó có thể, đụng trên cái mặt trận tâm lý của các con á, tham, sân, phiền não củ nó, thì các con sẽ có những cái pháp để mà diệt trừ những cái đó đi, đánh bại những cái đó đi.
Do đó thì, cái vấn đề đó là cái vấn đề của Thầy, (24:11) hôm nay đã sắp xếp cho các con có một cái, trang bị cho các con có một cái giáo pháp, để cho các con lúc nào mà, đụng cái mặt trận tâm của các con cái gì là các con có pháp đánh bại nó liền, các con giành phần chiến thắng lại, các con đem lại cái sự thanh bình và an lạc nơi thân tâm của các con.
Cho nên trong cái bài này Thầy trả lời cái chỗ này để các con thấy, cái quan trọng của nó là sắp xếp được cái thời gian tu tập.
Còn về cái phần trang bị, về cái hướng dẫn và dạy các con các pháp, thì các con thấy rằng Thầy dạy các pháp hành rất là đầy đủ, mà có kỹ thuật ở trong đó, có khoa học, và cái pháp nào là chiến thuật, pháp nào là chiến lược. Khi đó các con sẽ nhận thấy được những cái điều mà Thầy dạy ở đó.
Thì tất cả những cái pháp của Thầy mà giảng dạy ra thì nó, thật sự những cái pháp tu hành đó rất khoa học, không có cái gì mà mơ hồ trừu tượng ở trong cái tu tập này hết, cái gì nó cũng rất là rõ ràng, cái hành động tu nào nó cũng rất rõ ràng, nó không có cái mơ hồ, nó không còn cái tưởng tượng ở trong đó, cho nên nó rất khoa học.
Và những cái pháp mà sắp xếp cho quý thầy tu tập nó có kỹ thuật hẳn hòi, nếu quý thầy xét thấy nó có kỹ thuật. Mà nói về, để mà đấu tranh với cái nội tâm của quý thầy, thì nó có chiến lược, chiến thuật hẳn hòi, đàng hoàng, chớ không phải cái này là một cái sơ sơ.
Bởi vì nhìn qua cái giáo lý của nhà Phật, là cái bãi chiến trường nó là nơi cái tâm của các thầy. Mà nói chung, là nó đứng (ở) cái chiến trường đó mà để cho chúng ta đánh bại giặc sanh tử, thì nó ở trên cái bốn cái chỗ, bốn cái nơi mà nó thành lập cái bãi chiến trường, đó là thân, thọ, tâm, pháp của chúng ta. Cho nên chúng ta phải chiến đấu ở trên bốn cái nơi này, để mà chúng ta giành lại cái chủ quyền sinh tử luân hồi.
Cho nên ở đây Thầy xin nhắc lại cái đoạn này để cho quý thầy nhớ kỹ, sau này Thầy sẽ phô tô cái đoạn này để cho quý thầy đọc lại và nghiên cứu kỹ lại:
(26:26) “Trang bị một giáo pháp đầy đủ các pháp hành có kỹ thuật, có khoa học, có chiến thuật, có chiến lược để bắt đầu một cuộc chiến đấu về nội tâm, giành lại chủ quyền sanh tử luân hồi và đem lại một đời sống thanh bình an lạc. Đó là nhiệm vụ của Thầy.
Còn về phần các con thì phải biết áp dụng có kỹ thuật, có khoa học.”
Nghĩa là mình áp dụng cái pháp đó đó, nghĩa là bây giờ Thầy đưa ra cái binh thơ đồ trận này, cũng như là Tôn Tử đã dạy binh thơ về cái cách thức đánh giặc, chiến thuật chiến lược nó vậy. Nhưng mà cái người làm tướng, khi áp dụng cái chiến thuật chiến lược này, thì cũng phải tùy vào cái mặt trận đó nó như thế nào?
Mình biết áp dụng cho đúng kỹ thuật khoa học của nó, thì những cái pháp mà Thầy dạy đây, nó rất là tuyệt diệu, nó đem lại kết quả cho quý thầy rất rõ ràng. Còn nếu quý thầy không biết áp dụng nó, thì quý thầy áp dụng sai trật, thì nó không mang đến kết quả.
Cũng như bây giờ Thầy nói như thế này, mình đang buồn ngủ mà ngồi đó hít thở, thì tức là áp dụng sai rồi, cái mặt trận này đâu có phải đánh cái chuyện đó được? Thế mà nói bây giờ tôi đặt nó là cái thời khóa, là tôi phải tu cái Định Niệm Hơi Thở là giờ này, thì bây giờ tui phải ngồi đó như vậy tui chiến đấu nó vậy!
Cũng như bây giờ chúng ta ngồi ở trong cái trạng thái, cái trạng thái ngồi mà nó bị cái tưởng nó làm cho cái thân dao động, cứ gục tới gục lui, gục tới lui vầy, mà cứ ngồi đó để mà tu thì thấy như vậy nó sẽ đi về đâu?
Cho nên trong lúc đó chúng ta áp dụng cái hơi thở, là khi nào cái thân tâm của chúng ta nó định tỉnh, còn nó dao động, nó động như vậy, thì lúc bấy giờ chúng ta có cái định khác để mà chúng ta tu tập trong cái thời gian đó. Như vậy là chúng ta biết áp dụng đúng kỹ thuật và khoa học của cái pháp đó vào cái thân, thọ, tâm, pháp của chúng ta.
Đó thì như vậy là cái phần đó là cái phần của các con, của các thầy tu tập. Còn cái phần mà đem những cái bài pháp này để mà dạy cho quý thầy, thì cái phần này là cái phần bổn phận của Thầy.
Cho nên Thầy dạy nếu mà cái pháp, thí dụ như Thầy dạy cái pháp mà mơ hồ trừu tượng như là Phật Tánh, hay hoặc là như mình “biết vọng liền buông” để rồi mình sẽ thành Phật, hết vọng mình thành Phật, thì cái chuyện đó là cái chuyện mơ hồ rồi.
Còn cái chuyện này, nó thật sự, là khi mình chiến đấu mình thắng được cái tâm tham, thì mình không có tham thì mình không khổ, mình không sân thì mình không khổ, mình không si thì không mê mờ. Thì đó là mình chiến thắng được tham, sân, si. Và cái tâm không ham muốn thì mình chiến thắng ngay cái lòng ham muốn của mình, thì mình sẽ thoát khổ. Nó thực tế và cụ thể.
Còn bây giờ, mình ngồi đây để giữ cái tâm mình không vọng tưởng, để rồi nó hết tham, hết sân, si thì cái đó nó không thành cái vấn đề rồi, nó ngoài cái vấn đề đó rồi. (29:00) Do đó là một cái pháp nó có không khoa học, nó không có cái kỹ thuật tu tập. Ngồi mà giữ tâm thì chúng ta làm sao?
Nhưng mà cái kỹ thuật của chúng ta thấy rõ ràng là, bây giờ chúng ta ngồi đây mà chúng ta muốn giữ cái tâm của mình cho nó không có vọng tưởng, để mình ngăn chặn các pháp ác, thì lúc bấy giờ đó mình hướng tâm mình nhắc: “Hít vô tôi biết tôi hít vô”, hay là “Hơi thở vô tôi biết hơi thở vô, hơi thở ra tôi biết hơi thở ra”.
Mình nhắc như vậy tức là mình sẽ nhớ được cái hơi thở mình đang thở ra thở vô. Rồi một lúc nữa mình nhắc. Như vậy mình có pháp hành đàng hoàng mà, mình có kỹ thuật đàng hoàng.
Còn cái này bắt mình ngồi đây giữ tâm, vọng tới cái mình buông, vọng tới mình buông, thí dụ đó là cái pháp buông “tri vọng”, thì bây giờ có cái pháp nào ngăn chặn nó đâu? Thì luôn luôn cái tâm chúng ta phải sanh vọng thôi, có gì đâu. Nó như vậy nên chúng ta thấy rõ ràng là chúng ta không có cái pháp ngăn chặn.
Còn ở đây chúng ta có cái pháp chặn nó được, đứng nó liền. Bởi vì chúng ta hướng tâm là chúng ta đã chặn được cái Tầm rồi, tức là cái vọng tưởng, chúng ta làm chủ hẳn hòi.
Bởi vì những cái pháp Thầy dạy từ cái làm chủ này cho đến cái làm chủ kia đều là những cái pháp nó rất là rõ ràng, nó có kỹ thuật hẳn hòi đàng hoàng. Và nó khoa học là nó thực chớ nó không trừu tượng mơ hồ. Đó ý Thầy muốn nói như vậy đó, thì các thầy với các con phải suy ngẫm lại coi phải đúng không?
Cho nên những cái pháp Thầy dạy nó có kỹ thuật đàng hoàng. Nhưng mà chúng ta biết áp dụng đúng trong cái môi trường, cái hoàn cảnh, và cái thời gian, cái tâm trạng của mình, thì nó sẽ kết quả rất lớn, mà chúng ta áp dụng sai là tự chúng ta chớ đâu phải tự Thầy dạy pháp sai.
Cho nên 18 năm nay mà không có người thực hiện được viên mãn, là vì đem những cái pháp của Thầy mà áp dụng vào sai. Thay vì cái lúc này chúng ta đánh du kích, thì bây giờ chúng ta lại đem những cái quân du kích này đi đánh hiện đại, thì đem ra như vậy là chúng ta đã tiêu hủy hết những cái quân đội du kích này rồi. Súng đạn chúng ta bằng tầm vông vạt nhọn, mà đi đánh với vũ khí hiện đại, thì chúng dập mình tiêu tan hết còn gì!
Cho nên đó là một cái sai, không đúng! Bởi vì trong lúc này mà ngày nào cũng đi giữ cái tâm của mình không có vọng tưởng, giờ này đến giờ khác, thì thử hỏi coi như là mình đem cái chiến trường này là mình dùng cái hiện đại để mình đánh rồi. Trong khi cái sức của mình nó chưa đủ, thì mình phải dùng chiến thuật du kích chứ? Lâu lâu vậy mình đạt nó được một phút mà không có Tầm Tứ, đó là quý lắm rồi đó.
Đó thì, ở đây Thầy muốn nói về cái vấn đề mặt trận nội tâm chúng ta để chiến thắng được cái sanh tử luân hồi, chiếm lại cái chủ quyền làm chủ được cái sanh tử luân hồi không phải là một cái chuyện dễ, nó rõ ràng mà!
Vì từ lâu tới giờ chúng ta chết, ai ở đâu làm chúng ta chết mà chúng ta muốn sống sao không được? (31:28) Không có người nào mà giờ phút chết mà họ muốn sống mà họ sống được! Mà người nào cũng muốn sống, có người nào muốn chết đâu? Cho nên cái quyền mà làm chủ sống thì chúng ta không có quyền, tới chừng chết là nó chết à, phải chịu thôi!
Thương con, thương vợ, thương (con) cái, thương cha, thương mẹ gì, tới chừng mà nó giật mình nó chết rồi thì cũng đành chịu nhắm mắt đi chết thôi, chớ còn không nói rằng tôi thương là tôi sống lại được, không có bao giờ được hết.
Cho nên cái quyền làm chủ thì không được. Mà sanh thì chúng ta cũng không quyền gì làm sanh được hết. Nghĩa là luân hồi, tiếp tục luân hồi thì chúng ta không làm chủ, chết rồi không biết đi về đâu.
Nếu mà chúng ta đã làm chủ được luân hồi thì tức là chúng ta biết sanh ở chỗ nào rồi chứ gì? Đó là những cái, mà ở đây cái mục đích của chúng ta là giành lại cái chủ quyền làm chủ được cái sanh tử luân hồi, để chúng ta không còn khổ đau nữa.
Rồi cái đời sống mà chúng ta hiện đang sống, cũng như đời sống mà mai sau này, nó đều có một đời sống thanh bình và an lạc, nó không có còn ai làm khổ mình được hết. Đó là những cái pháp môn của Phật đã dạy như vậy, nó quý giá như vậy đó. Ai ở đời này mà không muốn cái cuộc sống mình an ổn, thanh bình? Ai muốn nay chuyện này mai chuyện khác để rầy rà?
Cho nên đó là một cái mà chúng ta thực hiện cụ thể và rất là khoa học cho những cái pháp môn này.
“Trong tất cả mọi người, cuộc chiến đấu nào cũng gian nan, nhất là cuộc chiến đấu nội tâm lại càng gian nan hơn nhiều.”
Các con và các thầy thấy, khi mà trong cuộc chiến đấu như cái cuộc chiến đấu để mà giành độc lập đất nước, thì chúng ta biết gian nan vô cùng chớ đâu phải không? Kể tưởng như là mình cũng không còn sống ở trên thế gian này khi mà bom đạn nó dội như vậy. Còn bây giờ cái cuộc chiến đấu nội tâm mình nó còn gian nan hơn là cái cuộc chiến đấu giải phóng quê hương chúng ta. Mình phải thấy được cái điều đó chớ!
Cho nên do cái chỗ gian nan này mà chúng ta biết rằng cái người tu rất ít đạt được, chớ không phải là người nào cũng vô đó mà đạt được đâu.
Nhưng chúng ta biết Phật pháp rất hay, khoa học, kỹ thuật hẳn hòi, những cái pháp tu rất cụ thể, rõ ràng, không có trừu tượng, mơ hồ, mà đưa thẳng vào chúng ta thoát ra cảnh sống đau khổ, thoát ra cái cảnh sanh tử luân hồi, cái cảnh thọ những cái cảm giác đau đớn, thoát ra khỏi những cảnh đó.
Vì thế mà, trên cái sự gian nan cực khổ nào chúng ta cũng không từ nan, để mà chiến đấu lại cái đời sống, cái con người của chúng ta, để làm chủ được cái sự sanh tử luân hồi đó.
Cho nên một cái người mà có trí tuệ, có sự hiểu biết, thì chúng ta sẽ nhìn cái đời nó chẳng có đáng một đồng xu nào hết, cái cuộc sống của con người bây giờ nó không có đáng một đồng xu nào hết. Mà chúng ta phải trở về làm chủ, đòi lại cái quyền làm chủ của chúng ta trong sự sống chết này. Còn nếu không thì chúng ta chỉ là một con người nô lệ cho cái sự sanh tử luân hồi này. Nó làm gì thì chúng ta cũng chịu đầu hàng trước nó chớ chúng ta không sao mà làm chủ được hết.
(34:22) Cho nên ở đây, trong cái vấn đề tu tập, thì các con cũng phải hiểu rằng tu thì gian nan, nhưng mà vì nó giải phóng được cái đời sống của con người ra khỏi những cái đau khổ đó, thì chúng ta gian nan nhưng mà chúng ta phải có một (sự) trường kỳ đấu tranh để mà chúng ta vượt ra cái gian nan này, chúng ta để độc lập được cái sự sanh tử luân hồi của chúng ta chớ!
Đó là những điều mà thầy khuyên nhắc. Đừng có thấy cái lạc, cái cám dỗ của thế gian mà tưởng là nó là hạnh phúc đâu. Nó không hạnh phúc đâu. Đó là miếng mồi để cho loài tôm cá, cái loài háu ăn để mắc bẫy nó mà thôi, mắc câu nó mà thôi. Cái lạc của thế gian mà chúng ta ngỡ rằng sung sướng, thì cái đó là cái miếng mồi do nhân quả nó câu nhắc chúng ta đó.
Nếu người nào mà tâm không dứt khoát được mà ham miếng mồi đó, sẽ bị mắc cái lưỡi câu đó, và sẽ bị vào cái rọ, vào cái lờ của những người chuyên săn bắt các loài vật. Thì chúng ta chẳng qua là những cái người ngu si mà không thấy được cái lưỡi câu, không thấy được cái rọ, không thấy được cái bẫy, nhào đó để mà háu ăn, thì nhào đó là chúng ta thấy càng khổ, càng đau khổ hơn.
Thử hỏi ai xung quanh chúng ta đây, ai người nào cũng đang ở trong cái bẫy rọ đó, thì thử hỏi ai là người thoát ra bẫy rọ này? Ai là người mà đang thoát ra được cái lưỡi câu móc này? Nhìn chung đây có ai thoát ra chưa? Chưa, chúng ta còn đang bị mắc cái lưỡi câu đó, làm sao mà chúng ta gỡ ra cho được?
Cách thức hôm nay, Đức Phật dạy chúng ta cách thức để ra gỡ những cái lưỡi câu đang móc vào miệng chúng ta đây.
Chúng ta đang giãy chết đây, chúng ta không thấy hàng ngày tâm và thân chúng ta từng vô thường, để chứng tỏ rằng sự giãy giụa, trên cái sự chết chóc của chúng ta, trên cái sự đau khổ của chúng ta, thế mà chúng ta vui, chúng ta thấy đó là những cái miếng mồi thơm ngon. Nhưng đó là những cái gạt gẫm của những cái tay vô thường, những tay săn bắn, những cái tay săn mồi này nó đã gạt chúng ta đó.
Cho nên chúng ta phải sáng suốt, phải thông minh, để mà chúng ta tìm mọi cách với cái con đường hướng mà Đức Phật đã gỡ được cái lưỡi câu của thế gian, mà Đức Phật xưa kia cũng đã bị mắc phải, chớ không phải là không mắc.
(36:50) Hỏi: “Về Định Niệm Hơi Thở con vẫn giữ thời gian ba mươi phút tâm yên lặng không tạp niệm, có sức tỉnh thức hơn trước, nhưng chưa đạt được sự vắng lặng. Có phải con xả tâm chưa sạch không thưa Thầy?”
Ở đây, cái người tu mà ngồi nhiếp tâm ba mười phút mà không có tạp niệm, tức là không vọng tưởng, tâm rất yên lặng, đó là một thời gian phải tu tập hết sức. Thầy muốn nói như thế này cho các con hiểu này.
Cái thời gian mà các con về đây tu tập với thầy, các con nhớ kỹ, là từ khi mà Thầy biết rằng cái Định Niệm Hơi Thở nó quan trọng như thế nào, mà Thầy đã dạy các con về cái Định Niệm Hơi Thở, từ cái ổn định hơi thở, để sống cho được trong cái hơi thở bình thường, rồi tập cái hơi thở để làm cái tụ điểm, rồi bây giờ, cho đến bây giờ thì chúng ta đã quen với cái hơi thở.
Thầy nghĩ rằng trong suốt ba năm mà các con luyện tập với hơi thở, mà hôm nay ba mươi phút không tạp niệm, chỉ duy nhất trong cái hơi thở bình thường của mình, thở ra thở vô nhẹ nhàng, đó cũng là kết quả rất lớn của các con rồi đó.
Đừng nghĩ rằng ba mươi phút không tạp niệm và được ở trong một cái sức tỉnh thức, ở trong cái yên lặng này không phải là một chuyện dễ làm, mà phải có công tập luyện hết sức mới được, có tâm tha thiết nỗ lực mới tu tập.
Nhưng các con đừng lầm, đừng để cho thân các con dao động ở trong ba mươi phút này, hoặc là một giờ này, thì cái sai của các con sẽ đưa các con đi vào biển chết, chớ không còn cái biển thiền định nữa đâu.
Cho nên hãy giữ thân tâm bất động, yên lặng như là pho tượng, như là gộc cây, như là tảng đá, thì các con mới tiến sâu được vào thiền định, còn nếu không thì không thể nào tiến vào được thiền định.
Đáp: “Chỗ đạt được tâm vắng lặng có hai phần.”
Ở đây muốn nói về cái tâm yên lặng, thì ba mươi phút không vọng tưởng, nhưng mà từ chỗ cái yên lặng nó phải đi đến cái chỗ vắng lặng.
(39:02) Ở đây thì cái câu hỏi có hỏi Thầy: “nhưng chưa đạt được sự vắng lặng, có phải con xả tâm chưa sạch không thưa Thầy?”
Nghĩa là trong khi được cái tâm yên lặng không vọng tưởng ba mươi phút, nhưng bây giờ nó tu mãi mà nó không đạt được cái sự vắng lặng, cho nên mới hỏi Thầy, chớ không phải nói nó đã đạt được ba mươi phút yên lặng như thế này kia.
Bây giờ con đã đạt được ba mươi phút yên lặng, nhưng cái trạng thái vắng lặng con vẫn tu, vẫn hướng mà nó không vắng lặng. Như vậy là tại tâm con chưa xả, hay là con tu nó chưa tới mức nào mà nó chưa được đạt vắng lặng?
Cho nên ở đây Thầy đáp ngay liền cái câu hỏi chính của nó là ở chỗ chuẩn bị cho cái tâm của mình vắng lặng, mà mình chưa đạt được vắng lặng.
Đáp: “Chỗ đạt được tâm vắng lặng có hai phần. Một là sáu thức phải bám cho thật chặt ở tụ điểm.”
Nghĩa là cái phần thứ nhất, muốn đạt được cái trạng thái tâm vắng lặng thì thứ nhứt là sáu cái thức phải bám chặt cái tụ điểm.
Nó có ba phần chớ không phải hai phần, nó có ba phần. Cái phần thứ nhất thì phải bám chặt, sáu cái thức bám chặt cái tụ điểm.
Cái phần thứ hai là: “Pháp hướng phải cụ thể và rõ ràng.”
Nghĩa là mình trạch pháp cái pháp hướng, mình nhắc cái tâm bám cho chặt như thế nào đó, và hướng tâm: “Cái nhĩ căn của mình phải quay vào trong, đừng có nghe ra ngoài!”
Thì do cái chỗ pháp hướng này mà nhắc cho đúng tên, đúng họ, đúng cái trường hợp của nó, thì cái tâm bám chặt và cái pháp hướng cho cụ thể, thì cái tai nó sẽ gom lại, nó không nghe bên ngoài, thì cái âm thanh sẽ vắng lặng.
“Ba là phải tiếp tục xả tâm bằng Định Vô Lậu.”
Nghĩa là ba cái trường hợp ở đây, ba cái điều kiện, ba cái phần, thì phần thứ nhất là phải bám chặt tụ điểm, phần thứ hai là pháp hướng phải cụ thể, phần thứ ba là phải xả tâm.
Nếu một người muốn tu vắng lặng mà luôn luôn tiếp duyên, mà tâm nó giận hờn phiền não, thì cái sự vắng lặng này cũng không đạt được. Dù cái pháp hướng có đến mức độ nào, có đúng cách nào đi nữa, có cụ thể cách nào nó cũng không làm sao mà cái tâm nó vắng lặng được. Đó.
(41:20) Mà bây giờ tiếp tục xả tâm bằng Định Vô Lậu, nghĩa là:
“Nếu có đối tượng thì mình xả tâm bằng nhân quả, mà nếu không đối tượng thì mình xả tâm bằng Định Vô Lậu.”
Như vậy thì các thầy thấy, cái chỗ mà tiếp tục xả tâm này nó có hai phần nữa. Cái phần mà xả nó bằng nhân quả, nghĩa (là) người ta chửi mình, mình thấy nhân quả, là đây là mình vay người ta, người ta chửi mình, do đó cái tâm mình xả liền. Mình thấy liền: đây là cái nhân quả mà đời trước mình đã tạo, đời nay mình phải gánh chịu cái quả này, cho nên mình vui vẻ mà để trả cái quả này, cho nên mình xả được tâm liền.
Đó là mình phải thấy, tiếp tục xả tâm thì nó bằng hai phần, hai lối. Lối thứ nhất là có đối tượng thì xả bằng nhân quả. Lối thứ hai thì mình phải xả bằng Định Vô Lậu, bằng pháp hướng: “Tâm như cục đất, không có tham sân si nữa!” Nhắc nó như vậy, cho nên đến khi mà nó gặp tham, sân, si thì nó không tham, sân, si nữa.
Đó là mình phải xả hai phần. Bởi vì có lúc mình có đối tượng, còn có lúc mình không đối tượng thì mình lấy cái gì mình tu? Mình ngồi không thì nó uổng phí thời gian. Cho nên không có đối tượng thì mình tu Định Vô Lậu để mà xả tâm, mà có đối tượng thì mình tu bằng nhân quả thì cũng xả tâm, mình cũng đoạn dứt được các pháp ác đó.
(42:39) Hỏi: “Thưa Thầy! Ba pháp môn: Định Diệt Tầm Diệt Tứ, hai là hướng tâm tịnh chỉ Tầm Tứ, ba là tịnh chỉ Tầm Tứ, nó khác nhau thế nào? Xin Thầy giảng cho con được rõ!”
Nghĩa là ba cái pháp này thì Hải Tâm hỏi Thầy: định diệt Tầm diệt Tứ, và hướng tâm tịnh chỉ Tầm Tứ và tịnh chỉ Tầm Tứ nó khác nhau, giống nhau như thế nào?
Nó sẽ hỏi thêm Thầy:
“Chỗ con hiểu còn Tứ là còn tác ý ra để diệt Tầm, tịnh chỉ Tứ là không còn hướng tâm nữa. Vậy mà Tứ Nhị Thiền đến Tứ Tam Thiền đều phải dùng pháp hướng.”
Nghĩa là từ cái chỗ mà phải tác ý ra mà dùng cho cái Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền, lẽ ra thì bây giờ cái Nhị Thiền mình diệt Tầm Tứ rồi, thì bây giờ tới Tam Thiền thì bây giờ diệt rồi mình lấy gì mà tác ý ra nữa, tức là làm sao có Tứ nữa mình tác ý ra để mình nhập Tam Thiền? Mình đã nhập xong rồi, mình diệt Tầm Tứ rồi, thì mình làm sao mà mình tác ý ra để mình nhập Tứ Thiền? Ý nó muốn hỏi Thầy chỗ đó.
Nghĩa là bây giờ diệt Tầm Tứ rồi, là mình không còn tác ý ra nữa. Thì khi mình nhập Nhị Thiền diệt Tầm Tứ rồi, thì như vậy là khi mà nhập Tam Thiền, thì đã diệt Tầm Tứ rồi thì đâu có lấy gì mà mình lại hướng tâm mình tác ý ra nữa để mình nhập Tam Thiền được?
Vậy thì từ cái trạng thái của diệt Tầm Tứ đó thì chúng ta kéo dài cái trạng thái đó, thì chúng ta sẽ nhập Tam Thiền chớ gì? Ý muốn nói vậy. Và đồng thời chúng ta sẽ ở trong cái trạng thái Tam Thiền, chúng ta kéo dài ra nữa thì chúng ta sẽ nhập Tứ Thiền chớ gì? Ý nó như vậy.
(44:28) Cho nên nó không tác ý ra được nữa. Và nếu mà không tác ý thì chúng ta ở trong một cái trạng thái của Nhị Thiền diệt Tầm Tứ đó, chúng ta cứ kéo dài hoài, ngồi cứ tăng lên, tăng lên từ giờ này đến giờ khác thì sẽ nhập Tam Thiền và sẽ nhập Tứ Thiền?
Hầu như người ta nghĩ rằng mình kéo dài cái thời gian của một cái trạng thái diệt Tầm Tứ đó thì nó sẽ, lâu ngày, lâu nhiều giờ ra, thì nó sẽ nhập những cái thiền cao hơn. Còn cái mới mà chúng ta nhập một giờ, hai giờ, mà diệt Tầm thì coi như là Nhị Thiền, mà từ tám giờ, mười giờ thì coi như Tam Thiền, mà ngồi được một ngày, hai ngày coi như là Tứ Thiền. Ý nó hỏi như vậy đó.
Nghĩa là chúng ta thường nghĩ rằng khi nào cái tâm nó hết vọng tưởng rồi, chúng ta cứ ngồi hoài, ngồi hoài, ngồi nhiều chừng nào thì chúng ta sẽ nhập được thiền định cao chừng nấy, chớ không có gì khác hơn hết. Đó là cái hiểu chung của mọi người trong cái thời đại (này), không có đúng cách đâu!
Đáp: “Thật là con điên đảo!”
Nghĩa là hỏi câu hỏi đó là rất là điên đảo đó, chưa thấy được cái thiền định đó.
“Định Diệt Tầm Tứ là một cái tên khác của Nhị Thiền.”
Phải không. Bây giờ cái tên của nó đó, gọi là định Diệt Tầm Diệt Tứ. Thì nghe cái tên định Diệt Tầm Diệt Tứ thì chúng ta biết đó là cái định Nhị Thiền.
Thay vì chúng ta thấy hai cộng hai bằng bốn, thì “bốn” nó là cái tên “bốn”, mà hai cộng hai thì cũng là bốn, cho nên hai cái này nó chỉ là một chớ không hai. Cho nên nói là định Nhị Thiền thì người ta nói cái tên Nhị Thiền đó, cũng như người ta nói “bốn” là cái số bốn đó, thì chúng ta biết rằng hai cộng hai thì nó cũng là bốn đó.
Cho nên nói định Diệt Tầm Diệt Tứ thì đó là cái tên để chỉ cho cái định Nhị Thiền. Đó thì chúng ta biết liền à, hễ nói định Diệt Tầm Diệt Tứ chúng ta biết là Nhị Thiền. Cho nên vì vậy mà chúng ta thấy nó không có khác.
(46:39) Bây giờ đến cái câu thứ ba nó hỏi cái chỗ mà hướng tâm tịnh chỉ Tầm Tứ có khác với chỗ cái định Diệt Tầm Diệt Tứ này không? Bởi vì “tịnh chỉ” nó cũng là ngưng cái Tầm Tứ, rồi Diệt Tầm Diệt Tứ nó cũng ngưng cái Tầm Tứ. Phải không. Bây giờ cái hướng tâm tịnh chỉ Tầm Tứ này. nó có khác với cái định Diệt Tầm Diệt Tứ này không?
Cái hướng tâm tịnh chỉ Tầm Tứ này nó khác chớ nó không giống. Ở đây Thầy nói:
“Thật là con điên đảo, định Diệt Tầm Diệt Tứ là một cái tên khác của Nhị Thiền. Nó không phải là pháp hành để con tu tập nó, nó chỉ là một danh từ để chỉ định.”
Thí dụ như nó Diệt Tầm Diệt Tứ là chúng ta biết rằng cái tên đó…
(Xem tiếp ở Pháp hành 21)
HẾT BĂNG
PHÁP HÀNH 21- CHIA NHỎ THỜI KHÓA ĐỂ SỐNG TRỌN VẸN TRONG PHÁP
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Thời gian: 1998
(Tiếp theo Pháp hành 20)
(00:00) Cái định mà nó diệt Tầm diệt Tứ thì nó là Nhị Thiền.
“Nó không phải là một pháp hành để con tu tập, nó chỉ là một danh từ chỉ định.”
Nghĩa là bây giờ, nói cái tên định Nhị Thiền thì nó không phải là một cái pháp hành, mà nói định Diệt Tầm Diệt Tứ thì nó cũng không phải là cái pháp hành. Nó chỉ là một cái tên để cho chúng ta xác định biết rằng cái chỗ đó là phải làm cái đó, diệt cái đó. Nhưng mà cái nào, cái hành động nào diệt, thì nó chưa.
Nó phải tới cái định gì để mà diệt nó đây? Các con phải hiểu, nhiều khi các con nghe cái đó rồi các con tưởng đó là cái định, đó là tu (như) vậy. Nghĩa là thí dụ như người ta nói định Diệt Tầm Diệt Tứ thì mình phải có một cái hành động nào để làm, thì cái hành động đó nó làm như thế nào, thì có cái định nào đó để mà làm cái định Diệt Tầm Diệt Tứ?
Cũng như bây giờ nói cái định Diệt Tầm Diệt Tứ, thì bắt đầu bây giờ chúng ta phải tu cái định Chánh Niệm Tỉnh Giác Định hoặc cái Định Niệm Hơi Thở thì nó mới có Diệt Tầm Diệt Tứ, chớ đâu phải là cái Định Diệt Tầm Diệt Tứ này là nó diệt được.
Nó là cái tên để chỉ, cũng như nói bây giờ cái Nhị Thiền, thì cái tên Nhị Thiền chớ nó không có cái hành động để mà làm cho nó diệt Tầm Tứ. Cho nên đến cái định, mà nói tên cái định Diệt Tầm Tứ, thì nó rõ ràng hơn là cái tên Nhị Thiền một chút.
Nhưng mà nói cái diệt Tầm Tứ, thì chúng ta biết nó là Nhị Thiền, mà nói Nhị Thiền thì chúng ta biết là diệt Tầm Tứ. Nhưng mà nói diệt Tầm Tứ, thì để biến ra cái hành động tu tập, cái pháp môn tu tập, thì nó không phải hai cái tên này mà tu tập được, mà nó phải có những cái pháp môn, như cái pháp môn Định Chánh Niệm Tỉnh Giác.
Cái Chánh Niệm Tỉnh Giác thì các con thấy diệt Tầm Rứ chớ gì. Đi mình biết mình đi, mình cứ nhớ mình đi mà mình không có nghĩ tưởng cái gì trong đầu, mà mình không tác ý ra nữa, thì đó không phải là diệt Tầm Tứ sao, phải không? Nó cái pháp môn làm cho cái tâm chúng ta chú ý ở trong cái bước đi, cho nên cái Tầm Tứ nó không có nữa. Phải không?
(1:55) Cho nên đó là cái định Diệt Tầm Diệt Tứ. Bây giờ chúng ta muốn diệt Tầm diệt Tứ thì có cái định thứ hai nữa, đó là cái Định Niệm Hơi Thở.
Bây giờ mình biết hơi thở ra, biết hơi thở vô nè, không có nghĩ gì hết, đầu không nghĩ gì hết, cái tâm cũng không tác ý ra gì hết. Nó chỉ duy nhất có cái tâm mình, thường xuyên nó tuệ tri cái hơi thở, tức là nó biết hơi thở ra, biết hơi thở vô. Thì lúc bấy giờ đó là Diệt Tầm Diệt Tứ chớ gì?
Cái hành động mà giữ được cái hơi thở vậy, gọi là định Diệt Tầm Diệt Tứ. Thì cái Định Niệm Hơi Thở, nó là cái phương pháp, cái cách thức làm cho diệt Tầm Tứ, chớ không phải là cái định Diệt Tầm Diệt Tứ mà nó có cái tên mang như vậy chớ nó không có cách thức diệt!
Các con hiểu như vậy, tức là biết được cái pháp hành, chớ không khéo mình nghe cái Nhị Thiền thì mình nói Nhị Thiền, không biết cách tu ra sao hết.
Hễ nghe nói Nhị Thiền thì tui biết là phải tu cái gì: Chánh Niệm Tỉnh Giác Định nè, Định Niệm Hơi Thở nè, thì tui biết đó là cái pháp tu để mà diệt Tầm Tứ, tui biết liền. Cho nên nói cái danh từ định Diệt Tầm Diệt Tứ cũng chỉ là một cái tên của Nhị Thiền mà thôi.
(3:00) Còn nói về hướng tâm để tịnh chỉ Tầm Tứ, thì bây giờ tui trạch pháp ra một cái câu, để tui nhắc cái tâm tui, trở thành một cái ức chế bằng sức lực của tâm tui, tui làm cho Tầm Tứ nó tịnh. Thì bây giờ tui như thế nào?
Bây giờ tui nhắc nè: “Sáu cái thức phải quay vào trong cái trụ điểm! Cái tâm thức phải biết hơi thở ra vô cho rõ ràng! Tầm Tứ phải diệt, không được khởi niệm nữa!” Thì đó là tui trạch pháp cái câu đó. Thì câu đó như vậy, nó có cái tên là “hướng tâm tịnh chỉ Tầm Tứ”, các thầy hiểu không?
Cho nên cái “hướng tâm tịnh chỉ Tầm Tứ” nó không phải là cái định Diệt Tầm Diệt Tứ, nó đâu có giống nhau, nó khác nhau. Đó là cái pháp hướng để nó hỗ trợ cho cái Chánh Niệm Tỉnh Thức, hay hoặc là hỗ trợ cho cái Định Niệm Hơi Thở, rõ chưa?
Cho nên nó hỗ trợ, nó nhắc, để rồi cái tâm nó quay vô liền, quay vô nó bám chặt cái hơi thở, do đó mà thở mình biết mình thở ra thở vô.
Cũng như mình nhắc “Đi kinh hành tui biết tôi đi kinh hành”, hay hoặc “Thân tôi hành tui biết nó đang hành”, nó đang đi: “Tôi biết thân tôi đang đi”. Tôi nhắc như vậy, và đồng thời “Tầm Tứ phải diệt, không được khởi niệm ra nữa!” Đó, tui nhắc như vậy, tức là tui đi như vậy là tui diệt Tầm Tứ đó.
(4:14) Đó, cái chỗ đó gọi là cái lời hướng tâm, mà nhắc như vậy đó, để tu tập, để trở thành một cái đạo lực, để mà khi nhắc nó một cái là nó tịnh chỉ liền, thì đó là “hướng tâm tịnh chỉ Tầm Tứ”.
Đó, đây là, còn đang ở trên bước đường tu tập cho nên khi vào là hướng tâm, và thỉnh thoảng hướng tâm để cho nó theo cái lệnh truyền đó mà nó tịnh chỉ Tầm Tứ. Đó là cái pháp tu, cũng như cái Chánh Niệm Tỉnh Giác là một cái pháp tu, cũng như cái Định Niệm Hơi Thở là một cái pháp tu.
Còn cái tên định Diệt Tầm Diệt Tứ là cái danh từ chớ nó không phải là cái pháp tu. Cũng như định Nhị Thiền là một cái danh từ để chỉ cho cái định đó là thiền thứ hai, nó cũng không phải là cái pháp tu. Nó là cái tên để chỉ cho cái định, mà cái định đó là chúng ta phải tu những cái định khác để cho nó làm cho được cái định đó, được cái tên đó.
Cũng như bây giờ đó, mình muốn trở thành một bác sĩ thì mình phải có trường lớp học tập, thì người ta mới gọi mình bác sĩ. Thì cái tên bác sĩ không có nghĩa là nói cái tên bác sĩ đó là người nào cũng gọi là bác sĩ được, thì đưa cái dao biểu họ vô mổ xẻ người khác họ mổ được không? Họ mổ chết người ta còn cái gì.
Cho nên muốn cầm cái dao mà mổ người ta được, thì cái người này phải học tập, phải rèn luyện cái tay của họ cắt như thế nào. Bây giờ cái bệnh đó phải cắt mổ như thế nào, thì cái người bác sĩ đó người ta đã học, người ta biết người ta cắt. Đem cái ông đồ tể vô ông mổ một cái chết người ta còn gì!
Đó, thì như vậy rõ ràng là chúng ta muốn đạt được thành bác sĩ chúng ta phải học. Cũng như bây giờ mình không học bác sĩ mà vô cái chỗ bán thuốc tây, cái thứ nào mình cũng lấy uống hết, chắc có lẽ mình chết luôn. Phải không?
(5:59) Cho nên mình phải học bác sĩ mình mới biết cái thứ thuốc nào để trị bệnh gì, bệnh gì. Do đó bây giờ nó ho là mình vô đó lấy cái thuốc này là thuốc ho, thuốc này thuốc gì, mình lấy những thuốc này mình hợp lại, người bệnh này về uống cái hết. Còn nếu mà mình không biết, thì nghe cái tên bác sĩ thì mình tưởng là tôi cũng lấy cái tên được chớ gì, kêu tôi bác sĩ, nhưng mà mình vô lấy thuốc cho người ta uống chết thì sao?
Cho nên mình không có học, mình không có tập luyện thì không phải. Đó là mình phải phân biệt được như vậy mình mới thấy được cái chỗ tu của mình.
Đó là cái pháp hướng tâm tịnh chỉ Tầm Tứ, với định Diệt Tầm Diệt Tứ nó không giống nhau chút nào hết. Ở cái chỗ pháp hướng tâm là cái pháp hành, còn cái định Diệt Tầm Diệt Tứ nó là cái danh mà thôi.
Rồi đây tới chỗ cái này nữa, câu thứ ba hỏi “tịnh chỉ Tầm Tứ”, hỏi giống nhau không hay khác nhau? Thì Thầy nói, ở “tịnh chỉ Tầm Tứ” lại khác nữa. Nghĩa là hướng tâm tịnh chỉ Tầm Tứ là con đường chúng ta tu, đang tu tập với cái pháp môn tu tập chưa thành tựu, còn tịnh chỉ Tầm Tứ là đã thành tựu rồi.
Nghĩa là bây giờ Thầy muốn nhập Nhị Thiền, Thầy hướng tâm Thầy nhắc: “Tầm Tứ phải tịnh chỉ, cái tâm này phải nhập vào Nhị Thiền”. Thầy ra lệnh như vậy rồi bắt đầu Thầy ngồi, cái nó vô trong cái định đó liền, thì tức là đó là tịnh chỉ Tầm Tứ. Tịnh chỉ cho nên nó không còn, nhắc nó thôi chớ không còn hướng tâm để mà tu tập.
Phải phân rõ được như vậy chúng ta mới thấy được cái pháp hành của Phật rất là khoa học, rất là kỹ thuật, chớ đâu phải mà… Chớ không khéo chúng ta nhầm cái tên rồi cái chúng ta cũng nghĩ đây là cái pháp tu. Cho nên nhiều người cứ học cái danh từ, cái tên đó rồi mà không có biết cái hành nó ra chỗ nào.
Còn ở đây Thầy chỉ thật sự, cái pháp hành là hành chỗ nào, mà cái danh từ để chỉ cái pháp đó như thế nào? Nó cụ thể rõ ràng như vậy đó. Thế mà người không có kinh nghiệm tu hành thì không vạch được cái chỗ này. Lấy tên làm pháp mà tu hành thì Thầy thấy thiệt là cái người điên, người điên đảo thật.
(7:59) Cho nên ở đây thật sự ra Thầy nói Hải Tâm điên đảo là phải. Cho nên nó cứ ngỡ tưởng ở trong có một cái Nhị Thiền, có trạng thái diệt Tầm Tứ, rồi cứ kéo dài ra là nhập Tam Thiền, Tứ Thiền. Thiệt ra thiệt là điên đảo, chưa thấy.
“Hướng tâm tịnh chỉ Tầm Tứ là một phương pháp.”
Nghe cho kỹ, Thầy tóm lược lại để nghe cho kỹ:
““Hướng tâm tịnh chỉ Tầm Tứ” là một phương pháp rèn luyện đạo lực để diệt Tầm Tứ, đây mới chính là pháp hành của con.”
Nó là cái pháp hành mà.
““Tịnh chỉ Tầm Tứ” là một kết quả tu hành của con đã viên mãn ở mức thiền định của Nhị Thiền này.”
Nghĩa là mình ra lệnh thì chỗ đó nó diệt Tầm Tứ, cho nên do đó mà mình nhập vào cái Nhị Thiền. Đó là cái kết quả của cái pháp hướng, cho nên nó không còn nói hướng tâm nữa mà nó chỉ “tịnh chỉ Tầm Tứ”, nó làm cho ngưng liền, nó ra lệnh làm cho ngưng liền.
“Tịnh chỉ Tầm Tứ là một định lực của Nhị Thiền.”
_ Nghĩa là Nhị Thiền thì chúng ta đã thấy rằng Tầm Tứ nó diệt được, tức là đó là một cái sức định của nó, cho nên do đó chúng ta chỉ ra lệnh “_Tịnh chỉ Tầm Tứ!” là ngay đó cái định lực nó thực hiện liền ngay cái chỗ trạng thái Nhị Thiền đó.
“Tịnh chỉ Tầm Tứ là một lệnh truyền đã viên mãn sau những ngày tu tập với pháp hướng tâm diệt Tầm diệt Tứ.”
Đó các thầy nghe rõ chớ? Thầy nói về cái tịnh chỉ Tầm Tứ, Thầy có phân biệt ba cái tướng trạng của nó, để cho chúng ta rõ biết ở chỗ tịnh chỉ Tầm Tứ.
Cái thứ nhất của nó là: “tịnh chỉ Tầm Tứ là một kết quả tu hành, con đã đạt viên mãn ở mức thiền định này.”
Thiền định này là thiền định Nhị Thiền đó.
“Tịnh chỉ Tầm Tứ là một định lực của Nhị Thiền.”
Cái trước thì chúng ta nói là kết quả viên mãn của con đường tu tập của mình. Cái kế nữa đó là một cái sức định lực, tức là tịnh chỉ Tầm Tứ là một cái sức định lực.
(9:57) Và cái cuối cùng là một cái lệnh truyền nó đã viên mãn, tức là chúng ta nói lên một cái là nó làm theo đó, tức là cái lệnh truyền. Cho nên tịnh chỉ Tầm Tứ có ba phần để chỉ cho cái kết quả của nó.
Cái kết quả thứ nhất của nó đó, là tịnh chỉ Tầm Tứ là kết quả tu hành, mình đã viên mãn, nghĩa là mình nhập được Nhị Thiền, đó là cái viên mãn của nó.
Tịnh chỉ Tầm Tứ mà để thấy cái kết quả thứ hai của nó đó, nói kết quả thứ hai của nó chứ sự thật ra thì nó là cái viên mãn của cái định lực, cho nên chúng ta dùng một cái tên là định lực, cái sức lực của định Nhị Thiền nó đã có rồi.
Rồi tịnh chỉ, cái nghĩa thứ ba của tịnh chỉ là cái lệnh truyền viên mãn, chúng ta ra lệnh là nó làm theo liền, đó là lệnh truyền viên mãn của một vị tướng soái điều khiển quân đội để mà chiến thắng được cái mặt trận nội tâm này.
Đó là chúng ta đã có cái người chỉ huy để mà sai khiến quân lính được rồi đó. Nghĩa là chúng ta ra lệnh mà nó nghe theo nó làm, đó là chúng ta trở thành một vị tướng soái chỉ huy rồi đó, chỉ huy mặt trận đó.
Còn nếu mà chúng ta chưa ra lệnh (được), mà lính tráng nó chưa cái nghe ta, thì tức là chúng ta chưa phải là sĩ quan đâu, còn là lính quèn đó. Cho nên vì vậy mà chúng ta phải học ở trường võ bị cho thông những chiến thuật chiến lược, để rồi khi mà ra tác chiến thì chúng ta truyền lệnh cho lính nó phải nghe theo.
Thì bây giờ như các con, các thầy là những người sĩ quan đang học tập những chiến thuật, chiến lược để mà tác chiến mà thôi. Rồi bây giờ chúng ta có tu tập cũng chẳng qua là tập mặt trận giả thôi chớ chưa dám mà đem mặt trận thật đánh đâu.
Chừng mà đem mặt trận thật đánh, bắt đầu thọ mà nó bung ra nó đánh, thật sự ra quý thầy phải thấy rằng, cái hành thọ mà nó đánh quý thầy thì quý thầy chạy mất chớ quý thầy không dám đâu.
Bởi vì nó đem cái lực lượng nó là cái thọ nó đánh ra, thì bằng chứng như quý thầy thấy Mật Hạnh, nó đánh ra cái Mật Hạnh bay. Minh Tông này nếu mà không có Thầy nó cũng bay tới Sài Gòn nó ở dưới chớ chưa chắc gì nó dám ngồi đây. Bởi vì khạc ra máu mà ai mà dám ngồi đó!
Cho nên nếu mà không thấy được thì khi mà chúng ta động tới nó rồi, bắt đầu nó đánh chúng ta đủ thứ đánh, chớ không phải nó đánh chúng ta một mặt đâu, nó đánh đủ thứ. Nó đem tất cả những cái lực lượng của nó ra nó đánh chúng ta.
(12:18) Cho nên chúng ta muốn làm chủ được sanh tử thì chúng ta phải biết được đủ cái chiến thuật chiến lược, cách thức tu tập cho nó rõ ràng, chớ không phải là sơ sơ.
Các con thấy biết bao nhà cách mạng mà không nắm được tình hình, không nắm rõ được, cho nên làm cách mạng đều bị tiêu diệt. Thì thí dụ như ông Phan Bội Châu, ông Phan Chu Trinh hoặc là ông Nguyễn Thái Học đều là bị tù đày, bị chết.
Mà rồi cái kết quả thành công cũng đâu phải chuyện dễ, nhưng dù sao đây đó cũng là một cái sự thúc đẩy cho toàn dân chúng ta đi đến chỗ chiến thắng. Nhưng cái người lãnh đạo mà không thấy được toàn diện, chiến thuật đối với cái thời đại, thì cũng khó mà thắng được lắm chớ không phải dễ.
Cũng như bây giờ chúng ta không thấy được cái nội tâm của chúng ta là cái hành thọ nó sẽ đánh chúng ta như thế nào? Nếu mà chúng ta thấy được toàn diện như vậy thì chúng ta chuẩn bị những cái chiến thuật chiến lược, chúng ta khi gặp tới nó thì chúng ta sẽ đánh nó bằng cái pháp nào, thì chúng ta sẽ chiến thắng hẳn hòi đàng hoàng.
(13:23) “Câu hỏi thứ hai, trong câu hỏi này, con còn điên đảo hơn nhiều: “Khi con nhập Nhị Thiền tịnh chỉ Tầm Tứ, thân tâm đang sống trong trạng thái Nhị Thiền. Vậy Nhị Thiền có phải là kết quả cuối cùng của đường tu chăng?””
Đó, câu hỏi Thầy hỏi lại đó, nghĩa là con có biết rằng cái Nhị Thiền đó là kết quả cuối cùng không? Chưa phải, mà con còn biết nó là Tam Thiền, Tứ Thiền, cho đến Tam Minh kia mà! Vì vậy cho nên đâu phải Nhị Thiền là một cái trạng thái diệt Tầm Tứ rồi mình cứ nằm ở trong đó?
Cho nên ở trạng thái Tầm Tứ này chúng ta không có ở trong đó nữa, chúng ta nhập được Nhị Thiền, nhưng mà chúng ta phải rời khỏi Nhị Thiền.
Cũng như bây giờ thí dụ như chúng ta mở mặt trận chúng ta đánh. Bây giờ chúng ta chiếm được một cái địa điểm nào đó rồi thì chúng ta nói đó là chúng ta giải phóng đất nước được sao? Nó còn biết bao nhiêu đồn bốt, còn biết bao nhiêu nơi, bao nhiêu tỉnh để mà giải phóng, thì lúc bấy giờ một chỗ cái tỉnh đó chưa hẳn đã là giải phóng được quê hương, cho nên chúng ta còn đánh nữa.
Cho nên Nhị Thiền nó chỉ chẳng qua là một cái đồn bốt nào đó thôi, mà chúng ta đã nhập được đó tức là chúng ta đã giải phóng được nơi đó mà thôi.
“Nếu ở trạng thái Nhị Thiền diệt Tầm Tứ thì con còn pháp nào hành trì để tiến tới Tam Thiền?”
Nếu mà nhập vào trong cái trạng thái Nhị Thiền đó, thì bắt đầu mình cứ ở trong cái trạng thái diệt Tầm Tứ đó, mình không có cái pháp nào nữa mà có thể mình tiến tới ở trong Tam Thiền được hết.
Mà nếu nói rằng kéo dài cái trạng thái của Nhị Thiền nó sẽ được Tam Thiền, thì không bao giờ có. Nó không bao giờ có cái chuyện đó xảy ra được. Bởi vì trạng thái Nhị Thiền thì nó ở mức đó thôi.
Cũng như bây giờ chúng ta ăn cơm với muối, mà bây giờ chúng ta chỉ có muối ăn cơm thôi, thì do đó bây giờ chúng ta chờ để có thịt thì không bao giờ mà có thịt hết. Chỉ có chúng ta phải làm ra tiền rồi đi mua thịt về kho thì chúng ta ăn mới có thịt thôi.
Chớ không có thể ngồi mà chờ, ăn muối mà chờ thịt ở đâu mà rớt xuống cho chúng ta ăn, thì cái chuyện đó không bao giờ có. Cho nên chúng ta phải đi làm lấy tiền, có tiền rồi mới mua thịt, mới về kho nấu.
Thì như vậy rõ ràng là chúng ta phải ra khỏi cái chỗ ăn cơm muối chớ. Chớ đâu phải rằng ngồi đó ăn cơm muối mà chờ đợi cho có thịt, cái chuyện đó không có được. Cho nên ở đây không có nghĩa là nhập Nhị Thiền, mà ngồi đó rồi ở trong trạng thái Nhị Thiền đó nó sẽ tới Tam Thiền.
“Con nên hiểu không phải kéo dài trạng thái Nhị Thiền là con nhập Tam Thiền, Tứ Thiền và nhập các định khác được. Nếu con nhập trạng thái Nhị Thiền dù một ngàn năm thì nó cũng ở trạng thái Nhị Thiền mà thôi. Cho nên con phải rời khỏi Nhị Thiền theo đường dây hơi thở, tiếp tục dùng pháp hướng tịnh chỉ.”
Một lát nữa thì Thầy sẽ giảng tới cái Định Niệm Hơi Thở thì các con sẽ thấy Đức Phật dạy cái đường dây hơi thở để mà chúng ta tu tập các định đó. Nó rất là cụ thể và viết rất là rõ ràng. Sau này thì các con sẽ nghiên cứu cái tạng kinh Nguyên Thủy, tức là tạng kinh Pali, thì các con sẽ rõ rằng những cái bài pháp đều là ở trong những cái tạng kinh này mà Thầy lấy ra giảng dạy cho các con hết.
(16:23) Và qua những cái kinh nghiệm của Thầy, Thầy nói ra thì các con đọc thấy dễ hiểu, mà nếu không có cái kinh nghiệm của Thầy, thì hầu như là các con sẽ đọc cái kinh này thì chẳng qua như những nhà học giả mà người ta đã từng viết, từng soạn ra nhiều cái bộ kinh nói về cái Nguyên Thủy này, mà nó chẳng có cái nghĩa lý gì cho chúng ta biết cuộc chiến đấu với nội tâm chúng ta hết.
“Cho nên con phải rời khỏi Nhị Thiền theo đường dây hơi thở, tiếp tục dùng pháp hướng tịnh chỉ mười tám loại tưởng thì con mới nhập được Tam Thiền. Khi nhập vào trạng thái Tam Thiền thì Tầm Tứ cũng diệt ở đó.”
Nghĩa là Tam Thiền Tầm Tứ nó cũng diệt chớ đâu phải ở đó nó có Tầm Tứ hoài sao? Mà trong khi mình ở trong cái dây hơi thở thì mình phải dùng Tầm Tứ để mình diệt nó, mà khi mình nhập vào Tam Thiền rồi thì Tầm Tứ nó cũng đâu còn, nó cũng mất.
Bởi vì Nhị Thiền là cái thiền thứ hai, nó không còn Tầm Tứ, thì thiền thứ ba nó cũng không có Tầm Tứ. Nhưng mà trên cái con đường đi để mà chiến đấu, thì chúng ta dùng chiến thuật chiến lược, bằng những cái phương pháp, như cái pháp hướng tâm, đó là một cái phương pháp để mà chúng ta chiếm đóng được cái Tam Thiền.
Mà muốn chiếm đóng được cái Tam Thiền thì chúng ta phải ở trên cái đường đi để mà chuyển quân của chúng ta đi vào cái Tam Thiền đó mới được, đường đi đó là đường đi của hơi thở.
Đó thì, nó phải có cái lộ trình chớ, chớ còn nếu mà không có cái lộ trình chúng ta biết đi đâu mà để mà chúng ta đi vào được cái chỗ đó. Cho nên ở đây nó có một cái đường hơi thở mà chúng ta đi, từ cái định này sang cái định khác đều là do cái đường hơi thở này mà đi tới.
Chớ không phải đi cái đường của trạng thái Nhị Thiền mà nó tới Tam Thiền được, mà phải đi cái đường hơi thở, rồi từ đó chúng ta sẽ vào cái nhà Tam Thiền.
(18:09) “Khi nhập vào trạng thái Tam Thiền thì Tầm Tứ cũng diệt, ở đó nếu còn Tầm Tứ thì con chưa nhập Tam Thiền mà còn đang ở trên đường đi của hơi thở.”
Nếu mà Tầm Tứ mình chưa diệt, tức là mình còn tác ý ra hoặc là vọng tưởng còn thì tức là mình chưa cái đạt được Nhị Thiền nữa. Kể như là trên con đường đi mà từ Nhị Thiền đến Tam Thiền, thì Tầm không bao giờ còn nữa, chỉ còn Tứ mà thôi, tức là còn pháp hướng.
“Nói đến định tức là nói đến diệt Tầm Tứ. Nhưng không dùng Tầm Tứ thì không nhập được định.”
Nói đến định tức là nói đến (diệt) Tầm Tứ, nghĩa là diệt Tầm Tứ thì mình mới có định, mà nếu không diệt Tầm Tứ thì không có định. Nhưng không dùng Tầm Tứ thì lạ không nhập được định!
Cái câu nói của Thầy rõ ràng: “nói đến định tức là nói đến diệt Tầm Tứ.” Nghĩa (là) định nào nó cũng có diệt Tầm Tứ hết, mà nếu không biết dùng Tầm Tứ thì không bao giờ nhập định. Cho nên cái người mà không biết dùng Tầm Tứ thì cái người đó, thiền đó chỉ là thiền tưởng mà thôi, cho nên không bao giờ nhập định được.
Đó là cái phần Thầy trả lời để thấy rằng cái đường đi, mà trên cái bước đường tu tập của chúng ta nó rõ ràng và cụ thể như vậy. Nó không thể nào mà sai được, nếu mà đi sai thì không bao giờ chúng ta tiến vào thiền định này nổi.
(19:38) Hỏi: “Thưa Thầy! Tâm con không khởi niệm, an lạc, thanh thản, vô sự, tức là Định Sáng Suốt. Tại sao định này không được là trợ pháp cho Tứ Chánh Cần?”
Cái Định Sáng Suốt tại sao Thầy không dạy, mà Thầy dạy cái Định Chánh Niệm Tỉnh Giác này, Định Niệm Hơi Thở, Định Vô Lậu là trợ pháp cho Tứ Chánh Cần, mà Thầy không dạy cái Định Sáng Suốt?
Mà cái định này rõ ràng là, thấy cái trạng thái nó sáng suốt, nó an lạc nè, nó thanh thản, nó vô sự nè, mà sao Thầy không dạy nó để mà giữ cái tâm như vậy thì nó cũng diệt ác pháp chớ gì? Đó, ý của Hải Tâm hỏi Thầy như vậy. Bây giờ Thầy đáp đây.
Đáp: _“Tứ Chánh Cần là ngăn ác diệt ác, vì thế phải hợp với ba loại định: Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, Định Niệm Hơi Thở, và Định Vô Lậu. Khi các ác pháp được đoạn dứt và không sanh khởi thì đó là thiện pháp. _
Mục đích của Tứ Chánh Cần là đạt được thiện pháp chớ không phải đạt được sự sáng suốt, nên Định Sáng Suốt không được kết hợp. Còn ba pháp kia hỗ trợ cho Tứ Chánh Cần ngừa ác đoạn ác…”
Phải không, các thầy thấy rất rõ chớ gì. Bây giờ mình cứ ngồi mình giữ cái tâm mình thanh thản nè, nó sáng suốt nè, nó không có cái gì, chuyện đó nó chưa phải đâu. Ở cái mức độ nào đó nó mới có giữ vậy.
Bây giờ giữ vậy nó không có ác pháp thật đó, nhưng chưa chắc đã giữ được. Không bao giờ mà chúng ta ngồi đó mà giữ cái sáng suốt này được đâu.
Cho nên chúng ta bây giờ, do cái hành động mà chúng ta đã tập trung được ở trong hành động. Hành động ngoại là thân của chúng ta làm gì biết cái nấy, nó ngăn được các ác pháp, mà hành động nội là cái hơi thở chúng ta, thì nó cũng ngăn được các ác pháp.
Nhưng bây giờ mình ngồi mình không có cái đối tượng nào hết, mà để cái tâm thanh thản an lạc thì cái sự đó là cái sự khác rồi, nó không phải ở cái giai đoạn này rồi, nó không phải ở chỗ cái giai đoạn của Tứ Chánh Cần.
Cho nên đem cái pháp này mà áp dụng cho Tứ Chánh Cần là sai rồi, cái người đó cứ ngồi giữ tâm như vậy là sẽ lạc đường mất rồi, không có đúng rồi.
Cho nên tới cái mức độ nào, là khi nó đã ly dục ly ác pháp rồi thì cái sáng suốt này nó mới có, chớ không phải bây giờ mà chúng ta ngồi giữ sáng suốt này.
(21:46) Cũng như một người mà ngồi giữ cái tâm đừng vọng tưởng, ngồi đây mà “giữ ông chủ” để cho cái tâm đừng vọng tưởng, thì chắc chắn cái việc làm này không bao giờ làm được.
Chỉ là một cái danh từ, nó không có cái pháp hành, cho nên cái trạng thái Định Sáng Suốt này nó chưa phải là cái chỗ mà chúng ta tu tập, nhưng nói để mà chúng ta biết, nó chưa phải lúc mà chúng ta tu tập. Còn tới chừng mà nó tới rồi, thì bây giờ chúng ta, tự cái tâm của nó nó quay vào, thì nó sáng suốt.
Thí dụ như bây giờ một người ly dục ly ác pháp rồi, tâm nó quay vô rồi, thì lúc bấy giờ họ sẽ ở trong cái Định Sáng Suốt đó. Và giờ này giờ kia họ giữ gìn cái gì, để mà cái Định Sáng Suốt này luôn luôn mãi, chớ không phải giữ sáng suốt!
Nếu một người được cái tâm mà nó quay vào rồi, thì đó là họ đã đạt được cái Định Sáng Suốt. Bây giờ muốn an trú cái Định Sáng Suốt này từ giờ này đến giờ khác, thì lúc bấy giờ họ phải giữ cái gì?
Họ phải giữ độc cư, họ không được đi tới đi lui, không được nói chuyện với ai hết, thì cái sáng suốt này nó còn. Mà nếu mà họ nói chuyện với người này, họ tiếp duyên người nọ, họ đi ra khỏi Tu viện, thì tức là cái Định Sáng Suốt sẽ mất.
Cho nên cái pháp hành của sáng suốt nó không phải là ở cái chỗ mà giữ cái sáng suốt, mà ở chỗ phải giữ độc cư, thì cái sáng suốt đó nó mới còn. Nhưng khi cái tâm của chúng ta nó đã ly dục ly ác pháp rồi, nó mới có sáng suốt, còn bây giờ nó chưa ly dục ly ác pháp thì nó không sáng suốt, nó cứ quay ra, nay nó nhớ cái này, lát nó nhớ cái kia, thì làm sao mà sáng suốt được?
Cho nên cái định này là cái định của người mà đã xả tâm, vì vậy mà lúc bấy giờ cái trạng thái sáng suốt nó hiện tiền, cho nên cái người này phải giữ cái pháp gì để giữ cái tâm này? Muốn giữ được nó thì cái người đó đừng phá độc cư.
Cho nên Mật Hạnh đã đạt được cái chỗ sáng suốt này mà không giữ được độc cư, tức là vì không giữ được độc cư, tức là không tu tập cái độc cư, cho nên bị cái hành thọ nó làm cho phá độc cư, từ đó nó mất cái Định Sáng Suốt đi.
Các con hiểu, Thầy nói rất rõ ràng và rất kỹ lưỡng. Mỗi một huynh đệ các con ở trong này có một sự sai để mà chúng ta đưa ra, để mà chúng ta thấy rằng cái sai của chúng ta, do đó mà chúng ta thiếu cái pháp hành ở đó mà chúng ta…
Mà Thầy bảo chết bỏ, nhất định là chết bỏ, nhất định là không sợ cái hành thọ. Thầy có nói với các con, cái thọ của chúng ta nó có cái hai phần rất rõ ràng, cái cảm thọ và cái hành thọ.
Một cái người mà bị bệnh đau đầu, bị bệnh mụn ghẻ, hay bệnh ung thư hay hoặc là bệnh phổi, đó là cái cảm thọ, cảm thọ của cái nghiệp. Còn một cái người mà không bệnh đau gì hết, mà nó đau cái này, nó đau cái kia, nó đau cái nọ, nó làm đủ thứ hết, con người thì vẫn bình thường, mà nó đau chỗ này, thậm chí như nó khạc ra máu hay hoặc này kia, điều đó gọi là hành thọ.
(24:32) Mà cái người tu mà cái tâm nó quay vô rồi, thì tức là cái hành thọ nó sẽ đến với nó, nó sẽ đập cho cái người đó phải bung ra đi, phải bỏ bớt cái Định Sáng Suốt đó đi.
Đó cho nên ở đây cái Định Sáng Suốt không thể trợ duyên cho Tứ Chánh Cần được, bởi vì cái Định Sáng Suốt này mà có được là do chỗ ly dục ly ác pháp, do cái chỗ Tứ Chánh Cần đã thực hiện được kết quả. Hiểu được như vậy thì chúng ta mới nắm rõ được các pháp hành của Đức Phật tu tập.
(24:59) Hỏi: “Thưa Thầy, tại sao khi làm việc như quét sân, tay thì vẫn làm liên tục nhưng ý cứ nghĩ về pháp, như phòng hộ sáu căn là phải làm như vầy, như thế này, còn thiểu dục tri túc thì phải lúc nào cũng biết đủ, không còn ham muốn gì nữa hết v.v… ?
Con nhắc như vậy có đúng không: “Ý thức ngưng đi, đừng có nghĩ nữa, mà phải biết việc đang làm mà thôi!” Một lúc con lại quên, nó lại nghĩ tiếp, việc tham sân phải như thế này, phải tu như thế này, phải như thế kia. Con lại nhắc như ra lệnh: “Quét sân tôi chỉ biết tôi quét sân mà thôi!””
Mình ra lệnh nó vậy thì nó bắt đầu nó đi mất, nhưng mà lát nữa cái nó quên nó lại nhớ, mà nó đâu có nhớ cái chuyện thế gian đâu, nó nhớ những cái chuyện pháp.
Nhiều khi chúng ta vì cái chỗ đó mà chúng ta lầm, chúng ta lầm rằng chúng ta đang nghĩ những cái pháp tu như vậy, đó là chúng ta tu cái Định Vô Lậu. Cho nên đó là cái sai của chúng ta đó.
Chúng ta bị cái gì đó, những cái đó gọi là vọng pháp, cái danh từ của nó gọi là vọng pháp. Khi mà mình đang làm, mình tu tập Tỉnh Giác Chánh Niệm này, mà nó có khởi ra một cái pháp gì nghĩ trong đầu của mình, để mà vô lậu hay này kia, thì cái đó bị vọng pháp.
Chưa phải là cái giờ phút chúng ta tu cái đó, mà nó lại hiện cái đó, tức là vọng pháp, cho nên nó làm cho chúng ta thất niệm ở trong cái pháp hành của chúng ta đang hành, cho nên chúng ta đã bị sai lệch, bị thất niệm mà chúng ta không biết!
“Thầy dạy luôn luôn lúc nào cũng sống trong pháp. Tâm con nó luận: Con tu như vậy không đúng, mất chánh niệm, giống như người độc cư mà nói chuyện, giống như người buôn bán mà đầu óc lúc nào cũng nghĩ mua cái này bán cái kia. Có đúng không thưa Thầy?”
(26:51) Ở đây thì các con thấy là cái nghĩ của Hải Tâm nó nghĩ, thì mình sống ở trong pháp như thế nào cho đúng?
Thí dụ như bây giờ Thầy đang sống ở trong cái pháp gì? Cái pháp Chánh Niệm Tỉnh Giác là Thầy đang quét sân, mà Thầy đang biết quét sân, tức là Thầy sống trong pháp. Mà bây giờ Thầy quét sân mà cái đầu Thầy nó lại nghĩ chuyện khác, thì như vậy là Thầy đã thất niệm ở trong cái pháp, tức là Thầy không sống trong pháp. Phải không? Cho nên Thầy bị thất niệm.
Do cái chỗ đó, mà nghĩ như thế thì giống như một người, nói thí dụ như cs một cái người độc cư mà nói chuyện. Ở đây cái độc cư không phải là cấm nói chuyện, mà nói chuyện đúng cách, ma nói chuyện tâm mình được an ổn. Còn nói chuyện mà làm cho tâm mình động, làm cho tâm mình nó không ly dục ly ác pháp, thì cái nói chuyện đó là cấm.
Do cái chỗ tu hành, quét sân mà cái tâm nghĩ chuyện khác, thì nói ví dụ như người độc cư nói chuyện, thì cái chỗ này nó cũng không đúng lắm. Là vì trong cái nói chuyện, nó có cái đúng, mà có nói chuyện phá độc cư, (có) nói chuyện mà không phá độc cư.
Đó thì, hôm nay thì chúng ta thấy trong cái sự tu tập coi chừng là chúng ta bị. Khi nào mà nó có niệm vọng tưởng tức là mình nghĩ chuyện đời, hoặc mình nhớ người này người kia, thì mình cho đó là sai. Nhưng bây giờ đó, nó lại nhằm vào những cái pháp mình đã học, rồi nó khởi ra, thì cái đó gọi là vọng pháp.
(28:32) Mà vọng pháp thì nó cũng gọi là vọng tưởng mà thôi, chớ không có gì hết. Bởi vì mình huân nó, thì bây giờ nó nhắc lại, mà nó nhắc lại trong không đúng lúc, là bấy giờ mình tu một cái định khác, mà nó xen vô nó làm cho mình thất niệm cái định đó, do đó nó là sai.
Còn bây giờ tới giờ Định Vô Lậu, thì mình ngồi mình quán xét, thì mình thấy: bây giờ phải diệt tham sân si như thế này, thế này, thế khác, cái cách này, cách này để diệt cho nó được, thì cái đó là Định Vô Lậu. Và cái sự quán xét mà tìm ra cách thức mà diệt cái tâm tham sân si của mình, thì đó là đúng. Còn cái giờ này là giờ tu Chánh Niệm Tỉnh Giác hay Định Niệm Hơi Thở mà nó nghĩ như vậy là không đúng.
Đáp: _“Khi thời gian quét sân con chia ra tu mấy loại định.” _
Trong cái thời gian mà quét sân thì mình phải chia tu làm mấy loại định, chớ không phải là mình quét sân rồi mình tu có một loại định là Chánh Niệm Tỉnh Giác Định đâu.
Nghĩa là nhiều khi chúng ta tu nương vào một cái hành động, mà chúng ta không phải tu ở trong cái tỉnh giác đó, mà chúng ta tu cái Định Vô Lậu, nương vào cái hành động quét sân mà chúng ta tu Định Vô Lậu. Nghĩa là chúng ta vừa quét mà vừa suy nghĩ những cái pháp để mà chúng ta diệt trừ cái tâm tham muốn của mình.
(29:41) “Khi thời gian quét sân con chia ra làm mấy loại định…”
Nghĩa là cái thời gian nó chia làm mấy loại định, trong mỗi loại định như vậy chúng ta tu mấy phút. Đó là cách thức mà chúng ta chia ra. Thì trong khi quét sân, thì chúng ta chia ra được cái thời gian đó rồi, thì bắt đầu chúng ta tu cái định gì trước, rồi kế cái định gì, định gì, thì lần lượt chúng ta chủ động điều khiển các định ở trong đó, để mà chúng ta chiến đấu với nội tâm của chúng ta.
“Đầu tiên con tu Chánh Niệm Tỉnh Giác hành động ngoại,”
Tức là cái hành động mình quét sân đó.
“Kế đến con kết hợp hành động nội…”
Tức là hơi thở với hành động ngoại, vừa là biết hơi thở mà vừa hướng tâm, nhắc cho biết cái hành động mình đang quét, kèm cái hơi thở để mà nhắc cái hành động mà mình đang quét, để cho nó kéo dài được cái sức tỉnh của mình ra mà không bị tạp niệm, không bị vọng pháp.
“…và hành động ngoại tức là con tu hai loại định: Chánh Niệm Tỉnh Giác Định và Định Niệm Hơi Thở. Sau cùng thì con tu Định Vô Lậu, vừa quét vừa tư duy…”
Tức là tư duy suy nghĩ.
“… đến các pháp để tìm cách ngăn ngừa, ngăn ác mà diệt ác.”
Nghĩa là mình xả tâm của mình.
Cho nên trong một cái thời gian tuy rằng, thí dụ như một giờ, mà mình có thể mình chia làm ba cái giai đoạn tu tập, hay là mình chia cái thời gian nó ba giờ đồng hồ, hay hoặc hai giờ đồng hồ, hay một giờ đồng hồ đó, cái thời gian đó mình chia làm sáu lần tu.
Thì bây giờ nó có ba cái loại định, thì mình chia, đầu tiên mình tu mấy phút mấy phút trong một cái loại định đầu tiên, thì mình định chừng như vậy. (31:15) Mình chỉ quét hết cái sân đó là cỡ độ chừng một tiếng đồng hồ, thì mình chia làm sáu lần tu như vậy.
Thì ba lần tu ba cái loại định liên tục đầu tiên, rồi kế đó mình tu trở lại ba cái loại định đó, cũng liên tục như vậy nữa. Thì như vậy là khoảng độ một giờ hay hoặc hết cái sân đó là mình đã tu sáu lần ở trong ba cái loại định này.
Đó là cách thức mình chia ra để mình tu. Mà mình tu như vậy thì cái tạp niệm nó sẽ không vô, và cái sức tỉnh mình nó càng tăng lên, và cái kết quả rất hiệu quả.
Còn mình để mình tu một loại định, thí dụ quét cái sân đó khoảng một tiếng đồng hồ, mà mình tu có Chánh Niệm Tỉnh Giác thì sẽ có những cái tạp niệm, và đồng thời pháp hướng mình có lúc nhớ, lúc quên, chớ chưa hẳn đã là nhớ hết.
“Sau cùng con tu Định Vô Lậu, vừa quét vừa tư duy, nghĩ đến các pháp để tìm cách ngăn ác diệt ác. Bấy giờ con trở lại định Chánh Niệm Tỉnh Giác.”
Tức là mình tu cái Định Vô Lậu rồi, thì bắt đầu mình còn đang quét sân nữa thì mình trở lại cái định Chánh Niệm Tỉnh Giác, thuần ở trên cái hành động quét sân.
Rồi kế đó thì mình kết hợp với cái hơi thở và cái hành động quét sân để mình tu tập cái Chánh Niệm Tỉnh Giác nữa. Rồi kế đó thì mình lại tu cái Định Vô Lậu, hay hoặc là mình kết hợp với cái quét sân đó, với cái hướng tâm, để mà, với cái Định Vô Lậu.
Thí dụ như mình nhắc như thế này: “Quán từ bỏ tôi biết tôi quét sân, quán từ bỏ tôi biết tôi quét sân.” Mình nhắc như vậy nghĩa là mình từ bỏ cái gì? Mình từ bỏ cái tâm lậu (hoặc) của mình, cái tâm tham sân si của mình.
Tức là mình kết hợp với cái Định Vô Lậu, để cho mình dùng cái pháp hướng đó mà mình lại nhắc mình biết quét sân. Lấy cái hành động quét sân đó làm cái sức tỉnh để cho cái tâm vô lậu đó nó xả ra.
Thì các con thấy chúng ta biết kết hợp cái pháp nào cũng được hết, mà muốn kết hợp như vậy thì nó phải có cái pháp hướng dẫn đầu, để cho cái tâm chúng ta biết rằng lúc bấy giờ chúng ta đang tu ở trong cái kết hợp đó, cho nên nó đưa đi đến chúng ta thuần tịnh và thuần xả cái tâm của mình.
“Nhất là con phải chủ động điều khiển thời gian tu định này đến định khác.”
(33:19) Nghĩa là cái thời gian mình phải chủ động, từ cái định này mình chuyển qua cái định khác đều là cái sự chủ động, chứ không khéo có cái niệm nào đó rồi bắt đầu nó tư duy cái niệm đó, thì bắt đầu mình chuyển qua bằng cái niệm nó dẫn mình vào đó thì mình tu cái Định Vô Lậu, thì cái đó là cái sai.
Hoặc là bây giờ bỗng dưng cái mình thấy cái hơi thở, nó thở ra, thở vô rõ ràng, tự nó đến mà mình không có chủ động cái thời gian để điều khiển để trong cái giờ đó là tu cái Định (Niệm) Hơi Thở. Bây giờ thấy hơi thở cái mình lo mình bám hơi thở mình tu, rồi lát nữa nó quên hơi thở, nó nhớ đi kinh hành thì mình nhớ mình đi kinh hành.
Tu cái kiểu đó là tu không làm chủ, cái tâm mình nó dẫn mình đi đâu là mình chạy theo cái định đó, chớ mình chưa biết cái gì hết, cho nên đó là những cái sai, không đúng.
“Ở trên con trình bày cách tu thì đúng, mà thời gian không chủ động nên thành thất niệm.”
Đó cái câu hỏi của nó, nó trình cho Thầy nghe cái sự tu tập của nó, thì cái cách tu, pháp hướng thì đều đúng. Mà cái thời gian chủ động để cho mình điều khiển được những cái pháp, từ pháp định này chuyển sang pháp định khác, thì nó lại biến trở thành vọng pháp, cho nên nó làm cho mình thất niệm.
“Tay làm việc, ý nghĩ về pháp, đó là vọng pháp, nên bảo:”
Nên mình dùng cái pháp hướng á.
“Nên bảo: “Ý thức ngưng đi, đừng có nghĩ nữa, mà phải biết việc đang làm!””
Đó là cái pháp hướng để khi mà nó bị như vậy, thì mình nhắc lại cái tâm liền, đừng có để, phá cái pháp đó đi, đừng có để cái pháp đó nó dính với mình.
“Sức của mình chưa sống trọn trong pháp…”
Tức là chưa có tùy pháp trọn vẹn 24 tiếng đồng hồ. Cái sức của mình, mình biết mình chưa có trọn vẹn, thì mình đừng có tu nhiều, mình hãy chia thời gian ra cho nó đều.
“… thì nên chia giờ giấc ra để sống từng phút từng giây cho trọn vẹn trong pháp.”
Cho nên sống mà trọn vẹn trong pháp, thì trong cái danh từ của Đức Phật, thì Đức Phật dùng là “tuỳ pháp”. (35:21) Tuỳ pháp tức là theo cái pháp, sống theo với cái pháp, gọi là tùy pháp.
Cho nên ở đây chúng ta muốn sống trọn vẹn ở trong cái pháp, thí dụ như bây giờ mình sống ở trong cái hành động Chánh Niệm Tỉnh Thức thì đó là mình sống ở trong cái pháp Chánh Niệm Tỉnh Thức.
Cái hành động mình sống ở trong cái Định Niệm Hơi Thở, tức là mình đang biết cái hơi thở ra vô mà không có một cái tạp niệm nào, thì gọi là tuỳ pháp, hay là sống trọn vẹn ở trong pháp. Cái hơi thở đó là cái pháp, mà mình sống được ở trong cái pháp đó, thì tức là trọn vẹn ở trong pháp, hay là tuỳ pháp đó.
“Vì tu như vậy không bị thất niệm, thì làm sao giống người độc cư mà nói chuyện?”
Nghĩa (là) mình tu như vậy thì đâu có giống cái người mà độc cư nói chuyện đâu. Còn nếu không thì mình giống như người độc cư mà nói chuyện.
Hỏi: “Khi làm việc thời gian dài một, hai giờ, con hay bị tình trạng này. Tuy con có hướng tâm nhưng không tránh khỏi xen vô. Theo con tự hiểu, vì muốn xả tâm ly dục ly ác pháp cho mau, nên nó sanh ra vọng pháp như vậy. Cúi xin Thầy chỉ dạy con phải tu như thế nào?”
Đó thì bây giờ nó hỏi Thầy, bây giờ nó cũng hiểu biết được, trong một giờ, hai giờ đồng hồ dài mà làm công việc thì nó bị những cái vọng pháp như vậy, thì bây giờ phải tu bằng cách nào đây?
Đáp: “Muốn thoát khỏi tình trạng vọng pháp xen vô, thì trong hai giờ làm việc này, con nên chia ra làm ba loại định, hoặc là sáu lần tu.”
Nghĩa là ba loại định đó chia làm sáu lần tu.
“Đừng nên tu một loại định, càng chia nhỏ thì càng có chất lượng cao.”
Nghĩa là mình càng chia cái thời gian nhỏ của từng cái loại định đó, thí dụ như một loại định mình tu chừng ba phút hay là năm phút, hay hoặc là một phút đi, rồi kế tiếp mình tu một cái loại định khác. (37:13) Cứ như vậy mình luân phiên nhau mình tu.
Hoặc là mình kết hợp hai loại định lại mình tu, và như vậy thì cái chất lượng nó càng cao. Còn nếu mình tu mãi một cái loại định suốt hai, ba tiếng đồng hồ, thì chắc chắn là vọng pháp hay hoặc là thế gian pháp nó sẽ xen vào.
Cách thức tu tập để cho nó đừng có vọng pháp thì phải tu như vậy, chia nó ra như vậy thì nó sẽ hết, còn nếu mà không chia ra nhỏ như vậy thì nó sẽ không hết.
Đó là cách thức Thầy hướng dẫn, người nào có bị thì các con sẽ làm thử, thì các con sẽ thấy cái hiệu quả vô cùng.
(37:46) Hỏi: “Thưa Thầy, tu không có đối cảnh diệt tâm sân bằng cách nào?”
Nghĩa là mình tu mà không có đối cảnh, mình ở trong thất, không có chọc ghẹo ai, không ai chửi mình đó, thì cái tâm sân nó không có hiện ra. Vậy thì mình tu bằng cách nào? Ý nó muốn nói vậy đó.
Bây giờ thí dụ như nó vào trong rừng, nó cất một cái thất, rồi ở trong đó, thì có cọp beo rồi này kia, khỉ rồi này kia đi qua đi lại, chớ còn không có ai chọc ghẹo mình hết, cho nên tối ngày không có sân hận gì, có buồn rầu thôi, có (một) mình là cô đơn buồn thôi chớ còn không có sân gì ai hết.
Vậy thì trong khi đó mình tu cái tâm sân, nó không có cái đối tượng để làm cho nó sân, thì mình tu cái sân như thế nào? Để khi ra mình gặp cái đối tượng làm cho mình sân thì mình không có sân!
Thầy đáp: “Tu không có đối cảnh, diệt tâm sân bằng pháp hướng.”
Nghĩa là không có cái đối cảnh thì mình diệt cái tâm sân mình bằng cái pháp hướng, bằng pháp hướng như thế nào?
“Quán xả tâm tôi hít vô. Quán xả tâm tôi thở ra.” Đó là mình nương theo hơi thở để mình diệt cái tâm sân của mình đó, mình xả cái tâm sân của mình. “Quán tâm sân tôi từ bỏ. Quán tâm sân tôi từ bỏ.” Đó là mình hướng tâm mình nhắc để cho mình từ bỏ.
Và mỗi lần mình nhắc, thì như vậy nương theo vào cái hơi thở để nó gây cho cái sức tỉnh thức, để cho mình xả bỏ.
Hay hoặc là mình nói: “Quán đoạn diệt tôi hít vô. Quán đoạn diệt tôi thở ra.” Đó là mình nương theo hơi thở để mình đoạn diệt cái tâm sân của mình.
(39:23) Như vậy là không đối tượng thì mình phải ở trong một cái chòi, hay hoặc cái nơi hoang vắng không có ai, thì bắt đầu đó mình tu bằng cái pháp hướng như vậy, thì nó sẽ, đến khi mình ra đụng chuyện, thì ngay đó mình đã nhớ liền cái sự quán từ bỏ tâm sân của mình.
Nó bén nhạy, rất bén nhạy, cho nên vì vậy mà nghe người ta chửi mình, hay là đụng chạm gì đó thì mình không sân nữa, mà nó đưa mình đi đến cái định rất là sâu. Là vì nương vào cái hơi thở là cái đường đi của các loại định, nó đem lại rất là lợi ích.
Lát nữa thì các con sẽ nghe được cái Định Niệm Hơi Thở, để cho chúng ta khéo sử dụng hơi thở mà đạt được những cái kết quả của những cái pháp sau này.
Thí dụ như muốn diệt cái tâm sân, mà nương vào cái hơi thở thì chúng ta dễ dàng diệt tâm sân chớ không phải khó. Tức là dùng cái pháp hướng kết hợp với cái Định Niệm Hơi Thở thì sẽ nó cũng sẽ diệt được cái tâm sân mà không đối tượng.
Đáp: “Tu không có đối tượng diệt tâm sân bằng pháp hướng.”
(40:27) Bây giờ hỏi nữa.
*Hỏi: “*Người tu hết sân, lời nói và hành động trước những chuyện đáng sân thì họ phải như thế nào?”
Đáp: “Người tu hết sân, trước đối tượng, lời nói ôn tồn, nhã nhặn, hành động nhẹ nhàng, êm dịu.”
Nghĩa là cái người mà hết sân rồi, thì dù bây giờ có chửi họ cách gì đi nữa, thì cái lời nói họ cũng ôn tồn nhã nhặn. Họ không có nặng lời ai nữa hết và cái hành động của họ nó rất là nhẹ nhàng, mà nó rất êm dịu, nó không bao giờ mà nó làm cái hành động vụt chạt hay hoặc là cái hành động dữ tợn, không có. Cái người mà không sân thì họ không có những hành động đó nữa.
Cái lời nói của họ thì rất là ôn tồn nhã nhặn, hành động của họ thì nhẹ nhàng, êm dịu đối với mọi người. Nghĩa là cái người mà không sân là người nào cũng như vậy hết. Còn người có sân thì cái hành động và cái lời nói của họ sẽ biểu lộ qua cái sân của họ rất dễ dàng.
(41:25) Hỏi: “Thưa Thầy, có phải người diệt được tâm si là ko ngủ phi thời, ngủ ít, và ngủ đúng giờ, khi tọa thiền không bị hôn trầm, thùy miên, vô ký?”
Bây giờ nó hỏi Thầy, cái người mà diệt được cái tâm si thì họ có còn ngủ phi thời không, họ ngủ ít và ngủ đúng giờ không? Cách thức nó hỏi Thầy như vậy, và khi mà ngồi tọa thiền thì có bị hôn trầm, thùy miên không?
Đáp: “Đúng vậy. Người mà phá được tâm si thì sức tỉnh thức cao độ nên không còn bị hôn trầm, thùy miên nữa.”
Đó thì nếu mà chúng ta phá được tâm si của chúng ta thì chúng ta sẽ không còn ham ngủ, sẽ không còn ngủ phi thời.
Nghĩa là thay vì bây giờ 9 giờ mọi lần thì nó buồn ngủ, mà cái người mà phá được tâm si rồi thì 9 giờ nó không ngủ nữa. Đúng 10 giờ thì nó nằm xuống đó, thì hướng tâm nhắc nó một chút nó mới ngủ, còn không hướng nó cũng thức nữa, nó không có chịu ngủ nữa.
Coi như cái người đó đã hết muốn ngủ rồi. Nhưng mà mình có pháp hướng, mình bảo nó ngủ, thì cho nên nó ngủ.
(42:29) Hỏi: “Thưa Thầy, nếu người đã ly được ngũ dục lạc thì họ đã diệt được tâm tham chưa? Nhưng nếu thấy họ còn ăn uống, ngủ nghỉ phi thời, là biết họ chưa dứt được lòng tham. Vậy phải tu Định Vô Lậu, phải đoạn diệt nó. Thưa Thầy có phải vậy không?”
Ở đây thì chúng ta phải hiểu chỗ cái câu hỏi này.
Đáp: _“Ly ngũ dục lạc nghĩa là chưa ly được tâm tham.” _
Ngũ dục lạc tức là chúng ta ly sắc, thinh, hương, vị, xúc, thì năm cái ngũ dục lạc này, thì chưa hẳn là chúng ta ly hết cái tâm tham. Mà nếu đứng trong cái ngũ dục: sắc, danh, lợi, thực, thùy, tức là ăn ngủ nè, mà chúng ta ly cái năm dục lạc này thì chúng ta cũng chưa đã ly hết cái tâm tham của chúng ta.
Bởi vì còn cái những tâm tham của chúng ta, là tham ái, thương ghét này kia. Còn cái kia nó ở trong cái ngũ dục lạc, nó chưa có trọn vẹn hết cái tâm tham của chúng ta, tâm tham của chúng ta còn nhiều lắm.
“Mà lại còn ăn uống, ngủ nghỉ phi thời, thì dù có tu Định Vô Lậu cũng không đoạn dứt được tâm tham.”
Nghĩa là bây giờ hành động cái người đó, họ có nói rằng họ ly ngũ dục lạc đi, mà họ ăn uống phi thời thì biết rằng họ chưa có ly ngũ dục lạc. Nghĩa là cái người mà còn ăn uống phi thời thì biết họ chưa ly. Mà cái người còn ăn uống phi thời thì dù họ có tu cái Định Vô Lậu một ngàn năm đi nữa, thì họ cũng không dứt cái tâm tham.
Nghĩa là cái ăn của họ nó nằm ở trong cái ngũ dục lạc rồi, bởi vì thực thùy mà. Rồi cái ngủ của họ, ăn ngủ phi thời, tức là lúc này nó muốn ngủ thì đi ngủ, mà lúc kia thì nó muốn thức thì nó thức. Cái ăn cũng vậy, lúc này nó muốn ăn thì ăn, thấy đồ ăn nó thèm nó muốn ăn, thì cứ ăn. Như vậy là cái người mà còn ăn ngủ phi thời, thì dù là cái Định Vô Lậu hay dù tu cái định nào đi nữa thì họ cũng chẳng có dứt được tâm tham của họ hết.
Tại sao vậy? Tại vì, cái tâm mà dứt được tâm tham, cái đầu tiên thì chúng ta phải lấy giới luật mà tu tập, mà phòng hộ sáu căn của mình. (44:40) Cho nên lấy giới luật của Phật mà giữ gìn, thì cái ăn ngủ này chúng ta phải có sự tập luyện rồi, ăn ngày một bữa chớ không được ăn bậy bạ, ăn nhiều nữa, mà không được tham ăn nữa.
Đó là bắt đầu mà chúng ta muốn tu Tứ Chánh Cần, thì chúng ta phải sống cái đời sống đó, phải thiểu dục tri túc nè, ăn ngủ phải đúng giờ giấc nè, thì như vậy là chúng ta sống đời sống của giới luật rồi. Cho nên chúng ta lấy giới luật mà phòng hộ sáu căn, lấy giới luật mà chúng ta sống cái đời sống của mình, và chúng ta phải sống thiểu dục tri túc nữa.
Tất cả những cái này là cái sự bắt buộc, chúng ta phải đem cái đời sống của chúng ta phải như vậy đó, thì bắt đầu chúng ta mới tu cái Định Vô Lậu thì nó mới có đoạn dứt tâm tham được. Còn nếu cái đời sống của chúng ta nó còn bừa bãi, nó còn ăn uống theo cái thế gian thì chúng ta tu cái Định Vô Lậu nó cũng chỉ vô ích mà thôi, không có kết quả.
(45:30) Hỏi: Thưa Thầy, người mà tâm không ngã mạn, lời nói và hành động như thế nào?
Đáp: “Tâm không ngã mạn không thể nhìn ở hành động và lời nói mà biết được.”
Nghĩa là cái người đó họ thấy mình, họ quỳ xuống họ lạy, họ lễ, họ đủ cách hết, mà cái tâm họ cũng còn chứa ngã mạn trong đó chớ chưa phải là hết.
Nhất là cái hành động mà họ nghĩ rằng họ lạy như vậy đó, là họ hạ mình xuống như vậy, tức là họ tạo họ có cái sự khiêm hạ, khiêm cung đến mức độ vậy, thì cái hành động đó mình cho họ là hết ngã mạn thì không hết.
Cho nên không thể nào mà nhìn cái hành động của cái người đó, hoặc cái lời nói của họ…
(Xem tiếp ở Pháp hành 22)
HẾT BĂNG
PHÁP HÀNH 22 - QUÁN TỨ DIỆU ĐẾ TRÊN TỨ NIỆM XỨ
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Thời gian: 1998
(Tiếp theo Pháp hành 21)
(0:00) Đáp: “Tâm không ngã mạn không thể nhìn ở hành động và lời nói mà biết được. Hành động và lời nói bên ngoài tỏ vẻ cung kính, tôn trọng, gặp ai cũng lạy cúi đầu, thi lễ sát đất, lời nói tôn vinh tâng bốc, nhưng tâm họ vẫn mang đầy chất ngã mạn.
Người không ngã mạn là người tự biết mình hơn ai hết.”
Nghĩa là nó có ba mạn chớ không phải là một, nó có ba mạn:
Cái mạn thứ nhất là coi mình hơn người khác, mình giỏi hơn người khác.
Mạn thứ hai là xem mình bằng người ta, không thua ai hết, bằng người ta.
Mạn thứ ba là coi mình kém hơn họ, thua họ, mình coi mình tự ti, mặc cảm, mình coi mình không bằng ai hết, thua họ, mình tự ti, mình buồn rầu. Thì đó là cũng là cái ngã mạn chớ không phải không mạn.
Cho nên ở đây nó có ba mạn chớ không phải là một mạn: hơn, bằng, và kém, đó là ba cái mạn.
Cho nên cái người mà không ngã mạn là người đó tự biết mình, chớ không ai biết ở trong cái tự tánh kiêu căng của họ được.
Họ khéo léo họ che đậy cái tự tánh kiêu căng họ cũng rất dễ. Còn cái người thô lỗ thì chúng ta dễ biết lắm, còn cái người họ làm bộ ở ngoài thì họ làm như mình là người diệt ngã vậy, không có còn kiêu căng, ngã mạn nữa, cho nên họ làm cái vẻ họ đụng đâu họ cũng quỳ lạy, nhưng mà cái bản chất của họ rất là lớn, cái ngã mạn họ rất là to.
(01:29) Hỏi: Thưa Thầy! Người ngồi thiền mà cứ gục lên, gục xuống có những tai hại gì? Vị đó có phải đã vì huân tập si chất sâu dày không? Để không rơi vào trạng thái đó và muốn phá si chấp đó thì chúng con phải tu như thế nào?
Đây có phải là kiến kiết sử hay là tùy miên không thưa Thầy? Nếu kéo dài mãi có phải là kiến tùy miên không? Xin Thầy cho chúng con một liều thuốc nặng mới trị dứt cơn bệnh này!
Tại sao thời xa xưa mà có những danh từ: “triền cái”, “kiết sử”, “tùy miên” hay quá vậy? Nó còn nữa hay không, tương tự như vậy nữa không?
Nghĩa là Hải Tâm nó nói thì qua cái sự hiểu biết cái danh từ “triền cái”, “kiết sử”, “tùy miên” mà Phật dùng ở trong kinh điển. Nó xét qua cái tâm của mình thì nó thấy cái danh từ đó chỉ rất là cụ thể, rõ ràng, cho nên nó quá hay tuyệt, mà nó không còn biết cái những cái danh từ mà nó tương tự, mà nó hay như vậy nữa không? Ý nó muốn hỏi Thầy vậy đó.
Thì bây giờ Thầy trả lời những cái câu hỏi trước của nó:
(02:48) Đáp: “Người tọa thiền mà cứ gục lên, gục xuống đó là rơi vào trạng thái của xúc tưởng hỷ lạc. Tu hành như vậy chẳng tu đến đâu, cũng như không có hại gì.”
Nghĩa là tuy rằng tu như vậy thì không đến đâu, nhưng mà cũng không có hại gì. Ở đây thì như các con cũng biết là thầy Như Hải, ổng ngồi thiền thì ổng cứ gục lên gục xuống, mà ổng an ổn lắm, coi như là cái trạng thái tâm ông rất an ổn, mà thân ổng thì cứ gục lên gục xuống. Lâu lâu ông gục xuống, sát xuống vầy, rồi lâu lâu ông kéo lên vầy.
Đó là suốt cái thời gian ổng tu ở đây thì ông bị rơi vào cái điều kiện đó, mà Thầy phá hết sức mà phá không được.
Bởi vì nó rất an, cái trạng thái mà gục lên gục xuống nó rất an. Cho nên vì vậy mà người ta thích lắm, vô được cái trạng thái mà gục lên gục xuống đó là coi như là vào Niết Bàn của họ rồi đó, cho nên họ thích để mà rơi vào trong đó.
“Tu như vậy là tu vô ích, mất công phu, uổng cái công tu tập của mình, mà còn mang thêm cái bệnh nghiện.“
Coi như là nghiện ngồi thiền đó. Ngồi thiền để mà gục chơi cho nó thoải mái, cho nó dễ chịu, cho nó an lạc đó, thì đó là mang cái bệnh ghiền, cũng như là người ghiền thuốc phiện vậy.
“Đây là một trạng thái si chấp nhiều đời”.
Chớ không phải trong một đời nay, cái đó là cái trạng thái si chấp.
“Nếu đời nay không dứt bỏ thì trí tuệ luôn luôn bị vô minh, tà kiến xâm chiếm, đời đời không hiểu và không tin được Chánh Pháp.”
Nghĩa là luôn luôn lúc nào họ nghe những cái gì mà tà kiến là họ chấp nhận liền, mà Chánh Pháp đến với họ thì họ không tin, cái người mà bị si ám như vậy, si chấp như vậy đó, đây là gọi là si chấp. Cái tâm si của họ nó chấp đắm trên những cái tà kiến, khó mà có chánh kiến mà khai mở cho họ được.
Cho nên những người đó mình sửa gì cũng không được hết. Nó bị cái trạng thái đó rồi, nếu mà các con để kéo dài cái trạng thái gục lên gục xuống như vậy đó, là cái trạng thái si chấp. Mà trạng thái si chấp đó bây giờ nói gì các con cũng không bỏ nó được, thì tức là các con đã thành bệnh rồi.
Cho nên đối với thầy Như Hải, Thầy cố gắng hết sức để cứu ông ra đó, mà cũng không làm cách gì mà cho ông ra được hết. Cho nên ổng thích ở trong cảnh giới đó. Có nghĩa là ông nói rằng mình chết thì mình cũng trở thành một cái người mà gục lên, gục xuống, như vậy là ngon nhất rồi chớ không còn gì hết!
(04:57) “Để không rơi vào cái trạng thái đó thì hành giả đừng dùng cái pháp tu ức chế tâm nữa.”
Nghĩa là đừng có rơi vào cái pháp mà mình tu ức chế tâm.
“… mà hãy dùng pháp xả tâm.”
Nghĩa là bây giờ đó mình dùng cái pháp xả tâm, hơn là mình dùng cái pháp ức chế tâm. Vì bị cái pháp ức chế tâm mà mình đi vào cái trạng thái gật lên gật xuống đó.
“Muốn phá si chấp khi tọa thiền thì phải hướng tâm: “Thân phải định trên tâm vững vàng, không được gục lên, gục xuống.””
Đó là cái pháp hướng để nhắc.
“Đây không phải là kiến kiết sử…”
Bởi vì Hải Tâm hỏi Thầy. Cái này là cái danh từ của Thầy, Thầy đã biết nó là cái si chấp chớ không phải là kiến kiết sử hoặc là tùy miên, đó.
“Đây không phải là kiến kiết sử hay là tùy miên, mà là si tùy miên.”
Cái đó gọi là si tùy miên, cái si chấp này là si tùy miên, cho nên khi mình vào trong đó rồi nó gục lên, gục xuống. Nó tùy miên là nó liên tục, nó kéo dài dài dài dài cái trạng thái đó, cứ mình kéo lên, kéo xuống, gục lên, gục xuống vầy hoài mà thấy nó thích thú vô cùng lận.
Do đó mình cứ ngồi để mà mình đi vào trong cái trạng thái si mê đó, gọi là trạng thái si tùy miên. Có những cái danh từ dùng để chỉ cho chúng ta thấy trạng thái rất rõ trong kinh điển của Phật.
“Nếu kéo dài mãi trạng thái này sẽ rơi vào vô ký tùy miên.”
Vô ký tùy miên tức là nó kéo dài, mình rơi trong cái, mất cái biết của mình luôn, mình ở trong cái tùy miên và trong cái vô ký luôn. Cho nên ở trong cái trạng thái này, nó rơi vào thì mình mất tiêu luôn, mà nó tùy miên tức là nó kéo dài cái trạng thái vô ký đó, mất tiêu luôn ở trong đó.
“Nếu muốn dùng liều thuốc nặng để trị bệnh này, thì nên xả bỏ loại thiền này, chỉ còn tu tập Định Chánh Niệm Tỉnh Giác và Định Vô Lậu để diệt ngã xả tâm, ly dục, ly ác pháp mà thôi.”
(06:51) Nghĩa là muốn dùng cái liều thuốc mạnh mà trị nó, thì chúng ta bỏ ngay cái pháp này đi, chớ không phải là còn ngồi tọa thiền nữa, mà chỉ còn cái tu tập Chánh Niệm Tỉnh Giác, còn có đi kinh hành thôi, với còn tu Định Vô Lậu thôi. Chớ còn cái định mà ngồi tọa thiền nữa thì không ngồi, dẹp sạch cái tọa thiền. Thì đó là cái liều thuốc nặng để mà trị người bị bệnh này.
Còn trị cái liều thuốc nhẹ nhẹ đó, thì họ ngồi nhưng mà hướng tâm để vẫn giữ cho cái thân của mình cho nó vững, lần lần nó vững trở lại, thì nó cũng giữ vững trở lại được, vì cái thời gian nó còn ngắn, còn cái thời gian dài thì khó trị lắm. Nếu mà thời gian người này ngồi bảy, tám tiếng đồng hồ thì khó trị rồi. Còn cái thời gian mà chúng ta chừng ba mươi phút, một giờ thì chúng ta trị cái thân nó vững trở lại được, hướng tâm nó vững lại được.
“Trong Phật pháp có rất nhiều từ chỉ cho tâm lý, trạng thái con người, súc tích không kém gì những từ “tùy miên”, “kiết sử”.”
Nghĩa (là) ở trong cái kinh điển của Phật thì nó có nhiều cái danh từ để chỉ cái tâm lý cái con người của chúng ta. Cái tâm lý và cái trạng thái của con người, nó có những cái danh từ rất là súc tích, làm chúng ta suy ngẫm, thấy cái từ nó rất là chính xác, nó cũng như là những cái danh từ “tùy miên”, “kiết sử”.
Nhưng mà tại vì mình không phải là nhà tâm lý học, cho nên mình ở đây chưa có đem ra một số từ để mà chỉ, nhưng mà ở đây mình chỉ cho một số danh từ để chỉ cho cái trạng thái tu hành của mình nó bị rơi vào ở trong đó mà thôi.
(08:20) Đây còn một câu hỏi kế tiếp nữa:
“Thưa Thầy!
Sao ở ngoài đời các thầy cô giáo dạy học trò đều mong sau này học trò của mình sẽ trở nên người hữu dụng, thành tài để giúp đỡ gia đình, xã hội và đất nước. Các bậc cha mẹ cũng vậy, nuôi con ăn học, mong ước chỉ có bấy nhiêu. Họ rất vui mừng, phấn khởi, khi biết con mình đỗ đạt, thành công, được chức vị cao để phụng sự gia đình và cho đất nước thêm giàu mạnh. Có những gia đình nông dân tầm thường mà người con chuyên cần ăn học, cũng trở nên bác sĩ, kỹ sư, nên họ nói “con hơn cha là nhà có phúc”.
Thế sao trong Đạo lại có vị tu sĩ dạy đệ tử học đạo, đến khi người đệ tử đó thành đạo, chứng đắc làm chủ được sanh tử luân hồi, giải thoát kiếp con người không còn khổ đau nữa, thì vị thầy đó không được hoan hỉ vui mừng như người thế gian, mà còn có những lời không hay đến người đệ tử của mình?
Như vậy, nếu người đời đem so sánh, làm sao họ nương vào Đạo pháp nữa?
Cúi xin Thầy giải thích cho chúng con hiểu rõ.”
(09:43) Đáp: “Vấn đề tôn giáo rất là quan trọng. Khi tâm chưa xả, chưa ly ác pháp, thì trên thế gian này đã để lại những cuộc chiến tranh tôn giáo đẫm máu mà con người hồi tưởng lại thật là kinh hoàng.”
Nghĩa là nói về chiến tranh tôn giáo thì chúng ta phải nói rằng rất là kinh khủng lắm chớ không phải dễ.
“Ngày Barthélemy ở thế kỷ thứ 18 (16) đã xảy ra tại thành phố Paris một đêm chiến tranh tôn giáo đẫm máu, Tin Lành và (Thiên Chúa Giáo), đã giết tín đồ Thiên Chúa Giáo (Tin Lành), chỉ có một đêm mà sáng hôm sau đường phố vắng hoe, không có một người đi. Tin Lành và Thiên Chúa Giáo chỉ thờ Đức Chúa Trời mà thôi.”
Hai cái tôn giáo này nó chỉ có thờ có Đức Chúa Trời, nó không xa lạ gì hết.
“Trong lịch sử Phật giáo cũng có nhiều sự tranh chấp. Bồ Đề Đạt Ma bị đầu độc mà chết, Huệ Khả bị giết, Lục Tổ Huệ Năng bị hành thích, Tổ sư Minh Đăng Quang bị bắt cóc mất tích, Đạo Nằm bị giết tại chùa v.v.
Về sự tranh chấp tư tưởng, ý thức hệ về tôn giáo, thì đạo đức con người không còn chỗ đất đứng.”
Đó là cái vấn đề tôn giáo, nó quan trọng lắm, vì đó là ý thức hệ của nó. Cũng như Đại Thừa với Tiểu Thừa mà nó xảy ra những cái điều bất đồng nó cũng đưa đi đến những cái không hay của một cái Phật Giáo chớ không phải không. Cho nên cái vấn đề đó là cái vấn đề thuộc về ý thức hệ rồi.
Cho nên nói tình nghĩa thầy trò thì đó là cái tình nghĩa của một cái đạo đức rồi. (11:30) Nhưng mà về cái ý thức hệ nó có khác nhau thì nó phải có một cái sự giữ gìn cái ý thức hệ của mình, cho nên cái sự nó phải như vậy thôi.
Chứ không có nên đem cái đạo đức vô chỗ này, mà mình đứng trên cái nền, lấy cái đạo đức mà đứng ở trên cái chỗ tôn giáo, cái ý thức hệ của tôn giáo mà mình nói đạo đức ở trên chỗ này được, cho nên rất khó, không có thể nào mà nói được hết.
Đó là cái lời khuyên và chỉ dẫn ra một số lịch sử của tôn giáo về cái ý thức hệ của tôn giáo. Tư tưởng ý thức hệ của tôn giáo nó khó như vậy chớ không phải dễ đâu.
Đến đây thì coi như là Thầy trả lời hết cho Hải Tâm.
(12:08) Và về cái phần mà Chân Huệ hỏi Thầy thì nó có những cái bài học rất thực là, hôm kia chúng ta học, thì hôm qua Chân Huệ hỏi Thầy. Nhưng mà vì Thầy rất bận, buổi sáng thì Thầy mắc đi họp ở ngoài huyện để đóng góp một vài ý kiến, rồi về thì mắc thọ thực. Rồi khi mà thọ thực xong thì lại tiếp quý thầy một chút nữa, cho nên cái thời gian không có, do đó Thầy chỉ trả lời có một câu hỏi đầu mà thôi.
Chân Huệ hỏi Thầy:
“Kính bạch thầy! Để “quán thọ trên thọ”, khi ta không có cảm giác gì thì có nên quán không? Nếu quán thì có phải là đọc từ đầu những câu Phật đã dạy không?
Nghĩa là đọc luôn từ đầu: “Khi cảm giác lạc thọ, tuệ tri cảm giác lạc thọ. Khi cảm giác khổ thọ, tuệ tri cảm giác khổ thọ. Khi cảm giác bất khổ, bất lạc thọ v.v” , đó là ở trong cái bài kinh thì nó dạy như vậy đó.
Thì hỏi Thầy: như vậy là khi mà chúng ta không có cái cảm thọ nào hết, thì chúng ta có nên tu nó không? Mà tu thì chúng ta phải quán từ đầu chí cuối, hay là bắt cái chỗ nào tu, ngay cái chỗ nào mà quán cái thọ?
Cách thức Chân Huệ hỏi Thầy như vậy đó.
(Đáp:) “Khi ta không có cảm giác nơi thân, thọ, tâm, pháp”
Tức là bây giờ cái cảm giác nơi thân, thọ, tâm, pháp của chúng ta, bốn cái chỗ Tứ Niệm Xứ này nó không có cái cảm giác của ba thọ. Ba thọ là thọ lạc, thọ khổ, thọ bất lạc bất khổ, nó có cái mà không lạc, không khổ nữa, nó ba cái thọ đó.
“… thì ta không nên quán thọ làm gì.”
Khi nào cái trường hợp bây giờ, ở trên bốn cái trụ xứ này, cái thân của chúng ta này, ngay cái chân này nó đau nhức nè, thì do đó chúng ta mới đặt cái thọ trên cái thân của chúng ta, để mà thọ quán thọ, chớ không phải trên cái thọ này mà quán cái thân, mà thọ quán thọ, xem coi cái cảm thọ này nó như thế nào, đó gọi là trên thọ quán thọ.
Cho nên ở đây thì chúng ta thấy, khi mà ở trên cái thọ mà quán thọ, chớ không phải là ở trên cái thân của chúng ta quán thọ. Nhưng mà cái thân của chúng ta nó có xảy ra cái thọ, các thầy hiểu không?
Bây giờ cái thân của Thầy bình thường nó không có nhức không đau gì hết, thì Thầy không có đặt cái thọ trên đó mà Thầy quán. Còn bây giờ nó đương đau, cái đầu Thầy nhức, hoặc cái chân Thầy nhức nè, thì nó đang thọ nè, cho nên chúng ta mới lấy cái thọ, lấy cái pháp thọ đó, để mà quán cái thọ, để xem xét cái thọ ở trên cái thân này nó diễn biến như thế nào, gọi là “trên thọ quán thọ” đó.
“Khi có cảm thọ nơi thân, thọ, tâm, pháp của ta”
Ngay cái thân, thọ, tâm, pháp, bốn cái chỗ của ta mà ta có cảm thọ, thì ta nên quán, còn không có thì không nên quán, mà hãy tu tập cái khác đi. Chớ bây giờ nó không thọ mà quán gì đây?
(15:15) Nó không có cái thọ, mà bây giờ chúng ta đặt cái thọ là cái thọ chỗ nào? Phải có cái tướng thọ chớ? Bởi vì cái nhân tướng thọ nó phải có cái tướng nó rồi. Rồi nó phải có cái hành thọ chúng ta mới đặt cái thọ lên mà chúng ta quán chớ. Còn (cái) này nó không có hành, không có tướng thì chúng ta quán cái gì? Cho nên nó không có thì chúng ta không quán.
Mà chúng ta quán là quán như thế nào? Bây giờ nó thọ lạc thì chúng ta phải quán thọ lạc, chớ không phải chúng ta đọc hết một cái bài thọ lạc, thọ khổ, thọ bất lạc bất khổ, các con hiểu chưa?
Cho nên chúng ta quán, bây giờ nó thọ lạc là chúng ta quán thọ lạc thôi chớ chúng ta không quán thọ khổ, bởi vì nó có khổ đâu mà quán? Nó đang ăn miếng ngon quá, nó thèm nó muốn ăn nữa, thì không được, cái lạc này là cái nguy hiểm nhất, là cái thọ khổ còn không sợ mà cái thọ lạc này lại rất sợ.
Cho nên trong khi chúng ta đặt cái thọ lạc, chúng ta quán thọ trên cái thọ lạc này, để mà chúng ta xem xét: Tại sao nó sanh ra cái sở thích này? Nó ham ăn nè, nó còn muốn ăn nữa nè. Nó ăn cái bánh này rồi nó chưa có đã, nó còn muốn ăn nữa. Bây giờ ăn một viên trôi nước nè, trời ơi nó còn thèm muốn cỡ có hai, ba viên nó ăn cũng được nữa nè!
Do đó chúng ta mới đặt cái thọ lạc này để mà chúng ta quán xét lại, coi cái thọ lạc này nó sanh cái tâm dục như vậy là do cái nguyên nhân nào, cái lý nào? Trên cái đó nó diễn biến nào mà nó làm chúng ta thèm?
“Nếu mà thân đang thọ khổ thì ta nên quán thọ trên thọ, tức là thọ khổ này từ đâu đến, rồi từ đâu nó diệt, thọ khổ này nó diễn biến như thế nào? Lúc thì nhiều, lúc thì ít.”
Lúc thì nó đau nhiều, lúc thì đau ít đó.
“… để chúng ta tìm tánh vô thường của nó.”
Mà nếu tìm ra được tánh vô thường thì chúng ta có sợ nó nữa không? Mà chúng ta tìm rõ được như vậy là trên thọ quán thọ. Do đó, cái tu tập như vậy là tu tập cái định gì, các thầy biết không? Đó là cái Định Vô Lậu đó.
Cho nên khi mà trên thọ mà quán thọ, xem xét những cái hành, cái cách thức nó diễn biến, cách thức từ đâu nó xảy ra, rồi nó đến nó ít, nó nhiều, nó giảm, nó thiểu như thế nào đó, thì chúng ta đã thấu suốt được nó. Nó vô thường, nó mới lúc nó vầy, lúc khác, lúc thì nó đau nhiều, lúc thì đau ít, lúc nó không đau.
(17:19) Do đó những cái tánh vô thường nó như vậy mà khi chúng ta tìm ra được tánh vô thường, cái xuất phát của nó từ chỗ nào, thì lúc bấy giờ đó, thì chúng ta đã phá vỡ nó được. Cho nên chúng ta tìm cái tánh vô thường và cái tánh không của chúng nó.
Thì khi mà tìm được rồi thì chúng ta sẽ phá nó đi. Chúng ta sẽ không còn nó ở trong tâm chúng ta, chúng ta không hề sợ hãi cái tướng thọ đó nữa, và như vậy thì chúng ta là vô lậu. Chúng ta đạt được cái vô lậu, làm cho tâm chúng ta trở về thanh thản, an lạc, trước cái đau, cái bệnh của chúng ta mà chúng ta không còn sợ hãi lo lắng nữa.
Đó là cái câu hỏi của Thiện Huệ (Chân Huệ), nhưng mà còn những câu khác Thầy chưa có trả lời hết. Nhưng mà vì không có thời gian, đến giờ Thầy dạy, nhưng mà mà Thầy nghĩ rằng, nếu mà trả lời hết thì cái bài học của chúng ta, kế tiếp thì chúng ta học chưa hết.
Nhưng học mà hỏi như vậy thì Thầy thấy rất là hay, là vì nó làm sáng tỏ cho cái bài học chúng ta thêm, chúng ta biết cách tu tập. Nếu mà không có Thầy nhắc, thì không biết chừng đó rồi mình về mình nghĩ, rồi cái bắt đầu mình theo cái bài đó, mình quán từ đầu chí cuối.
Mới có thọ lạc, ăn thấy nó thèm ăn nữa, cái bắt đầu mình quán nào là thọ khổ, thọ lạc rồi thọ bất lạc bất khổ, mình quán tùm lum hết. Rồi sau một thời gian tu vậy, kiểu đó làm sao nó có hiệu quả được?
Coi như là mình tu sai hết đó, mà mất thì giờ mình rất lớn, vì mình quán quá nhiều, cho nên mình mất thì giờ rất nhiều.
(18:50) Vừa rồi Thầy dạy các thầy trên pháp quán pháp tu về Thất Giác Chi. Bây giờ chúng ta tiếp tục chúng ta học cái bài pháp trên pháp quán pháp với cái pháp Bốn Tứ Đế, tức là Bốn Thánh Đế đó, Tứ Diệu Đế dó:
“Này các thầy Tỳ Kheo, thế nào là Tỳ Kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Bốn Thánh Đế?
Này các thầy Tỳ Kheo, ở đây Tỳ Kheo như thật tuệ tri đây là khổ, như thật tuệ tri đây là khổ tập, như thật tuệ tri đây là khổ diệt, như thật tuệ tri đây là con đường đưa đến khổ diệt.
Như vậy, vị ấy sống quán pháp trên các nội pháp, hay sống quán pháp trên các ngoại pháp, hay sống quán pháp trên các nội pháp ngoại pháp. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên các pháp, hay sống quán tánh tận diệt trên các pháp, hay sống quán tánh sanh diệt trên các pháp.
Có những pháp ở đây, vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời.
Này các Tỳ Kheo, như vậy là Tỳ Kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Bốn Thánh Đế”
Nghĩa là khi mà chúng ta đặt bốn cái pháp Tứ Thánh Đế nó ở trên cái thân, thọ, tâm, pháp của chúng ta mà quán xét, vậy thì trên cái thân của chúng ta, thì chúng ta đặt cái Bốn Thánh Đế là cái pháp này, thì trong pháp Tứ Thánh Đế này, cái pháp đầu tiên nó khổ, vậy thì chúng ta đặt ở trên cái thân của chúng ta xem coi cái khổ nó như thế nào?
Bởi vì cái pháp Tứ Thánh Đế nó nói khổ, rồi nó mới nói cái nguyên nhân sanh ra khổ, nó mới đến cái nguyên nhân diệt khổ, rồi con đường mà diệt khổ, thì nói bốn cái Thánh Đế như vậy. Vậy thì bắt đầu chúng ta đưa cái pháp này lên trên bốn cái chỗ này mà chúng ta quan sát nè, chúng ta xem nó nè.
(21:15) Bây giờ xem, thứ nhất là chúng ta đặt bốn cái pháp này ở trên thân của chúng ta. Vậy thì trên cái thân này, cái Khổ Đế nó chỗ nào? Chúng ta tìm thấy được cái khổ của thân chúng ta.
Rồi trên cái tâm này nó khổ ở chỗ nào, chúng ta thấy được cái khổ đó.
Rồi trên cái thọ của chúng ta nó thấy khổ nó như thế nào? Chúng ta quán xét từng cái thọ, diễn biến từng cái đau khổ, từng cái đau tới đứt ruột, đứt gan của chúng ta, đau tới cái sức chịu đựng cuối cùng của thân chúng ta, đó là chúng ta quán được cái thọ khổ đó.
Thì cái khổ đó là cái Khổ Thánh Đế mà Phật đã nói mà. Cái bệnh là khổ, vậy thì bây giờ cái thân này nó đang bệnh, nó đang nhức nhối nó khổ sở, vậy thì chúng ta quán xét, lấy cái Bốn Thánh Đế này mà đặt ở trên Tứ Niệm Xứ này mà quán xét bốn cái chỗ này, do cái chỗ đau của cái thân này như thế nào?
Do từ đó chúng ta mới thấu suốt được thân, thọ, tâm, pháp, nó đã có cái khổ trong các pháp và trong cái thân, thọ, tâm, pháp này.
Ở đây Đức Phật nói chúng ta quán cái tánh sanh khởi của các pháp khổ. Mà ở trên thân này quán sanh khởi của các pháp khổ, thì cái thân chúng ta là một cái pháp, mà cái Tứ Thánh Đế là cái pháp để chỉ cho chúng ta ở trên cái thân này để quán cái pháp thân này, cái thân này nó diễn biến, nó sanh khởi cái pháp khổ như thế nào?
Ví dụ như bây giờ trên cái thân này nó diễn biến cái sự khổ của một cái bệnh của thân. Bắt đầu sắp sửa nó sẽ nổi lên một cái mụt ghẻ, (23:10) thì trước đó nó phải làm cho chúng ta nhức nhối một chút xíu, hoặc là một cái dạng mà chúng ta thấy nó mới đỏ sơ sơ ở ngoài da thôi, nó hơi hơi sưng lên một chút xíu thôi, đó là nó báo động cho chúng ta biết chỗ đó sắp sửa sẽ mọc cái mụt.
Rồi lần lượt cái đỏ nó lan dần ra, rộng ra, rồi nó mới nổi u lên cái mụn mụt, rồi nó mới làm mưng mủ lên cái mụt đó, rồi nó mới bể ra nó chảy.
Cái sự diễn biến của một cái trạng thái của một cái bệnh tật, nó làm cho chúng ta từ cái trạng thái mới đau, cho đến khi đau nhiều, cho đến khi mà bể cái mụt, rồi nó giảm lần đến hết đau, rồi bắt đầu nó lành cái mụt đó. Thì đó là cái sự sanh khởi của các pháp khổ trên cái pháp thân của chúng ta, trên cái thân của chúng ta.
Đó thì do trên cái thân chúng ta mới quán xét được cái khổ, cái pháp khổ. Cái pháp khổ không có nghĩa là cái thân, mà cái pháp để chỉ cho chúng ta biết rằng cái thân, thọ, tâm, pháp chúng ta đang có đây, nó sẽ thọ lấy cái khổ như vậy, như vậy đó.
Bây giờ ở trên cái khổ thì chúng ta đặt cái chết ở trên cái thân này, hay hoặc đặt cái bệnh ở trên cái thân này, để chúng ta xem thấy cái chết hay cái bệnh nó sẽ khổ như thế nào đối với cái thân của chúng ta, khi mà sự diễn biến nó, cái tánh sanh khởi của nó, trước khi mà nó sắp sửa chết nó phải làm sao, rồi sau khi nó chết nó phải làm sao?
Chúng ta quán xét, chúng ta nghĩ, nó hành hạ chúng ta như thế nào để đến khi mà chúng ta chết nó mới chấm dứt cái Ngũ Uẩn của nó, cái thọ khổ của nó.
“Rồi chúng ta sống quán tánh sanh diệt trên các pháp,” tức là trên các pháp này là thân, thọ, tâm, pháp, đặt cái pháp khổ này mà chúng ta quán xét lên nó.
Thí dụ như bây giờ cái tánh sanh diệt của nó, như có một người họ lại họ đánh ở trên vai Thầy, ngay đó Thầy nghe đau liền, mà khi một chút xíu thì nó lại lần lần nó hết đau, thì đó là cái tánh sanh diệt của cái thọ, rồi cái nó hết đau luôn, nó không đau nữa.
(25:11) Thí dụ có một người lại họ ngắt Thầy, vừa ngắt Thầy thì nghe cái cảm giác đau, đó là tánh sanh của nó, rồi bắt đầu từ từ, từ từ nó giảm dần dần cái cơn đau của cái ngắt này, lần lần nó hết đau, do đó nó diệt lần, diệt lần.
Thì chúng ta quán cái tánh sanh khởi của cái pháp khổ, cho nên gọi là Khổ Đế. Nó là cái Thánh Đế Khổ mà chúng ta quán nó.
Rồi diệt cái nguyên nhân, Tập Đế đó, cái nguyên nhân mà nó tập hợp tất cả những cái nỗi khổ đó trở lại, do đó những cái nguyên nhân đó là như thế nào? Do cái nguyên nhân đó là cái lòng ham muốn của chúng ta, cho nên nó tập hết các pháp đến, cái pháp nào mà chúng ta ham muốn là nó đem đến cho chúng ta khổ.
Thí dụ bây giờ chúng ta ham muốn cái băng này, cái đồng hồ, cái ca này, thì đó các pháp nó tập đến, nó sẽ làm khổ chúng ta đó. Thì bắt đầu bây giờ cái đồng hồ này hư, hay hoặc là ai lấy thì nó làm chúng ta khổ, cái này mất, hay hoặc là có người trộm, hay hoặc là rớt bể, chúng ta tiếc.
Thì đó tất cả những cái này nó đều tập trung làm cho cái thân ctr chúng ta, cái tâm của chúng ta khổ. Nó mất của làm cho chúng ta tiếc, làm chúng ta thấy…
Cho nên khi mà chúng ta biết Phật pháp rồi thì tất cả cái gì chúng ta cũng biết nó vô thường, cho nên vì vậy mà nó bể, nó mất chúng ta thấy không buồn. Còn cái người ngoài đời chưa biết Phật pháp, thì các thầy, các con nghĩ sao? Khi mất của họ có buồn không? Buồn.
Nhưng mà đối với chúng ta là người hiểu Phật pháp chúng ta không buồn, chúng ta thấy đó là vô thường, mọi vật đều vô thường. Cho nên vì vậy mà chúng ta đặt cái pháp ở trên đó mà chúng ta quán xét, cho nên chúng ta thấy tất cả mọi cái đều vô thường, cho nên từ cái chỗ đó mà chúng ta giải thoát.
Do cái sự hiểu biết này, do cái sự mà đặt ở trên bốn cái chỗ này mà quán cái pháp Tứ Thánh Đế, thì làm cho chúng ta thấu rõ được cái khổ đó, cho nên do đó chúng ta mà chúng ta không tập hợp nó lại.
Nghĩa là không tập hợp tức là không ham muốn chớ gì? Mà không ham muốn thì tức là chúng ta không có gì, tức là chúng ta buông xả hết chứ gì, do đó chúng ta buông xả, không nhà, không cửa, không có gì hết, có ba y một bát để đi xin ăn thôi.
(27:06) Mà người ta thấy ông này sao mà coi tồi tệ quá, hèn hạ quá, đi xin người khác ăn, nhưng mà không ngờ đó là một cái tâm trạng giải thoát vô cùng. Người ta không có gì người ta làm sao mà người ta buồn?
Còn mình có vật này kia, có của cải, tài sản, mình nói rằng mình sẽ hơn người, sẽ đầy đủ sung sướng hơn, mình có đầy đủ vật chất hơn, còn người ta không có gì hết, thua mình. Nhưng mà sự thật trong cái thua của một người tu sĩ đạo Phật, thì cái giải thoát của người đó tuyệt vời.
Còn trái lại một cái người mà giàu có của cải đầy đủ, lại là cái người khổ, lại là cái người ở trong địa ngục mà không thấy. Ngày ăn một bữa người ta sống thấy thanh thản, ngày ăn ba bữa mà sống thấy khổ sở vô cùng.
Đó là lấy cái pháp Tứ Diệu Đế mà đặt lên trên đó để mà tu tập. Thì các con hiểu rằng ở đây Thầy đã nói rằng Tứ Niệm Xứ là cái nơi mà chúng ta tập trung tất cả các pháp lên để tu, để mà cho chúng ta thấu suốt. Cho nên ở đây khi mà viết ra thành sách thì không phải là giảng đơn sơ vậy đâu.
Thầy chỉ mong là các con nghe, rồi các con hỏi thêm, rồi Thầy giải thích thêm. Còn cái phần mà viết ra thành sách để mà giảng cho rộng ra, thì nó từng phần nhỏ, kêu là cắt chia ra, một cái bài pháp này nó chia ra làm nhiều cái phần, nhiều cái đề mục, nhiều cái tiểu mục.
Rồi những cái tiểu mục đó, thí dụ như bây giờ “trên thân quán thân” thì nó là cái tiểu mục, mà quán thân đó nó thuộc về Bốn Thánh Đế, phải không, còn bây giờ “trên thọ quán thọ” thì nó thuộc về Bốn Thánh Đế thì nó là một cái tiểu mục của nó.
Cho nên nó từ cái đại mục của nó là Tứ Diệu Đế quán trên Tứ Niệm Xứ, thì đó đó, mục lớn của nó, nhưng mà khi mà từng cái tiểu mục của nó, nội cái này có thể nó trở thành một cái bài pháp. Tuy rằng nó chưa đầy một trang giấy này, mà khi một người viết ra thành một cuốn sách, thì nội cái này người ta có thể viết ra thành cả trăm trang giấy.
Cái bài pháp của Phật rất cô đọng cho nên nó đòi hỏi ở cái sự diễn ra những cái ý của nó cho được đầy đủ, thì nội cái bài pháp Tứ Thánh Đế, mà chưa nói nó đặt ở trên thân để trở thành một cái pháp tu tập của chúng ta, thì nó cũng đã là quá nhiều rồi.
Đó thì đến đây là chúng ta đã đặt được cái pháp Tứ Thánh Đế trên Tứ Niệm Xứ mà chúng ta tu tập.
(29:25) Bây giờ tiếp tục:
“Này các thầy Tỳ Kheo, vị nào tu tập Bốn Niệm Xứ như vậy trong bảy năm, vị ấy có thể chứng một hoặc hai quả vị sau này. Một là chứng Chánh Trí ngay trong hiện tại, hai là nếu còn có hữu dư y thì chứng quả Bất Hoàn.
Này các thầy Tỳ Kheo, không cần gì phải đến bảy năm, một vị nào tu tập Bốn Niệm Xứ như vậy…”
Nghĩa là từ cái chỗ đầu cái bài học Tứ Niệm Xứ mà chúng ta đặt các pháp lên mà chúng ta tu tập, thì đương nhiên là chúng ta, cái quả vị mà chúng ta tu tập để đạt được, đó là Chánh Trí. Mà Chánh Trí thì hoàn toàn là chúng ta giải thoát được cái đời sống của chúng ta và cái sanh tử của chúng ta rồi.
Ở đây thì cái quả vị nó là Niết Bàn, nhưng vì chúng ta kẹt vào cái danh từ. Niết Bàn thì nó còn bị dính có một cái chỗ để chúng ta về, cho nên ở đây Phật không có dùng cái danh từ đó, mà dùng cái danh từ là “Bất Hoàn”, tức là chúng ta không trở lại cái thế gian này nữa, gọi là chứng quả Bất hoàn.
Nếu chúng ta tu Bốn Niệm Xứ, đặt các pháp mà quán như vậy thì chúng ta sẽ không còn trở lại thế gian này nữa. Nghĩa (là) cái cõi đời đau khổ này chúng ta không còn ở đây nữa.
“Này các thầy Tỳ Kheo không cần phải đến bảy năm…”
Hồi nãy là Đức Phật nói bảy năm, nhưng bây giờ không cần đến bảy năm:
“… một vị nào tu tập Bốn Niệm Xứ này như vậy trong sáu năm, trong năm năm, trong bốn năm, trong ba năm, trong hai năm, trong một năm, vị ấy có thể chứng được hai quả: một là chánh trí, hai là hiện tại ở trong hữu dư y Niết Bàn…”
Trong hiện tại là tâm họ được giải thoát đó.
“… và họ chứng quả Bất Hoàn.”
Tức là không trở lại cái thế gian này nữa.
(31:21) “Này các thầy Tỳ Kheo, không cần đến một năm. Một vị nào tu tập Bốn Niệm Xứ này trong bảy tháng, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: một là chứng chánh trí ngay trong hiện tại, hai, nếu còn hữu dư y Niết Bàn thì chứng quả Bất Hoàn”.
Nghĩa là họ không có trở lại đây nữa.
“Này các thầy Tỳ Kheo, không cần gì bảy tháng, một vị nào tu tập Bốn Niệm Xứ này trong sáu tháng, trong năm tháng, trong bốn tháng, trong ba tháng, trong hai tháng, trong một tháng, trong nửa tháng, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây. Một là chứng chánh trí ngay trong hiện tại, hai, nếu còn hữu dư y thì họ chứng Bất Hoàn”.
Nếu bây giờ chúng ta còn hữu dư y tức là chúng ta còn cái thân để mà sống đó, cái từ “hữu dư y” tức là còn có cái để mà chúng ta sống, “y” là nương tựa, “dư” là thừa thãi. Cho nên bây giờ chúng ta tu rồi, cái thân của chúng ta nó còn, nó chưa có chết, do đó gọi là “hữu dư y”.
Thì cái trạng thái “hữu dư y” này, thì chúng ta sẽ hoàn toàn chúng ta tin tưởng rằng chúng ta sẽ không trở lại cái thế gian này nữa, tức là bất hoàn, không có trở lại đây nữa.
“Này các thầy Tỳ Kheo, không cần nửa tháng, một vị nào tu tập Bốn Niệm Xứ này trong bảy ngày, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây. Một là chứng chánh trí ngay trong hiện tại; hai, nếu còn hữu dư y…”
Tức là còn cái thân này.
“… thì sẽ chứng quả Bất Hoàn”
Tức là họ sẽ không có trở lại cái thế gian này nữa.
“Này các thầy Tỳ Kheo, đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết Bàn, đó là Bốn Niệm Xứ.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy, các thầy Tỳ Kheo hoan hỉ tín thọ lời dạy của Đức Phật”.
(33:17) Ở đây các thầy thấy, sau cùng thì Đức Phật xác định bảy năm, rồi lần lần Đức Phật thu ngắn lại, cái thời gian ngắn lần. Nếu cái niềm tin của chúng ta, cái lòng nhiệt tâm tu hành của chúng ta, thì trong vòng, ở đây Đức Phật xác định cho chúng ta thấy, Bốn Niệm Xứ này trong bảy ngày thì chúng ta có thể chứng hai quả.
Nghĩa là còn lại cuối cùng đó là bảy ngày. Mà người mà nỗ lực tu tập trong bảy ngày sẽ đạt được những cái quả vị như vậy đó, thì nó thoát khỏi những sự sầu não, diệt trừ những sự khổ ưu, thành tựu chánh trí. Đó thì cái lời mà Đức Phật xác định như vậy.
Thật sự trong bảy ngày mà chúng ta biết sắp xếp đúng pháp, đúng cái hướng mà chúng ta tu tập, thì chắc chắn là chúng ta sẽ ly dục ly ác pháp hoàn toàn. Và sự ly dục ly ác pháp này, mặc dù là chúng ta chưa có thực hiện được cái định lực, nhưng mà chúng ta đã ly dục ly ác pháp hoàn toàn. Cho nên trong bảy ngày mà chúng ta thực hiện thì ly dục ly ác pháp hoàn toàn.
Còn hôm nay Thầy giảng các con, Thầy đã cho các con rằng ba tháng là các con sẽ ly dục, ly ác pháp, và ba tháng nữa thì các con sẽ thành tựu bốn loại thiền định, và Tam Minh các con sẽ thành tựu.
Ở đây thì Phật nhắc chúng ta có bảy ngày thôi mà chúng ta đã ly dục, ly ác pháp hoàn toàn đó. Bởi vì ở trên Tứ Niệm Xứ nó có Tứ Thánh Định ở trên đó. Nhưng mà ở chỗ mà chúng ta tu tập đây thì các con thấy, trong cái bài này Đức Phật chưa có nói Tứ Thánh Định, phải không?
(35:01) Chưa có nói ở trên thân này mà tu Tứ Thánh Định, mà chỉ nói chúng ta trên pháp quán pháp, rồi tu Chánh Niệm Tỉnh Giác này kia, chớ chưa có nói. Phải không?
Chỉ có đem cái pháp như là Thất Giác Chi, rồi cái pháp Tứ Diệu Đế, Bốn Thánh Đế đó, đem những cái pháp đó mà tu tập, Bảy Giác Chi nè, rồi đem cái pháp Ngũ Uẩn nè, để đặt lên trên đó mà chúng ta tu tập. Chứ Đức Phật đâu có nói rằng chúng ta đặt Sơ Thiền, Nhị Thiền ở trên này chúng ta tu tập đâu? Đức Phật không có nói cái điều đó đâu.
Mà khi chúng ta đã tu tập cái này thì tâm chúng ta ly dục ly ác pháp rồi, thì tức là chúng ta đã có chánh trí rồi. Mà chánh trí và chúng ta lại không có, biết được chắc chắn là mình không có trở lại cái thế gian này nữa, nghĩa là mình không tái sanh đây nữa.
Thì các con thấy, cái nhân mà chúng ta đã làm chủ được cái đời sống của chúng ta, nó không phải đắm nhiễm tất cả các pháp, thì tức là ly dục, ly ác pháp rồi, do đó chúng ta đã giải thoát được cái tâm rồi.
(36:07) Còn bây giờ giải thoát cái thân thì cái bài kế cái bài Tứ Niệm Xứ này là cái Định Niệm Hơi Thở, thì Đức Phật sẽ xác định cho chúng ta thấy rằng chúng ta phải tu từ những cái định để mà chúng ta tiến ở trên Bốn Niệm Xứ này, thì cũng đặt ở trên cái Bốn Niệm Xứ này mà chúng ta tu tập chớ đâu phải ngoài Bốn Niệm Xứ này được!
Nhưng mà ở đây, để mà cái giai đoạn đầu của Tứ Niệm Xứ, để mà ly, để mà lìa những cái tâm ác, tâm dục cho nên mới đặt những cái pháp này để mà chúng ta tu tập. Đó thì như vậy là chúng ta đã thấy cái giai đoạn Tứ Niệm Xứ, cái giai đoạn đầu của nó để ly dục ly ác pháp.
Đến cái giai đoạn kế là bắt đầu từ cái Định Niệm Hơi Thở, tức là cái hành động nội ở trên thân mà quán thân, hành động nội đó, thì đó là Định Niệm Hơi Thở.
Cho nên ở đây các thầy thường hay bị cái danh từ, mà cứ nghĩ rằng cái danh từ đó là chỉ một pháp, mà danh từ kia chỉ một pháp. Không ngờ là cái danh từ đó nó nói cái pháp đó, rồi cái danh từ khác nó cũng nói có cái pháp đó thôi.
Nói “trên thân quán thân tu về hành tướng nội”, thì quý thầy cứ nghĩ đó là một cái Tứ Niệm Xứ tu thôi, chứ không ngờ đó là cái Định Niệm Hơi Thở.
Bởi vì ngoài cái hơi thở này hành tướng nội là cái gì? Có phải là hơi thở của chúng ta không? Nếu là một người mà không có trí tuệ thì nghe “trên thân quán thân tu về hành tướng nội” thì họ chẳng biết là cái định gì hết à.
Cho nên khi mà, kinh điển Nguyên Thủy này mà nếu một người không tu, không có trí tuệ, thật sự thì không triển khai nổi đâu, cái tưởng tuệ không có tưởng ra nổi, không có tưởng nổi. Cho nên vì vậy mà họ triển khai Tứ Niệm Xứ thì hầu hết là, quý thầy đã có nghiên cứu nó thì quý thầy thấy, các nhà học giả họ không có triển khai ra được.
Cho nên họ không thấy nó có những cái tên, có khi một cái pháp có ba, bốn tên lận, mà nó chỉ có một pháp đó thôi. Cho nên bây giờ thí dụ như trên cái Tứ Niệm Xứ này, thì nói “trên thân quán thân tu về hành tướng nội” thì người ta biết đó là cái định gì rồi, thì người ta biết là Định Niệm Hơi Thở.
Vậy thì trên con đường Định Niệm Hơi Thở nó sẽ tu như thế nào? Cho nên ở đây chúng ta sẽ tiếp tục học về cái Định Niệm Hơi Thở.
Bởi vì đây là cái giai đoạn ly dục. Còn bây giờ cái giai đoạn, cái đường đi, giai đoạn của hơi thở thì nó tiếp tục ở trên cái Tứ Niệm Xứ này, để nó thực hiện Bốn Thiền và nó làm chủ các pháp.
(38:19) Còn cái này là lấy các pháp mà Phật dạy để tập trung trên cái này để tu, để cái tâm chúng ta ly dục ly ác pháp.
Cho nên chúng ta càng thấu rõ, có cái chánh trí là chúng ta làm thấu rõ được cái Khổ, Tập, Diệt, Đạo ở trên cái thân của chúng ta rất rõ ràng, trên thân, thọ, tâm, pháp của chúng ta.
Cho nên lấy trên Tứ Niệm Xứ này mà chúng ta quán xét, lấy các pháp đặt ở trên Tứ Niệm Xứ chúng ta tu. Thì do đó cái tâm chúng ta ly dục ly ác pháp, chúng ta không còn ham muốn cái thế gian này nữa hết, đời không có gì nữa hết.
(38:45) Thầy nói bây giờ cho Thầy nhà lầu, xe hơi, cái gì Thầy cũng không ham hết à. Cái đời này bây giờ không có cái gì mà cám dỗ Thầy nổi hết, vì Thầy đã thấy nó rõ ràng lắm rồi. Bởi vì đặt pháp ở trên đó, trên cái thân của Thầy, thân, thọ, tâm, pháp của Thầy, Thầy đã tu, cho nên Thầy quán xét rồi, không có vật gì mà có thể xâm chiếm được cái tâm của Thầy.
Cho nên khi mà thông suốt rồi thì có bảy ngày, suy ngẫm có bảy ngày người ta bỏ sạch xuống hết, người ta không ham gì nữa hết. Bây giờ cuộc đời không còn có gì nữa, đời đâu có gì nữa! Còn bây giờ, tuy rằng nghe Thầy nói vậy chớ sự thật ra các con chưa dám bỏ một cái gì hết à!
Bây giờ Thầy nói nhà con có một tủ sách đi, con đâu có dám đốt nó đâu, con đâu có dám bỏ, con phải tiếc à! Còn đối với Thầy, Thầy nói đó là một cái tầm thường, không có gì hết. Cho nên Thầy chẳng có tiếc một cái vật gì hết, vì vậy mà tâm Thầy nó rỗng rang, tâm mình nó xả bỏ, nó thanh thản vô cùng.
Còn các con, bây giờ cái vật rất là nhỏ mọn, nhưng mà vì nó cần dùng cho các con là các con không bỏ. Còn cái người tu rồi họ đâu có cần dùng gì đâu, họ không cần dùng gì hết.
Bây giờ khát nước, họ không có đồ, họ xuống dưới dòng suối vầy họ bụm họ uống, họ không cần có bình lọc nữa. Nếu mà cái nghiệp chết, giờ uống vô chết họ cũng uống, họ cũng không ngán nữa. Còn chúng ta là sợ chết cho nên phải lọc sạch sẽ, chớ để vi trùng uống ở trỏng đó chết queo rồi sao?
Đó là cái chúng ta chưa có thấy, chưa có xả, mà chúng ta cũng chưa thấu được cái Đạo Đế, cho nên chúng ta chưa có nhìn được cái nghiệp, cái nghiệp tức là nhân quả đó, Chánh Nghiệp, các con nhớ Chánh nghiệp, đó là cái nghiệp nhân quả đó. Cho nên chúng ta chưa thấu suốt được cái Bát Chánh Đạo là tám cái nẻo ở trong cái Tứ Diệu Đế đó.
Mà Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo, mà chúng ta đặt ở trên cái thân, thọ, tâm, pháp của chúng ta, để dùng cái Bát Chánh Đạo đó để mà thực hiện thì chúng ta đã thấy được cái nghiệp của nó quá rõ ràng rồi.
Ở đây coi như là Thầy giảng sơ sơ đó, nghĩa là nói tổng quát vậy thôi, chớ thì giờ không có, chớ còn nói ra từng cái bài pháp, một cái bài pháp của Phật trong cái bài kinh như thế này, các con thấy nó ngắn vầy nè, mà Thầy nói quảng diễn nó ra mà thành, thì nó trở thành một cuốn sách cả hai, ba trăm trang, có thể năm trăm trang, một cái bài nhỏ như vầy nè. Biết bao nhiêu cái điều cần nói, một cái chữ ở trong đó có thể diễn tả ra cả mấy trang giấy, cái danh từ của Phật dùng ở trong này nè.
Thì các con thấy những cái bộ kinh của Phật, mà đem một đống kinh sách này đó, Thầy nói rằng một đống nó quá lớn, một bộ kinh như Trung Bộ là ba cuốn vầy rồi, mà Tương Ưng thì năm cuốn rồi. Mà tất cả các bộ kinh này, năm bộ kinh như vậy rồi thì các con thấy một đống kinh sách như vậy, mà những cái bài kinh tuy nó ngắn vậy chớ nó mệnh mông, của Phật muốn nói cái nghĩa mà tu tập nó mênh mông lắm.
(41:15) Bây giờ thì các con học tiếp tục về cái Định Niệm Hơi Thở.
Bởi vì cái Định Niệm Hơi Thở này là các con cũng biết xuất phát từ đâu rồi. Nghĩa là Đức Phật nói “trên thân quán thân tu về hành tướng nội” thì tức là Tứ Niệm Xứ rồi chớ gì! Mà hành tướng nội là, ở trong thân của các con, nội thân của các con cái gì là hành tướng? Có phải là hơi thở không? Đó, cho nên đó là Định Niệm Hơi Thở rồi đó.
Thì bây giờ chúng ta chuyển qua cái Định Niệm Hơi Thở thì chúng ta cũng biết rằng chúng ta đang tu ở trên Tứ Niệm Xứ, chớ không phải là Định Niệm Hơi Thở nó ngoài ra. Cho nên cái nhà học giả thì họ nói về cái pháp Định Niệm Hơi Thở, thì đương nhiên nó không dính dấp gì với cái Tứ Niệm Xứ hết.
Bởi vậy họ là những người ngu, không thấy! Cái hơi thở mà làm sao nó rời khỏi cái thân chúng ta ra mà tu? Làm như cái hơi thở đâu ở ngoài đất, hay hoặc là ở không gian, họ lấy xuống họ tu! Cho nên cái đó là cái hiểu của nhà học giả. Chớ không ngờ là cái hơi thở là ở trong thân của chúng ta.
Mà cái hơi thở ở trong thân chúng ta thì cái tu hơi thở này tức là ở trên thân mà quán thân tu về cái Định Niệm Hơi Thở chớ cái gì? Để chúng ta làm chủ những gì đây? Cho nên nương vào cái hơi thở thì nó có lợi ích rất lớn cho chính sự tu tập của chúng ta.
Đây các con thấy, từ đem các pháp đặt ở trên đó để mà quán, thì đó thuộc về Định Vô Lậu, mà bây giờ tu về cái hành động này nè, tức là hành động nội nè, Định Niệm Hơi Thở:
“Hơi thở ra, này các thầy Tỳ Kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, thời có quả lớn, có lợi ích lớn. Và này các thầy Tỳ Kheo, tu tập Định Niệm Hơi thở vô, hơi thở ra như thế nào làm cho sung mãn, thế nào thời có quả lớn, có lợi ích lớn?”
Nghĩa là tu tập như thế nào để mà cho nó có quả lớn, tức là nó có kết quả cho chúng ta liền?
Đó thì ngay ở trên cái thân này chúng ta đã đặt cái pháp Định Niệm Hơi Thở mà chúng ta tu tập nó đây, làm cho cái thân của chúng ta, làm cho cái thân nội, cái hành động nội của chúng ta nó thanh tịnh, nó làm cho chúng ta có những cái đạo lực, cái quyền lực để mà chúng ta sai khiến, làm chủ mọi cái sự việc đây.
(43:17) “Ở đây, này các thầy Tỳ Kheo, Tỳ Kheo đi đến một khu rừng, hay đi đến một gốc cây, hay đi đến một căn nhà trống”.
Bắt đầu Đức Phật muốn dạy chúng ta tu Định Niệm Hơi Thở, thì phải tìm cái nơi yên tĩnh, cái mục đích là tìm cái nơi yên tĩnh, chớ đừng có nơi mà động, cái nơi mà họp chợ, cái nơi mà tập trung nhau nói chuyện thì tu cái Định Niệm Hơi Thở không có được đâu.
Tu cái Định Vô Lậu thì cái chỗ nào, Đức Phật cũng không có nhắc chúng ta vào ở trong rừng, hay hoặc là đi đến cái khu rừng hay gốc cây, mà tới cái Định Niệm Hơi Thở thì Đức Phật nhắc chúng ta phải đi tìm cái khu rừng, cái gốc cây rồi. Nó khác đó các thầy.
Bởi vì mà khi chúng ta cũng trên thân quán thân mà đặt cái pháp Tứ Thánh Đế, thì Đức Phật không có bảo chúng ta vào rừng, muốn ở chỗ nào ngồi chúng ta ngồi sao cũng được hết. Nhưng khi mà bảo chúng ta tu về cái hơi thở, thì Đức Phật bảo chúng ta đi vào rừng, đi kiếm cái nơi thanh vắng, cái ngôi nhà trống ai bỏ đó, chúng ta vào đó. Rồi chúng ta ngồi kiết già lưng thẳng lên, Đức Phật xác định cho chúng ta rõ mà.
Còn bây giờ nếu mà Đức Phật dạy hơi thở mà Đức Phật không có bảo vậy thì chúng ta ngồi giữa chợ chúng ta tu thì chắc cũng được chớ gì? Nhưng mà Đức Phật thấy cái đó không đúng cho nên Đức Phật đâu có dạy chúng ta.
Cho nên có nhiều người nói tu giữa chợ, thực sự ra cái sự tu giữa chợ đó, cái pháp nào mà tu giữa chợ, mà cái pháp nào mà tu nó không phải giữa chợ?
Ở đây thì cái pháp hơi thở hoàn toàn là phải nói là, tu không ở ngoài chợ mà tu được đâu. Nhưng mà cái Định Vô Lậu thì có thể tu được, nhưng mà cái Định Niệm Hơi Thở thì không thể được.
Cho nên ở đây là Phật đã nhắc nhở mình rất nhiều, cái chỗ mà phải tìm một khu rừng vắng, một gốc cây, một cái ngôi nhà trống, rồi mình phải ngồi cái lưng thẳng, ngồi kiết già mà lưng thẳng. Thì đó là những cái quan trọng, trước khi chúng ta chuẩn bị để tu tập cái hơi thở.
(45:01) Thì bắt đầu chúng ta quán cái gì? Nghĩa là chúng ta đã thông suốt hết, đã xả được cái tâm của mình rồi, mà sợ nó còn những cái gì mà nó chưa có được yên tịnh, tức là mình ngồi lại mà cái tâm mình nó còn phóng ra cái niệm vọng tưởng, cho nên mình nhắc, nhắc tâm ly của mình, tâm từ bỏ của mình, để mình xả ra.
Thì Đức Phật bắt đầu: “Quán từ bỏ tôi sẽ thở vô, vị ấy tập. Quán từ bỏ tôi sẽ thở ra.” Rõ ràng là bây giờ, mình ngồi lại để mình gạn lọc, coi cái tâm mình xả coi nó sạch hết chưa. Nếu mà nó sạch, thì mình nhiếp tâm vô thì cái tâm nó quay vô liền, nó không còn cái niệm nào hết.
Mà nó còn cái niệm thì tức là “quán từ bỏ”. Mà bây giờ mình thấy nó còn cái vọng tưởng nè, thì tức là mình phải quán từ bỏ, mình nương theo cái hơi thở để mà quán từ bỏ nó, thì do đó nó không còn vọng tưởng nữa.
Đó, cách thức như vậy đó, nó mới hết vọng tưởng. Chớ còn không khéo, mà đây là người ta đã ly dục ly ác pháp rồi, bắt đầu người ta mới tiếp tới cái bài kế đó, là người ta tu Định Niệm Hơi Thở. Còn mình chưa có ly dục ly ác pháp, mà nhảy vô trong thất mà ngồi khoanh chân, mà ngồi hít thở hít thở kiểu đó là mai mốt nó nghẹt thở mà chết chớ đâu có sống được!
Thì trong cái vấn đề tu tập thì mình phải hiểu từng cái bước, từng cái giai đoạn. Nghĩa là, nói chung cái người muốn tu về Định Niệm Hơi Thở này là phải trải qua tu cái giai đoạn đầu của Tứ Niệm Xứ, để xả cái tâm cho xong đã.
Đem các pháp mới thấy đời khổ, cho nên vì vậy, mà vì dạy sai, không có đi từ căn bản cho nên hầu hết là quý thầy thấy đời còn đẹp, cho nên thấy cái gì đời nó cũng còn tốt, cho nên không có xả bỏ được nó. Tuy rằng xả bỏ mà xả bỏ có phân nửa, còn phân nửa thì vẫn thấy…
(Xem tiếp ở Pháp hành 23)
HẾT BĂNG
PHÁP HÀNH 23 - NGƯỜI MỚI TU KHÔNG NÊN TẬP ĐỊNH NIỆM HƠI THỞ
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Thời gian: 1998
(tiếp theo Pháp hành 22)
(0:00) Hôm nay các con học về Giới Hành cho nên Thầy phải giảng, đi từng phần, để thấy từng cái thứ tự của các pháp tu, để mà sau này chúng ta sắp xếp lại cái phương hướng tu tập của chúng ta rõ ràng hơn.
Vì cái thời gian hướng dẫn, Thầy tùy theo các pháp mà mọi người đang tu tập, rồi tùy theo cái trường hợp, cái hoàn cảnh tùy thuận của Đại Thừa, không có dám động chạm họ, cho nên cũng nương tay.
Vì vậy mà trải qua 18 năm nay, coi như vì cái sự tùy thuận, quá tùy thuận của Thầy, cho nên Thầy không dám chỉ thẳng rằng phải tu cái nào đúng cái nào sai, không dám nói rằng cái đó sai, mà cái tu tập như thế này đúng, cho nên chỉ tùy thuận họ mà không dám nói họ sai.
Do cái chỗ mà không dám nói họ sai cho nên họ không biết sai, vì vậy mà trong tư tưởng, trong đầu họ, họ nghĩ cái đó đúng, vì vậy mà họ cứ… Mặc dù Thầy cố lái họ, nhưng mà họ vẫn nghĩ rằng trong đầu họ cái đó đúng.
Cho nên đến giờ phút này Thầy không nói ra thì chắc chắn cũng không còn ai mà nói nữa. Cho nên tuy Thầy biết rằng nói ra thì nó sẽ có sự đụng chạm rất lớn với các nhà Đại Thừa, nhưng mà nói ra để mà cho cái người sau biết được cái đúng cái sai mà người ta tránh.
Còn không nói ra mà bưng bít, chỉ để cho cái lợi ích cá nhân của Thầy, nghĩa là người ta không nói Thầy như thế này thế khác, để cho người ta ca ngợi Thầy là cái người tùy thuận, không chống báng ai hết, thì Thầy thấy, nếu mà người ta ca ngợi Thầy thì chỉ được có cái phần an ổn cho Thầy mà thôi.
Còn cái thế hệ, cái con người sau này mà theo đạo Phật thì họ chẳng biết đường đâu mà đi, cho nên họ vẫn thấy Đại Thừa, vẫn thấy Thiền Tông là đúng.
Còn bây giờ Thầy mạnh dạn Thầy đập thẳng. (01:56) Người ta nói Thầy là con người hay nói xấu, hay chống báng, hay này kia, đả kích cái này kia, họ nói mặc họ.
Thầy hiện giờ cái đúng là Thầy nói đúng, mà cái sai Thầy nói sai. Ai ở trong cái sai thì phải chịu chung cái số phận của lời nói của Thầy mà thôi. Chớ còn bây giờ mà Thầy cứ nhân nhượng, nhân nhượng họ, thì ngàn năm sau thì nó cũng như vậy thôi.
Cho nên pháp Phật càng ngày càng nhân nhượng thì pháp Phật bị dìm mất đi, và cũng không người nào mà triển khai nổi những cái pháp hành như thế này được.
Tuy rằng tạng kinh có chữ nghĩa hẳn hòi, nhưng mà đọc vô thì người ta thấy dường như là pháp này với pháp kia nó có riêng rẽ nhau, nhưng ở đây không phải đâu! Nó tập trung trên một cái điểm nào đó, để mà nó thực hiện được cái sự giải thoát của cái điểm đó.
Vì vậy mà hôm nay chúng ta mới thấy cái Định Niệm Hơi Thở là một cái vấn đề quan trọng, mà từ lâu các thầy về đây được Thầy hướng dẫn về Định Niệm Hơi Thở nhiều nhất.
Nhưng Thầy không dám nói lạc sang qua cái khác, bởi vì trong Đại Thừa nó cũng lấy cái hơi thở mà làm cái tiêu chuẩn để mà tu, cho nên Thầy lấy hơi thở thì nó thấy không có sai khác, cho nên nó không có nghịch. Nhưng thực sự ra cái hơi thở không phải là cái giai đoạn đầu của người tu.
Cái người mới tu không có nên tu cái hơi thở, mà hãy tu cái Định Vô Lậu, xét thấy được cái Khổ, Tập, Diệt, Đạo ở trên cái thân này nè, để rõ thấu được, thì đem những các pháp đó mà để thông suốt được, rồi từ đó chúng ta mới tu cái Tứ Chánh Cần, đặt các định ở trên thân của chúng ta mà thực hiện Tứ Chánh Cần, làm cho các pháp ác nó lìa ra, làm cho nó ly ra, làm cho nó đoạn dứt đi.
Thì cái tu tập như vậy mới chính là cái thiền định của đạo Phật, chớ không phải ngồi lại mà nương vào hơi thở đếm, hay sổ, hay tùy để rồi đi vào thiền định.
(03:40) Bây giờ tới cái giai đoạn mà chúng ta ly rồi, vậy mà Phật còn cẩn thận bảo chúng ta phải ngồi lại thẳng lưng, rồi quán từ bỏ, để xem nếu mà bây giờ đó, đầu mình nó không có vọng tưởng thì mình không cần từ bỏ nữa, bởi vì tâm mình nó gom vào.
Mà đầu mình nó còn khởi niệm vọng tưởng, thì mình phải quán từ bỏ, quán từ bỏ nương hơi thở thì chúng ta sẽ ức chế được cái vọng tưởng. Cho nên ở đây Phật dạy “Quán từ bỏ tôi sẽ thở vô, vị ấy tập. Quán từ bỏ tôi sẽ thở ra, vị ấy tập.” Đó thì ở đây cái người mà tu tập như vậy gọi là tu Định Niệm Hơi Thở.
Mà Định Niệm Hơi Thở thì các thầy nên nhớ là “trên thân quán thân tu về hành tướng nội”. Đó, thì như vậy là nó đâu có lìa ra khỏi cái Tứ Niệm Xứ đâu? Tức là ngay pháp môn đó, cái Định Niệm Hơi Thở là cái pháp môn để mà thực hiện ở trên cái thân của nó, để nó làm một cái đường đi để mà nhập các định.
“Định niệm hơi thở vô, hơi thở ra. Này các thầy Tỳ Kheo, tu tập như vậy làm cho sung mãn, thời có quả lớn và có lợi ích lớn.”
Nghĩa là chúng ta chỉ quán như vậy, rồi chúng ta tu tập như vậy, cứ nhắc thường xuyên. Chúng ta nhắc trong 5 phút, 10 phút, rồi 30 phút, rồi một giờ. Ngồi thiền kiết già thẳng lưng mà chúng ta nhắc cái câu này: “Quán từ bỏ tôi sẽ thở vô, quán từ bỏ tôi sẽ thở ra.”
Nếu khi mà chúng ta thấy cái tâm của chúng ta đã từ bỏ rồi, đã xa lìa, đã ly tham, sân, si rồi, đã ly dục, ly ác pháp rồi, thì chúng ta không cần dùng câu này nữa.
(05:14) “Này các thầy Tỳ Kheo…”
Đức Phật nhắc, cái thời Đức Phật tu, tu cái pháp hơi thở nè:
“Này các thầy Tỳ Kheo, trước khi ta chưa giác ngộ, chưa chứng chánh đẳng giác, khi còn là Bồ Tát…”
Đó thì ở đây các thầy thấy, Thầy có trả lời cho các thầy rồi đó, Bồ Tát là một vị tu chưa có chứng, cho nên Đức Phật nói khi ta còn Bồ Tát, tức là ta chưa chứng Chánh Đẳng Chánh Giác, chưa giác ngộ. Cho nên:
“… khi ta còn Bồ Tát, ta trú nhiều với trú này”
Tức là ta tu nhiều với cái pháp này. Nghĩa là trong lúc đó là Bồ Tát đang tu nhẫn nhục, tùy thuận, xả tâm của mình đó, thì Đức Phật lại tu về cái pháp hơi thở.
“Này các thầy Tỳ Kheo, do ta tu tập nhiều…”
Ở đây thì nói “ta trú nhiều với trú này”, ở đây thì Thầy dịch ra: “Ta tu cái pháp này nhiều nên thân và con mắt không có mỏi mệt và tâm ta được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ”.
Rõ ràng là từ bỏ thì từ bỏ cái gì? Từ bỏ lậu hoặc chứ gì, từ bỏ tham, sân, si chứ gì! Cho nên nương vào hơi thở nó làm cho chúng ta tỉnh táo, làm chúng ta sáng suốt lên, cho nên con mắt không có mỏi mệt, tâm ta nó không cái lừ đừ, Đức Phật nói như vậy.
“Ta được giải thoát khỏi các lậu hoặc và không có chấp thủ”.
Do tu tập như vậy thì Đức Phật sẽ thấy giải thoát hoàn toàn.
“Do vậy này các thầy Tỳ Kheo, nếu Tỳ Kheo ước muốn rằng, mong rằng thân và mắt không bị mỏi mệt và mong rằng tâm được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ, thời định niệm hơi thở vô, hơi thở ra này cần phải khéo tác ý.”
Phải không? Khéo tác ý là khéo cái gì? Quán từ bỏ, hay là “hơi thở vô tôi biết vô, hơi thở ra tôi biết ra”, tức là “khéo tác ý” đó.
Các thầy thấy chưa, cái bài kinh của Phật dạy rõ ràng, mà đây là cái kinh nghiệm của Phật. Phật nói, lúc mà ta còn là Bồ Tát, chưa có thành Chánh Đẳng Chánh Giác, ta tu cái này nhiều.
Cho nên khi mà vào đây, ba năm, bên nữ các con thấy, ba năm Thầy cho các con rèn luyện cái Định Niệm Hơi Thở rất là kỹ lưỡng mà.
(07:14) Cho nên hôm nay mà các con tiến tới tu thì Thầy tin rằng cái hơi thở các con sẽ quá thuần thục rồi, không còn có một cái khó khăn nữa. Do vậy bây giờ hiện giờ có đứa ba mươi phút hoặc một giờ không có niệm vọng tưởng xen vào, thì các con biết là nó đã đạt đến cái mức của Tầm Tứ.
Và bây giờ mà chúng ta chuyển qua một cái pháp Định Vô Lậu để mà chúng ta xả cái tâm cho sạch. Thì chuyển qua cái pháp vô lậu mà xả tâm, thì chúng ta tu ngay cái Tứ Chánh Cần, mà giữ trong ba tháng thì thử hỏi các con có đạt được không?
Cho nên bên nữ các con, nếu mà Thầy đã xác định rất là đúng cái thời điểm của các con sẽ thành tựu được, trong ba tháng là các con ly dục ly ác pháp. Và vì vậy mà cái hơi thở này nó sẽ giúp các con ly dục ly ác pháp rất là cụ thể.
Cho nên khi mà ngăn chặn ác pháp thì các con thấy Thầy khuyên các con tu Chánh Niệm Tỉnh Thức và Định Niệm Hơi Thở chứ gì?
Đó thì cái Định Niệm Hơi Thở này, thì: “Quán từ bỏ tôi sẽ thở vô, quán từ bỏ tôi sẽ thở ra”, các con thấy chưa? Như vậy cho nên các con sẽ xả ly và bỏ các pháp ác được, cho nên ly dục ly ác pháp được.
Mà Đức Phật đã nhắc lại cái thời của mình chưa thành tựu, chưa giác ngộ, chưa thành Chánh Giác, thì Đức Phật đã tu tập nó, tu tập cái này đo, mà phải khéo tác ý.
Đây Thầy đọc lại cái câu này để cho các con và các thầy nghe:
“Do vậy, này các thầy Tỳ Kheo, nếu Tỳ Kheo ước muốn rằng, mong rằng các niệm và các tư duy của ta được đoạn tận, thời định niệm hơi thở vô hơi thở ra này phải được khéo tác ý”.
Mong rằng, muốn rằng đoạn diệt những cái sự suy tư ở trong cái đầu của mình và các niệm được đoạn diệt, thì cái Định Niệm Hơi Thở này phải khéo tác ý. Khéo tác ý như thế nào? Từ bỏ: “Quán từ bỏ tôi thở vô, quán từ bỏ tôi thở ra”, có phải vậy không?
Đó thì, chữ “khéo tác ý” ở đây Đức Phật muốn nhắc là chúng ta phải khéo nó để mà nhắc tâm của chúng ta.
Đó thì như vậy là nó, cái khéo tác ý như vậy là các thầy và các con phải nhớ, đó là một cái pháp hướng của chúng ta, để cho nó, khi mà nó đã ngăn chặn đứng được tất cả các cái tạp niệm, các cái lậu hoặc, thì lúc bấy giờ nó trở thành một cái đạo lực cho chúng ta đó.
(09:22) Đây bây giờ kế tới, Đức Phật dạy kế tới: “Do vậy này các thầy Tỳ Kheo, nếu thầy Tỳ Kheo ước muốn rằng, mong rằng ta sẽ trú trong tưởng nhàm chán đối với các pháp không nhàm chán”.
Muốn rằng mình được nhàm chán cái pháp không nhàm chán, nghĩa là bây giờ chúng ta ăn cái viên trôi nước chúng ta thấy thèm quá, cho nên cái pháp đó, cái pháp trôi nước nó chưa có phải là cái pháp nhàm chán đối với ta đâu.
Cho nên chúng ta muốn nhàm chán cái pháp đó đó, thì chúng ta phải tu tập Định Niệm Hơi Thở, thì chúng ta khéo tác ý thì nó sẽ nhàm chán cái pháp đó.
Như bây giờ Đức Phật mới nói, bây giờ các con thèm trôi nước phải không? Thì các con nên lấy cái hơi thở mà các con tu thì các con sẽ không thèm trôi nước nữa.
Ý nói vậy, Thầy muốn nói thẳng ra vậy, bây giờ tui thấy viên trôi nước tui thèm quá, cỡ sức tui ăn chục viên đó, tui đang thèm trôi nước mà, cho nên nó muốn ăn vậy đó, mà bây giờ, ông Phật nói bây giờ phải nhàm chán cái đó đi.
Mà muốn nhàm chán vậy thì cái Định Niệm Hơi Thở vô, hơi thở ra này cần phải khéo tác ý thì nó sẽ nhàm chán, phải không? Cái pháp Đức Phật dạy rõ lắm, cho nên vì vậy mà mình muốn mình nhàm chán nó thì mình phải dùng cái pháp hướng, nương theo cái hơi thở mà nhắc thì nó sẽ nhàm chán chớ gì? Phải không?
Hay quá, quá tuyệt! Cho nên ở đây các con thấy ông Phật ông dạy, nhưng mà cái người mà không biết thì không hiểu được cái chỗ này. Cho nên vì vậy họ chẳng biết tu, cho nên họ cứ ham thích, cho nên cái ham thích của họ, thích ăn, thích uống, thích trôi nước, thích chè.
Cho nên bữa nào mà có xôi cô Út làm đó, thì thấy các thầy cũng thấy ăn được, ngon, thích, phải chi mà có nhiều nhiều chút nữa!
Thầy nói thât sự ra thì khi mà cái pháp đó là cái pháp nó không nhàm chán, mà bây giờ mình phải hướng tâm mình nhắc như thế nào để cho mình nhàm chán, thì Định Niệm Hơi Thở là một điều cần thiết giúp cho chúng ta sẽ nhàm chán.
“Do vậy này các thầy Tỳ Kheo, nếu Tỳ Kheo ước muốn rằng, mong rằng ta sẽ trú những tưởng không nhàm chán đối với các pháp nhàm chán…”
Bây giờ đau nhức quá phải không? Cái pháp mà đau nhức quá, thì cái pháp đó là cái pháp mình ghét đó, gọi là nhàm chán, mình sợ nó quá, mà nó cứ nó đau nhức mình hoài, (11:26) do đó Đức Phật cũng bảo, mình muốn cho xa lìa cái nhức này thì nên dùng cái pháp hướng nhàm chán cái này đi, thì tức là mình nương cái hơi thở thì mình sẽ đuổi cái thọ nó đi đi.
Vì vậy cho nên ở đây, Thầy bảo các con dùng cái pháp hướng mà phá cái thọ mình đi. Mà đây Đức Phật nói thường nương vào cái hơi thở, muốn phá cái thọ này, thì cái hơi thở này, cái Định Niệm Hơi Thở vô, hơi thở ra này cần phải khéo tác ý nó với cái pháp hướng này.
Thì rõ ràng là Đức Phật muốn bảo chúng ta phải ở trong cái trạng thái yên tĩnh chớ gì? Yên lặng chớ gì? Cho nên mới phá cho được cái thọ chúng ta chớ gì!
Đó thì, cái lời nói của Phật, nó rõ ràng và cụ thể đến cái mức độ Thầy nói, đến cái hơi thở như vậy, thì các con thấy biết rằng các pháp như vậy rất rõ ràng. Đây là cái cuốn kinh Tương Ưng Bộ đã dạy như vậy rõ ràng, chớ không phải là Thầy đặt ra, mà Thầy đã từng dạy.
Đó thì ở đây, thì Đức Phật dạy chúng ta, nếu mà gặp cái thọ, tức là cái pháp nó làm cho chúng ta chán, sợ, thì chúng ta nên dùng cái pháp hơi thở mà tu tập, thì nó sẽ hết.
(12:33) Đây một cái bài kế nữa:
“Do vậy, này các thầy Tỳ Kheo, nếu Tỳ Kheo ước muốn rằng, tôi sẽ trú trong tưởng nhàm chán đối với pháp không nhàm chán và nhàm chán, thời Định Niệm Hơi Thở khéo tác ý ”.
Đó ở đây Đức Phật nói rằng, nó có những pháp mà mình không nhàm chán, tức là bây giờ mình thích ăn, thích ngủ là cái pháp không nhàm chán. Và cái pháp nhàm chán là cái pháp nào ? Đau nhức, rồi họ chửi mắng mình, hay hoặc họ nói nặng nhẹ mình, thì cái pháp đó mình sợ quá, tức là mình nhàm chán cái pháp đó quá rồi.
Ở đây Đức Phật dùng cái chữ nhàm chán, là cái tâm của mình, thì cái thọ khổ thì mình nhàm chán, mình ghét lắm, mà cái thọ lạc thì mình thích. Cho nên cái thọ lạc tức là cái pháp không nhàm chán, mà cái thọ khổ thì nhàm chán.
(13:22) Cho nên ở đây Đức Phật muốn mình phá được cái pháp không nhàm chán và cái pháp nhàm chán này, muốn phá được, thì cái Định Niệm Hơi Thở khéo tác ý. Nghĩa là mình bị cái pháp nào đó thì mình dùng cái hơi thở mình phá nó cho sạch, cố gắng phá nó cho sạch hết.
“Do vậy này các thầy Tỳ Kheo, nếu Tỳ Kheo ước muốn rằng tôi sẽ trú với tưởng không nhàm chán đối với pháp nhàm chán và không nhàm chán, thời Định Niệm Hơi Thở khéo tác ý.”
Nghĩa là cái pháp nhàm chán và không nhàm chán, mình dùng cái tưởng, tức là mình dùng cái pháp hướng rồi mình tưởng ra, để rồi mình nương vào cái hơi thở mà mình xả cái tâm của mình.
“Do vậy này các thầy Tỳ Kheo, nếu Tỳ Kheo ước muốn rằng, mong rằng sau khi từ bỏ cả hai không nhàm chán và nhàm chán, tôi sẽ trú xả niệm tỉnh giác, thời Định Niệm Hơi Thở khéo tác ý .”
Đó, bây giờ đó mình mới xả được cái pháp nhàm chán rồi. Từng hồi mới đầu thì mình mới có đặt cái chỗ mà quán từ bỏ để mình xem xét coi có vọng tưởng không? Bây giờ nó hết vọng tưởng rồi, thì bắt đầu mình biết rằng cái tưởng của mình nó còn chưa có nhàm chán đâu.
Cái ý thức của mình thì mình, bởi vì cái Định Vô Lậu, thì mình có thể tạo cho nó, ly nó rồi đó, nhưng mà cái tưởng nó chưa có ly đâu.
Bởi vì, bây giờ mình đã thực hiện cái pháp ý thức của mình là khép giới luật, tuy rằng mình ăn ngày một bữa, nhưng mà bây giờ thấy cái gì đó mình cũng còn muốn ăn chớ chưa phải hết. Cho nên cái tưởng mà muốn ăn đó chưa nhàm chán đâu.
Cho nên ở đây Đức Phật muốn dạy chúng ta từ cái ý thức xa lìa cho đến cái tưởng phải là đoạn dứt nó, thì cái Định Niệm Hơi Thở là cái chỗ mà chúng ta dứt được những cái tưởng này đó. Bởi vì cái tưởng chúng ta còn tưởng ăn đây nè, chớ chưa phải hết đâu.
Cho nên khi đó bây giờ chúng ta đã lìa được cái pháp không nhàm chán và nhàm chán rồi thì chúng ta sẽ trú xả ở trong cái Chánh Niệm Tỉnh Giác, (15:16) bây giờ nó mới thực sự là chúng ta đã có Chánh Niệm Tỉnh Giác.
Và Chánh Niệm Tỉnh Giác đó thì phải nương cái Định Niệm Hơi Thở mà chúng ta mới có được cái sự, các pháp không nhàm chán và nhàm chán này, chúng ta mới ly nó ra được, của tưởng đó. Cho nên ở đây Phật dạy cái bài pháp rất là kỹ, từ cái ý thức xa lìa rồi bây giờ tới cái tưởng thức xa lìa.
Xa lìa các pháp của tưởng thức rồi bắt đầu bây giờ mới là, chúng ta mới tiến tới một cái giai đoạn của khi mà nó đã tỉnh giác chánh niệm mà nó xa lìa như vậy hết rồi, từ cái xa lìa của cái ý thức của chúng ta, cho đến cái tưởng thức của chúng ta, đều là chúng ta xa lìa những cái tưởng. Mà cái tưởng đó là đối với các pháp chớ không phải là tưởng pháp đâu.
Nghĩa là bây giờ chúng ta thấy cái đồng hồ này mà chúng ta ham thích, chúng ta về nhà chúng ta tưởng cái đồng hồ, “bây giờ phải chi mình có cái đó”, tức là mình nghĩ đến nó đó, đó là cái tưởng của mình đó. Còn bây giờ Thầy thấy cái đồng hồ này Thầy ham muốn, tức là ý thức của Thầy đó, nó ham muốn đó.
Còn bây giờ nó không có mà Thầy về cái thất của Thầy rồi Thầy ngồi, Thầy mới tương tư với cái đồng hồ, Thầy mới thấy cái đồng hồ Thầy ham thích nó, phải chi có nó thì nằm ngủ rờ rẫm nó đó, cái đó là tại vì cái tâm ham thích của nó. Cho nên vì vậy mình phá cái tưởng đó đi, đừng để cái tâm đó.
(16:30) Đó, đó là những cái Định Niệm Hơi Thở nó sẽ giúp chúng ta xả được cái tưởng, cái tưởng đó nó nhàm chán các cái pháp mà nó không làm cho chúng ta ham thích nữa. Do như vậy đó, thì lúc bấy giờ chúng ta mới có đạt được cái Chánh Niệm Tỉnh Thức. Các con thấy chưa?
Chớ chưa, bây giờ chúng ta tu vậy chớ chúng ta chưa đạt, mà bây giờ đạt được cái Chánh Niệm Tỉnh Thức này thì các con nghĩ như thế nào? Nghĩa là hằng ngày nó ở một cái trong hơi thở chúng ta, hoặc là nó ở trong cái thân của chúng ta, nó quay vô, nó không phóng ra đâu.
Cho nên Đức Phật mới nói như thế này:
“Do vậy, này các thầy Tỳ Kheo, nếu các thầy ước muốn rằng, mong rằng ly dục ly bất thiện pháp,”
Tức là ác pháp đó.
“…sẽ chứng đạt và an trú thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có Tầm có Tứ, thời Định Niệm Hơi Thở phải khéo tác ý”.
Phải không. Bây giờ các thầy đã tu tập Tứ Chánh Cần ly ác pháp này kia nọ xong rồi, nhưng mà chưa chắc đã là mình nhập Sơ Thiền.
Cho nên từng đó mình phải xả cái tưởng này đi, để cho nó cũng cái tưởng, bởi vì mình nói chớ thực sự bây giờ về cái ý thức của mình đó, thì mình thèm trôi nước đi, phải không. Mà trong lúc đó, không có ăn thì mình dùng cái tưởng mình thèm, bởi do cái tưởng nó làm cho mình thèm, hơn là cái ý thức mình thèm đâu.
Do như vậy đó, sau khi mình xả hết các tưởng này rồi, hồi đó là ly dục, ly ác pháp của ý thức, còn bây giờ nó ly dục ly ác pháp của tưởng thức. Do đó bây giờ đó, mới có cái sự Chánh Niệm Tỉnh Thức của cái tưởng thức và của cái ý thức của chúng ta, hai cái này nó mới thành ra một cái Chánh Niệm Tỉnh Thức của cái giai đoạn bước vào cái giai đoạn định.
Các thầy thấy được chỗ này. Do vậy bây giờ chúng ta mới ước muốn rằng, mong rằng tôi đã hết, đã nhàm chán các pháp tưởng rồi, đã nhàm chán sáu cái pháp trần rồi, do cái ý thức của tôi, tôi đã lìa xa ngũ trần rồi, tôi đã lìa các cái pháp tưởng của tôi rồi.
Mà bây giờ thì tôi nghĩ rằng, tôi phải, tôi mong rằng tôi sẽ ly dục ly ác pháp toàn bộ, tôi sẽ chứng đạt cái thiền thứ nhất, trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có Tầm có Tứ, thời Định Niệm Hơi Thở cần phải khéo tác ý.
(18:41) Thì ở đây Đức Phật nói, bây giờ mình muốn chắc ăn như vậy đó, thì bây giờ mình nương vào cái hơi thở, mình mới nói rằng, mình mới hướng tâm mình nói rằng: “Bây giờ cái tâm phải ly dục, ly ác pháp hoàn toàn, để chứng đạt và an trú vào thiền thứ nhất”.
Mình hướng tâm, bởi vì bây giờ nó chỉ còn cái Định Niệm Hơi Thở này, mà mình nương vào cái hơi thở mình nhắc của tâm mình như vậy, thì cái trạng thái của Sơ Thiền bắt đầu nó hiện ra liền tức khắc.
Thì như Thầy đã nói, nó có năm cái pháp lìa mà có năm cái công đức của nó, tức là năm cái kết quả của nó. Năm cái pháp nó lìa: tham, sân, si, mạn, nghi, thì nó lìa năm cái pháp này ra, nó không có nữa, cho nên nó mới đạt được cái chỗ ly dục ly ác pháp. Mà tham, sân, si này khi chúng ta lìa, ý thức lìa cái tham, sân, si, nhưng mà cái tưởng thức chúng ta chưa lìa, cho nên giấc mộng của chúng ta còn.
Cũng như bây giờ mình ăn chay, mới ăn trong vòng một tháng, nửa tháng hay một năm, mà mình nằm chiêm bao mình vẫn thấy mình còn ăn thịt, thì tức là cái tưởng thức nó chưa có ăn chay, nó còn ăn thịt.
Cho nên sau một thời gian nữa thì chúng ta mới ly được cái tưởng thức đó, cho nên tới cái chỗ nằm chiêm bao mà chúng ta thấy người ta dọn thịt lên chúng ta không có ăn.
Còn mới tu mà chúng ta ăn chay, thì khi mà nằm mộng là chúng ta thấy chúng ta ăn thịt cá không có từ cái chỗ nào hết. Chừng mà giật mình thấy, sao mình tu mình ăn chay, mà sao mình nằm ngủ mình còn ăn mặn? Thì rõ ràng là cái tưởng nó chưa có ly, rõ ràng là hai cái phần rất rõ.
Và bây giờ cái sự ước muốn, cái sự mong muốn của mình để nhập cái Sơ Thiền, thì bắt đầu đó mình chỉ hướng tâm. Bởi vì mình muốn thì mình phải nói ra chớ, cái ý của mình nó khởi cái tâm nó muốn vậy đó mà!
Cho nên Phật nói:
“Do vậy, này các thầy Tỳ Kheo, nếu thầy Tỳ Kheo ước muốn rằng, mong rằng ly dục ly bất thiện pháp, tôi sẽ chứng đạt và an trú thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có Tầm có Tứ, thời Định Niệm Hơi Thở cần phải khéo tác ý.”
Phải không? Lúc nào Đức Phật cũng kèm theo cái Định Niệm Hơi Thở để cho mình nương cái hơi thở đó, rồi mình nhắc nó, chớ nếu không có hơi thở mình nhắc cái gì đây? Làm sao với biết cái đường đi chỗ nào đâu? Cho nên Thầy thường nói cái Định Niệm Hơi Thở là cái đường đi để chúng ta nhập các định.
(20:49) Đó, thì bây giờ chúng ta mới thật sự là ly dục ly ác pháp của Sơ Thiền chớ không phải là ly dục ly ác pháp của cái Tứ Chánh Cần.
Tứ Chánh Cần thì nó mới ly ý thức à, cho nên ngăn chặn không cho sanh ở ý thức của chúng ta chớ. Giữ cái trạng thái mà nó thiện pháp của nó, nhưng mà cái thiện pháp đó là ly dục ly ác pháp của ý thức chớ còn tưởng thức chúng ta còn.
Ở đây từng cái pháp của Phật dạy chúng ta từng chút, từng chút ở trong cái tâm của chúng ta tu tập, để mà nó giải trừ ra tất cả những cái nỗi khổ của thân tâm chúng ta đã mang từ nhiều đời.
“Do vậy này các thầy Tỳ Kheo, nếu Tỳ Kheo ước muốn rằng, mong rằng làm cho tịnh chỉ Tầm Tứ, tôi sẽ chứng đạt và an trú thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không Tầm không Tứ, nội tỉnh nhất tâm, thời Định Niệm Hơi Thở khéo tác ý.”
Đó bây giờ các con thấy rõ ràng, khi mà cái hơi thở nó còn là còn nhất tâm rồi, nó còn một cái đối tượng rồi, thì thử hỏi nếu mà chúng ta ở trong cái Nhị thiền, thì cái hơi thở nó đâu còn!
Ở trong cái Sơ Thiền thì cái hơi thở nó, hoàn toàn một cái trạng thái, cái hỷ lạc của cái Sơ Thiền do ly dục, ly bất thiện pháp, thì cái trạng thái nó làm cho chúng ta đâu có còn nương ở trong cái hơi thở.
Cho nên vì vậy mà chúng ta phải ra cái hơi thở, như hồi nãy Thầy giảng đó, phải ra hơi thở, để rồi nương vào cái hơi thở đó mà chúng ta mới dùng cái pháp hướng. Bởi vì cái tâm chúng ta mong muốn nó phải tịnh chỉ Tầm Tứ mà, cái pháp hướng nó thể hiện ở chỗ tịnh chỉ Tầm Tứ đó.
Cho nên chúng ta nhắc: “Tầm Tứ phải tịnh chỉ và cái tâm phải nhập vào, chứng đạt vào cái thiền thứ hai.” Đó, chúng ta nhắc nó như vậy.
Thì chúng ta bắt đầu nương cái hơi thở, mà hơi thở nó chưa vô thì chúng ta lại nhắc lần nữa, rồi nó chưa vô chúng ta lại nhắc lần nữa, một lát cái nó vô. Nó vô ngay cái trạng thái diệt Tầm Tứ rồi, thì nó có một cái hỷ lạc sanh ra, nó làm chúng ta rất là an ổn.
Do đó chúng ta thấy rõ ràng là bây giờ nó không còn có cái niệm gì mà xen vô chỗ này được. Nội tỉnh ở trong này nó rất là sáng suốt, tỉnh táo, nó không có một cái gì hết, hoàn toàn, chúng ta thấy rằng nội tâm chúng ta rất tỉnh, cái mức tỉnh rất cao.
Đó, cho nên cái Định Niệm Hơi Thở thì chúng ta cũng rất cần thiết để mà chúng ta thực hiện.
Bây giờ chúng ta kế tiếp nữa, để chúng ta thấy, học được cái hơi thở nó là quan trọng với tất cả mọi cái ý muốn của chúng ta để xả từng cái tâm của chúng ta, từng cái một, chớ không phải là nhào vô là chúng ta hít thở hít thở, chúng ta ức chế tâm chúng ta đâu. Cái này là hoàn toàn chúng ta theo cái pháp hướng mà chúng ta chủ động điều khiển bằng cái pháp hướng chúng ta để mà vào các định.
“Do vậy, này các thầy Tỳ Kheo, nếu Tỳ Kheo ước muốn rằng, mong rằng ly hỷ trú xả, Chánh Niệm Tỉnh Giác, thân cảm sự thọ lạc mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, tôi chứng đạt và an trú thiền thứ ba, thời Định Niệm Hơi Thở khéo tác ý.”
(23:41) Đó, Đức Phật cũng nhắc chúng ta cũng phải do cái đường dây hơi thở mà chúng ta mới ly hỷ trú xả. Trú vào chỗ xả là trú cái chỗ nào? Trú vào cái hơi thở để mà dùng cái pháp hướng. Cái pháp hướng và hơi thở, đó là cái nơi mà chúng ta trú để mà chúng ta loại 18 loại hỷ tưởng của chúng ta. Mà mình mong rằng mình sẽ ly tất cả những cái loại hỷ này, tức là cái niềm vui của cái tưởng này, chúng ta sẽ ly ra sạch. Mà ly ra sạch rồi, thì chúng ta, khi mà nó lìa ra rồi thì chúng ta sẽ nhập vào Tứ Thiền.
Chứng đạt cái thiền thứ ba, thì cái Định Niệm Hơi Thở là một cái đường dây, chúng ta phải nương vào nó, rồi tác ý, tác ý cho đến khi mà nó ly hết những cái trạng thái hỷ.
Đó là cái bài nhập vào Tam Thiền, thì Đức Phật đã chỉ cho chúng ta, cũng do cái Định Niệm Hơi Thở mà chúng ta tu tập.
“Do vậy này các thầy Tỳ Kheo, nếu Tỳ Kheo ước muốn rằng, mong rằng đoạn lạc, đoạn khổ, chấm dứt hỷ ưu đã cảm thọ trước, tôi chứng đạt và an trú thiền thứ tư không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh, thời Định Niệm Hơi Thở khéo tác ý.”
Nhập tới cái Tứ Thiền, Đức Phật cũng bảo chúng ta phải nương hơi thở mà tác ý, hướng nó, mong rằng tôi sẽ đoạn những cái lạc, cái khổ, cái thọ khô, cái lạc, tức là xả lạc xả khổ đó, tôi xả tất cả những cái hỷ ưu mà đã có cảm thọ từ trước đến giờ, đều là quét sạch ra hết.
(25:10) Tức là cái câu pháp hướng mình nhắc như vậy đó, là cái ước muốn mình làm cho sạch hết, hoàn toàn, rốt ráo ở đây, do như vậy là cái thọ lạc, thọ khổ này nó dừng, thì tức là cái hơi thở nó phải tịnh chỉ. Vì nó tịnh chỉ nó mới dừng được, mà nó không tịnh chỉ thì nó không dừng được.
Cho nên do đó mà Thầy dạy nay, bây giờ muốn tịnh chỉ cái thọ lạc, thọ khổ này, mà xả cho được, xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh này cho được, thì chỉ còn có nước tịnh chỉ, cho nên Thầy dùng cái pháp hướng rất ngắn và gọn: “Hơi thở phải tịnh chỉ, các hành trong thân phải ngưng!”
Thì do đó nó sẽ ngưng hoàn toàn, thì cái thọ lạc, thọ khổ này không còn có nữa. Bởi vì nó ngưng rồi thì đâu còn lạc hay còn khổ nữa. Cho nên ngay đó là Thầy đã nhập Tứ Thiền.
Còn bây giờ theo cái câu ở trong này, mà mong rằng đoạn lạc, đoạn khổ, “đoạn” là “dứt” đó, không còn nữa. Mà mình biết rằng cái gốc của nó là khi có những cái bài kinh khác thì Phật nói rằng nhập Tứ Thiền là phải tịnh chỉ hơi thở, hơi thở phải ngưng nghỉ, thì do đó là mình biết là cái mục đích là ngưng nghỉ là các hành không hoạt động, thì cái thọ lạc, thọ khổ không còn có nữa.
Mình phải hiểu như vậy, còn mình đọc như thế này rồi mình không hiểu nó như vậy, do đó mình không biết là cái hơi thở có ngưng thế này.
Cho nên các nhà học giả đọc cái này không biết là cái Tứ Thiền có ngưng hơi thở hay không, cho nên không ai dám nói rằng Tứ Thiền ngưng hơi thở, mà Thầy dám nói Tứ Thiền ngưng hơi thở.
Vì có những cái bài kinh nói có ba hành: thân hành, khẩu hành, ý hành, mà cái thân hành ngưng thì chúng ta nhập Tứ Thiền, thì cái bài kinh đó xác định rất rõ.
Cho nên ở đây chúng ta biết rằng khi nào mà cái lạc, cái khổ, cái trạng thái đối tượng thanh tịnh mà không còn có nữa, thì tức là chỉ có các hành trong thân của chúng ta phải ngưng. Mà cái ngưng đầu tiên, cái hành ngưng đầu tiên tức là phải cái hơi thở rồi. Do Đức Phật cũng xác định rằng thân hành, mà thân hành của chúng ta là cái hơi thở, mà hơi thở ngưng thì chúng ta mới nhập Tứ Thiền.
(26:53) Cho nên ở đây chúng ta thấy cái Định Niệm Hơi Thở, nó là con đường đi để mà chúng ta vào ở trong cái định đó.
Đó thì, ở đây hôm nay chúng ta sẽ học tới cái Tứ Thiền, mà do đường dây của hơi thở để mà chúng ta tiến tới cái sự tu tập của chúng ta. Thì chúng ta thấy rõ ràng tới đây chúng ta làm chủ được cái thân rồi. Bởi vì các hành ở trong thân nó đều ngưng, nó đều ngưng hoàn toàn, cho nên chúng ta hoàn toàn làm chủ.
Từ đây về sau thì chúng ta, khi mà nó ngưng như vậy, thì trên thân quán thân chúng ta sẽ tu như thế nào?
Và đồng thời nếu mà chúng ta muốn nhập các loại tưởng nó cũng không có khó, chúng ta cũng nương vào cái Định Niệm Hơi Thở mà chúng ta dùng cái pháp hướng thì chúng ta cũng sẽ nhập vào các loại tưởng như Không Vô Biên Xứ, Thức Vô Biên Xứ, rồi Vô Sở Hữu Xứ, Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ, Diệt Thọ Tưởng Định, chúng ta cũng đều là nương vào cái hơi thở để mà chúng ta hướng, y như những cái thiền định trước kia vậy.
Thì cái Định Niệm Hơi Thở là cái vấn đề quan trọng khi chúng ta tu các định khác. Cho nên Thầy nói nó là một cái trợ pháp, như một cái trợ động từ, thì đó là các thầy thấy có rõ không? Thầy có nói sai đâu. Ở trong kinh này dạy như thế nào là Thầy đã dạy lại như thế nấy, không có dạy sai cái gì của Phật hết.
Và có thể ngày mai, ngày mốt Thầy sẽ tiếp tục Thầy dạy cho hết cái bài hơi thở, để cho các thầy biết rằng chúng ta sẽ dùng cái hơi thở mà tu tập những cái pháp nào pháp nào.
Và khi dùng cái hơi thở cho đến cuối cùng chúng ta dùng cái hơi thở để mà chúng ta tu, trừ ra Tứ Như Ý Túc với Tam Minh, thì hai cái phần đó thì chúng ta không dùng hơi thở nữa.
Nghĩa là chúng ta phải định trên thân, thân định trên tâm rồi, thì chúng ta phải ở trong cái trạng thái của Tứ Thiền, thì cái thức của chúng ta còn, từ đó thì chúng ta không có dùng hơi thở mà chúng ta chỉ dùng pháp hướng để mà tu tập cái Tứ Như Ý Túc và cái Tam Minh. Cái này nó khác rồi.
(28:52) Còn những cái định khác thì chúng ta đều nương vào cái hơi thở mà tu tập , như Không Vô Biên Xứ, Thức Vô Biên Xứ, cho đến Diệt Thọ Tưởng Định thì chúng ta đều là phải tu cái Định Niệm Hơi Thở.
Cho đến khi cuối cùng, thì khi mà nhập được Tứ Thiền rồi thì chúng ta mới không có dùng cái hơi thở nữa. Bởi vì hơi thở nó tịnh chỉ rồi, còn cái hơi thở nó còn thì chúng ta sử dụng nó, mà cái hơi thở hết thì chúng ta không sử dụng nữa. Do từ cái nhập bốn định cái Hữu Sắc và bốn cái định Vô Sắc cho đến cái Diệt Thọ Tưởng Định đều là nằm ở trong hơi thở.
Còn đến cái Tứ Như Ý Túc và Tam Minh thì không dùng hơi thở nữa, cái đó hết rồi, cái đó thì nó ở trong cái trạng thái của Tứ Thiền, từ đó nhờ cái trạng thái “thân định trên tâm, tâm định trên thân”, chúng ta mới tu Tứ Như Ý Túc, thì cái phần đó Thầy sẽ dạy sau.
Nhưng mà ngày mốt Thầy sẽ tiếp tục Thầy dạy csi phần các cái định tưởng, cũng nương vào mà hơi thở để mà tu tập các định tưởng, để dạy cho hết về cái hơi thở, nó sẽ giúp chúng ta tu về các loại định tưởng được.
Cho nên các thầy thấy, khi một người mà nương vào cái hơi thở mà ức chế tâm thì nó cũng rơi vào các loại định tưởng. Như hôm qua mình học rồi, thì cái chỗ mà “cái ý thức thanh tịnh nó sẽ đi về đâu” đó, thì trong cái bài kinh mà cũng ở trong Kinh Trung Bộ này, thì Đức Phật cũng trả lời rất là hẳn hòi: khi mà ý thức thanh tịnh mà nó không liên hệ với ngũ dục, nó không liên hệ với cái ngũ căn: mắt, tai, mũi, miệng, thân của mình nữa đó, tức là nó không tác ý ra, không phân biệt nữa, thì nó sẽ đưa vào Hư Không Vô Biên Xứ tức là Không Vô Biên Xứ, rồi đến Thức Vô Biên Xứ rồi đến Vô Sở Hữu Xứ, cho nên nó rơi vào những cái định đó liền.
Đó thì, bây giờ chúng ta không có cần ở chỗ cái “ý thức thanh tịnh” đó mà đi vào như vậy, mà chúng ta chỉ cần nương hơi thở mà chúng ta sẽ hướng tâm, thì ngay bây giờ không cần chúng ta phải nhập Tứ Thiền rồi chúng ta mới nhập cái Định Không Vô Biên Xứ.
Bây giờ, cái người nào mà Thầy dạy nương vào cái hơi thở, mà chúng ta sẽ tu cái định Không Vô Biên Xứ thì chúng ta cũng tu dễ dàng lắm, không có khó khăn. Bởi tưởng rất dễ, mà dùng ý thức để mà ly dục ly ác pháp thì rất khó.
Cho nên bốn cái loại định tưởng này, ở Đại Thừa nó sắp đây là cái định Vô Sắc, nó cao lắm, hơn là cái định Hữu Sắc. Nhưng mà không ngờ cái định Hữu Sắc rất là vi diệu, mà cái định Vô Sắc chỉ là tầm thường mà thôi, không có ra gì hết, nó không có cứu cánh gì được hết.
(31:19) Đó thì, đến đây thì Thầy xin chấm dứt. Ngày mốt Thầy sẽ tiếp tục Thầy dạy, cứ (một) ngày nghỉ Thầy dạy một ngày, để cho nó dứt hết những cái pháp hành, cái giới hành cho nó xong. Mà dạy xong rồi thì nghỉ, nghĩa là sớm chừng nào thì nghỉ tốt chừng nấy.
Thầy mong Thầy dạy cho nó mau hết, cho nên hầu hết là Thầy cũng giảng không có kỹ, nhưng mà điều kiện đại khái là quý thầy đã hiểu hết rồi. Sau này Thầy có viết sách thì các Thầy chắc đọc thấy nó dễ hiểu hơn nữa, nhưng mà cái nhiệm vụ đó thì lần lượt sau sẽ làm, chớ còn bây giờ thì làm chưa kịp.
Thôi bây giờ quý thầy chuẩn bị.
(31:56) Hôm nay Thầy bắt đầu dạy về Tứ Thánh Định, nhưng trước khi nói về Tứ Thánh Định thì Thầy nhắc lại về cái Tứ Niệm Xứ, vì Thầy nghĩ rằng cái giờ học, chúng ta trước để chúng ta dễ tiếp thu cái bài học, sau đó Thầy sẽ trả lời những cái câu hỏi mà của các con hỏi.
Và đồng thời thì khi cái bài học xong thì chúng ta nghỉ xả hơi trong khoảng chừng năm phút hay mười phút, mươi phút đi, rồi kế đó chúng ta sẽ vào trả lời những cái câu vấn đạo.
Thì bây giờ Thầy xin nói về cái vấn đề tu tập Tứ Niệm Xứ, thì nó sẽ có những cái kết quả của nó. Nếu mà ở trên Tứ Niệm Xứ thì chúng ta coi Tứ Niệm Xứ thì nó phân chia rất nhiều, cái bài pháp đầu tiên và những cái bài pháp cuối cùng của nó, đều nó nằm ở trên bốn Tứ Niệm Xứ này mà thực hiện.
Cho nên thiền định cũng từ ở trên đó, mà từ ly dục ly ác pháp, sống đúng giới hạnh, thì cũng từ ở trên Tứ Niệm Xứ, do vì vậy mà cái pháp Tứ Niệm Xứ nó rất là quan trọng.
Thì bây giờ Thầy đã giảng cái Tứ Niệm Xứ rồi, do cái chỗ nào mà không hiểu thì các con cũng như quý thầy cứ hỏi, để rồi sau này thì không có cái dịp mà hỏi Thầy. Do hỏi cho kỹ trên Tứ Niệm Xứ này để mà chúng ta đặt những cái pháp môn mà Phật đã dạy ba mươi bảy phẩm trợ đạo.
Nghĩa là chúng ta đặt trên đó mà chúng ta tu tập cho nó đúng cái thời điểm, đúng cái người mới vào tu và cái người tu lâu. Cũng như các thầy thấy, như cái hơi thở mà năm rồi Thầy dạy hơi thở, thì mười hơi thở rồi đứng dậy đi kinh hành, năm nay Thầy dạy hơi thở thì ba mươi phút hoặc một giờ.
Thì do cái chỗ đó người ta tưởng đây là dạy có hai cái hơi thở, nhưng sự thật là có một cái hơi thở mà thôi. Bởi vì từ một năm nay mà chúng ta tu về cái hơi thở, mà mười hơi thở cho đứng dậy đi kinh hành, cho đến bữa nay, thì nó là một năm rồi.
(33:58) Và một năm như vậy thì từ đây, từ bây giờ thì chúng ta phải tăng dần, từ đó chúng ta tăng dần lên tới ba mươi phút rồi, thì bắt đầu bây giờ Thầy dạy ba mươi phút cho đến một giờ, chớ sao lại Thầy dạy mười hơi thở nữa!
Đó các thầy thấy, chơ không phải là cái thiền Định Niệm Hơi Thở nó có cái thứ loại mà mười hơi thở đi kinh hành, và bây giờ là ba mươi phút mới đứng dậy xả thiền đi kinh hành, hoặc là một giờ đứng dậy đi kinh hành xả thiền là một cái thiền định nữa! Không phải đâu, nó chỉ là một mà thôi.
Sau đó thì trong cái bài vấn đạo thì Thầy sẽ trả lời kỹ hơn.
(34:32) Bây giờ chúng ta sẽ nghe cái kết quả của trên Tứ Niệm Xứ nó như thế nào, để biết rằng khi mà chúng ta tu tập nó sẽ đem lại những cái kết quả trên Tứ Niệm Xứ đó. Vậy thì đầu tiên, cái mà Đức Phật muốn nói, cái Tứ Niệm Xứ mà có kết quả như vậy đó, thì đây là một cái bài kinh mà ông tôn giả A Na Luật đã hỏi lên cái điều này.
Khi mà, lúc bấy giờ tôn giả mới nghĩ rằng, do tu tập, do làm cho sung mãn những pháp gì tôn giả A Na Luật đạt được cái sự thắng trí, thì có cái người hỏi ông: làm cái gì mà ông đạt được cái thắng trí đó?
“Thưa chư hiền, do tu tập làm cho sung mãn Bốn Niệm Xứ”…
Nghĩa là cái sự tu tập mà Thầy đã giảng rồi đó, do mình nỗ lực mình tu tập, mình làm cho sung mãn được cái Bốn Niệm Xứ đó, thì như tôi đã chứng được cái thắng trí thì cũng đều nhờ cái chỗ mà làm cho sung mãn, tức là tu tập cho thuần thục bốn Tứ Niệm Xứ đó, để mà ly dục ly ác pháp, để mà lìa ra tất cả những cái pháp ác.
Đó là những cái giai đoạn đầu, thì kế đó tôi thực hiện tiếp tục những cái thiền định, như Tứ Thiền đều nằm trên đó, vì vậy mà tôi đã có được đại thắng trí.
“Ở đây này chư hiền, tôi trú quán (thân) trên thân, quán thọ trên thọ, quán pháp trên pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Do tu tập làm cho sung mãn Bốn Niệm Xứ này như vậy, nên tôi nhớ được đến ngàn kiếp”.
Nghĩa là ông nói rằng ông tu tập từ bắt đầu đó, là quán thân trên thân, quán thọ trên thọ, cho đến quán pháp trên pháp, rồi tới tu tập Tứ Như Ý Túc, Tam Minh, vì vậy mà tôi nhớ được đến ngàn kiếp, ông nói ông nhớ được đến ngàn kiếp.
“Như ý lực”, chữ “ý” đây có nghĩa là cái ý thức của chúng ta, khi mà chúng ta cứ tác ý. Chữ “ý” ở đây là cái lực của nó, cái lực của ý thức của chúng ta mà tu tập, mà rèn luyện được cái ý thức đó.
(36:42) Chẳng hạn bây giờ mình tác ý ra: “Cái hơi thở phải tịnh chỉ, phải ngưng!” thì do cái ý thức của mình. Nhưng cái đó là “như ý lực”, cái ý của mình muốn như vậy, làm như vậy, mà cái lực của ý đó nó đã tạo được thì do cái sự tu tập. Mà do sự tu tập đó cho nên nó phải nằm trên Bốn Niệm Xứ mà tu tập, để cho thực hiện được cái “như ý lực” đó.
Cho nên từ cái “như ý lực” đó nó mới đánh thức được cái tâm thức của chúng ta, từ đó cái tâm thức của chúng ta nó mới có cái lực mà nó truyền lệnh, nó làm cho chúng ta có những cái đặc biệt hơn là những người khác.
“Thưa chư hiền, do tu tập làm cho sung mãn Bốn Niệm Xứ, tôi thực hiện nhiều loại thần thông”.
Nghĩa là do cái như ý lực mà tôi tập luyện, tức là bây giờ mình lấy cái ý thức của mình đó mình tập luyện, do đó nó trở thành một cái lực, vì vậy mà tôi đã có nhiều loại thần thông, ông A Na Luật ổng đã nói như vậy. Có nhiều loại thần thông như thế nào?
“Một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân hiện ra một thân, và có thể tự thân bay đến trời Phạm Thiên.”
Nghĩa là còn rất nhiều những điều kiện, mà đây là tóm tắt lại để cho chúng ta biết rằng cái ý lực của chúng ta nó mạnh như vậy đó.
Kế nữa là cái ý lực:
“Thưa chư hiền, do tu tập, do làm cho sung mãn Bốn Niệm Xứ này, tôi chứng được thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, thanh tịnh siêu nhân, có thể nghe các tiếng và thấy rất xa chư thiên và loài người, hoặc xa hoặc gần.”
Nghĩa là chỗ nào cũng thấy được hết, cũng nghe được hết. Đó là cái chỗ mà như ý lực của ông ta dùng.
Nghĩa là, nói cái kết quả đó để cho chúng ta biết rằng, chúng ta sẽ sử dụng cái tu hành đó nó ở chỗ nào, nó ở cái gì, chúng ta biết chúng ta phải rèn luyện cái gì? Cho nên vì vậy mà Thầy luôn luôn Thầy bảo các con, hãy rời khỏi cái định, để rồi ở trên cái hơi thở đó mà dùng cái tác ý ra, như lý mà tác ý ra, mà nó trở thành một cái lực như vậy.
Do cái tu tập mà được như ý lực đó, vì vậy cho nên cái nhĩ thông, cái nhãn thông của mình, nó thanh tịnh, nó siêu nhân, nó có thể nghe xa ngàn dặm, nó có thể thấy xa ngàn dặm, đó là cái đặc biệt của đạo Phật là như vậy.
(38:58) “Với tâm của mình, thưa chư hiền, do tu tập, do làm cho sung mãn Bốn Niệm Xứ, với tâm của mình biết được tâm của nhiều loài hữu tình khác, nhiều loại người khác. Với tâm có tham, tôi rõ biết tâm có tham. Với tâm không tham, tôi rõ biết tâm không tham. Với tâm giải thoát, tôi rõ biết tâm giải thoát.”
Nghĩa là bây giờ cái người mà tu có được như ý lực đó, thì mỗi cái tâm của chúng sanh, tâm đó bây giờ đang nghĩ một cái gì, tham, sân, si hay hoặc là những cái thủ đoạn gian ác, những cái nghĩ ra tính nói xấu người này, nói xấu người kia, thì cái người mà có cái như ý lực, tức là tu tập ở trên Tứ Niệm Xứ, làm cho sung mãn bốn Tứ Niệm Xứ, thì họ sẽ biết được cái tâm niệm của người khác rất là rõ ràng.
Cái này có thể gọi là Tha Tâm Thông, hay hoặc là Thiên Nhĩ Minh, nghĩa là nó thông suốt tất cả mọi cái, không có còn ngăn che nữa. Tức là cái minh là cái trí tuệ, họ ở trong một cái trạng thái mà thân định trên tâm, tâm định trên thân, thì hoàn toàn họ rõ tất cả những cái tâm niệm của chúng sanh. Tâm người đó họ có sân, họ có thù oán hay không thù oán, họ không giận hờn, họ không ghét thì rõ biết tất cả hết, đó là cái lực của Như Ý Túc.
“Thưa chư hiền, do tu tập làm cho sung mãn Bốn Niệm Xứ này, tôi như thật rõ biết xứ là xứ, phi xứ là phi xứ”.
Nghĩa là chỗ cái xứ sở nào, nơi đâu, đất nước nào, chỗ nào, mà ngay chỗ này thì tôi đều biết rõ được cái xứ sở đó, cái chỗ đó. Còn cái chỗ nào mà không phải xứ, cái chỗ nào là phi xứ đó, là không phải cái nơi chốn, không phải là cái chõ đó, thì tôi cũng rõ biết hết.
Thí dụ như bây giờ nói ở ngoài Thái Bình Dương có một cái cù lao mà nó không có tên tuổi gì hết, nghĩa là từ lâu tới giờ chưa có ai chiếm nó, cho nên chưa có ai đặt nó cái tên. Thì bây giờ tôi muốn tìm cái xứ sở đó, cái nơi đó, coi nó phải có hay không? Thì tôi chỉ cần ở đây, mà tôi chỉ dùng cái tâm của tôi hướng đến cái đó, thì tôi sẽ biết ở đó nó có hay là không có cái xứ đó, cái cù lao đó.
Đó là cách thức của cái ý lực của chúng ta, nó làm chúng ta thông suốt cả một cái không gian vũ trụ, mà không còn ngăn ngại đối với chúng ta nữa.
(41:22) “Thưa chư hiền, do tu tập làm cho sung mãn Bốn Niệm Xứ này, tôi như thật rõ biết quả dị thục của các nghiệp báo quá khứ, vị lai, hiện tại tùy thuộc sở do và tùy thuộc vào thân”.
Nghĩa là năng sở đó, nghĩa là mọi người vì cái nhân quả nào, như thế nào, đây là Đức Phật muốn nói cái chỗ này nè: khi mà tui tu tập làm cho sung mãn Bốn Niệm Xứ này, thì cái người đó xảy ra tai nạn gì tôi biết hết.
Nghĩa là nghiệp báo của họ bây giờ nó chưa có xảy ra, nhưng mà tôi nhìn qua cái người đó là tôi sẽ biết họ sẽ, một lát nữa, hay là ngày mai, hay ngày mốt, họ sẽ xảy ra cái tai nạn đó, tôi sẽ biết hết được như vậy. Đó là cái ý, nói kết quả của cái sự tu tập Tứ Niệm Xứ là nó vi diệu như vậy đó.
“Đạo lộ, do tu tập, do làm cho sung mãn Bốn Niệm Xứ này, tôi như thật rõ biết con đường đưa đến các cảnh giới”.
Nghĩa là con đường nào mà đưa đến các cảnh giới, thí dụ như cái pháp môn này tu đưa đến đâu, đưa đến chỗ nào, như bây giờ nói Thiền Đông Độ nó sẽ đưa người ta đến đâu? Đó là một con đường đưa cho người ta đến đâu. Bây giờ nói về Tịnh Độ, niệm Phật thì nó sẽ đưa cái người đó đến chỗ nào? Bây giờ nói giới định tuệ sẽ đưa cái người đó đến chỗ nào? Thì tôi rõ biết. Nếu mà tôi tu Bốn Niệm Xứ này, làm cho sung mãn, thì tôi rõ biết tất cả các pháp nó sẽ dẫn dắt người ta đến cảnh giới nào.
Và hành động người đó làm một cái điều thiện, thì tôi biết ngay rằng người đó sẽ dẫn dắt họ sẽ sanh vào đó, cảnh giới Thiên đó như thế nào, tôi đều biết hết.
“Thế giới, do tu tập làm cho sung mãn Bốn Niệm Xứ này, tôi như thật rõ biết thế giới với mọi cảnh giới, nhiều chủng loại sai biệt.”
Nghĩa là trong một cái thế giới này, tôi đều, nếu mà tôi tu tập Tứ Niệm Xứ, nó sung mãn, nó làm cho đầy đủ rồi, nghĩa là từ cái đầu của Tứ Niệm Xứ cho đến những cái pháp cuối cùng của Tứ Niệm Xứ, thì tôi sẽ thấy rõ tất cả ở trong cái thế giới này. Cái thế giới của quả đất này nhiều cái chủng loại, tức là nhiều cái loại chúng sanh, tức là nhiều cái loài cầm thú, tất cả mọi loài vật, loài vật nào tôi cũng biết hết, không có loài vật nào mà tôi không thấy biết.
(43:38) Và không những ở trong cái hành tinh này mà nó còn nhiều thế giới, nó nhiều cái hành tinh khác, tôi đều rõ biết tất cả. Ý của Phật nói là mình tu tập cái Tứ Niệm Xứ, nó sẽ có cái năng lực, nó làm cho mình thấu suốt như vậy.
“Thắng giải sai biệt: Do tu tập, do làm cho sung mãn Bốn Niệm Xứ này, tôi như thật rõ biết chỉ hướng sai biệt của các loài hữu tình.”
Nghĩa là cái loài đó nó sẽ sanh ra cái tâm nó như thế nào, cái hướng nó thế nào, nó hoạt động như thế nào, nó làm như thế nào, trong cuộc sống nó hàng ngày như thế nào, tôi đều rõ biết được cái hướng của nó, cái nghiệp của nó, nó sẽ phải sống như vậy.
Thí dụ như cái nghiệp của một con bò thì nó phải ăn cỏ mà sống, cái nghiệp của con cọp nó phải ăn thịt của loài chúng sanh mà sống, thì do đó cái hướng của nó, nó tạo thành cái nghiệp đó, cho nên vì vậy mà nó phải sống ở trên cái nghiệp đó. Thì khi mà tui tu tập Tứ Niệm Xứ, thì tôi đều nhìn chúng sanh, mỗi một cái loài vật tôi đều rõ ràng biết cái hướng của nó, nó sẽ đi về đâu và nó đi về chỗ nào, và tiếp tục tái sanh như thế nào qua cái hướng đó.
“Căn: Do tu tập, do làm cho sung mãn Bốn Niệm Xứ này, tôi như thật rõ biết các căn thượng, hạ của các loài hữu tình và các loại người.”
Nghĩa là từ cái loài chúng sanh như con trùng, con kiến này kia, tôi biết được cái căn của nó, căn hạ, căn thượng của nó như thế nào, đều là biết rõ hết. Cho đến loài người, người đó có căn hạ, căn thượng gì tôi cũng biết rõ hết. Do mình tu tập Tứ Niệm Xứ thì thấy cái người đó biết họ là như thế nào, rất là rõ.
(45:20) “Thiền: Do tu tập, do làm cho sung mãn Bốn Niệm Xứ này, tôi như thật rõ biết sự tạp nhiễm, sự thanh tịnh, sự xuất khởi của các thiền chứng, về thiền, và về giải thoát, về định.”
Nghĩa là khi mà tu tập Tứ Niệm Xứ rồi thì mình sẽ biết rất rõ về sự tạp nhiễm và sự thanh tịnh. Nghĩa là đối với tâm mình thì mình cũng rõ, mà với tâm mọi chúng sanh mình cũng vẫn rõ biết cái sự tạp nhiễm của họ, và họ có sự thanh tịnh hay không.
Thí dụ như bây giờ các con đang tu với Thầy, thì trong khi đó mà Thầy tu tập Tứ Niệm Xứ, Thầy đã làm cho nó sung mãn rồi, thì cái sự mà các con tu tập có tâm thanh tịnh hay không thanh tịnh Thầy đều biết. Và các con chưa có cái thanh tịnh….
(Xem tiếp ở Pháp hành 24)
HẾT BĂNG
PHÁP HÀNH 24 - HƠI THỞ VÀ PHÁP HƯỚNG ĐỂ VÀO TỨ THÁNH ĐỊNH
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Thời gian: 1998
(Tiếp theo Pháp hành 23)
(0:00) Giải thoát ở mức độ nào, thấp, cao, hay hoặc hoàn toàn không còn phiền não, không còn có giận hờn nữa, không còn tham, sân, si nữa, người ta biết rất rõ.
Rồi định, thì người ta biết mình ở cái mức định nào, nghĩa là rất rõ về định. Thí dụ như nói định Không Vô Biên Xứ, Thức Vô Biên Xứ hay là Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ. Thì khi mà người ta làm cho sung mãn bốn cái Niệm Xứ này rồi, thì cái người đó ở cái định nào, mức định nào, thì người ta biết hết, người ta không phải là không rõ.
Cho nên thí dụ như người ta khuyên mình là người ta biết mình ở cái tầm vóc của cái định nào, thì mình hãy nghe lời người ta mà tu tập cái định đó, hơn là mình nghĩ rồi mình tu đại, thì cái đó không đúng.
Là vì người ta đi trước, người ta có một cái cái trí thấu suốt được cái sức thiền định của mình, cho nên người ta nói mình phải tu ngay cái chỗ đó. Người ta bảo mình xả tâm, thì mình cố gắng xả tâm, người ta bảo mình tu cái gì thì mình ráng tu theo cái nấy, thì nó đúng, và nó sẽ có giải thoát lợi ích cho chính mình.
“Do tu tập làm cho sung mãn Bốn Niệm Xứ này, tôi nhớ được nhiều đời quá khứ, như một đời, hai đời, nhiều đời sống quá khứ cùng các nét đại cương và các chi tiết”.
Nghĩa là cái đời nào mình nhớ cũng rất rõ ràng, từng cái chi tiết cuộc sống hàng ngày làm cái gì, cái gì, nhớ lại hết, không có gì mà mình quên hết. Đó gọi là Minh đó.
“Do tu tập làm cho sung mãn Bốn Niệm Xứ này, tôi chứng được thiên nhãn thanh tịnh, siêu nhiên, thấy sự sống và sự chết của chúng sanh”.
Nghĩa là khi mà mình tu tập Bốn Niệm Xứ này mà được thành tựu rồi, thì mình sẽ có cái thiên nhãn thanh tịnh, tức là Thiên Nhãn Minh đó. Thấy người này chết, người kia sống, mình thấy rất rõ.
Thí dụ như người đó ba bữa hay hai bữa nữa chết mình cũng biết, hay hoặc là một lát nữa chết mình cũng biết, và người đã chết rồi thì mình cũng biết rất rõ. Nghĩa là họ ở chỗ nào, họ sanh làm sao, họ đi như thế nào, mình đều thấy biết hết.
(01:55) “Do tu tập làm cho sung mãn Bốn Niệm Xứ này, do đoạn tận các lậu hoặc ngay trong hiện tại, với thắng trí, tôi chứng ngộ và chứng đạt an trú tâm giải thoát, tuệ giải thoát.”
Lúc bấy giờ tâm mình cũng giải thoát hoàn toàn, trí tuệ cũng giải thoát hoàn toàn, do cái sự tu tập Tứ Niệm Xứ này mà mình đoạn tận được lậu hoặc. Đó là những cái kết quả của cái sự tu tập để cho mình thành tựu được con đường, mà Tứ Niệm Xứ đem đến những cái kết quả mà Thầy vừa nhắc ở trên.
Để chúng ta biết rằng cái kết quả của Tứ Niệm Xứ nó rất là vĩ đại, nó không bình thường, nó trở thành một bậc siêu nhân trên thế gian này. Nếu mà chúng ta nỗ lực tu tập nó thì chúng ta sẽ đạt được cái kết quả rất tốt.
(02:44) Và đồng thời thì chúng ta cũng biết rằng trên Tứ Niệm Xứ này thì chúng ta thực hiện những cái loại thiền định, thì bắt đầu bây giờ Thầy vừa giảng cho các thầy tu tập, là Tứ Thánh Định.
Vậy thì ở trong Kinh này dạy chúng ta tu tập Bốn Thánh Định trên Bốn Niệm Xứ này như thế nào? Thầy xin đọc lại một cái bài kinh để xác định rằng Phật đã dạy rất rõ, chớ không phải đây là thiền Tiểu Thừa, thiền Phàm Phu, thiền Ngoại Đạo, mà đây là một bài dạy ở trong kinh Tương Ưng nói về bốn Thiền, bốn Thánh Định này, chớ không phải là tự Thầy trau chuốt nó trở thành Tứ Thánh Định đâu, mà chính Phật đã dạy.
“Này các thầy tỳ kheo, có bốn thiền này, thế nào là bốn? Ở đây này các thầy tỳ kheo, tỳ kheo ly dục ly các ác pháp bất thiện, chứng đạt và an trú thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh có Tầm có Tứ.”
Đó là một cái loại thiền thứ nhất mà từ lâu tới giờ chúng ta bước đầu vào tu, tu rất nhiều về cái loại thiền này để ly dục, ly ác pháp và bất thiện pháp đây.
Đó là cách thức mà chúng ta tu, từ Định Vô Lậu, Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, đều là những cái hành động ở trên thân mà chúng ta tu tập, cho đến thậm chí như Định Niệm Hơi Thở, cũng đều là cái sự ngăn chặn các ác pháp mà tăng trưởng các thiện pháp, để thực hiện cái Sơ Thiền đấy thôi.
Đây là dồn tất cả những cái công phu của chúng ta và các pháp của Phật tập trung vào cái Sơ Thiền, cho nên cái Sơ Thiền tuy vậy rất khó. Từ cái giới luật, cái đời sống thiểu dục tri túc, cho đến phòng hộ sáu căn, cũng đều là tập trung cho cái Sơ Thiền này cả hết.
Nghĩa là chúng ta phải tập trung cho tất cả mọi mặt đều nhắm vào cái Sơ Thiền để mà chúng ta ly dục, ly bất thiện pháp. Cho nên cái mục đích tu tập thì chúng ta thấy pháp môn có nhiều, nhưng mà gộp lại thì nó cũng chẳng có bao nhiêu, vì nó nằm ở trên một cái thiền định, mà cái thiền định đó là cái Sơ Thiền, cái thiền đầu tiên.
Cho nên hiện giờ chúng ta dùng như Định Niệm Hơi Thở, Chánh Niệm Tỉnh Giác, Định Vô Lậu cũng đều là thực hiện tu tập cái Sơ Thiền chớ không phải là cái gì khác.
(04:53) Rồi kế đó mà chúng ta có tu Tứ Chánh Cần, thì mục đích thực hiện được Tứ Chánh Cần cũng là cái mục đích thực hiện được Sơ Thiền, chớ không phải gì.
Mà muốn thực hiện được Tứ Chánh Cần thì chúng ta cũng thấy rằng từ trên Tứ Niệm Xứ có dạy Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, rồi dạy Định Vô Lậu, rồi dạy Định Niệm Hơi Thở.
Thì Tứ Chánh Cần cũng dùng ba cái định này để mà ngăn ác, diệt ác, để sống ở trong các thiện pháp mà thôi. Đó thì, mà sống trong các thiện pháp thì cái người đó đã là người phải ly dục, ly ác pháp. Tức là nhờ mà đoạn các pháp ác, ngăn chặn các pháp ác, cho nên toàn bộ chúng ta sống ở trong Tầm Tứ thiện, không còn ác nữa. Mà không còn ác nữa, thì đó là thiền thứ nhất.
(5:36) Kế đến thì chúng ta sẽ tiếp tục, thì chúng ta phải đi tới. Khi mà chúng ta ly dục, ly ác pháp rồi, thì tâm của chúng ta rất là thanh tịnh, nó không còn ô nhiễm, nó không còn ham muốn, nó không còn thương ghét, nó không còn giận hờn. Cho nên ở đây chúng ta chỉ còn lại có một pháp tu, đó là cái pháp hướng tâm.
Hằng ngày chúng ta ở trong cái đường dây hơi thở, tức là Định Niệm Hơi Thở, “hơi thở ra tôi biết hơi thở ra, hơi thở vào tôi biết hơi thở vào”. Thì lúc bấy giờ chúng ta nương vào cái hơi thở đó mà chúng ta hướng tâm nhắc “tịnh chỉ các Tầm Tứ”.
Do tịnh chỉ các Tầm Tứ mà chúng ta nhập được Nhị Thiền. Và cái lúc này chúng ta tu tập, chúng ta thấy rõ ràng là chúng ta không có ức chế nữa, không ức chế tâm mà chỉ hướng tâm nhắc mà thôi.
Nhưng mà từ lâu tới giờ chúng ta có tu hành ức chế tâm, và đồng thời thì chúng ta tu hành cũng có xả tâm. Cho nên hai cái, vừa ức chế tâm bằng cơ, mà cũng vừa ức chế tâm bằng tinh thần, bằng tâm.
Thì do hai cái này chúng ta hợp lại và thời gian chúng ta tu từ, cao lắm là một giờ, còn không thì ba mươi phút, thì chúng ta cũng chưa lạc vào loại thiền tưởng được, vì cái thời gian còn ngắn.
Cho nên chúng ta sẽ lợi, rất lợi là trước kia chúng ta tu, thứ nhất là chúng ta ổn định hơi thở để chúng ta quen đi với cái hơi thở, vì vậy bây giờ chúng ta có thở dài, thở ngắn, thở dọc, thở ngang như thế nào chúng ta cũng không mệt, bởi vì chúng ta đã từng tập luyện nó rồi.
Do càng tập luyện cái hơi thở thuần phục bao nhiêu, thì bây giờ bắt đầu chúng ta tu các loại định khác đều là dễ dàng, không còn khó nữa.
(07:05) Thí dụ bây giờ mình muốn xả tâm, mà mình tu cái Định Niệm Hơi Thở với pháp Định Vô Lậu, thì mình kết hợp lại mình xả tâm, thí dụ như “quán từ bỏ tôi hít vô, quán từ bỏ tôi thở ra”.
Thì vừa cái hơi thở vô thì cái ngôn từ của mình cũng vừa nương theo với hơi thở đó, khi mà hơi thở đó vừa hết thì mình cũng hết câu hướng. Và hơi thở mình ra thì mình cũng theo, cái câu nói của mình ra theo từng hơi thở, khi hơi thở dừng thì câu nói mình cũng vừa hết. Và như vậy nó làm cho tâm mình buông xả và rất tỉnh táo ở trong sự buông xả.
(7:39) Do cái chỗ tu tập như vậy mới gọi là làm cho sung mãn Tứ Niệm Xứ, chứ còn nếu mà chúng ta tu sai thì cũng không có đạt được kết quả.
Bây giờ chúng ta nhập Nhị Thiền cũng vậy, chúng ta nương vào hơi thở rồi hướng tâm; “Tầm Tứ tịnh chỉ!” thì Tầm Tứ sẽ tịnh chỉ, chúng ta nhập được Nhị Thiền.
Bây giờ Đức Phật dạy kế: “Ly hỷ, trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm thanh tịnh, chứng đạt và an trú thiền thứ ba”.
Đó là chúng ta xả 18 cái loại hỷ, thì chúng ta phá luôn cái mộng, âm thanh vắng bặt, do đó chúng ta đã nhập được cái thiền thứ ba.
Thì ở đây Đức Phật đơn giản rằng nói chúng ta chỉ cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng đạt và an trú thiền thứ ba. Hay hoặc là xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh, nhập Tứ Thiền, đó là những cái danh từ để chỉ cho cái trạng thái mà chúng ta sẽ nhập Tứ Thiền.
Đó thì hôm nay cái Tam Thiền chúng ta thấy Đức Phật cũng dạy rõ ràng, cụ thể, chớ không phải là tự Thầy đem nó vào mà gọi là Thánh Định, mà đây là trong kinh sách Phật dạy rất cụ thể:
“Đoạn lạc, đoạn khổ, chấm dứt hỷ ưu đã cảm thọ từ trước, chứng và trú thiền thứ tư không lạc, không khổ, xả niệm thanh tịnh.”
(08:59) Đó thì các thầy thấy, ở đây bốn Thiền do cái sự tu tập Bốn Thiền này ở trên Tứ Niệm Xứ mà tu tập mà đạt được Bốn Thiền này.
Nhưng Bốn Thiền này chúng ta thấy đâu có pháp nào mà dạy chúng ta tu tập đâu, chỉ bảo rằng chúng ta chấm dứt, đoạn dứt các khổ, hay là xả cái niệm thanh tịnh để rồi nhập Tứ Thiền? Thì chúng ta biết rằng xả như thế nào, mà đoạn dứt như thế nào? Mình đặt ra câu hỏi để mình thấy đoạn dứt như thế nào, mà xả như thế nào?
Thì hoàn toàn là chúng ta, nếu mà nằm ở trên những cái bài kinh mà nó cô đọng như thế này thì chúng ta không biết pháp hành là chỗ nào hết!
Thí dụ như muốn nhập cái Sơ Thiền, thì ở trên chỗ này, thì đặt ở trên cái Tứ Niệm Xứ chúng ta rồi, nhưng mà Đức Phật dạy ly dục, ly bất thiện pháp, chứng đạt, an trú cái thiền thứ nhất, như vậy là bây giờ ly dục cách nào?
Làm sao cho nó ly, rồi làm sao ly ác pháp, ly các bất thiện pháp đây? Cách nào mà Phật bảo mình ly? Cái danh từ bảo ly với các ác pháp thì chúng ta chưa biết hành động nào ly. Nhưng mà khi nói tới ly dục ly ác pháp thì chúng ta biết rằng hành động nào?
Vậy thì hành động chỉ có Chánh Niệm Tỉnh Giác nè, nó mới có ly ra được, chỉ có cái hành động Định Vô Lậu quán xét để rồi chúng ta xả cái tâm đi, tức là chúng ta sẽ ly dục ly ác pháp. Nếu không có quán xét thì chúng ta đâu biết đâu mà cái nào là thiện, cái nào là ác, mà chúng ta ly?
(10:25) Cho nên do quán xét của Định Vô Lậu mà chúng ta xả ly, tức là ly. Mà do Chánh Niệm Tỉnh Giác giữ cái tâm mình không có cho cái niệm khởi, hoàn toàn tỉnh giác ở trong hành động, vì vậy đó cũng là cách thức ly, ly ác pháp, ly dục. Cho nên nói ly thì chúng ta biết phải tu tập cái nào rồi.
Mà bây giờ Đức Phật nói làm cho tịnh chỉ Tầm Tứ chứng đạt và an trú thiền thứ hai. Mà làm cho tịnh chỉ, làm cách nào đây?
Thì chúng ta biết rằng chỉ có hướng tâm nhắc: “Tịnh chỉ Tầm Tứ, tâm phải tịnh chỉ Tầm Tứ không được khởi niệm vọng tưởng, phải nằm yên ở trên tụ điểm!”
Đó là mình nhắc tâm mình như vậy, tức là làm cho tịnh chỉ Tầm Tứ. Như vậy là chúng ta hiểu, nghe làm cho tịnh chỉ Tầm Tứ thì chúng ta biết cách là phải như vậy, vậy, hướng tâm như vậy, vậy… thì nó sẽ là tịnh chỉ Tầm Tứ.
Bây giờ Đức Phật mới “ly hỷ, trú xả, chánh niệm tỉnh giác”. Ly hỷ trú xả, ly, lìa cái hỷ là lìa cái nỗi mừng của mình, trú cái xả: trú cái nơi xả. Vậy cái xả là chỗ nào, và cái hỷ mà nó mừng thì mình ly như thế nào, sao đây?
Cách thức đó, thành ra khi mà nó ly hỷ thì chúng ta biết rằng khi có một cái trạng thái khinh an nè, có một cái trạng thái nó làm cho mình đau chân, nhức chân nè, đó, nó có lạc, có thọ trong đó chớ! Mà bây giờ cái trạng thái mà ly hỷ này là có nỗi mừng, mà nỗi mừng đây tức là có lạc. Vậy thì cái trạng thái nào đây?
Ánh sáng hào quang, hoặc là thân nó dao động lúc lắc, hoặc là cái trạng thái khinh an, do đó mình phải ly nó đi.
Hay hoặc là bây giờ mình gặp cái pháp tưởng nào đó, hay hoặc là một cái sắc tưởng nào đó, thì do đó nó hiện ra hình Phật hình Tổ nào đó, thì muốn phá cái đó thì tức là mình cũng phải biết cách mình dùng cái pháp hướng mình phá rồi, cho nên gọi là ly.
Vậy thì mục đích của mình đến đây, thì mình vào ở trong cái định Nhị Thiền thì mình thấy cái gì đây mà Phật bảo ly?
Thứ nhất là mình ly cái trạng thái hỷ lạc, cái trạng thái nó làm cho mình thấy say say thích thú ở trong đó, đó là cái trạng thái phải ly. Kế đó thì mình ly những cái trạng thái làm cho mình đau khổ, rồi những cái trạng thái mà nó làm cho mình thấy mừng vui khi thấy Phật, thấy Tổ, hoặc là thấy mình như có thần thông, phép tắc, hoặc là thấy mình có cái trực giác, biết được cái chuyện xảy ra.
(12:43) Do như vậy đó thì mình thấy mình phải cần phải ly cái đó. Mà mình ly cái đó thì tức là mình không sử dụng nó nữa chứ gì! Mình không sử dụng thì tức là mình phải dùng pháp hướng.
Như bây giờ cái thân của mình nó ngồi, nó dao động, nó bồng bềnh, nó nhẹ nhàng, nó muốn bay, thì tức là mình phải dùng cái pháp hướng nhắc để cho nó, cái tâm đừng có rung rinh nữa. Do như vậy, do đó mà khi mình hướng như vậy gọi là mình trú vào cái pháp hướng mà mình xả cái kia được, cho nên nói ly hỷ mà trú xả.
Vì vậy mà khi nói đến những danh từ này thì mình biết các cái pháp hành mình tu như thế nào để gọi là ly hỷ trú xả. Bây giờ nói về tịnh chỉ hơi thở để mình nhập Tứ Thiền, tức là đoạn lạc, đoạn khổ, chấm dứt, tức là xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh đó.
Thì bây giờ mình muốn xả cái này, hay là đoạn dứt nó đi, đừng có làm cho nó khổ nữa, thì mình biết rằng các hành ở trong thân mình ngưng nghỉ thì nó không còn đau khổ nữa hết, nó hết khổ lạc mà cũng không còn khổ khổ nữa. Do như vậy thì chỉ còn có cái phải ngưng hoạt động hoàn toàn cơ thể.
Mà ngưng hoạt động hoàn toàn cơ thể thì chúng ta biết ngay rằng cái pháp nào mà ngưng. Chớ không lẽ bảo nó ngưng thở rồi chúng ta nín thở để cho nó ngưng, thì nó không đúng cách rồi, nó không có pháp rồi!
Mà bây giờ bảo nó ngưng thở, mà chúng ta phải dùng một cái pháp nào? Tức là dùng pháp Như Lý Tác Ý, hướng tâm nhắc. Vậy thì chúng ta chỉ cần nằm ở trên cái trạng thái của cái chỗ ly hỷ mà trú xả này, cái chỗ tỉnh thức này, chỗ vắng lặng này, không còn nghe âm thanh nữa, thì chúng ta cứ hướng tâm mà nhắc nó, thì nó sẽ xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh.
Vì nó ngưng hoạt động thì nó không còn thấy cảm giác đau đớn hoặc là thanh tịnh gì cả hết.
“Những pháp này, này các tỳ kheo là Bốn Thiền,”
Đó, Đức Phật xác định những cái pháp mà tu như vậy, ở trên Tứ Niệm Xứ như vậy đó, thì đó là bốn cái thiền.
“Ví như này, các thầy tỳ kheo, sông Hằng thiên về phương Đông, hướng về phương Đông, xuôi về phương Đông. Cũng vậy, này các thầy tỳ kheo, tỳ kheo tu tập Bốn Thiền làm cho sung mãn, bốn thiền định này thiên về Niết Bàn, hướng về Niết Bàn, xuôi về Niết Bàn.
(14:53) Và này các tỳ kheo, tỳ kheo tu tập Bốn Thiền như thế nào xuôi về Niết Bàn?”
Bây giờ đó, Đức Phật mới hỏi mình tu tập như thế nào để mà xuôi về Niết Bàn?
“Ở đây này các thầy tỳ kheo, tỳ kheo ly dục, ly bất thiện pháp, chứng đạt an trú thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có Tầm có Tứ, làm tịnh chỉ Tầm Tứ, nội tỉnh, nhất tâm, thiền thứ hai, thiền thứ ba đến thiền thứ tư.
Như vậy này các thầy tỳ kheo, tỳ kheo tu tập Bốn Thiền làm cho sung mãn, Bốn Thiền thiên về Niết Bàn, hướng về Niết Bàn, xuôi về Niết Bàn”
Nghĩa là Đức Phật muốn nhắc trở lại chỗ mình muốn làm cho nó sung mãn Bốn Thiền này, thì như lời Thầy đã nói, mình phải dùng cái pháp hướng, mình hướng tâm, mình làm cho nó tịnh chỉ, mình làm cho thanh tịnh, chớ không phải còn có cái pháp nào khác hơn để cho mình nhiếp tâm, ức chế mà lại vào đó được, mà chỉ cần có dùng cái chỗ pháp hướng mà thôi.
Đây là một cái phần nhắc về cái Tứ Thiền. Nói trước là trong những kết quả của Tứ Niệm Xứ, sau đó từ trên Tứ Niệm Xứ chúng ta bước qua Bốn Thiền, thì cũng từ trên Tứ Niệm Xứ mà thực hiện Bốn Thiền để nhập vào cái Tứ Thiền làm chủ sự sống chết của chúng ta. Chứ chưa phải là chấm dứt, chờ Tam Minh rồi chúng ta mới đoạn dứt được lậu hoặc.
(16:05) Bây giờ Thầy xin nhắc lại Tứ Thánh Định. Đó là cái phần trong kinh sách, còn cái phần của Thầy ở đây là cái phần kinh nghiệm của mình.
Bởi vì kinh sách Phật nói Bốn Thiền thì Phật nói cô đọng như vậy, nhưng mà rải rác trong những bài kinh khác thì Phật có nhắc chúng ta phải tịnh chỉ ngôn ngữ, phải sống đúng giới hạnh, lấy giới bổn Patimokkha phòng hộ sáu căn, phải thiểu dục tri túc, phải tu tập Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, phải tu tập Định Vô Lậu, diệt ngã xả tâm, ly dục ly ác pháp. Thì tất cả những cái cách thức tu này nó đều nhắm vào ở chỗ cái Sơ Thiền, cái thiền thứ nhất của Phật.
(16:52) Tịnh chỉ ngôn ngữ thì Thầy đã giảng rồi.
Bốn mươi hai cái bài kệ để chúng ta đã hiểu biết rằng mỗi một cái bài kệ đều có một cái ý của Phật để chỉ cho chúng ta ly dục ly ác pháp chứ không phải gì, để ngăn chặn những cái ác pháp sanh khởi, làm cho tâm chúng ta không được thanh tịnh.
Phần thứ nhất là tịnh chỉ ngôn ngữ rồi, phần thứ hai là sống đúng giới hạnh. Vậy thì sống đúng giới hạnh, muốn sống đúng giới hạnh thì chúng ta phải biết giới luật của Phật như thế nào mà sống cho đúng. Nghĩa là chúng ta phải học giới luật.
Vậy thì cái Đường Về Xứ Phật tập hai, thì Thầy đã soạn cái bộ giới luật để rồi chúng ta mới biết được cái giới hạnh, giới đức của nó như thế nào để mà chúng ta sống cho đúng giới hạnh, giới đức ở đó.
Và cái phần thứ ba thì ở trong cái bài tóm lược này, lấy giới bổn Pàtimokkha mà phòng hộ sáu căn.
Nghĩa là khi đi tới, khi đi lui, khi ra đường, khi đi khất thực, khi đến nơi mà lấy cơm ăn, thì chúng ta đều là nhớ mình là người tu sĩ, phải giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh. Cho nên luôn luôn lúc nào mắt nhìn xuống, đi chậm rãi, không được vội vàng, không được lật đật, oai nghi tế hạnh phải được đầy đủ.
Tuy rằng chúng ta ở trong tu viện, nhưng chúng ta cũng phải tập luyện những cách thức đó như vậy, gọi là tập phòng hộ sáu căn. Mình đi mà mình ngó qua ngó lại dáo dác, thì người đó không phải là lấy giới bổn mà phòng hộ sáu căn.
Cho nên lấy giới bổn phòng hộ sáu căn là mắt nhìn xuống, tai không muốn nghe một điều gì thị phi, những chuyện phù phiếm bên ngoài không cần nghe, ai làm gì làm, chúng ta mặc, không cần biết.
Chuyện của ai thì nấy, nhân quả của ai, chuyện của người khác thì ai nấy lo, đừng có tham dự vào những chuyện của người khác mà làm cho tâm mình bị dao động.
Biết rằng sanh tử luân hồi, hiện giờ thì chúng ta còn thân, nhưng một chút nữa thì chúng ta đã mất thân đi rồi, bởi vì đâu biết rằng một lát nữa là chúng ta sẽ bị sanh tử luân hồi lôi chúng ta đi mất. Cho nên hiện giờ chúng ta đang sống, nhưng một lát nữa chúng ta chết, đâu ai biết được!
Do cái chỗ đó mà chúng ta đừng có lo chuyện người ta mà hãy lo chuyện mình, chừng nào mình tu xong rồi, mình làm chủ được sự sống chết, thì ai có khổ đau thì mình đến tế độ, mình giúp đỡ người ta. Còn bây giờ mình cứu mình chưa được mà mình đi cứu người khác, mình an ủi người khác, chẳng qua là mình là người chưa biết lội mà đi cứu người chết đuối.
(19:20) Cho nên ở đây chúng ta phải thản nhiên trước sự đau khổ của người khác, là vì chúng ta còn đau khổ như những người khác vậy. Bây giờ chúng ta chưa thoát ra thì một lát nữa chúng ta thì cũng như người đó, cũng giận hờn, cũng phiền não, cũng đau khổ!
Mặc ai làm cái nhân nào thì họ phải gánh chịu nhân ấy, làm ác thì họ phải gánh chịu nhân ác, quả ác, mà làm thiện thì họ phải được hưởng cái phước lành của họ.
Còn bây giờ chúng ta tham dự vào họ để an ủi họ một chút nào đó, chúng ta gọi là thiện, nhưng mà sự thật chính tâm mình nó còn như là một cái đống rác, nó còn như là một cái bãi chiến trường.
Nó còn đang chết chóc, nó còn đang đau khổ mà mình vội vàng mình đi an ủi người khác, thì chẳng qua là mình cũng như người khác mà thôi, không thể giải thoát được.
Cho nên đạo Phật, người tu hành coi như vô tình, mà thật sự người ta vô tình ở trong các pháp xung quanh, chớ hữu tình ở trong các pháp nơi tâm của mình. Người ta xem như mình tiêu cực với xã hội, nhưng mình lại tích cực với mình. Để làm gì? Để cứu mình cho khỏi sự đau khổ, sanh tử luân hồi.
Bởi con đường tu tập của Phật nó khó như vậy, cho nên vì vậy mà lấy giới bổn Patimokkha phòng hộ sáu căn. Phòng hộ sáu căn tức là che chở nó, đừng để cho nó dính mắc trước một cái tình cảm nào đó, hoặc là trước cái sự sân hận, buồn phiền nào đó, tức là phòng hộ sáu căn. Chỉ có giới bổn mới giúp chúng ta phòng hộ được mà thôi.
(20:51) Phần bốn, đời sống của chúng ta phải thiểu dục tri túc. Chúng ta lần lượt bỏ ra hết, bỏ ra hết, tất cả những gì có nhiều thì chúng ta lần lượt bỏ ra. Bỏ ra từng cái ăn, cái ngủ của chúng ta cũng bỏ lần ra.
Ngày chúng ta ăn một bữa, nhưng chúng ta còn thấy thèm cái này, thèm cái kia, thì chúng ta bỏ cái thèm đi, hướng tâm, chúng ta có pháp tu mà. Mỗi lần tâm mình có gì thì mình nhắc tâm mình bỏ cái đó đi, đừng nhớ nữa. Những pháp đó đều là những pháp đau khổ, đem đến cho đời chúng ta luôn sanh tử luân hồi.
Cho nên khi mà biết vứt bỏ như vậy gọi là tu thiểu dục tri túc. Tâm chúng ta còn ham muốn nhiều lắm, dẫy đầy sự ham muốn.
Cho nên do đó chúng ta thiểu dục tri túc tức là chúng ta phải biết xả, biết xả bỏ để chúng ta biết đủ mà thôi. Đủ cho thân phận của mình sống kiếp người đơn giản, đủ cho thân phận của mình sống đừng bề bộn. Đó là chúng ta xả hết, xả hết không còn để lại nữa.
Có như vậy được thì bắt đầu chúng ta mới tu Chánh Niệm Tỉnh Giác Định. Nghĩa là chúng ta mới đi biết mình đi, đứng biết mình đứng, quét sân biết mình quét sân, ngồi biết mình ngồi, mặc áo biết mình mặc áo, nấu cơm biết mình nấu cơm, lặt rau biết mình lặt rau.
Còn nếu mà không bỏ, không thiểu dục tri túc, không xả ra được, chúng ta còn đầy ắp những đồ đạc, đủ thứ đủ loại vật chất, thì thử hỏi làm sao tu Chánh Niệm Tỉnh Giác mà được? Lúc thì lo cái này, lúc thì muốn cái kia, nó tích lũy thêm vô chớ không chịu bỏ ra, thì tu biết chừng nào gọi là ly dục ly ác pháp?
Kế đó thì chúng ta lại tu tập Định Niệm Hơi Thở, biết hơi thở ra, biết hơi thở vô, để chúng ta quán vứt bỏ những vật dụng xung quanh chúng ta, để thực hiện đời sống thiểu dục tri túc, bỏ xuống, bỏ xuống. Có hai cái y chúng ta quán xét riết để chúng ta bỏ luôn cả một cái y nữa và còn một cái y mà thôi, đó là thiểu dục tri túc.
(22:43) Bởi vậy nói thiểu dục tri túc không có nghĩa là ít muốn biết đủ là đủ, mà còn phải tu tập, tu tập hết sức, dùng pháp hướng Như Lý Tác Ý, tác ý cho chúng ta bỏ xả những cái vật chất xung quanh chúng ta.
Chúng ta có hai cục xà bông, quán bỏ xuống cho còn một có một cục xà bông, chúng ta hai cây kem, phải quán bỏ xuống còn một cây kem mà thôi. Tất cả những gì chúng ta đều quán và đi đến chỗ thiểu dục tri túc tận cùng, nghĩa là vừa đủ, không còn thừa một chút nào hết, nghĩa là chúng ta chấp nhận đời sống là bỏ xuống.
Có như vậy mới gọi là ly dục ly ác pháp, nếu không được như vậy thì làm sao mà ly dục ly ác pháp? Có nhiều người nghe chữ “thiểu dục tri túc”, tưởng là mình hiểu chữ “thiểu dục tri túc” nghĩa là ít muốn biết đủ, là như vậy là đủ. Không phải, nó còn phải tu tập rất nhiều, chớ không thể tu ít mà thiểu dục tri túc được.
Nghĩa là chúng ta có bỏ xuống được hay không, hay là chúng ta chỉ nói mà không bỏ, chúng ta phải bỏ thật sự. Trong thất chúng ta có hai cái ca, hai cái bát, thì chúng ta bỏ bớt một cái ca, một cái bát đi, còn một cái mà chúng ta đủ.
Cho nên chúng ta bỏ riết, bỏ riết tận cùng thì chúng ta còn một cái bát vừa uống nước, vừa ăn cơm, vừa đi khất thực, thì chúng ta đời sống mới thấy rằng giải thoát hoàn toàn.
Đó là những điều kiện mà chúng ta cần phải tu. Đó là Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, đó là Định Niệm Hơi Thở, đó là Định Vô Lậu để mà chúng ta quán xét mà xả ly, để sống cho đúng thiểu dục tri túc.
Cho nên trong cái bài Tứ Thánh Định vừa rồi thì Thầy ghi thiểu dục tri túc là cái phần cuối cùng. Cái phần cuối cùng tức là cái phần sau cùng hết, chớ không phải là cái phần các định. Từ Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, tu tập Định Vô Lậu, Định Niệm Hơi Thở, đều là nằm trước thiểu cái dục tri túc, không dám đặt cái thiểu dục tri túc kế giới bổn Patimokkha và phòng hộ sáu căn là vậy.
Là vì muốn tu thiểu dục tri túc thì tất cả phải dùng các loại định này mới thiểu dục tri túc được.
Đó thì, những cái điều mà chúng ta tu tập ở trong Sơ Thiền, thì hôm nay Thầy nhắc nhở lại, nó là như vậy chớ không có gì khác. Bởi vì Định Vô Lậu thì các thầy và các con cũng đã học rồi, Định Chánh Niệm Tỉnh Giác cũng đã học rồi, mà Định Niệm Hơi Thở cũng đã xong rồi, chỉ còn thực tập cho đúng cách là nó sẽ xả ly, nó ly dục ly ác pháp.
(24:56) Đến đây Thầy xin dừng lại, một chút xíu Thầy sẽ nhắc lại. Vừa rồi thì có chú Đắc ở thành phố. Hôm nay thì chú xin phép để mà được xây dựng một cái trung tâm, do đó chú đến mời Thầy, là chú sẽ giao một cái khu vực chuyên tu cho Thầy để hướng dẫn.
Vài hôm nữa thì có thầy Tâm Nhẫn và thầy Thiện Đức đến đây gặp Thầy để giao cái trách nhiệm cái phần khu vực chuyên tu đó. Còn quý thầy thì làm cái công việc từ thiện xã hội, từ cái trại khuyết tật, từ các trường hướng nghiệp, dạy nghề nghiệp, từ cái trại mồ côi, thì các thầy sẽ làm nhiệm vụ đó.
Còn cái vấn đề hướng dẫn chuyên tu, để giữ gìn giới luật nghiêm túc, thì các thầy giao hết cái phần đó cho Thầy, coi như cái trung tâm chuyên tu thì giao cho phần Thầy. Nhưng mà Thầy thì cũng chưa có hứa chắc, là để sau khi gặp quý thầy rồi mới có quyết chắc trong vấn đề đó.
Nghĩa là người ta xin phép ở trong cái trung tâm làm công việc từ thiện, rồi người ta ghép vào ở trong cái khu chuyên tu, để giúp cho Phật giáo có mt cái khu vực chuyên tu. Mà bây giờ nhìn chung ở trong nước thì không có một vị Thầy nào giới luật nghiêm chỉnh, cho nên người ta muốn mời Thầy về đó.
Nhưng có cái khó là như thế này. Thầy không biết họ là thuộc cái loại nào mà các nước ở ngoại quốc đài thọ và giúp một số tiền rất lớn, vừa xây dựng mà vừa lại trợ giúp cho những cái tiền bạc. Cái cơ quan từ thiện đó nó thuộc về Á Châu.
Thì Thầy nghĩ rằng Thầy không hiểu, sợ e rồi có cái chính trị như thế nào, nhưng mà giấy phép thì nhà nước đã ký và chấp nhận cho cái trung tâm đó được thành lập và được ra đời.
Giấy phép xong xuôi hết rồi, coi như là hiện giờ còn có mời những nhân vật nào đứng trong vị trí nào, làm gì, làm gì đó, cho nên chú Đắc chú về đây là mời Thầy, sau đó thì quý thầy mới, coi như là chú đến đây là báo trước, để rồi sau đó quý thầy về mời Thầy nhận lãnh cái nhiệm vụ đó.
(27:10) Thầy nghĩ rằng ở trong cuộc đời tu hành của mình, mình nghĩ cái tốt. Thầy đang lo là không biết mình sẽ đi tìm cái nơi nào mà nó thuận tiện, mà mình khỏi có lo giấy tờ gì tất cả hết, mà nó bảo đảm được sự tu tập.
Nếu ở đây người ta đã lo cho mình tất cả mọi cái yên ổn để cho mình tu hành, và đồng thời cơm ngày một bữa người ta lo cho mình đầy đủ, thì cái chuyện đó quá tốt rồi. Mình chấp nhận vào đó mình tu hành thì quá tốt rồi, đâu còn cái chỗ nào hơn nữa.
Cho nên vì vậy, về mặt chánh quyền, về cái này kia thì họ lo hết, còn riêng mình thì mình cứ hướng dẫn tu hành mà thôi, chẳng có tiếp duyên gì bên ngoài. Người ta lo đời sống của mình, mình chẳng lo gì hết.
Thì từ lâu Thầy ao ước được điều đó, ngày ngày chúng ta chỉ ôm bình bát đến cái nơi nào đó họ cho chúng ta một bữa cơm là đủ, chúng ta chẳng cần gì nữa. Đó là cái ước vọng của Thầy để chúng ta tu tập.
Và đồng thời thì Thầy hỏi, như vậy là cái cơ sở đó mà tôi lãnh đạo thì phải có nam, có nữ chớ, như vậy là nó phải có một cái vùng cũng rộng, nó phải có cách xa để mà cái khu vực chuyên tu cho nam, cho nữ chớ? Thì ông ta cũng có ý nói chuyện với Thầy, là ông sẽ sắp xếp cái này rất là rõ ràng kỹ lưỡng, chớ không phải là giao Thầy cái nhiệm vụ là phân phối? thầy tu không mà bỏ bên nữ, bởi vì bên nữ cũng rất đông.
Thì tất cả những cái này, thì cái khu đất đó nó cả trăm mẫu ở trên sông La Ngà, ở trên cái khu vực từ đi đường lên Đà Lạt, đến cái chỗ mà gọi là cái sông La Ngà, thì khu đất vô đó thì nó cũng rộng lớn lắm. Đó thì, cái địa điểm như vậy, nhưng mà hôm nào thì mấy người này họ sẽ đem xe hơi đến rước Thầy đến đó xem xét.
Thì đó là cách mới có giáo đầu mà thôi, nhưng mà đây cũng là cái tốt, là sau ba tháng hạ rồi thì Thầy mới có dịp đi thăm, coi tìm cái nơi nào tốt để cho chúng ta được yên tu mà không bị khó khăn.
Còn ở đây thì đương nhiên là chúng ta cũng phải biết rằng chúng ta cũng sắp sửa bị động, là vì Thầy đã từ chối, dứt đoạn và Thầy chấm dứt, do đó sợ Giáo hội ở đây họ sẽ làm động mình.
(29:15) Cho nên từng đó thì sau khi rời, thì ở đây chúng ta còn ít chớ không có đông được, vì đông thì cái ông Giáo hội này ông kiếm chuyện đủ thứ thì mình cũng bất an lắm.
Cho nên Thầy cũng có nghĩ lâu rồi, nghĩa là các con phải về cái nơi trụ xứ của mình, địa phương của mình, ở đó thỉnh thoảng Thầy về thăm Thầy sẽ dạy cho các con, chớ còn ở tập trung một chỗ mà tu tập thì giấy tờ rất phiền phức.
Mà rồi Giáo hội nó thuận thì không nói gì, nó nghịch thì nay nó kiếm chuyện này, mai nó kiếm chuyện kia, nó làm mình không yên. Và đồng thời thì Thầy là một người quyết mạnh dạn chống lại cái Giáo hội, không đúng, làm sai mà không chịu mình sai, đó là những cái điều mà Thầy rất là khổ sở vấn đề này.
Cho nên hôm nay được cái duyên như vậy cũng là một cái, sắp sửa đi chu du để tìm cái nơi, thì đây cũng là cái dịp để Thầy đi tìm về đó thử coi nó ra sao, rồi nó đủ duyên thì chắc chắn là nó cũng có sự sắp xếp đâu đó sẵn sàng.
Mình không muốn mà người ta đến cầu, thì đó là một cái duyên nó sẵn rồi. Mình đang đi tìm mà họ lại đem đến họ mời mình, thì đó là cái duyên, chứ mình cũng đâu có biết ở chỗ nào mà nói.
Nhưng mà sự thật ra thì mình cũng có gieo một cái duyên này cũng đã lâu rồi. Cách đây cũng năm sáu năm rồi, Thầy có gợi ý này, cho nên bây giờ người ta nhớ người ta nhắc lại, và đồng thời người ta làm được giấy tờ thì người ta mời mình về là phải.
(30:45) Bây giờ Thầy nhắc lại về Nhị Thiền. Nhị Thiền, một là tu tập Định Niệm Hơi Thở. Nó Thầy đã chuẩn bị cho các con từ mấy năm nay, ba bốn năm nay về cái Định Niệm Hơi Thở, để cho các con từ bắt đầu ổn định hơi thở bằng hơi thở bình thường.
Những thầy mới vào tu đây, coi như cũng là đi tắt ngang đó, lẽ ra thì các thầy chưa được nghe giáo pháp này, mà phải tu Định Niệm Hơi Thở cho thuần thục.
Định Niệm Hơi Thở không có nghĩa là sổ tức, nhưng mà vì trong mọi người, người ta đang tu trong các pháp môn hiện giờ, người ta đang dùng hơi thở người ta sổ tức, cho nên Thầy cũng nương nó để hòa hợp với họ mà thôi.
Nhưng Thầy thấy pháp sổ tức cũng không phải là một cái sai, nó cũng đi từ cái hơi thở, nhưng vì nó có hơi ức chế mà thôi. Nó không dùng pháp hướng mà nó dùng cái sự ức chế là đếm số. Cho nên nó chỉ khác có chút thôi, nhưng Thầy thấy vẫn là một cái điều tốt, là vì chúng ta chỉ cần luyện được cái hơi thở bình thường, ổn định được cái hơi thở bình thường là quý nhất. Từ bình thường chúng ta đi lên, chúng ta dễ nhận xét.
Cho nên hầu hết các con tu tập ở đây, trải qua hơn ba năm, thì các con sẽ thấy cái hơi thở các con rất là, dễ điều khiển lắm.Còn người nào mới tu thì hơi thở còn chạy dọc, chạy ngang, lúc thì dài, lúc thì ngắn, nó khó ổn định lắm, còn cái người tu lâu rồi thì cái hơi thở ổn định.
Và chính cái hơi thở ổn định là cái phương pháp để mà chúng ta đi tất cả suốt cái quãng đường giải thoát của đạo Phật. Mặc dù là chúng ta mới tu về giới luật, chúng ta cũng dùng được cái Định Niệm Hơi Thở nữa.
Cho nên cái hơi thở tuy rằng nó sau cùng, nhưng sự thật ra nó mà tu tập, ngay từ lúc đầu thì chúng ta tu tập hơi thở là tốt nhất. Vì nó bắt đầu nó ngồi lại, tâm nó theo cái trạng thái ngồi mà nó gom lại dễ dàng.
Và đồng thời chúng ta nương vào hơi thở, thì hơi thở là cái hành động trong thân, đầu tiên chúng ta nương vào nó và cuối cùng thì chúng ta chấm dứt nó, để chúng ta làm chủ sự sống chết.
(32:48) Cho nên tu tập Định Niệm Hơi Thở thì các thầy chắc cũng là rõ lắm rồi. Theo Thầy thiết nghĩ mà, quý thầy đã biết rồi, cái người nào mà đã tu cái Định Niệm Hơi Thở lâu rồi thì đã biết rồi, cho nên khỏi cần phải nhắc nhiều.
Như hồi nãy Thầy nói, năm nay Thầy nhắc ba mươi phút đến một giờ. Năm trước Thầy nhắc mười hơi thở đi kinh hành một vòng, thì đương nhiên là người mới tu là phải vậy, năm hơi thở, hai hơi thở, hay ba hơi thở không chừng nữa, đối với người mới tu.
Để làm gì? Để giữ cho được cái chất lượng nhiếp tâm không vọng tưởng, thì nó mới có một cái trạng thái thanh tịnh được, chứ còn nếu mà nó có niệm ra niệm vô, thì tức là tâm nó mất thanh tịnh đi.
Vậy từ mười cái hơi thở mà chúng ta đi lên dần cho tới ba mươi phút và một giờ, thì Thầy nghĩ rằng một năm nay mà chúng ta tu tập, chắc chúng ta phải đi tới, từ ba mươi phút đến một giờ không vọng tưởng.
Còn người nào mà tu dở là do cái phần xả tâm yếu, do cái phần ly dục ly ác pháp chưa quét sạch, hay hoặc là tu chỉ là hướng nhắc cầm chừng, chớ không có nhiệt tâm. Nếu có nhiệt tâm quyết định là mình sẽ sống chết với nó, nhất định là không để cho khởi ra niệm tham, sân, si nữa, quyết định, thì chắc chắn là tu hành đó cái thời gian sẽ thu ngắn lại.
(34:05) Và bắt đầu định Nhị Thiền thì chúng ta, như Thầy cũng đã dạy các thầy rồi, Định Diệt Tầm Giữ Tứ. Định Diệt Tầm Giữ Tứ tức là chúng ta dùng cái pháp hướng mà chúng ta nhắc cái tâm.
Thí dụ như bây giờ muốn diệt cái Tầm, giữ cái Tứ thì như thế nào? Tác ý ra: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra.” Lời nói đó, âm thanh đó và ý nghĩ, cái lời nói đó mà thoát ra, thì đó là cái tác ý.
Mà cái tác ý đó là diệt cái Tầm, làm cho cái Tầm nó không có xen vô được, mà nó tiếp tục nó tỉnh thức ở trong cái hơi thở ra và thở vô, nó làm cho Tầm diệt, còn cái tác ý đó gọi là Tứ.
Cho đến khi cái Định Diệt Tầm Tứ này chúng ta thấy thuần thục. Thuần thục nghĩa là mới đầu chúng ta hướng tâm nhắc như thế này: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra.” “Hít vô dài tôi biết tôi hít vô dài, thở ra dài tôi biết tôi thở ra dài.” “Hít vô ngắn tôi biết tôi hít vô ngắn, thở ra ngắn tôi biết tôi thở ra ngắn.”
Đó là mình hướng tâm mình nhắc tới nhắc lui, nhắc tới nhắc lui như vậy, tức là diệt Tầm mà giữ Tứ, chớ không phải đếm một, hai, ba, bốn.
Và đồng thời cứ khoảng một hơi thở rồi kế nhắc một hơi thở, rồi nghỉ một hơi thở, rồi nhắc một hơi thở, cứ mình nhắc liên tục. Hay hoặc là hơi thở nào cũng nhắc, đó gọi là Định Diệt Tầm Giữ Tứ.
Đến hướng tâm Tịnh Chỉ Tầm Tứ thì mình còn có pháp hướng, mà pháp hướng thì nó phải có một thời gian xa hơn.
Nó không phải từ cái hơi thở này, rồi nghỉ một hơi thở, mà nhắc tới một hơi thở, hay hoặc là nhắc liên tục, mỗi hơi thở đều nhắc như cái Định Diệt Tầm Giữ Tứ trên. Mà tới hướng tâm thì nó khác hơn, tức là nó đi xa hơn một chút, tức là nó có cái trạng thái yên tĩnh hơn một chút của cái diệt Tầm Tứ này. Và thấy cái tâm của mình vọng tưởng thưa, ít, nó không còn nhiều nữa.
Do vì vậy đó mà lâu lâu mình hướng tâm một lần để mà tịnh chỉ Tầm Tứ, bởi vì khi mình hướng tâm rồi thì mình không còn hướng tâm nữa, thì cái khoảng thời gian đó từ một phút, đến năm phút, cho đến mười phút, hoặc là ba mươi phút, mình mới hướng một lần. Do cái sự hướng tâm như vậy gọi là hướng tâm tịnh chỉ Tầm Tứ.
(36:24) Chẳng hạn là bây giờ Thầy hít vô, Thầy nhắc: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”, rồi Thầy không nhắc nữa, Thầy thở cho tới hai chục hay ba chục hơi thở, Thầy mới nhắc lại một lần nữa. Đó là pháp hướng tâm tịnh chỉ.
Và pháp hướng tâm tịnh chỉ thì chúng ta sẽ đạt Tầm Tứ như thế nào, tức là chúng ta diệt Tầm Tứ như thế nào? Tầm Tứ sẽ kéo dài từ, nếu mà một phút thì một phút nó yên tĩnh, nó không có tác ý nữa, và hai phút thì hai phút nó vẫn yên tĩnh, và năm phút, năm phút nó vẫn yên tĩnh, nó không có Tầm Tứ nữa.
Cho đến khi mà chúng ta tác ý trở lại thì cái sức của chúng ta được mười phút hay năm phút chúng ta mới tác ý ra. Bây giờ lần lượt, lần lượt chúng ta tu cái định hướng tâm này, cho đến khi ba mươi phút mà chúng ta vô hướng tâm rồi ba mươi phút sau đó chúng ta hướng tâm xả ra. Và cứ như vậy thì chúng ta biết rằng cái pháp hướng tâm chúng ta đã tịnh chỉ hoàn toàn.
Và tịnh chỉ hoàn toàn rồi thì bắt đầu bây giờ tới cái giai đoạn kế, mà chúng ta để nhập cái Nhị Thiền này, thì chúng ta còn có một cái tịnh chỉ Tầm Tứ chứ không phải còn pháp hướng nữa.
Khi mà khoanh chân ngồi kiết già lưng thẳng hẳn hòi, đàng hoàng thì chúng ta nhắc: “Tầm Tứ phải tịnh chỉ, ngưng, không có được hoạt động nữa!” Do đó mình ngồi đó thì bắt đầu cái hơi thở của mình ra vô từ nhanh nó chậm nhẹ, dần, dần, dần, dần, rồi nó mất tiêu nó ở trong cái trạng thái Diệt Tầm Diệt Tứ.
Chúng ta chỉ nhắc có một lần, gọi là tịnh chỉ Tầm Tứ, ra lệnh đó. Còn cái kia thì mình còn ra lệnh một thời gian dài, còn cái định Diệt Tầm Diệt Tứ thì chúng ta cứ nhắc thường xuyên, nhắc hoài, nhắc hoài, cũng như là sổ tức vậy.
Nhưng rồi chúng ta cũng thưa dần, một hơi thở, nghỉ một hơi thở rồi nhắc nữa, nghỉ một hơi thở rồi nhắc nữa, hay hoặc là nghỉ hai hơi thở rồi mới nhắc nữa, Và tập dần, tập dần cho đến khi mà chúng ta hướng tâm từ một phút đến năm phút, từ năm phút đến mười phút, cho đến ba mươi phút mới hướng tâm một lần.
(38:15) Còn tịnh chỉ Tầm Tứ thì chỉ có hướng một lần, khi mà khoanh chân ngồi thẳng lưng kiết già rồi thì chỉ hướng một lần. Và từ đó Tầm Tứ tịnh chỉ, chúng ta không cần nhắc nữa.
(38:31) Đây về phần Tam Thiền: “tu tập Định Niệm Hơi Thở khéo tác ý.” Bây giờ từ lâu tới giờ chúng ta phải nhớ rằng, cái hơi thở mà chúng ta khéo tác ý đó như thế nào?
Khéo tác ý ở trong cái Định Niệm Hơi Thở, như Phật đã dạy rất rõ ràng: “Quán ly tham tôi hít vô, quán ly tham tôi thở ra”, đó là khéo tác ý theo hơi thở đó.
Nếu chúng ta tác ý cái hơi thở như thế này thì nó lại kết quả nhiều hơn. Thí dụ như mình vừa hít vô mình đã: “Quán ly tham tôi hít vô, quán ly tham tôi thở ra”, thì hơi thở mình vừa hít vô hết, thì “quán ly tham” cũng hết. Mà mình thở ra thì “quán ly tham hơi thở ra”, thì hơi thở ra hết thì cái “ly tham” nó cũng theo ra hết. Thì như vậy nó có kết quả rất lớn.
Còn nếu mà mình cũng, bởi vì ở đây Phật nói khéo tác ý trong hơi thở mà, Định Niệm Hơi Thở khéo tác ý mà, mình tác ý theo cái hơi thở. Còn mình tác ý không theo hơi thở, nghĩa là mình nói “Quán ly tham tôi hít vô, quán ly tham tôi thở ra” nhưng mình không có thở ra mà mình hít vô. Hoặc là mình thở ra mình nói “Quán ly tham tôi hít vô” mà trong lúc đó mình thở ra, thì như vậy là cái pháp hướng của mình nó đi ngược với cái hơi thở của mình thì nó không có kết quả.
Mà cái pháp háp hướng của mình nó đi một lượt với cái hơi thở của mình, thì nó kết quả, rất là kết quả. Nó làm cho mình sức tỉnh cao hơn, và sức tỉnh cao hơn thì sức bám chặt cao hơn, nó làm cho mình bám chặt mà phá âm thanh dễ hơn.
Đó là cái lối tu tập Định Niệm Hơi Thở khéo tác ý của Tam Thiền, chỉ có cái hơi thở và cái pháp hướng phải đi với nhau, phải đi một lượt với nhau. Khi mà ý mình nhắc cái câu pháp hướng đó thì hơi thở đang hít vô, và cái ý bảo nó rằng “Quán ly tham tôi hít vô”. Thì theo cái ngôn từ và lời nói đó, thì cũng vừa quán, vừa nói, mà hơi thở cũng vừa hít vô. Hơi thở dứt thì cái quán - nói đó cũng dứt.
(40:31) Rồi quán nói hơi thở ra thì nó cũng vậy, hơi thở dứt thì cái quán nói cũng vừa dứt, hai cái nó đồng song nhau một lượt.
Cho nên người mà dụng cái pháp hướng mà tu tập về Định Niệm Hơi Thở để xả ly, hoặc là để câu hữu với một cái pháp nào đó, mà đạt được cái mục đích mình muốn đạt thì phải dùng cái pháp hướng ngắn gọn. Vì hơi thở chúng ta không thể chậm và dài lâu được, cho nên chúng ta phải vừa, cái pháp hướng đó phải vừa với cái hơi thở của mình, thì có kết quả nhanh chóng và mau nhất.
“Hai, nương hơi thở hướng tâm xả ly sáu loại tưởng: sắc, thinh, hương…”
Bây giờ nó có những cái loại tưởng nào đó, thì lúc bấy giờ chúng ta cần phải bám chặt cái hơi thở hơn.
Chớ còn lơ mơ không bám chặt hơi thở thì các cái loại hỷ tưởng này nó làm mất hơi thở đi, nó thay thế vào những cái trạng thái xúc lạc, trạng thái thinh tưởng, sắc tưởng, hương tưởng, vị tưởng, nó làm cho tâm chúng ta mê mờ và thích thú bám vào những cái trạng thái tưởng đó, rồi vui thích ở trong cái trạng thái đó. Nó cám dỗ chúng ta, nó làm chúng ta vui mừng, thích thú, ham thích cái trạng thái đó.
(41:45) Cho nên ở đây thì chúng ta phải nương vào cái hơi thở, phải biết cho rõ hơi thở, để trú vào cái hơi thở mà xả các loại tưởng đó. Và đồng thời dùng pháp hướng để xả các cái loại tưởng đó, thì nó mới hết được.
Do cái chỗ chúng ta nỗ lực mà chúng ta tu tập như vậy, thì chúng ta mới ly được các cái loại tưởng:
“Rồi dùng pháp hướng xả ly 18 cái loại tưởng.”
Thì các cái pháp hướng mà xả ly 18 loại tưởng này, hồi nãy ở trên thì xả ly có sáu cái loại tưởng thôi, nghĩa là sáu cái loại tưởng đầu tiên là sáu cái loại tưởng thô, kế đó nó có những cái vi tế, cho nên cộng nó chung lại, nó là mười tám cái loại tưởng lận.
Cho nên đến cái giai đoạn vi tế này thì chúng ta nỗ lực, cũng tiếp tục ở trên cái pháp hướng, dùng cái pháp hướng như cũ mà chúng ta xả. Nhưng mà trạng thái tâm của chúng ta bây giờ rất tỉnh hơn, nó không còn mê mờ như trước nữa.
Đó là cái giai đoạn ba dùng cái pháp hướng xả ly mười tám loại tưởng.
Giai đoạn tư thì hướng tâm tịnh chỉ âm thanh. Lúc bấy giờ chúng ta xả ly được mười tám cái loại tưởng rồi chúng ta mới xả ly được âm thanh, chúng ta mới xả âm thanh, tiếp tục xả âm thanh.
Chớ còn chưa dùng pháp hướng mà xả ly mười tám loại tưởng này, mà tịnh chỉ âm thanh cũng rất khó chớ không phải dễ. Mà không vô được nữa, nó cứ hết nghe rồi bung ra, hết nghe bung ra, cho nên mình phải xả mười tám loại tưởng rồi, thì mình phá âm thanh mới dễ, mình phá âm thanh mới được.
Mà khi phá âm thanh được thì chúng ta mới tỉnh thức trong giấc ngủ rất dễ. Cái sức này bây giờ nó mới có tỉnh thức được, chớ còn không thì nó khó lắm chứ không phải dễ đâu.
Nó không ngủ, nó thức thì nó lại làm cho cơ thể chúng ta bệnh tật, làm cho cơ thể chúng ta mệt nhọc, mà nó ngủ thì nó chiêm bao liên tục. Do cái sự chiêm bao mộng tưởng thì chúng ta đâu có xả ly hết mười tám loại tưởng được. Vì vậy mà bắt buộc chúng ta phải tu tập cái tỉnh thức trong những cái giấc ngủ.
Mà không còn giấc ngủ nữa thì không còn chiêm bao, mà còn giấc ngủ thì bị rơi vào chiêm bao. Bởi vì lúc này cái ý thức của chúng ta không làm việc nữa, cho nên vọng tưởng không đi vào cái ngõ đó được mà phải đi vào trong cái loại tưởng.
(44:11) Khi mà dùng nó xong rồi, thì nếu mà phá được cái giấc ngủ rồi, thì bắt đầu chúng ta mới dùng tịnh chỉ âm thanh. Nghĩa là bây giờ chúng ta mới ra lệnh cho âm thanh ngưng để mà chúng ta không còn nghe nữa.
Bắt đầu chúng ta hướng tâm: “Mười tám loại tưởng phải xả ly khỏi cái tưởng, và âm thanh phải vắng bặt, không có được tác động vô đây!” Thì do đó chúng ta hướng, chúng ta tịnh chỉ âm thanh, chúng ta phá âm thanh.
Nhưng mà trước khi phá âm thanh thì chúng ta phải hướng tâm nhắc phá âm thanh, rồi sau đó mới tịnh chỉ âm thanh. Chớ còn nếu mà chưa hướng tâm, chưa tu tập phá âm thanh, thì chúng ta chưa có quen, cho nên chúng ta nằm không có chặt ở trên cái tụ điểm, chỗ cái hơi thở, do đó chúng ta dễ bị bung ra, bung vô.
Do thời gian tập luyện thì cái đạo lực nó có tăng lên nữa, sau khi mà âm thanh vắng bặt được, về cái pháp hướng âm thanh mà vắng bặt được rồi, thì chúng ta mới tịnh chỉ âm thanh, tức là ra lệnh: “Âm thanh ngưng, mười tám loại tưởng ngưng!” thì mộng tưởng không còn nữa. Thì do đó, khi đó bây giờ chúng ta hoàn toàn nhập Tam Thiền.
(45:14) Bây giờ đến Tứ Thiền thì Định Niệm Hơi Thở ra hơi thở vô cũng khéo tác ý, do đó thì chúng ta cũng thấy như ở trên đó, thì về cái Định Niệm Hơi Thở cũng phải khéo tác ý.
Vậy thì phải khéo tác ý như thế nào? Vì lúc bấy giờ chúng ta dùng pháp hướng tâm nhiều chớ chúng ta đâu có dùng cái gì? Vậy thì Định Niệm Hơi Thở khéo tác ý tức là làm sao cho cái pháp hướng đó, nó đồng thời nó đi theo cái hơi thở ra và hơi thở vô của chúng ta.
Thí dụ như bây giờ Thầy hít vô phải không, thì Thầy bảo: “Tịnh chỉ hơi thở, hít vô tôi biết tôi hít vô. Tịnh chỉ hơi thở, thở ra tôi biết tôi thở ra”, thí dụ như vậy.
Thì đó là mình dùng cái pháp hướng đó mà mỗi hơi thở như vậy….
HẾT BĂNG
PHÁP HÀNH 25 - SỐNG TRONG THIỆN MÀ KHÔNG DÍNH MẮC THIỆN
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Thời gian: 1998
(0:00) Hôm nay Thầy tiếp tục cái bài học, nhưng trước khi học cái giai đoạn nương vào hơi thở để nhập các loại định tưởng, thì trước khi học những cái loại định tưởng này, thì Thầy sẽ trả lời cái câu hỏi của Chân Huệ hỏi Thầy. Như vừa rồi thì Chân Huệ có hỏi Thầy:
Hỏi: “Kính bạch Thầy! Để quán thọ trên thọ, khi ta không có cảm giác gì thì có nên quán không? Nếu quán thì có phải đọc từ đầu những câu Phật đã dạy không? Nghĩa là đọc luôn từ đầu: “Khi cảm giác lạc thọ, tuệ tri cảm giác lạc thọ. Khi cảm giác khổ thọ, tuệ tri cảm giác khổ thọ. Khi cảm giác bất khổ, bất lạc thọ v.v”?”
Nghĩa là trong cái bài kinh của Phật dạy chúng ta trên thọ quán thọ đó, thì dạy mình có cách hướng tâm theo cái, hướng tâm nhắc cái tâm của mình, cái cảm giác nào thì mình biết cảm giác nấy.
Mà khi bây giờ mình ở trên cái thọ thì mình không có cái thọ nào hết, vậy thì Chân Huệ hỏi Thầy mình có nên đọc hết những cái lời của Phật dạy như vậy hay không? Đó là cái ý để mà chúng ta biết cách thức mà tu tập.
Hôm nay thì nhân hỏi như vậy, thì chúng ta mới biết rằng cái sự tu tập của chúng ta nó chính xác chớ còn không khéo về chúng ta cứ đọc liên tục mãi mà không biết là trên thọ quán thọ như thế nào.
(01:45) Đáp: “Khi ta không có cảm giác nơi thân, thọ, tâm, pháp,”
Nghĩa là cái cảm giác đó nó phải nơi cái thân của chúng ta, rồi cái cảm giác nơi cái thọ nữa, rồi nơi cái tâm của chúng ta nữa, cái thọ nơi tâm, rồi cái thọ ở các pháp nữa.
Cho nên bốn cái chỗ này, nếu mà nó ở cái chỗ nào thì chúng ta mới quán cái cảm thọ ở chỗ đó, chớ không phải là bây giờ nó không có mà chúng ta quán làm gì? Nó có chúng ta mới tu, tu mà để quán, để xả cái thọ đó cho nó ra khỏi cái thân, rồi cái thọ, rồi cái tâm, cái pháp của chúng ta.
Tức là bốn cái chỗ này nó đang có cái cảm thọ nào đó, chúng ta mới đặt cái thọ lên trên đó mà chúng ta quán. Do vì vậy đó, mà nó có thì chúng ta quán, mà không có thì chúng ta không quán.
“Khi ta có cảm thọ nơi thân, thọ, tâm, pháp của ta, ba thọ.”
Nghĩa là nơi thân, thọ, tâm, pháp của ta nó có ba cái thọ, thọ lạc, thọ khổ, và thọ bất lạc bất khổ. Nếu mà ở trên thân, thọ, tâm, pháp chúng ta nó xảy ra ba cái trường hợp thọ đó, nếu mà một cái thì chúng ta thấy nó ở đâu?
Nếu mà ở thọ thì chúng ta quán ở trên cái thọ mà quán thọ. Nếu mà ở tâm thì trên thọ mà quán cái thọ nơi tâm của chúng ta. Mà nếu mà ở trên các pháp, thì chúng ta sẽ quán cái thọ ở trên các cái pháp đó. Đó thì nó tùy theo, hay hoặc là cái thọ, bây giờ nó có cái cảm thọ ở thân thì chúng ta đặt cái thọ đó mà chúng ta quán ở trên cái thân của chúng ta.
Còn nếu nó không thì thôi, mà nó có thì chúng ta phải tu, phải quán để chúng ta xả đi, làm cho tâm chúng ta nó vô lậu, tức là nó không còn thấy đau khổ nữa.
Thì ta không nên quán, nếu nó không có bị cảm thọ gì hết thì ta không nên quán. Quán thọ làm gì, nếu bây giờ nó bình thường nó không có gì hết, nó không có thì chúng ta cũng đâu cần quán cái gì!
(03:32) “Khi có cảm thọ nơi thân, thọ, tâm, pháp của ta thì ta nên quán. Nếu thân đang thọ khổ thì ta nên quán thọ trên thọ.”
Tức là trên cái thân thọ khổ này, tức là cái thọ trên cái thân thọ này, cái cảm giác tức là cái thọ của chúng ta. Mà bây giờ chúng ta quán thọ trên thọ, có nghĩa là quán thọ trên cái thọ của thân chúng ta.
Cái thọ đây coi như là cái cảm giác của ta, ở trên cái thọ, tức là cái chịu đựng của cái thân chúng ta, ở trong đó chịu cái thọ đau đó, đau ít đau nhiều đó, thì chúng ta đem cái thọ đó mà chúng ta quán ở trên cái thân của chúng ta.
Tức là thọ khổ nơi này, chúng ta mới quán như vậy, chúng ta mới tìm hiểu cái thọ khổ nơi cái thân chúng ta, tức là nó đau nhức cái chỗ nào đó, chúng ta mới suy tư, quán xét cái thọ khổ này, nó từ đâu nó đến? Nớ từ cái chỗ nào mà nó đến nó làm cho chúng ta khổ đây? Nó ở chỗ nào nó xảy ra?
Thí dụ như bây giờ có một mụt ghẻ, mà nó từ ở đâu mà nó xảy ra cái mụt ghẻ này? Nguyên nhân nào nó xảy ra mụt ghẻ này? Thí dụ như bây giờ chúng ta lỡ đứt tay, rồi cái nơi đứt tay đó nó sẽ nhiễm độc, từ đó nó sẽ thành một cái mụt ghẻ, nó đau nhức, nó làm cho chúng ta khó chịu.
Từ cái chỗ mà xảy ra cái nguyên nhân, mà như chúng ta chặt cây củi, hoặc là làm cái gì đó, bây giờ nó đứt cái tay đi, nó lỡ nó đứt cái tay, cỡ mà nó không đứt tay thì nó làm sao nó đau nhức? Cho nên đứt tay, rồi từ đó chúng ta quán, suy ra từ cái nguyên nhân xảy ra cho đến cái thọ.
Bây giờ nó thành cái mụt ghẻ, nó đau nhức, nó hành hạ khó chịu là do cái nguyên nhân nó như thế nào? Từ đó chúng ta mới thấy được cái nhân quả, cái sự diễn biến của nhân quả nó đem đến cho chúng ta phải thọ cái khổ đó.
(05:17) Rồi từ đâu nó diệt? Nghĩa là từ khi mà nó sanh ra những cái thọ khổ đó, rồi bây giờ bắt đầu chúng ta đắp thuốc hay hoặc là chúng ta uống thuốc, lần lần nó lành đi, thì cái thọ khổ nó diễn biến, nó lần lần nó tan biến đi. Thì chúng ta theo dõi từng chút của cái sự thọ khổ nơi thân của chúng ta mà đang thọ một căn bệnh, hay hoặc là đang thọ một vết thương.
Thì như vậy là lúc bấy giờ chúng ta gọi là “trên thọ quán thọ”, để xem xét thấy, rồi từ đó chúng ta mới, cái sự diễn biến của nó nhiều ít, để chúng ta tìm cái tánh ính cách vô thường và tánh cách “không” của nó.
Nghĩa là chúng ta quán xét như vậy để làm gì? Để tìm cái tánh cách nó vô thường. Bây giờ nó nhức, một lát nữa nó sẽ giảm nhức, hoặc là bây giờ nó lở loét, rồi lát nữa nó lần lần nó gom lại.
Thì đó là cái thọ, nó làm cho chúng ta thấy tăng, thấy giảm, thấy ít, thấy nhiều, và từ đó chúng ta mới biết được. Nếu mà cái thọ nó thường hằng, nó thường có thì nó phải đau hoài hoài như vậy. Cái này lúc thì giảm, lúc thì nhiều, lúc ít, thì đó là cái tánh vô thường của nó.
Và cho đến khi mà nó không còn đau nữa, thì đó là cái tánh “không” của nó rồi. Bây giờ nó “không”, tức là mình không thấy cái thọ ở chỗ nào (của) cái thân.
Như bây giờ, như quý thầy và các con bây giờ cũng thấy rằng cái thân mình nó không có chút nào thọ hết, thì tức là chúng ta biết rằng nó không có cái đau nhức nào hết, thì tức là chúng ta sẽ thấy nó trở về cái tánh “không” của cái thọ rồi.
Do cái chỗ mà chúng ta quán xét để tìm hiểu cái tánh vô thường và tánh không của chúng, vì vậy mà chúng ta biết nó không phải là cái vật thường hằng, một cái mà có vĩnh viễn để mà hành hạ chúng ta. Cho nên nó là tánh vô thường, vì lúc có, lúc không.
Cho nên bây giờ chúng ta đau cái đầu, nhưng mà tới chiều thì chúng ta hết nhức đầu, thì đó là cái tánh vô thường của nó.
Cho nên cái sự quán xét trên thọ, quán xét xem qua cái tánh vô thường của nó, để tìm cái mà chúng ta lầm chấp, có người bị chịu cái thọ đó, nhưng sự thật cái thọ đó là cái thọ chớ không có người bị chịu.
(07:20) Cho nên trong cái luật nhân quả thì cái sự diễn biến của nhân quả nó không phải có cái người chịu đựng nhân quả, mà cái hành động nhân quả. Là vì chúng ta cứ tạo ra nhân ác, do đó cái thọ nó phải chịu, cái thọ phải hoạt động ở trong cái quả của nó, nó đau khổ nhiều thôi, chớ không phải là có một cái người nào ở trong đó chịu khổ.
Nhưng mà vì chúng ta lầm chấp, chúng ta tưởng rằng mình đang chịu ở chỗ cái khổ đó. Nhưng mà sự thật ra thì mình xét thấy rằng, khi đau thì mình chịu quá không nổi, dường như là có một người chịu quá không nổi trong đó, chớ sự thật ra không có cái gì mà chịu quá không nổi hết.
Cho nên nếu mà chịu quá không nổi như vậy, thì Đức Phật đâu có dạy rằng, khi một cái cái thọ mà nó đau chúng ta đến tận cùng, tận cùng cái sức chịu đựng của chúng ta, thì lúc bấy giờ nó mát lạnh.
Một cái người nào mà có cái sức gan dạ trước cái cơn đau, mà chúng ta đừng có để cái tâm dao động, thì lúc bấy giờ cái thọ nó sẽ giảm lần xuống, và nó hết, tánh vô thường của nó sẽ mất tiêu, khi nó không làm dao động được tâm ta.
Còn nếu mà tâm ta bị đau khổ quá thì tức là cái tánh vô thường của nó sẽ tăng, nó tăng trưởng lên, nó tăng trưởng, bởi vì vô thường mà. Nó đau ít nó sẽ tăng nhiều lên, vì cái tâm dao động nó sẽ đau nhiều và nó trở thành cái khổ sở nhất cho chúng ta. Và có thể nó làm cho cái cơ thể chúng ta bị hoại diệt theo cái thọ đó nữa, bởi vì đau quá chúng ta chịu không nổi.
Cách thức quán xét này gọi là Định Vô Lậu. Khi mà chúng ta quán xét như vậy, ở trên cái thọ mà quán thọ như vậy, mà nơi cái thân, thọ, tâm, pháp của chúng ta là bốn cái trụ xứ này, thì cách thức đó gọi là Định Vô Lậu. Cái cách thức mà tu như vậy gọi là Định Vô Lậu.
Cái định đó nó làm cho chúng ta không còn khổ nữa, nó làm chúng ta không còn phiền não, không còn tham ưu đó. Trong kinh Phật nói quán như vậy để cho cái tâm tham ưu không có. Mà chữ “ưu” đây là sầu não, buồn khổ, nó không còn có sầu não, buồn khổ nữa.
Cho nên cái định mà tu tập như vậy đó, ngay trên cái sự quán xét đó để mà xả cho được cái khổ sở đó, cái bất toại nguyện đó, thì đó là cái Định Vô Lậu.
(09:20) Kế đó thì Thiện Chân Huệ hỏi Thầy:
“Kính bạch Thầy! Bất khổ bất lạc thọ là ta không khổ mà cũng không vui, hay gọi là trung đạo phải không thưa Thầy?”
Dó, nếu mà cái, ở đây nó có ba cái thọ: thọ lạc, thọ khổ, và cái chỗ thọ không lạc mà cũng không khổ nữa.
Nghĩa là, thường thường bên Thiền Đông Độ thì người ta chấp cái chỗ mà “không buồn cũng không vui” đó, tức là không khổ mà cũng không có cái gì mà vui đó, tức là người ta không có bị dính mắc vào hai cái chỗ này. Thì cái trạng thái chỗ thọ bất lạc bất khổ này, thì người ta nghĩ đó là cái trung đạo, cái đường lối của đạo Phật.
Nhưng mà sự thật ở đây, cái thọ nó là vô thường, dù là nó bất lạc bất thọ khổ nó chỉ là trong một giây lát nào đó, rồi nó sẽ có thọ lạc hay hoặc thọ khổ, cho nên nó là bản chất vô thường rồi. Dù là cái thọ lạc, thọ khổ này nó cũng là bản chất vô thường, cho nên đâu phải thường hằng. Vậy mà chúng ta chấp nó là trung đạo, cái đường lối của đạo Phật thì nó không phải đâu.
Cho nên ở đây Thầy đáp:
“Theo đạo Phật có ba trạng thái: thọ lạc, thọ khổ và thọ bất lạc bất khổ. Ba thọ này Đức Phật không chấp nhận thọ nào cả, luôn luôn tu tập tìm mọi cách để xả ly chúng.”
Xả ly ba cái thọ này, bởi vì cái thọ lạc, thọ khổ, cái thọ bất lạc bất khổ này nó không phải là cái trung đạo, không phải là cái cứu cánh.
Nhưng mà vì Thiền Tông có thể chấp nhận nó là cái trạng thái “chẳng niệm thiện, niệm ác”, do cái chỗ mà nó không thiện không ác, thì do vì vậy mà nó cũng chẳng buồn mà cũng chẳng vui. Thiện là vui, mà ác là khổ, mà đây nó không khổ, mà nó cũng không vui, do đó nó là cái chỗ bất lạc, bất khổ của Phật đã chỉ.
Vì vậy mà cái chỗ này Đức Phật bảo: đây là một cái trạng thái nó còn vô thường, bởi vì nó là thọ vô thường, dù là thọ bất lạc bất khổ cũng là vẫn vô thường, cho nên nó chưa phải là cái chỗ cứu cánh của chúng ta.
Cho nên ở dây trong kinh thì Đức Phật cũng xác định để chúng ta thấy rõ được con đường tu tập của chúng ta.
“Thọ bất lạc bất khổ, trạng thái này tương ưng với trạng thái “chẳng niệm thiện, niệm ác” của Thiền Đông Độ.”
(11:38) Nghĩa là trạng thái này, chúng ta xét ra cái chỗ mà niệm thiện niệm ác, tức là niệm không vui, không buồn, thì nơi này coi như là “bản lai diện mục hiện tiền”.
Nhưng mà cái chỗ này không phải là cái chỗ mà Đức Phật chấp nhận, vì nó còn cái thọ, thọ cái chỗ mà không vui, không buồn. Còn cái niệm không thiện, không ác thì tức là cái chỗ, nó còn ở trong cái chỗ vô thường.
Vì chúng ta, thí dụ như bây giờ nghe cái danh từ nó “chẳng niệm thiện niệm ác”, thì chúng ta ngỡ tưởng là trong cái đầu của chúng ta nó không có cái niệm thiện niệm ác thì nó phải có một cái trạng thái nào đó, cái trạng thái đó là “bất khổ bất lạc thọ”. Nghĩa là nó không có khổ mà cũng không có lạc, cho nên không có niệm thiện niệm ác, tức là không vui thì cũng không buồn.
Mà không vui không buồn thì nó phải có cái trạng thái thọ, thọ cái bất khổ bất lạc đó chớ? Chớ đâu phải là nó không có niệm thiện niệm ác thì nó ở không ngơ, không có cái gì đâu! Nó phải còn có ở trong cái thọ đó.
Cho nên phải nói rằng, khi mà nói “chẳng niệm thiện niệm ác” thì chúng ta phải suy nghĩ đến cái trạng thái trong cái “chẳng niệm thiện niệm ác” này, là cái trạng thái nó chẳng thọ khổ mà chẳng thọ lạc.
Thì như vậy chúng ta mới thấy rõ được cái chỗ chấp của bên Thiền Đông Độ, thì coi như cái chỗ đó là cái chỗ mà Phật đã thấy đó là: thọ là vô thường, dù là bất lạc bất thọ khổ cũng là vô thường, bởi vì thọ Phật đã nói vô thường mà. Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức - Ngũ Uẩn này là vô thường.
Rồi Đức Phật cũng xác định cho bốn cái chỗ mà chúng ta đang để mà tu tập cho nó gọt sạch được, để mà đi đến chỗ giải thoát đó. Thì thân, thọ, tâm, pháp thì Đức Phật cũng xác định bốn cái chỗ này: vô thường, khổ, không, vô ngã. Bốn cái chỗ vô thường nè, khổ nè, không, vô ngã, nó rõ ràng.
Đức Phật cũng xác định ở chỗ cái thọ này là vô thường, mà nó là không, nó cũng vô ngã, cái thọ này cũng không có ngã nữa. Cho nên nó vốn không, từ có đủ cái duyên hợp lại thì nó mới có thành một cái mụt ghẻ, nó mới thành đau, thành đớn.
Bây giờ thí dụ như cái tay chúng ta không đứt nè, thì làm sao chúng ta có đau đớn được! Cho nên do cái nhân duyên chúng ta chặt trúc, hay hoặc là chặt cây, hay làm cái gì đó, hoặc nhổ cỏ, nó mới đứt tay chúng ta, cái duyên nó hợp lại làm cho cái hoàn cảnh đó, chúng ta xảy ra một cái vết thương, từ đó chúng ta mới thấy ngón tay mình đau, cái thọ khổ đó nó mới xảy ra.
Hay hoặc là bây giờ chúng ta ăn cái miếng ăn đó nghe nó ngon, ngọt ở trong miệng của chúng ta, thì đó là do cái duyên hợp lại, khi đó thì cái cảm xúc của chúng ta tiếp xúc với cái pháp trần, cho nên nó mới sanh ra cái thọ lạc, ăn thấy ngon.
Vì vậy đó, mà nó đưa đến chúng ta mới sanh ra cái ái dục, cái ưa thích nó, mà làm chúng ta đau khổ. Bởi vì mình ưa thích nó thì mình phải tìm kiếm nó, thì như vậy là mình sẽ gặp nhiều cái đau khổ ở trên cái sự ưa thích. Vì đó là cái nguyên nhân đau khổ, mà cũng là cái nơi mà tập hợp tất cả những sự đau khổ chúng ta đến, là vì ưa thích thì tức là nó phải tập hợp.
“Nó không thể được gọi là trung đạo của đạo Phật. Nó chỉ là một trạng thái tâm bình thường không khổ không lạc mà thôi.”
Cái trạng thái tâm của mình nó bình thường nó không khổ không lạc. Như bây giờ chúng ta không có khổ không lạc, tức là cái trạng thái của tâm bình thường. Nhưng mà trạng thái tâm bình thường này nó thuộc về ý thức không niệm thiện, niệm ác mà thôi.
“Trung đạo của đạo Phật không phải là pháp môn nằm giữa pháp môn đối đãi.”
Nghĩa là đừng nghĩ rằng trung đạo nằm giữa các pháp môn đối đãi, vì pháp môn đối đãi, bên đây khổ, bên đây lạc, mà cái trung đạo nó nằm giữa cái không khổ không lạc này là nghĩ rằng đó là trung đạo của Đạo Phật, không phải đâu!
Bởi vì chúng ta phải hiểu rõ ràng, khi mà chúng ta học Tứ Chánh Cần chúng ta mới hiểu rõ rằng cái trung đạo của Phật nó không phải nằm giữa cái pháp đối đãi, cái pháp nhị nguyên đâu. Nó không phải là cái hiểu quá tầm thường như vậy.
“Trung đạo của đạo Phật là một pháp môn vượt ra khỏi nhân quả.”
Pháp môn, mà cái đường trung đạo của đạo Phật, nó vượt ra khỏi cái nhân quả, cái đường lối của đạo Phật mà tu tập để giúp chúng ta vượt ra nhân quả.
Vì con người, vì muôn vật mà sanh ra, nó từ nhân quả mà sanh ra, rồi chết đi về nhân quả. Cho nên chúng ta muốn ra khỏi cái sự sống chết, làm chủ cái sự sống chết, chấm dứt tái sanh luân hồi, thì chúng ta phải vượt ra khỏi nhân quả.
Mà nếu mà chúng ta ở trong vòng nhân quả thì chúng ta sẽ bị nhân quả chi phối mà tái sinh luân hồi, và thọ biết bao nhiêu khổ và vui ở trong cái nhân quả đó.
(16:06) Cho nên cái mục đích trung đạo của đạo Phật là làm sao mà vượt ra cho khỏi nhân quả.
“… nhưng lấy thiện pháp làm nền tảng, làm điểm tựa, làm hòn đảo, làm ngọn đèn.”
Lấy cái thiện pháp làm, cho nên ở kia thì nó phải bỏ thiện bỏ ác, còn ở đây nó không có bỏ thiện mà nó lấy thiện nó làm cái nền tảng để nó vượt ra nhân quả. Mà do nhân quả mới tạo ra thiện ác, đó các thầy phải hiểu!
Nhưng mà bây giờ nó không có bỏ cái đối đãi của cái pháp ác, tức là nó lấy cái thiện để làm điểm tựa, chớ nó không phải chấp nhận cái thiện. Nó làm cái điểm tựa để nó vượt qua, cho nên vì vậy mà đạo Phật mới lấy giới luật mà làm đầu, bởi vì giới luật của Phật là thiện pháp. Quý thầy thấy hiểu chưa?
Bởi vì từ cái thiện pháp đó mà cái người tu sĩ chúng ta mới ly dục, ly ác pháp, mới có được cái Sơ Thiền. Còn nếu mà chúng ta không ly dục ly ác pháp thì chúng ta sẽ ở trong ác pháp, cho nên vì vậy thì chúng ta đâu làm sao mà nhập Sơ Thiền được!
Cho nên vì vậy phải hiểu trung đạo của đạo Phật lấy thiện pháp mà làm cái nền tảng, làm cái điểm tựa, làm cái hòn đảo, làm cái ngọn đèn sáng để soi cho mình đi trên con đường đó để vượt qua nhân quả. Vì nhân quả là cái nguyên nhân để cho chúng ta tái sạnh luân hồi, mãi mãi nhiều kiếp, nhiều đời chúng ta ở trong cái lục đạo, ở trong cái sự đau khổ.
“Vì thế đức Phật không chấp nhận thọ bất lạc bất khổ là cứu cánh, là đạo mình.”
Nghĩa là Đức Phật không có chấp nhận cái trạng thái đó là cứu cánh đâu.
“Cứu cánh của đạo Phật là đoạn dứt ác pháp, tăng trưởng thiện pháp, tức là đoạn dục.”
Nghĩa là mình đoạn dục thì ác pháp sẽ không còn, mà khi mà đoạn dục thì tức là chúng ta còn ở trong thiện pháp.
(18:15) Cho nên trong Sơ Thiền Đức Phật có dạy rất kỹ, Thầy nhắc lại cho quý thầy thấy. Đức Phật nói ly dục ly ác pháp nhập Sơ Thiền. Nhập Sơ Thiền do ly dục sanh hỷ lạc, có Tầm có Tứ. Có Tầm là có sự suy nghĩ mà, mà suy nghĩ thiện Đức Phật đâu có cấm.
Như bây giờ thấy một người đang đau khổ thì chúng ta giúp đỡ họ bằng cách này khác, thấy một người đang đói chúng ta đem cơm cho ăn, thì đâu phải cái niệm đó mà Đức Phật bảo chúng ta rằng đừng có niệm.
Cho nên chúng ta vẫn làm điều thiện được ở trong Tứ Vô Lượng, tức là tâm từ, bi, hỷ, xả của chúng ta vẫn tu tập được cái điều đó chớ, cái điều đó vẫn là thiện chớ đâu phải là ác.
Cho nên vì vậy Đức Phật vẫn lấy cái thiện để từ cái thiện đó giúp cho chúng ta vượt ra pháp ác. Người ta chửi mình mà mình thương người, thì làm sao mình giận người ta được? Đó không phải là cái đối trị được cái, tâm từ của mình, tâm bi của mình đối với cái tâm sân của mình sao? Cho nên Đức Phật đứng ở trên cái nền tảng của thiện để mà vượt qua nhân quả.
Nhưng mà khi vượt qua được nhân quả thì nó không còn thiện và ác. Còn bây giờ chúng ta đang ở trong cái ác pháp mà chúng ta không chấp nhận thiện pháp thì chúng ta lấy cái gì mà đối trị nó được?
Cho nên ở đây đạo Phật dạy chúng ta rất rõ, biết đứng cái chỗ đứng của chúng ta rất vững, để từng đó chúng ta hoàn toàn được hạnh phúc của tâm hồn. Vì thiện không làm mình khổ, mà không làm người khác khổ.
“Mục đích diệt ác…”
Ở đây Thầy xin đọc lại chỗ này:
“Cứu cánh của đạo Phật là đoạn dứt ác pháp, tăng trưởng thiện pháp, tức là đoạn dục.”
Nghĩa (là) mình nói là đoạn dứt cái ác pháp mà tăng trưởng thiện pháp, thì mình biết rằng đoạn dục. Mà đoạn dục thì cái mục đích dục là cái lòng ham muốn của mình, đó là Tập Đế, do cái lòng ham muốn của mình mà nó tập bao nhiêu sự khổ đến cho mình.
(20:07) Đó là trong Tứ Diệu Đế thì Đức Phật đã chỉ định cho thấy rằng cái nguyên nhân mà sanh ra khổ của con người là cái dục. Mà bây giờ chúng ta đoạn dứt ác mà tăng trưởng thiện, tức là đoạn dứt dục.
“Đoạn dục tức là Diệt Đế, còn gọi là Niết Bàn.”
Bởi vì ở cái Diệt Đế người ta có thể nói nó là Niết Bàn được, bởi vì cái tâm ham muốn chúng ta đã diệt nó được rồi, đoạn nó rồi, thì cái trạng thái ở trong cái tâm đó thì nó là Niết Bàn.
Chớ không phải đi tìm cái cảnh giới nào mà có Niết Bàn, mà chính cái chỗ cái trạng thái tâm chúng ta đã hết ham muốn thì đó là Niết Bàn. Mà hết ham muốn thì không còn ác pháp, cho nên còn toàn là còn thiện pháp.
Cho nên có Tầm có Tứ chớ đâu phải hết, tức là có sự suy tư, mà suy tư ở trong pháp thiện chớ không phải còn suy tư ở trong pháp ác. Không còn những thủ đoạn gian ác, không còn những cái ý nghĩ hung ác, không còn những cái lời nói dữ tợn nữa.
Do như vậy thì chúng ta thấy rất rõ con đường của đạo Phật chỉ chúng ta cách thức chúng ta đứng trên cái chỗ nào để mà chúng ta chuẩn bị cho một cuộc chiến đấu với nội tâm của chúng ta.
“Muốn diệt ác pháp chỉ có thiện pháp mới diệt được mà thôi.”
Nghĩa là bây giờ các thầy thấy rất rõ nè, trong Thập Thiện Đức Phật dạy rất rõ nè, có mười điều lành, mà mười điều lành đó thì bây giờ mình nhắm vào ba cái điều lành của ý mình nói, thì tức là không tham, không sân, không si rồi.
Mà người nào đã có tham, có sân, có si, thì người đó đang ở trong ác pháp chứ gì, mà không tham, không sân si thì đó là thiện pháp chứ gì, đó rất rõ ràng.
Vì vậy mà bây giờ chúng ta muốn tăng trưởng thiện pháp, thì tức là kéo dài cái thời gian không tham, không sân si. Mà không tham, không sân si tức là đoạn dứt ác pháp rồi, thì đâu có gì mà không giải thoát tâm hồn của chúng ta?
Cho nên thấy rất rõ. Mà nếu mà chúng ta không đứng ở trên cái thiện pháp không tham, không sân si thì chúng ta đứng chỗ nào? Đứng cái chỗ chẳng niệm thiện, niệm ác, tức là chúng ta đã hủy luôn cái nền tảng thiện pháp rồi, thì làm sao mà chúng ta gọi là giải thoát cho được?
(21:58) Dù bây giờ chúng ta có tu một ngàn kiếp đi nữa cái chỗ “chẳng niệm thiện, niệm ác” thì chúng ta cũng chẳng giải thoát được khỏi “niệm thiện, niệm ác”. Bởi vì chúng ta đã xóa bỏ nó đi, thì xóa bỏ chúng ta đứng ở trong nền tảng nào mà để chúng ta biết rằng cái tâm chúng ta giải thoát?
Vì giải thoát của đạo Phật nhắm vào tam độc tham, sân, si. Mà tham, sân, si là ác pháp, cho nên chúng ta mới dựa vào cái không tham, không sân si này là cái pháp thiện để mà chúng ta diệt cái pháp ác mới được. Còn bây giờ tâm chúng ta có tham mà chúng ta không biết, chúng ta nói không có tham, thì tức là sai.
Cho nên cái người phá giới, ăn uống phi thời, ngủ nghỉ phi thời, vật chất đầy đủ mà họ vẫn nói rằng họ không dính mắc, sự thật ra thì cái người đó họ chưa có phải trí tuệ của đạo Phật đâu, họ không thấy.
“Muốn diệt ác pháp, chỉ có thiện pháp mới diệt được mà thôi. Nhưng diệt được ác pháp thì cũng không dính mắc trong thiện pháp, nhưng lại sống trong thiện pháp.”
Nghĩa là diệt cái ác pháp rồi thì không dính mắc vào ác pháp, nhưng lại sống trong thiện pháp.
“Cho nên bất thọ lạc, bất thọ khổ là một trạng thái chẳng thiện, chẳng ác. Ngược lại trung đạo của đạo Phật sống trong thiện pháp mà không bị dính mắc thiện pháp.”
Cái hay là chúng ta lấy nó làm cái nền tảng để rồi chúng ta vượt qua nhân quả, cho nên trong cái hành động nhân quả chúng ta sẽ làm chủ được hoàn toàn, cho nên chúng ta không mắc vào thiện pháp.
Còn nếu mà chúng ta mắc vào thiện pháp thì chúng ta cứ lo đi từ thiện, cứu trợ hoặc làm cái chuyện này, chuyện kia, rồi kêu gọi Phật tử đóng tiền cất chùa, xây tháp rồi gọi là thiện pháp, thì cái đó là không thiện gì nữa hết, mà cái đời chúng ta không giải thoát chỗ nào hết.
(23:57) Hỏi: “Kính bạch Thầy! Có phải mục đích của Tứ Niệm Xứ là để diệt hết mọi tham ưu ở đời bằng cách thấy rõ vô thường, vô ngã hay không?”
Câu Chân Huệ hỏi Thầy, nghĩa là cái mục đích của Tứ Niệm Xứ có phải là diệt hết mọi tham ưu? Bởi vì thật sư ra chúng ta đọc trong kinh thì chúng ta thấy rõ ràng là, cái bài kinh Tứ Niệm Xứ Phật dạy mọi cái bài nào, quán thân nè, rồi quán thọ nè, quán tâm nè, quán pháp nè, cái bài nào cũng nói để khắc phục tham ưu không.
Như vậy là Thiện Huệ (Chân Huệ) chỉ đứng ở trên cái bài kinh để mà hiểu qua một số từ ở trên kinh, cho nên hỏi Thầy để mà cho rõ cái lý chỗ này.
Bởi vì Tứ Niệm Xứ, thì như các thầy biết rằng, tất cả mọi cái pháp môn của Phật đều tập trung trên Tứ Niệm Xứ để tu tập, chớ không phải chỉ có cái pháp Quán Vô Lậu đó mà thôi. Vì pháp Quán Vô Lậu chỉ khắc phục tham ưu thôi, chứ nó không thể tịnh chỉ hơi thở nè, làm chủ sự sống chết nè, mà nó không thể thực hiện được Tam Minh nữa nè.
Bởi vì ở trên thân này, nó cũng ở trên Tứ Niệm Xứ này mà nó tu Tam Minh thì nó thực hiện Tam Minh, mà nó tu Tứ Như Ý Túc thì nó thực hiện Tứ Như Ý Túc, mà nó tu Định Bốn Thiền thì nó thực hiện Định Bốn Thiền. Cũng ở trên Tứ Niệm Xứ này mà nó thực hiện, vì vậy nó có rời ra khỏi Tứ Niệm Xứ đâu!
Cho nên bây giờ chúng ta chỉ hiểu có một cái góc độ, tức là bây giờ chúng ta mới đặt cái Định Vô Lậu mà ở trên bốn chỗ này mà tu tập, thì nó mới có khắc phục được tham ưu. Mà khắc phục được tham ưu thì nó mới giải quyết được cái tâm của chúng ta mà thôi, cái tâm này tâm ly vô lậu chớ chưa phải đoạn dứt vô lậu, cho nên cái gốc nó vẫn còn chớ chưa phải sạch.
(25:26) Cho nên ở đây chúng ta mới chỉ thực hiện được có một cái định ở trên Tứ Niệm Xứ, mà trong kinh Phật dạy thì chỉ có thực hiện được cái Định Vô Lậu. Còn cái Định Chánh Niệm Tỉnh Giác để ngăn chặn pháp ác, và cái Định Niệm Hơi Thở để ngăn chặn các pháp ác, thì ở trên này coi như là chúng ta không có người nào mà xác định để mà hiểu được.
Hôm nay Thầy xác định để thấy rằng, trên cái Tứ Niệm Xứ nó có tu những cái định, như là định Chánh Niệm Tỉnh Giác Định tu hành động ngoại, và hành động nội là Định Niệm Hơi Thở. Nó xác định rất rõ, mỗi hành động nó đều là xác định được cái định ở trên đó rõ ràng. Cho nên ở đây chỉ khắc phục được tham ưu, thì chỉ là một cái Định Vô Lậu mà thôi.
(26:20) Đáp: “Mục đích của Tứ Niệm Xứ là để diệt hết mọi tham ưu ở đời bằng cách thấy rõ vô thường, vô ngã, đó là một góc nhỏ ở giai đoạn đầu của Tứ Niệm Xứ diệt ngã, xả tâm, ly dục ly ác pháp.”
Nghĩa là nói chung là cái Tứ Niệm Xứ mà chúng ta mới bắt đầu vô thì chỉ mới có tu cái Định Vô Lậu, là để diệt ngã xả tâm, ly dục ly ác pháp, tức là khắc phục tham ưu, thì đó là mới thực hiện được cái Định Vô Lậu mà thôi.
Thì trong kinh chỉ mới có dạy chúng ta có Định Vô Lậu thôi, chứ còn Định Niệm Hơi Thở chưa có nè, Định Chánh Niệm Tỉnh Giác chưa có. Nhưng ở trong Tứ Niệm Xứ vẫn có nói về vấn đề mà tu trên những hành động của chúng ta.
Thí dụ như Thân Hành Niệm hay hoặc là trên thân chúng ta biết thân chúng ta làm cái gì, đi kinh hành biết đi kinh hành, mang y, mặc bát, thì trong đó có dạy, nhưng mà không xác định cho chúng ta biết đó là cái định gì. Vì vậy mà chúng ta thấy như là nó không khắc phục tham ưu.
Nhưng mà vì chính nó ngăn chặn các ác pháp, cho nên nó cũng làm cho tâm chúng ta không còn tham ưu. Vì bây giờ chúng ta đi kinh hành mà chúng ta biết đi kinh hành thì tâm chúng ta không khởi niệm tham, sân, si. Mà không khởi niệm tham, sân, si tức là ngăn chặn ác pháp.
Cũng như chúng ta nương vào hơi thở biết hơi thở ra, biết hơi thở vô, mà không có một niệm gì xen vào, thì cái đó không sanh ác pháp, tức là ngăn chặn ác pháp mà không cho nó khởi ra. Vậy vì vậy là chúng ta vừa ngăn chặn mà vừa đoạn dứt các ác pháp. Đó là cách thức tu ở trên cái Tứ Niệm Xứ.
(27:48) “Giai đoạn hai…”
Nghĩa là giai đoạn một, hồi nãy là chúng ta tu để khắc phục tham ưu ở cái Định Vô Lậu đó là giai đoạn một.
“Giai đoạn hai của Tứ Niệm Xứ, là chúng ta tịnh chỉ khẩu hành, thân hành và ý hành. “
Cái giai đoạn hai của cái sự tu tập, bây giờ chúng ta hết tham ưu tức là ly dục, ly ác pháp rồi, do đó bây giờ chúng ta phải tịnh chỉ nè, tịnh chỉ khẩu hành nè, thân hành nè, ý hành, mà tịnh chỉ khẩu hành thì tức là chúng ta sẽ nhập Nhị Thiền.
Còn hồi nãy chúng ta mới ly dục ly ác pháp, thì chúng ta chỉ tu cái giai đoạn vô lậu đó, thì đó là mới có nhập Sơ Thiền mà thôi. Còn tới giai đoạn này thì chúng ta tịnh chỉ khẩu hành nè, rồi tịnh chỉ thân hành nè, tịnh chỉ ý hành nè.
Thì do đó là cái giai đoạn hai của Tứ Niệm Xứ mà chúng ta tu tập, thì chúng ta tu ở trong hành động, tỉnh giác ở trong hành động. Rồi chúng ta tu tập ở Định Niệm Hơi Thở nè, để rồi chúng ta sẽ tịnh chỉ cái khẩu hành. Mà khẩu hành tức là Tầm Tứ chúng ta diệt, tức là không có khởi niệm, không có tác ý ra nữa.
Rồi bây giờ chúng ta lại tịnh chỉ cái thân hành, thì tịnh chỉ thân hành tức là chúng ta cái ngưng hơi thở nè. Ngưng cái hơi thở thì tức là chúng ta sẽ nhập Tứ Thiền. Phải không.
Rồi bây giờ chúng ta tịnh chỉ ý hành thì chúng ta sẽ nhập được cái Diệt Thọ Tưởng Định.
Đó là ở trên giai đoạn hai của Tứ Niệm Xứ, thì trên thân này, trên tâm này, thì chúng ta phải thực hiện tịnh chỉ khẩu hành, tịnh chỉ thân hành và tịnh chỉ ý hành.
“Đến giai đoạn ba của Tứ Niệm Xứ…”
Bởi vì Tứ Niệm Xứ đâu có là nghĩa mình tu có khắc phục tham ưu không, mà mình còn phải ở trên cái Tứ Niệm Xứ đó mình phải tu những cái khác nữa, như các định khác nữa. Cho nên tới cái giai đoạn ba thì mình tu cái gì đây?
(29:25) “Tới giai đoạn ba của Tứ Niệm Xứ là thực hiện thần lực Tứ Như Ý Túc.”
Thần lực Tứ Như Ý Túc là như thế nào? Mình muốn định cái gì thì mình nhập cái định ấy, gọi là Định Như Ý Túc.
Cho nên vì vậy thí dụ như bây giờ Thầy muốn nhập Sơ Thiền, thì ngay đó ly dục ly ác pháp thì Thầy nhập Sơ Thiền. Thầy ra lệnh liền thì nó có cái nhập Sơ Thiền liền, mà khỏi cần phải là tu tập cái này, cái kia.
Mà bây giờ Thầy muốn nhập Tam Thiền, thì Thầy ly hỷ trú xả ngay liền tức khắc. Thầy chỉ ra lệnh: “Cái tâm phải ly mười tám loại tưởng ra khỏi cái thân tâm này!”, thì bấy giờ Thầy lìa ra khỏi mười tám cái loại tưởng hỷ này, thì lúc bấy giờ là Thầy nhập được Tam Thiền.
Bây giờ Thầy bảo, Thầy ra lệnh, Thầy bảo rằng: “Phải tịnh chỉ hơi thở ngay liền để nhập vào Tứ Thiền!” thì ngay đó là hơi thở lần lượt sẽ ngưng lại, và các hành trong thân Thầy ngưng lại, thì lúc bấy giờ Thầy nhập Tứ Thiền.
Cái mà nhập như vậy không phải tuần tự đi từ Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền, để rồi mới nhập từng cái thiền đi lên như vậy đó, thì cái đó chưa gọi là Định Như Ý Túc. Còn ở đây Định Như Ý Túc là chúng ta muốn nhập cái định nào là chúng ta ngay đó là chúng ta sẽ nhập như vậy.
Như vậy gọi là cái giai đoạn ba của Tứ Niệm Xứ để thực hiện những cái điều đó, thì coi như là thần lực của một vị tu sĩ. Nó có đầy đủ cái sức định lực để mà muốn như thế nào, làm như thế nấy, cho nên gọi là tu Tứ Như Ý Túc.
Cũng như bây giờ chúng ta muốn một cái thân này biến ra nhiều thân, hoặc là muốn cái đầu này phóng ánh sáng ra, thì chúng ta chỉ cần ra lệnh thì nó làm theo, như vậy gọi là thần lực của chúng ta.
Thần lực của chúng ta tức là đạo lực, mà đạo lực tức là Ngũ Lực của đạo Phật, mà nó có từ cái Tín Lực, Tấn Lực, rồi Niệm Lực, Định Lực, Huệ Lực, nó mới gộp lại thành một cái đạo lực, mà cái đạo lực đó gọi là thần lực.
(31:06) “Đến giai đoạn bốn của Tứ Niệm Xứ là chúng ta thực hiện trí tuệ Tam Minh.”
Nghĩa là khi mà chúng ta tu Tứ Như Ý Túc rồi, chúng ta bảo cái bàn này bay, cái thân này bay lên, cái đầu này phun nước thì nó phun nước, cái hông của chúng ta phun lửa là nó phun lửa.
Rồi bắt đầu chúng ta bảo bây giờ nó trở về quá khứ để xem lại nhiều đời, nhiều kiếp của mình, coi mình là ai, ở xứ nào, làng nào, cha mẹ hay là tổ quốc quê hương ở đâu? Thì ngay đó là chúng ta sẽ thấy được mình trong cái đời trước của mình, trong quá khứ của mình nhiều đời chớ không phải là trong một đời không, thì như vậy gọi là Túc Mạng Minh.
Và mình ngồi đây mình ra lệnh để cho mình vượt không gian, coi như là tất cả những không gian đều là cô đọng lại trước mặt mình, thì mình sẽ thấy tất cả những cái nơi khác xa xôi, như khắp trên cái trái đất này, chỗ nào mình cũng có thể thấy được, thì gọi là Thiên Nhãn Minh.
Kế đó thì chúng ta thực hiện cái Lậu Tận Minh, tức là chúng ta hướng tâm chúng ta cũng nhắc như vậy, thì cái Lậu Tận Minh, mà cái trí tuệ đó nó hiện ra được, thì tất cả những cái lậu hoặc. mà cái gốc lậu hoặc từ ở trong nội tâm của chúng ta, thì chúng ta sẽ quét sạch ra hết, từ đó chúng ta chấm dứt không còn luân hồi tái sanh nữa.
Đó là cái giai đoạn ba của Tứ Niệm Xứ. Từ ở trên thân này chúng ta tu những cái đó, chớ không ở ngoài cái thân mà chúng ta tu được những cái này.
Đó như vậy gọi là chúng ta thấy rằng, ở trên Tứ Niệm Xứ chúng ta có bốn cái giai đoạn tu tập, mà trong kinh điển thì chỉ có giải thích cho chúng ta nghe cái cách thức tu tập có một cái giai đoạn một mà thôi, còn ba cái giai đoạn kia không có dạy.
Nhưng cái người có kinh nghiệm tu tập thì người ta sẽ thấu suốt được. Vì vậy mà hầu hết các nhà học giả không có tu Tứ Niệm Xứ cho nên không có hiểu rõ, vì thế mà dạy về Tứ Niệm Xứ không có dạy ra được. Họ chỉ dựa vào chữ nghĩa họ dạy tầm bậy tầm bạ, họ lý luận bên đây bên kia nó không đúng cách, vì họ không có dạy ra cái pháp để mà hành cho đúng ở trên Tứ Niệm Xứ.
Đó là cái phần của Thiện Chơn Huệ hỏi về Tứ Niệm Xứ.
(33:16) Bây giờ nó hỏi kế Thầy:
“Kính bạch Thầy! Cũng giống như câu một, trong trường hợp để tu quán pháp trên pháp đối với năm triền cái. Ví dụ hiện giờ tâm con không có ái dục thì con nên đọc: “khi có ái dục tuệ tri nội tâm có ái dục” rồi giữ tâm trong Chánh Niệm Tỉnh Giác ấy. Còn trường hợp tâm con có ái dục thì sau khi đọc câu “khi có ái dục tuệ tri nội tâm có ái dục”, rồi con bắt đầu quán Định Vô Lậu. Kính xin Thầy chỉ rõ cho con được thông suốt.”
Đây là nói về cách thức để mà tu tập Tứ Niệm Xứ. Hồi nãy hỏi Thầy để mà biết cái cách thức tu tập ở trên Tứ Niệm Xứ nó bao nhiêu pháp tu ở trên đó? Cho nên cái câu trả lời hồi nãy để cho thấy nó ba cái giai đoạn mà tu tập những cái pháp như thế nào để cho đúng ở trên cái Tứ Niệm Xứ.
Còn ở đây thì hỏi cách thức tu Tứ Niệm Xứ đối với pháp Ngũ Triền Cái. Bởi vì lấy cái pháp Ngũ Triền Cái mà tu tập ở trên cái Tứ Niệm Xứ này, đó cho nên bởi vậy Phật nói “lấy pháp quán pháp”. Vậy thì cái pháp “quán pháp” như thế nào?
Cho nên tuy rằng Thầy có giảng nhưng mà hầu hết là cái Tứ Niệm Xứ nó rất khó chớ không phải đơn giản mà khi nói ở trên pháp quán pháp, rồi chúng ta khắc phục tham ưu, là như vậy là được. Hay hoặc là chúng ta nói “khi có ái dục tuệ tri nội tâm có ái dục”, như vậy, hướng tâm nhắc như vậy chưa phải đúng cách đâu. Cho nên ở đây thì Thầy sẽ dạy để thấy cho rõ.
(35:06) Đáp: “Khi đặt pháp Ngũ Triền Cái…”
Đây pháp Ngũ Triền Cái tức là tham, sân, si, mạn, nghi đó, các thầy hiểu, lấy cái pháp đó để mà quán cái pháp. Đó thì thì khi đặt cái pháp Ngũ Triền Cái, bởi vì đây là cái pháp Ngũ Triền Cái, các thầy hiểu, nó là tham, sân, si, mạn, nghi, thì ở trong thân này nó có những pháp tham, sân, si, mạn, nghi.
Cho nên bây giờ Phật dạy cái pháp Ngũ Triền Cái, chúng ta mới đem đặt nó lên trên cái thân, thọ, tâm, pháp của chúng ta, bốn chỗ này, để mà chúng ta quán cái pháp Ngũ Triền Cái này trên cái thân, thọ, tâm, pháp của chúng ta, tức là trên cái pháp của nó.
“Khi đặt pháp Ngũ Triền Cái trên Tứ Niệm Xứ”
Tức là trên thân, thọ, tâm, pháp của chúng ta đó, nghĩa là chúng ta lấy cái pháp Ngũ Triền Cái đặt lên trên. Chứ đừng nghĩ rằng chúng ta quán pháp trên pháp rồi cứ quán Ngũ Triền Cái không thì nó vô nghĩa lắm. Cho nên phải đặt nó lên trên Tứ Niệm Xứ, vì Tứ Niệm Xứ là bốn cái chỗ chúng ta đặt pháp trên đó mà chúng ta quán.
“Khi đặt pháp Ngũ Triền Cái trên Tứ Niệm Xứ, quán pháp Ngũ Triền Cái trên pháp Tứ Niệm Xứ.”
Các thầy hiểu chưa? Đó nghe lại cái câu này, nghe vậy chớ nhiều khi chúng ta chẳng biết, bởi vì pháp này với pháp kia nó chồng lên nhau đó, chưa có biết cái nào mà chúng ta quán cái nào.
Cho nên: “Khi đặt pháp Ngũ Triền Cái trên Tứ Niệm Xứ”, tức là trên cái pháp Tứ Niệm Xứ, mà cái pháp Tứ Niệm Xứ là thân, thọ, tâm, pháp của chúng ta nè, còn cái pháp Ngũ Triền Cái là tham, sân, si chớ không phải, bây giờ cái thân của chúng ta không tham, không sân, không si thì có cái pháp tham, sân, si ở ngoài rõ ràng.
Mà bây giờ, bởi vì cái thân của chúng ta nè, thân thọ tâm pháp của chúng ta có tham sân si, cho nên nó, đặt cái pháp tham sân si lên, thì chúng ta thấy ở trong thân chúng ta có tham sân si rồi, thì tức là chúng ta quán ở trên cái thân tham sân si chúng ta, chớ không phải quán pháp Ngũ Triền Cái.
Đó các thầy hiểu, bởi vì Thầy sợ các thầy hiểu lầm lạc cái chỗ này nè. Bây giờ cái pháp Ngũ Triền Cái, nó là cái vật gì ở bên ngoài, nó tham sân si là vật gì ở bên ngoài chớ không phải thân ta.
Bây giờ thí dụ như thân của Thầy là ông Phật nè, không có tham sân si nè. Bây giờ Thầy mới đặt cái pháp Ngũ Triền Cái lên trên cái thân, thì đặt lên trên cái thân thanh tịnh này, thì rõ ràng là cái pháp này là pháp tham sân si, nhưng mà nó không có tham sân si trên này, cho nên đặt nó lên trên này, thấy rõ ràng cái thân thọ tâm pháp này nó không có tham sân si, thì cái pháp này đem quăng ra ngoài chớ không có quán. Các thầy hiểu chưa? Bởi vì nó ở trong này, nó đâu có tham sân si đâu mà quán!
Còn bây giờ lấy cái pháp này mà để lên trên cái thân Tứ Niệm Xứ này, mà thấy rõ ràng thân Tứ Niệm Xứ này nó có tham sân si nè, cho nên vì vậy bây giờ mới quán, mới quét sạch cái tham sân si ở trong cái Tứ Niệm Xứ. Các thầy hiểu chớ?
Đó, nó rõ ràng như vậy, cho nên chúng ta mới khắc phục được mình. Chớ còn không khéo mà dạy Tứ Niệm Xứ thì coi như chúng ta lấy cái pháp Tứ Niệm Xứ mà quán pháp Tứ Niệm Xứ thì chẳng biết gì hết.
“Khi đặt pháp Ngũ Triền Cái trên pháp Tứ Niệm Xứ, rồi quán pháp Ngũ Triền Cái trên pháp Tứ Niệm Xứ.”
Phải không? Các thầy nghe rõ chưa?
(38:07) “Ví dụ, hiện tại tâm con không có ái dục con nên đọc câu:”
Nếu bây giờ tâm mình không có ái dục nè.
“ Khi tâm không có ái dục tuệ tri nội tâm không có ái dục.”
Nghĩa là mình biết tâm mình không có ái dục.
“… rồi con giữ tâm trong Chánh Niệm Tỉnh Giác.”
Nghĩa là cái niệm mà không ái dục cho nên con giữ nó lặng lẽ, thanh thản, an lạc.
Thì bây giờ như ông Phật, cái tâm ông vậy, ông đem cái pháp tham sân si ông đặt lên, mà ông thấy ông không có gì hết, thì tức là ổng nói, tâm tui không có ái dục, không có sân nè, không có ham muốn, không có giận hờn, không có si mê gì hết, bây giờ tui giữ cái tâm Chánh Niệm Tỉnh Giác thì ngay đó, ngay cái tâm mà không tham, sân, si thì nó đã ở trong Chánh Niệm Tỉnh Giác rồi.
Cho nên bây giờ đó, mình nhắc lại cái tâm, rồi mình quán sát, bởi vì mình quán, tức là quan sát lại nó, mình thấy cái thân thọ tâm pháp - cái pháp Tứ Niệm Xứ này, nó không có cái gì ái dục hết, nó không có lòng ham muốn hay sân hận gì hết, cho nên mình thấy rõ ràng, vì vậy là mình giữ cái Chánh Niệm Tỉnh Giác đó mà thôi.
“Nếu sức con giữ được năm phút”
Đây bắt đầu các con thấy này, cái sự kéo dài ra mà. Còn nếu mà như ông Phật thì ngày này qua ngày khác thì ổng ở trong Chánh Niệm Tỉnh Giác thanh tịnh đó, ông đâu có tham, sân, si nữa đâu, cho nên ông ở từ năm này đến năm khác ông cũng đâu có tham, sân, si. Còn mình thì chưa được đâu.
Cho nên vì vậy nếu cái sức mình nó có thể giữ được trong năm phút:
“… thì con nên đọc câu đó một lần nữa.”
Nghĩa là năm phút mình lại đọc cái câu đó, mình đọc cái câu “Tâm tôi không có ái dục tuệ tri nội tâm tôi không có ái dục”.
“Rồi con lại giữ trong Chánh Niệm Tỉnh Giác cái tâm không ái dục đó, cái thân không ái dục đó.
Nếu mà con đặt trên thân con thì con giữ cái thân, mà con đặt ở trên thọ thì con giữ cái thọ, mà con đặt ở trên tâm thì con giữ cái tâm, mà con đặt ở trên cái pháp, cái pháp là cái thân của con là một pháp, thì con lại cũng giữ nó, cái trạng thái Chánh Niệm Tỉnh Giác đó.
Cho nên nó kéo dài từ năm phút, rồi sau năm phút đó con lại nhắc nó một lần nữa. Và vì vậy mà con kéo dài cái trạng thái Chánh Niệm Tỉnh Thức đó cho đến suốt ba mươi phút hay là một giờ, thì nó đúng cái giờ, mà hết cái giờ con tu thì con xả, con nghỉ.”
Đó các con hiểu chưa?
Cách thức để cho mình ở trên cái pháp Ngũ Triền Cái mà mình tu cái thân, thọ, tâm, pháp của mình, để làm cho nó được Chánh Niệm Tỉnh Giác, nó không có bị tham, sân, si, mạn, nghi nữa.
(40:30) “Trường hợp thứ hai, tâm con có ái dục, sau khi đọc xong câu: “Khi tâm có ái dục tuệ tri nội tâm có ái dục”,…”
Nghĩa là bây giờ tâm mình có ái dục nè, nó khởi lên cái lòng ái của mình nè, thì mình biết nó có ái dục,
“… rồi bắt đầu con quán Định Vô Lậu.”
Tức là bây giờ mình quán sát lại cái tâm dục của mình, nó ái dục cái gì? Nó ái dục về cái ăn, nó ái dục về cái sắc dục, nó ái dục về cái tình cha con, hoặc là nó ái dục về cái tình gia đình hay của cải tài sản? Nó còn mến tiếc những cái vật gì nó sanh ra?
Thì mình đặt cái niệm đó ra, mình mới dùng cái Định Vô Lậu đó, mình mới quán xét nó. Từng đó mình quán xét xong rồi cái mình xả được cái tâm đó, do đó cái tâm ái dục nó hết đi.
Mà nó hết đi thì bắt đầu bấy giờ cái tâm của mình nó còn ở chỗ nào? Lúc bấy giờ nó xả được rồi thì cái tâm nó luôn luôn nó ở trong Chánh Niệm Tỉnh Giác, chớ nó không còn ở trong cái ái dục nữa. Đó, cách thức là mình tu như vậy.
Bây giờ nó có ái dục mình mới quán nó, quán nó mình biết rõ rồi, bây giờ đem cái pháp Ngũ Triền Cái mình mới đặt trên cái thân của mình, mình mới quán cái thân của mình xem coi nó có bị Ngũ Triền Cái không?
Bây giờ nó bị nè, nó có ái dục nè, mình biết rõ ràng cái thân đang bị ái dục nè. Do đó, khi mà nó bị ái dục rồi thì bắt đầu mình mới đưa cái Định Vô Lậu vô, mình quán xét về cái tâm ái dục đó nó thuộc về cái đối tượng nào? Do đó mình mới quét sạch cái ái dục đó ra rồi, thì bắt đầu cái tâm nó trở về cái thanh thản, nó trở về sự Chánh Niệm Tỉnh Giác nó, thì mình giữ trong cái trạng thái Chánh Niệm Tỉnh Giác đó.
Mà nó chưa xả được thì mình dùng Định Vô Lậu quán xét nữa để mà xả, hoặc là dùng pháp hướng đuổi đi, thì có như vậy thì nó sẽ đuổi đi được cái tâm ái dục của mình.
(42:23) “Nếu tâm con còn ái dục thì con lại nhắc một lần nữa, rồi bắt đầu quán Định Vô Lậu để xả sạch tâm ái dục.”
Mà nếu nó còn nữa thì mình cứ dùng cái pháp hướng mà mình phá nó. Bởi vì mình đã quán nó quá rồi, nhưng mà nó không chịu đi, thì mình phải dùng cái pháp hướng mà nhắc, để mình xả nó cho được.
“Nếu tâm con đã xả được tâm ái dục thì con nên tu theo trường hợp thứ nhất - tâm con không ái dục. Khi tu tập xong hết giờ xả nghỉ. Nếu mà trường hợp thứ nhất mà tâm nó chưa hết thì con tu theo trường hợp thứ hai.
Mà nếu tâm con chưa hết, trường hợp thứ hai, quán một lần thứ hai nó chưa hết, thì sau đó con chỉ dùng pháp hướng mà đập nó xuống mà thôi. Rồi từng đó nó sẽ hết. Khi tu tập xong, hết giờ xả nghỉ, đến giờ khác mà còn nữa là cứ quyết định tu tập mãi cho chừng nào hết mới xong.”
(43:10) Hỏi: “Kính bạch Thầy! Đối với Ngũ Uẩn, Sắc Tập có đồng nghĩa với Sắc Sanh không? Xin Thầy giải thích lại cho con được rõ Hành Tập và Hành Diệt.”
(43:21) Đáp: “Sắc tập đồng nghĩa với sắc sanh. Sắc tập là các pháp tập hợp sanh ra tâm dục.”
Nghĩa là bây giờ có đồng hồ, có tập vở, có cuốn sách, có cuốn kinh, có này kia, những cái pháp này nó tập hợp trở lại, nó đem đến, làm cho mắt Thầy tiếp xúc với nó, cho nên Thầy mới sanh ra cái tâm ái dục của mình, mới ưa thích nó, thấy cái này ưa thích, thấy cái kia không ưa, thì đó là nó sanh ra cái tâm như vậy, cho nên gọi là Sắc Tập, nó tập hợp trở lại.
Khi cái thân Thầy có nè, rồi mọi vật nó đều có nè, rồi nó tập hợp lại, nó qua cái đôi mắt Thầy nhìn, qua lỗ tai Thầy nghe, cho nên nó tập hợp lại, nó làm cho Thầy sanh ra cái tâm dục, gọi là Sắc Tập.
Coi như là, ở trong Tứ Diệu Đế thì Đức Phật nói Khổ Đế, rồi Tập Đế, Tập Đế là tập hợp các cái pháp khác, nó làm cho con người chúng ta khổ, đó gọi là cái nguyên nhân đau khổ, gọi là Tập Đế.
Còn ở đây Sắc Tập là nó, bây giờ chúng ta là một cái Sắc, rồi xung quanh đây những cái bàn, cái ghế, cái nhà, cái cửa, mọi cái nó đều dính mắc chúng ta, đó gọi là Sắc Tập. Mất một cái nó làm chúng ta sanh ra cái tâm thương, ghét, giận hờn, thì do cái chỗ mà tâm dục nó mới có sanh ra như vậy, nó làm như vậy, gọi là Sắc tập.
Còn Sắc sanh ra thì nó chỉ là một cái hành động của sáu căn tiếp xúc với sáu trần mà nó sanh ra cái tâm dục của chúng ta, tức là khả hỷ, khả lạc, ưa thích, ưa mến mà nó sanh ra. (45:04) Cho nên Sắc Sanh với Sắc Tập nó không khác. Vì Sắc Tập là các pháp tập hợp lại, mà Sắc Sanh là nói ra cái hành động của nó tiếp xúc.
Bây giờ con mắt Thầy không có thấy cái đồng hồ thì nó không ưa thích, mà đã gặp cái đồng hồ này rồi thì thấy nó từ cái form, cái hình dáng ở bên ngoài nó làm cho Thầy ưa thích nó, cho nên nó bị dính mắc ngay cái hình sắc cái đồng hồ rồi.
Nó sanh ra Thầy ưa thích nó là khả hỷ, khả lạc, ưa mến, ưa thích nó, cho nên đó gọi là dục, mà từ đó nó mới sanh ra sự đau khổ. Đối với cái một người tu thì không nên sử dụng, không nên sống ở trong cái Sắc Sanh, mà cũng không nên sống ở trong Sắc Tập.
Đó là Thầy giải thích chỗ Sắc Sanh và cái Sắc Tập để cho các con hiểu rằng hai cái này, vì nó đồng nghĩa, nhưng cái hành động nó có khác nhau. Cái kia nó tập hợp các pháp, còn cái này từ các pháp đó, mà do mắt nó mới sanh ra cái ái, do tai, miệng, mũi, lưỡi của mình mà nó sanh ra khả hỷ, khả lạc.
Nó chỉ khác ở trong cái hành động chớ còn nó cũng là đưa đến cái tâm dục. Nó giống nhau là ở chỗ nó sanh ra cái tâm dục, nhưng nó chỉ khác ở hành động mà thôi.
(46:11) “Hành Tập nghĩa là hoạt động liên tục, làm việc này đến việc khác, nghĩ đến điều này, nghĩ đến điều khác, hoặc gọi là loạn tưởng.”
Nghĩa là Hành Tập, đối với tâm thì nó loạn tưởng, đối với thân thì làm việc này đến việc khác liên tục.
(46:30) “Còn Hành Diệt nghĩa là ngưng hoạt động, không làm việc nữa, tịnh chỉ các hành.”
Nghĩa là Hành Diệt tức là nó ngưng hoạt động, nó không có làm, tâm nó ngưng hoạt động, mà thân nó cũng ngưng hoạt động, gọi là Hành Diệt.
Còn Hành Tập tức là chuyện này làm chưa hết, nó sanh ra chuyện khác để mà tiếp tục nó hành động hoài, nó làm hoài. Chuyện này nghĩ chưa rồi, nó lại nghĩ chuyện khác, nó cứ liên tục, như vậy gọi là loạn tưởng, đó là cái Hành Tập. Còn Hành Diệt là nó ngưng, nó không có làm nữa.
(47:06) Hỏi: “Kính bạch Thầy! Ta phải đặt trọn Ngũ Uẩn trên pháp xứ, hay phải đặt Ngũ Uẩn này trên cả bốn xứ: thân, thọ, tâm, pháp ? Kính xin Thầy hoan hỉ chỉ dạy cho con những điều con chưa rõ.”
Nghĩa là Chân Huệ hỏi Thầy, bây giờ đó mình đặt cái pháp Ngũ Uẩn này trên cái pháp xứ hay là đặt cái Ngũ Uẩn này, nó trên cả bốn cái xứ. Đó thì bây giờ Thầy sẽ trả lời.
Đáp: “Ở đây con phải hiểu Tứ Niệm Xứ tức là Tứ Pháp Niệm Xứ…”
Bởi vì gọi như vậy là gọi tắt. Người ta gọi Tứ Niệm Xứ tức là Tứ Pháp Niệm Xứ. Ở đây nó có bốn cái pháp lận chớ đâu phải một pháp, thân là một pháp, thọ là một pháp, tâm là một pháp, pháp là một pháp, đó cho nên nó bốn cái pháp lận chớ đâu phải. Cho nên, nếu mà gọi cho đủ là Tứ Pháp Niệm Xứ.
“Trong bốn pháp này, ví dụ con đang lầm chấp thân là ngã…”
Nghĩa là bây giờ mình cứ ai đụng tới mà nói gì nặng mình, mình sân, mình hận, mình tức giận họ, họ tức mình quá! Đó là mình lầm cái chấp thân mình là ngã, cho nên đụng ai làm cái gì thì mình cũng, đối với cái thân mình rồi mình luôn luôn lúc nào cũng bảo vệ nó bằng cách này cách khác, cho nên nói nặng, nói nhẹ thì mình chịu không nổi, do mình chấp cái thân mình là ngã.
“Do đó con mới lấy pháp Thân Ngũ Uẩn…”
(Xem tiếp ở Pháp hành 26)
HẾT BĂNG
PHÁP HÀNH 26 - ĐỊNH VÔ SẮC LÀ BÓNG DÁNG CỦA TƯỞNG THỨC
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Thời gian: 1998
(tiếp theo Pháp Hành 25)
(0:00) Trong năm Ngũ Uẩn này, chúng ta biết rằng nó có cái thân Ngũ Uẩn trong đó, và đồng thời chúng ta đặt ở trên cái thân, chúng ta đem cái pháp Ngũ Uẩn này mà đặt lên trên cái thân để mà xem xét nó, để xem xét cái chấp ngã của cái thân của chúng ta ở chỗ nào.
Bởi vì trong cái thân này, trong cái Thân Tứ Niệm Xứ, thì nó có cái thân Ngũ Uẩn trong đó: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức ở trong cái thân đó, ở trong Thân Niệm Xứ, tức là cái pháp Thân Niệm Xứ, nó có cái thân Ngũ Uẩn.
Bây giờ chúng ta mới đặt cái pháp thân Ngũ Uẩn này lên trên cái Thân Tứ Niệm Xứ này, mà chúng ta quán xét, để xem coi nó chấp cái ngã ở chỗ nào của cái Thân Niệm Xứ này, rồi chúng ta mới quán pháp thân Ngũ Uẩn trên pháp Thân Niệm Xứ, các thầy hiểu chưa?
Quán cái pháp, bây giờ chúng ta đặt nó trên đó rồi, bây giờ chúng ta mới quán đây. Quán cái thân Ngũ Uẩn trên pháp Thân Niệm Xứ, phải không, bởi vì cái Thân Niệm Xứ là cái thân chúng ta đang có nè, bởi vì bốn cái chỗ này là bốn cái chỗ trong thân chúng ta.
Còn cái pháp Ngũ Uẩn kia là cái pháp mà Phật đã dạy cho chúng ta biết, nó vô thường, khổ, không, vô ngã, hay hoặc là Thân Ngũ Uẩn này nó do năm cái duyên này hợp lại, khi mà nó hoại diệt thì nó không còn một cái duyên nào hết, cho nên trong đó không có ngã, không có cái gì của ta trong đó, không có cái bản thể, bản ngã gì của ta trong cái thân Ngũ Uẩn này hết!
Do cái chỗ mà chúng ta đặt lên trên chúng ta quán lại cái Thân Niệm Xứ chúng ta, nó ở trong thân Ngũ Uẩn này, thì hoàn toàn nó như là cái thân Ngũ Uẩn nó cũng không có cái ngã của chúng ta hết.
Vì vậy chúng ta xả cái ngã, ly cái ngã, diệt cái chấp lầm của chúng ta là chấp cái thân là cái của ta, cho nên vì vậy mà nó làm cho chúng ta nhiều cái khổ. Do cái lầm chấp đó mà chúng ta có nhiều cái khổ.
Mà lầm chấp cái thân là Ngũ Uẩn, Đức Phật gọi là thân kiến hay hoặc là ngã kiến, nghĩa là cái kiến chấp của mình, cho cái thân là thật của mình, nó không có thể hoại diệt, luôn luôn nó trường tồn, thì đó là mình cố chấp như vậy.
Bây giờ mình mới đem mình quán cái thân Ngũ Uẩn, mình mới thấy rằng Phật phân tích cho chúng ta thấy cái thân Ngũ Uẩn, khi mà hoại diệt thì nó không còn một cái gì gọi là trong cái Ngũ Uẩn còn lại hết.
Do vì vậy mà cái thân của chúng ta - cái Thân Niệm Xứ của chúng ta nó sẽ sạch sẽ, mà nó không bị lầm chấp, cho nên nó giải thoát được, nó không bị coi cái Thân Niệm Xứ này là cái ngã của nó nữa.
Tức là quán pháp trên pháp, tức là quán cái pháp này trên cái pháp khác chớ không phải, đem cái Ngũ Uẩn, quán cái pháp Ngũ Uẩn trên cái pháp của Niệm Xứ, chớ không phải quán pháp Ngũ Uẩn trên pháp Ngũ Uẩn, các con phải hiểu chỗ đó. Bởi vì ở đây chúng ta rõ ràng là đem cái pháp Ngũ Uẩn mới tu ở trên cái pháp Tứ Niệm Xứ, cho nên mới quán pháp trên pháp.
Nhiều khi chúng ta quán pháp trên pháp, chúng ta tưởng rằng đem cái pháp Ngũ Uẩn này quán ở trên cái pháp Ngũ Uẩn! Không phải, Phật nói cái câu nói mà cái người mà không kinh nghiệm thì người ta cứ nghĩ rằng mình quán cái thân này ở trên cái thân này. Không có phải cái điều đó đâu!
Nghĩa là quán cái pháp này ở trên cái thân Ngũ Uẩn này, là cái pháp của Tứ Niệm Xứ này thì nó mới đúng, chớ không phải là quán cái pháp Ngũ Uẩn này trên cái pháp Ngũ Uẩn, mà quán cái pháp này trên cái pháp Tứ Niệm Xứ. Là pháp quán trên pháp, quán pháp này trên pháp kia, chớ không phải quán pháp Ngũ Uẩn trên pháp Ngũ Uẩn.
Đó Thầy nhắc lại để chúng ta thấy cái chỗ tu tập của chúng ta nó rõ ràng và nó cụ thể.
(03:40) “Ví dụ con đang lầm chấp thọ là ngã, do đó con lấy pháp thân Ngũ Uẩn đặt trên pháp Thọ Tứ Niệm Xứ.”
Hồi nãy “thân” thì nghe nó trùng với “thân” chứ gì? Bây giờ chúng ta lấy cái “thọ” để chúng ta thấy có cái tên khác rồi, thì chúng ta thấy rõ ràng hơn.
“Con đang lầm chấp thọ là ngã”, nghĩa là cái gì đau là mình đau đó, là coi như là mình là cái thọ đau đó, mình lầm chấp đó là cái ngã của mình. Do đó bây giờ mình mới lấy cái pháp Thân Ngũ Uẩn này mình mới đặt trên cái pháp Thọ Tứ Niệm Xứ này.
“… rồi quán pháp Thân Ngũ Uẩn trên pháp Thọ Niệm Xứ.
Tức là con quán pháp trên pháp, nghĩa là con quán pháp này trên pháp kia. Tùy theo trên bốn pháp này, một pháp nào đang bị ô nhiễm”
Tức là trên cái Bốn Tứ Niệm Xứ này mà có một cái, thí dụ như bây giờ tâm con bị ô nhiễm, hay là thọ con bị ô nhiễm, bị ác pháp, bị ô nhiễm, thân con bị, hay là trên cái pháp Thân Tứ Niệm Xứ con đang bị, con hãy đặt cái pháp tứ, bây giờ con đang tu cái pháp Ngũ Uẩn, thì con lấy cái pháp Ngũ Uẩn mà đặt lên, mà nếu con tu cái pháp khác thì con lại lấy cái pháp khác mà đặt lên.
Thí dụ như con tu Ngũ Triền Cái hay hoặc là Thất Kiết Sử, thì con lấy cái pháp Thất Kiết Sử con đặt lên trên đó, hoặc là con lấy cái pháp Ngũ Triền Cái con đặt lên trên đó, hay hoặc là con lấy Thập Nhị Nhân Duyên con đặt lên ở trên Tứ Niệm Xứ, ở trên cái pháp đó mà con tu.
Như vậy là quán từ cái pháp, thí dụ như bây giờ là cái pháp Ngũ Uẩn, thì con quán từ cái pháp Ngũ Uẩn mà nó đặt ở trên cái thọ của Tứ Niệm Xứ, hay hoặc là con quán cái pháp Ngũ Triền Cái, nó ở trên cái thọ của Tứ Niệm Xứ, hay hoặc là con quán cái pháp Thập Nhị Nhân Duyên trên cái thọ của Tứ Niệm Xứ.
Đó, từng cái pháp để rồi chúng ta triển khai nó ra chúng ta mới thấy, chúng ta mới xả được cái tâm lầm chấp của chúng ta, từ đó gọi là vô lậu.(05:54) Có như vậy thì các con mới thấy rằng cái sự tu tập nó rất là dễ hiểu, nó không có khó khăn nữa.
Còn nếu mà chúng ta không hiểu thì chúng ta còn rắc rối ở cái chỗ tu tập Tứ Niệm Xứ của chúng ta, rồi chúng ta không biết, chúng ta cứ ngỡ tưởng rằng trên Tứ Niệm Xứ rồi tu pháp Tứ Niệm Xứ, nó không phải đâu.
Nếu mà cái Tứ Niệm Xứ là một cái pháp thì chắc chắn là chúng ta phải đem cái pháp Tứ Niệm Xứ mà đặt lên trên cái Thân Tứ Niệm Xứ mà tu tập. Đằng này cái Tứ Niệm Xứ lại chỉ cho chúng ta, lẽ ra thì cái Tứ Niệm Xứ này thì nó phải đặt cái tên là Tứ Trụ Xứ, bốn cái chỗ để mà chúng ta tu tập, bốn cái nơi chỗ đó để chúng ta tu tập, chớ không phải Niệm.
Cho nên vì vậy mà chữ Niệm là Thầy thiết nghĩ rằng cái người mà dịch chữ Niệm này, là họ chưa có hiểu Tứ Niệm Xứ.
Bởi vì chúng muốn giải thoát ra khỏi cái sự sanh tử luân hồi, thì không ngoài cái thân Tứ Niệm Xứ này - thân, thọ, tâm, pháp này mà giải thoát được cái chỗ luân hồi sanh tử chúng ta được.
Bởi vì nếu mà chúng ta đặt ra ngoài, thí dụ như bây giờ một người tu Tịnh Độ mà niệm Phật, tức là đặt ra ngoài cái Tứ Niệm Xứ rồi, mà đặt cái Cực Lạc nó ở đâu, thì do đó nó làm sao nó giải quyết được cái Tứ Niệm Xứ này? Cũng như một người Thiền Tông, đặt cái Phật Tánh vô hình đó chớ không phải đặt ở trên cái Tứ Niệm Xứ này mà tu.
Còn bây giờ chúng ta ngay ở trên cái Tứ Niệm Xứ là cái Thân Tứ Niệm Xứ này, là cái thân đang khổ nè, đang đau khổ nè, đang gặp những trường hợp bất toại nguyện nè, đang nhức nhối nè, đang sanh tử luân hồi nè, thì chúng ta đặt đó để mà chúng ta hàng phục, chúng ta quyết chiến quyết thắng với những cái đau khổ đó. Vì vậy là chúng ta trực tiếp chúng ta đã thành tựu được cái sự giải thoát nơi bốn cái trụ xứ này chớ!
(07:55) Vì con người sanh ra ai cũng có bốn cái trụ xứ này hết, không có người nào mà thiếu bốn trụ xứ này, thân, thọ, tâm, pháp thì người nào cũng phải có chớ. Cho nên ở đây chúng ta thấy rất rõ.
Nhưng cái pháp gọi là Ngũ Uẩn, thì đó là năm cái duyên để mà kết hợp lại thành cái thân của chúng ta hiện giờ, chớ không phải nó là pháp Tứ Niệm Xứ.
Cho nên chúng ta đừng có lầm cái thân của Tứ Niệm Xứ là cái thân của Ngũ Uẩn, Ngũ Uẩn là một cái khối, còn cái Tứ Niệm Xứ là một cái vị trí ở trong cái thân của chúng ta đang có, mà trong cái thân này thì nó là cái thân Tứ Niệm Xứ chớ không phải là cái thân Ngũ Uẩn, nhưng cái pháp Ngũ Uẩn xác định cho cái thân này là nó do năm duyên mà hợp lại.
Các thầy hiểu, cái pháp Ngũ Uẩn nó xác định cho cái thân Tứ Niệm Xứ này là năm duyên hợp lại, chớ không phải Tứ Niệm này là hợp lại. Cho nên không bao giờ Đức Phật nói rằng bốn cái duyên hợp lại mà Đức Phật nói Thập Nhị Nhân Duyên, mà Đức Phật nói Ngũ Uẩn chớ không bao giờ nói có Tứ Uẩn bao giờ!
Đó thì các rhầy phải hiểu được như vậy mới thấy rằng cái pháp Tứ Niệm Xứ là cái nơi để mà chúng ta tu tập, để mà chúng ta thực hiện làm cho nó sạch sẽ bốn cái chỗ đó nó thanh tịnh, thì tức là chúng ta giải thoát.
(09:07) Bây giờ đến một cái câu hỏi nữa, là Chánh Đức hỏi Thầy:
“Hạ năm nay Thầy dạy riêng Pháp Hành”- tức là Giới hành đó, “Thầy thường nhấn mạnh và chỉ dạy cụ thể từng pháp môn, nhằm giúp chúng con tu tập đúng Chánh Pháp một cách vững vàng không thể lạc sang tà pháp ngoại đạo, Thầy thường khuyến khích chúng con học phải hỏi, nên con cũng xin có một câu hỏi đơn sơ mà ai cũng biết, đó là Thầy đặt tên Tu viện.
Tới nay Thầy luôn khẳng định, nhấn mạnh, thường nhắc đi nhắc lại quá nhiều, nhưng ít ai để ý tới. Chủ đích của đạo Phật là gì? Xin Thầy chỉ dạy chúng con rõ.
Từ hơn hai ngàn năm nay đạo Phật có quá nhiều người tu mà rất ít người chứng đạt. Mười tám năm Thầy đã mở cửa Tu viện đón chúng bốn phương mà cũng chưa mấy ai thành đạt, chắc chắn chỉ vì lỗi không để ý đến chủ đích ấy.
Con cúi xin Thầy từ bi nhấn mạnh, khẳng định thêm nữa để đám đệ tử si ám của chúng con chuyên chú nhớ mãi thì mới có hi vọng có thêm người thực hiện được lời dạy của Thầy.”
Ở đây thì cái câu hỏi thì rất đơn sơ, hỏi Thầy cái chủ đích của Đạo Phật như thế nào, mà hầu như là người ta không có nhắm vào cái chủ đích của nó.
Thật sự ra họ cũng, đạo Phật thì cũng có nhắc nhở những điều đó thật sự chớ không phải không, nhưng mà vì người ta cũng bị lạc lầm vào những cái giáo pháp, người ta làm mờ cái trí của họ đi.
Cho nên họ cũng thấy rằng cái thiền định nó cũng không phải là lo lắng gì đến cái chỗ mục đích sanh tử luân hồi, mà chỉ làm sao mà giữ cái tâm của mình, để cái Phật Tánh nó hiện tiền, thì cái mục đích sanh tử luân hồi nó chẳng có quan trọng.
Bởi vì ở trong cái thân của mình, mà nó có một cái tâm ma thường hằng, hằng biết, hằng sáng, thì mình có tham dục, mình có ham ăn, ham uống thì cái đó nó vẫn còn, nó đâu có mất, mình vẫn ăn uống phi thời phá giới thì cái đó nó đâu có mất!
(11:24) Mà khi mà mình đã nhận ra được nó rồi, thì cái ham ăn, ham uống nó sẽ hết, và cái tâm sân hận phiền não cũng hết, do đó thì họ mường tượng được cái Phật Tánh. Khi có thì tất cả, Phật thì đâu có còn, giác ngộ mà, đâu có còn cái gì mà làm cho ông ta ham muốn được.
Nhưng mà sự thật đó là cái nghĩ nó không đúng cái đối tượng, cái mục đích của đạo Phật, cho nên do đó đưa đến con đường tu tập mà từ lâu tới bây giờ, bao nhiêu thế kỷ trải qua, mà người ta không thực hiện được sự giải thoát.
Cho đến hôm nay, mười mấy năm trời, vì cái ảnh hưởng đó mà hầu hết là các tu sĩ cũng chỉ mường tượng đến cái chỗ thiền định ức chế tâm để đi vào thiền định, để rồi cũng có nghĩ rằng tâm mình sẽ hết tham, sân, si, cái nghĩ của họ.
Bởi vì họ cũng đi qua, tuy rằng nó không phải là đang tu trên những cái pháp hành của đạo Phật thật sự, nhưng mà họ cũng nghĩ mường tượng rằng mình cũng sẽ được sự giải thoát đó.
Nhưng mà cái chủ đích thật sự của đạo Phật, thì như chúng ta cũng biết rằng, Đức Phật khi chứng đạo thì Ngài đã nói lên được bốn câu kệ, nhưng mà người ta huyền thoại Ngài, khi mới sanh ra Ngài nói lên bốn câu kệ.
Nhưng sự thật ra, khi một đứa bé sanh ra mà nói lên bốn câu kệ, thì nó chưa có thật giải thoát. Mà khi mà, trong kinh Nguyên Thủy xác định rằng Đức Phật mà tu chưa chứng, chỉ còn là Bồ Tát thì làm sao biết được mình làm chủ sanh tử mà dám nói lên lời nói đó.
Cho nên ở đây chúng ta thấy bốn câu kệ rất rõ ràng là:
“Thiên thượng thiên hạ
Duy ngã độc tôn
Nhất thiết thế gian
Sanh, lão, bệnh, tử”
(13:20) Thì Đức Phật đã xác định như vậy, thì cái bài kệ này phải xác định là sau khi chứng đạo, khi mà chứng đạo rồi thì Ngài mới nói câu kệ này, chớ còn nếu mà chưa chứng đạo, thì mình nói như vậy hóa ra mình nói láo sao?
Mà trong khi mới sanh ra, thì Thầy nghĩ dù là người ta huyền thoại Đức Phật là Thánh đi nữa, khi sanh ra thì đi bảy bước có hoa sen, tay chỉ trời, chỉ đất mà nói lên câu nói đó, thì thật ra ông Phật này đã thành Phật lâu rồi, chớ không phải là mới thành Phật ở trong kiếp này.
Nhưng mà Đức Phật đã xác định trước đó thì chưa có ông Phật nào. Nhưng những kinh khác thì nói rằng trước Đức Phật có những Đức Phật, nhưng mà có những đức Phật sao tôn giáo Phật giáo không ra đời?
Nếu có những người tu mà đã thấy được cái pháp tuyệt diệu, tuyệt vời như thế này, thì ngay (khi) ông mà đã tu rồi, thì ông đó có ích kỷ, nhỏ mọn đến cái mức độ mà ông chỉ tu rồi ông lại, bởi vì cái tâm một người mà tu giải thoát họ phải mang theo cái một cái tánh chất từ bi của họ, thì không có lý nào mà các Phật quá khứ vô tâm đến cái mức độ mà không nghĩ đến những con người trong cái thời điểm của Đức Phật đó, đang khổ đau quằn quại trên bốn sự đau khổ, tức là sanh, lão, bệnh, tử?
Cho nên nếu mà đã có một cái vị Độc Giác thôi, Thầy nói nghĩa là người đó tự tu mà tự chứng được dù là Thập Nhị Nhân Duyên thì người này cũng đã xác định cho thế gian này biết rằng không có thế giới siêu hình.
Nếu mà người như bậc Duyên Giác, họ tu họ cũng phải thấy được điều đó, thì ít ra họ cũng phải xác định được pháp Thập Nhị Nhân Duyên chứ. Đằng này phải chờ cho Đức Phật, Đức Phật mới xác định Tứ Diệu Đế, Thập Nhị Nhân Duyên, còn trước đó thì chưa có.
(15:10) Như vậy là Đức Phật chỉ là một cái người khiêm tốn, nói trước ta quá khứ thì có những Phật, bảy Đức Phật, nhưng sự thật theo Thầy nói, nếu mà có bảy Đức Phật thì có đạo Phật ra trước khi Đức Phật Thích Ca.
Nhưng đằng này, chúng ta biết rõ ràng là chỉ có Đức Phật Thích Ca là một Đấng Giáo Chủ, người sáng lập ra đạo Phật, thì như vậy rõ ràng là cái đích của đạo Phật đã nhắm vào cái gì?
Những cái câu chuyện đơn sơ mà thực tế cụ thể thì chúng ta nhắm vào đó, còn những cái huyền thoại thì sai chúng ta nên bỏ.
Thì Đức Phật đi ra bốn cửa thành thấy bốn cái khổ, và giải quyết bốn cái khổ đó là sanh, lão, bệnh, tử. Cho nên sau khi mà chứng đạo được, tức là tu thành đạo được rồi thì Đức Phật như thế nào? Đức Phật nói lên câu nói:
“Thiên thượng thiên hạ
Duy ngã độc tôn
Nhất thiết thế gian
Sanh, lão, bệnh, tử”
Trên trời, dưới trời chỉ duy nhất Ta là người vượt qua sanh, lão, bệnh, tử.
Đó không phải là Đức Phật đã xác định rằng ở trên trời, dưới trời, là tất cả khắp không gian vũ trụ này, chỉ có mình Ta là người đã vượt qua điều đó thôi, thì tức là đã xác định được cái mục đích của đạo Phật là phải làm chủ bốn cái khổ này. Mà trong lịch sử của Đức Phật đi ra bốn cửa thành thấy bốn cái khổ này rất rõ ràng.
Vì vậy bây giờ chúng ta là đệ tử của Người, thì chúng ta cũng phải nhắm cái mục đích làm sao thoát ra bốn cái khổ này, mà bốn cái khổ này nó ở chỗ nào?
(16:40) Thầy xin nhấn mạnh bốn chỗ này nó ở chỗ nào, có phải ở bốn cái chỗ trụ xứ của chúng ta không? Thân, thọ, tâm, pháp của chúng ta không?
Nếu thân này không chết thì chúng ta tu nó làm gì! Bởi vì thân của chúng ta đang tu, lấy nó mà tu đây, là tại vì nó đang bị chết nè, nó đang bị khổ ở trong cuộc sống gọi là sanh nè, nó đang bị già, mà già là khổ.
Cho nên vì vậy mà Đức Phật, cái mục đích của đạo Phật, cái pháp môn của đạo Phật, là nhắm vào ngay chỗ đó để mà tu tập, để cho thoát ra khỏi đau khổ. Vì vậy bây giờ chúng ta cũng ngay ở trên thân, thọ, tâm, pháp này mà tu tập để chúng ta thoát ra đau khổ.
Cho nên cái lời Đức Phật đã nói, cái kệ Đức Phật đã nói lên cái ý nghĩa của đạo Phật, cái mục đích của đạo Phật, mà hôm nay Chánh Đức hỏi Thầy thì nó quá rõ ràng, không còn gì nữa.
Nhưng mà tại sao chúng ta không nhắm vào cái chỗ mà chúng ta tu. Cho nên Tứ Niệm Xứ đặt chúng ta rất trọn, bốn chỗ để chúng ta thực hiện được cái chỗ làm chủ sanh, lão, bệnh, tử.
Thế mà chúng ta hiểu như vậy rồi, bây giờ chúng ta mới biết ở trên cái thân, thọ, tâm, pháp này gọi là Tứ Niệm Xứ. Nếu mà một danh từ nói là Tứ Niệm Xứ, thì chúng ta nói thân, thọ, tâm, pháp là Tứ Niệm Xứ. Phải không?
Cho nên nếu mà bây giờ chúng ta đang tu ở trên cái Tứ Niệm Xứ, bây giờ tu ở trên thân quán thân nè, mà về cái nhân tướng của nó thì chúng ta biết rằng đó là tu Định Vô Lậu. Mà nếu mà tu về hành tướng ngoại thì chúng ta biết rằng Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, vì có cái Chánh Niệm Tỉnh Giác đó nó mới khắc phục được cái tham ưu, nó mới đoạn dứt các ác pháp.
Rồi bây giờ chúng ta biết, trên thân quán thân tu về hành tướng nội nè, thì chúng ta biết nó là Định Niệm Hơi Thở. Thay vì đó là một cái tên, thí dụ như “trên thân quán thân tu về hành tướng nội”, đó là một cái tên để chỉ cho chúng ta biết rằng đó là cái Định (Niệm) Hơi Thở.
Mà như vậy chúng ta ở trên đó mà chúng ta tu tập thì để làm gì? Để làm cho cái thân của chúng ta nó không có còn bị bốn cái trường hợp đau khổ nữa, sanh, lão, bệnh, tử, phải không?
Cho nên ở ngay đó mà chúng ta tu tập để làm chủ, mà làm chủ rồi thì chúng ta đã xong, đâu có gì đâu. Đó, tức là giải thoát được, nó không còn khổ nữa.
(18:40) Hồi sáng này Thầy dự định Thầy sẽ trả lời cái câu hỏi của cô Diệu Quang. Có một số câu hỏi, nhưng mà Thầy ngồi trên xe, cái xe run quá Thầy không có viết được. Cho nên ở đây có một số câu hỏi cũng rất là thực tế và cụ thể cho cái bước đường tu tập của các con, nhưng mà trả lời, thay vì buổi sáng nay Thầy không có công việc thì chắc chắn Thầy sẽ trả lời hết cái này.
(19:01)“Kính bạch Thầy, phá âm thanh như thế nào? Ở trạng thái nào mới phá được âm thanh, nhập được định gì mới phá được âm thanh?
Kính bạch Thầy, nhập định nào âm thanh vắng lặng? Phá âm thanh bằng cách nào? Muốn nhập bốn loại Định Vô Sắc tu tập như thế nào?”
Nghĩa là cái Định Vô Sắc là từ Không Vô Biên Xứ đến Thức Vô Biên Xứ đó.
“Ở trạng thái nào mà tịnh chỉ được các hành?”
Nghĩa là ở cái trạng thái nào mà chúng ta mới ra lệnh mà tịnh chỉ được cái hành?
“Ở trạng thái nhập Tứ thiền có thể nhập Không Vô Biên Xứ được không?
Bất Động Tâm là định gì?
Định Bất Động Thân là định gì?
Định Diệt Thọ Tưởng Định, cách thức tu tập như thế nào?
Thưa Thầy có phải nhập Tứ Thiền rồi mới nhập Không Vô Biên Xứ, cho đến Thức Vô Biên Xứ cho đến Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ?
Ở trong trạng thái nào mới nhập được Tứ Thiền?
Các loại thiền định của đạo Phật, thiền định nào quan trọng nhất?”
Đó là những cái câu hỏi mà Thầy thấy, hỏi như vậy quá thực tế và cụ thể để cho chúng ta biết được các loại thiền định để mà tập luyện.
Nhưng Thầy thấy rằng giờ phút chúng ta cũng không có nhiều, và Thầy cũng chưa trả lời ghi ra thành văn, cho nên Thầy cũng không trả lời, để rồi Thầy sẽ ghi thành văn rồi Thầy sẽ trả lời sau.
(21:00) Đó là những cái câu hỏi mà các con và các thầy hỏi Thầy rất nhiều. Chánh Đức hỏi Thầy thì Thầy trả lời xong cái câu hỏi của Chánh Đức, nhưng sáng nay công việc Thầy cũng ghi chưa hết. Nhưng rồi Thầy cũng sẽ ghi lại những cái này cho nó kỹ lưỡng, để rồi chúng ta sẽ có cái tài liệu, sau này nó sẽ không bị mất.
Và cô Diệu Hảo hỏi Thầy, thì ngày mốt Thầy sẽ trả lời cho cô Diệu Hảo những cái câu hỏi trên cái sự tu tập của cô, gặp những cái khó như là gặp những cái âm thanh đó, thì cũng chung ở những cái câu hỏi của cô Út.
Cho nên để đây Thầy sẽ trả lời sau, còn bây giờ thì chúng ta tiếp tục chúng ta học, vì thời gian chúng ta cũng không có nhiều. Mà cái Định Niệm Hơi Thở thì chúng ta mới học hết về, nhờ cái Định Niệm Hơi Thở mà chúng ta nhập được Tứ Thiền, còn bây giờ chúng ta cũng nương vào cái Định Niệm Hơi Thở để mà chúng ta bắt đầu nhập bốn Thiền Vô Sắc.
Vậy thì chúng ta sẽ nghe lời Đức Phật dạy đây:
“Do vậy, này các thầy Tỳ Kheo, nếu Tỳ Kheo ước muốn rằng, vượt qua sắc tưởng một cách hoàn toàn, chấm dứt đối ngại tưởng, không tác ý các tưởng sai biệt, nghĩ rằng hư không là vô biên, chứng đạt và an trú Không Vô Biên Xứ, thời Định Niệm Hơi Thở cần phải kéo tác ý”.
Đó là cái lời Đức Phật dạy, như vậy thì chúng ta thấy qua những cái danh từ mà dạy trong này, đây là cái câu mà Đức Phật dạy này, ở đây Đức Phật nói: “nếu Tỳ Kheo ước muốn rằng” nghĩa là cái tâm mình muốn rằng mình sẽ nhập vào cái định Không Vô Biên Xứ đó, cái lòng mình muốn mình muốn nhập chớ? Còn mình không muốn thì mình làm sao mà nhập!
Vậy thì vượt qua, tức là mình phải vượt qua sắc tưởng, “vượt qua sắc tưởng một cách hoàn toàn chấm dứt đối ngại tưởng.” Nghĩa là phải vượt qua cái sắc tưởng, rồi chấm dứt cái đối ngại tưởng.
“Không tác ý cái tưởng sai biệt, nghĩ rằng hư không là vô biên,” thì bắt đầu bây giờ mới “chứng đạt và trú vào Không Vô Biên Xứ, thời Định Niệm Hơi Thở cần phải khéo tác ý”.
Thì bắt đầu bây giờ, rõ ràng là Đức Phật cũng nhắc chúng ta là phải dùng cái Định Niệm Hơi Thở để mà tu tập cái Không Vô Biên Xứ này.
(23:31) Vậy thì muốn nhập được cái định Không Vô Biên Xứ này, thì chúng ta thấy nó có hai cái lối đi, có hai cái lối tu tập.
Một cái lối thứ nhất, như Đức Phật đã xác định ở trong bài kinh trong bộ Tương Ưng, trong cái bộ Trung Bộ, Thầy nhớ là tập một thì phải. Thì Đức Phật đã có xác định, mà Thầy đã có ghi ra cho các con ở trong cái phần vấn đạo rồi, thì cái tâm, cái ý mà thanh tịnh, mà nó không có liên hệ với cái Ngũ Căn nữa đó, thì lúc bấy giờ nó sẽ nhập vào cái định Không Vô Biên Xứ Định.
Thì đó là một cái ngả, cái ngả rõ ràng là cái chỗ mà Thiền Tông nó đi vào, thì chúng ta thấy “chẳng niệm thiện niệm ác”. Nó bây giờ cái chẳng niệm thiện niệm ác thì bây giờ nó đang ở trong cái ý thức không niệm thiện niệm ác, chớ đâu phải là cái tâm thức của nó đâu, mà nó ở trong cái tưởng “không”.
(24:29) Bởi vì cái ý thức bây giờ nó đang biết nè, biết mà không niệm thiện niệm ác, nó đang biết rõ ràng, không có niệm thiện niệm ác. Mà cái trạng thái không niệm thiện niệm ác đó là trạng thái, cái trạng thái mà hồi nãy Thầy nói đó, không lạc mà không khổ.
Nó đâu có khổ lạc, bởi vì nó đâu có thiện, mà nó cũng đâu có ác. Thiện là vui mà ác là khổ, mà giờ nó không thiện không ác, thì nó đâu có vui đâu, có buồn đâu, có khổ đâu? Cho nên cái trạng thái của “chẳng niệm thiện niệm ác” thì nó không có khổ, không vui có buồn gì hết. Có phải không? Mà cái trạng thái đó gọi là ý thức thanh tịnh.
Bây giờ cái này chúng ta đang biết ở ý thức, chớ đâu phải chúng ta đang biết ở trong giấc mộng chúng ta sao mà gọi là tưởng? Cho nên cái biết này đang hiện ở ý thức chớ làm gì, chúng ta đang rõ ràng là còn cái niệm thiện niệm ác đây, mà bây giờ nó không niệm thiện niệm ác, thì tức là nó đang ở ý thức chớ làm sao mà nó có ngưng được cái chỗ nào đâu mà gọi nó là tâm thức của chúng ta được, đó chúng ta thấy rõ không?
Như vậy là khi mà chúng ta ở cái chỗ mà chẳng có niệm thiện niệm ác này, thì cái trạng thái nó không khổ không lạc rồi. Do đó thì Đức Phật xác định nó không liên hệ với ngũ căn, ngũ căn là mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình, nó không có liên hệ.
Như vậy nó không liên hệ với mắt thì nó thấy sắc nó có phân biệt không? Nó đâu có phân biệt, bởi vì bây giờ nó không có liên hệ với con mắt, cái ý thanh tịnh đó nó không có liên hệ với con mắt. Bây giờ nó thấy cái đồng hồ này, nó đâu có cần phân biệt nó màu trắng hay màu xanh, màu đỏ, phải không?
Cho nên bây giờ nó không, nó không liên hệ với cái lỗ tai, cái nhĩ căn là cái lỗ tai nè, mà nó không có liên hệ với lỗ tai, thì nó nghe con chó sủa, con chim gáy, nó có phân biệt là tiếng chó sủa (hay) chim gáy không?
Cho nên trong Thiền Tông gọi là vô phân biệt, nhưng có nghe âm thanh chớ không phải không nghe, nhưng mà không phân biệt nữa. Đó là trong cái bài kinh Đức Phật nói nó không liên hệ với ngũ căn thì nó sẽ rơi vào, nó sẽ nhập vào cái trạng thái Không Vô Biên Xứ.(26:31) Đó là một cái ngả mà Thiền Tông nó sẽ bị rơi vào những cái trạng thái tưởng.
Như vậy là đâu phải đợi chúng ta nhập Tứ thiền rồi mới nhập tới Không Vô Biên Xứ rồi Thức Vô Biên Xứ, rồi Vô Sở Hữu Xứ rồi mới Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ đâu? Sai! Họ không hiểu đâu. Cái chỗ mà chúng ta nhập, từ cái chỗ ý thức thanh tịnh mà đi vào.
Cho nên ở đây chúng ta sẽ thấy rõ ràng là khi một cái người mà đi cái ngõ này, thì họ sẽ đi vào cái chỗ ức chế cái tâm của chúng ta là không niệm thiện niệm ác, nó đưa chúng ta đi vào các loại định tưởng. Như vậy là Thiền Đông Độ sẽ đưa con người tu vào các loại định tưởng, từ Không Vô Biên Xứ cho đến Vô Sở Hữu Xứ tưởng, chưa phải là nó nhập tới Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ.
Nếu một vị thiền sư nào nhập được Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ, rồi từ đó nương vào cái hơi thở, hay hoặc là giữ cái trạng thái đó có thể kéo dài để nhập Diệt Thọ Tưởng Định.
Cho nên có nhiều vị thiền sư bỏ nhục thân là do cái Diệt Tưởng Định chớ không phải, nhập Diệt Thọ Tưởng Định chớ không phải họ đi qua cái ngả Tứ Thiền, vì vậy mà họ không làm chủ sự sống chết của họ.
Bởi vì những cái định tưởng này không có cái định nào mà làm chủ được sanh tử, làm chủ được cái thân của họ hết. Nó là Định Vô Sắc, tức là định thuộc về tâm chớ không phải định thuộc về thân.
Mà nó có đi ngang qua cái thân nó tu đâu, nó đâu có đi ngang qua cái ý thức. Ngay từ vô nó bắt đầu nó ngưng cái ý thức nó, tức là nó ngưng thiện ngưng ác, mà nó giữ cái ý thanh tịnh của nó thôi, rồi từ đó nó đi vào trong cái Không Vô Biên Xứ, Thức Vô Biên Xứ và Vô Sở Hữu Xứ.
Thì chúng ta thấy rất rõ là con đường đi của Đông Độ. Vì vậy mà mà mỗi vị thiền sư Đông Độ đều rớt vào các loại định tưởng này mà họ không biết, họ đã nhập vào những cái loại định tưởng này.
(28:16) Đó, còn riêng có một nẻo nữa. Không phải chúng ta phải nhập tới Tứ Thiền mà chúng ta đi vào cái Không Vô Biên Xứ mà chúng ta, ở đây chúng ta sẽ nhập vào cái định Nhị Thiền thì chúng ta sẽ đi vào Không Vô Biên Xứ.
Nhị Thiền là diệt Tầm Tứ, diệt Tầm Tứ thì coi như là vọng tưởng không có, tác ý không có rồi. Thì cũng từ cái chỗ đó, nhưng mà diệt Tầm Tứ thì trái lại nó đã ly dục, ly ác pháp của Sơ Thiền rồi, cho nên nó mới tịnh chỉ Tầm Tứ, là do cái tâm mà ly dục ly ác pháp nó tịnh chỉ Tầm Tứ chớ không phải ức chế Tầm Tứ.
Còn thiền Đông Độ nó do ức chế Tầm Tứ mà đi vào cái Hư Không Vô Biên Xứ. Còn ở đây chúng ta từ chỗ Nhị Thiền chúng ta sẽ nhập vào cái Không Vô Biên Xứ rất dễ.
Bởi vì lúc bây giờ ý thức của chúng ta nó không có Tầm Tứ, nó còn đang ở trong cái ý thức thanh tịnh, một trạng thái do định sanh hỷ lạc, tức là cái trạng thái của hết Tầm Tứ rồi.
Do đó bây giờ chúng ta đi vào trong cái trạng thái của Hư Không Vô Biên Xứ, thì nó tương đương với bên kia là ý thức chẳng niệm thiện niệm ác, ý thức thanh tịnh, cho nên nó đi vào trong cái trạng thái của định tưởng.
Còn vì vậy mà cái người tu, mà nhập vào cái Sơ Thiền này, như các vị thiền sư Nam Tông như thiền sư Ajahn Chah cũng vậy. Thì ông, lẽ ra ông phải nhập Tam Thiền, đằng này ông mới nhập Nhị Thiền thôi, mới diệt Tầm Tứ, do đó ông không biết cách tu Tam Thiền, Tứ Thiền cho nên bắt đầu ông lạc vào cái chỗ này.
Ông lạc vào chỗ này, thì ông rơi vào Không Vô Biên Xứ. Ông rơi vào Không Vô Biên Xứ, thì thay vì ông vượt qua Không Vô Biên Xứ ông nhập Thức Vô Biên Xứ, thì ông sẽ thấy cái tâm ổng phủ trùm vạn hữu như thiền sư.
Đằng này thì ông chưa có thấy cái tâm phủ trùm như vạn hữu thiền sư, thì ở cái Hư Không Vô Biên Xứ này, thì ông lại rơi vào cái pháp tưởng. (30:09) Từng đó ông thấy những cái điều này là ông đã chứng đạo, từ đó ông đưa ra ông quán Tứ Niệm Xứ. Ông trở thành quán Tứ Niệm Xứ thì ông đã mất rồi, ông đâu có vô định được nữa.
Cho nên từ đó thì nó có những trạng thái, là sau này thiền sư Miến Điện mới đẻ ra một cái pháp môn gọi là thiền Minh Sát Tuệ. Do cái định Diệt Tầm Tứ này, từ cái Nhị Thiền này nó hết vọng tưởng rồi, thì bắt đầu ông mới quán sát trở ra thì đó gọi là Minh Sát.
Minh Sát tức là ông dùng cái pháp quán của Tứ Niệm Xứ để mà khắc phục tham ưu của mình, ông tưởng như đó là giải thoát. Nhưng bây giờ các ông này hoàn toàn là không có làm chủ được, không tịnh chỉ hơi thở, không làm chủ được cái sự sống chết. Coi như Tam Thiền thì ông không có qua được, không nhập được, Tứ Thiền không có nhập được.
Mà từ cái Nhị Thiền đó thì ông đi qua các cái loại định tưởng rồi. Thì bây giờ Nam Tông nó cũng rơi vào các cái trạng thái của định tưởng, mà Thiền Tông thì cũng rơi vào các trạng thái định tưởng.
Cho nên hầu hết là các ông đều bị rớt vào ở trong cái pháp tưởng này rồi, thì Thiền Tông với Nam Tông bây giờ dường như là những cái ý của họ, các con đọc cái cuốn “Mặt Hồ Tĩnh Lặng” của Thiền sư Ajahn Chah các con sẽ thấy rõ ràng là, cái ảnh hưởng từ cái tu tập đó nó làm cho cái tư tưởng của ổng rất giống thiền sư Đông Độ, cho nên những cái công án, những cái lời nói của thiền sư Đông Độ thì ông vẫn thấy chấp nhận hẳn hòi.
Bởi vì đó là ông lạc vào pháp tưởng rồi. Mà trong khi nhập Tam Thiền là phải xả cái tưởng đó ra, thì ông lại không xả cái pháp tưởng, cho nên do đó ông dính mắc đó rồi.
Bây giờ tới khi mà chết thì kể như thiền sư Ajahn Chah mà Thầy được biết, là ông chết rất khổ sở và rất là đau đớn, sự hoành hành của cơ thể ông rất là lớn.
Đó, cho nên từ cái chỗ đó chúng ta biết Nam Tông vẫn là tu tập sai rồi, không có còn đúng con đường của đạo Phật nữa.
Bây giờ nói về Không Vô Biên Xứ, thì chúng ta bắt đầu từ Nhị Thiền thì chúng ta nhập Không Vô Biên Xứ, rồi Thức Vô Biên Xứ, rồi Vô Sở Hữu Xứ, rồi Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ, chứ không phải Tam Thiền, Tứ Thiền, mà nhập được cái loại tưởng rồi.
Bởi vì tới Tam Thiền là khác rồi, Tam Thiền nó đã diệt hết cái tưởng rồi. Nghĩa là cái dục tưởng nó không còn có nữa, nó ly rồi, diệt thì nó không có đúng, nó mới ly, gọi là ly hỷ. Ly hỷ tức là ly cái dục, ly cái dục của cái tưởng chớ không phải là diệt nó.
Diệt nó là Diệt Thọ Tưởng Định mới diệt thọ, diệt cái tưởng đó được. (32:23) Còn cái định của Tam Thiền nó mới ly được cái tưởng mà thôi, nó mới lìa ra cái tưởng. Cho nên gọi là “ly hỷ trú xả nhập Tam Thiền” đó, cái danh từ của Phật gọi Tam Thiền là như vậy.
Cho nên ở đây chúng ta thấy, khi mà có hai cái ngả, một cái ngả đi vào từ cái chỗ ức chế tâm, một cái ngả do xả tâm ly dục ly ác pháp, để khi mà nhập Nhị Thiền, do tịnh chỉ Tầm Tứ để mà đi qua cái lộ trình của bốn cái loại Thiền Vô Sắc này, từ Không Vô Biên Xứ cho đến Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ. Thì từ cái ngả Nhị Thiền, nó sẽ bị rớt vào ở trong các cái loại tưởng này.
Bởi vì lúc bây giờ tưởng thức chúng ta chưa đóng, chưa có khép, mà ý thức chúng ta mới khép mà thôi, cho nên chúng ta sẽ rơi vào những cái loại này.
Đó là chúng ta thấy cái con đường tu tập như vậy, thì muốn tu tập từ cái Nhị Thiền này mà muốn nhập vào cái Hư Không Vô Biên Xứ này, thì chúng ta cũng phải nương vào cái hơi thở mà tác ý ra.
Nghĩa là chúng ta phải ra khỏi cái Nhị Thiền chớ không phải ở trong cái trạng thái Nhị Thiền để rồi từ đó nó rớt trong đó, cho nên vì vậy nó không có cái đường đi.
Cho nên có nhiều thiền sư tu thiền mà không nhập được Diệt Thọ Tưởng Định, mà chỉ có một phần ít nào đó thôi, nó đi đúng được cho nên nó nhập các cái loại định tưởng này, cho đến khi Diệt Thọ Tưởng Định.
Cho nên chúng ta thấy hầu hết là các thiền sư Đông Độ người nào mà nhập đến Diệt Thọ Tưởng Định đều là để lại nhục thân. Việt Nam chúng ta cũng có người để lại nhục thân, nhưng nó không phải là con đường của đạo Phật, vì nó không phải là cái cứu cánh nhằm vào cái mục đích sanh, lão, bệnh, tử của chúng ta giải quyết.
(34:01) Cho nên Chánh Đức hỏi Thầy cái mục đích của đạo Phật, cái chủ đích của đạo Phật là như thế nào, nhắm vào chỗ nào để mà giải quyết.
Còn cái này nhắm vào ở chỗ nào mà giải quyết đây? Nó đi vào một cái định, cái định người ta cứ nghĩ tưởng rằng bốn cái loại Định Vô Sắc này là nó cao hơn cái loại Định Hữu Sắc.
Thật sự chúng ta đang ở trong cái Hữu Sắc, làm chủ cái Hữu Sắc, chớ không phải đi tìm một cái bóng dáng của một cái tưởng tượng, thì nhất định là chúng ta không làm sao mà làm chủ được cái sắc thân của chúng ta được.
Cho nên cái định nào mà cái định làm chủ được sắc thân, thì chúng ta sẽ thấy rõ là chúng ta đã học rồi: nhập Tứ Thiền tịnh chỉ hơi thở, thì ngay đó là chúng ta muốn sống, muốn chết do cái thân này chúng ta điều khiển, nó chết sống như thế nào, dễ dàng quá.
Vì bây giờ chúng ta muốn làm chủ được cái sự sống chết của chúng ta, thì cái hơi thở mà còn thở thì làm sao mà chết được? Mà hơi thở chấm dứt mà chúng ta ra lệnh nó chấm dứt được, thì chúng ta bỏ thân này quá dễ rồi. Mà bây giờ chúng ta phục hồi được cái sự sống này, thì chúng ta làm chủ được cái cuộc sống của chúng ta rồi, tức là chúng ta đã nắm được cái quyền làm chủ sống chết của chúng ta.
Mà nếu mà nắm được cái quyền làm chủ sống chết của chúng ta thì chúng ta phải làm chủ được nhân quả, cho nên do đó chúng ta phải chấm dứt sanh tử luân hồi.
Nhưng nhập Tứ Thiền chưa đủ, vì vậy mà chúng ta còn phải tới Tam Minh để đoạn dứt cái nguyên nhân mà nó tiếp tục tái sanh luân hồi, đó là cái gốc lậu hoặc.
Còn ở đây thì chúng ta thấy rằng bốn cái thiền mà chúng ta học rồi, rõ ràng là bốn cái thiền đó đưa chúng ta đi đến chỗ làm chủ.
Như bây giờ làm chủ cái tâm, thì cái thiền định đầu tiên là Sơ Thiền ly dục, ly ác pháp. Rõ ràng là cuộc sống mà chúng ta ly dục ly ác pháp được, ai chửi chúng ta (không) giận, tham, sân, si chúng ta hết rồi, nó ly ra rồi, đâu còn ác pháp trong đó nữa, cho nên vì vậy mà chúng ta sống tỉnh bơ, ai làm gì làm chúng ta không ham muốn.
Bây giờ ai đem vàng bạc chồng đống chúng ta cũng không ham, bởi vì tâm ly dục rồi, nó đâu còn ham vật chất nữa đâu. Cái gì nó cũng không ham nữa hết, nó xả bỏ, nó mong có tới ngày để mà nó bỏ cái thân này nữa chớ nó còn không ham thích sống trong cuộc đời này nữa. Vì mang cái thân này là thân nghiệp, thân nhân quả, thân đau khổ chớ đâu phải thân hạnh phúc đâu!
Cho nên do vì vậy mà chúng ta thấy, nội cái Sơ Thiền là chúng ta đã giải quyết được cái tâm. Còn Nhị Thiền và Tam Thiền, Tứ Thiền, cho đến ba cái thiền này là mục đích nhắm vào để làm chủ cái thân của chúng ta.
(36:12) Còn bốn cái loại Định Vô Sắc này, nó có làm chủ cái gì? Nó chỉ là một cái hình dáng của một cái tưởng thức của chúng ta mà thôi, cái bóng dáng của nó mà thôi, cho nên nó thực hiện cho chúng ta thấy được cái trạng thái an lạc của cái trạng thái của nó mà thôi.
Cho nên một cái người mà hết Tầm Tứ rồi, thì ngay đó nó có định sanh hỷ lạc. Định sanh hỷ lạc đó là nó ở trong ý thức thanh tịnh chớ đâu phải, mà ý thức thanh tịnh, thì trong khi mà ở trong ý thức thanh tịnh đó, mà chúng ta dùng cái tưởng, tưởng là Không Vô Biên Xứ thì tức là dùng cái tưởng, thì tưởng bắt đầu hoạt động.
Bởi vì cái ý thức thanh tịnh thì nó sẽ dễ dàng mà cái tưởng thức nó sẽ hoạt động. Và khi mà cái ý thức thanh tịnh đó nó ngưng đi thì cái tưởng thức nó sẽ hoạt động vào, vì vậy mà nó cảm giác thấy như là hư không là vô biên.
(37:07) Bây giờ tiếp tục chúng ta tu cái định kế nữa cũng là một cái định tưởng, đó là cái định Thức Vô Biên Xứ:
“Do vậy này các thầy Tỳ Kheo, nếu Tỳ Kheo ước muốn rằng, vượt qua Không Vô Biên Xứ một cách hoàn toàn, nghĩ rằng thức là vô biên, tôi có thể chứng đạt và an trú Thức Vô Biên Xứ, thời Định Niệm Hơi Thở khéo tác ý.”
Thật sự ra cái chỗ này, thì các Thầy nếu mà chưa có biết cái pháp hành, thì chắc chắn là các thầy sẽ không có vào được cái Thức Vô Biên Xứ đâu.
Cũng như bây giờ chúng ta diệt Tầm Tứ rồi, rồi bây giờ chúng ta nhập Nhị Thiền rồi, bây giờ chúng ta muốn nhập Không Vô Biên Xứ, mà chúng ta muốn mình vượt qua cái trạng thái của cái tâm của mình đang ở Nhị Thiền này để cho mình nhập cái Hư Không Vô Biên Xứ này, thì bằng cách nào đây?
Cho nên bây giờ mình phải ra hơi thở, cho nên ở đây Phật nói “thời Định Niệm Hơi Thở khéo tác ý” phải nương vào cái hơi thở mà khéo tác ý. Khéo tác ý cái gì đây?
Cái ước muốn của mình, ước muốn cái gì đây? Mình ước muốn vượt qua cái định của Nhị Thiền để nhập vào cái Hư Không Vô Biên Xứ này, cho nên ước muốn của mình phải muốn nhập vào cái Không Vô Biên Xứ.
(38:17) Cho nên mình mong rằng, mình ước rằng, thì cái đó là cái câu pháp hướng để mình đặt ra. Bây giờ hít vô nè, tôi nương vào hơi thở nè: “hít vô tôi muốn tâm tôi nhập vào Không Vô Biên Xứ, tâm tôi như là hư không!”
Đó mình ra cái lệnh như vậy, mình nói như vậy, mình hướng như vậy, tức là mình nương vào hơi thở.
“Thở ra tôi biết tâm tôi phải như hư không”, phải không? Thì mình hít vô mình cũng nói vậy, thở ra mình nói vậy tức là nương vào cái hơi thở, nương vào cái định niệm, “thời định niệm khéo tác ý”, mình khéo tác ý, mình hướng tâm mình nhắc.
Thì như vây một lúc sau thì cái định Nhị Thiền này nó sẽ mất đi. Bởi vì mình trú ở trong cái đó, mình trú ở trong cái chỗ hướng tâm này, cái hơi thở này thì nó sẽ xả đi cái định Nhị Thiền, cái trạng thái của Nhị Thiền.
Do đó khi đó cái tưởng của mình nó sẽ thực hiện đúng như cái pháp hướng của mình ra lệnh, cho nên tâm mình bây giờ nó trở thành Hư Không Vô Biên Xứ.
Rồi Thức Vô Biên Xứ, cũng vậy, bây giờ mình muốn nhập cái Thức Vô Biên Xứ này thì mình phải vượt qua cái Không Vô Biên Xứ, do đó khi mình được ở trong cái Không Vô Biên Xứ rồi thì bắt đầu mình mới ước muốn, mình hoàn toàn mình phải nhằm vô cái Thức Vô Biên Xứ.
Bởi vì cái Không Vô Biên Xứ này hoàn toàn nó không ngơ rồi, vậy thì bây giờ cái thức mình ở đâu? Do đó mình ước muốn rằng, bây giờ mình mới hướng tâm mình nhắc: “Thức Vô Biên Xứ phải hiện tiền ra rõ!” Phải không? Thì: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra.”
“Thức Vô Biên Xứ phải hiện tiền cho rõ, hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra!” Mình nương vào hơi thở để cho mình tỉnh thức, mình nhắc cái câu pháp hướng của mình, làm cho cái tâm của mình nó phải trở thành cái vô biên vô cùng, tức là cái thức nó trải cùng vô biên.
Tùy theo cái pháp hướng này mà mình nhắc đi nhắc lại, ở trên cái lúc mà mình ở trong cái trạng thái của Không Vô Biên Xứ, thì mình nhắc cái Thức Vô Biên Xứ này nó sẽ thực hiện cho cái tâm phủ trùm vạn hữu của mình rất dễ dàng, hơn là Thiền Tông ngồi kéo dài để mong cho nó phủ trùm vạn hữu.
(40:20) Chúng ta có đường cách, có lối tu tức là có pháp hướng kèm theo để nhắc tâm mình tỉnh thức và ước muốn ở trong cái điều đó. Do mình ước muốn tức là cái pháp hướng nó thực hiện cái ước muốn của mình, bằng cách mình nhắc đi nhắc lại cái ước muốn đó ở trong một cái câu gọi là pháp hướng.
Bây giờ mình đã nhập vào Thức Vô Biên Xứ rồi thì mình muốn nhập vào cái Không Vô Biên (Vô Sở Hữu) Xứ thì mình cũng nhắc cái tâm của mình, nương vào hơi thở mình nhắc cái tâm của mình, để cho cái tâm của mình nhập Vô Sở Hữu Xứ, thì như vậy là mình dùng cái pháp hướng mà mình đi vào trong cái Vô Sở Hữu Xứ Định.
Thì các con thấy, ngoài cái pháp hướng mình còn cái gì để cho mình biết để mình vô, hay hoặc là mình tưởng, mình ngồi mình nghĩ tưởng?
Mình đâu có ngồi nghĩ tưởng, mà mình nghĩ rằng cái Vô Sở Hữu Xứ này, nó sẽ có một cái cảnh giới vô sở hữu xứ này, cái trạng thái vô sở hữu xứ này, cho nên vì vậy mà cái tâm mình ước muốn để vào đó, thì mình nhắc cái tâm mình phải vào ở chỗ đó, cho nên nó thực hiện bằng cái pháp hướng của mình.
Mà khi mà cái con đường mà chúng ta, từ cái Sơ Thiền ly dục, ly ác pháp thì chúng ta đã có một cái tâm thanh tịnh, vì vậy mà cái tâm thanh tịnh của chúng ta muốn cái chỗ nào, nó sẽ gần như là nó thực hiện ngay chỗ đó được.
Vì vậy mà con đường mà từ cái chỗ Nhị Thiền này mà đi vào bốn cái thiền định, từ Không Vô Biên Xứ, Thức Vô Biên Xứ này thì chúng ra sẽ thấy rất dễ dàng. Chúng ta chỉ hướng tâm là cái định nào, cái Định Vô Sắc nào thì nó cũng thực hiện đúng theo cái định nấy, chứ nó không phải như Thiền Tông.
Do Thiền Tông, mà nó chỉ may mắn cho họ là cái vị thiền sư đó tu, nó vào Không Vô Biên Xứ, Thức Vô Biên Xứ, rồi Vô Sở Hữu Xứ, rồi Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ cho đến Diệt Thọ Tưởng Định, thì đó là cái vị đó may mắn trong cái duyên của đời trước của các ngài, cho nên các ngài đi vào đúng.
Còn không thì cái số nhiều vị thiền sư mà họ chỉ đến cái Thức Vô Biên Xứ, cái bắt đầu họ dính đó rồi họ không đi nữa được, cho nên đến chết họ không để lại nhục thân được. Còn mấy ông mà đi qua được bốn cái Định Vô Sắc này cho đến cái Diệt Thọ Tưởng Định thì họ để lại nhục thân được.
(42:19) “Do vậy này các thầy Tỳ Kheo, nếu các thầy Tỳ Kheo ước muốn rằng vượt qua Vô Sở Hữu Xứ bằng một cách hoàn toàn, tôi sẽ chứng đạt và an trú Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Định, thời Định Niệm Hơi Thở vô hơi thở ra này cần phải khéo tác ý”.
Đó thì quý thầy thấy rõ ràng mà, luôn luôn lúc nào mà chúng ta cũng muốn được cái ước muốn một cái gì đó, thì hoàn toàn chúng ta phải làm trạch pháp một cái câu pháp hướng, để rồi từ đó chúng ta nương vào hơi thở mà nhắc tâm của mình.
Cho nên từ cái chỗ Nhị Thiền này mà đi vào cái chỗ các cái loại định tưởng, thì cũng nương vào cái hơi thở rồi khéo tác ý.
(42:57) Bây giờ từ cái Nhị Thiền này mà đi vào cái chỗ Tam Thiền, Tứ Thiền thì cũng phải nương vào cái hơi thở để mà khéo tác ý, để mà ly hỷ trú xả, để mà nhập Tam Thiền, để mà tịnh chỉ các hành, tịnh chỉ hơi thở để nhập Tứ Thiền. Thì đó là chúng ta có cái pháp để mà chúng ta dẫn cái tâm mình đi vào ở chỗ các cái định mà chúng ta muốn.
Bởi vì mình ước muốn cái đó mà, mình ước muốn cái hơi thở mình ngưng, thì mình phải dẫn cái tâm của mình đi vào cái chỗ nó ngưng chớ. Do đó mình phải có pháp hướng: ”Hơi thở phải tịnh chỉ!”. Do đó mình nhắc một lần chưa tịnh chỉ, hai lần ba lần, năm lần, mười lần nó tịnh chỉ.
Đó là cái pháp hướng của chúng ta. Nhưng mà mình phải ở trên cái Định Niệm Hơi Thở mà khéo tác ý. Ngoài cái hơi thở mà tác ý thì coi chừng tác ý sai đường, không có đúng. Cho nên nương vào hơi thở mà làm cái việc tu tập này thì nó không sai con đường.
Cho nên Thầy mới nói rằng Định Niệm Hơi Thở là một cái trợ pháp, là một cái trợ duyên cho tất cả các pháp để mà chúng ta tu. Chúng ta muốn nhập cái thiền nào thì nhờ cái hơi thở đó mà chúng ta nhập vào cái thiền đó.
“Do vậy này các thầy Tỳ Kheo, nếu các thầy ước muốn rằng vượt qua Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ một cách hoàn toàn, tôi sẽ chứng đạt và an trú Diệt Thọ Tưởng Định, thời Định Niệm Hơi Thở vô hơi thở ra cần phải khéo tác ý”
Do đó đến cái Diệt Thọ Tưởng Định mà chúng ta cũng cần phải dùng hơi thở.
Còn bên Thiền Tông, mới đầu thì nó không có pháp ức chế tâm được thì nó bắt đầu nó phải sổ tức: hít vô thở ra đếm một, hai, ba, bốn. Còn bên đây Phật dạy Định Niệm Hơi Thở đâu có sổ tức. Sổ tức là các pháp của Đại Thừa, các pháp của Tổ đặt ra chớ còn bên Nguyên Thủy thì Định Niệm Hơi Thở không có sổ tức, nghĩa là không có pháp sổ tức, mà không có pháp tùy tức nữa.
Mà cái Định Niệm Hơi Thở là nhắc cái hơi thở mà thôi, tác ý nhắc hơi thở tức là dùng pháp hướng mà nhắc hơi thở “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra.”
Đó là cái nhắc như vậy, mà nếu mình kết hợp với cái tâm ước muốn gì, thì mình kết hợp thêm vào trong cái nhắc đó, thì mình sẽ đạt được cái ước muốn đó. Đó là mình tu theo cái pháp của Phật, là dạy mình có pháp hướng tâm để nhắc tâm mình đi vào.
(44:49) Đó thì đến cái Diệt Thọ Tưởng Định thì chúng ta cũng có cái đường lối chúng ta vào, còn bên Thiền Tông chúng ta thấy không có đường lối. Cho nên tới đây nhiều thiền sư không biết cách nào mà chúng ta nhập Diệt Thọ Tưởng Định để lại cái nhục thân cho đời sau, chưa biết cách, không biết cách tu.
Còn bây giờ đó, thì ở bên Nguyên Thủy chúng ta biết cách rất rõ ràng. Muốn nhập Diệt Thọ Tưởng Định chúng ta có đường đi, mà muốn nhập Tứ Thiền chúng ta cũng có biết cách tu nữa.
Còn hầu hết là một cái số người mà nói về thiền định này, thì hầu hết là họ triển khai không được cho nên họ không biết cách thức nào mà nhập Tứ Thiền, nhập Tam Thiền sao, họ chỉ nói những cái danh từ suông suông, thì họ chẳng biết cái gì hết. Tức là họ không có nắm được cái chỗ hành của các pháp này.
Diệt Thọ Tưởng Định cũng vậy, họ cũng chẳng biết cách hành cho nên họ không có làm sao được.
“Trong khi tu tập Định Niệm Hơi Thở vô, hơi thở ra như vậy, này các thầy Tỳ Kheo, trong khi làm cho sung mãn như vậy, vị ấy cảm giác lạc thọ. Vị ấy biết rõ thọ ấy là vô thường, vị ấy biết rõ, không có chấp trước thọ ấy, vị ấy biết rõ không có hoan duyệt thọ ấy.
Nếu vị ấy cảm giác khổ thọ, vị ấy biết rõ thọ là vô thường, vị ấy biết rõ, không có chấp trước thọ ấy, vị ấy biết rõ, không có hoan duyệt thọ ấy.
Nếu vị ấy cảm giác bất khổ bất lạc thọ, vị ấy biết rõ thọ ấy là vô thường, vị ấy biết rõ, không có chấp trước thọ ấy, vị ấy biết rõ, không có hoan duyệt thọ ấy.”
Đó là cái câu Đức Phật nói. Khi mà chúng ta dùng cái Định Niệm Hơi Thở mà tu, để mà câu hữu, tức là kết hợp với các pháp khác, như bây giờ Định Niệm Hơi Thở kết hợp với Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ, hay Định Niệm Hơi Thở kết hợp với Diệt Thọ Tưởng Định, thì chúng ta sẽ đạt được những cái đó.
(46:20) Mà đạt được những cái đó thì lúc bây giờ chúng ta sẽ không còn chấp những cái thọ, không còn chấp những cái mà làm cho chúng ta phải khổ sở với nó nữa. Cho nên đối với cái thọ, đối với chúng ta, chúng ta biết nó rõ là vô thường, biết nó rõ là các pháp không có đem đến cho chúng ta những cái hoan lạc, những cái sung sướng.
Cho nên vì vậy mà thọ lạc làm chúng ta thích thú đó, cho nên các vị ấy không có còn thích thú ở trong cái thọ lạc, mà cũng không sợ hãi trước cái thọ khổ. Cho nên trước cái cảm giác bất thọ khổ, bất thọ lạc thì vị ấy cũng biết nó là vô thường.
(46:43) Đây là, hồi nãy Thầy nói cái (bất) thọ lạc bất thọ khổ, hồi nãy Thầy nói vô thường, thì câu này Thầy xác định Đức Phật đã dạy ở trong kinh này, ở trong cái bộ Tương Ưng, thì các thầy cũng thấy rõ.
Đây, “nếu vị ấy cảm giác bất khổ bất lạc thọ” tức là cái trạng thái không khổ không lạc đó, tức là trạng thái không buồn không vui đó, “vị ấy biết rõ thọ ấy là vô thường”, cái thọ ấy nó vô thường.
Thầy nói rồi các thầy không tin chớ trong kinh Phật nói, không lẽ các thầy không tin Phật? Đó. Đức Phật mới nói cái thọ ấy, thọ ấy là cái thọ bất lạc bất thọ khổ này nè, nó là vô thường, mà nó vô thường tức là nó đâu có phải là một cái chơn pháp đâu? Đó là một cái Phật giả, không thật.
“Cho nên vị ấy biết rõ không chấp trước thọ ấy”. Biết rõ nó là vô thường cho nên không chấp trước chứ gì, cho nên vị ấy biết rõ nó thì không có vui mừng với nó.
Còn mình mới nghe cái thọ bất lạc bất thọ khổ chẳng vui chẳng buồn, thì tưởng nó là Phật Tánh của mình rồi cho nên mình vui quá, “đây là Phật rồi!” Cho nên vì vậy đó là cái sự mình hoan duyệt với nó rồi, còn bây giờ ở đây chỗ này Phật nói không có hoan duyệt với nó mà.
Thầy xin đọc lại để nhắc cho quý Thầy thấy, bởi vì ở đây là cái sự lầm lạc rất lớn của mọi con người đang đi theo con đường Thiền Tông, tưởng nó là một cái giải thoát của mình, mà đây là bài kinh của Phật xác định rất rõ để chúng ta biết:
“Nếu vị ấy cảm giác bất khổ bất lạc thọ, vị ấy biết rõ thọ ấy là vô thường.” Phải biết nó là vô thường rõ ràng mà. Cho nên thọ khổ cũng vô thường mà thọ lạc cũng vô thường, chớ cái thọ này nó đâu phải là không vô thường?
Bởi vì “lạc thọ, vị ấy biết rõ, không có chấp trước thọ ấy”, nghĩa là biết rõ nó vô thường cho nên không chấp trước nó nữa rồi, vị ấy biết rõ cho nên không có vui mừng với nó rồi.
Còn cái này mình chấp nó là Phật Tánh cho nên mình phải vui mừng, mình tưởng là mình là Phật rồi. Cho nên đó là cái vui mừng tầm bậy của chúng ta
“Nếu vị ấy cảm giác thọ lạc, thọ ấy được cảm…”
HẾT BĂNG
PHÁP HÀNH 27 - ĐỨC PHẬT CHỈ CHẤP NHẬN NGHỀ ĂN XIN
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Thời gian: 1998
(0:00) “Vị ấy rõ biết, tôi cảm giác một cảm giác thọ tận cùng của sức chịu đựng của thân.
Khi vị ấy cảm giác một cảm giác thọ tận cùng của sức chịu đựng của sinh mệnh, vị ấy biết rõ tôi cảm giác một cảm giác thọ tận cùng sức chịu đựng của sinh mệnh.
Khi thân hoại mạng chung, vị ấy biết rõ ở đây tất cả mọi cảm thọ đều không có gì được hân hoan và sẽ trở thành mát lạnh.”
Đó là cái câu nói như vậy. Khi mà chúng ta tu được như vậy, mà chúng ta đã quán thấy được cái vô thường của các thọ này, chúng ta không có vui mừng, không sợ hãi trước nó, cho nên đau đến đỗi, cái mức độ đau mà cái cảm giác thọ tận cùng sức chịu đựng của mình.
Còn cái thọ lạc thì chúng ta có gì mà phải chịu đựng tận cùng của thân đâu. Đây là cái cảm thọ, mà cảm thọ khổ, cho nên cái sức chịu đựng tận cùng của thân. Mà khi mà chúng ta đã biết nó là vô thường rồi, thì chúng ta không có chấp trước nó, cho nên nó đau mặc nó, nó đâu có gì đâu.
Đó là cái chỗ, cái con đường mà đi qua từ Không Vô Biên Xứ này, thì chúng ta không thoát khỏi cái cảnh đau khổ này, các thầy hiểu.
Nhưng mà chúng ta đi qua cái chỗ con đường Tứ Thiền, bốn cái thiền, từ Tam Thiền, từ cái Nhị Thiền mà đi qua cái chỗ Tam Thiền, Tứ Thiền đó, thì Đức Phật không có dạy cái bài chịu đựng cái sự khổ đau này bằng một cách như vậy.
Nhưng mà ở đây, khi mà chúng ta đi qua cái ngả này, thì bây giờ chúng ta phải quán xét được cái thọ, lấy cái thọ mà đặt ở trên cái Tứ Niệm Xứ Thọ của chúng ta đó, mà chúng ta quán xét nó.
Để rồi chúng ta, do chúng ta thấu suốt được cái lý vô thường của nó, mà khi chúng ta đã nhập được các định này, từ cái định Không Vô Biên Xứ, cho đến cái định Diệt Thọ Tưởng Định, thì lúc bây giờ chúng ta mới quán xét nó, quán xét nó để rồi chúng ta có một cái sức chịu đựng tận cùng của cái thân của chúng ta, cái sự sinh mạng chịu tận cùng, cái sự đau khổ của cái thọ đó (với) chúng ta.
(01:50) Cho nên tất cả mọi cảm thọ đó, nó không còn làm cho chúng ta vui mừng mà nó cũng không làm cho chúng ta sợ hãi nữa, vì vậy mà nó trở thành mát lạnh, các thầy thấy chưa?
Đó, cho tới khi mà thân hoại mạng chung thì lúc bấy giờ, chúng ta sẽ thấy được cái cảm giác đó nó hoàn toàn, nó không có lôi cuốn chúng ta được chỗ nào hết, cho nên nó trở thành mát lạnh.
Vì vậy cho nên một cái người mà nhập Diệt Thọ Tưởng Định đó, thì lúc bây giờ họ nhập vào cái định đó thì không có một cái thọ nào mà tác động được họ, nhưng mà khi mà họ còn sống bình thường mà không nhập Diệt Thọ Tưởng Định, thì họ phải thấy được cái thọ là vô thường để rồi họ không dính mắc.
Ba cái thọ này họ hoàn toàn họ không bị dính mắc cái thọ nào hết, thì lúc bây giờ họ mới có một cái sự chịu đựng của cái thân đau khổ đến tận cùng. Khi mà thân hoại mạng chung, họ thấy nó trở thành mát lạnh, nó không còn đau nhức họ nữa. Chớ còn không khéo thì chúng ta cắn răng mà chịu đựng đau, rồi chết một cách rất là đau khổ.
“Ví như, này các thầy Tỳ Kheo, do duyên dầu, duyên tim, một cây đèn dầu được cháy sáng. Nếu dầu và tim của ngọn đèn ấy đi đến tiêu diệt, nhiên liệu không được mang đến thì ngọn đèn sẽ tắt.
Cũng vậy này các thầy Tỳ-kheo, khi Tỳ-kheo cảm giác, một cảm giác thọ tận cùng sức chịu đựng của thân, vị ấy biết rõ tôi cảm giác một cảm giác thọ tận cùng sức chịu đựng của thân.
Khi vị Tỳ-kheo cảm giác một cảm giác thọ tận cùng sức chịu đựng của sinh mệnh, vị ấy biết rõ tôi cảm giác một cảm giác tận cùng sức chịu đựng của sinh mệnh.
Khi thân hoại mạng chung, vị ấy biết rõ ở đây tất cả những gì được cảm thọ đều không có gì được hân hoan, sợ hãi và sẽ trở thành mát lạnh”
(03:34) Đó thì, cái bài kinh dạy chúng ta biết, khi mà chúng ta tu cái ngả này thì chúng ta phải thấu suốt được cái lý thọ vô thường để chúng ta chịu đựng được những cái cảm thọ mà không đau khổ nữa.
Còn ở bên kia, thì bây giờ cái thân của chúng ta nếu mà nhập Tứ Thiền rồi, cái thân chúng ta đau nhức chỗ nào chúng ta ra lệnh là đuổi đi sạch. Bởi vì làm chủ nhân quả làm chủ sanh tử mà, cái mục đích chúng ta làm chủ được cái bệnh cái chết mà. Cho nên chúng ta ở chỗ đó mà chúng ta ra lệnh là cái bệnh khổ chúng ta không còn có nữa.
Còn nếu mà chúng ta đi cái ngõ này, thì chúng ta chịu đau, nhưng mà chúng ta đã hiểu biết, thấm được cái lý vô thường của các thọ, cho nên nó cũng làm cho chúng ta đau khổ nhưng mà nó không làm cho tâm chúng ta dao động, cho nên chúng ta thấy nó mát lạnh, không có gì hết.
(04:17) Đến đây là cái bài Định Niệm Hơi Thở, là coi như chúng ta đã xong. Vì cái con đường của Định Niệm Hơi Thở ở đây, nó sẽ chia chúng ta làm hai ngõ mà để chúng ta thấy: một cái ngõ nó đi vào cái thiền định như các vị Thiền Đông Độ đã tu, đó là cái ngõ đi vào các định tưởng, còn một cái ngõ đi vào các định, cũng từ cái Định Niệm Hơi Thở mà nó chia ra làm hai ngõ để chúng ta thấy rõ.
Còn cái ngõ Thiền Đông Độ thì nó không nương vào cái Định Niệm Hơi Thở, mà nó chỉ nhập vào, may mắn thì nó rơi vào, mà không may mắn thì coi như là nó vô ký, nó ngoan không. Và suốt cuộc đời nó thì nó chẳng đi tới đâu hết, nó chỉ diệt Tầm Tứ được mà thôi, chứ còn không có tới đâu được nữa hết.
Nó cũng không làm chủ được cái gì hết, nó chỉ ngỡ tưởng đó là cái Phật Tánh, rồi chỉ có đem ra một cái tưởng là Thức Vô Biên Xứ, tức là ý thức của chúng ta, cái tâm của chúng ta nó phủ trùm vạn hữu, có như vậy rồi tưởng tượng ra mà thôi.
Cho nên ở đây chúng ta thấy hai cái ngõ để mà chúng ta đi vào cái con đường thiền định của Phật rất rõ. Từ Nhị Thiền đi qua Tam Thiền thì nó là một ngõ rồi, một ngõ nó đi vào cái Định Hữu Sắc, còn một ngõ từ Nhị Thiền chúng ta đi qua bốn cái Định Vô Sắc cho đến Diệt Thọ Tưởng Định, đó là nó thuộc về định tưởng thuộc về định tâm của chúng ta. Cho nên hai cái ngõ này rất rõ ràng.
Còn cái ngõ kia đi vào cái làm chủ được sanh lão bệnh tử. Bởi vì sanh lão bệnh tử nó nằm ở trên Hữu Sắc của chúng ta, nằm trên Tứ Niệm Xứ của chúng ta,
Cho nên có thân, thì nó phải có cái cuộc sống. Thì cuộc sống nó phải có những người này, người kia, có thương có ghét, có giận có hờn, có bàn có ghế, có tủ, có nhà, có quần áo, có ăn uống, cho nên những cái này nó làm cho chúng ta khổ gọi là Sanh.
(05:52) Mà chúng ta làm chủ được cái này tức là chúng ta ly dục, ly ác pháp. Cho nên từ cái đường này mà chúng ta đi vào thì chúng ta làm chủ được cái bệnh, cái già, từ cái bệnh rồi cái chết của chúng ta. Cho nên bốn cái sự đau khổ kiếp người chúng ta đã giải quyết ở trong con đường này.
Cho nên bây giờ chúng ta không có đi qua cái đường nhập các cái loại định tưởng này, chúng ta chẳng cần nhập nó thì chúng ta cũng làm chủ như thường. Đó, chúng ta cũng chẳng làm sao hết.
Nhưng khi mà chúng ta ở cái trạng thái nhập được Tứ Thiền rồi, mà bắt đầu bây giờ chúng ta không cần phải đi qua cái Không Vô Biên Xứ cho đến Thức Vô Biên Xứ, Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ rồi mới đến định Diệt Thọ Tưởng Định, chúng ta không cần phải đi qua chỗ này mà nhập cái Diệt Thọ Tưởng Định.
Chúng ta chỉ cần ra khỏi cái trạng thái của Tứ Thiền, ở vào hơi thở, dùng pháp hướng, ngay đó chúng ta sẽ diệt được ý hành, mà ý hành tức là Diệt Thọ Tưởng Định. Thân hành chúng ta còn diệt được huống hồ là ý hành chúng ta diệt không được sao?
Cho nên từ cái chỗ Tứ Thiền chúng ta ra cái lộ trình hơi thở, rồi từ hơi thở đó, bởi vì Định Niệm Hơi Thở là cái đường quan trọng mà, cho nên chúng ta nương vào cái Định Niệm Hơi Thở.
Thì bây giờ chúng ta muốn nhập Diệt Thọ Tưởng Định thì chúng ta ra lệnh rằng “Cái tưởng và cái thọ phải diệt, phải tịnh chỉ!”, chúng ta ra lệnh như vậy và chúng ta cứ thở ra thở vô, rồi chúng ta hướng tâm thở ra thở vô. Đến khi mà hoàn toàn là cái ý hành chúng ta diệt, với thọ nó ngưng hoàn toàn thì tức là chúng ta nhập Diệt Thọ Tưởng Định.
Chớ đâu cần chúng ta phải nhập Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ rồi mới nhập Diệt Thọ Tưởng Định đâu, nó đâu có như vậy.
Nói chung là bây giờ chúng ta nhập Tứ Thiền rồi, cái lực đạo chúng ta có, chúng ta muốn nhập Hư Không Vô Biên Xứ, chúng ta chỉ cần ra lệnh cái tâm chúng ta cũng sẽ vào đó liền tức khắc.
Nghĩa là chúng ta ở trong cái trạng thái Tứ Thiền, ở Nhị Thiền, là bây giờ chúng ta ra khỏi cái trạng thái Tứ Thiền, bây giờ chúng ta nương vào hơi thở, ở ngay cái trạng thái của Nhị Thiền, thì ngay đó là chúng ta ra hơi thở, tức là chúng ta ra cái đường hơi thở, vì vậy mà chúng ta không còn ở trong Tứ Thiền nữa.
(07:39) Thì lúc bây giờ, đương nhiên là ở trên đường hơi thở chớ không phải là ở trong Nhị Thiền.
Nhưng mà cái chỗ mà chúng ta nhập Tứ Thiền thì Tầm Tứ chúng ta không có, mà Nhị Thiền thì Tầm Tứ cũng không có, mà Tam Thiền Tầm Tứ không có, cho nên chúng ta ra hơi thở là Tầm Tứ chúng ta cũng không có đâu.
Vì vậy mà chúng ta chỉ cần ra lệnh hướng tâm thì nhập hư Không Vô Biên Xứ cũng vẫn dễ dàng, mà nhập Thức Vô Biên Xứ cũng dễ dàng, mà nhập Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ cũng dễ dàng, không còn khó.
Còn ở chỗ Nhị Thiền mà đi ra nhập cái Không Vô Biên Xứ, Thức Vô Biên Xứ đều là rất khó, phải hướng tâm rất nhiều.
Đó là cách thức của chúng ta, nếu mà nhập Tứ Thiền xong thì cái đạo lực của chúng ta rất mạnh, hướng tâm chúng ta nhập vào cái định nào, cái Định Vô Sắc nào nó cũng vẫn theo chúng ta.
Cho nên từ đó chúng ta ở cái chỗ trạng thái của Tứ Thiền mà đi ra, để mà nhập cái Diệt Tưởng Định thì rất dễ, chỉ cần hướng tâm, cũng như là chúng ta hướng tâm Tam Minh hay là Tứ Như Ý Túc mà thôi.
(8:24) Đó thì hôm nay cái bài Định Niệm Hơi Thở, để thấy rằng cái trợ pháp này nó giúp cho chúng ta tu tập ở trên Tứ Niệm Xứ, ở trong một cái giai đoạn, chứ không phải như cái Định Vô Lậu mà trong bài kinh Tứ Niệm Xứ đã dạy trước mà Thầy đã dạy các thầy.
Là trong cái bài kinh mà dạy ở trên thân quán thân tu về Tứ Niệm Xứ đó, thì nó mới dạy đó là giai đoạn thứ nhứt của Tứ Niệm Xứ mà thôi. Nghĩa là nó dạy cho chúng ta khắc phục tham ưu ở trong cái chỗ ly dục, ly ác pháp, nhưng mà không phải có một cái chỗ mà quán thân hay quán thọ.
Ở trên pháp mà tu về nhân tướng đó để mà tu cái Định Vô Lậu như vậy là (chưa) diệt được đâu.
(09:00) Trước khi tu cái Định Vô Lậu này thì các thầy phải tu, phải giữ gìn giới luật, phải sống thiểu dục tri túc, phải phòng hộ sáu căn bằng giới bổn, tất cả những cái này quý thầy phải khép chặt mình ở trong cái khuôn khổ của giới luật hết.
Do đó các thầy còn phải tu tập Tứ Chánh Cần, do tu tập Tứ Chánh Cần rồi thì các thầy mới tiếp tục, mấy thầy mới tu Tứ Niệm Xứ, mới có đạt được kết quả. Chớ còn ngay vào mà quý thầy tu Tứ Niệm Xứ kể như là các thầy không đạt kết quả.
Nghĩa là con đường tu nó phải có pháp nào tu trước, pháp nào tu sau, như vậy là quý thầy cũng như là các con cũng đã hiểu rõ, rất là rõ ràng. Nghĩa là muốn tu theo đạo Phật thì cái pháp nào tu trước.
Giới luật là pháp chúng ta phải sống, phải lấy nó phòng hộ, phải sống đời sống thiểu dục tri túc, không phải đồ đạc chúng ta nhiều, dẹp bỏ hết, ba y một bát mà thôi.
Đó là một cái đời sống tìm cái sự giải thoát chớ không phải cái đời sống tìm dục lạc của thế gian. Nếu tìm dục lạc thế gian thì chúng ta có đủ đồ, có đủ cái vật chất như thế gian thì cái chuyện đó tu không bao giờ thành tựu, không bao giờ giải thoát.
Cho nên phải sống thiểu dục tri túc, phải sống đúng cái đời sống, phải sống độc cư không có nói chuyện, sống trầm lặng một mình.
Do vì vậy mà chúng ta thực hiện Tứ Chánh Cần. Tứ Chánh Cần là bốn pháp mà thầy đã nhắc nhở là rất cần thiết hàng ngày, hàng giờ, hàng phút để mà chúng ta tu. Như vậy nó mới ngăn ngừa, nó mới đoạn dứt các pháp ác, nó mới ly dục, ly ác pháp được chớ?
Còn nếu mà chúng ta không Tứ Chánh Cần, làm sao mà chúng ta đoạn dứt được ác pháp? Mà không đoạn dứt, không ly được ác pháp thì làm sao mà chúng ta ly dục, ly ác pháp mà nhập Sơ Thiền được?
Đó, thì nó rõ ràng cách thức các pháp nó đã đầy đủ, Thầy kê như vậy là không bao giờ mà các thầy đi sai con đường của đạo Phật chút nào hết. Từ lâu tới giờ các thầy cứ lo hít thở đếm sổ tức, tùy tức hay hoặc tu định. Định gì? Khi mà cái đời sống của quý thầy chẳng ra gì thì cái định gì, nó là định ma, định tà chớ đâu phải là Chánh Định?
(10:44) Mà muốn tu đúng để mà nhắm vào cái mục đích như là Chánh Đức đã hỏi: cái mục đích của đạo Phật, chủ đích của nó là cái gì? Là nhắm vào bốn cái sự đau khổ của con người để mà giải thoát bốn cái sự khổ đó, cho nên làm chủ sinh tử, chấm dứt luân hồi là cái mục đích của đạo Phật.
Chớ đâu phải là mục đích của đạo Phật đi tìm Cõi Cực Lạc mà để về đó hưởng lạc. Hễ hưởng lạc thì thôi bây giờ chúng ta cố gắng mà làm ra tiền mà hưởng, thiếu gì thực phẩm ăn, thiếu gì sữa bơ mà không hưởng, để đi lên Cực Lạc biết nó có ở trển không? Nhiều khi chúng ta tưởng tượng chứ lên trển đá cọc sỏi cục không, ăn làm sao được. Cho nên ở đây bây giờ sữa bơ thiếu gì, thôi đi tìm dục lạc ở đó đi, còn đi tìm chi trên Cõi Cực Lạc mà làm gì!
Cho nên ở đây phải nói cái gì thực tế là thực tế, mục đích chính của đạo Phật mà chúng ta nhắm đúng, thì chúng ta sẽ tu ngay đúng cái pháp, thì chúng ta sẽ giải quyết được cái sự giải thoát của chính chúng ta. Còn nếu mà chúng ta tu sai, thì tức là chúng ta sẽ không giải quyết được cái sự tu hành của chính mình.
Cho nên ở đây thì các thầy và các con phải biết rằng cái chủ đích của chúng ta phải nhắm vào cái chỗ nào. Cho nên ở đây các con thấy, như Chánh Đức đã nhắc lại, cái Tu viện của Thầy, Thầy đặt là Tu viện chớ không bao giờ đặt Thiền viện.
Bởi vì tu vốn là làm sao gọt rửa cho sạch những cái ô nhiễm, cái dơ bẩn ở trong tâm của chúng ta, để mà chúng ta quét sạch những cái tham ô của chúng ta, những cái bất tịnh ở trong tâm của chúng ta, trong thân của chúng ta. Cho nên vì vậy mà cái Tu viện là cái nơi tu tập để mà nạo sạch, còn Thiền viện để mà nhập thiền định.
Mà ở đây cái thiền định của Phật, nó đã mười sáu cái loại thiền định chớ đâu phải một loại thiền định. (12:24) Như cô Út hỏi vậy, cái thiền định mà bất động tâm như thế nào, thiền định bất động thân như thế nào? Rồi đây thầy sẽ giảng cho các con thấy những cái thiền định đó nó sẽ hỗ trợ trên bước đường tu tập như thế nào.
Sao có người ngồi thiền cái tâm (thân) lúc lắc lúc lắc hoài vậy là thiền định gì? Thiền định sao lại thân động? Mà có người ngồi thiền lại là tâm hướng ra cái này, hướng ra cái kia, hướng ra cái nọ, nhớ cái này, nhớ kia, thì tâm đó là tâm động chớ làm sao mà gọi là thiền định?
Cho nên tất cả những cái này thì chúng ta phải học hiểu hết. Đạo Phật nó có mười sáu cái loại định chớ không phải là một cái thứ thiền định.
Cho nên cái định nào tu ở chỗ nào, định nào tu trước, định nào tu sau, cách thức đó được Đức Phật đã sắp xếp ở trong kinh rất rõ ràng. Nhưng mà vì người sau, người ta không biết cách người ta kết tập kinh sách, người ta làm lộn xị xà ngầu ở trong này nè, bây giờ đọc ở đâu chúng ta cũng không biết hết.
Bây giờ Thầy đọc ra thì các thầy sẽ thấy rõ, Thầy giải thích ra mới thấy rõ cái đường đi, nó có từng cái thiền định, nó từng cái giai đoạn, mình phải tu cái gì trước cái gì sau rất rõ ràng, mình mới đạt được. Khi không mà vào ngồi mà ức chế tâm, bảo hết vọng tưởng để rồi nhập định, thì nhập định gì đó? Cho nên đó là những cái sai, nó không đúng cách.
(13:30) Bây giờ thì chúng ta đã học hết cái bài Định Niệm Hơi Thở, thì kế tới chắc chắn là thầy sẽ dạy cái Tứ Thánh Định. Bây giờ coi như là cái Tứ Niệm Xứ là hết cái hơi thở rồi, thì đương nhiên là chúng ta đã học xong cái Tứ Niệm Xứ, các hành ở trên Tứ Niệm Xứ, thì các thầy triển khai ra thêm.
Còn nếu không, thì Thầy sau khi mà Thầy viết ra cái tập Đường Về Xứ Phật tập ba, tập bốn thì Thầy nói về cái pháp Tứ Niệm Xứ, thì Thầy triển khai ra chi tiết hơn, còn bây giờ nói thì nó mất nhiều thì giờ.
Thầy chỉ mong sao trong nửa tháng, một tháng là Thầy sẽ giảng xong hết các pháp hành. Cho nên cứ một ngày nghỉ thì một ngày Thầy sẽ giảng cho các thầy, để cho chúng ta thu ngắn cái thời gian hiểu biết các cái pháp tu tập của Phật.
(14:20) Bây giờ thì chúng ta sẽ, ngày mốt chúng ta sẽ học Tứ Thánh Định, bắt đầu chúng ta học vào Sơ Thiền trước rồi mới học vào Nhị Thiền rồi học vào Tam Thiền, Tứ Thiền.
Và cái bốn thiền này nó sẽ đặt đâu ở trên Tứ Niệm Xứ, thì chừng đó Thầy sẽ chỉ dạy cho các thầy, các con sẽ biết cách thức mà đặt bốn thiền này ở trên Tứ Niệm Xứ mà tu tập. Bởi vì ngoài Tứ Niệm Xứ thì không có thiền pháp nào mà đặt ở trên, ở ngoài cái chỗ đó mà tu hết.
Cho nên hầu hết là các thầy cũng như là các con cũng nghĩ tưởng rằng mình tu để mà giải thoát, mà không ngờ mình lại phải tu ngay chỗ cái đối tượng của thân, thọ, tâm, pháp của mình.
Thì nơi đó là nơi mình làm cho nó sạch sẽ, nơi đó mình làm cho nó được nhập định, nơi đó mình làm cho nó được đủ cái quyền lực, đủ cái đạo lực để cho mình thực hiện cái sự làm chủ sanh tử luân hồi của chính mình, chớ không phải là chỗ nào khác hơn hết.
Không phải đặt những cái chỗ xa vời, không có đặt cái chỗ mà vô hình vô tướng được, mà đặt ngay cái chỗ thực tế cụ thể.
Đó là cái điều kiện, mà hôm nay các thầy được dự cái pháp hành của Phật đã dạy từ cách đây hai ngàn năm trăm bốn mươi mấy năm nay, mà hôm nay Thầy triển khai lại để cho nó có thấy cái đường đi rất là thực tế và cụ thể.
Chớ không như các nhà học giả nói một cách ú ớ, một cách loanh quanh làm cho người ta tu tập chẳng đến đâu hết, rồi lạc ở bên các định tưởng cũng chẳng biết, lạc bên cái nào cũng không biết.
Đến những cái thiền mà có giá trị thì lại hạ nó xuống, vì mình không biết thì nói không biết, không dám nói mình không biết, cho nên chỉ hạ nó xuống là Thiền Phàm Phu, Thiền Tiểu Thừa, Thiền Ngoại Đạo, thì tất cả những cái này là cái lỗi lầm của các vị đó, các vị đó phải chịu gánh một trách nhiệm. Và một trách nhiệm đó để lại cho đời sau chúng ta biết bao nhiêu sự đau khổ, biết bao nhiêu người ham tu mà rốt cuộc rồi chẳng tới đâu hết.
(15:58) Như bây giờ, vì cái sự không tin tưởng ở Thầy, vì cái hoàn cảnh không thuận tiện cho các con mà các con còn phải nấu bếp, còn phải lo củi lo đuốc, cho nên các con khó mà đi sâu vào con đường thiền định của đạo Phật.
Vì ngày xưa Đức Phật biết rất rõ, cho nên chấp nhận cái nghề hèn mọn nhất là cái nghề đi xin. Một ngày mình có xin, người ta có cho ăn no thì mình ăn no, mà người ta có dở, cho dở ăn dở, mà có không cho thì mình cũng đành chịu thôi, chớ không bao giờ than phiền. Bởi vì khi Đức Phật hồi còn tại thế, Đức Phật cũng vẫn bị người ta mạ nhục trên cái vấn đề đi xin chớ đâu phải không.
La Hầu La là đứa con của Đức Phật mà khi đi xin còn bị chúng quăng sỏi đá, còn sủa chó cắn, thì chúng ta nghĩ trong cái thời chúng ta, thì chúng ta thấy cái ngã, bản ngã mình quá lớn cho nên mình không dám đi xin mà thôi. Chứ sự thật nếu mà cái hoàn cảnh xã hội cho phép thì chúng ta vẫn vui vẻ đi xin.
Để làm gì? Để chúng ta không có nấu cơm, để chúng ta không chặt củi, để chúng ta ở trong một khu rừng nào đó, mà chúng ta không lao động một cái gì hết, mục đích của Thầy là vậy.
Nhưng sự thật ra, bây giờ chúng ta làm sao được chuyện này? Chúng ta phải làm, nhưng chúng ta làm, nhưng chúng ta có pháp tu chớ không phải không có pháp tu, giai đoạn nào thì chúng ta tu theo giai đoạn nấy.
Ngày xưa Đức Phật đi khất thực có nghĩa là đâu phải không đi, phải đi. Đi tức là phải có hành động, mà phải có hành động tức là phải có sự tu ở trong đó, tu trong hành động. Cho nên nhiều khi các con nghe Thầy nói rồi các con nghĩ mình tu ở trong mọi hành động của mình, mình thấy nó khó. Thật sự khó hơn, khó lắm, không phải dễ.
Chúng ta tập trung chúng ta đi kinh hành hoặc là chúng ta đi tới đi lui, thì nó dễ dàng hơn khi mà chúng ta làm việc có trách nhiệm. Các con thấy tự nhiên các con phải có cái trách nhiệm ở trong cái việc làm.
Thí dụ bây giờ các con chặt cây củi thì phải chặt hết cây củi chứ không lẽ chặt nửa cây củi sao, phải không? Các con phải chặt hết, có trách nhiệm trong đó.
Bây giờ nấu nồi cơm, các con có trách nhiệm là phải nấu chín chứ không lẽ nấu sống sao? Hay hoặc là nấu khét sao? Nhưng mà cái hoàn cảnh đâu có cho phép mình được, nếu mà mình không nấu, ai nấu cho mình ăn đâu?
Ngày xưa Đức Phật cũng làm vậy, còn chúng ta bây giờ làm không được, là vì chúng ta không thể nào được.
(17:59) Cho nên có nhiều người nghĩ rằng tôi vào trong thất tôi ngồi tu, có người đem cơm nước đến, cái đó là sai, càng còn sai nữa, ngồi trong thất mà tu kiểu này thì lại sai nữa.
Tại sao vậy, tại vì mình hiểu như vậy sai, Đức Phật ngày xưa còn phải đi xin ăn, còn mình ngồi trong thất có người hầu hạ, coi chừng mình xem mình là Phật, cho nên có người đem cơm cho mình ăn, thì lại mình còn sai nữa.
Cho nên ngày xưa Đức Phật đi xin ăn thì người ta vẫn mắng Phật mà, người ta vẫn chửi Phật mà, mà chính ông Phật đâu có nhờ một vị Tỳ Kheo nào đi xin cho ông Phật ăn đâu, chính ông Phật cũng phải mang bát đi từng nhà để mà xin cơm ăn.
Đó thì các con thấy, lẽ ra ông Phật thì các vị Tỳ Kheo khác xin về, xin nhiều hơn một chút đem về sớt cho Phật, Phật khỏi đi chớ gì?
Mình là đấng giáo chủ, còn tất cả các chúng thì họ đều xin cho Phật, thì cái đó là đương nhiên rồi, một người một nắm cơm, mà bây giờ một ngàn hai trăm năm chục vị Tỳ Kheo, mà một ngàn hai trăm năm chục nắm cơm như vậy Đức Phật ăn sao hết? Một người chỉ chia cho Đức Phật một cọng rau lang nhỏ vậy thôi thì mười Đức Phật ăn cũng không hết nữa, thì có gì mà Đức Phật phải đi xin?
Nhưng mà Đức Phật đi xin để thực hiện được cái gì? Đó, thực hiện được cái tâm giải thoát của mình, mà thực hiện được cái sự hành động, hành động đi xin của mình, tức là trong việc làm của mình, mình không làm thì không ăn, mà mình có đi xin thì mình mới có ăn, còn mình ngồi không thì mình đâu có ăn.
Nhưng như vậy thì các con thấy, trong khi cần thiết mà nhập những cái định thì hai người đi xin cho bốn người ăn.
Các con thấy trong cái thời Đức Phật, nó rất rõ, là trong năm cái vị Tỳ Kheo, mà năm anh em Kiều Trần Như là năm vị Tỳ Kheo là đệ tử của Phật đầu tiên đó, khi đó bấy giờ Đức Phật phải không, và trở về với năm vị đó là sáu người.
Đức Phật dạy cho năm vị đó đã thấu suốt được cái lý Diệu Đế, bấy giờ họ đã thấu suốt. nhưng mà cái thiền định thì họ chưa xong, cho nên vì vậy mà hai người đi xin cho bốn người ăn. Các con thấy, hai người đi xin cho bốn người ăn, vì vậy những cái người mà được những vị Tỳ Kheo kia xin về cho ăn để mà họ đang nỗ lực tu thiền định. Trong những lúc nhập định họ làm sao họ đi xin?
(19:54) Còn những lúc mà tu về cái Định Vô Lậu, Chánh Niệm Tỉnh Giác để cho mình, hay hoặc là Định Niệm Hơi Thở để cho mình ngăn chặn ác pháp và diệt cái ngã, xả tâm ly dục, ly ác pháp, thì mình tu ở trong cái hành động phải đi kinh hành, để người ta chửi mắng, người ta mắng mỏ mình.
Bữa nay chỗ này không chửi, chứ ngày mai đi chỗ khác họ chửi,. Hoặc mình đi sớm quá họ cũng chửi nữa, hoặc mình đi trễ quá họ cũng chửi nữa: “Tôi trông chờ, tôi trông chờ thầy, sư đi đến mà tôi sớt bát, mà tới giờ này thầy mới đến! Cho thầy mà thầy còn vậy đó!” thì người ta cũng mắng mình được à, người ta kiếm chuyện mình cũng dễ dàng lắm.
Cho nên mình là người tu, do đó lấy cái đối tượng đó mà tu, để mà xả tâm.
Còn mình ở đây, thật sự ra mình có những cái đối tượng, mình vừa làm mình vừa tu thì trong cái giai đoạn này rất tốt. Nhưng các con bị những cái đối tượng này quá nhiều làm cho tâm mấy con chao đảo. Rồi mấy con, có đứa thì ráng xả được, còn có đứa thì e ấp ở trong lòng, rồi sợ hãi, rồi cứ tùy thuận để mà sống cho qua ngày.
Cho nên cái sự e ấp, cái sự sợ hãi đó làm cho các con không giải thoát được. Mình không còn có sợ hãi gì, sự tu hành chẳng có gì hết, nhưng mà không sợ hãi, nhưng mà rất tùy thuận, rất nhẫn nhục để xả tâm mình.
Cái mục đích của mình có đối tượng để làm cho mình xả tâm, thì mình nỗ lực mình xả tâm. Đừng có thấy đó là ác pháp, mà thấy đó là thiện pháp giúp cho mình vượt qua những cái khổ.
Như ông Phú Lâu Na đã nói rất rõ mà, người ta chửi mắng mình là người ta còn thương mình mà, người ta chưa có ghét mình. Người ta lấy sỏi đá người ta mới ném mình, Đức Phật hỏi ông thì ông cũng nói còn thương ông mà, chưa có lấy gậy gộc đánh ông mà. Người ta lấy gậy gộc đánh ông còn thương ông mà, chưa có giết ông mà. Người ta lấy gươm đao người ta giết ông, thì ông còn nói người ta thương ông mà!
(21:22) Còn lúc này bây giờ người ta giúp cho mình những cái phiền não, những cái này kia để quét sạch ra, thì đó là cách thức người ta thương chứ người ta chưa có giết mình chết bao giờ đâu. Thế mà mình ôm hận, mình buồn rầu, mình phiền não, thì tức là mình nghĩ sai hết rồi, mình nghĩ sai.
Mà Thầy đã từng dạy phải biết nhìn nó là nhân quả, mà nhìn nó bằng ác với thiện mà thôi, để cứu mình chớ gì! Không chịu nghe để rồi cứ chịu đựng rồi phiền não.
Cho đến giờ này thì các con thấy, rõ ràng là Đức Phật dạy Tứ Chánh Cần là gì? Ngăn ác, diệt ác để tăng thiện, sống trong thiện pháp. Đó thì các con cũng thấy rằng, cái con đường tu là phải nhắm cho đúng cái chỗ tu, lấy cái thiện pháp làm cái nền tảng, tức là lấy cuộc sống giới luật mà làm nền tảng, để chúng ta đứng ở trên thiện mà chúng ta vượt tất cả ác, nhờ thiện mà vượt ác.
Rồi từ đó mà vượt ác được thì nhân quả chúng ta, hoàn toàn là chúng ta đâu có dính mắc ở trong thiện, cho nên chúng ta lại vượt qua khỏi cái thiện nữa. Chúng ta đâu phải tu để mà cầu phước báo, để mà giàu sang, để mà tiền bạc nhiều, để mà chùa to tháp lớn, để mà đầy đủ phước lộc.
Cho nên có nhiều người cứ nói: “Tôi nhờ tu mà bây giờ chùa tôi mới cất sang dữ vậy. Nhờ tu hành mà bây giờ tôi mới có tiền sống như thế này, thế khác, nhờ phước tu!”
Sự thật đó là một cái đọa địa ngục của họ mà không thấy, cái cửa địa ngục đang mở họ, trong khi họ sống dục lạc là cửa địa ngục đã mở, họ đã chạy theo dục lạc là cửa địa ngục đã mở. Nhưng mà người thế gian thì thấy đó là hạnh phúc, chớ còn cái người tu người ta thấy đó là cái địa ngục. Biết bao nhiêu sự đau khổ của con người ở trong cái sự giàu sang vui sướng kia mà.
Tổng thống kia mà họ còn đâu có sung sướng gì? Mặc dù cái danh của họ như vậy nhưng trong tâm họ rất lo lắng, không biết là quốc dân như thế nào, họ sẽ chống đối mình như thế nào bằng cách này, bằng cách khác.
Họ chỉ nghĩ đến mình là một cái người lớn, một người cai trị một đất nước là vinh hạnh, sự thật đâu có vinh hạnh gì đâu. Thầy thấy hoàn toàn là cái sự khổ đau của họ chứ đâu phải.
(23:05) Cho nên phải nghĩ cho tận cùng để biết con đường chúng ta tu hành nó phải tu như thế nào đúng và tu như thế nào sai. Mà chính cái chủ đích mà chúng ta đã nhắm, tức là chúng ta phải biết cái thiền nào, cái pháp nào để nhắm vào cái chủ đích, và tu cái pháp nào trước, tu pháp nào sau.
Và phải biết cái sức của chúng ta tu cái gì, làm được bao nhiêu. Nghĩa là bây giờ chúng ta không thể ngồi một giờ, mà chúng ta tu một giờ là sai. Bây giờ chúng ta biết cái sức của chúng ta tu, năm phút chưa được mà chúng ta tu năm phút là chúng ta sai.
Chúng ta phải biết được cái sức của mình, sức của mình tu một phút thì mình tu một phút, năm phút là tu năm phút, mà mười phút là tu mười phút, từ cái chỗ tu đó chúng ta tăng dần lên thì chúng ta sẽ đạt được kết quả. Còn bây giờ chúng ta tu ba mươi phút, một giờ, hai giờ, mà rốt cuộc rồi cái chất lượng chẳng có gì hết thì bây giờ tu mười năm, ngàn năm cũng chẳng đi tới đâu hết.
Đó là những cái điều mà Thầy nhắc đi nhắc lại rất nhiều, mà tại sao quý thầy không có lập cái chương trình, cái phương hướng, cái cách thức tu để cho nó phù hợp với mình.
Ngồi mà suy ngẫm lại cái cơ thể của mình, cái khả năng của mình nó phải tu bao nhiêu giờ trong một ngày một đêm, bao nhiêu phút trong một ngày một đêm? Rồi tu cái pháp đó nó phù hợp với mình không, nó có thấy được giải thoát không? Nếu không giải thoát thì mình phải chấp nhận cái pháp nào?
Chẳng hạn bây giờ giới luật mình chưa nghiêm túc, tâm mình còn bị ham ăn, thích ngủ thì mình phải giữ gìn như thế nào trong những cái này. (24:25) Thì tất cả những cái thiền định kia mình đâu có quan tâm đến nhiều đâu, mình cũng chỉ tu cầm chừng thôi, như Chánh Niệm Tỉnh Giác mình cũng tập, Định Niệm Hơi Thở mình cũng tập, nhưng mà cái mục đích chính là mình phải giữ gìn giới luật, đừng có ăn phi thời.
Thì bây giờ mình thấy mình ăn ngày một bữa chưa sẵn, tâm mình còn tham muốn ăn mà. Mặc dù mình ăn ở đây một bữa nhưng mà cái tâm mình còn thèm ăn, thì tức là mình phải tìm cách mình khắc phục cái tâm của mình. Đây là cái thân bị trói buộc không cho ăn nhiều bữa, nhưng trói vậy cái tâm nó vẫn buông lung, nó còn thấy ăn nó thích, do đó mình phải tu cái này chớ?
Tại sao mình nỗ lực mình tu cái Chánh Niệm Tỉnh Thức, mình tu cái Định Niệm Hơi Thở, mình tu cho nhiều mà cái chỗ mà đáng tu là mình không tu, mình không khắc phục được cái tâm tham ăn của mình? Mình không suy nghĩ đến cái chỗ đó, cho nên cái mình đang làm thì mình phải làm cho được.
Bây giờ cái tâm mình nó ham nói chuyện nè, nó thích làm cái chuyện này chuyện kia, nó sanh ra chuyện này chuyện kia, thì mình nghĩ rằng: đây là mình chạy theo cái tâm dục, mình phải xả nó!
Xả nó bằng cách nào? Phải dừng lại, làm ít lại, không được làm nhiều, làm không được say mê trong công việc làm. Đấy là lo tu để cứu cánh để giải thoát cho mình sớm ngày nào tốt ngày nấy.
Tại sao chúng tôi say mê trong việc làm, việc làm này nó có cứu chúng ta ra khỏi được sanh, lão, bệnh, tử không? Hay là nó dẫn chúng ta đi vào trong cái mê hồn trận? Mê làm để mà quên đi cái nỗi cô đơn, nỗi khổ, nỗi dằn vặt của bao nhiêu cái sự việc của thế gian!
Cho nên có nhiều người lấy rượu mà quên đi sầu, còn có nhiều người lấy việc làm để quên cô đơn, quên sầu, cái đó có hơn gì? Đều là nằm ở trong các pháp của thế gian, để mà tránh né mà thôi.
Chúng ta không! Chúng ta làm, bây giờ chúng ta làm, làm để tu, chứ không phải làm để mà có ra tiền ra bạc để sống.
Chúng ta xin ăn để mà giải thoát. Giải thoát để mà làm gương cho người khác người ta buông xả ra để mà người ta được giải thoát, để tâm hồn họ đừng có nghĩ rằng những người tu như vậy là họ ích kỷ. Họ không ích kỷ, họ xả hết để mà giải thoát, họ làm chủ được sanh tử.
Chớ không phải chúng tôi tu mà chúng tôi không làm chủ sanh tử, thì chúng tôi bỏ hết để mà có lợi ích gì cho chúng tôi mà lợi ích cho mọi người? Mà chính chúng tôi làm chủ sanh tử được, chúng tôi đòi quyền làm chủ sanh tử được, tức là chúng tôi làm gương cho các người, vì các người đang chạy ở trong cái vòng sanh tử, không làm chủ được nó, còn chúng tôi thoát ra khỏi cái vòng sanh tử.
Cho nên vì vậy các người hãy đi vào con đường chúng tôi, xả bỏ hết! Nhưng mà xả bỏ có lợi ích cho thế gian chứ không phải xả bỏ một cách là tiêu cực.
Đó là những cái điều mà chúng ta cần phải biết và cần phải học, cần phải suy nghĩ.
(26:43) Các con, các thầy nỗ lực mà tu đúng như lời Thầy dạy, có cái định hướng, có cái phương cách, có cái chiến thuật, chiến lược, cách thức tu hành hẳn hòi thì thời gian rất nhanh cho quý vị, thời gian sẽ thu ngắn lại để cho quý vị được giải thoát hoàn toàn, không còn khổ đau.
Còn nếu mà cứ kéo dài mãi, kéo dài mãi mà không biết cái ngày nào mình được giải thoát, thì nghe lời Phật dạy, nghe lời Thầy nói mà rốt cuộc rồi mình chẳng có tới đâu, uổng phí cuộc đời mình.
Cho nên chỉ cần phải nỗ lực, đã tu thì phải nỗ lực hết mình. Đừng để cho cái tâm của mình, cái thân của mình nó nửa nạc nửa mỡ, tức là nửa đời nửa đạo, mà đời là ra đời, đạo ra đạo.
Thật sự, tu là nỗ lực thật sự, một giờ mà tu qua, một phút mà tu qua phải đạt được một cái gì mà chúng ta phải muốn ở đó. Nghĩa là cái ước muốn của mình mà, trong cái bài kinh rõ ràng là Phật dạy ước muốn mà, các thầy, các con không nhớ, Phật dạy ước muốn cái điều đó.
Bây giờ mình ước muốn cái gì? Mình ước muốn làm sao làm chủ được cái sống chết này, mình ước muốn làm sao mà cái tâm mình không còn tham, sân, si nữa, thì cái sự ước muốn này mình phải thực hiện được.
Mà ước muốn thì phải nỗ lực, nỗ lực bằng cách nào? Nỗ lực cho đúng pháp! Mà nỗ lực sai pháp thì có được không? Không bao giờ được!
(28:00) Cho nên ở đây Thầy khuyên là quý thầy và các con hãy cố gắng, nếu không biết Phật pháp, mà đã biết Phật pháp thì ráng nỗ lực!
Và những cái tài liệu mà Thầy trả lời cho các con thì Thầy sẽ cho photo để mà gởi cho các con mỗi người. Và những cái tài liệu này còn rất nhiều. Chân Thành, cái tài liệu mà Chân Thành hỏi Thầy thì thầy chưa có photo ra được nữa, cho nên hôm nay thì Thầy sẽ cho photo ra rồi Thầy sẽ cho mỗi người một bản.
Về rồi đọc lại, nghiền ngẫm lại những cái gì mà Thầy đã dạy ở trong này. Những gì mà các con đã hỏi Thầy để rồi các con nương vào chỗ mà các con đã được ghi chép thành và được nghe lời giảng của Thầy.
Rồi từ đó về mà lập thành một cái chương trình tu tập của mình, lập thành một cái phương hướng vạch cho mình rõ một cái đường lối tu tập, cái gì trước cái gì sau. Rồi bắt đầu thực hiện là phải gói ghém mình trong những cái kỷ luật, khép mình ở trong những cái khuôn khổ hẳn hòi.
(28:58) Sau này cái cuốn giới luật của Phật đầu tiên ra đời, Thầy sẽ chỉ dạy cho các con cái giới đức và cái giới hạnh của bậc Thánh hiền ở chỗ nào, mà trong giới luật của Phật đều chỉ cho chúng ta để trở thành những bậc Thánh.
Như Thầy đã nói, chúng ta là những loài động vật, từ động vật chúng ta mới đi ra con người. Vậy thì con người chúng ta là động vật, mà chúng ta con người hơn động vật ở chỗ nào? Hơn ở chỗ là chúng ta biết xấu hổ, còn con vật không biết xấu hổ.
Còn những bậc Thánh thì vượt qua cái chỗ xấu hổ này, họ vượt qua, họ không còn làm những cái điều bất tịnh, một cái điều ô uế, một cái điều dơ bẩn, họ vượt ra khỏi những cái điều dơ bẩn này, cho nên họ là những bậc Thánh.
Thì chúng ta là những người mà muốn làm Thánh, chớ không phải làm phàm phu tục tử, không phải làm con vật.
Cho nên những con người mà từ một con người mà tâm ham dâm, thì cái người đó họ mang lớp người mà tâm là con thú. Còn một con thú mà thân mang cái lớp thú mà tâm không ham dâm, một con vật mà không ham dâm thì đó là một con người mà mang lớp thú. Còn một con người mà tâm vượt ra khỏi tâm dâm thì đó là cái đức Thánh, là bậc Thánh, người ta không còn dâm.
Nó rõ ràng nó phân biệt để chúng ta thấy được, từ con vật, mà con vật nào là Thánh, mà con vật nào là người, mà con vật nào là con vật, nó chỉ ngăn cách có một tí xíu mà thôi. Nhìn thấy thì chúng ta phân biệt được người nào là Thánh, người nào là người mà người nào là con vật.
Đó thì trong cái giới luật nó sẽ chỉ định từ cái hành động oai nghi của chúng ta để chứng tỏ là bậc Thánh phải có những cái oai nghi nào, cái tế hạnh nào. Còn phàm phu thì họ sống như thế nào, lời nói ngôn ngữ họ như thế nào, oai nghi tế hạnh của người phàm phu như thế nào, còn cái bậc Thánh nó không phải giống như người phàm phu.
Chúng ta học những cái giới luật của Phật thì chúng ta biết được những cái đức và cái hạnh của một cái người tu, của một bậc Thánh, chớ không phải là cái bậc phàm phu.
(31:02) Cho nên học giới luật mới thấy được những cái hành động của bậc Thánh, còn nếu mà chúng ta không học giới luật thì chúng ta thấy như là cái pháp luật trói buộc chúng ta để làm khổ chúng ta.
Chúng ta muốn làm Thánh thì chúng ta phải có những oai nghi, tế hạnh của bậc Thánh, không lẽ làm Thánh mà là một con người tầm thường, là một con người phàm phu? Cho nên hành động chúng ta sẽ khác xa, vì vậy mà từ cái học bộ giới luật rồi thì các thầy, các con cũng sẽ thấy mình nó có thăng tiến, dù là chưa phải là Thánh nhưng ít ra chúng ta cũng hơn con.
Đến đây Thầy xin chấm dứt vì hôm nay thì đi nhiều công việc, mà Thầy cũng ráng cố gắng không bỏ giờ hôm nay tu tập để làm cho mấy con không có mất giờ, và cái sự tu tập của chúng ta đến đây cũng tạm vừa phải cho cái thời gian.
(31:52) Nay Thầy sẽ tiếp tục cái bài học. Hôm nay Thầy dạy tới Tứ Thánh Định. Vì Tứ Niệm Xứ đã học xong nhưng điều kiện nó còn nhiều cái chưa hiểu cho nên do đó thì có thầy Chân Huệ có hỏi Thầy.
Nhưng trước khi giải thích những cái điều mà chưa hiểu này, bởi vì coi vậy chứ Tứ Thánh Định là một cái pháp môn tuyệt vời trong đạo Phật. Chính từ bốn nơi này mà cái người tu theo đạo Phật được thành tựu, giải thoát được sanh lão bệnh tử, cũng bốn cái nơi này, chớ không phải ngoài bốn cái nơi khác mà tu tập mà thành tựu.
Ví dụ như Tịnh Độ thì tu ở cái Cõi Cực Lạc để trông về Cõi Cực Lạc, thì nó không phải là ở trong Tứ Thánh Định này, giải thoát bốn cái chỗ này, để mà giải thoát, cho nên nó lại là xa lìa bốn cái chỗ này. Còn chúng ta thì ngay trên bốn chỗ này mà tu tập để làm cho nó thanh tịnh, để giải thoát được nó.
Cho nên bốn Thánh Định, tuy rằng những cái danh từ dùng rất là đơn giản ở trong đó, nhưng chúng ta lầm lạc là chúng ta sẽ tu sai. Cho nên mặc dù là kinh sách của Phật dạy rất nhiều, nói về cái Tứ Niệm Xứ này, hầu hết là có nhiều nhà học giả, giảng rất nhiều cái Tứ Niệm Xứ nhưng không lột trần được cái pháp hành, cái cách thức tu cho đúng cách, chỉ ở trên ngôn ngữ mà giảng.
Cho nên ở chỗ này thì Thiện Huệ (Chân Huệ) có hỏi Thầy một vài từ mà nó không hiểu, bởi vì coi vậy chớ nó khó hiểu, rất là khó hiểu, nếu không phải là một người mà có kinh nghiệm tu chứng thì không hiểu nổi Tứ Niệm Xứ.
Cho nên ở đây pháp Tứ Niệm Xứ thì rõ ràng là kinh sách đều là có nhan nhản, người giảng dạy thì cũng nhiều, nhưng mà giảng ở ngoài cái lớp da chứ không thể nào mà giảng ở trong, nhiều khi giảng sai mà không biết mình sai nữa.
(33:51) Nhưng trước khi để trả lời những cái câu hỏi của Chân Huệ, thì Thầy sẽ nhắc lại. Có một cái điều mà hầu như là Thầy rất là tha thiết, mong cho có cái ngày nào đó để được rảnh rang mà mình ghi lại cái đạo đức nhân quả, để hầu giúp cho con người ở trên cái thế gian này được thoát ra cái cảnh khổ của cái nội tâm của họ, và họ tạo được cái nhân lành để cái quả phước họ sẽ hưởng.
Nhưng vì không có cái thời gian, hiện giờ thấy những người mà tu theo đạo Phật nó có những cái sai, cái lầm lạc, mà không ngay cái chỗ sai lầm lạc này để sửa đổi, mà đi giảng cái đạo đức nhân quả thì nó lại xa lìa cái thực tế của những vị tu sĩ.
Cho nên Thầy chỉ mong ngày nào đó có một cái dịp mà Thầy sẽ soạn lại cái giáo trình, cái đạo đức nhân quả, cái đạo đức mà mình không làm khổ ai mà cũng không làm khổ mình, cái đạo đức thật là tuyệt vời mà của đạo Phật.
Phật đã khám phá ra được cái đạo đức đó, nhưng người ta không triển khai nổi cái đạo đức đó để giúp cho con người thoát ra cảnh khổ.
Nói chung con người sanh ra trong cái cuộc đời này thì chắc chắn ai cũng là người chịu khổ, không có ai là người không chịu khổ. Cho nên người ta nhiều khi người ta đặt cái câu hỏi: con người từ đâu sinh ra? Chết rồi đi về đâu? Sống để làm gì?
Ở trong cái thế gian này chỉ một trăm năm, rồi cứ mãi tiếp diễn từ cái thân trăm năm này hay hoặc là sáu bảy chục năm rồi lại chết, rồi lại tiếp tục nữa và cứ như vậy để làm gì, có ích lợi gì mà cứ mãi lăn lộn ở trong cái luân hồi như vậy?
Ở đây thì Thầy chỉ trả lời qua một cái, một người Phật tử có một cái tâm trạng đau buồn, nên khi hiểu được cái tâm trạng đó thì Thầy có lấy một vài khía cạnh nhỏ của cái đạo đức nhân quả mà có lời khuyên, cũng như Thầy khuyên chung các thầy và các con ở đây.
Đây là cái bài mà Thầy khuyên đây:
(36:12) “Con người từ nhân quả, sống trong nhân quả, chết về nhân quả.”
Nếu mà đọc cái câu vậy thì người ta rất là khó hiểu, nếu mà không có Thầy dạy, Thầy giảng ra thì rất là khó hiểu. “Con người từ nhân quả”, vậy thì chúng ta biết từ nhân quả sanh ra là như thế nào mà sanh ra?
Nhân quả thì chúng ta biết rằng, cái đường đi của nhân quả nó sẽ diễn biến ở trong cái thân hành, khẩu hành và ý hành. Cái thân hành và khẩu hành, ý hành. Cái ý hành là cái ý mình khởi mình muốn, ham muốn cái này, ham muốn cái kia, đó là là cái ý hành. Còn cái khẩu hành là cái lời nói mình nói ra, và cái thân hành là cái hành động làm của mình.
Đó là từ ba cái chỗ đó là cái con đường diễn biến, cái con đường hành động, cái con đường của nhân quả đi. Cho nên nói rằng con người từ nhân quả, thật sự chúng ta chết đi rồi không còn có gì hết, hoàn toàn do từ nhân quả sanh ra.
Nếu cha mẹ chúng ta không có một cái hành động vô minh trong cái tình ái thì hai người này làm sao mà kết duyên, rồi làm sao mà ở với nhau mới sanh chúng ta ra?
Do cái hành động vô minh đó, tưởng đó là cái hạnh phúc, không ngờ đó là một cái cái hành động vô minh cho nên họ mới, Vô Minh mới sanh Hành. Do cái sự vô minh không hiểu, tưởng là ái dục là một cái hạnh phúc, cho nên họ mới tìm đến nhau, để rồi gặp nhau họ mới có những cái hành động sai lạc đó để đem ra cái nỗi khổ của con người.
Từ đó mới là có cái hành động Vô Minh sanh Hành, do cái hành động sai đó nó mới có cái Thức, phải không? Do đó nó mới có cái thức, chớ không phải là cái thức, cái thần thức nó đã sẵn có ở đâu, nó chui vào đó để mà đầu thai.
Cho nên do cái hành động vô minh của cha mẹ mình mới có mình đây. Nếu cha mẹ mình mà sáng suốt thông minh, biết chỗ ái dục đó là khổ, họ chấm dứt ngay thì làm sao có chúng ta đây? Làm sao có nhân quả tiếp tục mà để có chúng ta? Thì từ đó con người sẽ tái sanh bằng cách nào? Bằng cách hoá sanh chứ không phải bằng cách ở trong nhân quả.
Đó thì hôm nay Thầy nói để chúng ta biết rằng con người từ nhân quả sanh, rõ ràng là hành động do vô minh, chúng ta tham dục, tham ái cho nên nó mới sanh chúng ta, chớ còn nếu mà không có tham dục tham ái làm sao sanh chúng ta được? Đó.
(38:27) Thì cái hành động, cái sự không hiểu biết gọi là Vô Minh. Do cái sự vô minh đó, không biết cho nên mới lầm chấp, cho nên vì vậy mới chạy theo, tưởng đó là hạnh phúc, nhưng cuối cùng lại sanh ra một người thứ hai, thứ ba, thứ tư, đều là thọ khổ.
Chúng ta sanh ra làm người, chúng ta thấy có vui không? Mà tại sao cha mẹ lại sanh ra bao nhiêu người để cho nó khổ như thế này? Sao lại không chấm dứt cái nỗi khổ đó đi, lại còn ham muốn làm gì để cho mà khổ cả bao nhiêu người? Có đứa con nào sanh ra đời mà nói tôi hạnh phúc, tôi ở thiên đàng đâu, đều là đứa con cực khổ!
Thì ở đây Thầy đại khái để chúng ta thấy từ nhân quả sanh ra đó, cho nên Thập Nhị Nhân Duyên rất rõ ràng.
Và Thầy nhắc lại, hầu hết là các thầy giảng về Thập Nhị Nhân Duyên chia làm ba thời gian: thời gian từ quá khứ, rồi cái thời gian hiện tại và cái thời gian tương lai. Chia cái nhân duyên ra, mười hai nhân duyên này chia làm ba thời như vậy là cái người đó giảng kinh pháp, giảng Phật pháp không thông suốt.
Mà hầu hết là Thầy thấy các cái bảng mà giảng về Thập Nhị Nhân Duyên đều là chia cái thời gian ba thời. Mười Hai Nhân Duyên nó hợp lại để nó thành ra cái thân của chúng ta, nó không phải trong ba thời đâu mà ngay trong hiện tại này.
Mười Hai Nhân Duyên xác định cho chúng ta biết rằng cái cuộc sống của chúng ta giống như là cái thân Ngũ Uẩn, bởi vì Ngũ Duyên tức là Ngũ Uẩn, mà Thập Nhị Nhân Duyên là mười hai nhân duyên. Mà hai mươi mốt duyên, có cái bài kinh về hai mươi mốt duyên, hai mươi ba duyên nữa chớ không phải là có Thập Nhị Nhân Duyên không.
Cho nên trong kinh Đức Phật dạy là chúng ta là do duyên hợp, mà bây giờ duyên hợp nó mới trở thành ra cái thế giới khổ. Đó là cái nhân duyên, vì vậy mà cái sự giảng về Thập Nhị Nhân Duyên, hầu hết là các học giả đều là giảng sai hết, đã chia các (duyên).
Cho nên không thấy cái câu Đức Phật nói “Sanh đã tận Phạm Hạnh mới xong”. Người ta chia cái Sanh với cái Lão Bệnh, là cho nó ở cái vị lai chớ không phải ở trong hiện tại. Mà chính trong hiện tại, mà nếu mà cái đời sống của chúng ta, Sanh là cái đời sống, mà họ nghĩ là cái sanh tử, thì đó là một cái sai của họ, cho nên vì vậy mà cái duyên Sanh mà đoạn dứt thì mình mới chấm dứt được cái Bệnh Tử.
Còn bây giờ người ta đứng ở trên cái Vô Minh, người ta đứng ở chỗ Vô Minh để người ta đi tìm cái Minh, để người ta phá cái Vô Minh đi, để người ta giải quyết tất cả những duyên khác, thì cái này nó không đúng con đường của Phật pháp.
(40:44) Phật pháp nói ngay vô đầu, một cái người mà cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, sống không gia đình, không nhà cửa, rõ ràng là cái người muốn đi theo đạo Phật là đã duyên Sanh đã đoạn đó.
Sống không gia đình, không nhà cửa nghĩa là sống không có người thân. Không gia đình có nghĩa là không vợ con đâu, mà không gia đình có nghĩa đây là cắt đứt tất cả những cái ái kiết sử của chúng ta, tức là cha mẹ, anh em, chị em tất cả cắt đứt hết, hoàn toàn không còn thương nhớ, không còn gì nữa hết, bình thường như những người mà xa lạ khác như vậy, chớ không có thấy rằng đó là cái gì, là của mình, là con của mình, là vợ của mình, là cha của mình, là mẹ của mình nữa. Thì như vậy mới gọi là không gia đình, không nhà cửa, là không của cải tài sản.
Bởi vì cái người tu sĩ này đắp áo cà sa, cạo bỏ râu tóc là làm cho, cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, có nghĩa là Đức Phật nói làm cho mình xấu đi, không có còn làm cho mình đẹp nữa.
Sống không gia đình tức là không có nhà cửa, không anh em, không ruột thịt, không ai hết, hoàn toàn bơ vơ, cô đơn một mình mình, sống không gia đình.
Sống không nhà cửa là không của cải, vì có nhà cửa mới có của cải, mà không nhà cửa thì lấy đâu mà đút của cải vô đó, cho nên cái này không nhà cửa.
Và cái chỗ, cái đoạn kinh đó để chỉ cho chúng ta là “Sanh đã tận”, một cái người mà “Sanh đã tận” thì “Phạm Hạnh mới xong” cho nên giới luật đức hạnh mới có trọn vẹn. Và cái người mà sanh không tận thì không thể nào mà giữ trọn được.
Đó là giải thích về cái phần mà con người từ nhân quả sanh ra, thì chúng ta mới thấy, đây Thầy muốn nhắc lại vì nhân quả sanh ra thì chúng ta mới nói Vô Minh sanh Hành, Hành sanh Thức đó, bắt đầu chúng ta mới có con người đó.
(42:26) Vì vậy mà bây giờ chúng ta mới thấy rõ, và bây giờ chúng ta đang sống, sống trong nhân quả. Cái câu kế, “Con người từ nhân quả, sống trong nhân quả, chết về nhân quả.” Vậy thì chúng ta sống trong nhân quả chúng ta có thấy nhân quả không?
Hàng ngày nói ra, hàng ngày hành động, hàng ngày suy nghĩ. Những cái điều mà suy nghĩ thiện hay ác trong đầu chúng ta đều là nhân quả hết. Nhân thiện hay hoặc là nhân ác, rồi quả thiện hay là quả ác, nó tiếp diễn cho chúng ta thấy rất rõ.
Nếu thiện thì chúng ta vui mừng, thích thú, thương yêu, còn ác thì chúng ta thọ lấy cái quả buồn khổ, rầu rĩ, đói khát, rách rưới, bệnh tật, đủ cách tai nạn này, tai nạn khác.
Đó là những cách đó gọi là quả, cho nên chúng ta đang sống ở trong cái nhân quả, hằng ngày chúng ta diễn biến những cái nhân mới, mà thọ những cái quả kế tiếp đó của những cái hành động đó, chớ đâu có gì khác hơn.
Mình chửi người, thì vừa chửi người thì lời nói của chúng ta thoát ra, thì ngay đó người ta tức giận người ta chửi lại mình, người ta đánh mình, thì đó là quả. Rồi mình giận, mình tức, mình chửi người ta, người ta tức quá người ta lại đập mình, thì cả hai đều đi nằm nhà thương, hoặc chết rồi đi tù tội. Đó là những diễn biến của nhân quả để tiếp tục giữa hai người.
Thì chúng ta thấy rõ trong gia đình cũng vậy, cha mẹ, anh em, chị em cũng vậy, cãi cọ nhau cũng đều là diễn biến của nhân quả. Đời trước đã vay nhau, đời nay sanh ra mới gặp nhau ở trong một cái môi trường như thế này để vay trả nhau cho hết. Thế mà mọi sự xảy ra thì mình lại vay thêm, vừa trả mà vừa vay, nhiều khi vay còn nhiều hơn nữa. Để làm gì? Để luôn luôn đời chúng ta quá khổ, càng khổ!
(44:10) Đó thì, chúng ta đang sống ở trong nhân quả, rồi chết đi về nhân quả. Khi tất cả những cái diễn biến ở trong nhân quả trong cuộc sống của chúng ta để lại cái môi trường của nhân quả, cho nên chúng ta phải trả cho nhân quả chớ sao. Vì vậy mà chúng ta chết thì về nhân quả, vì hành động nhân quả thì phải về nhân quả, đâu có chạy đi đâu khỏi về nhân quả đâu?
Cho nên khi bỏ thân này thì nó phải có cái sự, có cái nghiệp lực của nhân quả đó, thiện thì nó thúc đẩy chúng ta hướng vào cái phước, mà ác thì nó hướng chúng ta vào cái cảnh giới, sanh ra trong cuộc sống quá vất vả, cực khổ, nghèo đói, hoặc là thành những loài chúng sanh, bàng sanh rất là khổ đau.
Cho nên ở đây mới vô đầu, cái câu đầu Thầy chỉ diễn tả sơ cho chúng ta biết rằng cái cuộc sống con người, từ sanh ra thì nhân quả, ở trong nhân quả sanh ra, rồi sống trong nhân quả, rồi chết về nhân quả.
Khi mà chúng ta bỏ thân này thì cái duyên nghiệp đó nó sẽ đi ngay vào trong cái, người ta gọi là “cận tử nghiệp” đó, cái cận tử nghiệp đó nó hiện ra, tức là cái nghiệp lực cuối cùng để mà đưa chúng ta đi vào cái nhân quả để tiếp tục tái sanh.
Đó thì chúng ta thấy rõ ràng, con người chỉ diễn biến ở trong ba cái hành động đó để mà, trong một cuộc sống của con người để mà khổ, vui. Có vậy thôi, có gì đâu là quý?
Cho nên cái câu kế để chúng ta thấy rõ ràng hơn nữa:
“Ở đời ai cũng tự làm khổ mình, ai cũng tự làm khổ mình khổ người là tự mở cửa địa ngục cho mình.”
Nghĩa là mình nói một lời nói, rồi người khác nói lời nói, rồi hai người cãi cọ nhau thì tức là mở cửa địa ngục cho mình bước và người kia bước theo xuống mà không biết. Đó là những người vô minh, nghĩa là người không sáng suốt, không có thấy được, không có thấy cái địa ngục.
Không (có) nghĩa là chúng ta mở cửa địa ngục là chúng ta đi xuống lòng đất này, ở dưới nó có Diêm Vương, nó có Quỷ Sứ, Ngưu Đầu, Mã Diệm gì đó, thật sự ra cái địa ngục mà Đức Phật đã chỉ cho chúng ta biết, là ngay cái tâm giận hờn, đau khổ, phiền toái của chúng ta, đó là địa ngục.
(46:13) Cho nên chúng ta đã, tự một cái lời nói, tự một suy nghĩ ở trong đầu chúng ta, nó làm cho chúng ta đau khổ, ray rứt, hận thù ở trong lòng, thì đó là địa ngục ở trong lòng của chúng ta rồi. Nó đã mở cửa cho chúng ta bước vào đó, nó đang hành hạ chúng ta, nó đang đâm giết chúng ta từng phút từng giây đó.
“Đó là những người vô minh, sống theo tự ngã.”
Nghĩa là mình biết có cái ngã của mình thôi. Đó là mình sống theo tự ngã.
“… không thấy được đâu là chân hạnh phúc, đâu là giả hạnh phúc.”
Nghĩa là mình chạy theo cái giả hạnh phúc mà mình tưởng là chân, cho nên càng chạy theo nó thì mình lại càng thấy khổ đau và khổ đau nữa. Mình không thấy cái chân hạnh phúc như thế nào mà mình cứ chạy mãi, mà mình tưởng là cái chân hạnh phúc, nhưng không ngờ đó là cái giả hạnh phúc.
“Đời người thường bỏ mồi bắt bóng vì thế phải chịu nhiều đau khổ.”
Mình tưởng cái bóng hạnh phúc đó, mình thấy cái hạnh phúc đó, mình ước ao để làm được cái đó, nhưng mình chạy tới thì cái bóng là cái bóng chớ không thể nào cái thực.
Cho nên vì vậy mà vừa để chớp được cái hạnh phúc thì nó…
(Xem tiếp ở Pháp hành 28)
HẾT BĂNG
PHÁP HÀNH 28 - DO BỐN CHỖ MÀ ĐAU KHỔ & GIẢI THOÁT
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Thời gian: 1998
(Tiếp theo Pháp hành 27)
(0:00) Nhưng không ngờ nó là cái bóng, không thế nào nếm được cái mùi hạnh phúc đó được.
“Từ nhân quả sanh ra nên mang thân này phải chịu luật nhân quả”.
Nghĩa là mình ở trong nhân quả, tức là cái hành động nhân quả đó mà sanh mình ra thì cái thân mình là cái thân nhân quả rồi, cho nên mình phải chịu cái luật của nhân quả.
Cho nên vì vậy mà có cái thân người thì phải thọ khổ, thọ vui hoặc là cái chỗ, nó làm cho người ta thọ ba cái thọ: vui, khổ, hoặc là không khổ không vui. Đó là ba cái thọ của nó, nó cho người ta sống ở trong ba cái thọ đó.
Do chỗ mà cái luật nhân quả nó chi phối như vậy đó, cho nên chúng ta điên đảo, chúng ta cứ đi tìm cái thọ lạc mà sợ hãi cái thọ khổ.
“Vậy mà mọi người điên đảo lầm chấp ngã và ngã sở.”
Ngã là cái gì? Là thân, là tâm, là cái thọ của mình, là cái biết của mình, mình cho nó là ngã. Còn ngã sở là những vật xung quanh nó, bà con, ruột thịt, anh em, dòng họ của mình, đó là ngã sở. Những cái bàn, cái ghế, cái tủ cái rương đều là ngã sở, cái vật xung quanh mình là ngã sở, vì vậy mà mất một cái vật đó thì mình thương tiếc.
Thí dụ như cha mẹ mình chết thì mình thương tiếc, đó là, mình khóc lóc, mình thấy như mất cha, mất mẹ mình đau khổ, đó là mình mất cái ngã sở. Như vậy mình thấy rõ ràng những cái này nó đều là một cái giả tạm, nó không có thật, mà mình khi mà thấy chết thấy mất đi thì mình tiếc mình thương, mình đau khổ, đó là mình điên đảo.
(01:44) Cho nên ở đây Thầy nói mọi người điên đảo lầm chấp. Thầy thấy rằng có người mẹ nào mà có người con, mà mẹ chết mà không khóc bao giờ? Thiệt ra họ điên đảo vô cùng.
Trong thời Đức Phật có một số Tỳ Kheo tu theo Đức Phật nhưng chưa đạt thành, khi Đức Phật tịch, quý vị đó khóc than kể lể vô cùng, đó là những người còn tâm trạng thế gian, còn ngã sở, cho nên chưa có bỏ cái ngã sở.
“Vì thế phải chịu nhiều khổ đau và lăn lộn mãi trong sanh tử luân hồi.”
Do cái chỗ chấp ngã và ngã sở này, vì thế mà họ phải chịu nhiều cái sự khổ đau trong cuộc đời của họ. Và luôn luôn đời này đến kiếp khác họ luân hồi mãi không bao giờ mà xả ra.
(02:24) Đây là lời khuyên của Thầy:
“Hãy buông xuống, buông xuống sạch; hãy từ bỏ và xa lìa hết mọi pháp để tự cứu mình ra khỏi phong ba bão táp của cuộc sống. Hãy đòi lại quyền làm chủ sanh tử luân hồi, hãy đoạn dứt nhân quả để chấm dứt tái sanh. Ấy là người trí, người thông minh.”
Nếu chúng ta là người trí, người thông minh thì chúng ta phải bỏ xuống hết. Trên đời này không có vật gì mà chúng ta chết mà mang theo được hết, không có vật gì mà quý giá bằng chúng ta làm chủ được cái sự sống chết của chúng ta.
Cho nên chúng ta phải bỏ xuống hết, bỏ xuống hết, từ cha mẹ, anh em, vợ con thân thuộc, bỏ xuống hết. Chúng ta chết họ không cứu chúng ta được, chúng ta chết họ không làm sao được, chúng ta đau, họ không đau thế cho chúng ta được, chúng ta có sự lo lắng sợ hãi họ cũng không lo lắng sợ hãi cho chúng ta được. Cho nên chúng ta hãy bỏ xuống hết, bỏ xuống hết.
Ở đây Thầy khuyên: “hãy bỏ xuống, buông xuống hết, buông xuống sạch hết, từ bỏ hết, và xa lìa hết mọi pháp.”
Mọi pháp đây là chỉ các pháp. Pháp đây không phải là Tứ Diệu Đế, Tứ Thánh Định hay hoặc là Tứ Niệm Xứ, mà pháp ở đây là chỉ cho những cái gì mà xung quanh của chúng ta, gọi là ngã sở đó: cha mẹ, anh em, nhà cửa, tiền bạc, tài sản, của cải, con cháu, tất cả mọi thứ, cái vật gì đều là có thể gọi là pháp.
Cho nên Thầy bảo phải xa lìa hết mọi pháp để tự cứu mình. Nếu mình xa lìa được, còn ba y một bát sống không nhà, không cửa, không người thân thì mình mới tự cứu mình được. Chỉ có con đường của đạo Phật, sống như vậy mới có thể thoát ra khỏi cảnh khổ của cuộc đời này.
“Để tự mình cứu ra khỏi phong ba bão táp của đời sống. Hãy đòi lại quyền làm chủ sanh tử luân hồi.” Tức là mình sống mà được như vậy, mình mới đòi lại quyền làm chủ.
Còn mình sống chưa được như vậy, chưa buông xả, thì cái quyền làm chủ đó mình bị cái nhân quả luân hồi này, cái quyền làm chủ đó nó sẽ giao cho cái luật tự nhiên của nhân quả, nó làm chủ chứ chúng ta không làm chủ được.
(04:29) “Hãy đoạn dứt nhân quả.” Nghĩa là chấm dứt nhân quả, không có để cho nhân quả diễn biến. Thí dụ như cái tâm mình ham muốn ăn miếng ăn thì đó là cái nhân quả, cái nghiệp nhân quả nó thúc đẩy chúng ta ham muốn cái đó. Do đó chúng ta chấm dứt, không có làm theo cái muốn đó được. Vì vậy thì chúng ta sẽ chấm dứt tái sanh luân hồi. Thế mới là người trí, người thông minh.
“Muốn sống cuộc đời an vui, đầy hạnh phúc thì hãy nhìn đời bằng đôi mắt nhân quả thiện ác.”
Nghĩa là chúng ta muốn cho đời sống của mình có được an vui hạnh phúc, thì hãy nhìn bằng đôi mắt nhân quả thiện ác. Tại sao vậy, tại sao mình nhìn bằng đôi mắt nhân quả thiện ác?
Vì thiện là không làm khổ mình, không làm khổ người, mà ác thì không làm khổ mình thì làm khổ người, hoặc là làm khổ mình khổ người, hoặc làm khổ mình mà người không khổ. Thì đó là chúng ta mới nhìn bằng cái đôi mắt nhân quả thiện ác.
“Nếu không vậy đời sống sẽ là địa ngục. “
Nếu mình không có nhìn bằng cái đôi mắt nhân quả thiện ác, thì đời sống của mình là địa ngục, nó đau khổ hoàn toàn, không bao giờ hết.
(05:39) “_Từ lâu con và anh chị em con đã điên đảo tự mở cửa địa ngục để sống trong cảnh đen tối giận hờn, oán ghét, v.v… Có ích lợi gì phải không con? Sanh ra làm người vốn đã khổ, khổ vì sanh, già, bệnh, chết.” _
Nghĩa là mình đã sanh, già, bệnh, chết rồi, mình mang cái thân của mình, thì có cuộc sống rồi nó đã khổ rồi. Bây giờ già, bây giờ có cuộc sống mình, bây giờ cơm không có ăn thì cũng khổ, áo quần không có mặc thì cũng khổ rồi, đó là đơn sơ cho hai cái vậy mà khổ rồi. Già cũng khổ, bệnh cũng khổ, chết cũng khổ.
Thế mà chúng ta lại còn điên đảo, lại còn hơn thua, lại còn nói lời qua tiếng lại để cho chúng ta đau khổ nhau nữa sao? Đã khổ rồi thế mà còn làm khổ thêm nữa sao?
“Thế sao ta lại mê mờ điên đảo, lại tạo thêm cảnh khổ đau nữa, thay vì phải chấm dứt.”
Thay vì chúng ta phải chấm dứt để chúng ta chiến đấu với những cái khổ mà đã có sẵn: sanh, già, bệnh, chết này. Có đâu bây giờ chúng ta lại tạo thêm những cảnh khổ khác, để rồi chúng ta không chấm dứt cái giặc sanh già bệnh chết, mà lại còn tạo thêm những cái khổ khác, thì quá là sự đau khổ!
“Do sống trong nhân quả mà không thấy nhân quả, để nhân quả chi phối và sai khiến ta làm mọi điều ác và thiện, tạo nên nhân quả này nối tiếp nhân quả khác, chồng chất lên nhau mọi sự đau khổ.
Bởi thế ta hãy làm gì bây giờ?”
Biết nó như vậy rồi bây giờ chúng ta làm gì đây?
“Ngày xưa Đức Phật đã dạy:
- Một: Những gì cần dứt bỏ nên dứt bỏ. Dứt bỏ để an vui thanh thản.”
Nghĩa là bây giờ mình thấy cái gì mà cần bỏ thì mình phải bỏ hết, để cho mua lấy một cái tâm hồn an vui thanh thản, một giá trị tuyệt vời, một cuộc sống không có một cái gì mà mua chác mà đổi được. Sự an vui thanh thản này chỉ có người biết vứt bỏ thì mới có thể thanh thản, an vui được.
(07:42) “- Hai: Những gì cần trau dồi thì nên trau dồi.”
Trau dồi có nghĩa là để cho thân tâm mình toàn thiện, hay thành thiện. Bây giờ mình thấy nhiều cái nó làm cho mình phiền não, đau khổ, tức là biết là ác pháp, cho nên bây giờ mình trau dồi nó để cho tâm mình thành cục đất, nó không còn phiền não, không còn đau khổ nữa, thì nó là thành thiện rồi đó.
“- Ba: Những gì cần tu tập”
Hồi nãy là trau dồi, bây giờ tu tập.
“Những gì cần tu tập, nên tu tập. Tập luyện để thân tâm thấm nhuần trong thiện pháp.”
Hồi nãy để cho nó thành thiện, bây giờ tu tập để cho nó thấm nhuần ở trong những cái thiện pháp, để làm gì? Để cho chúng ta được an vui và thanh (thản).
“- Bốn: Những gì cần học tập nên học tập. Hiểu biết những điều cần thiết để không còn đau khổ.”
Nghĩa (là) cuộc đời chúng ta, có nhiều khi chúng ta học nhiều quá mà nó không cần thiết cho cái sự an vui thanh thản của tâm hồn của mình. Cho nên có nhiều người học rất rộng rất sâu, hiểu rất nhiều mà rồi tâm hồn giải thoát không giải thoát.
Thí dụ như một nhà, bây giờ là một giáo sư ở đại học, họ đỗ tiến sĩ, nhưng tâm hồn họ vẫn đau khổ, họ đâu hết những sự khổ đau của bệnh, của cuộc sống của họ, của tuổi già họ, của khi chết của họ, họ đâu hết. Mặc dù họ học rộng hiểu xa, nhưng họ không có giải quyết được.
Cho nên ở đây Đức Phật khuyên chúng ta: cần học những gì mà để cho chúng ta hiểu biết, để mà chúng ta không còn đau khổ nữa, thì cái đó là cần thiết.
Trái lại chúng ta không học cái để chúng ta được giải thoát mà chúng ta học những cái ngoài cái vấn đề giải thoát cho tâm hồn chúng ta. Hay hoặc là chúng ta học những cái để chúng ta tạo ra những cái danh, cái lợi, để chúng ta lại khổ đau thêm nữa, thì cái đó là hầu hết là ai cũng vậy.
(09:32) “Lời Phật đã dạy, nếu con muốn thoát ra khỏi cảnh khổ kiếp sống của con người, thì nên theo những lời Phật dạy ấy mà cứu mình. Chúc con thành công mang lại một đời sống an vui thanh thản.”
Đây là cái lời trả lời an ủi của Thầy với một cái người Phật tử. Đây là cái cuốn tập lát nữa Thầy trả lại cho.
(09:56) Kế tiếp trong cái bài học vừa rồi đó, thì Chánh Đức có hỏi Thầy, thì ở đây Thầy xin trả lời cái phần đáp của Thầy. Bữa đó Thầy có giảng rồi, nhưng mà Thầy chưa có ghi lại, hôm nay Thầy ghi lại về cái phần trả lời cho Chánh Đức.
Rồi tiếp tục cái phần của Chân Huệ, để chúng ta thông suốt được cái Tứ Niệm Xứ. Chứ không chúng ta không có người hỏi thì chắc chắn là khi chiết qua rồi thì các con cũng tưởng mình là hiểu, nhưng cuối cùng chẳng hiểu gì hết đâu. Theo Thầy biết rằng Tứ Niệm Xứ không phải dễ đâu.
(10:33) Đáp: “Ở đây con muốn hỏi chủ đích của Đạo Phật. Chủ đích của Đạo Phật Thầy đã từng nhắc đi nhắc lại các con rất nhiều lần, đó là giải quyết bốn nỗi khổ của kiếp người: sanh, lão, bệnh, tử.
Sanh là gì? Sanh là cuộc sống hàng ngày, nó thường xảy ra biết bao nhiêu khổ, vui, bất toại nguyện và lo toan sợ hãi, ưu sầu quá nhiều.”
Nghĩa là chúng ta xét có phải không, cuộc sống của chúng ta, luôn luôn lúc nào nó cũng có những chuyện. Tuy rằng nó vui có một chút chứ nó buồn khổ nhiều lắm. Nhiều khi nó kéo dài từ ngày này đến ngày khác, chưa hẳn đã là có niềm vui nào trong đó.
“Lão là gì? Là già yếu, sức lực mòn mỏi, tay chân run rẩy, tâm trí nhớ trước quên sau lẫn lộn. Đó là những hiện tượng suy, làm cho con người khổ đau.”
Nghĩa là già là nó phải như vậy đó. Chúng ta đừng nghĩ rằng hôm nay chúng ta thấy còn đi đứng mạnh khỏe, nhưng ngày nào đó rồi chúng ta sẽ lụm cụm chống cây gậy mà tay chân run rẩy, chừng đó chúng ta mới hỡi ôi, thân này lão, già là khổ thật! Biết nó khổ thật thì lúc đó bây giờ chúng ta có tu hành cũng chẳng kịp nữa rồi.
Cho nên hiện giờ thì các thầy cũng như các con còn ở trong một cái sức khỏe của cái thân của chúng ta, đợi đến khi mà già yếu suy mòn rồi thì các Thầy và các con nghĩ mình còn đủ sức tu hành nữa hay không?
(11:59) Huệ Ân hôm nay 80 tuổi hơn rồi, mà được theo Thầy tu hành, bây giờ tuy rằng chưa làm chủ được thân, nhưng tâm cũng có phần tỉnh táo, không bị trói buộc bởi những cái pháp trần. Do đó tuy rằng tuổi già sức yếu, thì nó thấy được cái lão là đã khổ lắm rồi. Bây giờ quét sơ sơ một chút là thấy mệt, bẻ một vài nhành củi đã thấy mệt, tức lói nữa, cái cơ thể nó sắp hoại diệt, nó không còn một sức lực nào như hồi còn trẻ nữa.
Như Huệ Ân thì con thấy rất rõ cái già là khổ như vậy đó. May là có pháp, có một cái nguồn pháp an ủi, có một pháp đoạn dứt những cái nỗi sầu về cái thân già của mình, cho nên sống vẫn thản nhiên như vậy. Chớ cái cơ thể càng ngày càng suy dần, suy dần và đem lại những tướng trạng để mà đi vào cõi chết.
“Bệnh là những trạng thái làm cho cơ thể đau nhức, khổ sở, nay đau chỗ này, mai đau chỗ khác, nay bệnh này, mai bệnh khác.”
Đó thì các thầy thấy và các con thấy rất rõ, nghĩa là bây giờ chúng ta mạnh, nhưng lát nữa chúng ta đau, nhưng bữa nay đau chỗ này, mai đau chỗ khác, làm cho chúng ta khổ sở vì cái thọ này. Rồi nay bệnh này, mai bệnh khác, nó luôn luôn lúc nào con người phải nhìn thấy rằng chúng ta không thể nào thoát ra khỏi bốn cửa này: sanh, lão, bệnh, tử.
Mà bây giờ bệnh là khổ như vậy, già là khổ như vậy, sanh là khổ như vậy, mà về cái bệnh này nó có về bệnh thân và tâm: Thân bệnh và tâm bệnh. Tâm bệnh thì ưu sầu rầu rĩ, lo sợ, thương ghét, oán hận, sân hận, tức giận v.v…, đó là những trạng thái của bệnh thân và tâm khiến cho con người đau khổ vô cùng.
(14:01) Đó thì, các con thấy chưa, nó làm cho chúng ta, bốn cái trạng thái này làm cho kiếp người chúng ta luôn luôn khổ đau, có sung sướng gì đâu mà chúng ta ngồi ăn miếng cơm ngon, có sung sướng gì đâu mà chúng ta vui đùa mà xem đá banh, đá bóng, có vui sướng gì đâu mà chúng ta còn muốn hưởng lạc!
Đời quá khổ, khổ vì bốn cái cửa ải này. Con người không vượt ra bốn cửa ải này, làm con người nghĩ mình có ích gì, sanh ra làm chi để mà thọ bốn cái khổ này, quằn quại trên thân chúng ta! Làm sao chúng ta chấm dứt nó, làm sao chúng ta làm chủ nó mới là người trí, người thông minh, mới xứng đáng là đệ tử của Phật!
“Tử là chết. Trước khi chết cơ thể rã rời, đau nhức vô kể, mệt thở từng hồi, ngất xỉu mê man bất tỉnh.”
Các con thấy: tỉnh rồi, bất tỉnh (một) hơi rồi tỉnh lại, tỉnh lại rồi cái mê man, mê man bất tỉnh rồi chết luôn. Đó là những trường hợp của người sắp chết mà ai đã chứng kiến thì cũng thấy được điều đó.
Ít có ai mà nằm im rơ mà chết, lăn lộn, trăn trở rồi mới chết, khó! Cho nên khổ sở đến tận cùng lận mới chịu chết, chớ không phải là dễ gì với cái tử đâu, với cái chết đâu.
“Đây là bốn cái khổ của con người mà không một người nào tránh được.”
Nghĩa là trong thế gian này không ai mà tránh được cái khổ này
“… chẳng ai biết cách vượt ra được. Duy nhất chỉ có Đức Phật, người đã tìm ra con đường giải thoát và hôm nay chúng ta đã đủ duyên được tu tập đúng pháp của Người.”
Nghĩa là chúng ta hôm nay đủ duyên. Bây giờ biết bao nhiêu người tu theo đạo Phật mà không ngay trên Tứ Niệm Xứ mà thực hiện thì làm sao làm chủ được thân, thọ, tâm, pháp này mà gọi là làm chủ sanh tử?
(15:43) Cho nên chúng ta là những người có duyên phước với Phật pháp lâu đời chúng ta mới được nghe pháp. Bây giờ hiện giờ chúng ta có thể bao nhiêu người đi chùa lạy Phật, biết bao nhiêu người kính ngưỡng Đức Phật, theo tôn giáo Phật giáo, khắp trên thế giới chớ không phải riêng gì Việt Nam. Nhưng các Thầy nghĩ, các con nghĩ, người ta có tu đúng pháp hay không?
Chắc chắn là các con sẽ thấy rằng không đúng pháp rồi. Mà nếu đúng pháp thì giới luật các Thầy phải nghiêm chỉnh, không đúng pháp cho nên phá giới, phạm giới mà không biết xấu hổ, thì rõ ràng là thời Phật pháp đã suy, Phật pháp đã không còn.
“Vào thời đại ngày nay Phật giáo gần như mất gốc”
Nghĩa là chúng ta đến chùa nào chúng ta thấy cái sự tu tập của họ không có đúng cái đường lối của đạo Phật, cho nên nó phải mất gốc rồi.
“Người tu sĩ Phật giáo ngày nay tu hành không nhắm vào mục đích này,”
Tức là mục đích sinh tử luân hồi đó.
“… mục đích của đạo Phật, vì thế đạo Phật chỉ còn là một hình thức danh lợi, mê tín mà thôi.”
Nghĩa là ngoài cái danh lợi đó thì còn đặt thêm cái mê tín để gạt người khác nữa.
Đó thì hôm nay qua cái lời trả lời câu hỏi về cái đích của đạo Phật, Thầy trả lời cho Chánh Đức đến đây là xong cái câu hỏi trả lời của Chánh Đức.
(16:58) Đến cái câu hỏi của Chân Huệ. Câu hỏi này qua cái bài học vừa rồi mà Chân Huệ hỏi lại.
*Hỏi:* “Quán thân trên thân Phật có dạy: “Có thân đây…” hoặc khi quán thọ trên thọ, Phật có dạy: “Có thọ đây…” Bạch Thầy! như vậy có ý nghĩa gì?”
Đáp: “Phật dạy “có thân đây” có nghĩa là tại đây thân này xem xét nó, tức là xem xét cái trụ xứ này, hay xem xét cái niệm này; thọ cũng như vậy.”
Bây giờ Thầy xin giải thích để hiểu. Phật nhắc “có thân đây” tức là cái bài Tứ Niệm Xứ đầu tiên chúng ta tu tập, mà Phật đã dạy “trên thân quán thân”, ngay trên cái thân này mà quán cái thân, tu về nhân tướng của nó, tức là cái tướng nhân của nó, cái tướng nhân tướng của nó.
Cho nên bây giờ về cái nhân tướng của nó thì cái nhân tướng nó có nội, nội thân và ngoại thân và cả nội ngoại thân. Cho nên Phật dạy chúng ta phải quán nội ngoại thân, vì vậy là cái đó thì chúng ta hiểu “có thân đây” tức là ngay cái thân này nè, ngay cái bốn trụ xứ này nè, chúng ta quán nó ngay trên này. Chúng ta không có đặt pháp gì hết, mà chúng ta ngay ở trên cái trụ xứ này mà xem xét cái trụ xứ này.
(18:17) Đầu tiên Phật dạy chúng ta quan sát cái trụ xứ đó trước, xem có cái trụ xứ đó nó như thế nào, để mà chúng ta khắc phục những cái tham ưu ở trên cái trụ xứ này. Bởi vì chính trên cái trụ xứ này nó còn tiêm nhiễm, nó còn ô trược, nó còn những cái không có thiện pháp ở trong đó, cho nên chúng ta quan sát coi nó đâu là thiện, đâu là ác ở trên cái thân này. Gọi là trên thân quán thân.
Thì vậy “có thân đây” nghĩa là trên cái thân đây nè, Đức Phật nhắm nè, chớ không phải trên cái thân khác, phải không? Không phải trên cái nơi khác, mà Phật nhấn mạnh cái chỗ này để chỉ định cho chúng ta biết rằng nó ngay đây nè, chúng ta hãy quán xét nó.
(19:00) Thọ cũng như vậy. Cũng tại nơi đây mà chúng ta quán cái thọ đó. Nếu mà cái thọ đó không có thì chúng ta biết nó không, mà nó có chúng ta biết, mà có chúng ta quán nó, xem xét nó, rồi dùng Định Vô Lậu mà xả bỏ. Ở đây bài pháp Tứ Niệm Xứ quý thầy và các con nên hiểu.
“Trong Tứ Niệm Xứ có những pháp hành đầu tiên của nó, cho đến những pháp hành cuối cùng.”
Đó thì các con thấy, trên Tứ Niệm Xứ, cái pháp đầu tiên là cái Pháp như thế nào? Quán thân trên thân. Mà “có thân đây” tức là chỉ cho cái trụ xứ của Tứ Niệm Xứ, nghĩa là chúng ta quán cái trụ xứ của Tứ Niệm Xứ chớ không phải là quán cái thân tứ đại của chúng ta hoặc là quán thân Ngũ Uẩn của chúng ta, mà đem đặt nó.
Nếu mà đem một cái pháp khác đặt lên trên cái chỗ của Tứ Niệm Xứ này, thì trên cái thân này mà quán cái thân kia, nó khác rồi. Còn ở đây chúng ta đặt trên cái thân này, trên cái thân trụ xứ này, của Tứ Niệm (Xứ) này mà chúng ta đặt, mà chúng ta quán ở trên nó, tức là chúng ta quan sát lại cái trụ xứ này, coi cái thân trụ xứ này nó như thế nào.
Đó là cách thức dạy, vì vậy mà “có thân đây” là cái này này, cái ở đây này. Đó hiểu như vậy mới biết được.
Cũng như cái thọ cũng vậy, cái thọ ở đây này, chứ không phải cái thọ của Ngũ Uẩn, bởi vì trong Ngũ Uẩn nó có mà, Sắc, Thọ đó, nó có. Mà ở đây Tứ Niệm Xứ nó có thọ, và cái thọ này là cái thọ Tứ Niệm Xứ ở đây nè, hiểu cái chữ mà Phật nói có ở đây nè, chớ không phải là ở chỗ khác.
Nhiều khi chúng ta thấy cái thọ ở Thập Nhị Nhân Duyên. Thập Nhị Nhân Duyên nó cái thọ khác chớ không phải là cái thọ ở đây, nó thuộc về pháp Thập Nhị Nhân Duyên. Còn cái pháp Ngũ Uẩn, cái thọ của Ngũ Uẩn thì nó ở cái thọ của Ngũ Uẩn, nó không phải là cái thọ của Tứ Niệm Xứ. Đó các Thầy hiểu như vậy. Cho nên Phật nói: “có thân đây, có thọ đây” đó, đó là như vậy.
(20:54) “Tứ Niệm Xứ có những pháp hành đầu tiên”, cái hành đầu tiên của nó là quán thân trên thân. Bởi vì nó có cái đầu, mà nó có những cái pháp cuối cùng của nó, chớ không phải.
Rồi cái pháp kế những cái pháp đầu đó, nó có thứ tự ở trên cái chỗ mà tu tập ở trên cái thân Tứ Niệm Xứ này. Chớ không phải là muốn tu cái pháp nào, tu đại ở trên đó, muốn tu cái gì tu, không phải đâu!
Chúng ta phải thực hiện cái thân của chúng ta, quán xét cái trụ xứ của nó, cho nó thấm nhuần được cái trụ xứ nó rồi, thì chúng ta mới dám đem các pháp đến để mà tu tập ở trên cái thân trụ xứ này.
Vì vậy mới thấy được cái chỗ sâu sắc của đạo Phật. Cho nên Đức Phật đâu có bao giờ mà bảo mình đem pháp Ngũ Uẩn mà đặt lên trên cái thân tứ trụ xứ này tu bao giờ trước đâu.
Đợi cho đến khi cuối cùng Đức Phật mới dạy các pháp, dạy tới pháp thì Đức Phật mới dạy đem cái Ngũ Uẩn, đem cái kiết sử, đem cái Ngũ Triền Cái mà đặt lên trên cái thân, thọ, tâm, pháp này mà tu tập.
“Như Thầy đã dạy, tu tập Tứ Niệm Xứ rất là quan trọng. Vì suốt quá trình tu tập từ đầu đến cuối cũng đều ở trên bốn chỗ này mà tu tập rèn luyện.”
Nghĩa là từ bắt đầu mà chúng ta tu tập, thì chúng ta phải ở trên bốn cái chỗ này tu tập, chứ không ngoài bốn chỗ này mà tu tập.
Như bây giờ chúng ta lạy Phật này nè, chúng ta niệm chú nè, chúng ta tụng kinh nè, chúng ta gõ mõ nè, chúng ta sám hối nè, thì nó ăn nhằm nhò gì ở trên cái Tứ Niệm Xứ này? Nó đâu có phải là cái pháp nằm ở trên Tứ Niệm Xứ này mà tu? Đó cho nên chúng ta làm nó ở vấn đề ngoài, nó không có đúng cách.
Còn đây, chúng ta tu ngay từ cái pháp đầu tiên mà chúng ta tu ở trên cái chỗ Tứ Niệm Xứ này, thì các con sẽ thấy này:
Giới luật của Phật, mình lấy giới luật của Phật, có phải là mình sống ở trên mình khép chặt cái thân, thọ, tâm, pháp này, nó không được buông lung không? Đúng vậy, lấy giới luật của Phật nó gò bó thân, thọ, tâm, pháp, bốn trụ xứ này nó phải đúng cái kỷ luật của Phật.
(22:52) Phòng hộ sáu căn, nghĩa là lấy cái giới luật, hoặc là nỗ lực mà giữ gìn những cái hạnh của mình, để giữ gìn mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình, để phòng hộ nó.
Thiểu dục tri túc, sống một đời sống ít muốn biết đủ, đó là chúng ta ít muốn biết đủ để ở chỗ nào đây? Tức là ở trên bốn trụ xứ này: thân, thọ, tâm, pháp của chúng ta.
“Giữ gìn ngoài bốn chỗ này mà tu tập là tu không đúng pháp Phật. Do bốn chỗ này sanh ra muôn ngàn đau khổ buộc ràng, do bốn chỗ này buông xả xuống hết, không còn dính mắc một vật gì thì được giải thoát. Chính bốn chỗ này là nỗi khổ của kiếp làm con người.”
Nghĩa là thân, thọ, tâm, pháp của chúng ta là bốn cái chỗ này, là chính bốn cái chỗ này, là cái nỗi khổ của kiếp làm người của chúng ta.
“Chính bốn chỗ này là địa ngục, hay thiên đàng. Chính bốn chỗ này mà loài người tiếp tục sanh tử luân hồi, đau khổ mãi muôn đời, muôn kiếp. Vì thế muốn thoát ra cũng phải chính bốn chỗ này mà thoát ra.”
Nghĩa là bây giờ chúng ta sanh ra thì chúng ta có sẵn bốn cái chỗ này rồi. Mà chính bốn cái chỗ này luôn luôn nó đem lại cho cái kiếp con người chúng ta khổ sở. Bốn chỗ này là địa ngục, hay là thiên đàng mà khi trong cuộc sống chúng ta biết tu.
Chính bốn chỗ này nó đưa cái loài người chúng ta tiếp tục sanh tử luân hồi mãi mãi muôn đời muôn kiếp. Nên cũng từ trong bốn chỗ này mà chúng ta tu tập, chúng ta rèn luyện, từ bốn chỗ này mà chúng ta được giải thoát, cho nên gọi là Tứ Niệm Xứ.
(24:39) Đức Phật đã chọn bốn chỗ này tu tập không lầm. Ông Phật đã biết cách chọn cho chúng ta không lầm để nhắm vào cái mục đích mà Chánh Đức đã hỏi Thầy, tức là sanh, lão, bệnh, tử, vượt qua bốn cái khổ này.
Cho nên Đức Phật mới lấy bốn cái chỗ này để chúng ta tu tập, để vượt ra bốn cái khổ kia, thì rất đúng không còn sai nữa. Nghĩa là ông Phật không lầm chỗ, đặt đúng chỗ, không lầm lạc. Cho nên ai mà đặt đúng bốn chỗ này mà để nỗ lực tu tập thì chúng ta sẽ được giải thoát.
Ai đặt ngoài bốn chỗ này mà tu tập, như bây giờ chúng ta đặt ngoài vấn đề, như Thiền Tông, đặt ngoài vấn đề bốn chỗ này, nghĩa là kiến tánh thành Phật, thấy tánh thành Phật chứ không phải cần do bốn cái chỗ này mà giải thoát, cho nên bốn chỗ này vẫn ô nhiễm không làm sao giải thoát được.
Ngay trên bốn cái chỗ này mà tu tập rèn luyện hàng ngày, ngăn chặn ác pháp xâm chiếm vào bốn cái chỗ này, mà chúng ta vất vả hết sức mà chúng ta còn chưa giải thoát, huống hồ là ngoài cái vấn đề này đi tìm một cái ông Phật trừu tượng, tưởng tượng ra, không hình, không dáng, không tên, không tuổi mà gọi là giải thoát trong bốn chỗ này thì làm sao mà được?
Bây giờ tu một ngàn kiếp thì Thầy tin rằng Thiền Đông Độ không làm sao mà giải quyết được con người, dù có lý thuyết gì cũng không giải quyết được.
“Ai đã lìa khỏi bốn chỗ này tu tập, thì làm sao thoát ra khỏi khổ kiếp của con người?”
Nghĩa là mình rời, mình bỏ bốn cái chỗ này đi mình tu tập thì không bao giờ mình có thể mình ra khỏi cái sự khổ đau của con người.
“Tịnh Độ Tông - một cảnh giới siêu hình Cực Lạc, tưởng trong thân, hay là”
Nghĩa là người ta tưởng cõi cực lạc ở trong thân này, hoặc là người ta tưởng cực lạc ở cõi Tây Phương kia, thì điều đó cũng đều là ảo tưởng mà thôi.
Nếu mà người đó đã biết rằng cõi Cực Lạc ở trong thân tâm này, thì người đó chỉ còn gọt rửa Tứ Niệm Xứ này cho sạch, không còn nhiễm ô ác pháp, không còn nhiễm ô thế tục thì nó mới có giải thoát được.
Còn nếu mà mình không có rửa sạch, mình không có trau dồi, mình không tu tập nó, thì bốn chỗ này nó còn ô nhiễm, thì nó phải khổ đau muôn đời, thì cái cõi Cực Lạc mà gọi là trong thân này thì đó là một tưởng tượng mà thôi, không thể nào có được!
(26:56) “Thiền Tông thì lấy Phật Tánh làm cứu cánh, Phật Tánh không ở ngoài, ở khắp cùng.”
Nghĩa là người ta tưởng tượng là nó không ở trong mà cũng không ở ngoài. Đó là qua cái bài Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Phật đã nói rằng Phật Tánh không ở trong, ở ngoài, mà khắp cùng hết.
Nếu ở trong làm sao nó thấy ở ngoài, mà nếu ở ngoài làm sao nó thấy ở trong ruột gan mình được? Cho nên nó phải khắp cùng. Vì vậy mà khắp cùng cho nên không trong, không ngoài, không trên, không dưới, chỗ nào nó cũng có hết, vì vậy mà chỗ nào nó cũng thấy được hết. Đó là cái lý luận của họ như vậy.
“Điều này do pháp tưởng mà ra.”
Điều này do là pháp tưởng mà họ nghĩ ra như vậy, chớ không phải là chỗ tu tập giải thoát.
“… nên đâu cùng Tứ Niệm Xứ làm bạn.”
Cái pháp môn như vậy thì nó đâu có gần được Tứ Niệm Xứ, cho nên nó làm sao lấy Tứ Niệm Xứ mà nó làm bạn tu tập được, cho nên nó không giải thoát.
“Thế là hai pháp môn này đã đặt sai vị trí tu hành thì làm sao đạt được mục đích của đạo Phật, (làm chủ) được sanh, già, bệnh, chết.”
Đó là cái câu thứ nhất của Chân Huệ hỏi Thầy.
(28:03) Đến câu thứ hai:
“Kính bạch Thầy! Khi quán thân trên thân Phật dạy “sống quán thân trên nội thân, hay sống quán thân trên ngoại thân, hay sống quán thân trên nội ngoại thân” thì con hiểu.
Nhưng khi quán thọ trên thọ, tâm trên tâm và pháp trên pháp thì Phật cũng dạy “sống quán thọ trên các nội thọ, hay sống quán thọ trên các ngoại thọ”, cũng vậy cho tâm và pháp.”
Nghĩa là tâm cũng quán nội, quán ngoại như vậy.
“Vậy sao gọi là nội thọ, ngoại thọ, nội tâm, ngoại tâm, nội pháp, ngoại pháp?
Con chưa hiểu. Kính bạch Thầy chỉ dạy cho con rõ.”
(28:50) Các con thấy, những cái danh từ Phật dạy đó, nếu mà không được giải thích cho rõ thì chúng ta không hiểu như thế nào hết.
Bây giờ ở trên cái nội thân, ở đây thì Thiện Huệ (Chân Huệ) hỏi Thầy: sống quán thọ trên nội thọ, sống quán thọ trên ngoại thọ, và sống quán thọ trên các nội ngoại thọ. Rồi sống ngoại tâm, nội tâm, ngoại pháp, nội pháp, thì hỏi cái đó là, nó hỏi cái nghĩa của nó.
Bây giờ Thầy phải nhắc lại. Bây giờ sống, bắt đầu từ ở trên thân của mình đi, mặc dù bây giờ nó đã hiểu cái câu này rồi, nhưng Thầy xin nói lại để cho nó hiểu.
“Quán thân trên thân” nghĩa là trên cái trụ xứ này mà mình nhìn lại cái trụ xứ này gọi là “trên thân quán thân”. Mình không có đặt cái pháp nào khác hết trên này. Cho nên trên cái thân này, tức là cái thân Tứ Niệm Xứ này, là cái thân là cái niệm xứ thứ nhất, chúng ta mới quán xét nó, trên nó mà quán xét lại nó gọi là “quán thân trên thân”.
Vậy thì sống quán thân trên thân, quán cái gì đây? Thay vì phải hỏi Thầy quán cái gì đây, nếu mà quán cái gì để cho nó khắc phục được tham ưu, ở trong kinh Tứ Niệm Xứ, Đức Phật nói phải quán nó, rồi để cho mình khắc phục được tham ưu, vậy quán cái gì ở trên thân này?
Đó là cái để chúng ta biết chúng ta quán. Vậy thì ở trên thân này chúng ta phải quán như thế nào?
(30:24) Nếu mà phải đặt nó trở lại cho chúng ta thấy được rõ. Trên thân mà quán thân trên thân, tức là ngay trên thân này mà quan sát, xem xét nó, thì quan sát xem xét cái gì đây?
Ở trong thân chúng ta có ba cái tướng: nhân tướng, đặc tướng và hành tướng. Vậy thì chúng ta đang quán sát cái này là quán sát cái nhân tướng hay là hành tướng?
Mình phải đặt thành câu hỏi, chớ bây giờ quán thân tôi biết tôi quán, thân thì nó luôn luôn lúc nào, có khi thì nó động, có khi nó không động, có khi nó yên lặng, có khi nó không yên lặng, phải không? Vì vậy mà tôi quán cái thân này như thế nào? Nhưng mà chúng ta có biết ở trên thân nó có ba cái tướng, cái tướng của nó như thế nào?
Bây giờ tôi có một cái vết thẹo, hay hoặc là một cái cố bịnh nào đó, cái cố tật nào đó, thì tôi đang quán cái cố tật đó mà mọi người không có, thì đó là đặc tướng của tôi, nó riêng biệt, tôi đang quan sát nó, thì cái đó là tôi quán, cũng ở trên thân tôi quán, mà quán đặc tướng.
Cũng như bây giờ, hơi thở của người ta bình thường là ba giây, mà hơi thở tui tới mười giây, tui quán cái hơi thở, tui xem coi thử coi tại sao mà nó chậm như vậy. Thì do đó là tui quán cái đặc tướng của hơi thở trong cái hành tướng của nó.
Còn bây giờ tui quán ở trong cái thân của tui, tại sao mà cái cổ tui nó nổi lên một cái bướu, tui quán, đặc biệt mọi người không có mà tui lại có cái bướu, cho nên đó là cái đặc tướng của tôi. Vì vậy mà tôi đang quán ở trên cái đặc tướng.
Còn bây giờ cũng là trên thân quán thân mà tui quán về đặc tướng, mà trên thân quán thân tu về nhân tướng, nhân tướng của nó, nó có khác chớ, hành tướng nó có khác chứ, cho nên nhân tướng nó như thế nào?
(31:54) Bây giờ cái tướng của tôi đây, nó có cái nhân tướng của nó, phải không. Mà trên thân tui thấy quán nó. cái nhân tướng của tôi thì tôi thấy rất rõ là tay, chân, da, thịt, mặt, mũi rồi tim, gan, phèo, phổi nó cũng đầy đủ như ai hết, hoàn toàn, đó là cái nhân tướng của tôi.
Nhưng mà nhân tướng của tôi thì tôi thấy rõ ràng tôi quán, là tôi xem xét, để xem coi cái thân này nó thơm tho hay là nó thúi. Bây giờ tôi mới xem xét tôi thấy, thì bắt đầu tôi xem xét cái thân tôi.
Thì bây giờ nếu tôi quán nó ở ngoại thân, thì tôi xem xét da rồi lông, móng tay, rồi những cái gì mà bên ngoài của cái thân nó đang bài tiết, như mồ hôi, hay hoặc là nước mắt, nước tiểu, hay hoặc là những gì mà nó đang bài tiết ra, tôi xem xét cái đó, xem coi nó như thế nào, nó có tốt hay là xấu?
Và tôi thấy cái thân của tôi nó uế trược, nó bẩn thỉu, nó tiết ra những cái đó, nó hôi, nó làm cho khó chịu những người xung quanh và chính tôi cũng chịu không nổi nó, thì đó tôi biết là cái thân tôi ở bên ngoài nó bất tịnh. Phải không? Đó gọi là ngoại thân.
Còn nội thân, thì tôi quan sát vào ở bên trong, thì máu, mủ, đờm, nhớt, tất cả những cái gì mà ở trong thân của chúng tôi đã thấy nó, thì đó là nội thân.
Đó là nội và ngoại, thì bây giờ cái này là Chân Huệ đã hiểu. Nó nói nó hiểu rồi, nhưng mà Thầy dạy, Thầy phải nói trở lại.
(33:14) Bây giờ về cái thọ, bây giờ về phần cái thọ. Cái thọ mà nội thọ, ngoại thọ trên một cái thọ. Bây giờ cái thọ là cái cảm giác, cái xúc chạm.
Bây giờ Thầy đụng vào một cái cây, thì cái xúc chạm đó nó làm cho ngay cái thân của Thầy nó bị đau cái chỗ đó, thì nó phát ra cái đau đó, thì Thầy không phải quán ở trên cái thân mà quán cái đau đó, quán cái thọ đó: cái đau đó nó đau nhiều, đau ít, nó đau đổ nước mắt, nó đau cắn răng chịu đựng, nó đau bứt ruột bứt gan, hay hoặc nó đau sơ sơ, hay hoặc nó đau rai rai, hoặc là nó kéo dài thường thường? Đó là mình trên cái thọ quán cái thọ.
Cho nên ở đây chúng ta thấy, nếu mà cái cảm giác mà nó đau, chúng ta quán, không phải quán cái thân mà quán cái cảm giác đau đó, gọi là “trên thọ quán thọ”.
Vậy thì ở đây Phật còn dạy là quán cái nội thọ, và quán cái ngoại thọ, vậy cái nội thọ là cái gì, mà cái ngoại thọ là cái gì? Đức Phật sao mà chi li quá vậy?
(34:22) Đây bây giờ cái ngoại thọ và cái nội thọ. Cái thân của chúng ta nó có va chạm, nó có sanh bệnh, nó mới phát ra cái cảm thọ, bởi vì gọi là thân thọ, gọi là tâm thọ.
Quý Thầy nghe cho rõ, cái thọ một mình nó thì nó không bao giờ thành hình được, vì nó là thân thọ. Ngay cái thân chúng ta bị người ta đánh vào đó thì nó bắt đầu, nó có cái đau của nó ở tại cái chỗ bị đánh, thì cái thọ đau ở tại chỗ bị đánh mà không phải quán cái thân, mà quán cái thọ, cái đau đó, nó nhiều, nó ít, nó đau như thế nào, thì cái mà ị đánh mà đau ở ngoài da chúng ta như vậy đó, gọi là quán ngoại thọ, hiểu chưa?
Còn bây giờ nó ở trong xương chúng ta mà nó nhức, bởi vì cái thọ nó phải ở trong, ở ngoài cái thọ, vì vậy đó, mà cái thọ mà từ trong mà nó đi ra nó làm từ ở trong cái thân, bởi vì đây là thân thọ, đây chúng ta nói về thân thọ.
Còn nói về tâm thọ, thì tức là chúng ta phải nói về cái tâm nó khác rồi. Bây giờ nói về tâm thọ thì tức là Thầy nói về cái thân thọ đi, thì bắt đầu một người đánh mình, hoặc lấy cây kim, hoặc lấy cái dao rạch tay mình đứt, thì cái cảm giác đau ở ngoài da của mình đó, gọi là ngoại thọ, quán ngoại thọ, quán cái đau đó ở bên ngoài đó.
Rồi bây giờ tim, gan, phèo phổi chúng ta đau ở trong đó đó, ở trong cái thân, thì cái thân thọ, mà cái thọ nó ở trong, cũng như bây giờ chúng ta ngứa ở ngoài da này, cái thọ mà ngứa ở ngoài da gọi là ngoại thọ, mà cái ngứa ở trong thân của chúng ta, không có gãi được mà nó làm chúng ta khó chịu, vậy thì cái ngứa ở trong thân đó, nó gọi là nội thọ. Các thầy hiểu.
Bởi vì thân thọ chớ không thể nào cái thọ đó, nó dời cái thân mà nó có cái thọ được. Cho nên nó dựa vào cái thân nó mới phát triển ra cái cảm xúc, cái cảm giác, làm cho chúng ta thấy có cái đau, cái nhức, cái lạc của nó ở trong đó. Đó, thì do đó là nội thọ hay ngoại thọ.
(36:18) Đây là Thầy nói cái thọ khổ, còn cái thọ lạc nó cũng vậy, nó có cái nội và cái ngoại chớ không phải không đâu. Bây giờ một cơn gió mà thổi qua, chúng ta nghe nó mát trong khi trời nóng lực vầy, thì đó là cái ngoại thọ, quán cái ngoại thọ. Phải không, mình quán cái ngoại thọ, nghe cái làn gió nó thoảng, nó mát, thì đây là cái thọ hỷ, nó làm cho chúng ta vui, làm cho chúng ta thích thú, cho nên đó là cái thọ lạc.
Đó thì như vậy là rõ ràng là, phải hiểu biết cái thọ ngoại và cái thọ nội, thì cái cảm giác cơn gió thổi qua, thì chúng ta ngay ở trên cái cảm thọ đó, cái cơn gió thổi qua, chúng ta không thích thú nó, mà chúng ta thấy như là chúng ta cũng như bình thường, cũng như là chúng ta đang ngồi trong một cái nhà (thiếp?) nóng nảy như thế này, mồ hôi mồ hám nhễ nhại như thế này, thì đây là cái ngoại thọ chứ không phải là cái nội thọ.
Hiểu như vậy thì chúng ta mới hiểu được cái chỗ quán của chúng ta nó mới thâm sâu, để mà chúng ta xả trừ chứ gì!
(37:10) Bây giờ trời nóng quá, thôi bây giờ chúng ta đem quạt máy này kia ngồi thiền cho nó ngon lành, cho nó sướng, thì cái người đó đã bị cái ảnh hưởng của ngoại thọ rồi, sai rồi. Bây giờ trời lạnh quá, cho nên chúng ta không thể ngồi thiền được, vì vậy bây giờ chúng ta đốt cái đống lửa lên để mà ngồi thiền, thì cái người này cũng đang bị ở cái ngoại thọ. Tất cả những cái này đều là những cái sai của người tu.
Cho nên chúng ta khi mà gặp những cái thọ đó, thì tâm chúng ta bất động. Bây giờ nóng quá, thì chúng ta phải tu tập để chúng ta xả ly cái nóng đó ở trong tâm mình. Tâm mình nó không thấy nóng thì nó sẽ không nóng chớ gì?
Mà tâm mình cứ thấy nóng thì tức là chúng ta phải đem quạt máy hoặc là đem một cái máy điều hòa không khí để ngồi, cho nên có nhiều người nói, ờ mình bây giờ có nhiều tiền, sẵn thôi mình mua cái quạt máy hay cái máy điều hòa không khí để cho mình điều hòa nhiệt độ, rồi mình ngồi thiền thì nó khỏe quá, mình nhiếp tâm vô, cái đó là tu cái định gì?
Cái định ma, cái tâm mà không xả còn chạy theo cái dục lạc này mà thiền định gì! Thiền đó, định đó để thành quỷ chứ làm cái gì? Muốn đem cái thân này còn thọ những cái thọ lạc như vậy, mà thử hỏi họ làm sao mà họ ngồi thiền mà họ thành Phật được?
Thậm chí có người có tiền họ đem quạt máy, quạt rè rè đó họ ngồi đây cho mát, thử hỏi thấy cái cảnh tu như vậy, thiền đó là thiền gì? Thiền dục lạc!
Bởi vì đang thọ cái dục lạc cho mát để mà ngồi đây thì thôi tốt hơn là thôi Thầy ngồi như vầy, quạt máy thì Thầy viết cái gì còn sướng hơn là Thầy ngồi mà không suy nghĩ, điều đó có làm cái gì đâu, nó có lợi ích gì cho họ đâu? Họ đang chạy theo dục lạc mà họ không thấy cái tướng dục lạc.
Cũng như cái phòng này họ đóng hết cửa lại, không có âm thanh ồn ào gì hết, họ nói nghe ngon quá, bây giờ mình ngồi thiền là ngon. Do đó bây giờ thêm một cái máy điều hòa nhiệt độ nữa là thấy sướng rồi, ngồi thiền mát mẻ, mà không tiếng động, bởi vì cửa kín hết rồi, đâu đóng vô cái thì không nghe rồi, cho nên ngồi không tiếng động. Đây là thiền quỷ, thiền ma chứ đâu thiền gì!
Cái tâm chúng ta đừng dao động trước mọi cái tiếng động, thí dụ như cái máy cày đó nó ồ ồ mà chúng ta vẫn thản nhiên, giữ tâm đừng có dao động với cái tiếng máy cày, đó chính là chúng ta đã chủ động thắng cái tâm của mình, đó là thiền định của đạo Phật, chớ đâu phải tránh cảnh mà thiền định của đạo Phật?
(39:18) Cho nên ở đây chúng ta tu không bao giờ tránh cảnh. Đạo Phật không yếm thế, không trốn đời, mà giải quyết tâm chúng ta bất động trước mọi hoàn cảnh thọ, cho nên Phật dạy chúng ta phải quán thọ trên ngoại thọ.
Các con bây giờ mới hiểu được cái chỗ này chứ nếu mà không có Chân Huệ hỏi thì bài pháp này Thầy đi giảng qua suông, sau này Thầy viết sách thì thời may các con mới hiểu được cái chỗ này, chớ không Thầy giảng rồi thì các con cũng chưa hiểu được cái chỗ này đâu. Cho nên phải thấu suốt được cái ngoại thọ và cái nội thọ.
Bây giờ cái nội thọ như thế nào? Ở trong ruột Thầy bây giờ nó đau ruột dư đi, nó đau nó thét lên, nó đau quá trời, thì cái đó là nội thọ. Mà một cái người mà người ta tu về quán cái thọ trên thọ, mà về nội, thì bắt đầu người ta vẫn giữ cái tâm người ta bất động không sợ hãi đâu, không có lo lắng cái chỗ mà đau ruột thừa này sẽ chết đâu.
Mặc dù là người ta nói nó tràn mủ, nó bể ra, nó tràn mủ ra là phải chết, nhất định là cái người mà tu quán thọ trên thọ, mà ngoại thọ, nội thọ như vậy, họ chẳng hề rung động đâu, họ vẫn thản nhiên, tâm không bao giờ, họ bất động, đau mặc đau, chớ họ bất động. Như vậy là họ đã chiến thắng được nội thọ.
Và một cái người mà tâm không dao động, thì cái cơn bệnh nó sẽ chiến thắng một cách rõ ràng. Còn chúng ta đau mà chúng ta dao động tâm, cạo gió hay hoặc là uống thuốc hay hoặc này kia, thì hoàn toàn là chúng ta không có thể nào thắng được cái thọ đâu.
Còn tâm chúng ta kệ, mình phải lo ở chỗ mà giải thoát cho mình, tâm không dao động.
Bây giờ mình, giờ này giờ tu cái gì đây? Hơi thở, thì hoàn toàn là nhiếp vào hơi thở. Bây giờ, giờ này giờ tu cái gì đây? Giờ này giờ tu Chánh Niệm Tỉnh Giác, đi kinh hành, đau mặc nó, kệ nó, ở đây tâm không có rung động, không có sợ hãi, chừng nào chết bỏ, nhất định là, hoàn toàn là giữ pháp, tùy pháp, sống theo pháp cho đúng pháp Phật dạy, thì chừng đó gọi là quán thọ trên thọ ngoại, hoặc là quán thọ trên nội thọ.
Đó là cách thức tu về ngay cái Tứ Niệm Xứ mà chúng ta tu về cái pháp Tứ Niệm Xứ đó.
(41:18) Đó thì ngoại tâm, nội tâm, ngoại pháp, nội pháp. Thì bây giờ Thầy nói cái nội thọ, ngoại thọ rồi, thì nội tâm và ngoại tâm. Cái tâm của chúng ta nó có những cái, bây giờ cái tâm của chúng ta, phải thấy rằng cái tâm của chúng ta nó có nội tâm và ngoại tâm.
Ngoại tâm là cái gì? Ngoại tâm là cái tâm chúng ta khởi ra, lo lắng cho cái ngã sở của nó. Hồi nãy Thầy thấy nó ngã và ngã sở chớ gì. Mà nó lo lắng cho cái ngã của nó, cho cái phần của nó, cho riêng tư của nó, thì đó là nội tâm, nó lo lắng suy tư cho cái nội tâm của nó, thì nó phải lo lắng cho cái bản ngã của nó.
Thì những cái niệm mà nổi lên ở trong cái nội tâm của nó như vậy, thì chúng ta quán xét cái niệm của cái tâm lúc bấy giờ nó ở nội tâm đó, nó lo cho nó cái gì? Nó lo cho nó thế nào? Bây giờ nó lo cho nó ăn nè, cho ngon này, nó thích cái đó, đó là nội tâm.
Còn bây giờ ngoại tâm, nó lo cho người khác ở ngoài, nó lo cho các pháp ở ngoài đó, thì cái đó là ngoại tâm. Ngồi đây mà mình nhớ thương, anh em, chị em hay là cha mẹ mình, đó là ngoại tâm. Mà khi cái niệm đó nó khởi lên, cái tâm của mình, bởi vì cái tâm mình nó có, là phải có cái niệm chớ? Còn nó không có làm sao nó có cái niệm được?
Mà nó có cái niệm, thì do cái niệm ngoại tâm hay là nội tâm mà mình quán xét, để mình dùng cái Định Vô Lậu mình phá nó đi, nó không có còn nữa. Phải không? Cho nên nó làm sao mà nó chi phối được tâm mình, nó làm sao cho nó làm khổ mình được?
Cho nên cái nội tâm và ngoại tâm này nhắm vào để chúng ta đoạn dứt tất cả những cái Thất Kiết Sử, nó làm cho không trói buộc cái ngoại tâm và nội tâm chúng ta được.
(42:58) Đó thì hôm nay, thì quý thầy đã thấy rõ cái nội thọ và ngoại thọ. Và nội ngoại một lượt, vừa nội, vừa ngoại, nó có một cái niệm mà vừa nội, vừa lo cho nó mà vừa lo bên ngoài.
Cái thọ nó cũng vậy, nó vừa đau ở trong mà nó vừa đau ở ngoài, nó ảnh hưởng như vậy đó, nó làm như vậy. Thì trong khi mà cái cảm thọ nó vừa ngoài, vừa trong thì chúng ta quán vừa trong mà vừa ngoài hết, để đập phá nó xuống, để tâm không dao động.
(43:21) Nội pháp, ngoại pháp, thì cái này chắc mấy con cũng rõ. Hễ khi mà nói nội thọ, ngoại thọ, nội tâm, ngoại tâm rồi thì các con biết rằng nội pháp, ngoại pháp rất rõ ràng.
Thí dụ một cái pháp tham, sân, si, mạn, nghi, là cái Ngũ Triền Cái. Vậy thì cái gì mà thô phù của cái pháp này là nó ngoại, mình tham cái mình lấy cái đó đi, thì đó là ngoại pháp, nó bên ngoài. Mà nội pháp thì chưa có lộ ở bên ngoài, mà nó ngầm ngầm nó tham ở bên trong, nó khó hơn.
Thí dụ như bây giờ Thầy muốn cái đồng hồ này mà Thầy chưa ăn cắp người ta, chưa lấy hay hoặc là chưa có mua. Nhưng mà nó cứ nhớ nhớ hoài đến, nghĩ rằng mai mốt mình tích tiền, mình làm cho có tiền mình mua sắm nó, thì đó là nội pháp.
Bởi vì cái đồng hồ này là cái pháp mà, cái vật đó là cái pháp mà, cho nên do nó làm cho cái tâm tư của mình khởi lên khả hỷ, khả lạc, thích thú, vì vậy mà ở trong tâm mình nó chưa có cái vật đó, nó làm cho mình ưa thích nó, rồi mình tìm cách để cho có nó, đó.
(44:26) Còn ngoại pháp thì nó không phải còn ngấm ngầm trong tâm nữa, mà chợt thấy một cái vật gì đó cái mình ham thích liền, thì ngay cái ngoại pháp đó.
Cho nên quán ở trên nội pháp và ngoại pháp. Khi mà ngoại pháp thì vừa chợt mà nó dính vào mắt của mình một cái vật đó, thì ngay đó cắt đứt liền, cho nên Phật nói “khi mắt thấy sắc đừng cho dính sắc”, đó là ngoại pháp đó. Mà khi mà nó đã dính rồi thì đoạn diệt, tức là nội pháp đó. Nó đang ham muốn rồi thì đoạn diệt. Bây giờ nó thích một cái xe Dream, thì tức là nó phải đoạn diệt, tức là nội pháp.
Còn hồi nó mới thấy người ta cỡi, nó chưa có biết cái xe Dream như thế nào, bây giờ nó thấy người ta cỡi, thì bắt đầu nó vừa thấy nó ham, thì đây là ngoại pháp, cho nên mình đoạn dứt ngay ngoại pháp, không có cho con mắt mình nó dính với cái xe đó, với cái vật đó, thì đó là ngoại pháp.
Còn bây giờ nó đã dính rồi, cho nên bây giờ cái tâm nó ngầm ngầm nó ham thích rồi, nó muốn rồi, thì do đó mình tìm mọi cách để mà tu cái Định Vô Lậu, quét cho sạch đừng có cho tham cái đó nữa, thì tức là mình đã cứu mình ra khỏi cái thế gian đau khổ. Còn nếu không thì mình sẽ bị.
Vì vậy mà trên các pháp của Phật, mà trên Tứ Niệm Xứ, mà ngay pháp Tứ Niệm Xứ mà tu tập thì chúng ta thấy nó đã có kết quả để mà ngừa ác, mà ngừa cái ác tức là tham, sân, si chúng ta đó, mà đoạn dứt ác để chúng ta sống trong thiện pháp.
(45:45) Đó là những cái mà hỏi những cái từ, để rồi Thầy giảng ra để cho hỏi cái cách thức tu cho biết cách thức của nó nữa. Chứ nếu không thì chúng ta đâu biết.
Vì vậy mà hằng ngày chúng ta đã có những cái pháp tu để ngừa ác và đoạn dứt ác, đó là cái pháp Chánh Niệm Tỉnh Giác, và cái pháp Định Niệm Hơi Thở và cái Định Vô Lậu, ba cái pháp này nó giúp chúng ta.
Vậy mà Đức Phật còn sợ chúng ta chưa đủ ở trong Tứ Chánh Cần, trong những pháp tu như thế này, nó chưa đủ, nó chưa làm chủ hoàn toàn, cho nên vạch ra cho chúng ta thấy rõ để khi mà nó có xảy ra, nó có nổi lên, nó có khởi niệm ác ra, thì ngay đó là chúng ta đã biết ngăn chặn liền.
Như ngoại pháp, thì mắt mình vừa thấy sắc thì ngay đó chúng ta đã biết nó là ngoại pháp rồi. Mà ngoại pháp rồi thì đoạn dứt không cho mắt dính cái sắc đó, do đó thì làm sao có nội pháp mà dính trong tâm?
Như vậy là chúng ta không có cho nó sanh khởi. Mà nó đã sanh khởi thì nó ở nội pháp rồi, mà nội pháp thì chúng ta phải dùng Định Vô Lậu mà quét nó ra. Cho nên đó là giải thoát.
Đó là những lời của Chân Huệ hỏi về pháp Tứ Niệm Xứ.
HẾT BĂNG
PHÁP HÀNH 29 - HÃY SỐNG RIÊNG MỘT MÌNH NHƯ TÊ NGƯU MỘT SỪNG
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Thời gian: 1998
(0:00) Cái hiểu biết ở trong một cái hạn lượng của nó thôi, nó không thể ngoài cái hạn lượng đó. Cho nên đặt cái câu hỏi ngoài cái hạn lượng đó thì không thể được.
Thí dụ như ông Visakha hỏi bà Dhammadina, thì hỏi bà như thế này: “Niết Bàn là có cái gì tương ưng với cái điều đó không?” Nghĩa là nói cái Niết Bàn có cái gì tương ưng không.
Thì bà trả lời: “Ông hỏi quá cái chỗ tâm hữu hạn của ông rồi. Cái tâm của ông không có hiểu cái chỗ đó mà ông hỏi như vậy là sai rồi, không đúng rồi. Bây giờ có nói ông cũng không hiểu nữa, cái sức của tâm, cái ý thức nó hiểu tới mực đó thôi, nó không thể hiểu hơn được nữa, mà nói, hỏi cái chỗ hiểu đó thêm nữa thì không thể hiểu được.”
Cũng như nói về cái sự hóa sanh, thì người ta cũng không hiểu nổi nữa. Mà bây giờ giải thích về cái sự hóa sanh thì người ta còn đi hiểu một cách, cái tâm hữu hạn đó nó có cái hạn lượng của nó, thì nó hiểu cái đó không đúng đâu. Làm sao mà con người biến hóa ra được! Cho nên những cái đó đều là chúng ta không thể hiểu được.
Bây giờ nói về cái thân của chúng ta có cái trọng lượng như thế này này, mà ra lệnh nó bay lên, thì thử hỏi cái ý thức của chúng ta, cái mà chúng ta hiểu bây giờ, biết bây giờ, nó có cái hạn lượng của nó: Làm sao mà cái thân có trọng lượng như vầy mà nó bay được cà, mà không ai nâng đỡ lên mà nó bay được? Thì như vậy làm sao cái ý thức của chúng ta, cái hiểu biết của chúng ta nó có hạn lượng, cho nên làm sao nó hiểu được cái này.
Cũng như bây giờ một cái thân này, mà Thầy ra lệnh nó làm một cái thân nữa nó ngồi đây, “Trời, sao kỳ vậy!” Thì cái hiểu đó nó không hiểu được nữa. Nó thấy vậy là nó hay vậy, chớ nó hiểu nữa nó không hiểu rõ gì hết, nó không biết nữa. Bây giờ có nói có giải thích gì đi nữa cái người đó họ cũng chẳng hiểu.
Thầy lấy ví dụ như bây giờ Thầy dùng một cái pháp hướng mà Thầy ra lệnh, thí dụ nè: “Cái thân này phải biến ra một trăm cái thân nữa, đầy cái sàn nhà này đi!”, thì bắt đầu nó ngồi đầy sàn nhà thì các con thấy nó ngồi đầy đó. “Ủa sao kỳ vậy ta, nó làm sao mà nó làm được như vậy?” Thì cái tâm hữu hạn đó, nó hiểu ở cái tầm vóc hiểu của nó thôi chớ ngoài cái vấn đề này thì nó không hiểu được.
(01:57) Cũng như bây giờ này Thầy bảo cái đầu nè, phóng ra lửa nè, bay qua đầu, bây giờ đầu Thầy nó phóng lửa, lùi lùi nó ra, ai cũng thấy lửa nóng, các con chạy lùi ra hết, không có dám ở đây hết, bởi vì lửa nó ra quá trời, cho nên các con quá sợ hãi, lạ lùng sao cái đầu lửa nó phun ra như vậy?
Các con không hiểu nổi gì hết, cho nên cái này không thể nói được, vì vậy mà gọi là tâm hữu hạn, nó có cái hạn lượng hiểu đó thôi, chớ còn không hơn được cái điều đó. Cho nên những cái này là phải là cái tâm khác chớ không phải là cái tâm này. Mà cái tâm này hồi nãy Thầy nói ý thức của chúng ta.
Con người chúng ta đang sống trong ý thức thì chúng ta không hiểu được cái siêu việt được, chúng ta phải hiểu ở trong cái tâm thức của nó thôi, cái ý thức của nó thôi, chớ không thể mà hơn cái hiểu được, cho nên nó có cái hạn hữu của nó ở trong đó thôi, nó ngoài cái đó nó không hiểu.
Cho nên nghe Thầy nói tu Tứ Như Ý Túc là mình muốn cái gì nó có cái nấy, muốn làm cái gì, thí dụ như bây giờ, một cái ca này, Thầy bảo phải có một cái ca khác nữa, là hai cái nó ca, rõ ràng là không ở chợ mua đem về mà tại sao có cái ca này, mà cũng giống y như vậy, cầm lên coi cũng giống như vậy. Lạ vậy? Làm sao nó biến như vậy? Thì cái tâm hữu hạn đó, không có thể nào mà giải thích cho các con hiểu được.
Nhưng mà có một cái tâm, mà khi mà các con chứng đạt được, đó là cái Thức Thức của các con, thì các con sẽ hiểu, các con biết rất rõ ràng, từ đâu mà nó làm cái này các con hiểu. Một người mà tu chứng rồi thì người ta thấy cái chuyện đó là cái trò đùa chơi vậy thôi chứ còn không có cái gì mà khó khăn hết. Người ta biết nó từ đâu mà ông này ông làm nó ra được như vậy, ông sai lệnh mà làm nó ra được, mà từ đâu nó làm ra, ông ta hiểu liền.
(03:28) Bây giờ thì đối với các con nè, cái tâm thức của các con, cái ý thức của các con nó ở trong cái hạn lượng hiểu của nó thì nó không thể hiểu nổi.
Cho nên trong cái thế gian này, dùng cái tâm mà hiểu biết, tức là cái Tam Minh đó, cái trí tuệ Tam Minh hiểu biết, thì nó, cái con người mà, so với cái hiểu biết của con người thì nó như một cái hạt cát, còn người ta như là một cái bãi cát.
Thì các con hiểu biết rằng cái sự tu tập của các con nó đưa đến các con có một cái tâm rộng hiểu biết, nó không có cái bờ mé nào mà ngăn chặn, nó vô biên cái sự hiểu biết, chỗ nào nó cũng hiểu biết được, cái gì mà khó hiểu nó hiểu.
Chớ đâu phải như các nhà khoa học tìm ra được một cái gì đó, phát minh ra được cái gì gọi là mình ngon đâu. Cái chuyện đó đối với một cái người tu sĩ đạo Phật, với cái thiên nhãn của họ, họ nhìn suốt qua tất cả mọi cái.
Cho nên ngày xưa trong một cái ly nước như thế này, có kính hiển vi ở đâu mà Đức Phật vẫn biết vô trùng lượng chúng sanh ở trong đó? Bây giờ người ta mới ngạc nhiên, ông Phật ổng làm sao biết ở trong đó là có vô lượng chúng sanh ở trong?
Thì các con rõ ràng là, ngày xưa trong cái thời còn bộ lạc, mà Đức Phật đã nhìn thấy được như vậy, thì thử hỏi là lúc bấy giờ với cái tâm hữu hạn của các con, các con làm sao hiểu?
Người ta hiểu biết được là nhờ máy móc, cái kính hiển vi người ta soi ra, người ta mới thấy được. Còn bây giờ người ta dùng cái viễn vọng kính người ta mới nhìn lên trên trời, người ta thấy, mới tìm ra được những sao này, sao kia. Ông Phật ông có cần cái thứ đó đâu, phải không các con?
Ông đâu cần cái thứ đó, mà ông đâu cần con mắt này mà nhìn đâu! Ổng chỉ dùng cái Thiên Nhãn Minh của ổng, là ổng thấy suốt được cả cái không gian vũ trụ này, nơi đâu mà có cái hành tinh mới là ông đều biết hết. Thì ổng là nhà thiên văn đại tài nhứt chứ còn ai hơn? Khỏi cần viễn vọng kính gì hết, khỏi cần cái thiên văn kính nào hết, mà ông còn thấy được suốt như vậy.
(05:24) Cho nên một cái cuộc đời mà tu hành theo đạo Phật không phí đâu các con. Nếu các con tu đúng, không bao lâu nữa các con sẽ thành tựu, đạt được cái mục đích này.
Thầy thấy con đường tu không phải khó, nhưng khó vì các con không chịu bỏ, không chịu ly. Cái khó nhất là cái các con bứt cho sạch Thất Kiết Sử, những cái sợi dây ràng buộc đó, để các con đạt được cái chỗ này, rồi từng đó các con mới suy ngẫm, mình đâu phải là một cái máy móc gì mà mình lại thông suốt như vậy?
Từ cái chỗ đó các con mới thấy được cái con người, cái thân con người nó là một cái máy vi diệu vô cùng, mà chúng ta không chịu triển khai nó ra để mà chúng ta quan sát, hơn là những cái máy móc mà của khoa học hiện đại đã chế ra.
Chúng ta biết con đường chúng ta tu là đúng. Mà cái khó là chúng ta phải ly dục, ly ác pháp, phải lìa ra tất cả những cái, để tâm chúng ta trở về thanh tịnh trong suốt. Từ cái trong suốt đó chúng ta có đủ cái quyền lực mà chúng ta có thể làm chủ được tất cả mọi sự việc. Cho nên không gian vũ trụ này trải dài, nhưng đối với chúng ta không dài, nó chỉ nằm trên một điểm mà thôi.
Tâm vô thượng là gì? Ở đây nói cái tâm hữu hạn thì tức là nói đến tâm vô thượng. Tâm vô thượng là cái tâm mà không thể nghĩ lường được, bất tư nghì, trong kinh Phật thường nói “bất tư nghì” - cái tâm không thể nghĩ lường.
Chớ không phải vô thượng là, như là người ta tự xưng mình là Vô Thượng Sư, là một vị sư lớn nhất không có ai bằng, không phải đâu. Tâm Vô Thượng có nghĩa là cái tâm thông suốt, thông suốt cả một rừng lá cây, chớ không phải có một nắm lá cây. Đó là cái ý nghĩa của tâm hữu hạn và tâm vô hạn.
Đó thì, như vậy thì các con biết được những cái danh từ mà Phật đã chỉ cho chúng ta biết, như nãy giờ Thầy vừa so sánh giữa cái tâm hữu hạn và cái tâm vô hạn để các thầy đều hiểu biết. Thì Đức Phật không nói cái tâm vô hạn mà lại nói tâm vô thượng, nó còn hơn nữa cái tâm vô hạn.
Đó thì, như vậy thì những cái danh từ dùng như vậy thì các con đã hiểu biết. Mà khi các con tu tập là các con phải đạt được đến mức độ nào? Đến cái chỗ mà tâm hữu hạn của các con không thể hiểu, không thể lường được. Một cái cuốn tập này, bảo phải ra một trăm cuốn tập, liền tức khắc nó nằm một đống cho chúng ta thấy một trăm cuốn tập, thì như vậy chúng ta mới biết rằng cái sự tu tập của chúng ta không có phí đâu.
(07:46) Nhưng tiếc vì đó là cái ảo thuật mà chơi, chớ không phải là cái chính của mục đích chúng ta nhắm vào. Vì ở đây Thầy muốn nói để cho thấy được cái hữu hạn và cái vô hạn của cái tâm của chúng ta mà thôi, chớ không phải nhằm khuyến khích cho các thầy đi tìm cái thần thông này, nó không phải là cái mục đích chính.
Và cái mục đích chính của chúng ta là làm sao thoát ra bốn cái cảnh đau khổ của chúng ta: sanh, lão, bệnh, tử, chấm dứt luân hồi, đó là cái chính của chúng ta. Còn những cái đó nó không có cần đâu, vì đối với chúng ta có cái đó cũng như là không có vậy.
Đúng trường hợp, mà vì lợi ích cho cho mọi người, vì Phật pháp thì chúng ta vẫn thị hiện được những điều này, không ai cấm chúng ta được.
Nhưng vì trò chơi để cho thiên hạ, để khoe danh, để mà nói rằng mình người siêu việt, để cho báo chí đăng mình là người thế này thế khác, chui qua Vạn Lý Trường Thành, hay hoặc là dìm trong nước không chết, chôn trong đất không chết, thì đó là những cái trò bịp bợm, cái trò gạt người.
Đối với một người tu sĩ để nhắm vào giải thoát thì không có biểu diễn cầu danh, cầu lợi một cách vô lý như vậy. Cho nên ở đây chúng ta không phải nhắm vào cái chỗ đó, để làm trò thiên hạ xem chớ không phải giải thoát cho chính bản thân mình. Còn tu chính bản thân mình giải thoát là phải như vậy.
(09:00) Đó là về cái phần của Chân Huệ, tuy rằng Thầy chưa có viết ra những cái câu hỏi này cho nó hết, vì viết ra thì nó trở thành cái tài liệu để cho các con nhớ mà không quên, còn không viết thì coi đương nhiên là nói rồi thì cũng có nhớ, cũng có quên, có hiểu đó, nhưng mà ghi, thật sự ra các con cũng ghi không kịp cái miệng của Thầy đâu. Cho nên nó cũng sẽ không có đủ để cho các con ghi chép.
Sau này Thầy cũng chịu khó ngồi lại để mà ghi chép. Vì mấy bữa rày Thầy rất bận, cho nên Thầy trả lời những câu này, kêu là trả lời qua cái miệng của mình đây thôi, chớ còn cái mà ghi chép lại để thành văn bản, để mà photo ra mà gởi cho các con mỗi đứa một bản để dành lưu lại những cái này, để biết con đường tu Tứ Niệm Xứ như thế nào đúng, như thế nào sai.
Thầy chỉ có giảng một lần thôi chứ Thầy đâu có giảng nhiều lần, do đó nó chỉ kết tập thành những cái bài giảng như vậy để cho các con có những tài liệu, và những tài liệu đó để lại cho đời sau, ai có đủ duyên thì người ta sẽ tu tập.
(10:02) Ở đây cô Diệu Hảo hỏi Thầy, thiệt ra thì những cái này là những cái Thầy đã dạy đi, dạy lại nhiều lần rồi, nhưng mà cô thì lớn tuổi rồi cũng không có để ý cho lắm cho nên cái nhớ, cái quên vì vậy mà hỏi lại Thầy.
Hỏi: “Kính thưa Thầy! Tịnh chỉ Tầm Tứ, tịnh chỉ âm thanh, tịnh chỉ hơi thở, trong ba câu này con nghe Thầy dạy mà con không hiểu. Con tu định Diệt Tầm Diệt Tứ, con nghe câu “tịnh chỉ hơi thở”, “tịnh chỉ Tầm Tứ” mà con không biết nó phải áp dụng vô khoảng nào, đầu hay cuối khóa thời tu hay là đầu thời tu? Con tu phá âm thanh nên con xin dạy dùm con những câu này cho con biết.”
Đây bây giờ hỏi Thầy cái câu mà “tịnh chỉ Tầm Tứ”, thật ra trước khi mà tịnh chỉ Tầm Tứ, muốn dùng cái câu “tịnh chỉ Tầm Tứ”, thì trước khi mình muốn tu mà được tịnh chỉ Tầm Tứ này thì mình phải có một cái tâm thanh tịnh, tức là tâm ly dục ly ác pháp, chớ không phải là ức chế nó mà không vọng tưởng không tác ý là Tầm Tứ, mà mình phải ly dục ly ác pháp.
Mà đến khi mà mình muốn tịnh chỉ Tầm Tứ thì thời gian mình phải tu một cái pháp hướng. Tức là mình hướng tâm mình nhắc: “Tầm Tứ phải tịnh chỉ!” Mình nhắc nó như vậy, rồi nó chưa có tịnh chỉ đâu, rồi mình nhắc lần thứ hai, lần thứ ba, lần thứ tư cho đến mười lần, một trăm lần… thì nó mới tịnh chỉ.
(11:39) Rõ là cái hướng tâm trước, rồi bây giờ đó, các con mới tịnh chỉ Tầm Tứ, tới cái chỗ mà con hỏi Thầy, mới tịnh chỉ Tầm Tứ, thì lúc bấy giờ con đã có một cái năng lực, ra lệnh là nó tịnh chỉ, thì bấy giờ con chỉ dùng một cái câu một lần đầu tiên.
Còn cái kia thì con phải hướng tâm con nhắc nó mãi, cho nên vì vậy mà con phải nói “Tầm Tứ phải tịnh chỉ!” rồi con nương vào cái hơi thở ra, hơi thở vô một lúc, khoảng độ chừng năm hay mười hơi thở, hay một phút, hai phút, con mới nhắc một lần nữa “tịnh chỉ Tầm Tứ!” hay là “Tầm Tứ tịnh chỉ!” con nhắc ra lệnh nó vậy.
Rồi con cũng nương vào cái hơi thở cho giữ cái sức tỉnh thức của mình trong cái hơi thở, biết hơi thở ra, biết hơi thở vô. Và nó cũng chưa có ngưng, Tầm Tứ nó cũng chưa có ngưng, cho nên vì vậy đó, mình ra lệnh một lần nữa: “Tầm Tứ phải tịnh chỉ, tịnh chỉ ngay liền tức khắc!”
Như vậy là năm, mười lần hay hoặc trăm lần thì Tầm Tứ nó sẽ tịnh chỉ và cái hơi thở lần lần nhẹ nhàng và mất, do đó là mình đã tịnh chỉ Tầm Tứ nhập Nhị Thiền.
Cho nên cái chỗ cuối cùng mình ra lệnh cái nó nhập liền, tức là cái Tầm Tứ nó tịnh chỉ liền, thì cái đó là “tịnh chỉ Tầm Tứ”, còn cái kia gọi là “hướng tâm tịnh chỉ Tầm Tứ”, hai cái đó nó có khác nhau chớ không giống nhau. Đó.
(12:50) Còn bây giờ “tịnh chỉ âm thanh”, tịnh chỉ âm thanh tức là con phải đạt được cái trạng thái tịnh chỉ Tầm Tứ, rồi mới nói là tịnh chỉ âm thanh.
Còn bây giờ con còn có vọng tưởng nè, con chưa có ly dục ly ác pháp sạch nè, mà con tịnh chỉ âm thanh thì cái điều này là điều khó. Không có thể dễ đâu, cái tâm còn bỉ thử, còn ghét, còn thương, còn này kia nọ thì không có, con còn thấy cái người khác mà con còn thù hận do họ nói xấu, nói này kia mình, thì cái tịnh chỉ âm thanh này không bao giờ mà con làm được hết.
Nghĩa là cái người đó họ là người làm cho mình đau khổ, làm cho mình thù oán họ, mà mình bây giờ mình không có thù oán, mình vẫn thấy thương họ. Sống bên họ mình thấy thanh thản như là những người anh em khác vậy, những người bạn khác vậy, những chị em khác vậy, chớ không thấy có cái gì chướng ngại.
Còn mình thấy họ là một người chướng chướng ở trong tâm của mình, thì tức là mình tịnh chỉ âm thanh không được đâu. Tức là tâm mình chưa (diệt) Tầm Tứ đâu, nó còn tầm ác đó, cho nên nó chưa có toàn diện tầm thiện.
Như vậy là Sơ Thiền mình cũng chưa đạt được, tức là tâm ly dục ly ác pháp chưa đạt được thì đừng có mong gì mà Tầm Tứ tịnh chỉ. Mà Tầm Tứ chưa tịnh chỉ mà tịnh chỉ âm thanh này làm sao mà làm cho được?
Đó thì như vậy các con thấy rất rõ, cho nên ở đây chúng ta phải biết được cái trạng thái của chúng ta, và biết được cái tâm xả ly của mình được nhiều hay ít.
Mình có xả chớ không phải không xả, nhưng mà nhiều khi có những chuyện mình xả không được, chưa được, cho nên mình phải dùng những cái Định Vô Lậu để quét cho sạch. Có cái thô mình mới xả được, nhưng đến cái tế, nó quá vi tế mình xả chưa được, cho nên mình cố gắng mình xả cho được cái vi tế, thì lúc bấy giờ mình tịnh chỉ Tầm Tứ rất dễ dàng.
Chính trong tâm mình nó còn ác pháp, nó ác pháp tức là nó thấy người khác nó không ưa, nó ghét người khác, thì tức là đó là ác pháp rồi. Mình biết mà mình là người tu, mình phải biết được cái tâm mình nó đang không ưa ai thì nó biết, mà nó không ưa thì tức là bị ác pháp rồi.
Mà ác pháp không ngăn chặn mà cứ để sống trong tâm mình như vậy, cho nên mình biết rằng ác pháp mình phải chặn, mà chặn nó như thế nào? Tức là mình phải hòa giải giữa mình với cái người mà mình không ưa, thì lúc bấy giờ gọi là ác pháp đã xóa nhòa, đã sạch.
Còn nếu mà mình cứ để cái tâm mình chướng ngại với cái người khác thì lúc bấy giờ đó là ác pháp chưa xả. Mà ác pháp chưa xả thì làm sao mà gọi là ly dục ly ác pháp, cho nên làm sao mà nhập được Nhị Thiền (diệt) Tầm Tứ, làm sao tịnh chỉ Tầm Tứ đây?
(15:09) Mà bây giờ tâm mình nó thanh thản, người nào mình cũng thấy là huynh đệ, là chị em như một nhà an vui. Mặc dù là mình phải hiểu biết mọi người đều là sống trong nhân quả, cho nên người ta có nhân quả thiện và nhân quả ác ở trong đó, có gì mà tâm mình phải chướng ngại để cho mình cũng mang lấy cái nhân quả thiện và nhân quả ác đó làm chi? Cho nên mình xả hết thì mình không có nhân quả nữa.
Mà mình không có nhân quả thì quả ác không có xâm chiếm được cái tâm của mình, tức là ác pháp không có đến với mình, thì lúc bấy giờ con mới diệt Tầm Tứ mới dễ, phá âm thanh mới dễ, đó con hiểu chưa?
Như vậy thì bắt đầu con hỏi Thầy “tịnh chỉ hơi thở”, hỏi Thầy ở cái mức quá cao, mức mà làm chủ được cái sự sống chết rồi.
Do đó thì con phải hoàn toàn là tai không nghe dù là tiếng sét, trời sét con cũng không nghe nữa, chớ đừng nói chi mà bây giờ con nhiếp tâm vô nó tỉnh như vậy mà rồi con còn nghe thì con chưa có phá được.
Bây giờ con mới xét lại, tại sao mà mình hướng tâm mình nhắc âm thanh nó không yên? Như vậy là Tầm Tứ mình nó chưa sạch, mình phải tu tập lại, nghĩ kỹ lại để diệt Tầm Tứ cho thật sạch.
Và bây giờ tại sao Tầm Tứ không sạch? Mình lui trở lại mình thấy rằng ly dục ly ác pháp chưa xong, nó còn cái gì chướng chướng trong tâm của mình, còn lo lo ở cái gì trong bụng của mình đây, cho nên do đó ác pháp nó còn, cho nên còn lo, còn sợ, còn thương, còn ghét, tức là những cái đó gọi là ác pháp!
Chứ đừng nghĩ rằng ác pháp là những cái gì mà làm đau khổ chúng ta đâu! Ác pháp, chúng ta rất sợ cái ác pháp là cái tình thương của chúng ta, cái sự mà giải quyết cái này cái kia, điều đó là điều ác, chớ không phải là thiện pháp.
(16:39) Đó, thì hôm nay Thầy nhắc lại về cái tịnh chỉ hơi thở, thì tức là con phải phá cho được âm thanh. Phá được âm thanh, phá vọng tưởng cho được thì mới tịnh chỉ hơi thở. Còn cái phá âm thanh, phá vọng tưởng chưa được mà tịnh chỉ hơi thở thì coi như chưa tới, không phải lúc.
Cho nên ở đây những cái lời hỏi của con, thì để cho con hiểu biết được bây giờ con phải tu cái gì? Nghĩa là mình phải xét lại nội tâm của mình, vọng tưởng hết chưa?
Trong ba mươi phút nè, nếu hoàn toàn (chưa) hết thì bây giờ con lui lại, “tại sao mình tịnh chỉ âm thanh không được?”
Thì mình lui lại, mình xét coi cái tâm mình xả có sạch không, còn gì chướng duyên trong này không, còn ác pháp không? Nếu mà không còn ác pháp, thì như vậy là mình sẽ tu tập tịnh chỉ Tầm Tứ này. Tuy ba mươi phút mà chưa thuần, cho nên nó phá âm thanh chưa được.
Do đó bắt đầu mình kéo dài cái trạng thái khi mà mình hướng tâm tịnh chỉ Tầm Tứ rồi bắt đầu, suốt ba mươi phút này, mình ngồi im lặng ở trong cái trạng thái không Tầm, không Tứ.
Suốt thời gian như vậy mình tu khoảng một tuần lễ, thì bắt đầu mình tịnh chỉ âm thanh. Mình cũng nằm yên ở trên cái trạng thái mà yên lặng đó, y như là mình nhập Nhị Thiền vậy, thì bắt đầu mình cũng giữ cái trạng thái đó rồi mình phá âm thanh, để xem có âm thanh còn không.
Nếu âm thanh còn thì cái sức tịnh chỉ Tầm Tứ đó, cái sức tịnh chỉ đó, nó chưa có chặt, nó chưa có sâu, cho nên mình lại tập tu ở trên cái sức tịnh chỉ Tầm Tứ nữa.
Mặc dù nó hết Tầm Tứ, nhưng mà cái khởi sự nó mới hết thì nó không phải là cái người mà tịnh chỉ Tầm Tứ lâu ngày. Người mà tịnh chỉ Tầm Tứ lâu ngày nó có một cái trạng thái rất là chặt chẽ, bám rất chặt, nó làm cho cái tâm chúng ta không có hướng ra ngoài, cho nên âm thanh không nghe.
(18:13) Đó thì bắt đầu chúng ta không nên hướng âm thanh, mà chúng ta phải trở về hướng diệt Tầm Tứ, để chúng ta ngồi trong ba mươi phút im phăng phắc, luôn luôn lúc nào chúng ta cũng thấy có một cái trạng thái sâu xa ở trong cái sự tu tập đó.
Do đó cứ ba mươi phút xả ra nghỉ. Nghỉ rồi mình thấy mình tu với ba mươi phút bây giờ quá thuần rồi, nó không có mệt nhọc gì nữa, do đó mình đi kinh hành một vòng hay hoặc hai vòng, cái mình vô mình xếp chân mình ngồi ba mươi phút nữa.
Rồi bắt đầu ba mươi phút trôi qua mình xả ra mình nghỉ, mình giữ cái tâm của mình không Tầm, không Tứ đó, cho đến một tuần lễ hoặc một tháng, thì bắt đầu đó mình mới nhập vào cái trạng thái của diệt Tầm Tứ đó.
Rồi mình nương nhẹ cái hơi thở, bắt đầu đó mình mới dùng pháp hướng mình phá âm thanh. Thì lúc bấy giờ mình nhắc, mình nghe cái âm thanh nó văng vẳng, văng vẳng rồi nó mất hẳn, thì biết rằng cái tâm nó bám càng ngày càng chặt vô, nó có cái sức tỉnh bám bên trong mà nó không có nương ra bên ngoài.
Đó là cách thức tu như vậy để cho mình mới nhập được cái định cụ thể và rõ ràng.
Còn về những cái phần mà con hỏi thì Thầy sẽ lần lượt sẽ trả lời sau cho con. Còn hôm nay thì Thầy sẽ dạy tất cả mọi người khác, bởi vì thì giờ nó không có cho nên chúng ta trả lời một phần nào đó, rồi ngày mai, ngày mốt rồi chúng ta sẽ trả lời thêm những cái câu hỏi của quý thầy mấy con tiếp tục. Những cái phần mà quan trọng Thầy sợ mà tu không biết cách cho nên thầy nhắc.
(19:40) Còn Chân Huệ thì hỏi ngay cái pháp Tứ Niệm Xứ, cho nên vừa giảng xong Tứ Niệm Xứ thì hỏi ngay những cái danh từ đó, Thầy phải giảng để cho nó hiểu rộng ra cho các con đừng có lầm lạc ở trên cái Tứ Niệm Xứ.
Nhiều khi các con nghe rồi các con không dám hỏi nữa, rồi cứ để cho qua rồi từng đó không ai giảng. Ví dụ như đặt thành vấn đề khi Thầy giảng xong Thầy tịch thì các con lấy ai mà các con hỏi? Mà hỏi người khác thì họ giảng tầm bậy rồi thì làm sao mà các con biết đâu là đúng? Còn Thầy thì Thầy giảng đúng theo cái cách thức tu tập để chúng ta làm chủ được sinh tử luân hồi.
(20:13) Bây giờ Thầy tiếp tục qua cái bài học Tứ Thánh Định. Bởi vì chúng ta học Tứ Niệm Xứ rồi, Niệm, đã niệm thì tức là phải tới Định rồi, chớ không thể nào mà còn xa được hết. Vì hễ có đạt được cái niệm, thì ở trên cái niệm mà chúng ta phải tu tập những cái định.
Do tu tập những cái định mà làm chủ được những cái gì mà ở trên niệm giải quyết được một phần nào ở trên niệm đó, thì bắt đầu bây giờ thân, thọ, tâm, pháp của chúng ta, bốn chỗ này nó thanh tịnh, cho nên chúng ta mới bắt đầu đi vào trong cái Tứ Thánh Định.
Vậy thì Tứ Thánh Định nó là một Sơ Thiền, nó là một cái bài pháp ôn lại. Cũng như bây giờ chúng ta muốn lên một cái lớp nào mà học, thì chúng ta phải nửa năm, hay hoặc ít ra cũng là ba, bốn tháng chúng ta phải ôn lại, học lại những cái bài của cái lớp cũ. Hay hoặc là một cái cấp này mà chuyển qua cấp khác thì chúng ta phải ôn lại một phần nào ở trong cái cấp dưới rồi chúng ta mới đi lên cái cấp trên.
Thì ở đây, thì cái Sơ Thiền là mục đích để ôn lại trên cái Tứ Niệm Xứ, chứ không có gì khác hơn hết, ôn lại cái Tứ Niệm Xứ.
Chúng ta thấy Đức Phật dạy chúng ta nó rất là, cái pháp này nó đi qua cái pháp khác nó có một cái sự nối liền với nhau. Nó nối liền với nhau nhưng mà nó cũng nằm ở trên cái Tứ Niệm Xứ mà nó tu chớ không phải ngoài.
Nhưng mà vì chúng ta đã tu tập ở trên pháp Tứ Niệm Xứ rồi, bây giờ chúng ta mới qua định, thì từ niệm nó mới qua định, do đó bây giờ chúng ta ôn lại cái Sơ Thiền, tức là ôn lại cái Tứ Niệm Xứ mà chúng ta tu đã qua rồi.
Vậy thì ôn lại nó như thế nào? Ở đây Sơ Thiền thì chúng ta, nó có sáu cái cách tu tập, chứ không phải là nói Sơ Thiền ly dục ly ác pháp mà không có biết cách nào mà để ly dục ly ác pháp thì tức là chúng ta chả biết gì hết.
(22:00) Cho nên không phải ngay vào Sơ Thiền mà chúng ta tu ngay đó mà được, mà chúng ta đã tu ở trên Tứ Niệm Xứ cho nên chúng ta mới đạt được cái trạng thái Sơ, trạng thái mà ly dục ly ác pháp, là Sơ Thiền đó.
Vậy thì Sơ Thiền, cái đầu tiên mà chúng ta muốn nó đạt được, thì chúng ta nhớ rằng khi mà mới bắt đầu vào tu theo đạo Phật, thì chúng ta phải là người tập sống trầm lặng. Mà tập sống trầm lặng thì chúng ta phải tịnh chỉ ngôn ngữ.
Đây là một cái giai đoạn đầu của Sơ Thiền, mà chúng ra xét thấy chúng ta là cái người trầm lặng được chưa, tịnh chỉ ngôn ngữ được chưa? Tịnh chỉ đây là làm cho cái ngôn ngữ của chúng ta nó thanh tịnh, nó chỉ là nó “chỉ” những cái ác ngữ của chúng ta, chớ không phải là làm thinh, câm, không nói.
Các Thầy phải hiểu ở chỗ này. Nghĩa là nó tịnh chỉ, nó làm cho cái ngôn ngữ chúng ta thanh tịnh, làm cho cái suy tư ở trong đầu chúng ta nó thanh tịnh, nó không còn có nghĩ cái chuyện ác ở trong đó, nó không còn có thương ghét ở trong đó nữa, gọi là tịnh chỉ.
Đó thì cái tịnh chỉ đó thì Đức Phật đã dạy chúng ta bốn mươi hai cái bài kệ, để chúng ta biết rằng cái tịnh chỉ ngôn ngữ đó là chúng ta sống độc cư chớ không phải gì hết.
Cho nên ở đây Thầy có giảng bốn mươi hai bài kệ rồi, nhưng mà hôm nay thấy sơ lược lại để chúng ta thấy rằng cái sống độc cư là cái tịnh chỉ.
Tức là chúng ta muốn vào Sơ Thiền, thì trong cái quá trình mà thời gian chúng ta vào tu cái Tứ Niệm Xứ, từ cái Tứ Chánh Cần để ngăn ác diệt ác, để thực hiện để ly dục ly ác pháp đó, thì trong cái khoảng thời gian mà tu tập đó, thì trước cái tu Tứ Chánh Cần thì chúng ta biết là lấy giới bổn mà giữ gìn, lấy giới bổn mà tu tập. Tức là giữ gìn cái đời sống, lấy giới bổn giữ gìn sáu căn của mình, rồi sống thiểu dục tri túc.
Đó là cách thức chúng ta tu tập ở trên cái Tứ Chánh Cần, tức là bắt đầu mà tu vào Tứ Niệm Xứ thì chúng ta lấy Tứ Chánh Cần mà chúng ta tu trên Tứ Niệm Xứ.
Do đó thì bây giờ, trở lại cái vấn đề mà hồi đầu tiên mà chúng ta tu, thì chúng ta tu chúng ta có tịnh chỉ ngôn ngữ chưa? Tức là chúng ta có sống độc cư đúng chưa? Chúng ta có sống đúng chưa? Thì bây giờ chúng ta phải học về cái tịnh chỉ ngôn ngữ.
Nếu mà trước kia chúng ta là người sống trầm lặng một mình rồi, thì bây giờ cái bài học độc cư này thì nó là thừa với người đó. Nhưng mà những người chưa sống đúng thì không biết độc cư như thế nào? Nhiều khi các thầy đã hiểu độc cư là câm miệng, làm thinh không nói chuyện với ai hết, cái đó cũng là sai không đúng đâu.
(24:16) Cho nên bởi vậy ở đây Thầy mới nói Đức Phật đã có giảng ở trong tập kinh, nó có bốn mươi hai bài kệ nói về độc cư. Tức là cái bộ tập kinh này nó thuộc về Tiểu Bộ. Tiểu Bộ thì nó có nhiều cái bộ kinh như là “Phật Thuyết Như Vậy”, hay hoặc là kinh Pháp Cú, hay hoặc là kinh Bổn Sanh thì đó đều nằm ở trong cái Tiểu Bộ Kinh hết. Hoặc là “Trưởng lão Ni kệ” hay hoặc là “Trưởng lão Tăng kệ” đó là hoàn toàn ở trong Tiểu Bộ Kinh không.
Thì ở đây Thầy xin nhắc lại cái bài kệ thứ nhất của Phật mà dạy cái người tu mà độc cư, muốn giữ cho cái tịnh chỉ ngôn ngữ mà thanh tịnh thì người đó, cái bài thứ nhất dạy chúng ta:
“Đối với các hữu tình”
Hữu tình này là gọi là những cái loài động vật, con vật này đến con vật kia từ con kiến, con trùng tất cả mọi vật chứ không riêng. Hữu tình đây nó rộng rãi, thậm chí như con người. Nghĩa là Thầy nói rằng loài động vật là nói chung, cái tên, thì danh từ ở trong Phật pháp gọi là hữu tình.
Thì từ các loài hữu tình này, đối với các loài này thì Đức Phật nói đừng có giết hại chúng. Cho nên ở đây cái bài kệ, câu kệ kế: “Từ bỏ gậy và trượng”, nghĩa là chúng ta không dùng gậy và trượng mà làm hại chúng, thì:
“Đối với các hữu tình
Từ bỏ gậy và trượng
Chớ làm hại một ai”
(25:51) Chớ làm hại một người nào hết, một con vật nào hết. Đạo Phật dạy như vậy. Cái hành động mà chúng ta không làm đau khổ, không làm một con vật nào hại hết, đó là hành động độc cư. Các thầy hiểu.
Bây giờ chúng ta làm hại một con vật này, một con vật kia đau khổ, hay hoặc là chết chóc nó đó, thì cái đó không phải là độc cư. Độc cư của Phật phải hiểu rằng, chúng ta không làm đau khổ ai hết, như vậy là gọi độc cư.
Thí dụ như người ta nói nặng nói nhẹ mình, nhất định là mình làm thinh chớ không bao giờ nói nặng nhẹ người khác để cho người khác khổ đau, thì đó gọi là độc cư. Còn mình nói một lời nói mà làm cho họ khổ đau thì tức là mình chưa độc cư.
Cho nên cái người độc cư, người ta làm thì người ta làm chớ người ta không nói. Vì nói ra thì sợ mình lỡ lời nói mà làm người khác buồn, mà làm người khác buồn thì tức là mình mất độc cư. Đó cái ý nghĩa ở chỗ này mà.
Vào đầu tiên thì đức Phật lấy các loài vật, trong đó có loài người chúng ta, bất kỳ người nào xung quanh mình đều không có làm cho họ khổ đau. Cho nên “chớ làm hại một ai”, nghĩa là không làm ai khổ đau hết thì như vậy gọi là mình độc cư.
“Trong chúng hữu tình ấy”, trong mọi người đó, mà mình đang sống ở trong mọi người đó, mà mình đã làm được như vậy đó, thì đó là “Sống riêng một mình - Như tê ngưu một sừng.”
Đó các thầy thấy rất rõ không? Đó là chúng ta sống như vậy được thì tức là chúng ta đã độc cư rồi đó. Mà độc cư như vậy thì chúng ta như một con tê ngưu một sừng, nó ở một mình trong rừng mà không bao giờ mà động địa đến một ai hết, như vậy mới gọi là độc cư.
Bây giờ con cái mà không ước muốn, tức là con người mà sanh ra ở trong đời này, mà khi lớn lên rồi thì họ có cái tâm ước muốn là mình phải có con có cái để nối dòng, nỗi dõi này kia. Mà con cái mà mình không có ước muốn thì thử hỏi mình có ước muốn bạn bè làm gì? Con cái mình không có ham nó rồi thì chắc bạn bè mình cũng không ham đâu!
Cho nên cái người mà đối với, không có ham con cái, chớ nhiều khi chúng ta sống tu hành đây, thấy đứa nhỏ chúng ta thương hay hoặc này kia, đó là chúng ta đã thích con cái rồi đó. (28:02) Cái tình cảm của một con người nó nối tiếp với nhau bằng cái chỗ mà thấy một đứa bé mà chúng ta thấy thương nó, thì tức là chúng ta có một cái trói buộc đó.
Mà cái ước muốn đó mà chúng ta không có thì thử hỏi bạn bè đối với chúng ta không có nghĩa gì hết! Nghĩa là cái tâm mình không có ước muốn có một đứa con, hai đứa con, ba đứa con đó, đó là mình không ước muốn cái đó, thì đối với những người mà đang là bạn bè của mình thì không có nghĩa lý gì hết.
Cho nên con của mình mà mình không ước muốn nữa thì bạn bè là chỉ ở ngoài da thôi, đâu có nghĩa lý gì? Cho nên người mà cái tâm không có ước muốn thì bạn bè họ không bao giờ bị dính mắc. Mà không dính mắc thì tức là họ sống riêng một mình như con tê ngưu một sừng.
Mà chúng ta hiểu được cái chỗ này, thì chúng ta mới biết đó là cái độc cư của chúng ta. Mình độc cư mình mới thấy rằng cái cô đơn của mình, mà nếu bây giờ mình có một đứa con ở bên mình, thì chắc là một cái niềm hạnh phúc, cái niềm an ủi, cái niềm vui biết bao nhiêu! Nhưng mà không ngờ có một đứa con thì nó lại là khổ mình, chứ chưa phải là là nó an ủi mình. Nó có sự an ủi của cái tâm ao ước cho đứa con, nhưng mà sự thật đứa con nó làm mình biết bao nhiêu sự khổ đau không?
Mình không ngờ, nhưng mà cái mà làm cho mình, đưa cho mình đi đến cái chỗ ước muốn được đứa con, bạn bè này nọ kia, thì đó là những cái sợi dây trói buộc mình, làm cho mình không thoát ra được. Tức là không thoát ra được, tức là không sống riêng một mình được. Mà không sống riêng một mình được thì làm sao mà như con tê ngưu một sừng được?
Cho nên ở đây nói cái tình cảm một con người, mà nếu mà con cái mình không ước muốn, thì bạn bè chắc không bao giờ ước muốn, không bao giờ mà có cái sự tha thiết gần gũi. Bởi vì những cái sự gần gũi đó là những sợi dây trói buộc làm cho mình không giải thoát.
Đó là cái đầu tiên thì chúng ta đối với loài hữu tình không giết hại thì đó là độc cư. (29:51) Cái thứ hai, con cái không ước muốn, thì đối với bạn bè không có nghĩa lý gì mà trói buộc, thì như vậy là chúng ta sẽ là cái người sống riêng một mình độc cư được.
Nghĩa là mình sống riêng một mình rồi mình mới thấy được chỗ mà có một đứa con một bên mình để an ủi mình đó, mới thấy được cái chỗ đó là cái nguồn vui, cái nguồn sống của con người.
Còn bây giờ chúng ta mà sống một mình mà chúng ta nhớ cái này, nhớ cái kia thì tức là chúng ta còn dính mắc cái này nhớ bạn bè, cái này nhớ bạn bè kia, tức là cái ước muốn vẫn còn có trong đó. Mặc dù chúng ta không nói ra lời nói đó nhưng mà chúng ta thấy mình buồn bã quá thì cái tâm ước muốn con thì nó vẫn có chớ.
“Do thân cận giao thiệp
Thân ái từ đấy sanh”
Đó thì mình giao thiệp với bạn bè, với người này người kia thì từ đó cái thân ái, từ cái thương yêu đối với những người đó nó sanh ra, nó làm cho chúng ta bị dính mắc.
(30:46) Là trong cái bài Tứ Thánh Định cái tịnh chỉ ngôn ngữ tức là cái độc cư chúng ta phải tu tập, mà trong bốn mươi hai cái bài kệ của Phật nhắc chúng ta từng chút để chúng ta biết rằng cái sự độc cư của mình. Đó là những cái phần mà chúng ta hiểu, để chúng ta từng chút cái tâm mà chúng ta xảy ra thì chúng ta biết, để mà chúng ta ngăn chặn nó lại, để chúng ta giữ trọn vẹn cái độc cư của chúng ta.
Tới cái bài kệ này:
“Không tham không lừa đảo
Không khát dục, gièm pha
Mọi si mê ác trược
Được gạn sạch quét sạch,
Trong tất cả các pháp
Không tham ác ước mong,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng!”
Nghĩa là chúng ta phải gạt sạch những cái lòng khát dục, những cái lòng tham muốn, cái sự lừa đảo, dèm pha, tất cả những cái si mê đó chúng ta đều quét sạch nó ra cái tâm chúng ta, thì tức là chúng ta đã sống độc cư.
“Với bạn bè độc ác
Hãy từ bỏ lánh xa
Bạn không thấy mục đích,
Quen nếp sống quanh co,
Chớ tự mình thân cận,
Kẻ đam mê phóng dật,
Hãy sống riêng một mình”
(31:53) Ở đây Đức Phật cũng nói bạn bè mà độc ác thì mình lánh xa, bạn bè mà không có thấy cái mục đích tu hành như mình thì cũng lánh xa. “Quen nếp sống quanh co”, họ hay nói quanh qua quanh lại thế này thế khác thì mình nên tránh xa cái đó. Nếu mà mình tránh xa được những người này thì tức là mình sẽ độc cư
“Chớ tự mình thân cận,
Kẻ đam mê phóng dật”.
Thấy cái người ta chạy, nghĩ ngợi cái này lo cái kia, làm ra tiền ra bạc này kia rồi mình chạy theo những cái tâm đó, thì những cái người đó là những người tâm phóng dật, cho nên mình sống như vậy là không phải sống độc cư.
“Bậc nghe nhiều trì pháp
Hãy gần gũi người ấy
Bạn người tâm rộng lớn
Người thông minh biện tài
Biết điều không nên làm
Nhiếp phục được nghi hoặc
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng!”
Nghĩa là mình biết những cái người bạn, có người đó tùy theo cái pháp, họ sống đúng pháp Phật, và mình gần gũi những người đó. Những người đó là những người mà người ta tu hành, mình sống gần gũi họ để cho mình thấy cái tu hành của họ mình bắt chước mình tu tập theo.
Người mà có tâm rộng lớn, “Người thông minh biện tài - Biết điều không nên làm”
Nghĩa là cái người mà mình thấy họ có cái tâm rộng lớn, rộng lớn đây là Tứ Vô Lượng đó, người mà biết thông minh mà có biện tài, điều mà nên làm thì họ làm, mà cái điều không nên làm thì họ không làm, thì mình thấy những cái điều đó thì mình nên sống gần người đó.
“Nhiếp phục được nghi hoặc
Hãy sống riêng một mình”
Nghĩa là khi đó mình nhận xét được cái số người này, thì đúng như vậy là mình ở gần họ, mà không đúng như vậy thì mình xa họ, đừng có ở gần những người đó mà tu hành thì không tốt. Đó là sống độc cư.
“Mọi du hí vui đùa
Và dục lạc ở đời”
Đó là Đức Phật nói mình mà độc cư, thì mọi cái sự du hí ở đời thì mình tránh xa, những cái dục lạc ở đời thì mình tránh xa, đừng có ham muốn nó, thì như vậy gọi là độc cư.
“Không điểm trang bày biện
Không ước muốn mong cầu
Từ bỏ mọi hào nhoáng
Nói lên lời chân thật
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng!”
(33:58) Nghĩa là Đức Phật muốn nhắc chúng ta mình đừng có trang điểm, đừng có làm đẹp, mà hễ còn muốn làm đẹp thì người đó không sống độc cư, mà mình còn ước muốn mong cầu cái này cái kia thì người đó cũng không sống độc cư.
“Từ bỏ mọi hào nhoáng” tức là những cái gì hào hoa bóng nhoáng ở bên ngoài, làm cho nó có vẻ là ta đây hay hoặc là làm cho vẻ sang đẹp đó, thì tất cả những cái này nếu chúng ta còn dính mắc thì chúng ta không độc cư, mà chúng ta không dính mắc nó là chúng ta độc cư.
“Nói lên lời chân thật” thì đó là chúng ta độc cư, mà nói lên lời không chân thật thì không phải độc cư. Nghĩa là mình nói một cái không thật của mình thì cái người đó không phải là độc cư.
Cho nên ở đây các con thấy tịnh chỉ ngôn ngữ, làm cho cái ngôn ngữ nó thanh tịnh, thì tức là cái lời chân thật thì nó là thanh tịnh mà cái lời mà không chân thật là nó không thanh tịnh. Cái lời mà làm cho người ta khổ thì nó là không thanh tịnh, mà cái lời không làm cho người ta khổ thì nó thanh tịnh. Thì chúng ta thấy, hiểu cái chỗ đó, từ chỗ mà thanh tịnh đó nó mới đi đến cái chỗ mà gọi là độc cư.
“Với con và với vợ
Với cha và với mẹ
Tài sản cùng lúa gạo
Những trói buộc bà con
Hãy từ bỏ buộc ràng
Các dục vọng như vậy
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng!”
Ở đây Đức Phật cũng bảo mình phải dứt bỏ hết, mà dứt bỏ như vậy nó nói mới gọi là độc cư, còn không dứt bỏ thì mình chưa ph độc cư. Mà chưa độc cư tức là chưa có ly dục ly ác pháp, vì vậy mà không bao giờ mà nhập Sơ Thiền.
Như vậy là chúng ta thấy bước đầu vào cái Sơ Thiền chúng ta thấy nó rất khó vô cùng lận chớ không phải chuyện dễ. Nói thì chúng ta nghe như vậy, mà đọc qua mấy cái bài kệ này, bốn mươi hai cái bài kệ này rồi chúng ta thấy quá khó trong cái chỗ độc cư. Chớ không phải độc cư mà chỉ có cái ý nghĩ rằng chúng ta vô trong thất đóng cửa, thì cái chuyện đó quá dễ làm rồi, ai làm cũng được. Nhưng mà cái độc cư này, hoàn toàn là nó khác với cái nghĩa đó.
“Chúng đều là trói buộc
Lạc thú thật nhỏ bé,
Vị ngọt thật ít ỏi,
Khổ đau lại nhiều hơn,
Chúng đều là câu móc,
Bậc trí biết như vậy,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng!”
(35:57) Nghĩa là ở đây chúng ta phải nhìn thấy những cái sự đó là những cái sự trói buộc. Còn lạc thú ở đời nó rất bé nhỏ, vị ngọt ở đời nó ít ỏi lắm, nhưng khổ đau nó càng nhiều.
“Chúng đều là câu móc” nghĩa là chúng là những cái con mồi móc ở trên cái lưỡi câu, chúng ta là những con cá ngu cho nên chúng ta mới đớp cái lưỡi câu đó mà bị dính lưỡi câu mà không thấy.
Như bây giờ chúng ta nghĩ ở ngoài người ta sống ăn uống như vậy nó sung sướng, mình đi tu chi cho cực khổ! Đó là cái miếng mồi, miếng mồi của danh lợi, miếng mồi của câu móc, nó sẵn sàng nó ở trong đó, cái miếng mồi đó nó có cái lưỡi câu móc ở trong đó. Nếu mà chúng ta không thấy chúng ta móc vào thì bị liền tức khắc, chúng ta sẽ bị liền.
“Hãy chặt đứt, bẻ gãy
Các kiết sử trói buộc
Như các loài thủy tộc
Phá hoại các mạng lưới
Như lửa đã cháy xong
Không còn trở lui lại
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng!”
Ở đây thì Đức Phật nói mình phải chặt đứt tất cả các kiết sử thì mới gọi là độc cư. Như cái loài thủy tộc thì nó phá cho hết những cái mạng lưới mà của người ta giăng thì nó mới có thể độc cư, mà nếu mà không có phá hết cái mạng lưới đó thì coi như là mình chưa có độc cư.
“Như lửa đã cháy xong
Không còn trở lui lại”
(37:18) Nghĩa là nó cháy rồi nó không có cháy trở lại. Nghĩa là nếu mà chúng ta chặt đứt được, bứt bỏ được thì như là lửa cháy sạch rồi thì nó không có trở lui lại, mà chúng ta bứt không sạch thì nó cháy lui trở lại.
Ý của đức Phật muốn nói, nếu mà chúng ta là ngọn lửa chúng ta sẽ đốt sạch các kiết sử, thì khi đốt sạch nó rồi, thật sạch rồi thì cái lửa nó khỏi còn cháy, bời vì sạch rồi nó không cháy lại. Còn bây giờ chúng ta đốt nó không sạch cho nên nó cháy đi, cháy lại hoài, thì như vậy là chúng ta chưa có quyết tâm mà xả hết cái tâm kiết sử này. Nhất là cái ái kiết sử thì nó rất là khó khăn. Cái hữu tham kiết sử thì nó cũng dễ hơn, còn cái ái kiết sử nó rất khó.
Cho nên người mà đoạn dứt, bứt bỏ, bứt gãy tất cả những kiết sử, thì cái người đó là cái người độc cư, còn cái người mà chưa bứt bỏ được thì chưa có gọi là độc cư. Như vậy rõ ràng là cái Sơ Thiền chúng ta thấy khó chớ đâu phải dễ. Ai mà bứt bỏ các Thất Kiết Sử này được, mà bứt bỏ được Thất Kiết Sử mới gọi là độc cư, mới gọi là tịnh chỉ ngôn ngữ.
“Với mắt cúi nhìn xuống
Chân đi không lưu luyến,
Các căn được hộ trì,
Tâm ý khéo chế ngự,
Không đầy ứ, rỉ chảy,
Không cháy đỏ bừng lên
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng!”
Tức là Đức Phật muốn cái sự phòng hộ sáu căn của chúng ta hộ trì, thì luôn luôn nhìn xuống, không có lưu luyến với một cái gì xung quanh chúng ta hết, cho nên sáu cái căn được hộ trì che chở tâm ý của chúng ta, như vậy thì mới gọi là độc cư.
Khi đi ra chúng ta giữ gìn mắt, tai, mũi miệng. Mặc dù tâm của chúng ta nó đang nhìn ngó đó chớ chưa phải là nó hết đâu, nó đang thèm muốn nhìn ngó đó, nhưng mà chúng ta phải hộ trì các căn của chúng ta trước, rồi sau đó chúng ta mới giữ gìn được các ý thức của chúng ta.
Chớ còn bây giờ hiện cái sáu thức của chúng ta nó đang bừng cháy ở trong đó chứ chưa phải là hết. Nhưng mà chúng ta phải khéo chế ngự được.(38:58) Mà cái người mà đi ra mà chế ngự được sáu căn của mình, mà hộ trì được vậy thì cái người này sẽ có ngày vượt qua.
Còn có nhiều người họ cũng nhìn xuống, họ cũng nhìn xuống khéo léo vậy nhưng mà họ không có chế ngự thật sự, vì vậy mà cái hình thức của họ gọi là chế ngự, mà trong tâm họ trào lộng lên những cái tham dục đó, thì cái người đó không phải là cái người theo đạo Phật.
Người ta chế ngự được cái thân, không nhìn xuống mà không ngó qua ngó lại, nhưng mà người ta cố gắng người ta hàng phục cái tâm không có để cho nó phóng dật nó chạy theo. Còn bây giờ mình chế ngự cái thân của mình ngó xuống, mà cái tâm thì không, để cho nó phóng dật nó chạy theo, tức là nó sẽ sanh ham muốn cái này, ham muốn cái kia.
Cũng như, thí dụ như mọi người ở ngoài đời người ta nhìn xem ti vi, người ta coi cái này cái kia, mình chế ngự tâm mình, mình không cho nó coi nhưng mà cái lòng mình muốn coi như người ta, thì cái đó là không được.
Cho nên mình chế ngự cái thân của mình, rồi mình phải chế ngự cái tâm của mình, là không được - bởi vì đây là những cái hình ảnh dục lạc của thế gian, những hình ảnh giả tạo, những cái người diễn viên, những người đào kép mà đóng ở trên này đều là cái sự giả, nó không thật, làm cho chúng ta thương vay khóc mướn, làm chúng ta sợ hãi một cách vô cớ, vô lý, nó không thật.
Thì do đó cái lý luận này nó sẽ làm cho cái tâm chúng ta không phóng dật theo cái hình ảnh đó. Vì vậy mà sau này thì chúng ta nhìn xuống mà chúng ta không nhìn, thì tâm của chúng ta nó vẫn là cái tâm không nhìn.
Còn không khéo thì cái thân chúng ta con mắt không nhìn, mà cái tâm thì nó lén lén nó nhìn, nó ham thích ở trong đó, nó đánh lộn ở trong đó, nó đòi hỏi nó phải nhìn, mà bắt buộc nó không nhìn, nó tức tối, nó giận, nó thù hận cái căn của nó không có chịu theo nó. Và vì vậy mà hàng ngày nó đạp nó đánh lung tung, rồi cái căn nó chịu không được nữa thì bắt đầu nó phải nhìn, từ đó nó nhìn tức là nó sa ngã. Đó là cách thức thiếu độc cư.
(40:42) Còn nếu mình mà không khéo léo như như vậy, thì mình tác ý nó không có hiệu quả đâu. Tức là mình thở mặc thở, mà tác ý mặc tác ý đó, hai cái nó không có kết hợp nhau được thì nó không có kết quả. Bởi vậy Thầy mới nói kết hợp nhau, tập hợp nhau, cái pháp này với pháp kia để rồi nó thực hiện được cái ý muốn của mình ở trong những cái thiền định.
Khi mà mình đã tập luyện được cái hơi thở của mình với cái câu pháp hướng của mình rồi, thì bắt đầu mình mới áp dụng vào. Đây là mình phải tập cho nó quen rồi mình mới áp dụng vào cái chỗ tu, chớ không phải là mình vô tu rồi mình áp dụng rồi cái câu tác ý của mình nó không ăn nhập với cái hơi thở của mình, nó không đồng thời với nhau như vậy, thì chúng ta trong cái giờ mà tu tập như vậy thì nó không có lợi ích.
Cho nên chúng ta thử trước, chúng ta ngồi bình thường, chúng ta thử coi cái câu pháp hướng đó với cái Định Niệm Hơi Thở coi nó như thế nào, tác ý như thế nào. Thì do đó chúng ta phải tập cái hơi thở với cái pháp hướng khéo tác ý với cái ý của chúng ta muốn làm cái gì, muốn làm cái gì đó, thì do đó chúng ta phải đặt trạch pháp cái câu đó ra, nó vừa với cái hơi thở ra vô của mình.
Rồi bắt đầu bây giờ chúng ta thấy đã có kết quả hơi thở và cái pháp hướng nó đã kết hợp nhau được rồi, thì bắt đầu cái phần thứ hai thì chúng ta phải hướng tâm tịnh chỉ hơi thở.
Nghĩa là hồi đó chúng ta cũng dùng cái pháp hướng để tịnh chỉ hơi thở, mà kết hợp với cái hơi thở, mà chúng ta tập luyện thấy nó đã ăn khớp với nhau, đã kết hợp nhau được, thì bắt đầu bây giờ mới đem ra áp dụng với cái hơi thở trong khi mà chúng ta tu cái loại Tứ Thiền này.
(42:17) Khi lúc bấy giờ chúng ta vào cái trạng thái của Tam Thiền có sức tỉnh rồi, bắt đầu chúng ta trở ra hơi thở thì cái sức tỉnh đó nó vẫn còn y nguyên, nhưng mà trở ra hơi thở thì cái trạng thái của Tam Thiền nó sẽ mất đi, nó không còn nữa. Cho nên lúc bấy giờ chúng ta ở trên cái trạng thái của cái hơi thở đang thở ra, thở vô và đồng thời hướng tâm theo hơi thở ra vô để mà nhắc cho nó tịnh chỉ hơi thở.
Đó thì đó là cái phần thứ hai để hướng tâm tịnh chỉ hơi thở. Chớ không khéo người ta nói nương Định Niệm Hơi thở khéo tác ý, rồi ở trên cái tu tập Tam Thiền cũng như tu tập Định Niệm Hơi Thở khéo tác ý. Vậy thì tu tập Định Niệm Hơi Thở khéo tác ý làm sao?
Tức là mình tập luyện cho nó kết hợp nhau cho được, thì khi kết hợp nhau được rồi thì chúng ta mới hướng tâm ở trên hơi thở đó mà tịnh chỉ hơi thở. Thời gian hướng tâm mà tịnh chỉ được hơi thở thì nó cũng còn cái thời gian năm ba ngày, một tuần lễ hay hoặc một tháng nó mới tịnh chỉ được hơi thở.
Khi mà nó tịnh chỉ được hơi thở rồi thì chúng ta nhắc nó: “Tịnh chỉ hơi thở, hơi thở ngưng, không hoạt động nữa!” Chúng ta nhắc như vậy, mà nhìn lại hướng tâm ra thì thấy hơi thở rõ ràng nó đã ngưng hoàn toàn rồi, thì cái thời gian mà ngưng an trú này nó được bao lâu? Từ ba mươi phút đến một giờ, trên nữa thì chúng ta không chấp nhận, mà giữ nữa thì chúng ta không chấp nhận.
Nghĩa là dưới ba mươi phút thì chúng ta không chấp nhận, mà bắt đầu từ ba mươi phút trở lên đến một giờ trở lại, thì chúng ta chấp nhận khoảng thời gian này để tu tập.
Khi mà chúng ta chỉ cần hướng tâm một lần, nhắc “Hơi thở phải tịnh chỉ!”, mà hơi thở bắt đầu chúng ta chỉ tịnh chỉ, nói như vậy rồi thì chúng ta lại nằm yên ở trên cái tụ điểm của mình, rồi tuần tự mình không có thấy cái hơi thở nữa, rồi nó mất tiêu luôn, và như vậy đó là tịnh chỉ hơi thở.
(44:08) Nhưng khi mà chúng ta hướng tâm ra mà chúng ta thấy hơi thở hoàn toàn không thở thì đúng là nó tịnh chỉ. Mà chúng ta hướng tâm ra mà hơi thở còn thở, thì tức là chúng ta bị tưởng tức, tức là hơi thở mà ngưng đó là hơi thở của tưởng chứ không phải là của Tứ Thiền.
Và khi mà còn tưởng tức, tức là chúng ta biết là mình xả ly mười tám loại hỷ này chưa hết, mình phải trở về với Tam Thiền để xả nữa. Còn nếu mà mình hướng ra mình thấy hoàn toàn là không thở, thì mình biết đó là đúng rồi, mình đã nhập Tam Thiền rồi, cho nên vì vậy mà bây giờ nó tịnh chỉ hơi thở nó ngưng là đúng.
Còn nếu mà Tam Thiền mình chưa có trọn mình xả, thí dụ như mười tám loại hỷ mà mình xả có mười bẩy loại hỷ, còn một loại hỷ, vì vậy mà vào cái hướng tâm tịnh chỉ hơi thở này, thì nó ngưng có một chút rồi nó lại bung ra, nó không có hoàn toàn. Do vì vậy mà chúng ta phải thấy biết rõ để mà chúng ta trở lại Tam Thiền mà thực hiện cái xả ly mười tám loại (hỷ).
Còn chúng ta nói rằng bây giờ mình tới cái tịnh chỉ hơi thở rồi, mà mình trở về với cái Tam Thiền như vậy là mình quá thấp, quá dở thì mình ở đây mình tu cũng không kết quả đâu.
Mình biết rằng cái tâm của mình, rõ ràng là mình hướng như vậy mà nó không có tịnh chỉ được cái hơi thở, thì tức là mình biết rằng mình còn lấn cấn ở Tam Thiền, mình phải trở về đó để dùng pháp hướng cho đúng cách để xả cho sạch. Nó còn một chút thì nó đi lên Tứ Thiền nó không vô được, bởi vì nó không thể tịnh chỉ các hành được.
Hướng tâm tịnh chỉ hơi thở nếu mà đạt được kết quả rồi thì bắt đầu mình tịnh chỉ hơi thở, mình nhắc một cái là mình thấy nó ngưng liền, nó không thở nữa, thì lúc bấy giờ đó là cái kết quả của mình, mình thấy rằng Tam Thiền mình đã hoàn tất rồi cho nên bây giờ hơi thở nó không thở.
Mình hướng ra mà mình thấy hơi thở còn thở thì tức là mình biết rằng Tam Thiền mình chưa xong, mình trở về Tam Thiền mình tu nữa, chớ đừng ở Tứ Thiền. Mà mình hướng ra mình thấy nó xong rồi, hoàn toàn nó không thở, đúng là cái pháp hướng đã làm cho nó tịnh chỉ hơi thở thật sự. Do đó chúng ta biết đúng, vì vậy mà chúng ta trở về và chúng ta cố gắng tu tập để an trú kéo dài thời gian ra đến một giờ.
(46:23) Bắt đầu bây giờ chúng ta đã thấy hơi thở mình tịnh chỉ, mà muốn cho an trú được cái hơi thở tịnh chỉ này lâu dài, thì chúng ta không còn sử dụng cái câu pháp hướng là “tịnh chỉ hơi thở” nữa mà chúng ta dùng cái câu pháp hướng là “tịnh chỉ các hành” để cho các hành nó ngưng hoạt động, thì cái hơi thở này sẽ hoàn tất là luôn luôn không có còn thở lại nữa.
Đó thì hướng tâm mà tịnh chỉ các hành thì thường xuyên chúng ta nhắc. Chúng ta nhắc cho đến khi mà tịnh chỉ các hành, đến khi mà chúng ta nhắc một cái là các hành nó đều ngưng, nó không còn hoạt động nữa, thì như vậy là hơi thở cũng vắng…
HẾT BĂNG
PHÁP HÀNH 30 - NHẬP ĐỊNH NHỜ XẢ TÂM
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Thời gian: 1998
Thời lượng: [46:27]
https://thuvienchonnhu.net/audios/phap-hanh-30-nhap-dinh-nho-xa-tam.mp3
(0:00) Những điều mà Thầy dạy các con là cái điều mà các con tu, đến hôm nay các con mới thấy được cái kết quả của nó giúp cho các con tu tập, nó rất tốt, chớ không phải.
Từ cái tạo, người nào mà đã tu tạo được tụ điểm rồi bây giờ các con thấy dễ dàng gom tâm. Còn người mà bây giờ mà mới tu, mà không có tập luyện được tạo tụ điểm, thì các con thấy nó hay bị, cái tâm mình nó hay chạy lăng xăng, nó dời tụ điểm, nó làm cho tâm chúng ta không nằm yên một chỗ.
Còn cái ổn định hơi thở, mà trước kia Thầy dạy các con có căn bản, các con ổn định hơi thở, bây giờ các con nương vào cái hơi thở là các con thấy hơi thở bình thường các con biết liền, mà hơi thở không bình thường biết liền. Nó làm cho các con nhận ra được cái hơi thở. Do cái chỗ tu tập đó, mà các con hiện giờ mà đi tới nữa thì các con rất dễ dàng.
Đó thì, như vậy thì cái căn bản mà dạy các con từ trước đến giờ, xem như là không nói những cái tên mà các con tu đúng cái pháp của Phật, nhưng các con tu không có sai pháp Phật chút nào hết!
“Cũng như các con đã biết Định Niệm Hơi Thở là một trợ pháp tối ưu tối hậu cho tất cả các pháp để đạt được kết quả tu tập viên mãn. Nếu không có Định Niệm Hơi Thở thì chúng ta chẳng biết nương vào đâu mà tu tập. “
Đó thì, nếu mà không có cái Định Niệm Hơi Thở thì các con sẽ biết nương cái chỗ nào đâu? Cho nên từ bắt đầu vô tập luyện hơi thở là một cái căn bản nhất cho các con! Bây giờ các con đã thuần thục hơi thở rồi, các con kết hợp với cái gì các con kết hợp dễ.
Các con kết hợp với Định Vô Lậu các con hướng nè: “Quán từ bỏ, hít vô tôi biết tôi hít vô. Quán từ bỏ, thở ra tôi biết tôi thở ra”. Theo cái lời nói của mình mà hít vô hít ra như vậy, nó làm cho chúng ta từ bỏ, xả đi, từ bỏ những cái tâm tham, sân, si của chúng ta.
Như quán đoạn dứt nè: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, quán đoạn dứt, thở ra tôi biết tôi thở ra”, nương vào cái hơi thở mà nhắc đi nhắc lại như vậy.
(01:50) Nếu mà hơi thở chúng ta ngắn thì chúng ta tạo cái câu pháp hướng nó ngắn, ngắn đi, để rồi chúng ta ngắn đến đỗi mà người ta chỉ hướng tâm người ta nhắc “vô”, “ra”, “vô”, “ra”. Đó là cái câu hỏi, cái câu hít vô thì chúng ta nói “vô”, rồi hết cái hít vô rồi chúng ta nói “ra”, đó là cái pháp hướng, pháp hướng nó ngắn.
Còn nói dài hơn một chút: “thở vô” hay là “hít vô”, “thở ra” - “hít vô”, “thở ra” - tức là hai chữ. Đó thì, nếu mà cái hướng nó hai chữ, cái hướng một chữ, và cái hướng ba chữ, cái hướng bốn chữ, tùy theo cái pháp hướng mà chúng ta trạch nó ra thành một cái câu pháp hướng đó, mà nó nương vào cái hơi thở để nó tu tập.
Chớ không phải bắt buộc mà phải cố định rằng một cái pháp hướng đó nó phải năm chữ hay sáu chữ, rồi nó luôn luôn nó như vậy, không phải. Nó tùy theo cái hơi thở chúng ta dài hay là ngắn, chúng ta dùng cái pháp hướng.
(2:43) “Định Niệm Hơi Thở là một loại định quan trọng suốt quá trình tu tập của chúng ta, đến khi nhập được định làm chủ sự sống chết mà còn chưa bỏ, phải dùng nó nhập tới Diệt Thọ Tưởng Định để giữ lại thân xác này mới lìa hơi thở.”
Nghĩa là cái Định Niệm Hơi Thở mà chúng ta dùng chúng ta nhập tới cái Tứ Thiền là nó làm chủ được cái hơi thở sự sống chết rồi, nhưng mà chúng ta chưa phải bỏ hơi thở đâu, chúng ta còn nương cái hơi thở này để mà nhập được tới Diệt Thọ Tưởng Định, tức là Diệt Tận Định đó, chúng ta còn nương vào nó để mà chúng ta nhập Diệt Tận Định.
Vậy thì rõ ràng là tới cái định cuối cùng vẫn còn dùng cái hơi thở. Còn trái lại khi mà chúng ta thực hiện Tứ Như Ý Túc hay Tam Minh thì chúng ta mới không dùng cái hơi thở mà thôi.
Bởi vì lúc bấy giờ chúng ta đang ở trong cái trạng thái Tứ Thiền là thân định trên tâm mà tâm định trên thân, thì chúng ta không có còn trở ra cái hơi thở nữa, mà chúng ta ở trong cái trạng thái định đó chúng ta mới ra lệnh cho cái năng lực, cái đạo lực của chúng ta, nó điều khiển tất cả mọi cái sự vi diệu mà không lường được là do ở trong cái trạng thái đó.
Còn nếu mà chúng ta ra cái hơi thở rồi thì cái năng lực đó nó không còn có nữa. Mà năng lực đó là do cái sức định của chúng ta, nó từ cái chỗ định đó mà nó có cái năng lực.
Cho nên chúng ta phải nhập vào cái định, mà đúng cái định đó là cái định “thân định trên tâm, tâm định trên thân”, tức là thân tâm nó trở thành một khối định. Còn bây giờ cái tâm định không, mà cái thân chưa định, thì chúng ta chưa có đủ cái năng lực, chưa đủ cái quyền lực để mà làm chủ.
Thì ở trên cái bước đường tu tập, chúng ta mới thấy được cái chỗ mà cái tâm thanh tịnh và CÁI thân thanh tịnh chúng ta. Và vì vậy mà cái hơi thở là cái mấu chốt để chúng ta đầu tiên để tu tập thanh tịnh.
Như Thầy vừa nói, bây giờ tu Tứ Chánh Cần ngăn các pháp ác, thì chúng ta hít thở, “hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”, thì như vậy là trong cái đầu của chúng ta nó không có nghĩ một cái niệm gì hết do nương vào cái hơi thở này.
Thì ngay đó là cái pháp hơi thở, Định Niệm Hơi Thở đầu tiên đã giúp cho chúng ta ngăn chặn được cái ác pháp, làm cho chúng ta ly dục ly ác pháp thì cũng phải là hơi thở. Đó, thấy rõ như vậy thì chúng ta biết.
Và cuối cùng mà chúng ta muốn để lại cái nhục thân này, cái thân này mà không hôi thúi, như một cái người người ta ướp thuốc, ướp xác để cho cái thân nó không bị hôi thúi đó, thì cái người mà nhập Diệt Thọ Tưởng Định thì cũng phải nương cái hơi thở để mà nhập cái định cuối cùng, để giữ lại cái thân này, mà để lại ngàn năm mà không bị hư hoại.
Thì đó là một cái định mà gọi là cái định cao nhất ở trong các cái loại định, nhưng vẫn phải là nương vào cái hơi thở mà tu tập.
(05:26) “Do kinh nghiệm tu hành, Thầy biết tất cả sự lợi ích của hơi thở không thể nghĩ lường”
Nghĩa là trên cái hơi thở từ bắt đầu các con tu, bắt đầu vào tu, thì dùng cái hơi thở mà đi phá cái này phá cái kia, tức là phá các pháp ác cho đến điều khiển, cho đến nhập tới Tứ Thiền các hành ngưng hoàn toàn, thì không nương vào cái hơi thở thì không có cái lối nào mà chúng ta điều khiển được hết.
“Giả thiết trong thế gian này không có hơi thở thì không có loài vật và cỏ cây xuất hiện trên cái hành tinh này.”
Bây giờ chúng ta đặt thành giả thiết đi, trong cái thế gian này mà không có hơi thở, Thầy muốn nói hơi thở là cái gì chắc các con hiểu rồi chứ gì, thì không có cái loài vật và cây cỏ xuất hiện trên cái hành tinh này được. Vì có cái hơi thở mà có loài vật xuất hiện.
Cho nên các con thấy một cái hành tinh nào mà không có cái sự sống thì làm sao có hơi thở được? Cho nên cái hành tinh đó đâu có loài vật, đâu có cây cỏ! Cho nên ở đây chúng ta thấy rõ ràng là cái môi trường sống chúng ta là phải lấy cái hơi thở mà làm chính của nó rồi, vì vậy mà con đường tu của đức Phật mà đã tìm ra cái hơi thở, để mà thực hiện cho cái sự tu tập của mình đến cái mức cuối cùng làm chủ sự sinh tử, thì nó rõ ràng và cụ thể.
“Những người tu hành mà được viên thành đạo quả, dù là chánh đạo hay là tà đạo thì hơi thở là một pháp môn tối ưu cho họ.”
Các con thấy rõ ràng như người ta tu yoga này, như các loại thiền khác, bắt đầu vào tu họ cũng đều phải nương hơi thở hết để họ nhiếp tâm. Ít có cái pháp môn nào mà rời hơi thở, chỉ có Thiền Đông Độ là không nương hơi thở thôi.
“Nếu pháp môn nào mà không dùng hơi thở thì pháp môn đó sẽ không được viên mãn, chỉ là một thứ tưởng tượng mà thôi.”
Ở đây cái ý Thầy muốn chỉ cái đó là Thiền Đông Độ nó không có dùng cái hơi thở.
(07:13) “Ở đây không có pháp nào bỏ cả, pháp hơi thở càng tu càng thấm nhuần, càng dễ câu hữu đối với các pháp môn khác.”
Nghĩa là đối với cái pháp môn hơi thở, mình càng tu hơi thở bao nhiêu càng thấm nhuần được bao nhiêu thì mình câu hữu với các pháp khác thì rất dễ. Còn cái người mới chập chững vô chưa có tu tập về cái hơi thở mà câu hữu với pháp này pháp kia, họ rối, hơi của họ nó không ăn nhập vào đâu hết.
“Thầy chỉ vạch cho các con biết đường đi của đạo Phật bắt đầu từ nơi đâu: từ giới luật gọi là Thánh giới, kế đó là Thánh phòng hộ sáu căn.”
Nghĩa là bắt đầu mình đi vào con đường tu tập của đạo Phật, thì bắt đầu từ cái giới luật mà gọi là Thánh giới luật.
“… kế đó là Thánh phòng hộ sáu căn, kế đó nữa là Thánh thiểu dục tri túc, kế đó nữa là Tứ Chánh Cần.
Trong Tứ Chánh Cần có các pháp để tu tập Thánh Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, Thánh Vô Lậu Định, Thánh Định Niệm Hơi Thở.”
Đó thì các con thấy Thầy sắp xếp ở trên cái chỗ tu tập cái giai đoạn đầu của đạo Phật đó, từ cái giới luật, cái Thánh giới luật đó, cho đến cái Định Niệm Hơi Thở, thì nó nằm ở trong một cái giai đoạn đầu của nó hết, nó không ngoài cái giai đoạn đầu của cái sự tu tập này.
“Mặc dù tùy thuận các pháp khác mà Thầy dạy Định Niệm Hơi Thở trước, nhưng Định Niệm Hơi Thở thuần thục thì các pháp khác lại dễ dàng tu.
Cho nên trong quá trình, thời gian tu Định Niệm Hơi Thở không có phí mà có lợi ích rất lớn. Khi các con đã chấp nhận đường lối tu tập của đạo Phật, thì lấy Định Niệm Hơi Thở câu hữu với các pháp khác thì kết quả rất chóng, nhưng biết cách kết hợp thì sự tu tập lại còn nhanh chóng hơn.”
Nhiều khi các con kết hợp sai, kết hợp không ăn khớp, kết hợp không đúng và cái câu pháp hướng trạch nó không có đúng với cái tâm niệm của mình lúc bây giờ, cái trạng thái của mình lúc bây giờ.
(09:27) Cũng như bây giờ mình mới có sự yên lặng à, mà mình ngồi thiền, mình lại tịnh chỉ các hành hay hoặc là hơi thở, thì cái chuyện đó sai rồi.
Vọng tưởng mình chưa hết, ngồi lại còn vọng tưởng xẹt ra, xẹt vô mà vội tịnh chỉ âm thanh thì làm sao mà âm thanh vắng được? Mà khi tâm mình chưa ly dục ly ác pháp, mình vội mình hướng tâm mình diệt Tầm Tứ thì Tầm Tứ làm sao diệt được? Chỉ còn có nước mình ngồi mình ức chế nó cho nó hết vọng tưởng thôi, chớ còn cái mà mình hướng tâm thì chắc chắn là không hết được.
Còn mình đau bệnh mà cái sức thiền định mình chưa có, mình chưa ly dục, ly ác pháp, tâm mình chưa thanh tịnh, mà mình hướng tâm mình nhắc: “Cái bệnh đừng có đau nữa!”, thì thật ra đó là mình chỉ cắn răn mình chịu đau hơn là cái mình nhắc nó.
Cho nên ở đây mình phải đạt được cái trạng thái nào thì cái sức hiệu quả của cái pháp hướng đó nó sẽ ở trong cái trạng thái đó. Nó hiệu quả nhiều hay ít là nó ở đúng cái mức của nó. Chớ còn cái sức của nó ít mà mình làm cho nó nhiều thì nó đâu được? Mình muốn cho nó nhiều, nó mạnh hơn thì đâu được! Khi mà mình luyện tập cái sức của mình nó còn kém thì cái hiệu quả của cái pháp hướng nó phải kém.
(10:33) Hỏi: “Kính bạch Thầy! Pháp sám hối thế nào là đúng?
Có người có lỗi lầm mà thành tâm cải hối thì có những lợi ích gì trong hiện tại và mai sau trên đường tu tập của đạo Phật?
Người sám hối mà không sửa chữa lỗi lầm của mình mà còn tái phạm nhiều lần thì đó có phải là họ đang tạo nghiệp ác cho họ trong hiện tại và tương lai không?”
Đáp: “Pháp sám hối mà đúng Chánh Pháp của Phật thì đó là…”
Các con biết đó là pháp gì không?
“Đó là pháp tàm quý.”
Các con biết cái pháp sám hối mà đúng của Phật là pháp tàm quý.
“Tàm quý tức là xấu hổ và sợ hãi.”
Một khi mà chúng ta làm một cái lỗi gì phạm giới mà chúng ta biết xấu hổ và chúng ta sợ hãi, thì cái pháp đó gọi là cái pháp sám hối. Còn bây giờ chúng ta có sám hối cách gì đi, tụng kinh lạy Phật cho xói đầu chúng ta đi, mà chúng ta không biết xấu hổ, không sợ hãi thì chúng ta vẫn phạm hoài, không bao giờ mà chúng ta hết.
Cho nên Phật dạy rất rõ ràng, cái pháp sám hối mà đúng Chánh Pháp của Phật thì đó là pháp tàm quý. Tàm quý có nghĩa là xấu hổ và sợ hãi, chữ “tàm” là xấu hổ, mà chữ “quý” đây là sợ hãi. Người ta hay viết chữ “quý” là chữ quý báu thì nó sai, chữ quý đây là vô úy, là không sợ hãi, chữ quý đây là sợ.
“Người biết xấu hổ, biết sợ hãi, làm lỗi là chơn sám hối. “
Nghĩa là biết xấu hổ rồi từ đó người ta không có làm lỗi nữa, biết sợ hãi cái lỗi đó là người ta không làm lỗi nữa, đó là cái người chơn sám hối. Không có phải là đến trình Thầy hay hoặc là phát lồ ra nói cái lỗi này kia, mà người đó không xấu hổ, không sợ hãi thì họ vẫn phạm.
Họ bây giờ có nói trước ông Phật, mà ông Phật bây giờ ổng còn tại thế đi, họ cũng chẳng sợ nữa, họ không xấu hổ là họ không sửa đâu. Mà họ biết cái chuyện đó là xấu hổ là họ bỏ.
(12:40) Cho nên Phật nếu ra cái pháp Thầy thấy rất tuyệt vời mà. Nếu mà đúng tâm trạng người mà làm cái gì đó xấu hổ thì sau họ không dám làm cái đó nữa đâu! Mà cái người không biết xấu hổ rồi thì thôi, khỏi nói, bây giờ có sám hối có gì đi nữa họ tụng Hồng Danh, một ngàn bộ Kinh Hồng Danh đi nữa, họ niệm bao nhiêu Phật đi nữa chắc họ cũng không bao giờ hết cái lỗi của họ.
“Dù có tụng kinh sám hối, lễ Phật ngàn năm vẫn không tiêu tội. Trong Thiền Tông dạy sám hối bằng một pháp tưởng.”
Trong Thiền Ttông nó có dạy chúng ta sám hối bằng cái pháp tưởng. Bởi vì nói về sám hối Thầy phải nhắc ra hết. Cho nên ở bên Tịnh Độ thì nó lấy cái Bổn Kinh Hồng Danh nó tụng, hay hoặc là Từ Bi Thủy Sám nó tụng, nó coi như là tụng cái bộ kinh đó là sám hối, là nó hết tội.
Nhưng mà ở đây Phật dạy rất cụ thể, người mà biết sám hối, biết sợ hãi là người đó, là đúng cái pháp đúng của Phật là biết xấu hổ, biết sợ hãi, thì cái người đó sẽ sám hối, tốt lành, không còn phạm nữa.
“Trong Thiền Tông dạy sám hối bằng một pháp tưởng:
“Tánh tội vốn không do tâm tạo
Tâm đã diệt rồi tội sạch không
Tội trong tâm ấy cả hay không
Thế mới là chân sám hối”.”
Nghĩa là nói ở trong cái bài kệ này, nói tánh tội nó vốn không có, mà do tâm mình nó ham muốn nó mới tạo ra cái tội, nó mới làm ác nó mới tạo ra đó. Mà mình tu rồi, cái tâm mình nó diệt rồi, thì tội nó sạch nó không còn có nữa. Bởi vì tội nó theo tâm mà nó sạch.
“Tội trong tâm ấy cả hai không”, tội và tâm đều là không, vốn là không, nó không có, cho nên: “thế mới là chân sám hối”. Nghĩa là nói như vậy có nghĩa là cái người mà tu Thiền Tông mặc tình cứ làm ác đi, cái tâm của mình diệt nó được rồi thì cái tội nó cũng sạch, nó không còn cái nghiệp gì đâu mà sợ. Giết người cũng không lo nữa đâu! Đó là cái ý nói như vậy.
(14:29) Ở đây thì chúng ta thấy được cái chỗ sai của nó. Bởi vì nếu mà không rõ thì người ta thấy hay quá, quá hay, còn thấy rõ rồi thì nó không hay nữa.
Đấy là pháp tưởng sanh ra sự sám hối, nghe thì có lý mà người hành thì chẳng bao giờ hết tội, cho nên do đó mà hầu hết người ta nghĩ rằng hết tội cho nên người ta tạo tội hoài. Ở đây chúng ta thấy rất rõ.
“Do kinh nghiệm tu hành thấy rất rõ: Tâm là do duyên hợp…”
Cái tâm của mình là do duyên hợp, nếu mà cái tâm này mà không có cái thân, không có cái thân Ngũ Uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức thì nó làm sao nó có cái tâm? Cũng như thí dụ như, không có bốn cái trụ xứ này: thân, thọ, tâm, pháp thì nó làm sao mà nó có cái tâm nó đứng rời ra được.
Cho nên nói cái tâm thì chúng ta phải thấy cái thân Ngũ Uẩn của chúng ta. Do cái thân Ngũ Uẩn thì nó, nếu mà có cái tâm thì nó phải có sắc, có thọ, nó phải có hành, có thức, cho nên nó mới có cái tâm này. Nếu mà không có cái tâm thì nó không có, nhưng mà đã có tâm thì nó phải có lôi theo một cái nhóm của nó.
“Mà đã duyên hợp thì tâm vô thường, vô ngã.”
Đó cho nên nó là duyên hợp, nó mới có cái tên tâm. Nó hợp lại nhiều cái thứ nó mới thành ra cái con người, mà con người có cái tâm nó không phải là riêng có một cái tâm không, cho nên vì vậy mà nó phải hợp duyên. Mà nó hợp duyên thì nó phải là vô thường, vô ngã.
(15:57) “Cho nên tội…”
Tội thì ở đây chúng ta thấy rõ:
“… tội là nhân quả ác mà do tâm sanh khởi mà thành nghiệp.”
Mình làm ra một cái tội, tội là nhân quả ác do tâm sanh khởi tạo nghiệp, thành ra cái nghiệp.
“Tâm diệt nhưng tội không diệt, mà trở thành nghiệp để tiếp tục tái sanh luân hồi.”
Các con hiểu chỗ này không? Ở đây Thầy nói nè, cái tội là nhân quả, nhân quả ác nó mới tạo ra cái tội! Mà cái nhân quả này do cái tâm chúng ta sanh khởi nó mới thành ra cái nghiệp ác này. Khi mà tâm diệt tức là cái người đó chết đi rồi đó, thì cái nhân quả tội này nó còn không? Nó còn chớ, nó làm sao hết được, nó đâu có mất.
Ở đây bên Thiền Tông thì nghĩ rằng cái tâm diệt, cái thân này hoại diệt thì cái tội hết. Vậy thì người ta cần gì người ta tu? Bây giờ cứ làm ác đi, chừng mà cái tâm, cái thân này nó chết rồi thì cái tội nó cũng hết rồi, thì còn đi đầu thai có thọ lãnh cái gì nữa khổ đau đâu?
Đó, cái luận của bên đó đó. Mình nghe thì hay nhưng mà sự thật ra, mà xét ra thì mình thấy là sai quá sai! Bởi vì tâm nó đâu phải là một mình riêng cái tâm đâu, nó còn có một khối của nó trong đó. Mà cái khối đó nó diệt thì cái tâm nó cũng phải diệt, thì tâm nó diệt nhưng mà cái nhân quả của nó làm nó không tan đâu, nó không mất đâu.
Cho nên tâm diệt nhưng tội không diệt, mà trở thành nghiệp để tiếp tục cái nghiệp, nó mới tiếp tục nó tái sanh luân hồi chớ.
“Nếu nói “tâm đã diệt rồi, tội sạch không” thì người chết đã diệt,…”
Những người chết nó đã diệt đó, diệt cái tâm đó.
“… nhưng tội vẫn còn nguyên.
Như vậy, Thiền Tông đang bị tưởng pháp mà không biết. Cứ ngỡ rằng mình tu hết vọng tưởng là tâm diệt, mà tâm diệt là hết tội, thì đó là một sự tưởng tượng trừu tượng để bịp người mà thôi.
Người có lỗi lầm mà biết xấu hổ, sợ hãi, biết từ bỏ xa lìa những việc làm tội lỗi thì ngay trong hiện tại tâm hồn thanh thản, an lạc, còn trong tương lai không có gặp quả xấu.”
Bởi vì mình đã chừa những cái, mình đã xấu hổ mình không có làm nữa, thì trong hiện tại thì mình thấy tâm hồn thanh thản rồi. Rồi trông về tương lai thì nó đâu có trở thành cái quả xấu cho mình nữa, cho nên mình rất là thanh thản.
(18:21) Còn ở bên Thiền Tông thì các thầy thấy, cái luận của nó không vững đâu. Cho nên rõ ràng là nó nói tâm mà diệt rồi là tội nó sạch không. Thật sự nó không thấy cái nhân quả.
Còn nó không thấy cái tâm là vô thường, cho nên nó tưởng là cái tâm nó thường, mà khi mà diệt cho được, nó nghĩ rằng cái tâm đây là cái ý của chúng ta, diệt đi hết cái vọng tưởng, thì cái niệm thiện niệm ác diệt hết rồi, thì cái tội nó không có. Sự thật ra nó không phải như vậy đâu, nó không phải như cái nghĩ như vậy được.
Cho nên Thầy đem một cái ví dụ để chúng ta thấy rõ cái luận của Thiền Tông không thể đứng vững đối với Phật pháp.
“Còn người không biết xấu hổ, không biết sợ hãi, không biết cãi hối sửa lỗi lầm, thì hiện tại và tương lai đều gặp khổ đau, tai nạn và bệnh tật nguy hiểm.”
Đó là qua một cái câu hỏi nhưng mà nhằm cái chỗ để mà đáp, cho nên Thầy mới vạch ra để cho thấy được cái chỗ sai và chỗ đúng của Phật pháp.
Cho nên cái pháp sám hối của Phật không có dạy chúng ta tụng Hồng Danh, mà cũng không có dạy chúng ta tụng Từ Bi Thủy Sám, mà cũng không có dạy chúng ta là “tánh tội vốn không do tâm tạo”, mà những cái này đều là người sau đặt ra.
Mà chính trong kinh điển của Phật gọi là tàm quý, người có tàm quý thì người đó sẽ xa lìa những lỗi lầm, nó không bẻ vụn những giới luật của nó ra, đó là do tàm quý. Vậy đó là cái pháp mà chơn sám hối đó.
(20:02) Hỏi: “Kính bạch Thầy! Qua kinh nghiệm tu hành của con, có ba trạng thái khi tu Định Niệm Hơi Thở.”
Ở đây là những cái vấn đề qua cái rút tỉa kinh nghiệm thì thầy Chân Thành nói, các con cũng như các thầy mà mới tu cũng lưu ý về cái phần này để biết được cái chỗ mà tu tập của mình.
“Một là hiệu quả tốt, hai là hiệu quả trung bình, ba là hiệu quả thấp.”
Trong cái sự tu tập mình so sánh mình thấy được, bữa nay mình tu tốt là do cái gì đây? Tu tập như thế nào mà nó tốt? Mà tu tập thế nào mà trung bình? Tu tập như thế nào mà kết quả kém, thấp? Đó, thì như vậy là rõ ràng mình tu tập mình có quán xét được cái sự tu tập của mình tốt hay xấu.
Chớ mình tu tập rồi mình không biết mình như thế nào hết thì như một con cua mù, nó không biết thấy đường gì hết, như là một cái người mù thì thôi, thì tu vậy biết chừng nào chúng ta tới đâu đâu?
Chúng ta phải biết rằng cái kết quả, khi mà chúng ta áp dụng cái đó vào cái pháp đó, chúng ta thấy kết quả. Và cái mục đích cái pháp đó nó áp dụng vào để đã mang đến kết quả nào, chúng ta phải nhận rõ chớ?
Cái mục đích của cái pháp đó nó phải đem đến kết quả của nó, vậy thì kết quả nó có đạt được hay không? Đạt được ít, nhiều, hay hoặc là nhiều thiệt nhiều? chúng ta phải biết cái đó. Vậy muốn biết cái đó thì chúng ta phải xem xét.
Đây là Chân Thành hỏi Thầy:
“Hiệu quả cao khi dùng câu pháp hướng hòa nhịp với hơi thở ra vào.”
Như hồi nãy Thầy nói đó, nó phải ra vào, nó hòa nhịp hai cái, cái pháp hướng với cái hơi thở, nó phải đi song song với nhau, nó đi phải cùng nhau, một lượt với nhau. chớ không phải cái này trước cái kia sau, hay hoặc là ngược lại nó đi sai nhịp với nhau thì không tốt.
“Có nghĩa là khi đọc câu pháp hướng lên thì hơi thở hòa theo từng lời, đến khi câu pháp hướng hết thì hơi thở vừa dứt, không nhanh cũng không chậm. Tu như vậy con nhận thấy đạt hiệu quả cao và câu hữu với các định khác cũng tốt, như vậy đó là trường hợp thứ nhất.
Khi đọc xong câu pháp hướng rồi mới bắt đầu thở thì con thấy đạt được hiệu quả trung bình.
Ba: Còn khi câu pháp hướng dài, không phù hợp với hơi thở, con cảm thấy hiệu quả thấp.
Thưa Thầy có phải vậy không?”
(22:25) Đó là Chân Thành qua cái kinh nghiệm tu hành của mình, áp dụng qua cái hơi thở, qua các pháp, rồi áp dụng cái pháp hướng vào trong hơi thở, thì nó đã thấy được cái kết quả cao, và như vậy thì rút tỉa kinh nghiệm, thì quý Thầy cũng nên lấy cái kết quả thứ nhất có hiệu quả tốt nhất.
Bởi vì cái nào mà tốt nhất thì mình phải áp dụng chớ? Còn cái nào mà thấp kém thì mình bỏ đi, mình đừng có tu. Đó thì như vậy là rõ ràng là các Thầy nên áp dụng vào cái pháp cho phù hợp với hơi thở ra và hơi thở vô.
Thì trong kinh Phật dạy chúng ta thấy, đức Phật ít có dùng cái câu pháp hướng dài mà nhắc nhở chúng ta: “An tịnh thân hành, hít vô tôi biết tôi thở vô. An tịnh thân hành, thở ra tôi biết tôi thở ra”. Thì đó là cái câu Phật nói nó vừa với hơi thở ra và hơi thở vô của mình, cho nên nó theo đó mà nó thở.
Cho nên người sau không biết, khi mà dịch thì nó “sẽ”, có nghĩa là tôi hít vô rồi, tôi thở ra rồi, tôi sẽ hướng tâm sau. Cho nên có cái câu mà “sẽ” thì những cái câu đó nó, chúng ta qua rút tỉa kinh nghiệm thì chúng ta thấy, khi mà mình hít thở rồi mình mới nhắc câu hướng đó nó đi sau cái, thay vì mình nhắc trước mà nó còn không hiệu quả huống hồ là mình nhắc sau!
Cũng như bảo cái hơi thở phải tịnh chỉ hơi thở, thì trong lúc đó đó, mình thở rồi mình mới bảo nó tịnh chỉ, thì nó tịnh chỉ cái hơi thở rồi hay là cái hơi thở sau?
Cho nên khi mà muốn tịnh chỉ thì mình phải hướng tâm trước, bảo “Hơi thở phải tịnh chỉ! Ngưng!” thì do đó thì bắt đầu nó sẽ ngưng hơi thở. Tức là bảo cái hơi thở nó đang thở này, phải ngưng.
Còn mình hướng, mình thở ra thở vô rồi mình bảo nó ngưng, tức là mình thở ra vô rồi, nó nói “Xe chạy rồi mà biểu dừng ai dừng được!”, tức là nó không muốn dừng nữa rồi.
Còn mình chưa có gì hết mình bảo nó “Bây giờ phải dừng trước đi!”, thì do đó bắt đầu nó chuẩn bị nó dừng, vì vậy mà một vài hơi thở sau đó nó dừng lại. Còn mình thở rồi mình mới bảo dừng, nó tức tối lắm, đã cho xe chạy rồi bây giờ bảo dừng nó không chịu dừng.
Đó thì chúng ta hiểu qua một cái bài kinh, mà trong cái bài kinh Phật nói chữ “sẽ” cũng là không đúng cái chỗ kinh nghiệm tu đó. Như vậy là chúng ta cũng đã biết được cái chỗ kinh nghiệm tu hành, vì vậy mà tu như vậy không có sai đâu.
(24:40) Đáp: “Tu Định Niệm Hơi Thở thường pháp hướng đi theo hơi thở, do sự đi theo hơi thở mà đạt được chất lượng cao, tỉnh thức cao, không bị tạp niệm.”
Vì mình nương với hơi thở thì mình câu hữu với nó thì mình kết hợp nó phải hòa nhịp với nhau với hơi thở thì nó sẽ đạt được kết quả tốt hơn.
“Hai là xả được tâm một cách hiệu quả.”
Tức là cái pháp hướng của mình, mình hướng muốn xả cái gì đó, thì nó nương theo hơi thở nó tỉnh thức, nó có một cái trạng thái thanh tịnh của cái hơi thở, do đó nó có cái lực nó làm cho mình xả, muốn xả cái đó nó xả dễ.
“Còn đặt câu pháp hướng trước hơi thở rồi mới thở, đó là pháp hướng nhắc tâm.”
Nghĩa là bây giờ đó, thí dụ như mình chưa có thở mà mình hướng trước rồi mình mới thở, thí dụ như “Cái hơi thở phải tịnh chỉ!”, thì mình chưa có thở gì hết, bắt đầu đó mình hít thở, thì đó là cách pháp hướng nhắc tâm.
‘Còn câu pháp hướng đi cùng với hơi thở đó là pháp hướng kết hợp.”
Phải không, mình phải hiểu cái pháp hướng nhắc tâm rồi để cho cái tâm nó làm the. Cũng như Thầy tu Tứ Như Ý Túc chớ gì, Thầy để cái nắp này đây, Thầy bảo: “Cái nắp này bay lên!”, Thầy ra lệnh như vậy, cái nắp nó chưa có bay mà, cho nên Thầy bảo nó bay lên, chớ không phải nó vừa bay lên vầy Thầy vừa nhắc theo thì nó không phải. Cái này là pháp hướng nhắc bảo, truyền lệnh bảo, nó chưa có làm, truyền lệnh.
Còn cái này chúng ta đang tu kết hợp với cái pháp nào đó, đang với cái pháp đó để mà tu thì đó là cái pháp kết hợp.
“Còn câu pháp hướng cùng đi với hơi thở đó là pháp kết hợp để đạt được mục đích tỉnh thức hoặc là xả tâm vô lậu.”
Nghĩa là kết hợp với cái đó để xả tâm vô lậu hay hoặc là đạt, kết hợp với cái đó để tỉnh thức. Như chúng ta vừa đi kinh hành mà vừa biết hơi thở, tức là giữa hai cái này mà kết hợp nhau thì nó làm cho chúng ta tỉnh thức ở trên bước đi rất là cụ thể. Đó, cách thức như vậy.
Cho nên chúng ta phải biết dùng pháp hướng. Nhiều khi chúng ta cứ nghĩ kết hợp, kết hợp nhau, rồi lúc bây giờ chúng ta bảo cái nắp này bay lên, nó chưa bay chúng ta cũng kết hợp, rồi kết hợp làm sao cho được? Chớ phải nó bay thì chúng ta vừa nhắc vừa bay thì cái chuyện đó được, còn đằng này thì nó chưa có bay. Thì đó là mình phải biết dùng cái pháp hướng cho đúng lúc.
(26:50) “Còn câu pháp hướng thỉnh thoảng nhắc một lần đó là pháp diệt Tầm giữ Tứ.”
Nghĩa là thỉnh thoảng mình nhắc một lần, nhắc một lần, nhắc một lần, cứ khoảng độ chừng ba giây hay năm giây hay hoặc là mười giây mình nhắc một lần, cứ nhắc một lần, nhắc một lần vậy đó. Đó là cái pháp hướng nó để diệt Tầm Tứ.
Ở đây Thầy nhắc từng cái như vậy đó, mà các con không hiểu dùng nữa thì Thầy không biết làm sao mà nói. Không còn cái pháp nào mà Thầy không vạch ra cho các con biết cách thức tu. Nếu mà để ý, lưu ý kỹ, bây giờ Thầy dạy rồi các con về tu không có lạc đường nào hết, tu đâu đúng đó, tu đâu đạt kết quả đó.
“Còn câu pháp hướng đi cùng một lượt với hơi thở ra vô là tu Định Vô Lậu kết hợp Định Niệm Hơi Thở.”
Mục đích tỉnh thức và xả tâm, như hồi nãy Thầy nói trên đó.
“Ở trên con hỏi” “Còn khi câu pháp hướng dài không thể đi một lượt với hơi thở được” - đó là cách tu sai không đúng cách.”
Nghĩa là mình dùng cái pháp hướng dài quá dài hơn hơi thở mình, cho nên vì vậy đó, mình hướng rồi mà hơi thở hít vô rồi mà tới hơi thở ra mà nó cũng chưa hết cái câu pháp hướng, thôi cái đầu mình nói lung tung! Cho nên mình đâu có nhớ được cái hơi thở nữa mà gọi là tỉnh thức?
Lo mà nhớ cái câu pháp hướng để mà nói cho nó đúng hết, phải học thuộc làu, thiệt làu vào, nó mới nhớ hơi thở, rồi làu đó thì cũng không nhớ câu pháp hướng, đọc như đọc thần chú, thì Thầy nói thiệt nó không có hiệu quả gì hết.
Cho nên câu pháp hướng dài quá, mà cả hai hơi thở rồi mà nó cũng chưa hết cái câu hướng của mình nữa, thì như vậy nó không có kết hợp được.
“Khi tu Định Vô Lậu, quán xét xong, thì dùng câu pháp hướng dài để xả tâm mà không cần niệm hơi thở trợ giúp.”
Nghĩa là bây giờ mình tu cái Định Vô Lậu, mình quán xét một cái gì đó xong rồi. Bây giờ mình quán cái thực phẩm, mình thấy nó bất tịnh, xong rồi mình hiểu là những món ăn là không phải là ngon, không phải là sanh ra cái khả ái, khả hỷ, khả lạc cho mình, làm cho mình thích thú nữa.
Từ đó mình mới dùng cái pháp hướng thì mình nhắc, “Từ đây cái tâm bỏ cái ham thích về cái ăn. Cái ăn là không có, nó làm cho con người khổ đau, làm cho con người mất cái thân này, và cái thực phẩm là bất tịnh, đừng có ham ăn.” Tức là mình dùng cái pháp hướng để mình nhắc cho cái tâm mình bỏ như vậy, thì dù bây giờ cái pháp hướng có bao dài mình nhắc cũng được hết.
(29:13) Chớ còn cái pháp hướng mà nương vào cái Định Niệm Hơi Thở mà tu tập, thì nó vừa với cái hơi thở thì nó tốt, mà nó dài quá thì nó không hay, mà ngắn quá thì nó cũng làm mất cái hơi thở, nó còn một khoảng trống, chỉ còn một hơi thở không, thì cái pháp hướng nó cũng không có hiệu quả lắm, và nó cũng không giúp gì cho cái hơi thở của mình tiếp tục ở trong cái sức tỉnh nữa, mà còn có những cái kẽ hở để cho những cái niệm khác xen vào ở chỗ kẽ hở đó.
“Khi tu Định Vô Lậu, quán xét xong thì dùng câu pháp hướng dài để xả tâm mà không cần Định Niệm Hơi Thở trợ giúp. “
Thì lúc bây giờ mình chỉ tu thuần có cái Định Vô Lậu thì mình dùng cái pháp hướng mà phá cái tâm của mình.
“Vì câu pháp hướng dài có dùng hơi thở cũng không thể được.”
Vì dài quá mình đâu có làm sao mình thở cho thiệt dài mà mình hướng được? Lúc bấy giờ nếu mà tập trung mà thở dài thiệt dài, thì lúc đó bấy giờ chỉ còn có bám chặt tụ điểm mà thở chậm chậm nhẹ nhẹ nhẹ nhẹ chớ còn khởi lên nhớ cái gì thì cũng không được hết.
“Ở đây các con tu hành phải dùng câu pháp hướng và hơi thở, phải khôn khéo mới có kết quả tốt được.”
Nghĩa là khéo léo lắm để mà mình kết hợp giữa cái định này, giữa cái định kia với cái câu pháp hướng thì nó mới có hiệu quả rất là tốt. Mà biết dùng pháp hướng, câu pháp hướng dài lúc nào mà câu pháp hướng ngắn lúc nào, như thế nào.
Nó khéo léo như vậy Phật mới nói thiện xảo, chớ còn nếu mà nó không khéo léo như vậy thì Phật nói thiện xảo làm gì? Cho nên ở đây tu thì các con cũng phải lưu ý về cái phần mà thiện xảo đó.
Cho nên càng tu chúng ta càng phải thấy rõ được cái chỗ tu tập của mình để mình thiện xảo chớ? Mình còn những thiện xảo nhập định nè, thiện xảo an trú trong định nè, mà không biết thiện xảo những cái này, rồi làm sao mà nhập định, làm sao an trú được?
Phải biết những cái này là những cái pháp mà Phật nói, cái danh từ mà Phật nói đơn sơ thôi, thiện xảo nhập định nè, thiện xảo an trú nè, thiện xảo sống trong định nè, thiện xảo xuất định nè, tất cả những cái đó đều là dùng pháp hướng không, chớ đâu phải là cái gì khác? Mà nếu không có cái đó làm sao mà chúng ta thực hiện được?
(31:17) Hỏi: “Kính bạch Thầy! Trong giáo án tu tập Giới Định Tuệ của Đức Phật mà Thầy đã vạch ra có dạy rất rõ là người muốn nhập Sơ Thiền thì phải ly dục ly ác pháp. Có người lại bảo rằng tu thiền là để nhập định, không cần phải tu các pháp khác, không cần phải tu đức độ, mà chỉ là cốt để nhập định. Với ý nghĩ sai quấy này sẽ dẫn họ đi đến đâu và nhập định gì?
Định Tưởng, Phàm Phu Định, Tâm Thần Định, Phi Nhân Loại Định… Con xin Thầy với lòng thương phủ trùm vạn hữu hãy chỉ cho linh hồn mê tối chúng con ra khỏi đêm đen đang bao phủ!”
Đáp: “Định là do tâm thanh tịnh không tham, sân, si. Người ta hiểu sai định, là do ức chế tâm nên thiền định khác, mà tâm hết tham si là khác.”
Nghĩa là người ta hiểu một cách rất lầm lạc là cái chỗ này: định với cái tâm mà hết tham, sân, si là hai cái, nó không có giống nhau. Đó là cái hiểu lầm, và cái thời nay người ta người nào cũng hiểu lầm như vậy.
Chứ chính cái định mà của Phật thì do cái định, do cái tâm thanh tịnh không còn tham sân si, không còn giận hờn phiền não, không còn thương ghét nữa, thì mới gọi là định.
Còn cái định mà còn tham sân si mà ức chế tâm thì gọi là định, cho nên họ mới nói không cần phải tu giới, không cần phải tu gì hết, không cần đức độ gì hết, miễn làm sao mà nhập định được là thôi, nghĩa là nhập định của họ cứ nghĩ rằng hết vọng tưởng là định, thì cái định đó là cái định sai, không có đúng, không có đúng cách định.
“Đó là một sự hiểu sai lệch. Cũng vì sự hiểu biết này mà người tu thiền không giải thoát.”
Bởi vì cái sự hiểu biết như vậy thì các con cứ nghĩ rằng khi mà họ hiểu biết vậy thì họ cứ tu ức chế tâm. Bởi vì sống thì tham ăn tham uống ngày ba bốn bữa phi thời, rồi chơi, rồi hát, rồi đủ thứ cách hết, không có cái gì mà họ không từ ở trong cái thế gian này, mà chỉ lo cứ ngồi để mà ức chế tâm của mình cho hết vọng tưởng là thiền định, cái nghĩ như vậy đó là cái nghĩ không đúng cách. Vì vậy mà họ tu thiền định mà tâm còn tham, còn sân, còn si, nó đủ thứ.
(33:33) Còn chúng ta vào thiền định chúng ta lo ly dục ly bất thiện pháp. Từ đó cái tâm chúng ta giải thoát hoàn toàn, chúng ta thấy thanh tịnh vô cùng làm cho cuộc sống của chúng ta rất là hạnh phúc, rất là an lạc.
Còn cái thiền định gì mà ngồi thiền nhập định mà rốt cuộc rồi thì nó chẳng thiền định gì hết. Cái định tưởng, ở đây cái định tưởng thì ở đây Thầy đã nói rồi, do chúng ta ức chế tâm làm cho cái ý thức nó ngưng, cho nên cái tưởng thức bắt đầu nó hoạt động vậy, gọi là cái hoạt động của tưởng thức đó, gọi là tưởng.
Cho nên thí dụ bây giờ chúng ta ức chế không có vọng tưởng mà ngồi nghe nó an lạc, tức là cái trạng thái của xúc tưởng hỷ lạc nó xuất hiện, đó là cái định tưởng. Còn chúng ta mà chưa có ức chế được cái ý thức, cái ý thức nó chưa ngưng, thì cái trạng thái hỷ lạc này nó không có.
Cho nên cái người mà còn vọng tưởng lăng xăng thì không tìm được cái hỷ lạc, mà cái người nào hết vọng tưởng rồi chúng ta mới thấy nghe cái trạng thái an lạc, do vì vậy mà do ức chế mà cái tâm của chúng ta nó thấy cái an lạc, đó nó gọi là thiền định, nó gọi là hỷ lạc của thiền định. Nhưng mà sự thật đó là một cái định tưởng chớ không phải là cái định xả tâm.
(34:39) Còn trái lại khi mà cái tâm thanh tịnh của chúng ta mà nó thanh tịnh rồi thì nó ly dục ly ác pháp rồi nó không còn tham, sân, si, nó không còn mạn nghi, nó không còn Thất Kiết Sử nữa, thì lúc bấy giờ nó, cái tâm thanh tịnh đó nó chỉ cần ra lệnh, chớ nó không cần ức chế, nó không ức chế nữa, nó ra lệnh.
Thì do đó cái định đó từ cái ý thức của chúng ta điều khiển chớ không phải là định tưởng - chúng ta có dùng cái ý thức chúng ta đâu. Bởi vì khi mà ly dục ly ác pháp rồi mà nhập Sơ Thiền thì chúng ta còn Tầm còn Tứ chớ, chớ đâu phải mà hết Tầm hết Tứ đâu?
Cho nên chúng ta dùng cái Tầm Tứ, tức là cái ý thức của chúng ta, chúng ta mới điều khiển, bảo: “Tẩm Tứ phải tịnh chỉ!”, thì lúc bấy giờ Tầm Tứ nó nghe cái lệnh chúng ta truyền cho nên vì vậy mà nó ngưng, nó không có hoạt động. Cho nên cái đầu óc của chúng ta nó không có vọng tưởng là do cái lệnh truyền của cái tâm thanh tịnh, chớ không phải do chúng ta tập trung ức chế, hai cái nó khác.
Vì vậy mà do cái lệnh truyền đó thì nó tịnh chỉ Tầm Tứ, cho nên cái tưởng nó có xuất hiện.
Bởi vì cái ý thức, nó bị truyền lệnh của cái ý thức đó, cái ý thức nó truyền lệnh cho cái Tầm Tứ nó tịnh đi, thì bắt đầu cái ý thức nó không có hướng nữa, tức là nó không nhắc nữa, thì lúc bấy giờ cái ý thức nó ngưng. Nó ngưng thì bắt đầu cái tưởng nó cũng hiện lên, cho nên khi đó thì người ta nói: diệt Tầm Tứ thì định sanh hỷ lạc.
Khi mà Tầm Tứ đã diệt rồi thì Tầm - vọng tưởng nó không có rồi, thì cái tưởng nó mới hiện ra. Thì hiện ra thì chúng ta cũng có cảm giác hỷ lạc như cái người ức chế, giống nhau như người ức chế.
(36:12) Nhưng mà người ức chế họ không có cái truyền lệnh, cho nên vì vậy mà họ không xả được các cái thứ tưởng này, họ không xả được mười tám cái loại tưởng này.
Cho nên chúng ta bây giờ đang ở trong cái trạng thái của cái định Nhị Thiền diệt Tầm Tứ này nó có cái hỷ lạc, cho nên chúng ta phải xả cái hỷ này, để mà chúng ta vượt ra mười tám cái loại hỷ này mà chúng ta đi qua nhập cái Tam Thiền, cho nên Phật gọi là xả hỷ, ly hỷ mà trú xả nhập Tam Thiền.
Cho nên bây giờ chúng ta mới dùng các pháp hướng chúng ta mới ly nó ra, lìa nó ra, còn không có pháp hướng làm sao điều khiển mà lìa? Cho nên chúng ta từ cái trạng thái hỷ lạc này đến cái trạng thái khác của thân tâm của chúng ta, nó bồng bềnh, nếu mà nó đúng thì nó đi vào những cái định tưởng như Không Vô Biên Xứ Tưởng, Thức Vô Biên Xứ Tưởng. Còn nó sai một chút thì chúng ta rơi vào những cái vô ký, ngoan không, hôn tịch, hôn trầm, thùy miên, tất cả mọi cái nó đều bị rơi vào trong đó hết.
Đó là những cái định tưởng.
Như vậy là chúng ta, nếu mà chúng ta vượt qua tất cả những cái loại tưởng của cái chỗ mà ý thức ngưng này, tức là Nhị Thiền, thì chúng ta mới nhập được Tam Thiền. Mà nhập được Tam Thiền thì cái tưởng chúng ta đã ly ra, chứ chúng ta chưa có diệt nó đâu, chúng ta mới lìa ra cái tưởng thôi, vì vậy mà chiêm bao chúng ta không có.
Từ đó chúng ta mới ở trên cái trạng thái của hết tưởng này, chúng ta mới đánh thức cái tâm thức của chúng ta dậy bằng cách tịnh chỉ cái thân của chúng ta ngưng hoạt động, thì cái tâm thức chúng ta mới đánh nó (thức) dậy. Nếu mà cái thân này nó còn hoạt động thì cái tâm thức nó không dậy, nó không có hoạt động được, nó không có làm việc được.
Cái mục đích của chúng ta là như Thầy đã nói, cái đầu của chúng ta nó có cái số tế bào não, một cái số nó đang làm việc của cái sự sống của chúng ta, cái thân của chúng ta. Bây giờ cái số đó ngưng, với cái hoạt động của hơi thở của chúng ta nó ngưng, thì nó sẽ đánh thức cái số kia làm việc để nó giữ cái thân của nó.
Do nó giữ được cái thân của nó, vì vậy mà nó không thở mà nó không chết, mà nó không có lạnh, nó còn giữ được cái hơi ấm, là do một số cái tế bào mà không làm việc bây giờ nó bắt đầu nó làm việc đó. Như vậy là cái thân của chúng ta khi mà nhập định nó không hoại diệt, nó không chết luôn.
(38:18) Còn Phàm Phu Định, đây là một cái danh từ của những người mà muốn phỉ báng Phật pháp, bài xích Phật pháp, cho cái thiền của Phật giáo là Bốn Thiền, là Phàm Phu Định hay là Phàm Phu Thiền, cho cái thiền đó là cái Phàm Phu Thiền, là cái thiền của người phàm phu.
Mà phàm phu làm sao có thiền định gì? Các con cứ nghĩ, cái người phàm phu làm sao có thiền? Ăn uống phi thời, ngủ nghỉ phi thời, không có ngồi thiền nhập định gì hết, ăn uống rượu li bì, chạy theo dục lạc đủ thứ, mà gọi là Phàm Phu Thiền là Phàm Phu Thiền cái chỗ nào?
Cũng như bây giờ nếu mà chúng ta là người phàm phu mà ngồi hít thở, đang nhiếp hơi thở gọi đó Phàm Phu Thiền sao? Đâu phải.
Nghĩa là từ chúng ta, mọi người đều là người phàm phu hết, nhưng mà đã tu tập thì không thể nào có một cái thiền gì mà gọi là Thiền Phàm Phu.
Không lẽ bây giờ có một con bò này, phải không. Dạy nó một cái thiền định để nó làm con người, thì bây giờ con bò nó tập cái thiền định đó, bây giờ nó mới thành con người, thì như vậy gọi là Phàm Phu Thiền, anh nhờ cái phàm phu này mà anh làm con người!
Cũng như bây giờ mình muốn trở thành ông Thánh nè, mình mới tập tu Tứ Thánh Định mình mới là ông Thánh được! Phải không, mới gọi là Thánh Định.
Còn bây giờ Phàm Phu Thiền tức là muốn tu để thành phàm phu, thì chỉ có con bò, con chó, con heo, con gà, bắt đầu mấy con vật này phải tu tập cái thiền định này nè, để trở thành người, tức là phàm phu, phải không? Như vậy mới gọi là Phàm Phu Thiền.
Cái danh từ Phàm Phu Thiền này các con thấy, nó kêu là nó dùng cái lời quá nặng đối với Phật pháp đó các con, chớ không phải thường đâu.
Bởi vì xét cho cùng các con thấy, mình muốn làm Thánh nè, gọi là mình muốn làm bậc Thánh, thì mình phải tu Thánh Định chớ gì, thì Thánh Thiền chớ gì? Thì bây giờ phàm phu, là muốn tu cái Thiền Phàm Phu là muốn thành phàm phu chứ gì, phải không?
Vậy thì mình là con người rồi, là phàm phu rồi, mà bây giờ nó con vật con bò, con heo nó chưa thành người được, vì vậy mà nó muốn làm người, tức là muốn phàm phu như mình, thì nó phải tu chứ còn sao lại bắt mình phàm phu rồi bây giờ còn tu cái thiền để làm phàm phu nữa, thì như vậy là phàm phu rồi còn tu cái pháp nào để phàm phu nữa làm gì? Nó có lợi ích gì đâu?
(40:28) Cho nên do đó là những cái danh từ này là danh từ của Đại Thừa nó gán cho cái thiền của Nguyên Thủy của Phật là Thiền Phàm Phu. Đó, các con thấy cái thâm ý của các nhà Đại Thừa chưa? Nó độc ác đến cái mức độ đó đó.
Mà xét ra thì các con nghe Phàm Phu Thiền các con lại tưởng là có Phàm Phu Thiền thật có sao? Đó là cái bịa đặt của họ. Nếu là con bò, con chó làm sao nó biết đâu mà nó tu thiền mà gọi là phàm phu? Nó từ con bò, con chó nó muốn làm người thì nó phải tu Thiền Phàm Phu chớ?
Nên phải hiểu được cái danh từ dùng. Ở đây người ta dùng cái danh từ mà người ta không hiểu, người ta muốn dùng (dìm) cái thiền định của Phật nó đến cái độ như vậy đó, thì các con biết họ dìm xuống như vậy đó!
Nghĩa là từ con bò, con chó mới tu cái đó để làm phàm phu đó. Nghĩa (là) cái thiền Tứ Thánh Định của Phật là cái từ con bò, con chó mới tu cái đó để làm con người phàm phu, mới tu cái thiền đó.
(41:18) Còn Tâm Thần Định, Tâm Thần Định đây là cái định thuộc về luyện về cái tâm thần của mình. Thật sự thì đây là một cái danh từ mà nói về Tâm Thần Định này, thì tập luyện về cái tâm của mình như thế nào thì Thầy chưa biết!
Phi Nhân Loại Định nghĩa là cái thiền định mà không phải, phi nhân là con người mà, cái loại phi nhân, thí dụ như bây giờ ở trong kinh điển Phật có nói cái loài phi nhân, cái loài phi nhân như thế nào?
Ở đây cái loài phi nhân tức là những cái loài mà nó gần giống người, nó không giống người chớ nó là những cái loài vật gì mà đức Phật nói, La Sát hay cái gì đó, quỷ La Sát nó là cái loài phi nhân. Cho nên cái loại thiền định để mà tu tập thành cái loài phi nhân, đây nó là Phi Nhân Loại Định mà, cái định để mà tu tập thành cái loài phi nhân.
Cũng như bây giờ mình con người nè, là mình hơn cái loài đó rồi, bây giờ đó mình tu tập để trở thành những cái loài vật đó, thì như vậy là cái thiền định đó để làm gì?
Cho nên vì vậy những cái định này, Thầy nói thà hầu hết là, bởi vì khi mà cái tên của nó để xác định cho nó biết được cái đó cái gì. Cho nên hầu hết là những cái loại định của Phật đều gọi là Thánh Định, nó vượt hơn cái phàm phu, nó làm cho con người nó xa cách với, nó hơn những cái, từ cái đức hạnh, từ cái sống của nó, nó không giống phàm phu.
Cho nên ở đây những cái loại thiền định này thì từ cái phàm phu là trong kinh Đại Thừa nó đã nói về kinh Nguyên Thủy, thiền của Nguyên Thủy nó nói là Thiền Phàm Phu.
(43:01) Còn cái định mà Tâm Thần Định này thì Thầy không thấy ở trong sách Phật, rồi Phi Nhân Loại Định này Thầy cũng không thấy. Nhưng mà nếu mà phi nhân, Thầy biết rằng ở trong kinh điển Phật có nói loài phi nhân, thì tức là một cái loài mà nó không phải loài người, như quỷ La Sát vậy đó, nó là phi nhân đó.
Thì do như vậy là cái loại định để làm, để mà trở thành cái loài phi nhân này, thì chúng ta đi tu những cái loại định này làm gì? Và nó có lợi ích gì cho chúng ta để trở thành những cái loài đó? Đó, tất cả những cái này.
Còn Tâm Thần Định này chắc có lẽ là cái định để cho những người bị bệnh tâm thần mà trị sao? Những người điên mới dùng những cái định này để mà cho họ hết điên á?
Thì như vậy là có những cái phương pháp mà thư giãn thần kinh của họ, thì cho nên gọi là Tâm Thần Định? Thì tất cả những cái này, qua những cái danh từ này để chỉ cho những cái phương pháp dưỡng sinh như thế nào, cái định để mà làm cho cái tâm của mình yên lặng ở trong đó, thư giãn để mà tâm thần của mình nó được thoải mái dễ chịu lắm.
Thì như vậy là tất cả những cái này, là những cái điều nó không phải là cái hướng mà của chúng ta đi đâu. Tất cả những cái này đều sai!
Từ cái định tưởng thì chúng ta có biết được năm cái loại định, nhưng mà chỉ có bốn cái loại định gọi là tưởng, đó là cái Không Vô Biên Xứ Tưởng và Thức Vô Biên Xứ, Vô Sở Hữu Xứ, Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ.
Còn cái định Diệt Thọ Tưởng Định là nó diệt cái tưởng chớ nó không phải là cái định của tưởng, nó diệt cái thọ và cái tưởng, mà cái thọ và cái tưởng nó thuộc về ý hành. Còn cái Tứ Thiền nó thuộc về thân hành và cái Nhị Thiền nó thuộc về khẩu hành.
Cho nên những cái thiền định này nó đều thuộc về những cái hành, đều là nằm ở trong thân của mình, cho nên nó không thuộc về, như Diệt Thọ Tưởng Định nó không thuộc về bốn cái loại Định Vô Sắc này đâu, từ Không Vô Biên Xứ, Thức Vô Biên Xứ cho đến Vô Sở Hữu Xứ, Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ, nó không có thuộc vậy.
Mà cái định tưởng này nó sẽ nằm ở trong bốn cái loại định đó. Cho nên bốn loại định đó nó không có cứu cánh chúng ta đâu. Nói về tưởng là chúng ta phải nói đó là cái hình dáng, cái hình bóng, nó không thật đâu, nó là một cái trò mị hoặc, mị người khác, nó làm theo cái kiểu mị, chớ nó không thật đâu.
(45:09) Thì ở đây hôm nay Thầy phân tích cho rõ thấy được những cái ý nghĩa của các thiền định như vậy, để chúng ta hiểu rõ cái định nào đúng.
Bởi vì hầu hết nhìn trong thế gian này chúng ta biết rằng, hầu hết là cái số người mà tu thiền định bây giờ đó, họ đang tu cái thiền định ức chế tâm, rồi họ rơi vào đâu? Họ sẽ lạc vào ở trong các cái định của tưởng chớ không có đi đến đâu được hết.
May mắn có ông nào đi vào cái định Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Định, thì ổng tiến tới một chút xíu nữa thì ổng nhập được cái Diệt Thọ Tưởng Định, cho nên ổng sẽ làm chủ được cái, ổng bỏ cái nhục thân nó không hôi thúi.
Thì hầu hết là có một số thiền sư, họ đã tu từ cái định ức chế tâm của họ, rồi họ rơi vào trong cái định của Diệt Thọ Tưởng Định, mà đó là cái may mắn của họ, chớ họ không có biết cái đường mà để họ nhập cái định đó.
Thầy nói rằng họ không biết đường nhập cái định Diệt Thọ Tưởng Định này. Bởi vì trong Thiền Tông Thầy không thấy dạy cái cách thức mà họ nhập Diệt Thọ Tưởng Định. Thế mà sao họ lại bỏ nhục thân được? Là đó là cái may của họ mà thôi, chớ sự thật ra thì họ chưa phải nhập cái định đó.
Còn ở đây Phật dạy chúng ta rất rõ mà, khi chúng ta dùng cái pháp hướng chúng ta là chúng ta điều khiển nó tịnh chỉ.
HẾT BĂNG
PHÁP HÀNH 31 - TÂM ĐỊNH TĨNH, NHU NHUYỄN, DỄ SỬ DỤNG
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Thời gian: 1998
(0:00) … giờ dạy một buổi học nữa cho hết hai cái pháp này để rồi chúng ta còn làm công việc rất nhiều. Đến đây xin kết thúc, các thầy đứng dậy.
(0:13) Hôm nay là cái buổi học về các cái giới hành, tức là pháp hành của đạo Phật, là cái buổi học cuối cùng. Thì Thầy muốn tóm lược lại cho nó nhanh vì cái thời gian của Thầy còn phải làm việc rất nhiều, mọi mặt.
Thứ nhất là đi tìm những cái bậc chuyên tu, mà những người này họ có cái tâm tha thiết tu hành, mà họ chưa có cái đủ duyên để mà gặp Thầy, cho nên Thầy đi tìm những cái bậc này để mà độ họ cho nó tu hành cho tốt.
Cái thứ hai là tìm cái địa điểm, tìm cái nơi nào mà nó yên ổn nhất để cho một vị tu sĩ sống đúng cái Phạm Hạnh của Phật, tức là sống cái hạnh trầm lặng, sống độc cư hoàn toàn để thực hiện được cái tâm hồn giải thoát. Chứ còn sống cái cuộc sống mà không đúng thì dù tu thiền gì thì cũng không kết quả đâu.
Cho nên nó có hai cái mục đích trong cái mùa hạ năm nay. Và đồng thời thì những ngày còn lại trong hạ này, Thầy tiếp tục Thầy soạn cái bộ giới luật của Phật cho nó hoàn chỉnh. Vì cái tập thứ nhất của cái bộ giới này, thì coi như là sắp sửa hoàn thành, Thầy chỉ còn viết cái lời bạt và cái lời tựa của cái cuốn sách giới luật này.
Còn cái tập hai thì là Thầy sẽ tiếp tục dạy về giới luật, thì nói về cái đức của một vị Tỳ Kheo và cái hạnh của một vị Tỳ Kheo trong các cái giới, trong 250 giới cũng như là 348 giới luật của Phật đối với Tỳ Kheo Ni.
(01:53) Bây giờ hôm nay, từ hôm mà học cái giới hành, tức là các cái pháp hành của Phật để chúng ta biết được cái đường lối tu tập, thì Thầy đã giảng từ cái Tứ Chánh Cần, cho đến hôm nay là nó bắt đầu học đến cái Tứ Như Ý Túc và Tam Minh.
Từ lâu tới giờ thì hầu hết là các học giả triển khai đến cái Tứ Như Ý Túc, thì họ chỉ nói suông chứ bọn họ không thấy cách thức tu. Và cái Tam Minh cũng vậy, họ chỉ nói hướng tâm đến Tam Minh rồi biết được nhiều đời nhiều kiếp dựa như trong kinh sách.
Cho nên ở đây trước khi mà dạy về Tứ Như Ý Túc, Thầy sẽ đọc cho thấy những cái danh từ mà ở trong kinh nó có nhấn mạnh, nhưng mầ là hầu hết người ta không lưu ý những cái danh từ đó, hoặc là những danh từ đó vì sai mà làm cho người ta không có thể biết cái pháp hành ở đâu.
Vậy những cái khó khăn là gì? Cái người chưa có thực hiện được cái sự giải thoát, cho nên không thấy được cái nghĩa lý của những cái lời dạy ở trong kinh sách này.
Đây là bộ kinh Trường Bộ, trong bộ kinh Trường Bộ, tập 1 nói về kinh Sa Môn quả, thì Thầy cũng chỉ trích một cái đoạn mà nói về tu Tứ Như Ý Túc cho đến Tam Minh, cho nên cái đoạn này Thầy sẽ nhắc lại. Bởi vì trong Sa Mmôn quả thì khi bắt đầu mà vào xuất gia cho đến khi mà thành tựu giải thoát, đều là cái quả của Sa Môn, cái quả - kết quả cái sự giải thoát của người tu sĩ, cho nên gọi là Sa Môn quả.
Ở đây thì Đức Phật nói chuyện với một nhà vua, cho nên Đức Phật có nhắc lại cái chỗ cái tâm mà vị ấy đã nhập được Tứ Thiền, tức là khi mà tịnh chỉ hơi thở.
Các thầy cũng lưu ý rằng cái thiền của đạo Phật rất là tuyệt diệu, là vì làm cho nó ngưng cái hơi thở, mà cái hơi thở đã ngưng, thì các cái bộ phận hoạt động ở trong thân của chúng ta nó cũng đều ngưng theo hết. Còn cái hơi thở mà còn thở, thì tất cả cái bộ phận ở trong thân chúng ta đều là hoạt động.
Cho nên đặc biệt là có thiền của đạo Phật để chỉ rõ chúng ta biết được cái chỗ ngưng hơi thở, cách thức làm cho nó ngưng hơi thở. Còn các loại thiền khác thì nó không biết cách tu tập này, cho nên do vì vậy mà nó không thể nào tịnh chỉ hơi thở được.
Chỉ có Bốn Thiền, từ cái Sơ Thiền nó làm chủ được cái cuộc sống là nó ly dục, ly ác pháp, nó làm cho tâm chúng ta không còn tham sân si ham muốn nữa. Cái Nhị Thiền thì bắt đầu chúng ta vào những cái định.
Nhưng mà nhờ chỗ cái tâm thanh tịnh ly dục, ly ác pháp đó mà người ta mới thực hiện được bốn cái thiền định sau này, bốn cái định sau này, đó là từ cái Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền và Diệt Thọ Tưởng Định.
Còn cái, vì nó có cái tâm thanh tịnh nó mới thực hiện được, còn người mà chưa có tâm thanh tịnh thì đừng có nói rằng rớ tới cái thiền của đạo Phật được, ngay cả cái Sơ Thiền mà tu tập ly dục, ly ác pháp thì cũng không bao giờ có thể mà đạt được cái Sơ Thiền nữa chớ huống hồ chi là cái Nhị Thiền.
Thường thường là người ta tu hành thiền định, người ta ức chế tâm để hết vọng tưởng, để không còn Tầm Tứ để đi vào cái Nhị Thiền, mà không thấy đó là cái pháp ức chế tâm.
Nó làm chúng ta, khi mà ức chế được cái tâm, tức là ý thức chúng ta không hoạt động, không khởi những cái niệm vọng tưởng nữa, thì cái tưởng thức chúng ta sẽ hoạt động.
Cũng như một người ngủ, thì khi mà ngủ thì cái ý thức nó ngưng hoạt động, thì cái tưởng thức nó hoạt động, cho nên cái người ngủ thì nó phải có chiêm bao, nó phải thực hiện qua giấc chiêm bao. Còn cái ý thức mà nó làm việc, nó hoạt động thì nó không bao giờ có chiêm bao nữa.
Cho nên khi một người mà ức chế cái tâm, coi như là nó không có vọng tưởng, thì người đó sẽ rơi vào cái trạng thái tưởng, những cái trạng thái tưởng như cái trạng thái hỷ lạc, khinh an đều là do trạng thái tưởng này sinh ra.
Cũng như cái người tu cái thiền mà Bốn Thiền, ly dục ly ác pháp nhập Sơ Thiền rồi thì nó còn Tầm Tứ. Nhưng mà khi mà nhập Nhị Thiền, diệt Tầm Tứ mà nhập Nhị Thiền, thì cái ý thức nó cũng ngưng hoàn toàn, nó không có Tầm nữa, nó không có Tứ nữa, do đó nó cũng ngưng hoàn toàn, nhưng mà ở đây nó không có ức chế tâm, mà nó chỉ có cái Như Lý Tác Ý, tức là cái pháp hướng.
Thí dụ như bây giờ mình muốn cho Tầm Tứ nó ngưng, thì mình bảo rằng: “Tầm Tứ hãy tịnh chỉ!” thì tức là Tầm Tứ nó sẽ ngưng, tức lúc bây giờ chúng ta sẽ nhập Nhị Thiền, mà nó không phải là do cái chỗ mà chúng ta ức chế tâm, ngồi tập trung vào một cái hơi thở hoặc là cái đối tượng nào đó. Chúng ta chỉ ra lệnh thôi, thì nó ngưng.
Do cái chỗ mà nó ngưng đó bằng cái tâm nó đã ly dục, ly ác pháp. Nếu mà chưa ly dục, ly ác pháp thì cái đạo lực, hay hoặc là cái pháp dẫn tâm, thì nó không có, nó không có cái lực dẫn tâm, cho nên chúng ta có ra lệnh nó cũng không có làm gì được mà nó ngưng. Còn tâm chúng ta thanh tịnh thì chúng ta ra lệnh thì được liền.
(07:07) Cho nên ở đây Thầy xin dạy về, nhắc lại để rồi chúng ta có những cái từ, như là ở trong cái định Tứ Thiền nó cũng vậy, có những cái danh từ coi thì nó tầm thường vậy chớ sự thật ra nó có những cái từ mà Phật chỉ nó rất là rõ ràng và cụ thể chớ không phải không đâu.
Nhưng Thầy đã dạy cái Tứ Thiền, nếu mà giảng cho nó kỹ thật kỹ thì nó lại mất thì giờ rất nhiều. Và đồng thời thì các con cũng biết rằng, mình tu được từ cái này thì nó đi tới cái khác nó dễ hơn. Còn nghe nó nhiều quá, nó mênh mông thì nó sẽ rối đi, nó làm cho chúng ta không có biết đường tu.
Thay vì các con phải tu tập do vị thiện hữu tri thức hướng dẫn, thì người ta dạy các con phải tu ly dục ly ác pháp, người ta không hề nói tới Tam Thiền, Tứ Thiền hay cách gì hết, người ta không nói cách thức tu tập cái pháp đó như thế nào hết, người ta không nói, nhưng mà người ta dạy bảo các con bây giờ phải tu cái gì, cái gì để mà ly dục ly ác pháp, thì các con phải thực hiện làm cho được ly dục ly ác pháp, rồi thì người ta mới dạy kế. Chớ người ta không dạy Nhị Thiền hay là Tam Thiền gì hết, người ta không nói trước, thì cái tu của các con rất dễ.
Còn cái này giảng ra thành một cái bài như vậy, làm cho cái đầu óc của các con hiểu biết đủ thứ hết! Cho nên Phật nói những gì cần hiểu thì hiểu, mà những gì chưa cần hiểu, chưa cần biết tới nó mà biết thì nó rất là rối.
(8:24) Ở đây hầu hết là chúng ta bị cái trường hợp mà đem kinh sách giảng, nó làm cho chúng ta rối.
Từ cái chỗ chưa làm được mà đến cái chỗ quá là cao siêu, đối với cái tâm hữu hạn của chúng ta thì làm sao hiểu nổi những cái tâm vô hạn này, chỗ cái hiểu mà rất là siêu này? Thì do đó mà chúng ta cũng muốn hiểu, với cái tâm chúng ta đang hữu hạn mà chúng ta muốn hiểu cái vô hạn của nó thì làm sao được?
Như thí dụ như một thân này biến ra một thân, thì các vị hiểu như thế nào được khi mà nó biến ra một thân? Hay hoặc là ngồi đây mà đưa cái bàn tay mà rờ mặt trăng, mặt trời, thì các vị làm sao mà hiểu được với cái tâm hữu hạn này? Trừ ra khi chúng ta có cái tâm vô hạn thì chúng ta mới hiểu nổi.
Cho nên những cái nói ra mà không hiểu để đi tìm mò, thì cái điều đó là cái điều sai lệch, mà với cái trí, cái tâm hữu hạn này, thì làm gì mà tìm mò hiểu cho được? Khó mà hiểu được lắm!
Cũng như, thí dụ như nghe nói về Túc Mạng Minh, người ta nhớ lại nhiều đời, người ta thấy lại nhiều đời nhiều kiếp người ta, thì mình không hiểu làm sao mà nhớ lại những cái quá khứ, cái thời gian dài cả ngàn năm.
Như bây giờ, thí dụ như muốn nghe lại cái bài kinh Sa Môn quả này. Khi Đức Phật mà nói chuyện với nhà vua như vậy, mà mình muốn nghe lại cái bài kinh Đức Phật đang thuyết trong cái thời quá khứ đó. Mà bây giờ, hiện giờ mình trở về quá khứ mình nghe lại bài kinh đó mà Đức Phật cũng đang thuyết, âm thanh cái tiếng nói của Đức Phật đang vang ở trong cái quá khứ đó.
Thì lúc bây giờ chúng ta phải có cái Tam Minh, thì cái Túc Mạng Minh đó chúng ta mới trở về với cái quá khứ đó được, chúng ta mới thu ngắn cái thời gian đó lại, nó không còn quá khứ thì nó trở về hiện tại, thì lúc bấy giờ chúng ta nghe lại cái bài kinh đó, thì như vậy Đức Phật đang thuyết vậy có đúng như ở trong kinh sách này không? Hay hoặc trong kinh sách người ta thêm?
Cho nên muốn xác định được cái bài kinh đó thì chúng ta phải thực hiện cái tâm vô hạn đó thì nó mới hiểu được, mà cái tâm hữu hạn như chúng ta hiện giờ thì không thể hiểu được cái điều đó đâu.
Cho nên những kinh sách này đúng hay sai, mà đối với một người tu chứng mà có Tam Minh rồi thì họ biết sạch hết, họ biết cái bài kinh nào đúng, bài kinh nào sai. Còn người mà như các con bây giờ, cứ dựa trong kinh sách này rồi cho nó đúng sai thì điều đó các con không biết.
Người ta biết chắc chắn rằng cái bài kinh đó ai thêm vào, người nào thêm vào, người ta trở về quá khứ, do cái kinh này ai soạn ra như thế nào thế nào, người ta sẽ dùng cái sức, cái tâm vô hạn này thì người ta sẽ biết được hết tất cả mọi cái sự việc đó.
(10:48) Vì vậy bây giờ nói về Tứ Như Ý Túc, tức là cái ý muốn mình như thế nào thì nó sẽ làm được như thế nấy.
Thì cái Định Như Ý Túc, thì chúng ta đã từng tập từ cái Sơ Thiền để ly dục, ly ác pháp thì chúng ta có một cái đạo lực, tức là cái sức lực của cái tâm linh của chúng ta, nó rất là huyền diệu, do cái tâm thanh tịnh không còn tham, sân, si phiền não nữa. Thì lúc bây giờ chúng ta chỉ Như Lý Tác Ý, như cái ý của mình, như cái ý muốn của mình như thế nào thì mình tác ý ra như thế nấy.
Thí dụ như bây giờ cái hơi thở nè, đang thở như thế này, ra vô nè, thì chúng ta bảo: “Hơi thở phải tịnh chỉ! Ngưng! Để nhập Tứ Thiền!” thì ngay đó chúng ta phải nằm, phải giữ cái tâm mình trên cái vị trí nào, để rồi lúc bấy giờ cái thân và tâm của chúng ta sẽ định ở trên cái chỗ đó, cho nên gọi là Định Như Ý Túc. Chớ không phải chúng ta phải nhập Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền nó mới nhập vào Tứ Thiền, không phải đâu.
Nó không phải đi có trình tự như vậy đâu, mà đây là một cái sự điều khiển bằng một cái tâm linh, bằng cái sức nội tâm của chúng ta điều khiển nó. Mà cái sức nội tâm điều khiển, chúng ta mới bắt đầu mà chúng ta ly dục, ly ác pháp để mà xả cái tâm, ly cái tâm lậu hoặc của chúng ta, cái tâm mà phiền não tham sân si chúng ta, thì ngay đó chúng ta đã tu tập nó rồi.
Hằng ngày chúng ta thường nhắc: “Cái tâm như cục đất, không có tham, sân, si nữa!”. Lời chúng ta nói, sức chúng ta truyền lệnh như vậy thì chúng ta phải sống đúng như thế nào? Sống đúng giới luật.
Nghĩa là bảo nó: “Đừng có tham, sân, si nữa! Tâm như cục đất, đừng có giận hờn, phiền não nữa! Ly tất cả những lòng ham muốn!”, thì như vậy chúng ta phải ly cái gì? Ly cái ăn, cái ngủ, tức là chúng ta phải sống lìa cái ăn cái ngủ, chúng ta không còn chạy theo cái ăn ngủ.
Còn bây giờ chúng ta ăn ngày ba bữa, rồi ham ăn, ham ngủ, rồi thích vui, xem tivi, rồi xem này kia hay hoặc là thích xe cộ, rồi chùa to tháp lớn, thử hỏi những cái điều kiện đó thì làm sao mà chúng ta thực hiện được cái đạo lực mà gọi là truyền lệnh như vậy được?
Cái tâm ham muốn, mà hằng ngày cứ bảo tâm như cục đất, tâm như cục đất. Ngày ăn ba bữa mà bảo tâm như cục đất, thì làm sao như cục đất được? Cái tâm nó còn chạy theo ác pháp, nó còn chạy theo dục vọng.
Còn bây giờ mình sống đúng mình không có, cái sống của mình nó sống đúng, nó tạo cho mình cái thanh tịnh, cho nên cái truyền lệnh của mình nó sẽ trở thành một cái lực. Nó thanh tịnh, nó nghiêm chỉnh, cho nên nó mới trở thành cái lực, nó như vậy mới được.
Từ cái lực đó chúng ta mới truyền lệnh bảo: “Hơi thở ngưng!”, thì hơi thở nó sẽ ngưng. Còn nếu mà tâm chúng ta nó không thanh tịnh làm sao chúng ta bảo nó được?
Và khi muốn bảo cái hơi thở ngưng, thì ít ra chúng ta cũng phải ở sống cái tâm trạng của chúng ta lúc bấy giờ nó phải nằm như thế nào, nó phải trụ như thế nào, nó ôm chặt như thế nào để nó nằm trên chỗ đó nó mới ngưng chớ! Còn bây giờ nếu bình thường như Thầy đang nói chuyện với quý thầy, đang thuyết giảng như thế này, mà bảo cái hơi thở mình ngưng thì chắc gì nó ngưng? Phải không?
Cái tâm mình nó chưa nằm yên trên một cái điểm nào đó mà mình bảo nó ngưng, làm sao nó ngưng được? Cũng như bây giờ mình bảo đừng có tham, sân, si, đừng có ham muốn, mà mình cứ chạy theo ham muốn, mình sống trong ham muốn thì mình bảo làm sao nó nghe được!
Cho nên đó là những cách tu sai, nó không đúng. Phá giới luật thì không bao giờ mà có tâm thanh tịnh, mà tâm không thanh tịnh thì làm sao mà có định được? Vì vậy cho nên Phật nói giới sanh định, nghĩa là từ cái giới nó khép chặt mình ở trong cái khuôn khổ của cái ly dục, ly ác pháp. Cái giới, mà giới là thiện pháp mà!
Nó khép mình ở trong cái khuôn khổ nó, mình không phạm giới. Mà khi có một chút nào phạm giới thì mình xấu hổ, mình biết xấu hổ, cho nên mình ngăn chừa, mình không có phạm nữa. Từ đó cái thân và tâm của mình do cái giới luật nó làm cho mình thanh tịnh, từ thanh tịnh đó thì cái pháp hướng của mình nhắc: “Tâm như cục đất không có tham, sân, si nữa!” thì lúc bây giờ cái tâm chúng ta nó mới hết tham, sân, si.
Tu hành nó đúng cách, sống đúng cách tu hành mới đúng cách, còn sống không đúng cách thì tu hành không đúng cách. Cho nên Phật nói giới sanh định là vậy. Rồi từ định nó mới sanh tuệ, chớ không phải là bây giờ chúng ta học cho nhiều, hiểu biết cho nhiều là tuệ, cái đó là cái sai của chúng ta, cái hiểu biết sai.
Từ cái học hỏi mà nhiều thì nó lại sanh cái ngã, nó làm cho cái ngã chúng ta lớn lên. Từ cái ngã đó nó chạy theo dục lạc, nó ham thích dục lạc, bởi vì cái danh, danh thì nó kèm thêm cái lợi.
Mà bây giờ chúng ta có cái bằng Tiến sĩ Phật học, nhưng mà rồi rốt cuộc rồi chúng ta có giải thoát được gì? Hay là chúng ta chạy theo danh lợi, dựa vào cái bằng đó để chúng ta lợi dụng nó bằng cách này bằng cách khác, để thuyết giảng qua cái lý luận của mình, để gạt Phật tử?
Nhưng mà mình nói ra một điều mà mình không làm đúng một điều mình nói, thì cái người đó là cái người gì? Họ có nói hay cách gì nhưng cuộc sống họ không hay, thì tức là họ cũng là một người tham mà thôi.
(15:06) Đó, trên cái phương diện như vậy, bây giờ chúng ta bắt đầu nghe lại cái bài kinh Đức Phật đã nói:
“Này Đại Vương, với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu uế, không phiền não, nhu nhuyễn, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, Tỳ Kheo dẫn tâm, hướng tâm đến chánh trí, chánh kiến.
Vị ấy biết thân này của ta là sắc pháp, do bốn đại thành, do cha mẹ sanh, nhờ cơm cháo nuôi dưỡng, vô thường, biến hoại, phấn toái, đoạn tuyệt, hoại diệt, trong thân này thức ta lại nương tựa vào sự trói buộc.”
Đó, là khi mà cái tâm của chúng ta mà nó thuần tịnh, nó định tĩnh, nó thuần tịnh rồi, nó không còn cấu uế nữa, không còn phiền não, nó nhu nhuyễn, dễ sử dụng, nghĩa là bây giờ nhắc nó như thế nào, nó làm theo như thế nấy đó. Thì lúc bấy giờ chúng ta mới nhắc nó đến chánh trí, chánh kiến, thì nó nhìn thấy được cái thân nó như thế nào rất rõ.
Còn bây giờ chúng ta hiểu biết nhưng sự thật ra cái chánh trí và chánh kiến chúng ta chưa có, chưa có hướng đến được cái chánh trí, chánh kiến đâu.
Cho nên nhiều khi chúng ta hiểu là thân này là tứ đại do bốn đại hòa hợp thì đó là chúng ta nhai lại cái đờm dãi của kinh sách, nhai lại cái bã mía của cái người khác chớ không phải chính chúng ta đã thấy thật là nó như vậy. Vì vậy chúng ta chưa có chánh trí, mà chưa có chánh kiến, cho nên làm sao?
Vì tâm của chúng ta như là một cái dòng nước đục, nó còn đang đục, nó nhiễm, nó chưa có trong sạch, thì do đó cái chánh trí và chánh kiến của chúng ta chưa có.
Ở đây Phật nhắc cho chúng ta biết rằng, khi mà tâm chúng ta phải định tĩnh - định tĩnh là như thế nào? Cho nên lúc bây giờ một người mà muốn tu Tứ Như Ý Túc đó, là tâm phải định trên thân, thân phải định trên tâm.
Tại sao là tâm phải định trên thân? Là tâm nó nương vào cái thân để mà nó ly tất cả các cái lậu hoặc. Cái tâm nó nương vào cái thân để nó ly tất cả các lậu hoặc, cho nên gọi là tâm định trên thân. Nếu mà ngoài cái thân này thì cái tâm nó định tĩnh ở đâu mà nó ly được cái lậu hoặc? Nó phải ở trong cái thân này nó mới có ly được cái lậu hoặc.
Do lầm chấp cái thân này là ngã, vì vậy mà ai đụng đến nó thì dễ sanh ra lậu hoặc. Do đó ở trên cái thân này, cái tâm mà nó cố gắng nó định trên thân là nó định cái gì? Là nó định cái phiền não tham, sân, si, nó không còn nữa, nó thanh tịnh, thì nó gọi là định trên thân.
Bây giờ thì khi mà cái tâm nó định rồi, nó thanh tịnh rồi thì nó không có sanh ra phiền não nữa, nó không sanh ra giận hờn phiền não, thì trong đầu nó nó không có niệm vọng tưởng.
Một lát nữa Thầy sẽ trả lời, có người hỏi: “Con có vọng tưởng nhưng không biết làm sao! Vọng tưởng từ đâu nó sanh và đoạn diệt nó như thế nào?’’ Lát nữa Thầy sẽ trả lời về những câu vấn đạo, để biết rằng vọng tưởng nó ở đâu mà sanh ra.
Ở đây thì chúng ta biết rất rõ từ cái niệm trong tâm của chúng ta sanh ra, thì do ác pháp và lòng ham muốn của chúng ta mà sanh ra những cái vọng tưởng.
Vì vậy nếu mà chúng ta đã tu tập để ly tất cả những cái ác pháp và cái dục, cái lòng ham muốn của chúng ta, thì nó không còn sanh vọng tưởng nữa. Đó là một cái điều mà rất cụ thể và rõ ràng, và cách thức và pháp hướng thì Thầy đã dạy cách thức tu đó rồi.
Cho nên tất cả những cái điều mà nó sanh ra trong tâm của chúng ta đều là do cái chỗ mà tham, sân, si, lòng ham muốn của chúng ta mà ra. Mà bây giờ nó định tĩnh - định tĩnh tức là cái tâm của mình nó không còn, tĩnh đây là nó rất là yên lặng, định: nó định lại trong cái sự yên lặng của nó, nó không còn có Thất Kiết Sử, không còn có Ngũ Triền Cái nữa.
Vì vậy mà bây giờ nó định tĩnh mà nó còn thuần tịnh nữa. Đức Phật nói: “Với tâm định tĩnh, thuần tịnh’’. Nếu mà tâm chúng ta chưa định tĩnh, chưa thuần tịnh mà chúng ta tu tập thiền định, thì tu tập thiền định gì? Nó đâu có được!
“Không có uế nhiễm”, nghĩa là trước cái món ăn, nó ngon mình cũng không thèm, trước cái sự cám dỗ của tất cả những vật chất, nó cũng không ham, đó là cái chỗ nó không có cấu nhiễm.
Rồi bây giờ nó đã như vậy rồi, thuần tịnh rồi định tĩnh rồi, thì nó sẽ không phiền não mà nó dễ dàng sử dụng, cái tâm dễ dàng sử dụng.
Cho nên khi, ở đây có một thầy, người ta tu người ta xả cái tâm mình, mỗi cái tâm niệm khởi lên thì người ta xả nó. Bây giờ nó ham muốn gì đó thì người ta xả nó, người ta nghĩ rằng cái đó là nó không có, nó là ác pháp, nó đem đến cho chúng ta khổ nè, hãy buông nó đi, đừng có nghĩ ngợi nữa.
Và cứ cố gắng, cứ họ tu như vậy, riết đến khi mà cái tâm nó xả hết, cuối cùng rồi nó xả hết, bắt đầu nó yên lặng, tự nó yên lặng à. Nó yên lặng rồi cái vị thầy đó mới bảo: “Cái tâm đừng có nghe ngóng ra ngoài! Quay vô! Biết hơi thở ra biết hơi thở vô!”
Lúc bấy giờ luôn luôn chúng ta ngồi cả giờ đồng hồ mà vẫn biết hơi thở, không có cái niệm vọng tưởng nào hết. Chớ không phải ngồi mà để hít thở hoặc là đếm, hoặc là sổ tức, hoặc là tùy tức, hoặc là niệm Phật, hoặc là các pháp khác mà ức chế tâm để đi vào cái chỗ mà không vọng tưởng.
Ở đây thầy đó chỉ xả tâm thôi, sống đúng độc cư. Sống cho đúng độc cư, nghĩa là không có đi ra khỏi cổng chùa, không nói chuyện với ai, sống một mình, sống trầm lặng một mình.
Nó nhiều khi nó phá chúng ta, muốn đi chơi muốn nói chuyện người này thì chúng ta ngăn chặn, đây là những cái ác pháp làm chúng ta phá những cái hạnh tu của chúng ta.
Cho nên người đó ngăn chặn. Ngăn chặn mãi cho đến khi tâm xả sạch, thì nó có một cái nhu nhuyễn dễ điều khiển nó lắm. Cho nên nhắc nó: “Cái tâm quay vô!” nó quay vô, nó không cần nghe ra ngoài nữa, và lúc bấy giờ nó cũng không có nghe như chúng ta.
Còn chúng ta bây giờ, nó vừa nghe trong mà vừa nghe ngoài, bây giờ nhiều khi chúng ta hít thở chúng ta biết mà vẫn nghe âm thanh, chứ chưa phải vắng đâu. Còn cái người đó cái tâm nó quay vô rồi, nó không nghe.
Nghĩa là âm thanh vẫn có, nhưng mà vì nó đã quay vào trong, nó nghe hơi thở mà nó không cần nghe ra ngoài nữa, tức là tâm hết phóng dật. Vì vậy mà lúc bấy giờ cái tâm nó dễ sử dụng, dễ sử dụng thì tức là chúng ta hướng tâm đến chỗ nào là nó hướng đến chỗ đó.
(21:24) Đó thì trải qua một cái quá trình đầu tiên, thì ở trong cái Tứ Niệm Xứ, nó có bốn cái giai đoạn tu tập:
Cái giai đoạn thứ nhất: là giai đoạn ly dục, ly ác pháp. Mà thường thường Phật hay nhắc chúng ta là trên thân quán thân để khắc phục tham ưu; rồi trên thọ quán thọ để khắc phục tham ưu, rồi trên tâm quán tâm để khắc phục tham ưu, trên pháp quán pháp để khắc phục tham ưu.
Rồi kế đó rồi thì Đức Phật lại: trên thọ quán thọ tu về hành tướng ngoại, thì đó là tu trong Chánh Niệm Tỉnh Thức hay là Thân Hành Niệm. Còn hễ mà nhắc đến tu trên thân mà quán thân tu về hành tướng nội, thì tức là hơi thở rồi.
Đó, như vậy là Đức Phật đã dạy chúng ta cái giai đoạn đầu để mà ngăn chặn, là từ cái Chánh Niệm Tỉnh Thức cho đến cái Định Niệm Hơi Thở.
Rồi đến cái mà để khắc phục tham ưu, trên thân quán thân tức là tu cái Định Vô Lậu. Tại sao biết nó là Định Vô Lậu? Vì trên thân quán thân tu về nhân tướng, cái tướng thân của chúng ta, trên cái thân này nè, xem xét lại cái thân này nè, tức là trên cái trụ xứ này, xem lại cái thân trên cái trụ xứ này.
Do đó chúng ta xem xét trên cái nhân tướng nó, do đó chúng ta biết cái tướng của nó như thế nào, nó là do bốn đại nó hòa hợp, rồi nó sanh ra những cái chất bẩn thỉu, bất tịnh như thế nào, thế nào.
Từ ở ngoại thân rồi từ nội thân, Đức Phật dạy quán thân trên ngoại thân, nội thân, hoặc là nội ngoại thân, để chúng ta quán xét cái thân của chúng ta nó bất tịnh như thế nào? Để rồi từ đó chúng ta không còn chấp cái thân nữa, tức là phá cái lậu hoặc của nó. Đó là cái giai đoạn một.
Còn cái giai đoạn hai, là chúng ta thực hiện ba cái định, đó là giai đoạn hai. Ba cái định là định nào? Nhị Thiền, Tam Thiền và Tứ Thiền, đó là giai đoạn hai.
Đến cái giai đoạn ba thì Đức Phật dạy chúng ta thực hiện Tứ Như Ý Túc. Bốn cái ý muốn này là chúng ta thực hiện được, cũng trên cái thân đó mà chúng ta tu tập Tứ Như Ý Túc chớ không phải ngoài cái thân đó mà tu tập cái khác được, hay hoặc là nói rằng Tứ Như Ý Túc là tui tu ngoài cái thân, không phải đâu! Ở trên cái thân đó mà tu tập.
Cho nên Tứ Niệm Xứ rất là quan trọng cho cái con đường tu tập của chúng ta, từ khi đầu cho đến khi cuối cùng là Tam Minh, chúng ta cũng ở trên Tứ Niệm Xứ mà tu tập.
Cái giai đoạn thứ tư: thì chúng ta tu là Tam Minh, hướng tâm đến Tam Minh, ba cái Minh.
Đó là bốn giai đoạn thực hiện. Mà nếu mà thiếu một cái giai đoạn nào thì coi như là cái người tu sĩ chưa hoàn thành được con đường tu tập của mình.
(23:58) Vậy thì ở đây, khi mà cái tâm nó nhu nhuyễn nó dễ sử dụng rồi, chúng ta bảo sao nó nghe vậy đó, thì chúng ta mới thực hiện được cái Tam Minh, cái Tứ Như Ý Túc. Còn cái tâm mà nó chưa có nhu nhuyễn, chưa có dễ sử dụng thì khó mà có thể thực hiện được cái Tứ Như Ý Túc.
(24:19) Đây, thì Đức Phật đã nói:
“Với tâm định tĩnh, thuần tịnh không cấu uế, không phiền não, nhu nhuyễn dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, Tỳ Kheo dẫn tâm, hướng tâm đến các thần thông.
Vị ấy chứng được các loại thần thông, một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân hiện ra một thân, hiện hình, biến hình. Đi ngang qua vách, đi qua tường, qua núi như đi ngang hư không. Độn thổ, trồi lên ngang qua đất liền như ở trong nước. Đi ở trên nước không chìm như trên đất liền. Ngồi kiết già, đi trên hư không như con chim. Với bàn tay chạm và rờ mặt trăng và mặt trời, những vật có đại oai lực, đại oai thần. Như vậy có thể tự thân bay đến cõi Phạm Thiên.”
Đây là một cái đoạn kinh rất ngắn để mà dạy chúng ta tu Tứ Như Ý Túc đây. Nghĩa là Dục Như Ý Túc, mình muốn như thế nào đó là mình muốn, mình làm được liền.
Mà điều kiện bắt buộc là một cái vị mà muốn thực hiện được như vậy thì “tâm phải định tĩnh, thuần tịnh, không cấu uế, không phiền não, nhu nhuyễn dễ sử dụng, vững chắc, bình thản”, đó là những danh từ để chỉ cho như vậy.
Mà những danh từ mà chỉ như vậy là cái người đó phải “thân định trên tâm, tâm định trên thân”. Mà “thân định trên tâm, tâm định trên thân”, đó là một cái tên để chỉ cho Tứ Thiền.
Cũng như người ta muốn nói Tứ Thiền mà người ta không dùng cái tên Tứ Thiền. Người ta bảo tịnh chỉ hơi thở thì chúng ta cũng biết đó là Tứ Thiền, một cái tên để chỉ cho Tứ Thiền.
Đó, thì như vậy chúng ta nghe cái tên “tịnh chỉ hơi thở” thì chúng ta biết Tứ Thiền, mà nghe cái tên Tứ Thiền thì chúng ta cũng biết đó là Tứ thiền, mà nghe cái tên “thân định trên tâm, tâm định trên thân” thì chúng ta cũng biết Tứ Thiền, mà nghe cái tên dài một cái, để mà định ra một số ở trên cái trạng thái của Tứ Thiền đó, là “với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu uế, không phiền não, nhu nhuyễn, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản”, đó là một cái tên để chỉ cho Tứ Thiền.
Nếu một người nhập Tứ Thiền thì phải đạt được đó, mà người chưa nhập Tứ Thiền thì không bao giờ đạt được những cái trạng thái như vậy.
Và khi mà nhập trên Tứ Thiền như vậy, thì cái thức nó chưa có bị diệt, nó còn, nó diệt, ở trong cái thân Ngũ Uẩn thì khi mà nhập Tứ Thiền thì nó có ba cái Uẩn nó ngưng hoạt động: Cái Uẩn thứ nhất là sắc uẩn, cái Uẩn thứ hai là tưởng uẩn, cái Uẩn thứ ba là thọ uẩn.
Cho nên người nhập Tứ Thiền thì không còn cảm giác đau đớn gì với cái thân người ta hết. Đó là ba cái uẩn nó ngưng.
Còn cái hành uẩn với cái thức uẩn, nó còn hoạt động. Tại sao biết nó còn hoạt động? Vì từ ở trên cái định đó mà chúng ta hướng cái tâm, làm cho cái tâm nó đi, làm cho cái tâm nó phải hoạt động, cho nên nó còn cái hành. Nếu mà không có cái hướng tâm thì làm sao mà cái tâm nó hoạt động mà nó biết được quá khứ nhiều đời nhiều kiếp của mình?
Cho nên còn cái hành uẩn và cái thức uẩn nó vẫn còn chưa có ngưng, vì vậy mà chúng ta sai khiến nó làm công việc cho chúng ta xài, làm công việc cho chúng ta biết.
Cho nên bây giờ chúng ta, trong khi mà chúng ta tu Tứ Như Ý Túc đó, nãy giờ Thầy chỉ lý thuyết chớ chưa có pháp hành, phải không. Nhưng mà cái tâm chúng ta phải đạt được cái mức của định Tứ Thiền, tức là nó phải có một cái trạng thái “tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu uế, không phiền não, nhu nhuyễn dễ sử dụng, vững chắc, bình thản”, cái tâm chúng ta phải đạt được đến chỗ đó.
Mà nói đến chỗ đó thì chúng ta biết là cái người mà nhập Tứ Thiền thì phải có cái trạng thái đó. Đó, thì chỉ có cái người mà tịnh chỉ được cái hơi thở thì mới có được những cái tâm nó như vậy, chớ còn hoàn toàn người nào mà còn ở ngoài cái thiền này thì không thể nào.
(28:02) Như vậy thì lúc bấy giờ chúng ta phải sử dụng cái gì đây mà gọi là hướng tâm? Từ khi mới bắt đầu vào đạo Phật chúng ta đã dùng pháp hướng mà Phật nói ở trong kinh rất rõ ràng: Như Lý Tác Ý.
Như Lý Tác Ý là một pháp ám thị chớ không có khác gì hết, nhưng mà người ta không có hiểu. Danh từ trong kinh A Hàm thì gọi là “hướng tâm”, danh từ ở trong kinh Nguyên Thủy, bộ kinh Nikaya thì dạy là “Như Lý Tác Ý”, rất rõ ràng mà.
Còn cái danh từ ngoài đời gọi “ám thị”, ám thị tức là mình nhắc một cái câu đó, nhắc hoài, nhắc hoài cho chừng nào cái tâm mình thực hiện được cái điều đó thì mới thôi, gọi là ám thị. Mà ám thị nó trở thành một cái lực của nó.
Cho nên các nhà tu Mật Tông họ luyện bùa hay hoặc luyện chú đó, họ hay đọc thần chú. Thì họ đọc thần chú như thế nào?
Thầy nhắc lại như ngài Từ Đạo Hạnh, khi ngài muốn trả thù cho cha ngài, bởi vì ngài Đạo Duyên giết chết cha ngài, ngài muốn trả thù. Thì ngài làm sao đây? Ngài vào trong núi Từ Sơn, ở miền Bắc, thì các con ở miền Bắc biết núi Từ Sơn. Thì trong khi ngài vào cái hang núi đó rồi ngài đem cái chú Đại Bi, hằng ngày thì ngài đọc cái chú đó.
Và ngài có một cái gậy, ở núi thì người ta có cây gậy người ta đem đi, ngài cũng ở trong núi, thì ngài cũng có cây gậy. Do cây gậy đó ngài đặt trước mặt ngài, ngài đọc cái Chú Đại Bi, rồi ngài ra lệnh ngài truyền: “Cây gậy này phải bay lên!” Một lần nó không bay đâu, ngài đọc cái thần chú Đại Bi rồi mà bảo nó bay nó không bay đâu.
Ngày thứ hai, ngày thứ ba, ngày thứ tư cho đến ngài đọc tới một ngàn cái biến chú Đại Bi, một ngàn cái biến rồi, mà ngày nào ngài đọc cái chú xong rồi ngài ra lệnh nó, ngài truyền lệnh rằng: “Cây gậy bay lên” mà nó chẳng bay. Cho đến khi một ngàn biến chú Đại Bi xong thì ngài ra lệnh, cây gậy nó nhúc nhích nó bay lên, thì do đó ngài thấy có hiệu nghiệm.
Cho nên ngài mới đem cây gậy đó ngài ném xuống dòng suối, cái dòng nước mà ở trên núi nó chảy xuống, dòng suối nước đó, thì nước ở trên suối mà đổ xuống thì nó có cái độ dốc, nước chảy rất mạnh. Ngài mới ném cây gậy xuống, ngài mới đọc cái thần chú. Ngài ném cây gậy, ngài đọc thần chú xong là ngài ném cây gậy xuống, ngài ra lệnh: “Cây gậy phải ngược dòng nước đi lên!”, do đó ngài thấy cây gậy ngài nó lách nước nó đi lên như một con rắn mà lội nước.
Ngài nói nay ngài đã tu tập luyện có đạo lực rồi, trả thù cha được rồi. Cho nên ngài dùng cây gậy đó ngài sai đi để giết ngài Đạo Duyên, từ đó mới có cái nhân quả oan báo mà đến khi mà ngài làm vua mà gặp những cái trường hợp như bệnh đau này kia đó.
Thì tất cả những cái này là những cái huyền thoại, nhưng mà chúng ta thấy rằng, trong cái sự tu tập nào đi nữa nó cũng phải có một cái năng lực, cái quyền lực, tuy rằng vô hình nhưng rất mạnh mẽ. Thì trong đạo Phật chúng ta cũng có cái quyền lực chớ không phải không có.
Chớ bây giờ chúng ta ngồi thiền mà không làm gì, ngồi trơ trơ như thế này thì biết chừng nào mà chúng ta làm được cái chuyện gì đâu? Nó không có cái pháp hành!
Còn ở đây Phật nói Như Lý Tác Ý, tức là có một cái chỗ mục đích gì đây, mà tại sao Phật nói như vậy? Thế mà những cái nhà học giả thì họ thấy mấy cái chữ “Như Lý Tác Ý” là họ chỉ xem thường. Nhưng mà cái người tu hành mà người ta có thực hiện, người ta thấy rất là tuyệt liền, rất là tuyệt! Cho nên người ta triển khai ra, người ta triển khai ra thì người ta thấy rất là hay. Vì vậy mà người ta thực hiện được cái sự làm chủ người ta do cái pháp này.
Cho nên đầu tiên mình nhắc nó: “Tâm như cục đất!”, nó đâu có như cục đất, đụng ai nó cũng giận hờn, phiền não hết à, nó rất khó! Nhưng mà thời gian sau đó thì chúng ta lại sống đúng những cái giới hạnh, ly những cái tâm ham muốn ăn uống, rồi lần lượt nó, cái thân của mình nó lần lượt nó thanh tịnh, thì cái pháp mà hướng tâm nhắc này nó bắt đầu nó có hiệu quả. Nhắc cái nó được, nhắc cái nó được.
Rồi từng đó đến khi mà cái tâm nó ly dục, ly ác pháp hoàn toàn rồi, thì thấy nó lại hiệu quả hơn nữa, nhắc đâu nó được đó, nhắc nó được chỗ nào là nó được nấy, sai nó chỗ nào nó làm được chỗ nấy. Cho nên từ đó cho đến khi chúng ta nhập Tứ Thiền đều là sử dụng cái pháp này toàn bộ. Có pháp chúng ta tu chớ!
Mà nếu mà các con, nếu mà các con do tu hành ức chế tâm mà các con sử dụng cái pháp hướng này, thì nó sẽ làm rối loạn cơ thể, và thân tâm các con sẽ bị hoại diệt hoặc điên.
(32:16) Ở đây có một thầy, năm rồi cũng về đây tu tập, do nghe cái pháp hướng này, mà do cái sự tu tập của thầy, là vì từ lâu thầy cũng nghe tu thiền là cứ ngồi thiền để cố gắng cho hết vọng tưởng thôi. Nhưng nó gây trong cái trạng thái, khi mà hết vọng tưởng rồi trong một giờ hay là nửa tiếng, thì thầy đâu biết rằng đó là một cái, mình hết vọng tưởng là mình mừng thôi chớ đâu ngờ.
Nhưng mà khi nghe Thầy ở đây dạy pháp hướng thì thầy lại sử dụng pháp hướng, khi mà nó hết cái vọng tưởng rồi, thầy sử dụng cái pháp hướng, thầy bảo nó ngưng, thì thầy rõ ràng thấy hơi thở nó ngưng hoàn toàn rồi. Mà thầy thấy nó ngưng thì thầy cũng hoảng hồn, cho nên thầy bảo, thầy lật đật thầy bảo nó hoạt động lại, mà bảo không có điều khiển được, nó quýnh quíu, cho nên vì vậy mà nó làm cho cơ thể thầy nó rối loạn.
Thầy nghe như cơ thể nó sôi, nó làm như cái nồi cơm mà nó sôi, thầy hoảng hồn hoảng vía thầy bảo lia lịa nó đủ cách hết, cho nên nó lại càng hoảng hồn, nó làm điều này nó làm điều kia.
Khi mà cái tâm của chúng ta nó đang ở trong cái, ý thức nó đang ngưng đó, thì cái tưởng thức nó hoạt động, thì nó theo cái lệnh truyền của chúng ta nó làm theo, mà nó làm theo thì nó rối loạn đủ thứ hết.
Cho nên có một lúc thầy cũng tưởng là mình sẽ khạc ra, hay hoặc là nó làm cho thầy thét lên để cho nó ra những cái dục, những cái ác pháp ở trong tâm của thầy từ lâu tới giờ, nó cảm tưởng như vậy, thì thầy la hét. Do đó thì khi đó Thầy đến Thầy xả giúp giùm thầy để vượt ra, chứ không khéo thì thầy cứ la hét hoài, thì tức là thầy cũng bị điên mất đi.
Đó là tất cả những cái nó bị ức chế mà nó làm sai đi.
Cho nên chúng ta từ cái chỗ ly dục, ly ác pháp chúng ta tiến tới cái pháp hướng này, chúng ta điều khiển, chúng ta hướng chúng ta nhắc, chúng ta muốn cái gì đó là chúng ta nhắc cái đó. Bởi vì ở đây nó dễ sử dụng lắm. Mà hễ ý mình muốn cái gì là mình bảo nó là nó làm theo, bảo cái thân nó làm theo.
(34:10) Cho nên ở đây khi mà chúng ta thấy, khi mà cái tâm nó dễ được như vậy rồi, thì chúng ta bảo cái thân để cho nó định. Bởi vì cái thân chúng ta bây giờ nó chưa có định đâu, nó còn đang thở nè, nó còn rung động mà. Định thì nó không rung động, nó không thở rồi nó mới định, còn bây giờ nó còn đang thở thì nó làm sao mà nó định được.
Cho nên vì vậy khi mà cái tâm nó đã ly dục thì nó đã định rồi, nó đã thanh tịnh, nó định rồi, thì đây là mới có phần định của tâm, còn cái phần định của thân thì chưa có. Cho nên lúc bây giờ chúng ta tiến tới là chúng ta tu, là ở chỗ Nhị Thiền, rồi Tam Thiền rồi đến Tứ Thiền, để mà cái thân cho nó hoàn toàn nó định lại trên cái tâm. Bởi vì cái tâm bây giờ nó thanh tịnh, nó ly ác pháp rồi.
Còn cái thân thì nó cứ bị rung động, rung động là vì cái sự sống của nó, cái sự hoạt động trong nội thân, mà cái thân còn rung động như vậy thì làm sao mà gọi là định? Cho nên có nhiều người ngồi tu thiền cứ ngồi lúc lắc, lúc lắc, nghe nó an ổn, thích thú, cứ ngồi lúc lắc như là lên đồng, thì những người đó họ tu thiền gì? Cái thân mình rung động như vậy làm sao gọi là thiền?
Vậy chớ những người, có người cho đó là rung động là nó có thể nó xả cái gì đó, nó làm gì đó mà rung động, càng rung động càng tốt, những người đó thiệt là ngu si, chưa biết cái thiền như thế nào!
Cho nên thân phải định là thân phải cứng ngắc không có rung, nhúc nhích chút nào hết, thì gọi là định, còn thân còn thở còn này kia thì chưa định đâu. Cho nên chúng ta ngồi thẳng vầy mà cái thân còn thở là chúng ta chưa có định, cái thân chưa định đâu, cái thân hết thở rồi mới gọi là định.
Vì vậy mà tới Tứ Thiền chúng ta mới thấy là cái thân định. Còn Nhị Thiền và Tam Thiền cái tâm mới định thôi, nó ly chưa hết hỷ mà, nó ly chưa hết cái trạng thái của tưởng, tưởng thức của nó, làm sao mà nó định được cái thân nó.
Cái phần sắc thân của nó, nó là cái phần sau chót, còn cái phần ý thức của chúng ta thì nó nằm ở trong cái thân của chúng ta, nó mới ngưng được cái phần ý nó. Rồi cái phần tưởng nó cũng phải ngưng nữa. Hai cái phần này nó phải ngưng hết, thì sau đó cái thân nó bắt đầu nó ngưng, thì nó không còn thở nữa, thì lúc bấy giờ nó mới gọi là định.
Và như vậy thì thân đã định trên tâm, mà tâm mới định trên thân. Và cũng từ cái chỗ đó nó mới là định tĩnh, nó mới thuần tịnh, nó mới không cấu uế, nó mới không phiền não, nó nhu nhuyễn, dễ sử dụng, vì vậy mà chúng ta sai nó như thế nào cũng được.
(36:16) Bây giờ bắt đầu chúng ta sẽ học pháp hành để mà tu Tứ Như Ý Túc sao đây.
Bây giờ chúng ta, đầu tiên thì chúng ta biết rằng khi mà chúng ta muốn tu một cái pháp nào đó, thì cái Tấn Như Ý Túc, cái tấn là cái sự siêng năng đó, nó làm chúng ta siêng ngay liền, không có lười biếng, không có thấy uể oải.
Nhiều khi chúng ta muốn ngồi thiền mà bây giờ nó lười biếng quá, đó là cái tâm nó thiếu sự tinh tấn, cái thân nó uể oải nó mệt mỏi là cái thân cũng thiếu sự tinh tấn. Nhiều khi khuya hai giờ thức dậy cái bắt đầu nghe nó còn say ngủ, cứ lừ đừ, lừ đừ, đó là thiếu tinh tấn rồi.
Còn cái tinh tấn, cái mà nó tinh tấn là nó hăng hái, nó siêng năng nó làm cho chúng ta thích tu, gọi là tinh tấn. Còn nếu mà nó không thích mà chúng ta ép nó đó, thì cái đó là thiếu tinh tấn.
Cho nên vì vậy đó, gọi là Tinh Tấn Như Ý Túc. Tinh Tấn Như Ý Túc là cái ý mình muốn tu cái pháp đó là nó ham thích liền, nó tu liền, nó không có còn làm biếng, gọi là Tinh Tấn Như Ý Túc.
Thì lúc bây giờ chúng ta muốn tu pháp nào thì ngay đó là nó sẽ tu cái pháp đó liền, nó làm cho siêng năng, nó thích liền, nó ngồi, muốn tu Chánh Niệm Tỉnh Giác thì kinh hành là nó thích đi kinh hành, nó hăng hái đi liền, nó siêng năng nó không có lười biếng, mà muốn tu Định Niệm Hơi Thở, ngồi lại hít thở hơi thở ra thở vô, thì nó siêng năng mà nó ngồi hoài, nó không có biết lười biếng, nó không biết xả nữa, gọi là tinh tấn.
Đó là những cái tinh tấn, vì vậy cho nên đó là Tinh Tấn Như Ý Túc.
Vậy thì cái tinh tấn đó nó có được rồi thì bắt đầu bây giờ chúng ta mới thấy cái chỗ mà chúng ta tu là cái Dục Như Ý Túc. Bây giờ nó phải bắt đầu mà muốn được như cái Dục Như Ý Túc, thì cái Định Như Ý Túc chúng ta phải thực hiện. Chớ nếu mà chưa có cái Định Như Ý Túc mà thực hiện cái Dục Như Ý Túc mình không bao giờ được.
Cái Tinh Tấn Như Ý Túc mà không có thì tức là cũng không thực hiện được Định Như Ý Túc. Mà muốn thực hiện được Định Như Ý Túc là không phải ở đây, cái chỗ mà Định Như Ý Túc, không phải chúng ta nhập từ Sơ Thiền rồi lên Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền, mà ngay bây giờ Thầy chưa có, Thầy không nhập Sơ Thiền, Tam Thiền đâu, Thầy bảo ngay vô “Hơi thở tịnh chỉ, nhập Tứ Thiền!” là ngay đó là nó nhập Tứ Thiền, gọi là Định Như Ý Túc.
(38:33) Bây giờ chúng ta muốn nhập Diệt Thọ Tưởng Định, không phải cần nhập Tứ Thiền mà mới nhập Diệt Thọ Tưởng Định, hay nhập Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ rồi mới nhập Diệt Thọ Tưởng Định, ngay đó chúng ta bảo, ra lệnh cho tức khắc.
Khi chúng ta ở, nương vào cái hơi thở khéo tác ý thì chúng ta ở trong hơi thở, biết hơi thở ra hơi thở vô. Tâm chúng ta bây giờ nó nhuần nhuyễn, nó không bao giờ có một niệm vọng tưởng, nó rất là thuần tịnh, vì vậy khi mà chúng ta thở hơi thở ra vô thì hơi thở rất nhẹ nhàng và nó nằm ở trên hơi thở rất là vững vàng chớ không phải như cái người mới tu.
Cho nên khi ra hơi thở thì chúng ta ra lệnh liền tức khắc: “Ý hành phải ngưng! Thọ tưởng phải diệt!” do đó chúng ta chỉ bám chặt ở trên hơi thở, nằm yên, sáu căn của chúng ta bám chặt, đừng có để cái tâm nó phóng ra ngoài. Do đó tâm không phóng dật, nó nằm yên trên cái hơi thở đó, thì ngay lúc bấy giờ cái ý hành của chúng ta nó ngưng hoàn toàn, do đó thọ tưởng nó diệt hoàn toàn.
Lúc bấy giờ chúng ta từ cái từ trường của cái Diệt Thọ Tưởng Định, bắt đầu từ cái thân của chúng ta, cái tâm của chúng ta nó toát ra, có một cái từ trường để bảo vệ cái thân của nó. Mưa không ướt, nắng không nóng, không làm khô cái thân đó.
Cho nên chúng ta ngồi ngoài trời lúc nào cũng được, ngồi chỗ nào cũng được, kiến không dám bò vào, cọp không dám đến xé xác, tất cả mọi vật, chúng ta là những người đi vào, không bao giờ mà đi đụng vào cái thân được, không bao giờ rờ cái thân của người đó được. Nó có cái cái màng vô hình, cái từ trường đó, nó làm chúng ta, tuy rằng chúng ta trong suốt chúng ta trông thấy, nhưng mà chúng ta rờ không được cái thân của người đó, cho nên chúng ta không làm sao phá hoại cái thân người đó.
(39:38) Cho nên trong kinh thường thường diễn tả cái định Diệt Thọ Tưởng Định.
Có một cái dịp là có cái vị sư đó đi kinh hành, đi quanh nhiễu cái tháp của một bên ni. Do đó cái vị sư đó khi mà nhìn thấy cái tháp của người ni thì ông ta tức giận, ông ta mới đập, đập cái tháp của cái người ni đi. Rồi những cái người ni mà họ giữ tháp họ về họ báo, thì cái số ni mà nghe được như vậy họ mới đem dao rựa họ đến họ đuổi ông sư đó.
Ông ta hoảng hồn, ông ta chạy đến bìa rừng, ông tính chạy không kịp rồi, do đó ông mới nhập Diệt Thọ Tưởng Định. Mấy cô này mới đâm chém nát cái y áo của ông hết mà cái thân của ông không có lủng một chút nào hết. Sau khi họ đi hết rồi thì ổng mới xuất định ra ổng về.
Thì cái thứ nhất là cái huyền thoại này rất sai. Một người mà nhập Diệt Thọ Tưởng Định mà nếu mà còn cái tâm tức giận thì không phải là người nhập Diệt Thọ Tưởng Định. Mà người nhập Diệt Thọ Tưởng Định này là người phải đi sang qua Thiền Đông Độ, tu Thiền Đông Độ ức chế tâm, rồi đi qua lạc qua cái ngõ từ Không Vô Biên Xứ cho đến định Diệt Thọ Tưởng Định, cho nên cái tâm sân còn.
Còn trái lại mà cái người mà đi vào con đường của đạo Phật ly dục, ly ác pháp thì không bao giờ sân. Cho nên cho dù chúng ta có lầm lạc, đi nhiễu quanh một cái tháp của người ni đi nữa chúng ta cũng vẫn bình thản, coi người ni với cái người nam, giữa nữ và nam y như nhau, không có sai khác. Mình (nhiễu) quanh tháp với một cái người đã qua phần rồi thì đương nhiên là không có cái gì xấu hổ hết.
Còn cái này xem người ni, trong một cái giai cấp, cho cái người ni, người nữ là cái giai cấp tệ bạc, vì vậy mình là người tăng mà đi nhiễu tháp của người ni là xấu hổ, cho nên mới đập tháp người ta. Thì như vậy rõ ràng là cái huyền thoại của chuyện này không đúng cái tinh thần của đạo Phật, không đúng cái tinh thần của người tu sĩ đạo Phật.
Cho nên đặt ra, rồi đặt ra cái Diệt Thọ Tưởng Định bằng cách như vậy, đâm nó không lủng, tưởng là chỉ có chỗ đó, nhưng mà thật sự ra làm sao gươm đao mà có thể đâm vào được vào cái từ trường của cái vị nhập Diệt Thọ Tưởng Định?
Nó bảo vệ cái thân của người ta, mưa không ướt mà. Trời mưa người ta ngồi giữa trời, nó làm như là có một cái mùng hay một cái gì vậy, nước mưa nó tuột hai bên vầy, nó không bao giờ ướt cái thân của người đó.
Thì đây là một cái thực chớ không phải là một cái giả, vì có nhập Diệt Thọ Tưởng Định người ta mới hiểu.
Con kiến, thường thường mình ngồi, cái thân mình không có cái từ trường thì con kiến nó vào nó cắn mình, nhưng mà có từ trường, con kiến vô không được, nó làm như là có một cái chuông bằng đồng rất kín không có con vật nào mà chui qua được, đó là cái từ trường của người nhập Diệt Thọ Tưởng Định.
Nhưng mà người nhập Diệt Thọ Tưởng Định mà được, đâu có phải là dễ đâu, nó phải trải qua nhiều cái sự tu tập chớ không phải dễ. Có chỉ lạc thời may nó rơi vào một hai vị thiền sư để lại nhục thân bây giờ, đó là những cái vị có thể nhập Diệt Thọ Tưởng Định, nhưng mà cũng chưa chắc.
(42:34) Đó, đó là những cái mà chúng ta cần phải hiểu. Vì vậy bây giờ chúng ta phải đi vào trong pháp hành. Nhưng mà trước khi để nói về pháp hành tu tập về Tứ Như Ý Túc này, thì chúng ta phải nói Định Như Ý Túc trước, chúng ta phải thấy cái Định Như Ý Túc.
Khi mà Định Như Ý Túc, chúng ta muốn nhập cái định nào thì ngay đó là chúng ta nhập liền, chớp mắt là chúng ta nhập liền.
Cho nên trong cái bộ Thanh Tịnh Đạo thì có nhắc lại một vị Trưởng lão, ở trong khi mà các vị hội họp thì có một con quỷ, nó thò tay xuống để nó bắt cái vị thị giả của cái vị Trưởng lão đó, thì lúc bấy giờ liền tức khắc là vị đã hóa ra hai cái hòn núi cỡ cái tay của con quỷ, con quỷ nó lật đật nó rút cái tay nó chạy, vì vậy là nó quá sợ hãi.
Thì các vị Thượng tọa khác mới hỏi “Tại sao mà anh nhập định nhanh quá như vậy, vừa chớp mắt là con quỷ thọt tay xuống là anh đã thành hai cái hòn núi rồi, thì như vậy là như thế nào?’’ Ông ta mới nói: “Mười năm luyện tập mới được như vậy”. Sự thật không phải đâu, đó cũng là cái huyền thoại của Thanh Tịnh Đạo.
Bởi vì một người tu rồi người ta biết được cái nói láo của kẻ khác. Còn cái người chưa tu không biết được đâu, đọc kinh sách thì thấy hay chứ còn không biết đâu.
Cho nên người ta tu rồi người ta biết, khi mà cái tâm lực của chúng ta đủ sức rồi, chúng ta truyền lệnh là nó có liền, cái tâm nó làm liền ngay liền, chớ không phải là phải chờ đợi cái thời gian mà phải tu mười năm mới có đâu, đó là cái chuyện bịa đặt nói láo, chứ không phải đâu.
Làm cái gì mà luyện? Từ cái chỗ mà chúng ta tu ly dục, ly ác pháp, tâm thanh tịnh được rồi thì nó có cái đạo lực của chúng ta, do từ khi mà chúng ta dùng cái pháp hướng tu tập, nó phải có sự huân tu đó, nó mới trở thành cái lực của nó, cho đến khi cái tâm của chúng ta không còn giận hờn, phiền não nữa. Mặc dù là nó chưa đoạn dứt lậu hoặc nhưng mà nó ly được lậu hoặc, nó làm cho đời sống chúng ta không có khổ nữa.
(44:14) Đó thì, những cái giai đoạn như vậy thì chúng ta thấy, đọc lại những kinh sách đó, chúng ta thấy hoàn toàn là những người không tu chứng mà viết bậy. Thầy dám xác định điều đó là tại vì Thầy đã thấy biết rồi. Chớ còn nếu mà không có thực hiện được trên con đường tu hành thì chẳng, thấy người ta nói vậy mình thấy hay, chớ mình cũng chưa biết đâu.
Cho nên bây giờ có Định Như Ý Túc được rồi thì cái Dục Như Ý Túc chúng ta thực hiện. Nhưng trước khi mà nói về Dục Như Ý Túc, thì chúng ta phải nói Thất Giác Chi.
Thất Giác Chi tức là bảy cái bồ đề, bảy cái chỗ giải thoát của chúng ta. Nhưng mà khi mà đem Thất Giác Chi ra mà tu tập thì chúng ta sai mất rồi, bởi vì Thất Giác Chi không phải là cái pháp để chúng ta tu tập.
Nhưng mà Đức Phật nói rằng chúng ta tu tập, chúng ta phải tu tập Thất Giác Chi. Nhưng mà trước khi tu tập Thất Giác Chi thì Đức Phật có nói như thế này nè, có dạy chúng ta phải tu tập Tứ …
HẾT BĂNG
PHÁP HÀNH 32 - NĂNG LỰC CỦA DỤC NHƯ Ý TÚC VÀ TAM MINH
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Thời gian: 1998
(0:00) Nếu mà chúng ta còn, như bây giờ chưa có cái tâm ly dục ly ác pháp mà đem Thất Giác Chi tu thì không đúng. Cho nên cái pháp Thất Giác Chi phải đặt chỗ nào để mà tu đúng.
Đó thì bây giờ Thầy mới nói để cho thấy. Khi nào mà chúng ta ly dục ly ác pháp nhập Sơ Thiền, do ly dục sanh hỷ lạc, thì cái hỷ lạc khinh an này là nó ứng vào trong Thất Giác Chi.
Bây giờ chúng ta trạch pháp cũng dùng Thất Giác Chi trạch pháp ra đó, trạch ra những câu để dùng pháp hướng, rồi để hướng tâm tức là Niệm Giác Chi chứ gì? Hướng tâm để nhắc cái tâm của mình chứ gì? Nhưng mà không có hiệu quả đâu.
Khi nào mà chúng ta tu tập để mà ly dục ly ác pháp, tức là chúng ta tu tập từ Tứ Chánh Cần, Định Niệm Hơi Thở, Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, Định Vô Lậu để ly được cái tâm ham muốn các ác pháp, chừng đó nó có một cái trạng thái gọi là trạng thái do ly dục sanh hỷ lạc. Cái trạng thái hỷ lạc đó hiện tiền, tức là cái trạng thái mà hỷ và khinh an của Thất Giác Chi.
Lúc bấy giờ từ cái trạng thái nó tự nó xuất hiện do cái tâm ly dục chúng ta. Còn cái người mà chưa ly dục thì không bao giờ có trạng thái hỷ lạc đó, chỉ có cái trạng thái bây giờ là chúng ta chạy theo dục lạc mà thôi, ăn thì thấy ngon, còn cái người mà ly dục rồi, họ ăn họ cũng biết ngon, nhưng mà họ không thèm nữa, họ không có thích nữa. Bởi vì nó có một cái trạng thái do ly dục làm cho họ không thích cái dục lạc, chớ không phải gì.
Vì vậy mà khi chúng ta nỗ lực chúng ta tu được cái Sơ Thiền thì lúc bấy giờ chúng ta mới có tu Thất Giác Chi. Thì lúc bấy giờ những cái câu mà Trạch Pháp Giác Chi, chúng ta đặt ra những cái câu nó, lúc bấy giờ cái đầu óc chúng ta khi mà ly dục rồi, nó sáng suốt lắm.
Nó không phải là còn cái màn Vô Minh, Ngũ Triền Cái nó che đậy, Vô Minh nó che đậy, năm cái triền cái nó che đậy, tham, sân, si, mạn, nghi nó che đậy làm cho chúng ta trạch pháp cái đúng cái sai. Cho nên hiện giờ các thầy mà đặt ra những cái câu để mà hướng tâm “tâm như cục đất” hay hoặc này kia, nói là nói vậy chớ nó chưa đúng đâu, nó chưa đúng với cái đặc tướng của mình.
Bởi vì Phật dạy con người chúng ta có ba cái tướng mà: nhân tướng, đặc tướng và hành tướng. Cho nên cái đặc tướng của chúng ta mà đặt cái câu đó nó chưa có phù hợp cho nên chúng ta hướng tâm nó không hiệu quả. Nó không hiệu quả chút nào hết!
(2:13) Do cái chỗ đó, khi mà ly dục ly ác pháp rồi thì nó có khinh an và Hỷ Giác Chi nó xuất hiện, từ đó chúng ta mới đặt những cái câu pháp hướng thì nó có hiệu quả.
Do cái sự hiệu quả của pháp hướng đó mà chúng ta tu tập, từ đó chúng ta mới có Định Giác Chi, Niệm Giác Chi và Định Giác Chi nó mới có. Rồi Xả Giác Chi chúng ta mới thấy được cái tâm chúng ta xả, buông xả ra, diệt ngã xả tâm nó rất dễ.
Đó là lúc bấy giờ là ở chỗ cái Nhị Thiền chúng ta tiếp tục để bồi dưỡng cho cái đạo lực của chúng ta, tức là cái pháp hướng cho nó hiệu quả cao hơn, là chúng ta thường xuyên tu tập là phần nhiều là nằm ở trên Thất Giác Chi mà tu tập.
Đó thì, cái phần Thất Giác Chi thì quý thầy đã thấy rất rõ rồi đó, nó phải từ chỗ Nhị Thiền mà tu tập Thất Giác Chi, chớ cái người mà mới tu mà vô tu tập Thất Giác Chi thì không được.
Cho nên vì vậy trong kinh Phật, trong kinh Trung Bộ thì Phật có nhắc, có dạy, và bộ Tương Ưng thì Phật cũng có dạy, là vì khi mà chúng ta tu Tứ Niệm Xứ rồi, chúng ta làm cho sung mãn được Tứ Niệm Xứ rồi, thì chúng ta mới tu tập Thất Giác Chi.
Nhưng mà cái Tứ Niệm Xứ thì nó bắt đầu đi từ cái chỗ ly dục ly ác pháp cho đến khi mà đạt Tam Minh, nó nhiều cái giai đoạn quá, chúng ta cũng không biết đặt Tứ Niệm Xứ là cái khoảng nào để mà thực hiện Thất Giác Chi.
Thì ngay từ cái giai đoạn đầu của Tứ Niệm Xứ “trên thân quán thân tu về nhân tướng”, tức là tu Định Vô Lậu, là nó làm cho chúng ta không còn lậu hoặc, tức là ly lậu hoặc.
Rồi “trên thân quán thân tu về hành tướng ngoại” là tu về Thân Hành Niệm thì nó làm cho chúng ta được tỉnh thức, cho nên được gọi là Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, thì nó làm cho chúng ta tỉnh thức.
Rồi chúng ta “trên thân quán thân tu về hành tướng nội”, nó là Định Niệm hơi Thở, chớ không phải là sổ tức quan đâu, Định Niệm Hơi Thở. Do hơi thở biết ra, hơi thở biết vô cho nên Phật nói , Thầy nhắc lại: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”, đó là cái pháp hướng kèm vô cái hơi thở.
Cho nên cái người nào mà biết áp dụng được cái hơi thở và cái pháp hướng thì nó làm cho sức định tỉnh của chúng ta rất lớn ở trong cái Định Niệm Hơi Thở. Chớ hơi thở nó không có định tỉnh gì hết, nhưng mà nó giúp cho chúng ta, nó trợ pháp cho chúng ta làm cho chúng ta tu các cái thứ định khác được.
Do cái chỗ mà biết tu như vậy, thì chúng ta sẽ ở trên cái Tứ Niệm Xứ mà tu ba cái loại định này, thì làm cho thân - thọ - tâm - pháp chúng ta thanh tịnh, nó ly được dục ly ác pháp.
Từ đó bắt đầu cái Thất Giác Chi nó xuất hiện từ ở cái giai đoạn đầu, mà khi chúng ta làm cho sung mãn được Thất Giác Chi cái giai đoạn đầu, thì lúc bấy giờ chúng ta đã tu tập ngay đó rồi. Chớ không phải đợi đến giai đoạn thứ hai, thứ ba, tới thứ tư mới là tu tập, không phải. Thất Giác Chi là tu tập vào cái chỗ mà làm cho sung mãn được Tứ Niệm Xứ ở trong cái giai đoạn đầu của Tứ Niệm Xứ.
Cho nên ở đây hầu hết là cái kinh nghiệm tu hành của Thầy, Thầy thấy rất rõ Tứ Niệm Xứ, từng cái giai đoạn của nó rất rõ, khi mà Thầy đã giảng rồi thì quý thầy đã nghe, còn các con mà chưa được nghe Tứ Niệm Xứ, thì kể như bây giờ nói thì cũng như là hiểu một cách mơ hồ, chưa có rõ đâu.
Cho nên ở đây bây giờ mới bắt đầu, chúng ta đã biết được cái thần lực, cái đạo lực của chúng ta để mà chúng ta thực hiện Tứ Như Ý Túc, mà Thầy xin nhắc lại cái Thất Giác Chi, để biết cái Thất Giác Chi nó xuất phát từ ở chỗ nào, rồi chúng ta tu tập Thất Giác Chi ở chỗ nào, để mà nó có cái sự giải thoát hoàn toàn ở chỗ đó, gọi là Thất Giác Chi là Bồ Đề.
(5:28) Bây giờ chúng ta tiếp tục Dục Như Ý Túc. Thì khi mà Định Như Ý Túc, tức là chúng ta muốn định nào, thì nó ngay vào định đó. Bây giờ thí dụ như Thầy không cần nhập Tứ Thiền, thì thầy nhập Nhị Thiền, Thầy nói: “Cái tâm bây giờ tịnh chỉ Tầm Tứ nhập Nhị Thiền!” thì ngay đó Thầy chỉ nằm cho đúng ở trên cái tụ điểm của Thầy, tức là cái nơi mà Thầy nằm yên lặng ở trên cái hơi thở, biết hơi thở ra vô, thì nơi đó Thầy bám chặt, thật chặt ở chỗ đó.
Cho nên ở đây các con mà đã tu, thường tu với Thầy, Thầy có dạy các con tu tập cái niệm, cái hơi thở để mà rèn luyện cái tụ điểm. Khi có tụ điểm rồi thì chúng ta có cái chỗ nằm chặt, từ cái chỗ nằm chặt đó mà chúng ta nó nhập được các định.
Bởi vậy cho nên có một nhà bác học nói: “nếu mà ai cho tôi một cái điểm tựa, tôi sẽ bẩy cả vũ trụ”. Ở đây Thầy cho các con được cái điểm tựa, cái điểm tựa đó là cái tụ điểm, cho nên bây giờ các con sẽ bẩy cả vũ trụ.
Nghĩa là bây giờ ở đây, mà cái mặt trăng ở kia, mặt trời ở kia mà ngồi đây mà rờ được nó thì không phải bẩy vũ trụ được sao? Cho nên các vật xung quanh chúng ta, chúng ta sai bảo nó, đều nó làm theo hết.
Một cái bàn này, chúng ta bảo: “Phải hiện ra một cái bàn nữa!”, thì ngay đó có một cái bàn y như vậy nữa. Một cái ca này bảo ra, không phải đây là cái sự tưởng tượng, bảo ra mọi người đều thấy sự thật. Không phải là một cái sự nói láo, mà đây là một cái sự thật, cái quyền năng của nó, nó làm như vậy đó, đó là cái sự thật.
Nhưng không phải chúng ta, cái mục đích, Thầy nhắc lại, không phải là mục đích chúng ta tu tập để có những cái thần thông đó, mục đích chúng ta để làm chủ sự sống chết. Mà khi làm chủ được sự sống chết thì cái chuyện mà làm được những chuyện này thì như trò đùa của chúng ta. Vì nó có cái đạo lực ở trong thân tâm của chúng ta bảo hơi thở ngưng, thì cái chuyện mà bảo tất cả mọi vật nó phải theo lệnh chúng ta truyền.
Đó, hôm nay thì các thầy thấy rằng, như Đức Phật đã nói, khi mà nhập Tứ Thiền, mà cái danh từ của Phật dùng ở đây thì chúng ta thấy nó không có nói tới Tứ Thiền, mà Đức Phật nói: “Với tâm định tĩnh, thuần tịnh không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyễn dễ sử dụng, vững chắc, bình thản”. Đó, với cái tâm đó là cái Tứ Thiền đó.
Thì Tỳ Kheo đó bây giờ mới dẫn cái tâm mình đến các thần thông, và chứng được các loại thần thông như một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân hiện lại một thân.
Bây giờ Thầy xin nói thêm cái phần này để thấy rằng nó có nhiều cái đặc biệt của cái, ở đây Đức Phật nói rất là ngắn gọn. Ở đây nó có cái phần thân và tâm.
Bây giờ Thầy ngồi đây Thầy truyền lệnh nè, thí dụ Thầy bảo nè: “Cái tâm phải biến cái thân này ra một con chim”, thì ngay cái tâm nó làm cho cái thân này trở thành một con chim, cái thân mất tiêu, không thấy cái thân nữa. Còn nếu mà cái tâm nó, truyền lệnh cho cái tâm: “Cái tâm phải biến ra con chim” thì cái thân ngồi đây mà có con chim.
Do đó mà chúng ta mới biết rằng cái pháp hướng chúng ta sử dụng tu tập như thế nào. Bây giờ đó, chúng ta mới nói: “Cái tâm biến ra cái bàn y như cái bàn này” thì cái bàn này còn một cái bàn do tâm biến ra.
Cho nên khi tu, chúng ta phải rành cái chỗ này mà chúng ta dùng pháp hướng chớ không phải là chúng ta muốn nói bừa, nói đại được. Chúng ta phải dùng pháp hướng cho chính xác. Chúng ta nói: “Tâm, phải biến ra một cái bàn, như cái bàn đang hiện trước mặt đây!” thì cái tâm biến ra cái bàn, thì cái bàn này còn nguyên.
Nhưng mà nói: “Cái bàn này phải biến ra một cái bàn nữa!” thì cái bàn này nó biến ra cái bàn nữa, cái vật này nó biến ra cái bàn nữa. Còn nói như thế này: “Cái bàn này biến ra con chim!” thì cái bàn này mất, có một con chim.
(8:52) Cho nên trong khi luyện, mà muốn luyện một cái gì đó, thì nó không phải trong một lần mà chúng ta hướng ra được liền, nó biến ra liền, mà chúng ta phải hướng tâm nhiều lần, nhắc nhiều lần.
Thí dụ như bây giờ mình bảo: “Cuốn sách này, cuốn kinh này phải biến ra một cuốn kinh nữa!”, mình nhắc như vậy, một lần nó thấy chưa, nó nằm trơ trơ, nó có một cuốn, nó chưa hai cuốn. Nhắc nhiều lần cho đến khi đủ sức, Thầy thấy nó có một cuốn kinh, thì biết rằng mình đã thành tựu được cái pháp biến ra như vậy. Đó!
Thì như vậy là mình muốn cái gì thì mình phải tập luyện cái đó. Sau đó rồi mình, khi mình tập luyện hết Dục Như Ý Túc này rồi, thì bắt đầu mình ra lệnh cái gì nó cũng làm theo hết liền tức khắc, chớ không phải còn như trong lúc tu tập. Còn trong lúc tu tập thì nó phải một lần, hai lần, ba lần, cho đến năm lần, mười lần nó mới thị hiện ra được. Còn khi mà chúng ta tu tập xong rồi, chúng ta bảo cái gì nó làm ra cái nấy hết.
Đó là một cái quyền lực, mà chúng ta đã cướp lại cái quyền làm chủ sự sống chết của chúng ta thì chúng ta cướp lại cái quyền làm chủ cả vũ trụ. Làm chủ được thân này tức là làm chủ vũ trụ rồi, cho nên làm chủ luôn các pháp.
Do đó chúng ta có một cái sức lực kinh khủng ở trong con người của chúng ta, rất là kinh khủng. Chỉ cần chúng ta rèn luyện đúng cách thì chúng ta sẽ có những cái đặc biệt vô cùng mà không thể người ta nghĩ lường được, cho nên “bất khả tư nghì” mà, không thể nghĩ lường.
Mà cái đó ở đâu? Quý thầy biết nó ở đâu? Ở trong bộ óc chúng ta đây. Khi chúng ta đánh thức một số tế bào não chúng ta mà không làm việc, nó đang nằm im lìm đây, bắt buộc cái tụi đang làm việc này ngưng lại để tụi kia làm việc, thì bắt đầu chúng ta làm được chuyện đó.
Do đó thân định trên tâm, thì thân định không còn hoạt động, thân nó ngưng rồi, thì nó định ở trên tâm, tức là nó không còn hoạt động, thì cái phần hoạt động của cái tế bào não của chúng ta hoạt động với hơi thở, thì nó cũng ngưng theo với hơi thở rồi, thì còn lại một số mà không hoạt động tức là buộc lòng nó phải hoạt động. Nó hoạt động thứ nhất là duy trì lại cái mạng sống của nó, cái phần thứ hai thì nó thể hiện siêu việt, rất siêu việt.
(10:49) Cho nên ở đây chúng ta chỉ cần pháp hướng, chúng ta muốn cái gì chúng ta hướng nấy.
Cho nên bây giờ các con đã là những người đã học pháp hướng rồi, thì Thầy không cần nhắc mất thì giờ vô ích. Cho nên Thầy nói chỉ cần hướng, mà trạch pháp, lúc bấy giờ các con đã là một cái người mà đã ly dục ly ác pháp rồi, cái tâm rất thanh tịnh, các con đặt ra cái pháp hướng nào nó rất là chính xác và hợp với khả năng của các con, tức là đặc tướng.
Còn nếu mà các con chưa ly dục ly ác pháp, tâm các con còn bị Ngũ Triền Cái, Thất Kiết Sử trói buộc, Ngũ Triền Cái che mờ thì lúc bấy giờ các con đặt có khi trúng, khi trật, cho nên có khi các con đặt ra hiệu quả lắm, nhưng mà có khi các con đặt ra không hiệu quả. Do sự ức chế tâm mà Thất Kiết Sử với Ngũ Triền Cái chưa có xả hết thì các con chưa thành tựu cao đâu.
Đó là những cái mà Thầy biết được, Thầy hiểu được, Thầy nhắc nhở các con. Không khéo các con nhắc, ức chế tâm, người cũng nhập Tam thiền, rồi cũng thân định trên tâm, mà tâm định trên thân, mà rồi sao hướng Tứ Như Ý Túc mà không đạt được như ý muốn, thì cái đó là cái sai.
Nhưng mà chắc chắn là các con sẽ không bao giờ đạt được cái định mà thân định trên tâm, không đạt được, vì nó không bao giờ ngưng hơi thở.
Cái tâm mà còn dục lạc, cái tâm mà còn chưa có đoạn dứt Thất Kiết Sử, chưa có đoạn dứt Ngũ Triền Cái, chưa có ly ra được thứ này, thì các con truyền lệnh gì cái hơi thở các con vẫn thở, không bao giờ nó nghỉ. Chỉ có tưởng là các con thấy nó mất, chứ nhưng mà các con hướng tâm ra là thấy nó cũng thở khì đó, nó không bao giờ nó mất.
Cho nên ở đây là cái đúng, và đồng thời Thầy xin nhắc lại cái phá âm thanh, là cái âm thanh nó ở bên ngoài nó luôn luôn bao giờ nó cũng có. Cho nên chúng ta phá âm thanh, tức là chúng ta hướng cái tâm chúng ta quay vào mà không để cho nó bị nghe âm thanh mà thôi, chớ không phải chúng ta đập phá âm thanh bên ngoài được.
Nhưng chúng ta phá các hành, cái lực của chúng ta phá các hành trong thân thì nó là thực tế. Cho nên khi mà chúng ta hướng tâm nhắc: “Hơi thở tịnh chỉ, các hành ngưng!” thì lúc bấy giờ hoàn toàn nó ngưng, thì lúc chúng ta hướng tâm ra, tức là trở về ý thức, thì chúng ta xem lại thì chúng ta thấy hoàn toàn là, cái thân của chúng ta hoàn toàn là ngưng hoạt động, không còn thở, không còn gì hoàn toàn.
Còn nếu mà chúng ta hướng ra mà thấy nó còn thở tức là chúng ta bị tưởng định. Tưởng định tức là chúng ta hướng ra thấy nó còn thở khì khì, thì tức là đây là cái tưởng rồi. Tưởng là thấy như mình nín thở, không thở nữa, nhưng mà sự thật ra nó còn thở, đó là bị tưởng che, che mờ, do đó chúng ta chưa nhập được Tam Thiền cho nên còn tưởng.
Bởi vì tưởng nó có tới mười tám loại hỷ tưởng lận chớ không phải một loại hỷ tưởng. (13:03) Ai đã từng học theo Thầy thì Thầy có kể ra mười tám cái loại tưởng này chớ không phải, Phật nói thì đơn giản, muốn nhập Tam Thiền thì ly hỷ trú xả, Phật nói ly hỷ, nhưng mà mười tám cái loại hỷ tưởng chớ đâu phải một loại hỷ đâu, nó đâu đơn giản. Nếu mà có một cái loại hỷ mà ly nó rồi thì dễ quá rồi, còn cái này tới mười tám loại hỷ mà, đâu phải chuyện dễ!
Đó, thì như vậy là các thầy phải thấy rằng khi mà Thất Giác Chi mà thực hiện thì cái Trạch Pháp Giác Chi nó có hiệu quả vô cùng, là chúng ta trạch pháp đâu nó đúng đó, là do cái tâm chúng ta đã ly dục ly ác pháp từ cái chỗ mà nhập Sơ Thiền.
Còn cái tâm mà chúng ta chưa ly dục ly ác pháp, bây giờ chúng ta nhập Tam Thiền hay Tứ Thiền, mà chúng ta đặt cái pháp hướng thì cái Thất Giác Chi mà gọi là Trạch Pháp Giác Chi, chúng ta sẽ đặt sai, chúng ta chọn ra cái câu không đúng.
Các thầy phải hiểu được cái chỗ mà đi từ cái con đường của đạo Phật, nó có sắp xếp từng cái lớp để mà chúng ta tu tập.
Cho nên chúng ta tu tới đâu, cái lớp thấp chúng ta tu tập, từ cái lớp thấp đến cái lớp cao chúng ta đạt thấy kết quả rõ ràng, ngày ngày chúng ta tu rất tiến bộ, nó, cái ngày nào chúng ta cũng thấy có kết quả, nó hăng hái, nó làm chúng ta thích thú tu hành lắm. Còn chúng ta tu mà dậm chân tại chỗ tức là chúng ta tu sai rồi, không thấy kết quả.
Cho nên bây giờ chúng ta muốn cái thân này mà đi qua cái vách, đi qua một cái vách đá hoặc là biến hiện ra nhiều thân, thì chúng ta cũng dùng pháp hướng, thí dụ như Thầy ngồi đây, Thầy hướng tâm Thầy thầy nhắc: “Cái thân này phải biến ra năm thân, mười thân, trăm thân!”
Thầy ra lệnh nó như vậy, rồi Thầy ngồi đây, Thầy ngồi yên lặng, một lúc Thầy thấy nó ngồi một bầy ra như thế này, đúng rồi, nó đã thực hiện được rồi. Còn nếu mà nó chưa ngồi ra một bầy thì chắc chắn là chưa được, còn hướng nữa.
Rồi Thầy thỉnh thoảng hướng rồi nằm im đó để chờ xem coi nó hiệu quả như thế nào, thì lúc bấy giờ gọi là tu Tứ Như Ý Túc, Dục Như Ý Túc.
(14:47) Còn Tuệ Như Ý Túc thì các thầy cũng biết rằng, chúng ta muốn hiểu biết cái gì đó thì chúng ta luôn luôn chúng ta hướng tâm nhắc, thì nó sẽ hiểu biết ra cái nấy, thì lúc bấy giờ Tuệ Như Ý Túc tức là nó tới Tam Minh rồi, cái giai đoạn Tuệ Như Ý Túc là bắt đầu thực hiện Tam Minh.
Cho nên lúc bấy giờ thực hiện Tam Minh, tức là cái Tuệ của chúng ta nó sẽ sáng suốt vô cùng, chúng ta muốn nó biết nhiều đời, nhiều kiếp thì ngay đó nó sẽ biết được nhiều đời nhiều kiếp.
Cũng như bây giờ, Thầy nói bây giờ Thầy đương ngồi kiết già, Thầy bảo: “Cái thân này bay lên hư không!”, một lần không thấy bay, hai lần không thấy bay, cái bắt đầu nó bay lên nó đụng cái thiết này nó không bay ra được. Thầy biết rằng mình bay được, thôi đi ra ngoài sân để ngồi làm thử coi.
Thì bắt đầu đó, ra sân mới ngồi kiết già, bảo nó: “Bay lên hư không!”, bắt đầu nó bay bổng lên, bay ngút trên đọt cây, bay ngút cao hơn đọt cây. Như vậy hôm nay mình thực hiện được bay trên hư không rồi thì thôi bây giờ dẹp cái này đi, mình đi tu tới các khác.
Cho nên mình thử, bây giờ mình truyền lệnh: “Cái tay này phải rờ cái mặt trời, mặt trăng!”, thật sự ra Thầy không có đưa cái tay Thầy rờ đâu, mà nó rờ mặt trời, mặt trăng, Thầy biết ờ mình có rờ mặt trời, mặt trăng. Đó là cái chỗ mà mình hướng tâm mình nhắc, để rồi mình thấy rõ ràng cái tay mình rờ mặt trời, mặt trăng, nóng hay mát, hay lạnh chỗ nào mình biết, và nó gồ ghề núi đá như thế nào mình phải biết.
Đó là cái chỗ siêu việt của một cái người mà tu thiền của của Phật giáo như vậy đó. Mà không cần phải tu tập cái này, chỉ cần chúng ta ly dục ly ác pháp, thì cái chỗ này là chúng ta sẽ làm được hết. Cho nên chỉ dùng cái pháp hướng mà chúng ta đã đạt được những kết quả này.
Đó là cái phần tu tập Như Ý Túc.
(16:14) Và cái phần Tam Minh thì chắc chắn là nó cũng giống như vậy thôi. Khi mà Tuệ Như Ý Túc, thì cái phần đó là cái phần nói về Tam Minh rồi. Thì như vậy chúng ta cũng hướng tâm đến Tam Minh, Đức Phật dạy mà, hướng tâm đến Tam Minh.
Tức là chúng ta hướng: “Bây giờ cái tâm phải thu ngắn cái thời gian này lại, trong cái hiện tại từ 2500 năm nay để coi Đức Phật thuyết cái bài kinh Sa Môn Quả này như thế nào!”. Ra lệnh nó như vậy à, rồi mình ngồi đây mình im lặng, mình im lặng nhập ở trên cái Tứ Thiền, mình giữ cái tâm yên lặng ở trên cái định của Tứ Thiền, hoàn toàn mất tiêu.
Nhưng mà tuần tự lại nghe âm thanh của Phật và thấy được Đức Phật đang thuyết giảng với một nhà vua đang ngồi, rõ ràng là mình trực tiếp mình nghe được cái lời pháp đó, và bắt đầu cái bài pháp đó thuyết như thế nào.
Đó thì như vậy là chúng ta đã trở về với cái quá khứ, tức là thu ngắn cái thời gian của quá khứ trở lại nằm trên một điểm trên cái hiện tại cho chúng ta.
Cho nên ở trong cái định Tứ Thiền đó, thì chúng ta sẽ như là một cái người mà không có cái thời gian, muốn cái chỗ nào là cũng được, cái thời gian nào chúng ta cũng có thể được hết. Cho nên chúng ta muốn hướng tâm đến nhiều đời nhiều kiếp của mình, đời thứ nhất gần cái đời này, thử coi mình là ai, tên gì, họ gì, làng nào thì cũng nhắc tâm như vậy.
Bây giờ mình ngồi đây mình nhắc như thế này: “Cái tâm này đi trở về quá khứ một đời, để xem coi đời kế đây ta là ai, tên họ gì, ở làng nào, xứ nào, nước nào, cha mẹ tên gì, anh em tên gì, sinh hoạt như thế nào, làm nghề gì trong cái thời đó!”. Thì ngay đó mình ra lệnh như vậy, cái bắt đầu mình im lặng một chút xíu, thì mình vẫn biết được từ tên họ nè.
Mà nó biết được với một cách rất là cụ thể rõ ràng từng chi tiết một: tên họ, làm nghề gì, như là diễn biến từ một cuốn phim mà chúng ta đã nhìn thấy những hình ảnh mà đang sinh hoạt ở trong một cái cuốn phim.
Đó, một cách rõ ràng, nhưng mà chỉ có cần hướng như vậy thôi chớ đâu có cần làm cái gì đâu, nhưng mà ra lệnh nó làm được tất cả. Đã nói bảo cái tâm này phải biến con chim thì nó biến được con chim, thì cái chuyện mà bảo để cái tâm này nó trở về quá khứ mà nó biết được cái chuyện một đời của nó thì quá dễ rồi, không còn khó nữa, đó gọi là Tuệ Như Ý Túc.
Do cái chỗ tu tập như vậy đó, thì chúng ta thấy rằng nó rất là vi diệu. Do đó bây giờ chúng ta mới trở về một đời nữa, một đời nữa kế cho đến vô lượng đời chúng ta đều biết rất rõ, làng xã và đời đó có vợ con tên gì, đứa thứ nhất tên gì, đứa thứ hai tên gì, có vợ có chồng như thế nào, sanh bao nhiêu con, gia phả như thế nào đều biết rõ hết!
Rồi những cha mẹ mà trong cái đời trước như vậy, thì hiện bây giờ đang tái sanh chỗ nào làm gì, làm gì biết hết! Rất rõ! Cho nên khi một cái người mà tu hành mà có cái thần lực như vậy rồi thì người ta đâu có bỏ cha mẹ người ta, người ta báo hiếu, rất là báo hiếu. Cha mẹ mất rồi, người ta dùng cái thần lực để người ta tìm cha mẹ sanh chỗ nào, người ta tìm cái duyên để người ta độ cha mẹ.
Không phải cha mẹ trong một cái đời nay, như bây giờ Thầy có cha mẹ Thầy mới sanh thầy ra, thì không phải những cha mẹ trong một đời nay đâu, mà cha mẹ trong nhiều đời kiếp. Thầy mang biết bao nhiêu lớp thân, thì biết bao nhiêu cha mẹ!
Do đó mới nhìn lại trong cái quá khứ đó để tìm tất cả những cha mẹ của mình, rồi mình lần lượt mình độ. Mình độ để đền đáp ơn, mỗi một kiếp vậy người bố thí cho mình một cái thân, để cho mình tiếp tục trên con đường, đến hôm nay mình giải thoát, làm sao mình quên công ơn của người đó được? Cho nên mình luôn luôn bao giờ cũng nhớ cái người đại thí chủ này hết. Mà mình có nhiều vô lượng người đại thí chủ chớ không phải là một đại thí chủ trong một kiếp này.
(19:41) Cho nên các con bây giờ ngồi bịn rịn mà thương cha nhớ mẹ trong kiếp này là các con ngu si. Thầy nói là vô minh! Không biết bao nhiêu đời, cha mẹ biết bao nhiêu đời sao không khóc? Mà bây giờ cha mẹ trong đời nay lại khóc? Cái đó là ngu si, chỉ thấy có bây giờ!
Bây giờ chúng ta khóc phỏng chừng chúng ta có làm gì mà báo hiếu ông bà được sao? Chúng ta hãy nỗ lực tu hành, thì may ra chúng ta sẽ giúp được cha mẹ trong đời hiện nay, mà còn giúp đỡ cha mẹ biết bao nhiêu đời để đền đáp ơn!
Cho nên sự tu hành của đạo Phật rất là thực tế và hiếu hạnh rất là cao tuyệt chớ không phải hiếu như đạo Khổng. Cái chữ hiếu của Đạo Khổng rất là tầm thường, chỉ cung phụng cho một đời cha mẹ này trong vật chất lẫn tinh thần trong cái cuộc sống an ổn trong đời nay mà thôi, chứ chưa có đem lại cho người một giải thoát chân thật.
Mặc dù là an ổn, làm cái trò như là trong Nhị Thập Tứ Hiếu - hai mươi bốn cái điều hiếu của đạo Khổng, thì thật sự ra như ông Lão Lai già cả rồi làm cười cho cha mẹ vui, thì đó chẳng qua là cười trong tiếng khóc, chớ đâu phải là cười. Cười trong tiếng khóc là bây giờ thân của cha mẹ đang hoại diệt, đang già, đang khổ sở nè, đang đau bệnh nè, ông có thay thế được không mà cười? Cho nên ông chỉ làm trò để mà vui đỡ trong một cái hiện tại, trong khi đó để quên đi cái nỗi đau khổ của sự già, của sự yếu, sự bệnh tật của cha mẹ mình, chớ ông có thay thế được đâu?
Cho nên không, ở đây chúng ta chỉ cho cha mẹ chúng ta vượt thoát ra khỏi cái chỗ sinh tử này, cái đó là hiếu, hiếu rất là hiếu! Còn bây giờ chúng ta có chỉ như vậy, có làm như vậy thì cũng chẳng qua là cái hiếu nhỏ nhỏ mà thôi, trong cái vật chất, tinh thần của vật chất mà thôi.
Cho nên ở đây thật sự ra chỉ có đạo Phật mới là đại hiếu, còn các tôn giáo khác thì có hiếu, nhưng mà hiếu trong một đời và hiếu ở trong cái vật chất của thế gian, chớ không phải cái hiếu thật sâu của đạo Phật.
(21:21) Đó cho nên bây giờ chúng ta mới hướng đến Tam Minh để mà chúng ta thực hiện những cái quá khứ, rồi sau đó chúng ta sẽ hướng đến Thiên Nhãn Minh. Thiên Nhãn Minh tức là làm cho cái không gian nó không có trải dài ra nữa, nó thu ngắn lại.
Nó thu ngắn lại, thí dụ như bây giờ ở bên Pháp, bên Mỹ mà chúng ta có một cái người thân, mà chúng ta muốn biết cái người đó giờ đang làm gì, bệnh tật hay là đang mạnh khỏe, hay làm gì, thì chúng ta chỉ hướng tâm đến, chúng ta chỉ sai cái tâm chúng ta đi chỗ đó. Và sai tâm đi tức là chúng ta thu cái thời gian nó ngắn lại liền tức khắc là chúng ta đã thấy, biết cái người anh mình hay chị mình đang sinh hoạt như thế nào, đang bệnh đau như thế nào đều thấy biết hết.
Và chúng ta ngồi đây mà chúng ta muốn biết ở thành phố này đang có sự sinh hoạt như thế nào, những người thân, những Phật tử làm gì chúng ta đều hướng tâm biết hết.
Cũng như ví dụ như một vị thầy, mà ngồi tại thất của vị thầy đó mà biết cả toàn diện của cái khu vực này các thầy đang hoạt động như thế nào, tu hay không tu, ngủ hay không ngủ, đều là có thể dùng cái Thiên Nhãn Minh mà người ta quan sát hết. Đó là cái chỗ mà hướng dẫn.
Cho nên ngày xưa khi ông Mục Kiền Liên mà xin vào một khu rừng hoang vắng mà tu hành, mà khi ông bị hôn trầm thì Đức Phật dùng cái Thiên Nhãn Minh mà quan sát, thấy ông đang bị kẹt cho nên Đức Phật thị hiện thần thông đến ngay liền để mà chỉ ông phá hôn trầm.
Và khi mà ông nhập Nhị Thiền, ông diệt Tầm Tứ thì ông không có, ông nhập được, mà an trú để kéo dài cái thời gian trong Nhị Thiền thì an trú không được. Cho nên Đức Phật dùng cái Thiên Nhãn Minh mà quan sát, thì thấy ông này bị kẹt cái chỗ này, ông ở trong cái trạng thái Nhị Thiền thì ông thường bị tác ý. Do đó cho nên Đức Phật đến mới dạy ông “Im lặng như Thánh”.
Còn bị hôn trầm, thì ông tu mà bị hôn trầm thì Đức Phật dạy ông năm cái điều kiện mà phá hôn trầm. Điều kiện hay nhất tức là đi kinh hành, tu tập Chánh Niệm Tỉnh Thức. Cho nên ông Phật ông đến dạy ông Mục Kiền Liên phá hôn trầm liền, không có để cho ngủ. Và dạy ông im lặng như Thánh, trụ như Thánh, cho nên từ đó ông thấy những cái lời nói của Phật.
Xong rồi Phật thị hiện về ngay tại thất của mình, thì ở đó ông nỗ lực ông thực hiện, cho nên cuối cùng ông trở thành một đệ tử đệ nhất thần thông của Phật.
Cho nên một vị thầy luôn luôn người ta theo sát đệ tử của mình, chớ không phải người ta bỏ đệ tử của mình, vì người ta có đủ cái năng lực người ta theo sát mình. Cho nên các thầy nghĩ rằng một vị thầy mà không đủ năng lực, học trò mình chết trong thất làm sao? Mà dám lãnh nó mà dạy tu?
Cho nên nếu mình chưa biết thiền định mà dạy nó tu, nó ở trong thất nó không tu, nó chơi suốt đời nó, thì nó làm sao nó thành tựu được, mà cái trách nhiệm mình ở đâu? Cho nên vì vậy mà luôn luôn phải theo dõi và biết. Và cũng biết cả cái nghiệp của nó, nó phải đến mức độ nào, nó tu đến mức độ nào và nó đạt được trong kiếp này giải thoát không, đều là phải rõ biết hết.
Đó là cái chỗ thực hiện Tứ Như Ý Túc và thực hiện Tam Minh.
(24:25) Thì bắt đầu bây giờ về Lậu Tận Minh là phải thấy rõ cái lậu hoặc, cái gốc lậu hoặc.
Khi mà nhập vào cái Lậu Tận Minh thì chúng ta quan sát lại cái lậu hoặc chúng ta. Thì khi quan sát lại, dùng cái trí tuệ mà quan sát như vậy, thì hồi nãy Đức Phật có nói cái đó là cái Chánh Kiến và cái Chánh Tri Kiến của chúng ta, từ cái chỗ thiền định đó nó mới phát hiện ra được, vì vậy mà nó mới thấy được cái lậu hoặc, chúng ta mới đốn sạch bứng gốc, bây giờ nó không có lậu hoặc nữa. Cho nên bây giờ thành Phật rồi thì không còn một chút lậu hoặc nào hết.
Còn chúng ta mới tu tập thì chúng ta còn lậu hoặc, nghĩa là cái gốc lậu hoặc còn, chúng ta mới ly. Cho nên ở đầu các thầy mới nghe, thì chúng ta giai đoạn đầu chúng ta ly dục ly ác pháp, chứ chúng ta đâu có nói là đoạn dục, đâu có nói là đoạn ác pháp đâu?
Nhưng mà tới Tam Minh rồi thì chúng ta mới là đoạn dứt. Cho nên dục nó cũng bị đoạn dứt, ác pháp nó cũng bị đoạn dứt, nó không còn, cho nên chứng quả A La Hán.
Còn cái chỗ mà chúng ta mới tu, nghe cái Định Vô Lậu là tập ly dục, ly ác pháp, làm cho cái lậu hoặc nó ly chớ nó chưa phải đoạn, đó là hai cái giai đoạn nó rất rõ mà.
Cho nên nói bây giờ chúng tôi ly lậu hoặc, lìa cái tâm ham muốn và cái tâm ác pháp, lìa nó ra rồi thì chúng tôi sao chưa chứng quả A La Hán? Lìa mà sao chứng được, đoạn mới chứng quả A La Hán. Cho nên thực hiện được tới Tam Minh rồi thì cái vị đó mới chứng quả A La Hán. Cái quả đó là cái quả giải thoát hoàn toàn, không còn tái sanh luân hồi ở cái thế gian này được.
Nhưng quý thầy phải nhớ rằng, có người hỏi Thầy: Khi mà mình tu mà đến đó rồi, mình thành tựu đến đó rồi, thì như vậy là sau khi mình nhập vào Niết Bàn rồi thì mình còn cái gì? Mình có còn cái gì không? Cái điều này là phải nói rằng cái tâm hữu hạn của chúng ta mà hỏi cái chuyện mà vô hạn, nếu mà giải thích ra thì chúng ta bị lầm chấp.
Lầm chấp cái thứ nhất, nói bây giờ Thầy nói bây giờ khi mà nhập vào Niết Bàn thì cái mà chúng ta tu tập nó vẫn còn, thì ngay đó chúng ta nghĩ rằng cái đó là vô hình, vô tướng. Cho nên nó biến ra thành cái Phật Tánh mất rồi. Do đó vì vậy mà có người phàm phu, tục tử mới nghĩ nó là Phật Tánh, chấp cho nó là Phật Tánh.
Cho nên ở đây chúng ta không nên nói, nói như vậy là chúng ta bị chấp ngã rồi, ngã chấp rồi. Cho nên cái người nào mà nhận ra nói rằng là Phật Tánh là một cái thường, lạc, ngã, tịnh của nó, bốn cái đức Niết Bàn của nó là thường, lạc, ngã, tịnh đó, là cái nhận ra Phật Tánh như vậy, cho nó là cái Phật Tánh như vậy, đó là cái người chấp ngã rồi, cho nên nó cũng trật à. Mà hễ còn chấp ngã như vậy thì cái người đó chưa chứng quả A La Hán.
Cho nên ở đây khi mà Đức Phật có nói: “Đối với tự thân để giải thoát, vị ấy biết sanh đã tận”, sanh đã tận tức là cái cuộc sống sanh y hàng ngày, những cái gì đồ đạc, vật chất của thế gian chớ không phải là sanh tử, sanh đẻ đâu. Mà sanh đây là cái vật chất thế gian, nó đã tận, tức là đoạn tận, chữ tận này là đoạn tận.
Nó không còn có ham thích một cái gì hoàn toàn, thì Phạm Hạnh người đó mới thành, cái Phạm Hạnh nó mới xong.
“Những cái việc làm, cần làm đã làm xong hết rồi”. Tức những cái việc tu hành từ hồi nào tới giờ thì người này không còn tu nữa, hết tu rồi. “Sau cái đời hiện tại không còn cái đời sống nào khác.” Nghĩa là sau cái đời này, cái đời mà bây giờ mình đang sống, hết cái đời này thì mình không có cái đời sống khác nào nữa hết.
Mà ai hỏi thêm cái điều đó là cái người đó thiệt là điên đảo không biết. Có hay không thì người đó tới đó sẽ biết, bây giờ mà dùng cái tâm thức hữu hạn này mà, để hiểu sau cái đời hiện tại này của một người tu rồi, mà hiểu còn hay không, thì cái người đó không thể nào mà lấy cái tâm hữu hạn này mà hiểu cái đó được.
Bởi vì chúng ta đang sống ở trong cái tâm hữu hạn là cái tâm đối đãi, bây giờ chúng ta thấy có cái thân này là tại vì xung quanh đây chúng ta còn thấy được cái nhà cửa, cây cối này kia, nó có cái đối tượng, nó làm chúng ta thấy có cái thân này.
Nhưng bây giờ cái thân chúng ta nè, nó hoàn toàn nó phi mất hết những cái vật chất này hết hoàn toàn rồi, nó xả bỏ hết, cả không gian vũ trụ này nó cũng đều mất hết, nó không còn hình tướng, hình sắc gì hết, nó không còn đối tượng, thì như vậy có cái thân này mất không?
Nhưng mà lúc bấy giờ chúng ta có thấy có đối tượng làm cho nó thấy được cái thân nó không? Đâu có thấy được cái thân nó, nhưng mà nó có mất không? Nói nó mất thì không được, mà nói nó có thì có được không? Bởi vì nó đâu có đối tượng mà để cho nó thành hình nó?
Cho nên ở chỗ này thì, cho nên Đức Phật, ai mà hỏi chỗ này Đức Phật nói thiệt là, sao mà lại không hiểu chút gì hết, thiệt là vô minh vô cùng!
Cho nên cái câu nói “Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc cần làm đã làm, sau đời hiện tại không còn đời sống nào khác nữa.” Nghĩa là từ đó về sau, coi như là tương lai thì chúng ta không có đời sống khác nào khác nữa hết, nghĩa là chấm dứt rồi. Mà hỏi như vậy, chấm dứt rồi không biết còn hay mất đây? Đâm ra lo nghĩ quá trời!
(29:04) Thật sự ra, rõ ràng là nhập Tứ Thiền chúng ta giữ được cái thức của chúng ta. Thì chúng ta giữ nó chớ còn không giữ thì nó hoại diệt, nó tiêu mất á, như người chết thì không còn, thì nó còn nhân quả chứ gì. Mà bây giờ mình đoạn dứt nhân quả rồi, nhân quả không còn thì không còn nghiệp rồi, cái gì mà đưa chúng ta tái sanh được đây?
Chúng ta tái sanh là do cái nghiệp lực nó đẩy chúng ta tái sanh, nó đẩy cái nhân quả chúng ta đi tái sanh, chớ đâu phải đẩy cái linh hồn chúng ta đi tái sanh đâu! Nó đẩy cái hành động thiện, ác của chúng ta đã làm đó, nó trở thành cái lực của nó, nó thu hút chúng ta.
Cũng như bây giờ, chúng ta là người nghiện rượu, thì cái rượu ở trong cái quán rượu kia nó thu hút chúng ta, cho nên đi ngang quán rượu nghe mùi rượu muốn vô uống liền. Đó là cái nghiệp lực nó thu hút chúng ta, nó hút chúng ta vào. Mà vì cái nhân quả chúng ta là cái người đã từng, từng cái hành động uống rượu cho nên nó đã thành ra thích thú cái đó rồi. Cho nên bây giờ nó nghe mùi là nó muốn vào cái quán đó nó ngồi uống rồi. Đó nó hút như vậy.
Cho nên nó gọi là nghiệp lực nó đẩy đi, tức là nó hút vào đó, nó hút vào theo cái nhân quả của nó. Cho nên chúng ta thiện thì nó hút vào cái thiện, mà ác thì cái nghiệp lực đó nó hút vào cái ác, nó tái sanh do cái chỗ ác thiện đó. Cho nên chúng ta ở đây rất rõ ràng, chớ không phải có linh hồn, hay có thần thức nào của chúng ta đi đầu thai hết.
Vì thế mà những người cầu siêu hay cầu an đều là không đúng cái tánh cách của đạo Phật. Đạo Phật không có thế giới siêu hình, hoàn toàn, như thân Ngũ Uẩn, thì tức là hoại diệt là không còn một cái gì mà còn lại.
Và cái thân, cái thế giới khổ là Mười Hai Nhân Duyên thì nó, khi mà nó diệt được cái duyên này thì tất cả cái duyên khác nó diệt hết, thì nó cũng không còn có một cái gì hết, nó không còn có một cái gì còn lại gọi là về đời sau hết, nghĩa là mất hết.
Nó chỉ từ cái Vô Minh mà nó sanh ra các Hành, như hồi nãy Thầy đã nói, rồi nó đi đến cái chỗ mà có Thức chớ không phải là cái Thức mà được đưa đi vào chỗ tái sanh.
Cho nên nó sanh ra là do cái sự Vô Minh nó mới có cái Thức, cho nên cái Thức và cái thân của chúng ta hoàn toàn từ cái thân con người này mà bỏ đi thì nó qua một cái thân khác, nó chỉ còn cái nhân quả là cũ thôi, mà cái thân khác là đều là mới hết toàn bộ, không có cái gì là cũ của nó hết.
(31:11) Đó là như vậy chúng ta mới hiểu được Phật giáo, vì vậy mà Phật giáo là một đạo Phật rất thực tế và cụ thể, rất khoa học.
Rồi cái sự tu tập của Phật giáo, cái hành pháp của Phật giáo rất là thực tế, cụ thể, đối đầu với cái tâm của chúng ta, tâm tham, sân, si. Bây giờ làm cho nó hết tham, sân, si là phải tu các pháp nào để cho nó hết tham, sân, si. Những cái pháp như vậy nó đem đến đời sống chúng ta giải thoát cụ thể ngay cái chỗ mà tham, sân, si đó.
Cho nên kinh điển của Phật rất là thực tế, không có mơ hồ, không có dạy chúng ta ái cầu khẩn. Cho nên người nào nói Đức Phật Quan Âm là một người cứu khổ thì người đó đã là cái người điên đảo mất rồi, đạo đức không còn có rồi.
Thì quý thầy phải hiểu biết là tại sao như vậy? Có một Đức Phật Quan Âm mà luôn luôn cứu khổ người khác, người ta làm ác người ta mới thọ được cái khổ đó, thì bây giờ người ta phải chịu cái quả đó. Tại sao mình lại cứu cho người ta, để cho người ta không còn khổ nữa, thì như vậy là mình đã phá cái đạo đức của con người rồi còn gì!
Cho nên cái bộ kinh Pháp Hoa là cái bộ kinh phi đạo đức, nó không phải kinh của Phật. Thầy không chấp nhận cái bộ kinh đó vì một cái phẩm Phổ Môn đã làm tan nát hết cái bộ kinh Pháp Hoa.
Đó thì như vậy chúng ta đủ thấy rằng cái sai của cái người mà đặt kinh này để nói Phật thuyết, chớ ông Phật không bao giờ thuyết một cái mơ hồ, trừu tượng như vậy, mà cũng không bao giờ thuyết có một cái đấng cứu khổ như vậy được.
Chúng ta làm nhân nào thì chúng ta phải thọ lấy cái quả khổ, thì như vậy là do cái hành động thiện, ác của chúng ta mà thôi. Cớ đâu mà chúng ta lại cầu khẩn người khác phù hộ mình để cho mình làm ác nữa sao? Đó là một cái loại kinh phi đạo đức, không đúng tánh cách của đạo Phật.
Ở đây Thầy nói thì nó rất đụng chạm với những người mà họ hiểu rằng kinh đó là quý, kinh đó là cao thượng, kinh đó là tuyệt nhất. Sự thật ra nó không có thực hiện được giải thoát. Mà chính các vị mà chấp nhận kinh đó, đọc kinh Pháp Hoa, tụng kinh Pháp Hoa mãi mà đến bây giờ thử hỏi họ được giải thoát những gì? Có thấy đức Phật Quan Âm độ họ bao giờ?
Thị hiện qua một cái tưởng của họ, họ tưởng là đức Phật Quan Âm cứu khổ họ, nhưng mà không ngờ đó là một cái thiện pháp, nó chuyển qua một cái tưởng, để nó làm như là có một sự cứu khổ họ trong cái tưởng đó mà thôi.
Cho nên ở đây, khi mà chúng ta thực hiện được như vậy chúng ta mới thấu rõ được, khi mà chúng ta có được một cái đạo lực siêu việt như vậy, chúng ta mới thấy được cái thế giới siêu hình có hay không. Và chúng ta mới thấy được những kinh sách này đúng hay không.
Bây giờ thí dụ như bây giờ mà trở về để mà nghe lại coi Đức Phật có thuyết giảng cái bộ kinh Pháp Hoa này không, chúng ta trở về quá khứ để nghe xem coi. Cách đây 2543 năm, chúng ta trở về quá khứ, chúng ta hướng tâm nhắc. Thì lúc bấy giờ chúng ta trở về, chúng ta chẳng nghe Đức Phật thuyết kinh Pháp Hoa lúc nào hết.
Chúng ta trở lại cái thời gian, lui lại lần coi cái kinh Pháp Hoa này xuất hiện ở đâu. Ngay đó chúng ta tìm ra được cái nguyên nhân của, rõ ràng là ai nói, mà ai ngồi viết ở chỗ nào chúng ta cũng biết được, có gì đâu.
Ở trong cái không gian vũ trụ này, với một cái người mà có được cái tâm thanh tịnh, có được cái năng lực siêu việt của các pháp hướng rồi, thì không có một cái gì mà giấu họ được. Cho nên họ vẫn, một cái người như vậy họ thấy cái đúng, cái sai, họ rất rõ, cho nên họ dám ăn dám nói, không sợ ai hết.
Nghĩa là những người tu sai là nói sai, mà những cái người tu đúng là nói đúng. Phật pháp, những kinh sách đúng là nói đúng, mà kinh sách sai cũng nói sai nữa, chớ không bao giờ mà nói kinh Phật thì không dám nói sai, nói đúng, không phải đâu! Nói trật không đúng đường lối tu hành thì vẫn là kinh sai, không đúng.
(34:31) Đức Phật không bao giờ nói thừa lời nói ở trong cái bộ kinh, cái lời Phật dạy không bao giờ nói thừa, không bao giờ hý luận ở trong đó. Phật nói là mục đích nhắm vào, những cái lời nói của Phật có cái sự giải thoát cho chúng sanh, Đức Phật không bao giờ mà nói thừa lời nói để mà hý luận chơi, hay nói đùa giỡn chơi, không bao giờ có!
Cho nên cái Đức Phật nói chỉ như nắm lá cây, còn cái sự hiểu biết của Đức Phật như rừng lá cây. Thì chúng ta biết rằng cái chỗ mà Đức Phật khiêm tốn không có nói cái chuyện mênh mông đó, để chúng ta nghe mà vui chơi hý luận đó, thì Đức Phật không nói. Mà nói như nắm lá cây, chúng ta đã biết, nói cái đó để ích lợi cho chúng sanh thì nói.
Hôm nay Thầy cũng thuyết giảng cho các thầy thấy rằng không có nói mênh mông, không có đem kinh sách Phật giảng mênh mông, mà cái nào cần thiết trên con đường tu tập thì nói, chớ không có cần thiết…
Thì bây giờ chúng ta đã học Tứ Niệm Xứ rồi, Tứ Thánh Định rồi, và học Tứ Như Ý Túc rồi, phải không? Các thầy đã biết cái pháp hướng rồi chứ gì. Nhưng mà pháp hướng đúng thì các thầy phải thể hiện được ly dục, ly ác pháp, thì nơi đó Thất Giác Chi nó hiện ra, cái pháp giác chi nó phải hiện ra.
Cho nên Phật ở trong kinh điển Phật mà dạy về Tứ Niệm Xứ, Đức Phật mới nói muốn câu hữu với, kết hợp với Thất Giác Chi mà tu tập, thì cái người đó phải thực hiện Tứ Niệm Xứ cho viên mãn thì cái Thất Giác Chi tu tập mới tốt.
Do đó chúng ta biết ở giai đoạn nào của Tứ Niệm Xứ mà Thất Giác Chi thể hiện được, thì lúc bấy giờ cái Trạch Pháp, cái Niệm Giác Chi, cái Trạch Pháp Giác Chi, cái Khinh An, cái Lạc của Giác Chi; cái Hỷ của Giác Chi đều là nó thể hiện ra rất rõ, cụ thể, để cho chúng ta thực hiện cho đúng cái cách tu tập của nó, của Thất Giác Chi, thì chúng ta đạt được cái kết quả rõ ràng.
(36:08) Đó thì đến đây, cái phần Tứ Như Ý Túc đã là xong. Thì hôm nay Thầy xin trả lời một số câu hỏi, như cô Viên Minh hỏi. Thì các thầy thấy cái này là tại vì cô Viên Minh chưa có dự cái khóa tu ở đây lần nào, cho nên mới hỏi những câu hỏi này, chứ còn nếu mà đã dự thì chắc không hỏi câu hỏi này đâu.
Hỏi: “Khi ngồi thiền vọng tưởng đến con biết nhưng sao vẫn không xả được? Vọng tưởng ở đâu đến, chỗ xuất phát của vọng tưởng, phá vọng tưởng bằng cách nào? Kính thưa Thầy chỉ dạy cho con rõ!”
Đáp: “Không xả được vọng tưởng là tại tu thiền chưa đúng pháp.”
Con xả chưa được vọng tưởng là tại tu chưa có đúng pháp, ức chế tâm, mà cũng chưa có đủ cái duyên mà ngồi ức chế như các thầy mà ngồi ức chế. Nếu mà ức chế thì nó cũng được chớ không phải không được, nhưng mà nó rất là nhọc nhằn.
“Vọng tưởng từ lòng ham muốn, dục và ác pháp tham, sân, si mà đến.”
Cái vọng tưởng từ cái lòng ham muốn của chúng ta. Bây giờ mà chúng ta ngồi, nó nghĩ lăng xăng cái này, nó nhớ cái kia đó, là cái lòng ham muốn của chúng ta đó, thương, ghét, giận, hờn, tham, sân, si nó đến đó, cái vọng tưởng từ chỗ đó mà đến.
“Vọng tưởng xuất phát từ cái tưởng thức.”
Bây giờ chúng ta khởi tác ý cái này kia là ý thức của chúng ta đó. Mà chúng ta ngồi chúng ta không tác ý ra thì bắt đầu cái tưởng chúng ta làm việc đó, chớ không phải là ý thức chúng ta đâu. Nhưng mà cái tưởng chúng ta làm việc rồi gọi là vọng tưởng, tức là tưởng thức đó.
Cho nên hỏi Thầy cái chỗ xuất phát của vọng tưởng, thì vọng tưởng xuất phát từ tưởng thức. Chúng ta phải biết rằng, về cái thân thức của chúng ta thì nó có sáu thức: nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý thức. Thì về cái tưởng thì nó có cái tưởng thức thôi, nó có một cái tưởng thức.
Cho nên trong cái thân Ngũ Uẩn chúng ta có ba cái thức rất rõ ràng: Cái thức thứ nhất mà chúng ta hoạt động hàng ngày là sáu cái thức mà gọi chung là ý thức. Cái thức thứ hai là tưởng thức. Cái thức thứ ba gọi là thức thức tức là thức uẩn đó, nó ba cái thức.
Cho nên khi mà nằm mộng đó là tưởng thức đó, chớ không phải là ý thức của chúng ta đâu. Còn hàng ngày chúng ta tiếp duyên với nhau nói chuyện, phân biệt cái này, cái kia đó là cái ý thức. Các thầy thấy, các vị thấy rất rõ, cho nên chúng ta biết rằng chúng ta đang sống ở trong ba cái thức.
Nhưng mà cái thức thứ ba là thức thức chưa bao giờ nó làm việc, trừ ra khi chúng ta nhập Tứ Thiền thì nó mới làm việc. Chớ còn hiện giờ thì nó chưa làm việc, nó nằm im lìm đó, cái thức thức đó nó nằm im lìm. Nó chỉ có làm việc ở trong cái ý thức của chúng ta với cái tưởng thức mà thôi. Ban ngày thì chúng ta làm việc bằng ý thức, chứ ban đêm chúng ta ngủ đó là tưởng thức làm việc, cho nên nó có mộng mị.
“Phá vọng tưởng bằng cách ly dục ly ác pháp.”
Tức là ly bất thiện pháp đó. Nghĩa là muốn phá vọng tưởng không phải ngồi ức chế mà phải ly dục ly ác pháp. Thì cái pháp nào mà dạy chúng ta ly dục, ly ác pháp thì chúng ta tu cái pháp đó thì chúng ta sẽ hết vọng tưởng à!
Chớ không phải là ngồi đó mà hít thở hay niệm Phật cho hết vọng tưởng, lần chuỗi cho được nhiếp tâm bất loạn thì cái chuyện đó chúng ta bị rơi vào cái định tưởng mất rồi, do ức chế. Từ đó tâm chúng ta nó chưa có định chút nào, nó bị ức chế nó không phải định đâu, mà nó thuộc về cái định của tưởng.
Đó là những cái câu hỏi của Viên Minh hỏi Thầy, Thầy trả lời cái câu hỏi đầu.
(39:18) Qua câu hỏi kế:
“Khi bị Ngũ Triền Cái che mờ, con không biết làm thế nào để phá được nó và hành pháp nào để dứt bỏ nó được?”
Đáp: “Muốn vén sạch…”
Ngũ Triền Cái là năm cái màn ngăn che. Cho nên muốn mà vét cho sạch năm cái màn này:
“…năm cái màn Ngũ Triền Cái này thì con nên tu tập Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, Định Niệm Hơi Thở và Định Vô Lậu.”
Thì muốn ly được năm cái Ngũ Triền Cái này - tham, sân, si, mạn, nghi - thì các con nên tu tập Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, Định Niệm Hơi Thở và Định Vô Lậu.
Thì trong khi mà Thầy dạy Chánh Niệm Tỉnh Giác, thì cách thức tu như thế nào thì các vị ở đây đã biết rồi, và Định Niệm Hơi Thở tu như thế nào. Chớ không phải ngồi đó mà đếm một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám hơi thở, đó là cách thức sai, đó là sổ tức quan. Sổ tức quan với Định Niệm Hơi Thở không giống nhau đâu. Và tu cái Định Vô Lậu quán xét như thế nào để xả cái tâm mình gọi là vô lậu.
Đó là ba cái định để mà chúng ta vén sạch cái màn vô minh của Ngũ Triền Cái làm cho chúng ta hết tham, sân, si.
(40:27) Hỏi: “Tu tập tỉnh thức như thế nào để sáng biết ly dục ly ác pháp? Mỗi khi bị thử thách và khảo nghịch con phải sử tâm như thế nào? Xin Thầy chỉ dạy!”
Đây Thầy đáp đây:
“Tỉnh thức Thân Hành Niệm…”
Nghĩa là:
“Tỉnh thức Thân Hành Niệm Ngoại và Nội.”
Tức là Thầy muốn nói tỉnh thức Thân Hành Niệm Ngoại và Nội tức là Thầy muốn nói Chánh Niệm Tỉnh Thức Định và tu Định Niệm Hơi Thở, đó là hai cái định mà Thầy ở đây dùng một cái tên để cho thấy rõ: Tỉnh Thức Thân Hành Niệm Ngoại và Nội.
Đó là hai cái định Thầy gom lại một cái tên, để cho thấy ở cái chỗ tu tập của chúng ta thì lúc bấy giờ đó, thì nó mới có ly dục ly ác pháp, nó mới ngăn chặn được các các pháp, nó không còn cho các ác pháp xen vào.
Thí dụ như bây giờ “Đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành”, thì bây giờ chúng tôi đang biết cái hành động đang đi nè, đang bước đi. Thì lúc bấy giờ có cái niệm nào mà khởi trong đầu được, mà có niệm thì tức là chúng ta đã tu sai rồi, cho nên đó là tu cái hành động ngoại.
Còn bây giờ hành động nội là ngồi đây mà hít thở, biết hơi thở ra, biết hơi thở vô nè, mà suốt một phút cho đến mười phút, ba mươi phút, một giờ mà không có niệm nào xen vô, đó gọi là Tỉnh Thức Thân Hành Niệm Nội và Ngoại.
Cái danh từ nói mà để chúng ta xét được cái chỗ tu tập của chúng ta. Thầy không có nói ra những cái định như hồi nãy, nhưng mà nói ra như vậy để chúng ta biết đó là một cái tên để chỉ cho cái định Chánh Niệm Tỉnh Giác Định và Định Niệm Hơi Thở. Mà Định Niệm Hơi thở nó còn có một cái tên là Định Hiện Tại An Lạc Trú nữa mới gọi là Định Niệm Hơi Thở.
(42:13) “Khi bị thử thách hoặc bị khảo nghịch thì nên nhìn và quán xét đối tượng bằng nhân quả.”
Nghĩa là luôn luôn lúc nào mình mà bị cái cảnh thử thách và bị khảo nghịch, tức là làm cho mình giận hờn, phiền não, trong những cảnh mà nó xảy ra cho sợ hãi, lo lắng thì phải nhìn nó bằng cái đôi mắt nhân quả thiện với ác, trả quả hay là không trả quả. Do đó cái tâm thanh thản liền tức khắc, giải thoát liền.
Đó là cách thức tu tập, ở đây dạy rất cụ thể rõ ràng. Khi một người biết nhìn nhân quả thì ngay đó dù cảnh nó có cực kỳ đau khổ cách gì người đó vẫn thấy an vui. Mình đã trả quả mà, sao mình lại không an vui?
Mình đang thử thách những cái tai nạn, bệnh tật gì đó, mình đang rầu rĩ thì đó là cái sai. Mà mình nhìn nhân quả thì thấy nó bằng nhân quả, thì mình biết đây là mình đang trả quả, thì do đó mình vui vẻ trong cái sự thử thách này, vì vậy mà mình rất an vui.
Và cũng từ cái sự an vui đó, cái thử thách đó nó sẽ không còn thử thách nữa, nhân quả không tác dụng được nữa, do đó nó làm giảm bớt và cái hoàn cảnh nó thăng tiến, nó đưa mình đến thiện pháp, từ đó mình hưởng được cái quả vui, nó không còn làm cho mình đau khổ nữa.
Còn mình rầu khổ, phiền não trong tâm mình, bị khảo đảo rồi mình sanh ra những ác pháp, mình hờn trách, mình rủa người ác độc này kia, thì từ đó mình chồng thêm những cái ác pháp trong tâm của mình, mình gieo những cái nhân đó, nó làm cho mình cái quả nó càng nhiều chồng lên, nó làm cho mình khốn đốn và khổ sở hơn nữa.
Còn mình biết nó được nhân quả cho nên tâm mình không có phiền trách ai hết, mình thấy đây là một sự thử thách của nhân quả, cho nên mình vui vẻ, mình đối xử với người đó rất là thân tình, không còn thấy người đó là thù nghịch, không còn thấy hoàn cảnh đó là chán ghét, đau khổ nữa, mà thấy hoàn cảnh đó nó giúp cho mình thăng tiến được ở trên những cái giải thoát.
Cho nên mình thấy được nhân quả, thì ngay đó là mình đã giải thoát tâm mình không còn gọi là bị khảo đảo hay là khảo nghịch.
Đó là cách thức tu ở đây là như vậy, nó giúp cho chúng ta nhìn bằng cái đôi mắt nhân quả, không phải nhìn bằng cái đôi mắt trái đúng sai, phải trái của nó nữa.
Cho nên người nào đang bị thử thách và đang bị khảo đảo mà vội tức giận, phiền não, nói người ta là ác độc, hay hoặc là cho người ta là như thế này thế khác, thì người đó là tạo thêm cái nhân quả cho mình, thêm chồng chất lên cái sự đau khổ cho mình thêm.
Từ đó mình càng khổ đau hơn và mình càng tạo nên cái nhân quả ác cho chính mình. Rồi từ đó mình thọ lấy cái quả, nó tiếp diễn ở trong cái thời tương lai sắp tới của mình sẽ gặp những cái quả khổ, vì cái tâm ác của mình đã khiến người ta ác, thì do đó mình đã là người ác rồi.
Cho nên gặp trường hợp người ta làm một cái điều gì, thì mình hoàn toàn là mình thấy người ta đều thiện, người ta giúp cho mình vượt ra những cái nhân quả nghiệp báo của mình.
Người ta nói chửi mình, người ta mắng mình, người ta nói thậm tệ mình, người ta nói mình thế này, thế khác, đều là người ta giúp cho mình để cho mình vượt qua những cái nhân quả mình đang thử thách. Và khi mình thử thách, mình vượt qua, mình vui vẻ, mình thấy người đó là một cái người ơn của mình, người đó là người giúp cho mình.
Cho nên Thầy nhắc lại một cái vấn đề mà Đức Phật hỏi ông Phú Lâu Na. Khi ông Phú Lâu Na xin đi một cái xứ đó để độ cho chúng sanh ở đó, thì Đức Phật hỏi: “Cái dân ở xứ đó ác độc lắm, con không thể đi được đâu!” Ông Phú Lâu Na mới nói: “Con đi được, xin Đức Phật cho con đi.”
Thì ông Phật nói: “Dân ở đó, ông đến đó nó chửi mắng ông, ông chịu không có nổi đâu. Nó gặp ông, rồi nó kêu ông thầy chùa này ông thầy chùa kia, nó kêu ông trọc này ông trọc kia, rồi ông chịu không nổi, thì chừng đó ông thấy khổ tâm lắm.” Ông nói với Đức Phật: “Nó có chửi mắng con, nó có kêu con là trọc này trọc kia đi nữa, thì nó còn thương con chớ nó chưa lấy đá, lấy sỏi nó ném con!”
Thì ông Phật nói: “Như vậy là nó sẽ lấy đá, lấy sỏi nó ném con!” Thì ông ta nói: “Nó cũng còn thương con chớ nó đâu có ghét con, cho nên nó chưa lấy gậy gộc nó đánh con.”
Thì ông Phật nói: “Nó sẽ lấy gậy gộc nó đánh ông à!” Thì ông nói nó cũng còn thương ông, nó chưa có lấy gươm, lấy dao nó chém, nó giết ông. Thì ông Phật nói: “Nó sẽ giết ông, nó sẽ lấy gươm, đao nó đâm ông chết!”. Thì ông nói: “Chính nó, nó đã thương con, cho nên con mang cái thân nhân quả này, nó rất khổ, mà nó đâm, nó chém giết con, thì tức là nó làm cho con hết khổ!” Cuối cùng thì ông Phật nói: “Được như vậy là ông nên đi qua xứ đó!”
Tức là ông thấy được nhân quả các con. Còn chúng ta chưa thấy nhân quả, khi mà họ vừa nói ông “ông trọc” là chúng ta đã tức rồi. Người ta nói ông thầy chùa này kia, người ta mới nói cái thầy chùa thôi mà mình đã tức rồi. Còn người ta nói thầy thầy, Thượng tọa, Hòa thượng thì mình khoái lắm. Nhưng mà nói thằng trọc này, trọc kia thì chúng ta tức rồi. Phải không các thầy? Các thầy có thấy điều đó chớ?
Cho nên vì vậy chúng ta thấy là chúng ta chưa thấy nhân quả đâu. Phải không? Hồi đó biết đâu chừng, người ta, cũng mấy thằng nhỏ đó nó cũng làm thầy chùa, rồi mình cũng kêu nó trọc trọc, bây giờ nó cũng kêu mình lại, thì cái nhân quả mình trả có gì đâu mà mình sợ. Nó kêu mình chứ có mắc mớ, có đau đớn gì mình đâu, mà giờ mình tức mấy thằng nhỏ này “Tao, tao đập mày chết đó!”, thì cái chuyện đó là mình còn nói cái lời nói còn ác nữa, đập người ta chết, phải không? Do đó mình tạo nhân tạo quả.
Vì vậy mình phải thấy bằng nhân quả, các con. Cho nên ở đây Thầy trả lời cô Viên Minh là mình thấy bằng nhân quả, cái đối tượng…
(Xem tiếp ở Pháp hành 33)
HẾT BĂNG
PHÁP HÀNH 33 - CHẶT ĐỨT THẤT KIẾT SỬ & NGŨ TRIỀN CÁI
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Thời gian: 1998
(Tiếp theo Pháp hành 32)
(0:00) Đó cho nên trên cái bước đường tu tập, về cái vấn đề người mới tu, sống trong các đối tượng thì chúng ta luôn luôn phải dùng cái đôi mắt, cái đôi mắt và cái trí tuệ của chúng ta phải sống bằng nhân quả, bằng thiện ác, chứ không nên sống bằng cái đúng sai phải trái.
Với cái tâm dục của mình là cái gì của mình cũng là đúng hết, còn cái gì của người khác là sai à! Cho nên do đó chúng ta làm sao biết cái sai, cái đúng mà đúng được! Cho nên vì vậy mà chúng ta thấy nhân quả.
Cái gì ở đó là khổ là cái quả, mà cái gì mà ở đó mà đang bị người ta chửi mắng đó là cái nhân. Cái người mà bị chửi mắng là cái người đó đang thọ quả, còn cái người mà đang khởi niệm chửi mắng người ta đó là cái nhân. Chúng ta thấy cái nhân quả nó tiếp diễn liên tục. Vì vậy mà chúng ta phải sống trong cái nhân quả, thì trong cái cảnh nghịch nào chúng ta cũng thoát ra hết.
(00:40) Người ta đuổi nhà mình, người ta không cho mình ở, tức là có cái nhân quả đó, chúng ta vui vẻ, mà vui vẻ thì tức là người ta không không đuổi mình nữa. Còn mình giận hờn tức bực, mình làm thế này thế khác, họ còn tìm cách họ đuổi mình đi nữa. Cho nên vì vậy mà mình vui vẻ, đi thì đi, có gì đâu! Tôi vẫn thấy rằng ở đời thân này còn giữ không được huống hồ là giữ cái nhà làm gì!
Do đó cuối cùng thì người ta mời mình ở mà mình cũng còn không muốn ở, ở sợ nó phiền toái. Đó thì, khi mà mình bước chân ra khỏi cổng mình đi, mình vui vẻ mình bước chân ra khỏi cổng, thì có người khác chạy lại: “Chị hãy đến nhà tui chị ở đi, tui có cái căn phòng rất là rộng rãi!”
Không ngờ từ mình ở trong cái xó bếp mà đi ra người ta cho mình một cái nhà rất là sang trọng mình ở, hẳn hòi đàng hoàng. Do cái nhân quả mà mình vui vẻ đó mà mình được cái phước đó.
Còn mình mà buồn giận ở trong lòng mình thì lại không nhà ở, mà lại còn không có, lại là còn đau khổ ở trong lòng nữa, thì nó vất vả, nó khổ sở, từ cái nhân quả này không trả thì nó lại chồng thêm cái nhân quả khác.
Còn bây giờ chúng ta vui vẻ, chúng ta biết rằng chúng ta đi ra thì chưa nghĩ rằng có cái người nào mà đón chúng ta vào một cái nơi nào ở đâu, chúng ta chưa có nghĩ điều đó đâu. Nhưng mà vì cái tâm chúng ta không có hờn giận, không có nghĩ cái người đó ác, thì lúc bấy giờ lại có một cái người khác trợ giúp cho chúng ta rất là an ổn.
Chúng ta đừng có nghĩ rằng cái nhân quả nó không có đâu, nó sẽ có và nó sẽ giúp chúng ta vượt qua những cái thử thách rất là gian nan khó khăn. Từ đó chúng ta mới thấy đạo Phật rất thực tế.
Vì giáo pháp của đạo Phật đều xây dựng ở trên nhân quả mà ra, cho nên lấy giới luật mà làm đầu, lấy giới luật làm thầy là do nhân quả đó, chớ không phải là cái gì khác hết.
Vì Đức Phật biết tự mình cứu lấy mình, cho nên “hãy thắp đuốc lên mà đi”, cho nên do cái chỗ tự thắp đuốc lên mà đi thì Đức Phật phải là rành nhân quả. Nếu mà không rành nhân quả thì không nói lời nói đó đâu.
Nếu mà có người nào mà cứu khổ mình, có một ông Phật nào hơn ông Phật Thích Ca mà độ mình, hay hoặc là có đức Phật Quan Âm mà mà cứu khổ mình, thì chắc chắn Đức Phật không dạy chúng ta thắp đuốc lên đi đâu.
Bây giờ chúng ta chỉ đến cái chỗ mà thờ ông Phật đó đó, mình kêu gọi, mình niệm riết ông Phật đó ông động lòng ông cứu mình, thì lúc bấy giờ mình cũng thoát khổ. Cho nên ông Phật không có dạy mình tự lực mà dạy mình tha lực.
Còn đằng này thì ông Phật thấy không có tha lực cứu gì mình được hết, mà chính những cái hành động thiện ác nhân quả, cho nên Đức Phật đã thấu suốt được cái nhân quả, cho nên Đức Phật đã thấy được cái này, cho nên dạy cái đạo Phật là đạo tự lực, cái đạo mà tự mình phải cứu lấy mình chứ không ai cứu mình được, cho nên dạy chúng ta.
Và chúng ta là những người đi theo đạo Phật, là những người gan dạ, những người có nghị lực, những người có kiên trì thì mới theo đạo Phật nổi.
Còn những người mà yếu đuối, những người mà nương tựa vào kẻ khác, thì nên đi vào các tôn giáo khác, tôn giáo mà có những cái đức Phật vĩ đại để độ cho chúng ta, có những cái đức vạn năng để cứu chúng ta, thì chúng ta nương vào những cái vị đó để an ủi tinh thần mình, chớ còn sự thật ra thì không bằng đạo Phật. Đạo Phật tự mình cứu được là được, mà không được thì mình phải chịu lấy.
Đó, như vậy là cái chỗ mà chúng ta đứng trước các cái thử thách và các khảo đảo thì chúng ta phải thấy nó bằng nhân quả.
Cho nên gặp nhân quả thì Thầy giảng nhiều. Bởi vì Thầy sẽ viết ra cái giáo trình học tập và tu tập về cái đạo đức nhân quả, cho nên nói về nhân quả thì Thầy nói hơi nhiều, vì trả lời cái câu này thì nó đúng cái chỗ mà Thầy đang nghĩ đến.
Cái con người ở trên thế gian này phải cần cái đạo đức đó, để nó quân bình được cái khoa học hiện giờ. Vì cái vật chất mà khoa học đã sản xuất ra, nó làm cho cái đời sống của người ta nó tiện nghi quá độ, cho nên từ đó cái ác pháp nó lại tăng cường.
Mà nếu mà không có cái đạo đức nhân quả nó quân bình lại, thì cái khoa học nó sẽ trở thành cái vũ khí giết người, để mà nó đạt được những cái tham vọng của nó, cho nên nó giết người ở trên thế gian này sẽ không còn.
Cho nên cái ước vọng của Thầy là ngày nào mà ngồi lại yên tịnh Thầy sẽ viết lại cái đạo đức nhân quả, cái đạo đức không làm khổ mình khổ người, để quân bình với cái khoa học hiện đại bây giờ. Đó là cái trọng trách và cái nhiệm vụ của Thầy phải làm.
(4:35) Bây giờ hỏi Thầy:
“Thầy dạy rằng hãy chặt đứt, rứt bỏ loài kiết sử độc ác, phá hết Ngũ Triền Cái như thế nào?”
Đáp: “Muốn chặt đứt Thất Kiết Sử và Ngũ Triền Cái thì nên tu tập Tứ Chánh Cần.”
Các con mà muốn mà cho cái tham, sân, si, mạn, nghi cho nó ly dứt, cho nó đoạn dứt, và cái Ngũ Triền Cái cho nó đoạn dứt, cái Thất Kiết Sử cho đoạn dứt, thì các con phải tu Tứ Chánh Cần.
Thì trong pháp Tứ Chánh Cần không phải là cái tên, xin nhắc lại, ở đây thì có một số người mới nghe thì tưởng là pháp Tứ Chánh Cần là tu pháp Tứ Chánh Cần. Sự thật ra cái danh từ tu pháp Tứ Chánh Cần, chớ nó có những cái pháp khác đặt trên Tứ Chánh Cần, mà Tứ Chánh Cần thì đặt ở trên Tứ Niệm Xứ mà tu tập. Tại sao mà đặt kỳ vậy?
Cho nên người mà đã học với Thầy thì họ thấy không kỳ, nhưng mà những người mới nghe thì lạ lùng. Tại sao pháp Tứ Niệm Xứ thì tu Tứ Niệm Xứ, Tứ Chánh Cần, Tứ Niệm Xứ rồi tu Tứ Niệm Xứ. Tại sao mà còn đặt Tứ Chánh Cần lên Tứ Niệm Xứ?
Bởi vì ngoài cái thân, thọ, tâm, pháp này thì không có cái chỗ nào đặt để mà tu cho nó thanh tịnh. Bởi vì thân, thọ, tâm, pháp - Tứ Niệm Xứ này là bốn cái chỗ nó đang ô nhiễm. Cho nên nó đang nhiễm những cái ác pháp, từ đó phải đặt cái Tứ Chánh Cần lên, để mà ngăn chặn ác pháp không cho các ác pháp sanh và sinh khởi thiện pháp, và tăng trưởng thiện pháp, đó là gọi Tứ Chánh Cần.
Như vậy Tứ Chánh Cần là cái tên ngăn chặn mà chưa có cái pháp ngăn chặn. Ở đây chúng ta biết tu làm sao mà Tứ Chánh Cần, ngăn chặn là làm sao? Mà đoạn dứt nó làm sao? Chúng ta chưa biết. Cho nên chúng ta có những cái pháp ngăn chặn và những cái pháp đoạn dứt cái ác pháp, để cho cái thiện pháp nó tăng trưởng, nó sanh khởi lên.
Đó thì các thầy mà đã học rồi thì biết rất rõ Tứ Chánh Cần, còn các thầy mà chưa học thì nghe đến đây không biết tu Tứ Chánh Cần như thế nào, thì Thầy xin nhắc sơ lại để cho biết cách thức tu Tứ Chánh Cần.
“Muốn ngăn chặn các ác pháp…”
Nghĩa là Đức Phật dạy mà, các ác pháp chưa sanh không cho sanh, thì cách thức không cho sanh thì phải tu cái pháp nào? Nhưng Phật không nói.
Nhưng mà cái người mà tu theo đạo Phật thì người ta biết được các pháp đó là ngăn chặn được cái ác pháp không có cho sanh, như vậy là chúng ta tu cái pháp nào mà nó ngăn chặn không sanh? Vì vậy bây giờ chúng ta phải nghĩ ngay rằng cái ác pháp là cái pháp nào ác mà cái pháp nào thiện nè.
(7:07) Thì trong Thập Thiện thì nó có mười cái điều thiện, thì chắc nói về Thập Thiện thì ai cũng biết. Mà ngược lại cái Thập Thiện đó là thập ác. Phải không? Chớ không phải là cái thiện ở ngoài mà đem vào cái chỗ đó được, đây là thiện của Tứ Chánh Cần mà! Cho nên cái Thập thiện và cái thập ác là nó ở chỗ này.
Cho nên trong Thập thiện thì chúng ta nhớ, nếu mà không tham, không sân, không si là thiện, mà có tham, có sân si là ác chớ gì? Vậy thì cái pháp nào mà có tham, sân, si là cái pháp đó ác. Đây Thầy nói thuộc về cái ý có ba cái ác. còn những cái ác của thân, cái ác của khẩu thì thầy không nói nhưng mà nó cũng sẽ nằm trong đó. Đó thì quý thầy thấy rất rõ.
Cho nên trên cái bước đường tu tập thì quý thầy thấy cái Tứ Chánh Cần chúng ta phải dùng cái định nào?
Bây giờ cái Định Chánh Niệm Tỉnh Giác nè, chúng ta đi kinh hành biết chúng ta đi kinh hành nè, thì ác pháp có xen vô trong đầu của quý thầy không? Có khởi niệm thương, niệm ghét trong đó không?
Niệm thương, niệm ghét đó là tham chứ gì, tham ái chứ gì, nó làm khổ cho các vị tức là ác chứ gì? Cho nên từ đó nó không xen vô được. Cho nên mình đi mình biết mình đi mà, còn có cái tạp niệm thì nó chưa phải là tỉnh giác. Đó là cái pháp ngăn chặn không có cho ác pháp sanh.
Đến cái pháp Định Niệm Hơi Thở nè. Các thầy ngồi lại nè, ngồi xếp bằng hay hoặc ngồi trên ghế nè, hít thở “hơi thở ra biết ra, hơi thở vô biết vô”, mà khoảng một phút thì nó không ác pháp thì chúng ta đã thành tựu được một phút không ác pháp, ngăn chặn không ác pháp.
Bây giờ lỡ nó có sanh ra một cái ác pháp nè, thì chúng ta mới quán xét cái ác pháp đó, cái lòng thương chúng ta nhớ cha mẹ mình, ngồi đây tu hành mà nhớ cha mẹ hay nhớ anh em mình nè, thì mới đem mổ xẻ ra, mới thấy đó là cái nhân quả vay nợ nhau.
Cho nên trong cái tiền kiếp nó đã gieo nhau, cho nên cái đời nay mới sanh ra chung cùng cha mẹ, mới có anh em như thế này, mới có cha mẹ như thế này, cho nên đó là thuộc về nhân quả. Từ đó chúng ta mới hiểu rằng nhân quả, cho nên chúng ta xả chúng ta không còn thương ghét nữa.
Cho nên chúng ta không còn thương nữa, không còn nhớ nữa, phải lo cứu mình đi! Do đó, từ đó chúng ta đoạn dứt cái ác pháp đó, thành ra cái niệm đó nó không còn có nữa.
Vì vậy cho nên chúng ta luôn luôn lúc nào chúng ta cũng ở trong cái chỗ mà không tham, không sân, không si, tức là cái chỗ mà cái tâm thanh thản an lạc, nó không có niệm.
Nhưng mà bây giờ có một người bệnh đau, có một người đang giãy chết chúng ta thấy, hay hoặc có người đang chết đuối thì chúng ta phải khởi cái niệm, bây giờ phải xuống cứu người đó chớ, để vớt người đó lên chớ! Thì như vậy chúng ta đã có niệm rồi chớ gì, nhưng mà niệm thiện mà, niệm cứu người mà, làm sao chúng ta diệt?
Cho nên chúng ta nhảy xuống nước, chúng ta vớt người đó lên hẳn hòi đàng hoàng, đó là cái niệm thiện. Chúng ta đâu có diệt nó, chúng ta tăng trưởng cái chuyện tốt. Mà cái niệm thiện này nó không phải nằm ở trong thập ác, nó không có nằm ở trong Thập Thiện, mà nó nằm ở trong Tứ Vô Lượng Tâm: Từ, Bi, Hỉ, Xả.
Trước cái cảnh khổ của người khác mình phải sanh tâm Từ chớ, tâm Bi chớ! Cho nên mình phải ngay đó mình tu Tứ Vô Lượng Tâm chớ! Cho nên nó đâu phải là nghịch trong các pháp ác đâu mà chúng ta sợ nó mà ngăn! Cho nên chúng ta tăng trưởng các pháp thiện, mà trong đó có thiện của Tứ Vô Lượng Tâm.
(9:54) Nên chúng ta phải hiểu được pháp thiện và pháp ác, cái chỗ nào thiện, ác chỗ nào. Chớ không phải là hà lốn cái chỗ nào cũng thiện hết.
Bây giờ nghe nó rằng tăng trưởng các pháp thiện, thì chúng ta cứ gọi Phật tử đồng bào này kia, đem tiền đem bạc nhau rồi dẫn nhau đi lại cái chỗ nào mà chết chìm, bị thiên tai hỏa hoạn, cứu trợ họ gọi là thiện, mà làm nhiều đó gọi là tăng trưởng thiện, cái đó là làm tầm bậy, nó không đúng cách.
Nhân quả của người ta chớ đâu phải, để cho người ta thọ cái nhân quả đó, người ta đã từng đốt nhà họ thì bây giờ lửa cháy nhà họ, họ phải chịu cái nhân quả đó chớ! Sao mình lại làm cái điều đó?
Cho nên ở đây chúng ta phải nhìn bằng cái đôi mắt nhân quả, cho nên lòng chúng ta không có dao động trước những cái đau khổ tầm bậy, nó không có đúng cách. Thấy rõ nhân quả thì chúng ta biết, chúng ta không có dao động trước cái gì hết.
Đó thì như vậy là chúng ta tu Tứ Chánh Cần. Mà Tứ Chánh Cần nó sẽ diệt, nó sẽ ly được Thất Kiết Sử và Ngũ Triền Cái.
(10:50) Hỏi: “Làm thế nào để dùng pháp hướng xả ly mười tám loại tưởng. Mười tám loại tưởng này là gì? Xin Thầy chỉ dạy!”
Ở đây chúng ta phải biết rằng khi mà cái tâm của chúng ta nó đã ở trong cái định của Nhị Thiền, tức là một cái trạng thái yên lặng, nó không có niệm, nó không có Tầm Tứ mà nó phải yên lặng. Khi nó ở yên lặng được rồi thì nó có những cái tưởng, cái hỷ tưởng nó xảy ra.
Cho nên lúc bấy giờ nó nghe cái trạng thái khinh an đi, nó thích, nó làm cho chúng ta thích ở trong cái trạng thái đó, cho nên chúng ta muốn ly nó ra thì chúng ta phải bám chặt và hướng, thường hướng tâm, thường nhắc: “Cái khinh an của xúc tưởng hỷ lạc này, phải ra khỏi đây! Không được ở đây!”
Chúng ta thường nhắc, mà thường nhắc như vậy nó đã làm động nó, cho nên vì vậy mà cái trạng thái khinh an nó sẽ mất, nó không còn có nữa. Cho nên gọi là ly hỷ mà trú xả, trú ở trong cái chỗ cái niệm xả của mình đó, làm cho nó mất cái trạng thái đó đi.
Rồi bây giờ nó xảy ra cái ánh sáng hào quang đi, nó ngồi đây nó sáng nhà, sáng cửa. Cho nên bây giờ mình ngồi mình thấy hào quang, do đó cái tâm của mình nó tập trung ở trong cái ánh sáng đó, cái sắc tưởng đó. Cho nên do vì vậy đó mà mình bị cái sắc tưởng đó, cái tâm của mình nó lạc đi, vì vậy mình phải ly cái hỷ tưởng này đi.
Người ta thấy cái hào quang là người ta mừng rồi, nay tu sao có ánh sáng rồi, chắc có hào quang sáng rồi! Vì vậy cho nên mình mừng, mình nổi mừng đó. Nhưng mà cái người tu biết đây là cái loại tưởng rồi, cho nên vì vậy mà người ta trú ngay ở trên cái hơi thở, người ta nương vào cái hơi thở, chúng ta xả nó đi, chúng ta nhắc: “Cái ánh sáng này là cái loại tưởng, hãy đi đi! Không được ở lại đây, chỗ này không phải là chỗ tưởng xen vô!”
Và cứ nhắc như vậy. Nhắc như vậy tức là cái tâm chúng ta nhắc là cái trạng thái của hào quang đó, nó không còn làm cho cái tâm chúng ta dính vào đó nữa. Cho nên gọi là ly. Hiểu chưa?
Còn: “Mười tám cái loại tưởng này là gì? Xin Thầy chỉ dạy!”. Ở đây Thầy chỉ nhắc tóm lược lại cho nó biết thôi chớ không có kể dài dòng, nó mất thì giờ, bởi vì gần bốn giờ rồi, còn có năm phút nữa.
“Muốn xả ly mười tám loại tưởng này thì con nên dùng pháp hướng.”
Thầy đáp đó. Dùng cái pháp hướng thì nó, mình nương vào pháp hướng đó thì tức là mình sẽ xả nó.
Mười tám loại hỷ này Thầy đã dạy rồi, nhưng bây giờ Thầy xin kể lại sơ là để cho thấy, là có sáu loại tưởng thức, sáu loại tưởng trần và sáu loại tưởng thông. Cộng lại nó là mười tám loại tưởng. Thầy nói vắn tắt vậy, rồi bắt đầu từ đó chúng ta mới tìm ra cái sáu loại tưởng thức như thế nào mà sáu loại tưởng trần như thế nào, mà sáu loại tưởng thông như thế nào.
(13:23) Bây giờ tiếp tục.
Hỏi: “Đạo Phật là đạo tự lực không cần tha lực, nhưng có người nói tu theo đạo Phật mà không tin thế giới siêu hình là không được. Có vị thầy bảo tu theo Phật phải tin Trời, tin thế giới siêu hình. Vậy Trời là ai? Thế giới siêu hình ở đâu?
Trời có phải là Ngọc Hoàng Thượng Đế, Chúa Giê Su? Nếu không tin, các vị này bảo niềm tin trong đạo Phật sẽ kém khuyết.”
Nghĩa là mình không tin các vị đó thì niềm tin của mình đối với Phật cũng vẫn khiếm khuyết như thường.
“Những vị thầy này quan niệm như vậy có đúng không?”
Thật ra thì Viên Minh hỏi Thầy cái điều này thì Thầy thấy cũng rất ngại, vì nói ra thì cũng đụng chạm, nhưng mà gặp Thầy thì Thầy nói thẳng thôi. Nhưng mà biết rằng mình nói là cũng đụng chạm họ đó.
Đáp: “Đạo Phật là một tôn giáo ra đời nhắm vào sự thật của kiếp con người để giải quyết bằng sức tự lực và trí tuệ của mình, không nhờ cậy vào ai, tự thắp đuốc lên mà đi. Vì Đức Phật đã biết con người khổ vì chính mình tạo ra mình khổ, chớ không phải ai làm cho mình khổ.
Do thế Đức Phật không nói quanh co mà chỉ thẳng cách thức tu tập làm chủ sự đau khổ, chấm dứt đau khổ, không cần cầu cạnh ai hết, nên đạo Phật không xây dựng một thế giới siêu hình tưởng tượng, một đấng Ngọc Hoàng trừu tượng, một đấng cứu thế vạn năng, một Phật Tánh thường lạc ngã tịnh siêu hình.
Những vị thầy này quan niệm như vậy là bị ảnh hưởng quá của các tôn giáo hữu thần.”
Nghĩa là những cái quan niệm và tư tưởng này đều là bị ảnh hưởng của các tôn giáo hữu thần. Còn đạo Phật xem như là cái tôn giáo vô thần, không có một cái đấng vạn năng nào trên cái đầu chúng ta hết, chỉ có ta là cứu chúng ta chớ không ai hết.
Cho nên Đức Phật nói:
“Thiên thượng thiên hạ.
Duy ngã độc tôn.
Nhất thiết thế gian.
Sinh lão bệnh tử.”
Bốn câu kệ rất rõ ràng.
Cho nên trên đời này không ai cứu ta mà chỉ có ta mới cứu ta, cho nên ta vượt qua được bốn cái sự đau khổ này.
“Những quan niệm như vậy không đúng sự thật, mơ hồ, trừu tượng, ảo giác sống trong thế giới tưởng. Những vị thầy này không còn sức tự lực, mất hết nghị lực, tinh thần yếu đuối, bạc nhược.”
Những người mà nêu lên những cái thế giới siêu hình như vậy là những người không có một cái nghị lực, không có cái sức tự lực, nó mất hết các nghị lực, tinh thần yếu đuối mới cầu cạnh những cái siêu hình đó.
Còn chúng ta là những người có đủ nghị lực, chúng ta mặc dù thân thể ốm yếu bệnh tật, chứ cái tinh thần chúng ta rất vững chắc, không có sợ hãi. Cho nên từ cái chỗ sợ hãi chúng ta không sợ hãi, chúng ta đối phó trước cái sự đau khổ, sự chết chóc của chúng ta, chúng ta gan dạ, không có bao giờ hề hấn.
Bởi vậy khi mà sắp sửa mà chúng ta đạt được đạo không phải là chuyện dễ đâu. Chúng ta phải biết rõ, như Thầy đã nói, nó có cái cảm thọ và cái hành thọ.
Cái cảm thọ là do cái thân chúng ta có bệnh tật nó sanh ra cái đau khổ gọi là cảm thọ. Còn cái hành thọ là do cái thân chúng ta không bệnh đau, mà nay nó đau nhức chỗ này, mai đau nhức chỗ kia tức là cơ thể đang thay đổi.
Mà trong khi cái cơ thể mà chúng ta tu tập, nó phải thay đổi, để cho nó, khi mình dừng hơi thở mà nó không chết, nó phải có sự quân bình của nó, chớ không phải là đơn sơ như cái thân mà của các con mà chưa có tu tập, thì các con ngưng thở là các con chết luôn. Cho nên muốn mà ngưng thở thì chúng ta phải rèn luyện, tu tập trong những cái đạo lực của chúng ta, do đó nó bắt đầu nó thay đổi.
Nó thay đổi thì cái thân chúng ta không phải là bệnh đau, nhưng mà nó phải có sự thay đổi, nó làm như là đau nhức chỗ này, đau nhức chỗ kia, có khi ho, có khi nó khạc ra máu, rồi có khi thì nó tiêu chảy, có khi thì nó đau bụng, nó đủ cách, có khi thì nó bón, nó bức đủ cách hết, nhưng mà rồi nó sẽ hết.
Mà cái người mà nhát gan, thì lúc bấy giờ đó, chạy đi bác sĩ thì cái người đó tu không tới đâu hết. Cho nên xem như chúng ta đã chết rồi thì chúng ta mới chiến thắng được cái hành thọ.
Còn cái cảm thọ thì cái đó là khi có bệnh thân rồi, cái bệnh thật của nó từ đó nó sanh ra đau đớn thì chúng ta đi trị bệnh. Còn cái cảm thọ thì nhất định là lấy cái phương pháp mà tu hành chúng ta chiến thắng nó thôi.
Cho nên ở đây Phật dạy rất rõ mà, cái cảm thọ và cái hành thọ rất rõ chớ đâu phải là không dạy, nhưng mà tại vì chúng ta đọc kinh sách mà chúng ta không hiểu rồi chúng ta lướt qua, cho nên chúng ta không thấy cái đặc biệt của đạo Phật.
Cho nên những cái người mà quan niệm cái thế giới siêu hình là những người yếu đuối, những người yếm thế, những người cầu cạnh, những người mà không còn tự cứu lấy mình được. Những người đó là những người không có còn đủ sức theo đạo Phật nữa.
Cho nên những người đó không phải là những cái bậc Thánh đâu, phàm phu.
(18:18) Hỏi: “Phá tâm sợ hãi con phải tu pháp hướng như thế nào?”
Đáp: “Muốn phá tâm sợ hãi thì mình phải biết rõ sợ hãi cái gì?”
Bây giờ mình sợ cái gì? Mình sợ rắn nè hay hoặc là sợ chuột nè, sợ con vật gì hay hoặc là sợ cái gì? Thì khi đó mình mới đặt cái pháp hướng đó đúng cái chỗ cái tâm sợ đó, mình mới hướng tâm mình nhắc nó, rồi trong khi đó đó, mình mới thử thách.
Thí dụ như mình sợ rắn, thấy con rắn là mình quá sợ, không dám đụng tới nó, không dám lại gần. Thì bắt đầu để một thời gian mình tu tập, mình hướng tâm: “Không có sợ rắn nữa, từ đây cái tâm không có sợ rắn nữa!” nhắc nó.
Như vậy là tu trong một tháng, hai tháng, ba tháng, sau đó mình đi kiếm rắn mình rờ thử coi mình có sợ nó không? Nếu mà sợ thì mình hướng nữa, mình nhắc nữa: “Đừng có sợ hãi, con rắn nó cắn chết bỏ! Cái thân này do cái chỗ mình sợ con rắn cắn mình chết bỏ cái thân, là mình tiếc cái thân, đây còn chấp cái ngã! Vì vậy mà rờ đại thử coi, nó có cắn chết bỏ!”
Do đó mình làm gan mình rờ, cái bắt đầu nó hết sợ. Từ sau này mà rắn mà quấn cùng mình cũng không sợ nữa chớ đừng nói chuyện rờ nó. Đó là cách thức mà chúng ta…
Bây giờ mình sợ ma, thì mình ra gò mả. đồng mả mình ở thử coi một vài ngày coi có ma nào mà lại ăn thịt mình không? Thật sự ra nhân quả làm sao có con ma nào? Hoặc là mình nói sợ cọp, thì vô rừng ở một mình mình coi cọp nó có ăn mình không? Nếu nó có ăn thì chết bỏ đi! Thì do đó nó hết sợ hãi.
Cho nên bây giờ từ lâu tới giờ, con ở sống trong nhà có nhiều người, con không sợ hãi. Bây giờ mình mình ở, sống ở một cái thất riêng thấy vắng vẻ, nó hoang vu quá, nó sợ quá. Do đó: “Chết bỏ! Nhất định cho mày chết bỏ đi, tao chẳng có sợ đâu! Tao nhốt mày ở đây cho ma nó vô nó ăn mày cho rồi!”
Thì do đó mình nhắc cái tâm mình, cái nghị lực của mình nó kiên cường lên nó không sợ nữa, chừng đó mình ở một mình ở trong rừng sâu nó không sợ nào hết.
Đó cho nên do cái sự cương quyết, cái sự mạnh mẽ của cái người mà tự lực, thì bắt đầu không có còn sợ hãi nữa. Đó vì vậy chúng ta vừa đặt pháp, rồi vừa phải trực tiếp sống ở trong cái cảnh đó thì nó phá luôn cả cái sợ hãi.
Thầy nói các con cứ thực tập đi coi thử coi! Một mình Thầy ở trên Hòn Sơn, Thầy ở trong cái hang Hòn Sơn mà lên cái đỉnh Ma Thiên Lãnh trên đỉnh Hòn Sơn, mới đầu thì nó cũng sợ chớ đâu phải không sợ, nhưng mà cái tâm gan dạ mình chết bỏ nhất định: “Đã đi tu rồi còn sợ chết cái gì? Ham sống sao? Ham sống đi tu làm gì? Đi ra đời đi, đừng có ở đây tu! Mà đã tu thì không có sợ gì hết! Bây giờ cọp ăn cũng không sợ, cái gì rắn cắn cắn chết bỏ, nhất định không sợ đau, sợ đớn!”
Do đó bây giờ ngủ một mình mình cứ nghe nó an giấc, ngủ lại còn ngon, một mình là còn ngủ ngon nữa, còn không sợ nữa, mà còn thích thú ở một mình nữa! Từ đó cái nó hết sợ hãi rồi bắt đầu ở rừng, ở núi, ở gì cũng được hết.
Đó mình phải có sự cân nhắc, mình phải có sự hướng tâm mình nhắc cái tâm của mình, nó sẽ hết sợ.
Đồng thời thì mình phải dùng những cái pháp tu tập ở trên cái Tứ Niệm Xứ, rồi mình sẽ quán và khắc phục cái tâm sợ hãi của mình thì nó sẽ hết.
(21:00) Hỏi: “Tu tập tụ điểm là tập trung sáu căn nơi chỗ chóp mũi, con hành như vậy đúng không? Con chỉ tu năm phút cảm thấy choáng váng, xin Thầy cho con hiểu!”
Con tu cái tụ điểm như vậy là con chỉ nhìn chăm chăm vào cái chóp mũi chớ gì? Cho nên năm phút là con choáng váng là phải! Mà cái hơi thở đó đâu phải là cái hơi thở mà con thở đây là cái hơi thở bình thường của con, mà con tu như vậy, nó đâu có đúng cái chỗ mà tạo thành cái tụ điểm đâu?
Cho nên cái này phải có một người kinh nghiệm người ta dạy cho mình tu tập cái tụ điểm, chớ còn không khéo thì mình tu như vậy nó chưa phải là cái tụ điểm đâu. Cho nên muốn tập cái tụ điểm thì phải dùng cái hơi thở chậm, chớ không phải là cái hơi thở bình thường của mình đâu.
“Con tập tụ điểm như vậy là sai, chỉ khi nào ổn định hơi thở rồi mới tu tập tụ điểm.”
Nghĩa là cái hơi thở con như bình thường nè, con tập luyện cái hơi thở bình thường thôi. Lúc nào con cũng thở được bình thường rồi, thì lúc bấy giờ người ta mới dạy con cái phương pháp tập tụ điểm.
Tập tụ điểm thì con sẽ thở cái hơi thở chậm.
“Phương pháp tu tập tụ điểm chỉ dùng hơi thở chậm và nhẹ, đặt tụ điểm tại nhân trung.”
Chớ không phải chóp mũi này đâu.
“Nương vào cái hơi thở chậm nhẹ từ một hơi thở đến mười hơi thở.”
Nghĩa là cái sức thở chậm nhẹ đó con chỉ thở từ một hơi thở đến hai hơi thở rồi nghỉ. Hoặc là cái sức con nhiều hơn thì con thở được ba hơi, nhiều hơn nữa con thở được năm hơi, mà cái sức con được mười hơi thì trong lúc đó con tu tới mười hơi rồi con nghỉ chứ con không được tu nhiều nữa.
Nghĩa là cái sức mà tập tụ điểm thì tu có mười hơi thở thôi, không có được tu mà tới một giờ, hai giờ hay hoặc ba mươi phút hay là hai mươi phút, mà chỉ tập ở trong cái thời gian từ một đến mười hơi thở rồi xả nghỉ, là cái sức người đó là nhiều.
Cho nên bây giờ chúng ta chỉ nương vào đó mà chúng ta tập trung, chúng ta thở chậm chậm chậm chậm thì tức chúng ta đặt cái tụ điểm đó, thì cái sức mà hơi thở chậm chậm nó làm cho cái tâm chúng ta theo cái hơi thở đó mà gom. Vì chúng ta tưởng như là từ cái chỗ tụ điểm đó nó xuất phát cái hơi thở ra hay hoặc là hơi thở hít vô từ đó.
Đó thì, cái đó là cái chỗ mà tu tập cái tụ điểm, để sau này chúng ta có cái chỗ mà chúng ta gom sáu căn chúng ta nằm đó mà chúng ta nhập các định, mà Thầy vừa nói đó là cái điểm tựa để chúng ta bẩy vũ trụ đó. Đó là cái chỗ mà sau này chúng ta dùng nó để mà chúng ta bẩy vũ trụ.
Ở đó mà chúng ta sai cái bàn này nó sanh ra cái bàn, chúng ta sai cái bàn này nó sanh ra một ngàn cái bàn ra, nó sanh ra một ngàn cái bàn. Đến đó là nằm ở chỗ đó mà chúng ta sai khiến, đó là cái điểm tựa mà bẩy vũ trụ đó. Ở đây mà chúng ta nằm ở trên đó mà chúng ta rờ mặt trăng, mặt trời được, đó là cái điểm tựa đó.
Cho nên một cái nhà khoa học nói nếu mà ai cho tôi cái điểm tựa, tôi bẩy cái vũ trụ này. Thật sự ra thì cái người mà tu tập người ta có điểm tựa người ta bẩy được vũ trụ.
(23:46) Đó thì bây giờ về cái phần mà trả lời này nó đã hết về cái phần của cô Viên Minh. Còn cái phần kế nữa là Thầy sẽ trả lời tiếp, vì có bữa hôm nay nữa là chúng ta sẽ chấm dứt cái buổi học các pháp hành.
Ngày mai thì các con sẽ, người thì về nơi này, đến nơi khác để mà tu tập. Thầy sẽ, trên cái bước đường mà Thầy sẽ đi tìm những cái nơi yên ổn mà tu tập cho các con, thì Thầy sẽ ghé thăm các con, xem coi cái nơi mà các con tu như thế nào, tốt hay xấu, Thầy góp ý thêm và Thầy gặp Phật tử ở đó, Thầy gợi ý thêm để giúp đỡ cho các con yên ổn mà tu tập.
Đó là trên cái bước đường mà sắp sửa Thầy đi du hành để mà trợ giúp cho các con từ cái địa phương này đến cái địa phương khác.
Vì theo Thầy thiết nghĩ, trong cái giai đoạn chúng ta mà tập trung lại một chỗ tu tập mà có Thầy hướng dẫn thì điều đó là điều tốt nhất.
Nhưng vì tập trung lại thì giấy tờ mà xin phép tắc thì rất phiền phức, và đồng thời cũng làm cái sự lo lắng cho nhà nước, người ta thấy mình tập trung không biết là mình làm cái gì, sợ mình làm chánh trị hoặc là làm rối trật tự, an ninh, trong một cái nước mà mới độc lập thì người ta rất lo lắng.
Cho nên mình cũng thông cảm trên cái nỗi đó. Vì vậy mình có thể tìm những cái địa điểm nó phù hợp với cái địa phương của mình, mình ở đó rồi Thầy thỉnh thoảng Thầy đến hướng dẫn. Đây là cái biện pháp thứ nhất.
Còn cái biện pháp thứ hai nó thuận tiện nhất, là Thầy sẽ tìm một cái nơi, rồi chúng ta sẽ tập trung về nhau, để rồi có Thầy ở tại đó mà Thầy hướng dẫn các con tu tập, thì nó rất tiện. Còn nó chưa có được thì chúng ta tạm thời chúng ta mỗi người một địa phương chúng ta tu, thỉnh thoảng Thầy đến thì các con cũng đỡ mất tiền hơn là các con phải đi đến Thầy.
Vì đến Thầy năm ba người thì nó phải tốn tiền nhiều hơn, còn Thầy đến các con thì chỉ có một mình Thầy cho nên không tốn tiền. Đó là chúng ta phải tiết kiệm cái mồ hôi, nước mắt của Phật tử. Chứ còn sự thật chúng ta tu là chúng ta đâu có làm ra tiền, mỗi lần đi thì Phật tử phải cúng dường cho mình để mà mình đi, cho nên những cái điều này là cái khó.
Vì vậy mà hôm nay thì con sẽ thấy rằng những cái địa phương mà các con ở, thì Thầy lần lượt Thầy sẽ đến Thầy thăm. và Thầy tìm những cái địa điểm ở địa phương. Khi mà các con ở cái địa phương đó, các con thấy cái địa điểm này tốt, các con hướng dẫn Thầy đến xem.
Xem rồi Thầy quan sát cái địa điểm đó, đúng cái chỗ mà các con sẽ tu tập để đến khi chứng đạo, còn cái nơi này sẽ không được chứng đạo thì Thầy xin bỏ cái này, không nên chọn cái điểm này mà hãy kiếm chỗ khác.
Và cứ như vậy Thầy sẽ tìm cho các con những cái nơi mà tu tập tốt, để các con được yên ổn suốt cái thời gian một năm cho đến ba năm mà thực hiện được cái sự giải thoát này.
Bởi vì Thầy thấy đạo Phật không phải khó đâu, ba năm đó là cao lắm rồi đó. Nhưng mà vì tu chưa đúng, rồi cái hoàn cảnh nó chưa thuận tiện, cho nên chúng ta bị phá độc cư làm tâm chúng ta động mà chúng ta không thực hiện được những cái tu tập của chúng ta.
(26:44) Chớ còn sự thật ra tu mà tu đúng thì chúng ta chỉ trong vòng sáu tháng, bảy tháng, cao lắm là một năm là chúng ta đã hoàn thành. Ba tháng đầu thì chúng ta cố gắng ly dục ly bất thiện pháp, tức là chúng ta tu Tứ Chánh Cần, chúng ta ngăn chặn ác pháp đúng cách.
Tuần tự chúng ta tu theo cái đặc tướng, cái khả năng của mình, rồi từ đó mình đi lên. Đi lên rồi mình xả, khi đó suốt một ngày, một đêm mà chúng ta không còn có một cái niệm nào xen vô và tâm toàn thiện và hỷ lạc sanh ra thì chúng ta biết là ly hỷ trú xả được rồi.
Do đó thì ly dục ly ác pháp được rồi, do đó thì chúng ta tiến tới cái pháp hướng để mà nhập cái Nhị Thiền rồi Tam Thiền rồi Tứ Thiền, rồi hướng tâm để tu tập Tứ Như Ý Túc, rồi Tam Minh là chúng ta hoàn tất được cái con đường tu của chúng ta, đúng như là lời Phật dạy.
Và khi mà chúng ta tu được rồi thì tức là chúng ta đã làm sống lại cái đạo Phật, làm cho cái đạo Phật nó tốt lên, nó không còn người ta chê bai Phật pháp là Tiểu Thừa, là ngoại đạo, là Phàm Phu Thiền. Những cái mà người ta đã khinh chê Phật giáo thì bây giờ mình đã làm sống lại hết, do cái sự công phu tu tập của các con mà làm nó sống lại.
Bây giờ có người nào mà về đó, thì bây giờ đã bốn giờ mấy rồi. Ai có về thì các con sửa soạn về con. Rồi hôm nào sẽ gặp Thầy. Đó, con có thể sửa soạn về đi con. Rồi khi nào có lên thì sẽ gặp Thầy, Thầy sẽ tiếp để mà bàn thêm một cái vấn đề.
(28:13) Bây giờ Thầy xin tiếp cái phần này, về cái phần thưa hỏi. Bởi vì dù sao đi nữa Thầy cũng rất lo cho các con, vì các con đã theo Thầy tu tập thì tức là Thầy phải tìm cách để mà dẫn dắt các con đi đến nơi đến chốn.
Hỏi: “Kính bạch Thầy! Phá âm thanh như thế nào?”
Phá âm thanh, thì ở đây cái câu hỏi của cô Diệu Quang hỏi Thầy cách thức phá âm thanh như thế nào? Thì Thầy chỉ dạy.
Cách thức phá âm thanh nó không khó đâu, chúng ta chỉ dùng pháp hướng. Khi mà chúng ta đạt được cái trạng thái yên lặng, thì lúc bấy giờ chúng ta nương vào các hơi thở chậm và nhẹ. Thì lúc bấy giờ bám chặt tụ điểm nằm đó, rồi chúng ta cứ hướng tâm nhắc phá âm thanh, thì nó sẽ phá âm thanh.
“Ở trạng thái nào mới phá âm thanh?”
Thì Thầy hồi nãy Thầy đã nói đó, ở trạng thái yên lặng mới phá âm thanh.
“Nhập được định gì mới phá ân thanh?”
Nghĩa là nhập được cái định Nhị Thiền là phá âm thanh được.
Đó thì mấy câu hỏi này, để chúng ta thấy, nhập được định gì mà phá âm thanh? Tức là phải nhập được Nhị Thiền, tức là định Diệt Tầm Diệt Tứ đó thì chúng ta mới phá âm thanh. Mà định Diệt Tầm Diệt Tứ thì chúng ta ở trạng thái yên tịnh. Vì vậy cho nên ở trạng thái nào mới phá được âm thanh? Tức là trạng thái yên lặng.
“Rồi phá âm thanh bằng cách nào?”
Dùng pháp hướng mà phá âm thanh.
Đó là trả lời ngắn gọn và để chúng ta dễ hiểu, để chúng ta biết được cái trạng thái và cái định nào mà ở mức đó để phá âm thanh. Còn chúng ta chưa nhập được cái trạng thái Nhị Thiền, mà chúng ta vội phá âm thanh thì chẳng được.
Bởi vì khi mà cái người đó ngồi tu, còn có một vài vọng tưởng, tuy rằng một vài vọng tưởng nhưng mà trong một ngày có cái thời chúng ta tu không vọng tưởng, nhưng có thời chúng ta tu có vọng tưởng, thì chúng ta không được phá âm thanh, mà hãy diệt Tầm Tứ cho sạch.
Còn ngồi thời nào cũng có, chiều cũng ngồi, sáng cũng ngồi, tối khuya cũng ngồi, thời nào cũng có nhưng mà một vọng tưởng, hai vọng tưởng, trong ba mươi phút thì người này cũng chưa được phá âm thanh.
Mà nhiều khi có vọng tưởng như vậy, thì chúng ta nên tu cái gì? Thì chúng ta nên tu cái định Diệt Tầm mà giữ Tứ, tức là thường tác ý cho nó thật sự nó diệt hết Tầm, rồi sau đó mới phá cái Tứ đi để cho cái Tầm nó không có phát khởi ra được nữa.
Và đồng thời thì chúng ta phải xét thấy rằng khi mà cái Tầm mà nó còn hoài, nó không hết, thì chúng ta biết rằng ly dục ly ác pháp chưa trọn vẹn, vì tâm chúng ta còn đang lo ra, cho nên nó hay sanh cái vọng tưởng.
Cho nên chúng ta phải cố gắng diệt Tầm, diệt Tứ, tức là xa lìa những cái cảnh đời thế gian đi, dứt bỏ nó đi, đừng có đeo đẳng nó. Vì mai kia mốt nọ chúng ta chết rồi chúng ta cũng không ôm ấp gì được nó đâu. Chúng ta phải bỏ đi!
(30:55) “Kính bạch Thầy, Nhập định nào âm thanh vắng lặng?”
Ở đây thì cô Diệu Quang hỏi Thầy nhập định nào âm thanh vắng lặng, thì Thầy đã từng dạy rất nhiều rồi: vì nhập Tam thiền thì âm thanh vắng lặng.
“Lúc bấy giờ nhập Tam Thiền rồi có còn phá âm thanh hay không?”
Đây là hỏi để mà nhấn mạnh cho biết rõ, lúc bấy giờ nhập Tam Thiền mà còn có âm thanh nghe hay không? Nếu mà có âm thanh tức là chưa nhập Tam Thiền, mà không có âm thanh thì đó là nhập Tam Thiền.
(31:22) “Muốn nhập bốn loại định Vô Sắc tu như thế nào? Ở định nào mà tu tập được định Không Vô Biên Xứ?”
Đó bây giờ hỏi Thầy: muốn nhập được bốn cái loại định Vô Sắc thì phải tu như thế nào mà nhập được bốn cái loại định này? Ở cái định nào mà tu tập được cái Không Vô Biên Xứ?
Đây bây giờ Thầy, cái này Thầy đã giảng rất là rõ và rất kỹ rồi.
Bởi vì có hai cái lộ trình, một cái lộ trình mà từ cái người mới bắt đầu vô tu tập ức chế tâm của mình để cho hết vọng tưởng, thì cái người đó cũng sẽ đi vào trong bốn cái định Vô Sắc và nhập cái định Không Vô Biên Xứ rất dễ dàng. không khó.
Nhưng mà phải nói rằng nó không có cái cách thức tu tập để nhập bốn cái loại định này, nhưng mà chỉ kéo dài cái trạng thái diệt Tầm Tứ đó, để cho cái trạng thái của tưởng thức nó hoạt động, thì lần lượt nó dẫn chúng ta vào bốn cái định này.
Chớ không phải là chúng ta có cái cách thức để mà nhập nó, biết cách nhập nó. Nhưng mà nhờ chúng ta kéo dài cái trạng thái của ý thức không làm việc, ý thức ngưng hoạt động, nó không có còn vọng tưởng nữa, thì nó dẫn chúng ta vào bốn cái trạng thái này.
Cho nên khi mà dẫn vào thì chúng ta bị rơi rớt vào những cái vô ký, những cái ngoan không, những cái hôn tịch, những cái hôn trầm hay thùy miên. Chúng ta bị liên tiếp, liên tục những cái trạng thái đó.
Còn bây giờ đi qua một cái hướng khác, tức là chỗ ly dục ly ác pháp, cho nên ly dục ly ác pháp nhập Sơ Thiền. Từ cái chỗ Sơ Thiền chúng ta mới tịnh chỉ các hành, từ tịnh chỉ các hành đó chúng ta mới hướng tâm mà nhắc để mà nhập vô Không Vô Biên Xứ thì rất dễ dàng không còn khó khăn.
Đó là chúng ta có cái đường lối và cách thức chúng ta dùng pháp hướng mà chúng ta muốn nhập vào bốn cái định Vô Sắc này. Cách thức đó là có pháp hướng.
Còn ở bên kia, Thiền Đông Độ, thì nó không có pháp hướng. Cho nên nó ngồi ức chế cho hết vọng tưởng, rồi bắt đầu nó ngồi nó kéo dài, cho đến nó rơi vô ký ngoan không hoặc là hôn trầm, hôn tịch.
Còn bên đây chúng ta có cái pháp hướng chúng ta nhắc nên vì vậy không rơi vào các cái trạng thái vô ký này. Từ đó chúng ta muốn nhập cái định nào thì chúng ta nhắc cái tâm của mình ở trong cái định nấy, thì nó sẽ đạt được cái định đó liền.
Đó là muốn nhập bốn cái loại định đó.
(33:36) “Ở trạng thái nào tịnh chỉ được các hành?”
Nghĩa là ở trạng thái vắng lặng thì tịnh chỉ được các hành.
Các thầy, vắng lặng là gì? Là khi mà âm thanh không còn nghe nữa nó mới vắng lặng. Cho nên lúc bấy giờ là phải nhập Tam Thiền rồi, thì từ ở trạng thái Tam Thiền đó, thì chúng ta mới tịnh chỉ được các hành. Mà tịnh chỉ được các hành thì mới nhập được Tứ Thiền, mà chưa tịnh chỉ các hành thì đương nhiên là chúng ta đang ở trong Tam Thiền.
(34:13) “Ở trạng thái nào nhập Tứ Thiền, có thể nhập Không Vô Biên Xứ, Thức Vô Biên Xứ?”
Ở đây muốn hỏi Thầy, khi mà nhập trạng thái Tứ Thiền rồi, thì ở trạng thái Tứ thiền có thể nhập Không Vô Biên Xứ được không?
Thì cái trạng thái Tứ Thiền, thì nói về cái trạng thái Tứ Thiền là cái trạng thái nó đã diệt Tầm Tứ ở Nhị Thiền rồi.
Thì bắt đầu bây giờ khi mà rời khỏi cái trạng thái Tứ Thiền, chớ không phải ở trong trạng thái Tứ Thiền, mà rời khỏi cái trạng thái Tứ Thiền, bắt đầu mới ra cái hơi thở, nương vào hơi thở mà khéo tác ý về cái Không Vô Biên Xứ. Thì lúc bấy giờ chúng ta sẽ nhập Không Vô Biên Xứ rất dễ, ra lệnh nó là nó sẽ vào Không Vô Biên Xứ.
(34:59) “Định Bất Động Tâm là định gì?”
Định mà Bất Động Tâm là cái định gì? Cái tâm mà bất động thì nó là định gì?
Thì cái định Bất Động Tâm, đó là một cái tên, một cái tên của cái định Nhị (Sơ) Thiền. Cho nên cái định mà Bất Động Tâm, cái tâm ly dục ly ác pháp rồi thì người ta chửi mình thì mình có như cục đất, mình không có giận hờn ai nữa hết. Cho nên nó là cái định Bất Động Tâm, à không nó là cái định Sơ Thiền chứ không phải định Nhị Thiền.
Định Bất Động Tâm là cái định mà ly dục ly ác pháp đó, đó là một cái tên của cái định Sơ Thiền.
“Định Bất Động Thân là định gì?”
Ở đây hầu như các thầy mà nghe những cái tên này các thầy không biết nó là cái định gì nữa! Cho nên ở đây Thầy phải nói đó là một cái tên của cái định khác, để cho các thầy thấy.
Định Bất Động Thân là cái định gì? Định Bất Động Thân là cái định Tứ Thiền.
Đó, từ cái định Bất Động Tâm là cái Định Sơ Thiền, cho đến cái định mà Bất Động Thân là cái định Tứ Thiền, thì chúng ta phải trải qua hai cái loại thiền, tức là Nhị Thiền và Tam Thiền, nó mới tới cái Định Bất Động Thân.
Cho nên Bất Động Tâm là phải đạt trước mà Bất Động Thân thì phải đạt sau.
(36:07) “Diệt Thọ Tưởng Định - cách thức tu tập?”
Cách thức tu tập của Diệt Thọ Tưởng Định chỉ dùng cái pháp hướng là: “Tịnh chỉ! Ý hành ngưng hoạt động!”, có bao nhiêu đó thôi là đủ, là nhập Diệt Thọ Tưởng Định. Nghĩa là mình ra lệnh cho cái ý hành ngưng hoạt động mà thôi. Thì ý hành nó ngưng hoạt động tức là thọ tưởng nó ngưng, nó diệt.
Cách thức tu nó như vậy, chớ nó không có pháp gì mà tu, mà chỉ có cái hướng tâm nhắc nó: “Tịnh chỉ! Ý hành phải ngưng hoàn toàn!”, thì nó sẽ ngưng thì chúng ta nhập Diệt Thọ Tưởng Định.
(36:41) “Thưa Thầy! Có phải là nhập Tứ Thiền rồi mới nhập Không Vô Biên Xứ? Hay là xuất ra khỏi Tứ Thiền rồi mới nhập Không Vô Biên Xứ?”
Câu này là Thầy đã trả lời ở trên rồi. Là: “Thưa Thầy, có phải nhập Tứ Thiền rồi mới nhập Không Vô Biên Xứ?”
Không phải! Nghĩa là cái câu trước câu này thì chúng ta không cần phải nhập Tứ Thiền rồi mới là nhập Không Vô Biên Xứ. Chúng ta chỉ cần nhập Nhị Thiền, là ở trạng thái Nhị Thiền là chúng ta sẽ nhập được Không Vô Biên Xứ, chớ không phải cần nhập tới Tứ Thiền. Nhưng mà nhập tới Tứ Thiền mà nhập vô Không Vô Biên Xứ thì nhập rất dễ dàng không còn khó.
“Hay là ở trong định Tứ Thiền mà nhập Không Biên Xứ?”
Tức là Thầy cũng có trả lời rồi. Không phải ở trong cái định Tứ Thiền mới nhập Không Vô Biên Xứ, mà phải ra khỏi Tứ Thiền rồi mới nhập Không Vô Biên Xứ.
(37:35) “Các loại thiền định của đạo Phật thì thiền định nào quan trọng nhất?”
Đây là cái vấn đề quan trọng đây, cái câu này là cái câu rất quan trọng. Còn mấy câu kia thì nó không quan trọng, nó lặp đi lặp lại, nhưng mà nó chỉ thay đổi cái chữ chớ nó không có quan trọng. Nhưng mà cái câu hỏi này nó mới quan trọng.
Đây là những cái lời hỏi mà cô Diệu Quang hỏi, Thầy ghi nhanh, để rồi khi mà hỏi thì ghi lại rất nhanh cho nên để mà trả lời, chớ còn không phải là cô tự mà ngồi viết ra những câu hỏi này, mà hỏi ngay Thầy đương nói chuyện hỏi, cho nên cô thường có lặp đi lặp lại những cái câu hỏi.
Nhưng mà cái chữ nó có sự thay đổi, nó cũng làm cho chúng ta sáng ra, sáng ra được cái chỗ mà nhiều khi chúng ta bị lầm lạc qua những cái từ, cho nên làm cho chúng ta thấy rõ được cái chỗ mà nhập cái Không Vô Biên Xứ từ ở Tứ Thiền hay Nhị Thiền.
Còn cái câu này rất là quan trọng mà các thầy cần phải lưu ý: “Các loại thiền định của đạo Phật thiền định nào là quan trọng nhất?” Cái thiền định nào mà chúng ta tu quan trọng nhất?
Nhiều khi chúng ta thấy là cái thiền định của Tứ Thiền là quan trọng, nhiều khi mà chúng ta thấy cái định Nhị Thiền là quan trọng, sự thật ra cái thiền định mà quan trọng nhất đó là cái định Sơ Thiền. Cái định mà ly dục, ly ác pháp, cái thiền định đó quan trọng nhất.
Cho nên mục đích chúng ta tu tập là chúng ta làm sao mà chúng ta ly dục ly ác pháp cho được, đó là cách thức của chúng ta tu tập, quan trọng nhất cho đời tu tập.
Nếu mà chúng ta ly dục ly ác pháp không được thì chúng ta không bao giờ mà nếm được mùi vị của Tứ Thiền hay hoặc là Diệt Thọ Tưởng Định, mà Tam Minh hay này kia chúng ta cũng không làm gì được hết. Hoặc là Tứ Như Ý Túc mà chúng ta thực hiện những cái siêu việt đó thì chúng ta cũng không làm được hết.
Cho nên cái định Sơ Thiền là cái định quan trọng nhất cho một cuộc đời tu hành của chúng ta. Và tất cả các pháp môn của Phật đều là đặt ở trên cái Sơ Thiền để tu tập ly dục, và thậm chí như cả giới luật của Phật cũng đều đặt ở trên đó để mà ly dục ly ác pháp.
Cho nên ở đây hầu hết là người ta không thấy được cái quan trọng này, mà tối ngày cứ lo ngồi thiền nhập định mà cái tâm không chịu xả, lúc nào cũng dễ giận hờn phiền não, lúc nào cũng tạo những cái cảnh mà làm cho cái tâm nó, bởi vì nói cái định Bất Động mà, Bất Động Tâm, mà tại sao mình cứ để cái tâm mình động, làm sao mà nó bất động được?
Cho nên mình đã hiểu được cái định Bất Động Tâm là cái Sơ Thiền, do đó luôn luôn giữ tâm bất động là mình nhập Sơ Thiền, chớ không phải ngồi ức chế tâm mà gọi là Sơ Thiền. Tức là cái tâm không dao động trước các đối tượng, do đó người ta làm gì làm mình như cục đất, thì tức là đó là cái định Bất Động.
Mà cái Định Bất Động đó, thì toàn bộ giáo lý của nhà Phật tập trung vào cái định Bất Động Tâm này hết. Mà khi mà cái tâm bất động rồi, thì cái thân này nó chỉ là điều khiển cho cái tâm bất động mà thôi, chớ cái thân không có tu tập gì được hết.
Nghĩa là bây giờ mà ngay vào lo ức chế cái thân để cho nó không vọng tưởng cái này cái khác, thì cái điều đó là cái điều tu sai hết rồi!
Cho nên từ xưa đến giờ bao nhiêu thế kỷ nay, người ta tu thiền người ta không có làm chủ được sanh tử, người ta không nhập được Bốn Thiền là do người ta không thấy cái sự quan trọng của cái định ly dục ly ác pháp.
Thậm chí người ta còn nói rằng cái ly dục ly ác pháp là những cái tà pháp, những cái không có giải thoát. Ngay cái Sơ Thiền tâm hồn chúng ta thanh thản, an lạc hoàn toàn, giải thoát hoàn toàn, không còn có sự đau khổ trong cái cuộc sống hàng ngày của chúng ta.
Nếu mà con mắt chúng ta không nhìn thấu suốt được nhân quả thì khó mà tâm của chúng ta làm sao mà bất động được! Cho nên đôi mắt chúng ta rất là bén nhạy, sắc bén, mọi sự kiện xảy ra là con mắt chúng ta nhìn thấy nhân quả liền tức khắc. Cho nên do đó mà cái tâm chúng ta mới bất động.
Còn cái này chúng ta không thấy nhân quả, do đó cứ thấy đúng thấy sai, vì vậy mà tâm nó động lên tùm lum đủ thứ hết, nó làm chúng ta dao động đủ thứ, như vậy biết chừng nào mà chúng ta xả được cái tâm này? Nếu không thấy nó bằng nhân quả thì làm sao mà chúng ta giải thoát được?
Cho nên cái định mà quan trọng nhất của đạo Phật là cái định Sơ Thiền. Định Sơ Thiền rất là quan trọng! Coi nó là Sơ Thiền, nhưng mà nó quan trọng vô cùng, không thể tưởng tượng được.
Cho nên ở đây các thầy nhớ kỹ, chúng ta đạt được sự giải thoát là phải đạt được cái Sơ Thiền. Mà đạt được cái Sơ Thiền thì quý thầy phải nhớ rằng cái đời sống của quý thầy là đời sống của một vị tu sĩ Phạm Hạnh. Nếu quý thầy sống không đúng Phạm Hạnh thì ngàn đời quý thầy cũng chưa chắc đã là nếm được mùi vị của Sơ Thiền.
Đó là những cái quyết định cho một cuộc đời tu tập của chúng ta, là cái chỗ mà quan trọng hay là không quan trọng.
Kế tiếp Thầy xin trả lời hết, để ngày mai rồi chúng ta sẽ chấm dứt.
(41:45) Bữa nay thì chúng ta không có nghỉ xả hơi, là tại sao các con biết không? Tại vì cái thời gian chúng ta ngắn quá, không có đủ thời gian để giải quyết cho hết. Vì chúng ta sẽ chấm dứt sớm để Thầy còn làm bao nhiêu công việc khác nữa.
Chúng ta thấy tạm đủ để mà chúng ta tu hành rồi, chúng ta không cần mà giảng loanh quanh, nói cho nhiều rồi rốt cuộc rồi nó cũng đi bao nhiêu đó mà thôi. Chúng ta biết được đại khái và cách thức tu tập, chắc chắn là chúng ta sẽ nắm được cái cốt cán mà chúng ta tu tập, các pháp hành chúng ta nắm rõ.
Cho nên chúng ta sẽ thực hiện được một cách dễ dàng không còn khó khăn nữa. Biết các pháp nào chúng ta tu, giai đoạn nào chúng ta tu pháp nào, và tu ở đâu, vị trí đứng ở chỗ nào tu, tu cái thân hành, hay là cái khẩu hành, hay ý hành hay hoặc là tu thân của chúng ta, hay là tu cái thọ chúng ta, hay tu cái tâm hay tu các pháp, chúng ta biết rõ Tứ Niệm Xứ chúng ta phải nằm đâu mà tu.
Cho nên ở đây chúng ta sẽ vẽ lại một cái sơ đồ để mà chúng ta biết được con đường chúng ta tu tập, rõ ràng và cụ thể. Từ đó chúng ta thấy những cái thiền định quan trọng là chúng ta phải tập trung hết sức tu vào chỗ đó.
Còn cái này, các con không thấy cái sự quan trọng, cho nên các con mới tập trung nó rời rạc. Nó không thấy cái định quan trọng mà cứ tập trung những cái khác, cho nên vì vậy mà các con không đạt được cái chỗ quan trọng đó.
Cuối cùng thì Thầy thấy, hầu hết là tâm các con dao động. Gặp cái đối tượng, gặp cái hoàn cảnh là các con tâm nó dao động lên liền tức khắc, không có còn bất động được nữa. Mà cái định Bất Động là cái định quan trọng, vô cùng quan trọng.
(43:01) “Kính bạch Thầy! Nhiều người cho rằng đạo Phật là đạo yếm thế, chán đời, trốn khổ, thủ tiêu đấu tranh và chịu đựng áp bức. Xin Thầy chỉ dạy cho chúng con được rõ!”
Thật sự ở đây thì các thầy cũng thấy rõ ràng, cái sự áp bức của sanh tử ở trong thân tâm của chúng ta. Bây giờ chúng ta đang sống chứ chúng ta chưa biết nó, cái áp lực của nó sẽ giết chúng ta ngày mai chết, chúng ta chưa biết.
Cho nên cái áp lực đó nó rất là mạnh, nhưng mà chúng ta, vì chúng ta là những kẻ vô minh, mù tối, không có thấy, cho nên chúng ta tưởng rằng chúng ta sẽ còn sống dài, sống lâu. Bữa nay còn vui chơi được, chưa có gì, để rồi chơi cho đã đi rồi mới vô tu, hay hoặc là chơi cho đã đi rồi mới tu, từ từ tu, chớ lật đật gì!
Nhưng mà sự thật cái đó là cái áp bức nó đang bức bách chúng ta ghê gớm, cái sanh tử nó bức bách. Cái tử vong nó sẽ bức bách chúng ta không có thì giờ khắc mà chúng ta, chúng ta đừng nghĩ rằng chúng ta sẽ sống, chúng ta sẽ chết trong giờ cuối cùng ngay đây hay là một lát nữa không chừng.
Cho nên ở đây chúng ta phải thấy rằng, một cái con người tu mà theo đạo Phật không phải yếm thế, mà họ là một người tích cực ở trong cái sự chiến đấu với nội tâm của họ, để họ giải phóng cho họ ra khỏi cái sự đau khổ của kiếp làm người.
Chớ họ không phải là người yếm thế, yếm thế là như thế nào? Họ đi vào cái nơi yên tịnh để họ sống thoải mái dễ chịu, đừng có ai mà làm động họ này kia.
Chúng ta rất là động, hàng ngày chúng ta tu tập, chúng ta đối diện với cái tâm của chúng ta nè, chúng ta đánh nó từng phút nè, chúng ta đập nó từng cây nè. Đi kinh hành chúng ta cũng không thể nào mà nghỉ ngơi để cho nó kẽ hở mà cho nó đến đánh vô chúng ta được.
Chúng ta phòng ngự đến cái mức độ mà phải tỉnh thức cao nè, chứ không phải một thằng lính mà ngồi canh cửa mà ngủ gục đâu, chúng ta rất tỉnh thức.
Cho nên vì vậy phải thấy rằng cái hành của chúng ta là cái hành không phải là kẻ yếm thế chán đời đâu, mà cái hành rất là tích cực, đem hết sức lực của mình ra hành, để mà chiến đấu với nội tâm.
Cho nên chúng ta đâu có phải xa lìa cái thân này đâu, xa lìa cái xã hội này đâu? Chúng ta đâu có xa lìa. Nhưng mà chúng ta biết, những cái người xung quanh, những cái đối tượng xung quanh đều là những sợi dây trói buộc chúng ta, làm chúng ta không giải phóng được cái sanh, lão, bệnh, tử của chúng ta, giải phóng được cái sự chết chóc của chúng ta.
(45:27) Cho nên vì vậy mà chúng ta phải bứt họ ra, bỏ họ ra, để chúng ta một mình để mà chiến đấu, để đánh lại nó, để mà chúng ta thành tựu được cái, làm chủ được cái sự sống chết của chúng ta.
Cho nên chúng ta rất tích cực chứ không phải là tiêu cực. Nhưng mà tích cực không có nghĩa là một cái người đó bỏ đời. Người ta nỗ lực người ta thực hiện, người ta còn biết bao nhiêu người đang khổ để người ta hướng dẫn, người ta giúp họ để mà vượt qua. Mình đã không biết lội làm sao mình cứu những người khác được?
Cho nên ở đây, coi như cái người tu sĩ đạo Phật hiện bây giờ, họ đang hằng ngày, họ đang tích cực để làm những việc, thì họ bỏ bê tất cả những công việc xã hội, công việc của mọi người họ bỏ bê hết. Họ không bỏ bê đâu! Họ đang tích cực để làm cho họ được, rồi từ đó họ đem lại cái cuộc sống cho những người khác, bằng một cái hạnh phúc an vui trong cái sự tu tập của họ.
Cho nên họ làm công việc của họ, chứ sự thật ra họ đang tích cực với xã hội hết sức lớn. Họ làm được, họ giải thoát, tức là họ sẽ làm được bao nhiêu người giải thoát!
Còn bây giờ chúng ta làm không được sự giải thoát này, thì chúng ta bây giờ có ở đây mà làm ra cơm ra gạo mà đem bố thí cúng dường cho những người khác, càng làm cho người ta khổ đau thêm nữa. Vì họ ăn không ngồi, họ vay nợ đó thì họ càng nghèo đói. Họ thấy sung sướng quá họ cần gì làm?
Cho nên họ ngồi đó họ chờ chúng ta nhỏ từng hột gạo xuống cho họ ăn, thì lúc bấy giờ họ càng chết đói luôn nữa! Còn họ phải tự lực họ cứu lấy họ, họ làm, thì cái cuộc sống họ nó mới vĩnh viễn, mới hẳn hòi. Còn bây giờ, thấy cho được rồi cứ làm biếng không có làm, để chờ chúng ta cứ ít bữa cái đem gạo để bố thí cho họ.
Cho nên có nhiều người họ nói cháy nhà là khỏe lắm, ít bữa là chúng ta có đầy đủ đồ hết. Thật sự chúng ta ngu si đem cho ba cái thằng này, nhân quả này, thì nó còn nói cái lời nói đó, thì thiệt là đủ thấy rằng cái chuyện làm từ thiện của chúng ta có ra gì không?
Cho nên chúng ta phải biết rằng, người nào tạo nhân quả thì phải gánh chịu cái nhân quả đó. Trong cái cảnh khổ của người khác thì chúng ta an ủi họ là vì…
(Xem tiếp ở Pháp hành 34)
HẾT BĂNG
PHÁP HÀNH 34 - CÓ DUYÊN VỚI PHÁP NÀO TU PHÁP ĐÓ
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Thời gian: 1998
(Tiếp theo Pháp hành 33)
(0:00) … trước sự đau khổ của kẻ khác. Nhưng chúng ta phải thấy được cái sự làm của chúng ta nó phải đúng cách, đúng cái nhân quả.
Cũng như bây giờ, thí dụ như bây giờ mình làm ông thầy thuốc mình nghĩ rằng ai đau mình cũng cứu khổ họ hết, làm cho họ hết đau. Nhưng mà cái nhân quả họ thật sự mà! Nhưng mà khi họ đau, trong cảnh khổ họ rên la, chúng ta có thể giúp đỡ họ trong một phần nào đó thôi, chớ không phải là làm cho họ hết cơn đau được.
Chúng ta bây giờ cho họ uống thang thuốc này họ hết cái đau bệnh này, họ sẽ có cái bệnh khác đến với họ liền, làm gì mà cứu hết bệnh của họ nổi! Đó là cái nhân quả của họ mà làm sao chúng ta cứu hết được.
Cho nên càng mà ngăn chặn, làm cho họ giảm cái nỗi khổ của họ, thì chúng ta phải chịu lấy cái nổi khổ do chính cái nỗi khổ mà chúng ta đã ngăn chặn cái nhân quả của họ. Cho nên chúng ta thấy rằng mình làm phước mà coi chừng chúng ta lại thọ lãnh những cái quả báo của những sự gánh vác của nhân quả kẻ khác.
Cho nên nói tui làm phước sao mà tui lại khổ quá vậy? Đó thì, các nhà làm phước coi chừng, hãy coi chừng! Nhân quả của người ta mà mình gánh bớt cho người ta một phần nào thì mình phải chịu lấy đó.
(01:03) Cho nên nói về đạo Phật là phải nói cái đạo không phải yếm thế. Yếm thế là Thầy thấy bây giờ, trời ơi bây giờ, quý thầy tu chẳng được gì hết, thôi mình vô trong non, trong núi đó mình ngồi mình ẩn bóng đi, cho nó đời sướng mình, khỏe! Khỏi cần tiếp xúc ai, khỏi cần dạy ai, khỏe lắm!
Cho nên Thầy nói ẩn bóng là tránh danh, tránh lợi, có nghĩa là không phải là yếm thế. Mà tránh danh, tránh lợi tức là đừng để cho cái danh, khi mình tu tập rồi, ngày nào lần lượt rồi nó cũng sẽ lộ cái chỗ tu hành giải thoát của mình, người ta sẽ biết. Và người ta sẽ biết càng lúc càng kính trọng, càng tôn trọng mình nữa, thì tức là làm cho người ta phải hao tài tốn của rất nhiều.
Tại sao vậy? Từ xa xôi người ta phải bỏ tiền, dù là nghèo người ta cũng ráng, nghe đó là bậc chơn tu, người ta phải ráng đến, thì tức là người ta phải tốn hao tiền bạc. Trong khi người ta cơm chưa đủ ăn nữa, nhưng mà vì mến cái đức hạnh của một vị đó, cho nên dù xa xôi người ta đến nhìn mặt là người ta thấy thỏa mãn được cái lòng ao ước của người ta rồi. Nhưng mà cái cuộc khổ của họ phải chịu như thế nào?
Cho nên từ đó như Thầy, Thầy ẩn bóng, bây giờ thì người ta chưa biết gì hết, thì mình ẩn bóng, thì do đó, từ đó người ta cũng không biết Thầy ở đâu mà tìm. Thình lình, có duyên Thầy xuất hiện, gặp họ, quá mừng! Sao con lại có duyên gặp Thầy? Thì đó là cách thức đem đến một cái nỗi vui mừng.
(2:16) Và đồng thời cái nỗi vui mừng đó nó làm cho họ có một niềm tin rất sâu. Lời nói của Thầy, cái hoàn cảnh gia đình họ, Thầy khuyên họ: “Bây giờ vợ chồng phải sống như vậy, vậy thì mới đem lại hạnh phúc, do cái nhân quả như vậy!” Nói họ rồi cái bắt đầu họ nghe liền, như vậy họ sống lại, bây giờ gia đình họ rất hạnh phúc.
Cái chợt thình lình của Thầy đem đến cho họ một cái nguồn vui chân thật, hơn là họ đến đây mà nghe một cái bài thuyết pháp rồi về thì gia đình như thế nào thì họ cũng như thế nấy, chẳng có gì lợi ích cho họ.
Đó cho nên, và tránh được cái sự mà quá cung kính, quá tôn trọng của Phật tử.
Cho nên đạo Phật không yếm thế đâu. Nghe nói Thầy ẩn bóng là yếm thế, không phải đâu. Thầy đang đi lo những cái nơi, cái địa điểm nào cho phù hợp để cho các thầy nỗ lực tu, mà luôn luôn lúc nào cũng tới lui với các thầy.
Thí dụ như bây giờ, ở ngoài Hà Nội mà các thầy gặp khó khăn, thì ngay trong chớp mắt là Thầy sẽ đến, đến bằng gì các thầy biết không? Đi bằng phi cơ, nó sẽ chở Thầy đi đến chớ Thầy đâu có thực hiện thần thông làm gì đâu, Thầy có biết gì đâu mà thực hiện!
Nhưng mà Thầy, bây giờ ở ngoài đó gọi điện thoại vào: “Bây giờ con gặp những cái khó khăn cần Thầy giải quyết liền!”, thì ngay đó Thầy xuống phi trường Tân Sơn Nhất, Thầy mua cái vé. Bây giờ nói ngày mai mới có máy bay, Thầy coi cái người nào họ chưa đi, Thầy đổi vé Thầy đi liền. Thầy ra đó cấp tốc thì trong vòng nửa tiếng, một tiếng đồng hồ Thầy tới Hà Nội rồi, Thầy xuống phi trường Thầy đến gặp liền có gì đâu khó khăn, giải quyết liền tức khắc.
Phải không? Các con thấy, bây giờ nó đã có những cái phương tiện như vậy mà cần gì đây mà phải bay nó đi cho mất công mệt mình? Ở đời mà, nó có phương tiện rồi mình cứ dùng phương tiện, đừng có làm cái chuyện mà ngoài phương tiện đó, người ta nói mình tả đạo, ngoại đạo nữa, thành ra mang tiếng luôn nữa, thì thành không tốt nữa.
Cho nên người ta bay được máy bay thì mình cũng bay được máy bay, chứ mình đừng có bay mà không có máy bay thì mình không được.
(03:53) “Thưa Thầy, con người sống hay chết là do nhân quả, vậy có những đạo sĩ chuyên luyện bùa chú tà thuật để hại người, họ có giết người được không?”
Sự thật ra nhân quả mà, làm sao giết ai được? Tại vì mình sợ quá rồi mình sanh bệnh chứ còn sự thật ra, chẳng sợ ai hết. Thầy bây giờ nói ông thầy bùa, thầy chú nào giỏi đi, cứ yếm Thầy đi, Thầy cho yếm đã đi cho Thầy chết, Thầy mừng nữa à! Có ông thầy bùa chú nào yếm vô được cái thân Thầy đâu. Phải không, các con thấy.
Bởi vì Thầy nói thật sự đối với cái thân Thầy cũng như thân các con vậy, mà Thầy không sợ hãi cái gì hết, bùa chú nó vô nó rớt ra cả đống ở đây nữa, Thầy đốt cũng như cái đống ung vậy. Họ cứ yếm đi cho nó đụng đi, thử coi, Thầy nói Thầy không ngán!
Hồi còn nhỏ Thầy chưa có tu hành gì hết, ở đây nó có cái ngôi chùa, có ông thầy bùa cũng giỏi lắm. Mà Thầy còn nhỏ mới bằng mấy đứa nhỏ thôi à, chừng chín, mười tuổi chớ không có, lúc bấy giờ tám tuổi Thầy đi xuất gia rồi, thì lúc bấy giờ chín, mười tuổi cỡ đó à. Mà ông ta nói ổng yếm bùa, là bây giờ ở trên cái hòn sơn giả ở trước chùa, ngọn lửa ở trển đang cháy phừng phực trên đó.
Thầy nói: “Thiệt không?” mà hồi nhỏ mà ban đêm mà Thầy hỏi vậy: “Thầy nói thiệt không?” Ổng nói: “Thiệt, bây giờ cứ lên đó đi, có cái ngọn lửa ở trên đó đó!”. Thì Thầy đi ra liền, Thầy không sợ đâu, Thầy đi ra Thầy coi thử coi có không.
Thầy đi ra, thật ra thì Thầy đến cái chỗ cái hòn sơn giả ở trước chùa đó, thì hồi đó ở đây trước chùa mà có cái hòn sơn giả ở trước chùa. Thầy ra Thầy thấy có cái ánh sáng dưới cái, trong cái hòn sơn giả có ánh sáng nó trá ra. Thầy nói: “Bộ ông thầy này cũng linh chớ, để mình lại mình lại mình coi thử cái ánh sáng đó là như thế nào, coi thử coi, tại sao nó có vậy được?”
Đó thì Thầy lại gần, nhưng mà lại gần rồi thì nó là con dời các con! Ông thầy này chắc bộ ông đi dạo vòng vòng đó ông thấy có ánh sáng con dời, ổng biết rồi, cho nên ổng nói ổng làm bùa chú gì đó ổng dọa Thầy, để ra đó thấy ánh sáng là Thầy hoảng rồi chớ gì?
Nhưng mà Thầy lại là con người không biết sợ, cho nên Thầy xem coi, lại đó coi thử ánh sáng đó từ đâu mà nó xuất phát được cái chỗ này? Do đó Thầy tới đó thì con dời, Thầy lượm con dời Thầy xách vô: “Đây là bùa chú của ông đây!”. Làm cho ông thầy đó ông bễ nghễ ông mắc cỡ gần chết ổng.
Các con thấy, đối với Thầy không có cái gì mà Thầy ngán, mà lúc bây giờ mới là tám, chín tuổi thôi, chứ Thầy chưa có lớn đâu. Mẹ của Thầy thì quá hoảng sợ, sợ ông thầy bùa ổng giết Thầy đi, ổng mắc cỡ rồi đây ổng ếm bùa Thầy chết chứ gì?
Thầy nói: “Mẹ đừng có sợ ổng làm gì, ổng làm giả đó, làm sao mà có được! Nếu mà có lửa được chắc ổng có thể ổng đốt con được, nhưng mà đâu có lửa được, lửa con dời mà làm sao mà đốt con được! Con bắt đây mà!”
Thật sự ra, chỉ nó mạ cho cái người yếu tinh thần thôi, chứ còn cái người mà cái tinh thần không có yếu thì không làm được đâu.
(06:28) Cho nên ở đây con hỏi, con nói đó. Cho nên chúng ta thấy những cái tà thuật của bùa chú, chúng ta thấy cũng ghê thật. Trời họ yếm đọc thần chú, họ đọc bùa rồi, cái bụi tre gai gì đây họ trèo lên đó, họ chạy ù ù trên đó, không có dính gai, dính gì hết! Hay thiệt chứ! Thấy cũng lạ nữa.
Sự thật ra không biết là như thế nào nhưng mà Thầy thấy cũng có hay đó. Nhưng mà đối với Thầy, thứ đó Thầy không sợ đâu, cái thứ đó cũng như là mấy cái thằng hắc thuật ở ngoài chợ Sơn Đông vậy chớ không có gì hết.
Cho nên đối với Thầy những cái thần thông mà Thầy nói ra để chúng ta thấy rằng cái năng lực, chớ không phải là chỗ ham thích đâu, cái chỗ đó không phải, cái năng lực của tu hành của chúng ta nó đạt được.
Còn cái chuyện mà họ làm đó làm là cái chuyện mị rất nhiều, rất nhiều cái chuyện mị, mà Thầy nằm ở trong cái giới bùa chú, Thầy cũng biết rõ những vấn đề mà gạt người để mà làm tiền, rất nhiều cái chuyện mà mị mạ, coi như là người quá quá sợ!
(7:18) “Một người tu nhập được bốn loại định như Không Vô Biên Xứ, Thức Vô Biên Xứ, Vô Sở Hữu Xứ và Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ có nguy hại và lợi ích gì không? Xin thầy chỉ dạy con được biết!”
Đây là hỏi trong bốn cái Định Vô Sắc này có lợi ích gì và có sự nguy hại gì?
Cái sự nguy hại ở trong bốn cái định này, cái Định Vô Sắc này, nó không có nguy hại gì hết, nó cũng tốt thôi chớ không có gì.
Nhưng mà nó cũng không lợi ích gì cho cái người mà nhập cái này hết, nó không có lợi ích gì, nó không có làm chủ sanh tử gì hết à. Coi như là chúng ta luyện bùa chú chơi vậy cho nó vui vậy chớ còn nó không có lợi ích. Cái đó, bốn cái Định Vô Sắc này nó không có lợi ích gì cho chúng ta hết.
Chỉ có bốn cái thiền định Hữu Sắc là có lợi ích rất lớn đó, còn những cái định này chỉ nhập chơi vậy thôi chớ không có lợi ích gì. Nó là định tưởng mà, nó đâu có lợi ích gì.
(8:11) “Kính bạch Thầy! Có những nguyên nhân gì mà một người xả bỏ hết tài sản gia đình để theo tu hành, nhưng đến một ngày nào đó họ lại sanh tâm hối tiếc?”
À, trong cái người mới tu mà nghe những cái lời dạy về Phật pháp họ ham thích, cho nên họ nghĩ rằng mình xả bỏ.
Cái người này là cái người nông nổi, xả bỏ hết tài sản rồi đi tu. Rồi bây giờ đó, bây giờ mất hết tài sản mà tu thấy nó khó quá, nó nhọc nhằn quá, cho nên giờ hối tiếc, phải hồi đó đừng có bỏ để bây giờ sống! Thì như vậy rõ ràng là cái người đó trong cái giai đoạn đầu họ nông nổi.
Nhưng mà cái người mà người ta bỏ hết tài sản mà người ta đi tu, mà người ta gặp những cái khó khăn, thì người ta vượt qua từng những cái khó khăn đó, thì cái người này sẽ là chứng đạo trong một kiếp này. Người ta xả bỏ, xả bỏ được ngay từ lúc đầu là cái nhiệt tâm của họ rất mạnh đó, họ mới xả bỏ của cải chớ không phải dễ đâu.
Chứ nhiều người đi tu nói: “Thôi bây giờ mình có của cải, thôi mình gởi ngân hàng một mớ đi, còn nhiêu đó mình xả, còn mớ mình gửi ngân hàng nếu mà tu không được thì mình ra mình có chút ít tài sản mình dùng!” Thì cái người này họ còn làm cái đường rút lui, tức là đi tu mà còn sợ mình tu không được, rút lui đó! Thì cái người này còn yếu lắm, còn nhát gan.
Một cái người mà kêu là qua cầu mà rút cầu luôn, thì cái người này là người gan dạ lắm đó. Cho nên bây giờ nó kẹt rồi thôi gắng đi tới đi, đi tới riết cái thành đạo. Chớ còn người mà có cầu mà đi trở lại thì chắc chắn là họ lui lại.
Cho nên cái người tu hành mà bỏ hết tài sản rồi, mà cắt đứt luôn cầu họ không còn quay trở lại được, thì mấy người này có thể đi luôn được. Nhất là gần những cái bậc đạo sư, họ khéo léo lắm, khi mà cái người đó cùng cực, thì họ để cho cùng cực như vậy chớ mà họ khuyên lơn khéo léo lắm.
Một cái bức thơ, một cái lời nói của người thiện tri thức nó đánh mạnh cái người đó, sống trở lại những cái bước đường mà do cái công đức mà xả hết tài sản mà đi tu, mà họ đạt được đúng cái mức đó, chớ không khéo họ cũng lầm cái đường.
Bởi vì trong cái giai đoạn này có một người mà ham thích xả bỏ hết tài sản hết, để mà tu hành đạt được cái kết quả, thí dụ như bây giờ nghe cái giáo án, cái lời dạy của Thầy là phải chọn lấy cái lộ trình tu hành của đạo Phật là xả bỏ hết cái tài sản, sống không gia đình mà, cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, sống không gia đình, không nhà cửa mà, cho nên bỏ sạch trắng bạch như vỏ ốc!
Ai nghe cũng thích hết làm thử, nhào vô làm thử cái tới chừng đó rút cầu rồi, đâu có đi ra được! Thành ra tài sản hết rồi bây giờ đi ra lấy gì sống đây? Thôi chịu đựng ăn củ đi chớ bây giờ làm sao bây giờ!
Thì cái vị thầy đó người ta sáng suốt lắm, người ta không có để vị học trò người ta bỏ. Chính cái đối tượng đó mà người ta giải quyết cho người đệ tử của người ta vượt thoát ra. Đó là ly dục ly ác pháp đó, cái giai đoạn đó là giai đoạn chính của người đó.
Nghĩa là dao động trước cuộc sống khổ sở này, thì vị thầy đó người ta giúp cho cái người đệ tử của mình vượt qua cái chỗ giai đoạn này, thì họ không có còn sợ hãi. Thì bắt đầu họ đi xin ăn, họ mặc ba y một bát, họ sống thanh thản an lạc, họ vứt luôn đó. Bây giờ họ vứt luôn.
Hồi đó thì họ nông nổi họ vứt, họ tưởng là tu dễ. Nhưng mà vô đó gặp ăn ngày một bữa khó quá, khổ quá, rồi bắt đầu đó gặp khó khăn đó, thì cái ông thầy ổng biết được cái tâm người đệ tử của mình đang chới với rồi, mà bởi vì cái cầu rút rồi không có đi được ra! Chớ mà có cái cầu mà đi ra thì ông thầy không cứu được đâu. Còn không có cái cầu ra đó, thì còn cứu được.
Đó cho nên, Thầy nhìn chung đám đệ tử của Thầy, Thầy biết mà. Người nào mà có cầu rút ra thì Thầy thấy người đó Thầy khó cứu đó, còn có cầu nó rút lui.
Còn cái người nào mà không cầu, mà còn ráng chịu đựng đó, thì Thầy tìm cách Thầy chẻ lần, chẻ lần ra. Từ đó họ vượt ra cái họ vào đạo rất nhanh, họ xả rất nhanh. Bây giờ họ không nông nổi nữa mà họ cẩn thận.
Còn có người nào mà đi ra rồi, mà không có đủ duyên đó, tức là họ cũng bứt cái cầu họ rồi, nhưng mà họ đi ra có người giúp đỡ họ đó. Thì họ được cái người giúp đỡ, tức là đắp cho họ cái cầu họ sống (ở) thế gian rồi, thì lúc bấy giờ họ sống, cái đời sống họ vất vả lắm, nhưng mà họ có cái sống rồi thì họ thấy sống ở trong đạo rất khổ hơn, cứ sông. Mặc dù bây giờ mình làm ra tiền cực khổ chứ lại còn khỏe hơn hồi sống trong đạo, không tiền, tức trời ơi, nó nhiều cái nó bực lắm!.
Đó, thành ra nó có nhiều cái lắm, thí dụ như bây giờ một cái người mà đang tu, rồi bắt đầu họ đạt đến cái chỗ yên tịnh như thế nào đó, rồi cái tâm dục họ bắt đầu nó có những cái mà Phật gọi là ma đó.
Đức Phật mà trước khi thành đạo thì cũng gặp cái ma nó phá, tức là ma nội tâm của Đức Phật nhiều lắm chớ không phải ít đâu, mà chiến thắng ma đó không phải dễ đâu.
Cho nên khi đó nó làm tâm cái vị đó dao động rồi. Mà bây giờ đã rút cầu rồi thì vị đó không ra được nữa rồi, thì bắt đầu đó, vị thầy đó khéo léo để ngay đó mà cái vị đó xả tâm mà tiến bước. Bởi vì bây giờ nó không có được thối lui, không có được rút lui rồi thì mình phải tiến thôi! Phải tiến thôi buộc lòng phải theo ông thầy rồi, theo ông thầy thì theo đó ổng đưa, ổng giúp đỡ cái vị đó càng ngày càng thăng tiến, đi trong cái đường giải thoát tới lúc đạt được. Còn có đường rút lui rất khó đó, Thầy nói thật sự!
(13:00) Cho nên hầu hết là trong số đệ tử của Thầy biết rằng, cái người nào không có đường rút lui Thầy biết, mà người nào có đường rút lui Thầy biết.
Mà cái người nào mà đi tu mà nghĩ rằng mình còn để dành lại, để tu không được để rút lui đó, thì còn gởi ngân hàng hay cái gì đó thì chắc chắn là, mấy người đó thì Thầy khó cứu mấy người đó lắm. Mặc dù là họ cũng gieo duyên tốt nhưng mà cứu khó, không đi tới đích đâu.
Bởi vì tới cái đích của đạo Phật nó có những cái khó khăn, hết sức khó khăn! Nó thúc đẩy mình đến cái mức độ mà coi như là chết rồi sống lại đó, đó thì mới được.
(13:30) Ở đây thì Chánh Tâm hỏi Thầy:
“Thưa Thầy, trung đạo của đạo Phật là gì? Nó có khác gì so với đạo đức nhân quả hay không?”
Thật sự ra thì, hỏi về trung đạo thì hầu như là người ta hiểu một cách mơ hồ lắm. Cái trung đạo của đạo Phật mà so sánh với đạo đức nhân quả, thì cái đạo đức nhân quả là trung đạo của đạo Phật.
Nó từ cái nền tảng đó mà đi lên, thì nó trở về với cái đời sống mà thành tựu của đạo pháp rồi, thì cái đạo đức nhân quả nó là trung đạo của đạo Phật. Nó toàn thiện chớ nó không phải là nửa thiện nửa ác. Gọi là trung đạo, nó nửa bên đây nửa bên kia thì nó là trung đạo, không phải, nó toàn thiện mới là trung đạo.
Mà thiện của Phật nó không phải là cái thiện mà cái kiểu mà làm mình khổ mà người khác vui đó, không phải vậy. Cho nên nó là cái đạo đức trung đạo, là lấy cái nhân quả đó mà làm cái nền tảng của nó, vì vậy mà coi như là trung đạo là đạo đức nhân quả.
Cho nên đạo Phật, cái đạo đức nhân quả là cái đạo đức của đạo Phật mà, cái nền đạo đức của đạo Phật ở chỗ cái đạo đức nhân quả.
(14:42) “Kính bạch Thầy! Do nguyên nhân gì mà cách khắc phục làm sao để các pháp trong thân không chạy theo các pháp bên ngoài?”
Ở đây các pháp ở trong thân của mình, tức là Chánh Tâm muốn hỏi là sáu căn mà tiếp xúc với sáu trần. Các con hiểu cái chỗ mà hiểu của nó, thì các pháp trong thân là mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình chớ gì? Mà không chạy theo các pháp với ở bên ngoài, thì tức là không có các trần chớ gì? Sắc, thanh, hương, vị xúc, pháp chớ gì!
Do đó muốn các pháp trong thân mình không chạy theo các pháp trần, thì có pháp Thánh phòng hộ sáu căn! Phải tu tập Thánh phòng hộ sáu căn thì nó sẽ không theo.
Và tu tập cái từ tâm hay là bi tâm câu hữu với cái định Chánh Niệm Tỉnh Giác. Đi kinh hành mà mình dòm dưới chân mình đừng có để đạp loài côn trùng đó, khởi cái tâm từ của mình đi mà mình dè dặt, cẩn thận, ý tứ từng chút cho tránh khỏi đó, thì câu hữu cái đó.
Đó là thực hiện ở trong cái pháp không có dính mắc. Bởi vì mình cứ mình đi mình ngó dưới, thì bên đây cái gì mình cũng không thấy, bên kia cái gì mình cũng không thấy, tức là phòng hộ sáu căn. Phải hiểu cách thức tu đó là phòng hộ sáu căn. Như vậy là làm cho mình không bị dính mắc.
Và từ đó nó, khi mà nó thuần rồi, nó quen rồi, thì nó không còn tham thích, cái tâm nó không phóng ra, thì nó không ham thích ngó hai bên nữa, thì lúc bây giờ mình cứ ngó dưới chớ mình không có còn bị ức chế tâm bằng cách mình tu tập cái pháp đó.
(16:12) Kính bạch Thầy! Đạo Phật lấy sự hiểu biết để từ bỏ lòng ham muốn hay lấy khổ hạnh từ bỏ lòng ham muốn? Thiểu dục tri túc có phải là lối sống khổ hạnh hay không?
Đó những cái câu hỏi như vậy, nó rất là cụ thể để chúng ta biết được cái chỗ mà tu tập.
“Đạo Phật lấy sự hiểu biết để từ bỏ lòng ham muốn hay lấy sự khổ hạnh mà từ bỏ lòng ham muốn?”
Đạo Phật dùng cả hai hết chớ không phải là một cái.
Nghĩa là đầu tiên chúng ta phải khép chặt mình ở trong cái khuôn khổ của giới luật, tức là gọi là khổ hạnh. Chớ không phải là giới luật là nó tầm thường đâu. Bởi vì giới luật nó làm cho chúng ta phải từ bỏ cái lòng ham muốn. Nghĩa là không khép chặt mình trước thì tức là mình bị ham muốn, tức là bắt buộc ức chế tâm mình trong khuôn khổ đó.
Nghĩa là đầu tiên là phải ức chế, sau đó thì chúng ta phải dùng sự hiểu biết, tức là Định Vô Lậu để mà xả, để mà làm cho cái tâm hết ham muốn. Cho nên nó phải hai cái hết chớ không phải một cái. Hiểu như vậy là mới hiểu đạo được Phật, chớ không phải.
“Còn thiểu dục tri túc có phải là lối sống khổ hạnh hay không?”
Thiểu dục tri túc không phải cái lối sống khổ hạnh, mà thiểu dục tri túc đây bằng một cái trí tuệ, từ bỏ lòng ham muốn, xa lìa tất cả những vật chất để giải thoát. Cái sự hiểu biết, cho nên vì vậy mình mới sống thiểu dục tri túc.
Còn bắt đầu mình sống thiểu dục tri túc mà ép buộc mình mà sống thiểu dục tri túc thì không thể được, nó không thể được đâu. Cho nên cái thiểu dục tri túc chỉ chẳng qua là cái thực hiện của một cái trí tuệ đã biết được cái vật chất nhiều làm cho mình khổ.
Cho nên mình giải quyết được cái khổ hạnh bằng cái giới luật và bằng cái trí tuệ của mình, để rồi từ đó cái lối sống đúng như vậy thì cái thiểu dục tri túc thì nó sẽ là cái lối tiếp theo, chớ không phải là lấy cái thiểu dục tri túc để, vì vậy mà các thầy cũng thấy rằng khi mình nhập Sơ Thiền, thì cái thiểu dục nó đi sau cái giới luật, mà nó đi sau cái Định Vô Lậu nữa.
Đó là những câu hỏi của Chánh Tâm.
(18:10) “8. Con thấy đời rất khổ. Vậy khổ như thật được so sánh với cái khổ mà chúng con thấy như thế nào?”
Cái khổ như thật, cái danh từ mà gọi là khổ như thật thì hiện bây giờ các thầy thấy khổ, biết khổ, nhưng mà như thật thì chưa thấy. Khi nào mà các thầy đã có cái tâm vô hạn thì các thầy mới thấy được cái khổ như thật. Cho nên cái người mà có cái tâm đó rồi thì họ thấy cuộc đời này họ ngao ngán, họ sợ lắm.
Cho nên, còn bây giờ thì các con biết khổ nhưng mà chưa đâu, thấy cái gì còn vui còn ham chứ chưa phải là như thật. Còn như thật thì cái vui là cái khổ nhất của cái khổ của cái thế gian này.
Cho nên đối với một người tu, cái mà đau khổ, cái mà xảy ra cho bệnh tật, tai nạn, đau khổ thì họ không sợ đâu, mà họ sợ những cái cám dỗ, họ sợ những cái lạc của thế gian: Từ cái ăn ngon nè, từ cái bánh, cái đường nè, từ những cái cám dỗ họ, họ sợ cái đó nó dễ làm họ sa ngã lắm, họ sợ lắm, họ rất sợ!
Vì họ thấy như thật, thì tức là họ sẽ thấy những cái lạc đó mà họ sợ. Còn chúng ta chưa thấy như thật cho nên những cái ăn ngon chúng ta còn thích. Biết khổ chớ đâu phải không biết, biết chớ, biết nhưng mà nó vẫn còn thích, tức là chưa như thật.
Mà muốn như thật như vậy thì có cái pháp hướng nhắc tới nhắc lui thì nó phải như thật, chớ còn thiếu pháp hướng thì không đạt được cái như thật. Và nhờ cái pháp hướng đó mà chúng ta đi tới cái chỗ mà Lậu Tận Minh, thì bây giờ mới thấy khổ như thật đó.
(19:40) “Có lý do gì mà trong thời Đức Phật còn tại thế mà các vị Tỳ Kheo chứng quả rất dễ dàng và rất nhiều? Xin Thầy chỉ dạy cho chúng con được biết?”
Thời Đức Phật, tại vì thời còn bộ lạc, vật chất nó quá ít. Do đó thì cái người mà theo thời Đức Phật đó, là cái người đã tu ở trong cái đạo Bà La Môn, họ đã xả ly rất nhiều vật chất rồi.
Cũng như mấy con ở đây mà tu tập cũng đã xả nhiều rồi, sống ba y một bát, cũng như bây giờ Thầy đi tìm cái bậc mà tu xả hết cái thế gian rồi, họ còn có ba y một bát, họ sống trong rừng, ăn củ, ăn trái, thì những cái người này Thầy dạy thiền định rất nhanh. Cho nên trong cái thời Đức Phật là độ những cái người này rất nhanh, là tại vì những người này đã xả ly nhiều rồi.
Còn bây giờ chúng ta chưa có xả ly, mà chúng ta nhảy vô làm tu sĩ, còn bao nhiêu, đi vô mà ôm cả rương vầy Thầy thấy thôi rồi rồi, đâu còn nữa! Phải không, cho nên đó là chưa xả ly mà.
Còn thời Đức Phật là tại sao người ta tu nhanh là người ta xả ly quá nhiều rồi. Mà coi như cái vật chất của thời Đức Phật nó cũng ít hơn chúng ta.
Chúng ta vì mà đủ hết mà, bây giờ từ cái Honda cho đến xe Dream này kia rồi tới cái chỗ mà tivi, rồi đầu máy cassette gì đủ thứ hết, đủ loại hết, trời ơi, làm sao người ta xa lìa được?
Còn cái ăn uống, đồ hộp đồ này kia người ta đóng hộp, còn hồi đó giết một con vật rồi cái trui nướng rồi xúm nhau ăn chớ chưa có nấu cơm được, chưa có nấu nữa! Lửa mà đi kiếm mà để nấu được, nướng cái miếng thịt cũng là khó khăn, cho nên người ta làm biếng nữa, người ta lượm trái cây người ta ăn hơn là để đi cắt thịt mà nướng.
Cho nên đó là những cái vật chất, đời xưa nó là rất vất vả.
(21:12) “Kính bạch Thầy, một người tu tập đúng cách thức thì trong thời gian bao lâu sẽ phá được vô ký và tu thế nào là đúng cách để phá vô ký?”
Khi mà bị rơi vào vô ký là do cái sự ức chế tâm mà bị rơi vào vô ký.
Ngồi, thí dụ mình ngồi mình hít thở, mình nương vào hơi thở mình ức chế tâm mình không vọng tưởng, thì khi mà hết vọng tưởng rồi thì cái trạng thái nó mất tiêu, nó sẽ là hiện ra cho chúng ta, rồi chúng ta lần lượt chúng ta mất cái hơi thở rồi mất tiêu luôn.
Thì đương nhiên là trong khi đó chúng ta không có thùy miên tức là không buồn ngủ, mà lại mất tiêu, đang tỉnh mà nó mất tiêu, đó là bị vô ký.
Đó thì, muốn phá cái đó thì tức là chúng ta phải đi lại cái định, thứ nhất là chúng ta đi lại cái định ly dục, ly ác pháp để xa lìa những cái tâm dục. Vì cái trạng thái của mất tiêu này, nó là nhằm vào, một cái trạng thái vô ký này, nó cũng thuộc về cái trạng thái si, si của Ngũ Triền Cái nó ngăn che làm chúng ta mê mờ đi, không phát trí tuệ lên.
Do vì vậy đó, khi mà rơi vào những cái trạng thái này, thì chúng ta nếu mà ở trong cái chỗ mà ức chế tâm này, thì chúng ta nương vào cái hơi thở hoặc cái pháp môn nào đó thì chúng ta thường nhắc, thường dùng cái pháp hướng nhắc, nhắc thì nó sẽ không có lọt vô ký nữa, thì chúng ta sẽ phá vô ký mất, nó không còn có nữa.
(22:21) Đây là, đến đây đã là chấm dứt cái bài hôm nay. Vậy thì hôm nay thì chúng ta sẽ là cái giờ, buổi học cuối cùng, và chấm dứt hôm nay để rồi Thầy làm những công việc khác. Thì các con đã nắm hết, Thầy xin tóm lược lại để thấy được cái pháp hành.
Nghĩa là ngày xưa, các thầy nên nhớ rằng không phải là tu tùm lum vậy đâu, không phải đụng pháp nào cũng tu hết đâu. Có người có duyên với pháp này, thích cái pháp này thì tu.
Thí dụ như các con nghe Thầy dạy pháp Tứ Chánh Cần, thì các con nỗ lực tu Tứ Chánh Cần, thì các con dẹp hết các pháp ác, xong thì các con sống ở trong trạng thái thiện pháp, tức là ly dục, ly ác pháp rồi. Thì ngay đó là các thầy các con nhập định rất dễ dàng thôi, không còn khó nữa.
Cho nên tự nội Tứ Chánh Cần không cũng đủ rồi, không cần phải tu Tứ Vô Lượng Tâm, mà cũng không cần tu Sơ Thiền, Nhị Thiền, hay hơi thở gì tất cả hết. Nghĩa là các con khỏi tu Tứ Niệm Xứ, cũng khỏi tu Tứ Như Ý Túc, khỏi cần tu gì hết.
Nghĩa là khi mà ly dục, ly ác pháp rồi thì các con chỉ cần ra lệnh là nó làm theo hết, không cần tu gì hết. Cho nên cái Thất Giác Chi các con cũng khỏi cần tu, miễn là khi mà các con ly dục, ly ác pháp thì Thất Giác Chi nó hiện ra liền tức khắc.
Cho nên bây giờ các con tu, thí dụ như bây giờ các con thấy, đi kinh hành để mà tu Tứ Vô Lượng Tâm, dùng tâm từ bi tránh tất cả những cái loài vật để không đạp dưới chân mình khi bước đi. Thì các con tu tập như vậy, tập trung rất tỉnh thức để cho mình đừng có giết hại chúng sanh, nó làm cho cái tâm mình tỉnh thức.
Thì do cái sức tỉnh thức này với cái tâm từ bi này kết hợp với nhau, và đồng thời các con nương vào cái hành mà đi này, thì các con nhắc để mà xả cái tâm tham, sân, si của mình, tức là kết tập với cái Định Vô Lậu, thì hai cái này thì các con tu về Tứ Vô Lượng Tâm để cho xả hết cái tham, sân, si của mình. Từ đó thì nội cái Tứ Vô Lượng Tâm vầy các con cũng thành tựu.
Vì vậy mà cái người đệ tử của Phật gọi là tâm từ đệ nhất, thì đó là em của ông Cấp Cô Độc, đã theo Phật tu mà chứng quả được A La Hán là do cái Tứ Vô Lượng Tâm mà vào.
Còn cái Tứ Chánh Cần này thì Thầy không thấy ở trong kinh nhắc, không có cái gương hạnh, nhưng mà điều kiện là Thầy xin nhắc lại là cái người nào mà tu Tứ Chánh Cần là ngăn ác, diệt ác để mà thực hiện cái trạng thái của thiện, thì cái người này ở trong cái trạng thái này, nội Tứ Chánh Cần này, thì các thầy cũng sẽ là đạt được cái sức tu tập rồi, thì chỉ trong cái pháp Tứ Chánh Cần là đủ rồi, không cần phải tu các pháp khác.
Đây là những cái bài pháp cuối cùng nhắc cho quý thầy nắm vững những cái pháp, mà mình có duyên với pháp nào lấy pháp đó tu một pháp thôi, chứ không phải tu lộn xộn nay thiền này, mai thiền kia, mốt thiền nọ, tùm lum ra, thì các thầy tu riết rồi các thầy điên đầu, rồi các thầy cũng không biết đâu mà vào đạo nữa.
Thì phải hiểu được cái chỗ này nè, nghĩa là mình nhận cái pháp nào phù hợp với cái đặc tướng của mình, mình lấy cái pháp đó mà tu tới cuối cùng để mà thành tựu giải thoát.
Đó, cho nên ở đây Thầy muốn nói, khi mà các thầy đã mà nằm ở trên Tứ Niệm Xứ mà tu cái giai đoạn một, thì trên thân quán thân này thì quý thầy quán rồi tu Định Vô Lậu, rồi hướng tâm mình tu cái các hành động của mình đi kinh hành này kia, thì trong cái giai đoạn thứ nhất của cái Tứ Niệm Xứ, thì quý thầy thực hiện trên này, thì nó có Định Vô Lậu nè, Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, Định Niệm Hơi Thở thì nội bao nhiêu đó quý thầy cứ thực hiện.
Hằng ngày quý thầy câu hữu để mà hướng tâm xả, đoạn dứt cái tâm tham, sân, si của quý thầy. Nội ở trên cái đoạn một của Tứ Niệm Xứ này thì quý thầy cũng tu trên cái giai đoạn một này thôi, chớ không được tu tới cái giai đoạn hai, ba nữa. Thì các thầy sẽ thực hiện được cái chỗ mà giải thoát của quý thầy.
Cho nên lấy một pháp mà tu hành chớ không được lấy nhiều pháp. Vì lấy nhiều pháp quý thầy tu cái pháp này rồi tu pháp kia, tu pháp nọ tùm lum đủ thứ ra hết, thì quý thầy rối mà quý thầy không đạt được cái chất lượng cao của sự giải thoát.
Cho nên tu cái pháp nào phải chắc chắn pháp nấy, mình chấp nhận cái pháp đó rồi thì nỗ lực tận cùng với pháp đó để đến khi mình giải thoát mà thôi.
Đó, các pháp nó có hành pháp rõ ràng, thì các thầy chấp một cái pháp nào rồi thì các thầy phải thực hiện. Mà đây là những cái giai đoạn ly dục, ly bất thiện pháp, là cái giai đoạn quan trọng mà Thầy nói nó loại thiền quan trọng.
Cho nên cái cần thiết cho quý thầy là phải nỗ lực cho thật sự cái chỗ này, làm sao mà cho đạt được cái chỗ ly dục, ly ác pháp. Còn tất cả các loại thiền khác quý thầy đừng có quan trọng với nó, đừng có ngồi thiền nhiều.
Ở đây có ngồi nhiếp tâm trong hơi thở năm ba mươi phút hoặc một giờ là cao, xả đi, đừng có ngồi hai ba tiếng đồng hồ cho mệt cái xác của mình mà không làm gì cả.
(26:22) Cho nên ở đây, cần thiết là cái chỗ mà tỉnh thức, cái chỗ vô lậu, cái chỗ mà hơi thở nó phải được cái sự tỉnh thức ở trong cái hơi thở, thì cái điều đó là điều tốt.
Chứ quý thầy đừng có lo mà phải là phá cái âm thanh, hoặc là phá cái hơi thở, phải là tịnh chỉ cái này, đừng có lo cái chuyện xa vời đó đi, đừng có nghĩ lo đi. Mà hãy nghĩ ngay cái chỗ mà các thầy phải lìa cho được các ác pháp nè: tham, sân, si phải lìa nè, lòng tham muốn của mình phải lìa nè.
Lần lượt quý thầy tu, rồi quý thầy sẽ bỏ xả hết, tự nhiên cái tâm của quý thầy nó chín muồi rồi, quý thầy không còn thích thêm một cái bộ đồ mà quý thầy, ngoài cái bộ đồ trong thân này các thầy sẽ bỏ xuống hết, ai xin gì quý thầy cho hết, không cần nữa. Đó là lúc bây giờ quý thầy tự nhiên mà quý thầy xả.
Còn bây giờ quý thầy xả chớ quý thầy tiếc. Có cái sự bắt buộc của quý thầy để mà xả thôi, chứ sự thật ra thì các thầy chưa phải là thật tâm mà để xả.
Cho nên các thầy cứ tu đi rồi các thầy sẽ thấy tự nó nó xả, nó xả cho đến khi các thầy thấy nó thanh thản, chừng nào nó có trạng thái an lạc của cái sự xả ly đó, thì nó giúp cho các thầy thấy xả nó rất là thảnh thơi, thảnh thơi cho cái cuộc sống tu hành của mình.
Cho nên các thầy phải nỗ lực thực hiện là chấp nhận một cái pháp, do cái pháp nào mà quý thầy thấy kết quả của cái tâm mà ly dục, ly bất thiện pháp, làm cho lậu hoặc nó không còn nữa, thì tức là quý thầy lấy cái pháp đó mà làm cái chuẩn để mà đi tới cuối cùng để giải thoát, không khéo uổng cuộc đời quý thầy mà lăng xăng pháp này đến pháp kia.
Cho nên đây là cái bài pháp cuối cùng trong cái ngày mà học cái giới hành cuối cùng, Thầy xin nhắc lại để cho quý thầy thấy được, rút tỉa được những cái kinh nghiệm của mình tu tập trong cái thời gian qua. Và đồng thời chấp nhận một cái pháp, quyết định chết với cái pháp đó, thì các thầy sẽ đạt được.
Chớ còn quý thầy nay tu Tứ Chánh Cần, mai tu Tứ Niệm Xứ, mốt thì tu Tứ Vô Lượng Tâm thì kiểu đó là quý thầy chết đó, tu không có rồi đâu! Rồi bữa kia thì lo tu Tứ Thiền, Nhị Thiền thì chết đó.
Còn cái người nào mà chấp nhận rằng cái giai đoạn hai của thiền định, thì bắt đầu cái tâm ly dục, ly ác pháp của mình mà chưa ly thì mình, quý thầy kết hợp với những trạng thái của tâm mình ở trong các định Tam Thiền hay Nhị Thiền, thì mình kết hợp mình hướng tâm mình xả ly nó ra. Thì cũng ở trong cái giai đoạn hai đó mà tu từ Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền mà xả nó ra, thì nó sẽ ở trong cái trạng thái nó sẽ xả.
Đó thì như vậy là nó sẽ không mất thì giờ. Bây giờ các thầy đang ở trong cái trạng thái mà nỗ lực, trong cái trạng thái phá ngủ nè, phá hôn trầm nè, phá những cái trạng thái âm thanh nè, thì trong cái trạng thái quý thầy biết rằng mình đang ở trong cái trạng thái yên lặng rồi, không có niệm vọng tưởng rồi, thì ngay đó quý thầy ở trong trạng thái từ cái Sơ Thiền đó đi đến Tam Thiền, thì quý thầy phải dùng chỗ cái trạng thái đó để mà xả ly các ác pháp và cái tâm ham muốn của quý thầy. Nếu nó còn thì quý thầy càng xả càng tốt, để giúp cho quý thầy đạt được cái Tứ Thiền nó sẽ dễ dàng.
(29:01) Đó là cách thức mình biết dụng và mình biết câu hữu với cái Định Vô Lậu ở trong cái trạng thái của Nhị Thiền đến Tam Thiền, thì mình cũng xả ly tất cả những cái đó đi. Chớ còn cần gì mà mình phải đi vào trong định cho sớm, mình đâu cần. Nhưng mà cái xả ly được rồi thì bắt đầu mình vô đó rất dễ rồi, không cần gì nữa.
Đó thì quý thầy nhớ, ở đây là cái quan trọng của đạo Phật là cái chỗ mà ly dục, ly ác pháp của cái Sơ Thiền.
Mà vì cái Sơ Thiền của mình nó đã không có chỉnh, nó không có chín chắn được, nó còn có sự sơ sót, nó có xả nhưng mà chưa sạch, thì bắt đầu bây giờ mình đang ở trong cái giai đoạn của cái trạng thái của Nhị Thiền mà đến Tam Thiền, bây giờ nó hết vọng tưởng thì tức là trạng thái Nhị Thiền đến Tam Thiền, do đó ở trạng thái đó phải bắt đầu mình xả, để cho nó, cái Sơ Thiền cho nó hoàn chỉnh được cái ly dục, ly ác pháp. Thì từ đó mình bước vào cái Tứ Thiền rất là dễ dàng không còn khó nữa.
Đó là cách thức tu.
Cho nên ở đây, hoàn toàn đạo Phật rất là dễ dàng, có một số pháp mà để chúng ta biết đặt trên Tứ Niệm Xứ mà chúng ta tu tập.
Nói thì cho nhiều, luận cho nhiều, nói cho nhiều, cứ nói thì các thầy thấy rằng nghe được Thầy thuyết giảng thì nó phấn khởi được có một hai ngày à, sau đó mấy ngày rồi thì bắt đầu mới xuống dốc hết.
Rồi nghe được thuyết giảng thì nó phấn khởi được tiếp tục tu thêm mấy ngày nữa. Và cứ như vậy Thầy làm cái, kêu là, coi như là cái máy mà sạc pin cho quý thầy, để cho quý thầy tăng lên, chứ còn sự thật ra không phải do chính quý thầy đã chấp nhận cái pháp để mà thực hiện nó.
Còn ở đây khi mà giảng rồi, thì quý thầy chấp nhận nó rồi bắt đầu quý thầy sống đúng cái hạnh của nó, giới hạnh. Quý thầy sẽ nỗ lực, quý thầy sẽ thực hiện được cái sự giải thoát. Chọn lấy một pháp, đừng có lấy nhiều.
À bây giờ các thầy nhớ hết rồi phải không? Nỗ lực đi! Đừng có nghĩ ngợi gì nhiều hết, lấy một pháp mà mình đã chọn, lấy cái pháp nào có thể mà tu đến giải thoát cuối cùng. Cũng như các con bây giờ phải như vậy, phải nỗ lực thực hiện để xả cái tâm.
Chứ không khéo để cái tâm của mình nó cứ nay vầy mai khác mà nó, Thầy hồi nãy có nói rồi, cái Bất Động Tâm mà, cái định Bất Động Tâm là cái định ly dục, ly ác pháp đó. Từ đây về sau các con phải lấy cái định đó mà làm cái định quan trọng nhất cho cuộc đời tu hành của mình, mình phải luôn luôn hoàn toàn là giữ tâm bất động.
Nếu giữ tâm bất động được thì các thầy, các con đã trở thành một bậc Thánh nhân rồi!
(31:09) Hôm nay tiếp tục Thầy, sau cái giờ giảng Thầy sẽ kiểm tra lại cái thời tu của mấy con, để Thầy xem coi cách thức ngồi coi nó vững chưa. Và đầu tiên thì Thầy sẽ bắt đầu Thầy trả lời những cái câu hỏi. Đây là những cái sự tu tập, hỏi ra để cho nó biết cách thức mà tu tập thực hành cho nó đúng.
Cô Liễu Tâm này thì cô ở ngoài Hà Nội, cô gởi cho thầy một bứt thơ. Thì cô cũng đang ở trong, người cư sĩ ở trong gia đình, nhưng mà cô lập cái thời khóa cách thức tu, hỏi Thầy coi thử coi sự tu tập như vậy có đúng không, cho nên Thầy có trả lời.
Đầu tiên thì cô hỏi:
“Kính bạch Thầy! Con xin thưa hỏi Thầy về sự tu tập của con, xin Thầy từ bi chỉ giáo!
Theo như trong cuốn tập, Thầy đã dạy con tu tập định Chánh Niệm Tỉnh Giác. Về nhà con thực hành, con chia ngày hai thời, mỗi thời năm phút. Và cách nhau một phút con lại nhắc chừng là “Ăn cơm, tôi biết tôi ăn cơm!” Như vậy con mới tập tỉnh thức được năm phút không có thất niệm. Thưa thầy, tu như vậy có được không?”
Nghĩa là cô này cổ tập trong cái bữa ăn của cô, cô tu tập tỉnh thức trong cái sự ăn uống. Mà cô chia làm một ngày cô ăn hai bữa cơm mỗi ngày, cho nên cô lấy cái thời gian đó mà cô tu tập năm phút. Thì như vậy là cái thời cô tu như vậy đó thì tốt hay là xấu, thì cô có trình cho thầy là năm phút cô không có thất niệm.
Nghĩa là suốt trong cái thời gian mà ăn, thì cô tu khoảng độ năm phút, còn những cái thời gian khác thì cô không có tu. Cho nên chỉ năm phút cô tập rất là tỉnh thức trong cái hành động của mình mà không bị thất niệm, tức là không có tạp niệm xen vào.
Đáp: “Nghe pháp, hiểu được pháp là một điều khó.”
Nghĩa là thầy giảng cho các con nghe, từ cái giáo án rồi đến các giới hành, coi vậy chớ nó không đơn giản đâu, nghe mà hiểu được nó không phải dễ.
“Nghe pháp, hiểu pháp và biết áp dụng tu tập đúng pháp, hợp với khả năng và cái thời gian của mình…”
Tức là cái sức của mình, khả năng của mình có cái thời gian nó bao nhiêu đó, mình tu nhiều cũng không được, mà tu ít thì cũng không tốt.
“… thì nó còn khó hơn gấp bội lần”
Nghĩa là gấp đôi lần. Khi mình nghe pháp, rồi mình hiểu được pháp là một điều khó rồi. Thế mà khi biết áp dụng vào cho đúng khả năng, đúng thời gian với mình để mà tu cho đạt được cái kết quả đó, thì nó gấp bội lần, tức là nhân đôi lên.
“Sự trình bày tu tập của con đúng với ý thầy đã dạy. Hãy cố gắng tu tập sẽ có lợi ích và kết quả tốt cho con!”
Nghĩa là cái thời gian tuy rằng tu ở trong những cái bữa cơm như vậy, trong năm phút như vậy, nhưng mà cái kết quả nó không thất niệm. Do đó thì thấy ngay liền cái sự tu tập của mình đã có kết quả liền. Và từ đó mình tập luyện dần, mình tăng lên thì nó sẽ có cái thời gian dài hơn. Hơn là bây giờ mình tu nhiều, tu suốt cái bữa ăn của mình mà cái kết quả nó lại không có, nó có tạp niệm.
Do đó trong bữa ăn vậy, thì trong cái bữa ăn ít ra thì mình cũng từ ba mươi phút, người nào nhanh lắm thì cũng hai mươi phút một bữa ăn, có người ăn lâu thì cũng cả tiếng đồng hồ, nhưng mà người ta chỉ tu có năm phút.
Đó thì các con thấy, phân chia để cho hợp với khả năng của mình tu là một điều rất là khó chớ không phải dễ. Mà tu phải đạt được cái chất lượng, cái kết quả, chứ tu mà không có kết quả thì đừng có nên tu, bởi vì mình tu mà không có kết quả thì tức là dậm chân tại chỗ, tu hoài nó không tới đâu.
Đó là cái cách thức mà tu tập cho nó đạt được kết quả. Vì vậy mà hôm nay thì cô tuy ở miền Bắc xa xôi mình, nhưng cô cũng đạt được những kết quả tu, và cái bức thư mà Thầy sẽ gởi lại cho cô cũng là một cái niềm tin cho cô nỗ lực, cô tiến tu hơn.
(35:21) Hỏi: “Ngoài hai thời chính…”
Hai thời chính tức là hai bữa cơm đó.
“Ngoài hai thời chính của hai bữa cơm ra, con làm gì, đi, đứng hoặc nấu cơm, giặt đồ v.v., con đều chú ý vào hành động làm và nhắc tâm phải luôn định trên thân mình. Nếu con đi ra ngoài thì con nhắc tâm…”
Nghĩa là trong lúc mà làm công việc ở trong nhà đi tới đi lui, thì cô thường nhắc tâm, thì cái này cô diễn tả nó không được rõ, cái chỗ hỏi câu hỏi này thì nó không được rõ. Rồi cô nói, khi mà cô đi ra ngoài khỏi nhà đó, thì cô nhắc tâm:
“… chú ý vào bước chân. Đồng thời thì con kết hợp với tâm từ để tránh dẫm lên chúng sanh ở bước chân. Nếu lúc nào con ngồi nghỉ, thân không hành động thì con nhắc tâm thanh thản, vô sự hoặc nhắc tâm như cục đất.
Kính bạch Thầy! Con tu như vậy có đúng không?”
Đáp: “Ngoài hai thời chính của hai bữa cơm ra con tu Thân Hành Niệm,…”
Nghĩa là cái thân động lúc nào mình tu theo lúc nấy.
“… thân làm việc gì biết làm việc nấy, Định Sáng Suốt, tâm thanh thản vô sự và Định Vô Lậu, tâm như đất. Nếu thời gian thực hành tu như vậy con nên xét:”
Phải cẩn thận kỹ lưỡng xét.
“Một là cơ thể và tinh thần có thoải mái không?”
Nếu mình tu liên tục như vậy mà thấy cơ thể và tinh thần mình không thoải mái thì nó là sai rồi.
“Hai: chất lượng tu có đạt tốt không?”
Nghĩa là mình coi như là tu liên tục đó. Thì mình phải xét coi nó có kết quả không, nếu mà nó không có kết quả thì phải tu nó có thời gian nhất định, chớ không phải tu liên tục như vậy. Ý Thầy muốn nói, trả lời như vậy.
“Nếu cả hai đều tốt thì con nên gắng sức tu tập sẽ có lợi ích lớn và kết quả tốt.”
Nghĩa là nếu mà trong cái thời gian mà tu vậy đó, mà nó tốt, tức là nó có chất lượng cao, nó không tạp niệm, nó không vô ký, thì tức là nó tốt, thì mình sẽ tiếp tục mình tu thì nó mau lắm.
Nhưng mà sợ khi mình tu như vậy, nó không đạt được cái chất lượng, vì nó chiếm trọn hết cả cái thời gian của mình. Cái thân của mình ít có khi nào mà nó ngồi yên, mà ngồi yên thì mình lại tu Định Sáng Suốt nữa rồi, thanh thản vô sự rồi, cho nên lúc nào mình cũng tu hết, và như vậy chắc chắn là cái sức con người không thể làm được cái điều đó.
Cho nên nếu mà nó tốt thì tu, nếu mà không tốt thì phải sửa lại cái thời khóa, chớ không thể được để như vậy.
(38:02) Hỏi: “Định Vô Lậu, con cũng đặt hai thời, mỗi thời mười lăm phút. Ngoài thời khóa đó ra, con gặp duyên cảnh gì đến, nếu là ác pháp con quán xét nhân quả, và con quán vô thường, duyên giả hợp, không có ngã v.v.”
Thì khi mà gặp các ác pháp, gặp đối tượng nó làm cho tâm mình nó có cái chướng ngại thì mình phải xét nó qua nhân quả, rồi quán nó vô thường, duyên hợp. Thì đây là một cái lối ở trong kinh sách chớ nó không phải là cái thực hành, đây là những cái danh từ. Nhưng cô thì cũng thuộc về những danh từ ở trong kinh sách nhiều.
“Định Vô Lậu con đặt hai thời, mỗi thời mười lăm phút, ngoài thời khóa đó ra con gặp duyên cảnh gì…”
Nghĩa là trong khi mà mình tu mười lăm phút đó, là Định Vô Lậu thì mình đặt, mình cũng quán nào là bất tịnh, nào là vô thường, nào là khổ, nào không, nào vô ngã, nào là duyên giả hợp… tất cả những cái hỏi đó đều là nằm ở trong cái lý của Phật pháp đã dạy cho mình quán xét như vậy. Thì trong cái thời mà tu mười lăm phút thì mình cũng quán như vậy.
Sau cái thời mười lăm phút đó thì mình gặp duyên cảnh, thí dụ như con cái nó rầy rà đánh lộn, hay hoặc là gia đình nó bất an, hay hoặc là chòm xóm nó có điều gì xảy ra xích mích, thì tất cả những cái đó đó, thì cô cũng tiếp tục cô quán xét nhân quả để mà vô thường, để mà xóa bỏ cái tâm giận hờn, phiền não hay bất toại nguyện.
Thì trong cái sự tu tập như vậy, thì nói ra thì phải nói rằng đây là cái tổng quát, quá tổng quát, cho nên chưa chắc gì mà đã làm chủ được trong khi mình mới tu. Cho nên ở đây thì Thầy trả lời.
Đáp: “Biết pháp tu, biết vạch ra phương hướng để áp dụng pháp vào tu là một điều rất khó, thế con đã vạch ra phương hướng áp dụng pháp tu rất rõ ràng và cụ thể. Áp dụng như vậy, đời sống của con không còn đau khổ nữa, nếu con đem hết nhiệt tâm và nghị lực ra thực hành.”
Ở cái chỗ này các con phải chú ý chỗ mà Thầy ghi “đem hết nhiệt tâm và nghị lực ra thực hành”. Tức là khi mình vạch ra cái thời khóa như vậy là cái nhiệt tâm của mình hết sức cao, và cái nghị lực của mình phải tu dữ lắm chớ còn lơ mơ thì nó không đạt đâu.
Nghĩa là ý của Thầy muốn nói vậy, nhưng mà Thầy không nói rằng, con vạch ra cái đường lối đó thì nó rõ ràng cụ thể rồi đó, nhưng mà cái sức con có chịu đựng nổi không đó?
Cho nên ở đây Thầy chỉ nhắc nhở, thay vì Thầy nói nên tu cho có giờ, có giấc hẳn hòi thì nó cụ thể, nó rõ ràng, nhưng mà Thầy thì không nói vậy, Thầy lại nói: Nếu mà biết áp dụng đúng như mình đã vạch ra cái phương hướng như vậy đó, mà cái sức của mình mà tu nổi đó, thì mình sẽ không còn đau khổ nữa.
Thì nếu mà muốn không còn đau khổ nữa, thì tức là con phải đem hết cái nhiệt tâm và cái nghị lực của mình ra mà thực hành, chớ không phải là lơ mơ được. Mà nó làm áp dụng theo cái thời khóa mà đặt ra như vậy là nó rõ ràng, nó cụ thể đó, nhưng mà có một cái là, cái nhiệt tâm, cái sức lực, cái nghị lực của mình có chịu nổi hay là không? Cái điều đó là một điều quan trọng nhất!
(41:21) Hôm nay Thầy giảng như vậy có nghĩa là để cho các con thấy rằng, tùy ở cái sức, cái khả năng của mình, nhiều khi mình đặt ra một cái vấn đề mà nó lại quá sức mình, cho nên mình làm không có xuể. Cũng như mình đặt ra một cái phương hướng, mà cái phương hướng đó mình ôm không có gọn, do đó mình sẽ làm không thành công.
Đó thì hầu hết là các con thấy, khi nghe cái giáo pháp Thầy dạy thì các con tự đặt mình vào ở trong cái vị trí áp dụng, thì phải biết được cái thời gian của cái sức của mình tu tập. Chứ không khéo mà đặt nó cụ thể rõ ràng đó, nhưng mà có thể nó quá sức mình rồi thì mình tu cũng không nổi nữa.
Mình biết cái nhiệt tâm mình đến mức độ nào, mình còn cái quyết liều tử để cho mình thực hiện con đường này, hay là mình còn đang sợ chết? Thì mình đặt ra như vậy thì coi chừng mình tu không tới đó. Rồi cái nghị lực của mình, nó có mạnh mẽ chịu đựng được những cái chỗ mà nó thử thách, mà nó mệt nhọc mà khi mình thực hành nó suốt cả thời gian dài như vậy, mình có chịu được không? Đó là những cái khó!
(42:27) Kế câu hỏi kế:
“Thưa Thầy! Con hiểu lý duyên khởi có đồng nghĩa với duyên sanh không? Xin Thầy từ bi chỉ giáo để con khỏi lầm lạc!”
Bởi vì hầu như người ta hiểu cái lý duyên khởi đó, thì nó giống như cái lý duyên sanh. Nhưng mà ở trong kinh điển thì nó có hai cái nghĩa rất là rõ ràng.
Trong Kinh Hoa Nghiêm tức là kinh phát triển Đại Thừa, thì nó diễn tả cái sự trùng trùng duyên khởi. Cho nên ở đây hỏi chữ duyên khởi với duyên sanh, thì chữ trùng trùng duyên khởi này trong Hoa Nghiêm, tức là thế giới Hoa Nghiêm nó trùng trùng duyên khởi, từ cái pháp này nó sanh khởi các pháp khác.
Cũng như bây giờ trong khi mình đang nói chuyện, tức là cái pháp mà đang nói chuyện này, nó sẽ sanh khởi cái pháp, khi mà vừa thoát ra cái lời nói trái tai người khác thì ngay đó nó sanh cái pháp khác rồi, từ đó nó sân giận, rồi từ sân giận nó đi đến các pháp mà đánh đập nhau, từ đó nó sanh ra những cái ác pháp nó trùng trùng, nó khởi ra. Còn các pháp thiện thì cũng từ đó nó cũng trùng trùng nó khời ra, từ đó nó nối tiếp những cái pháp đó. Thì cái này nó không phải là cái đồng nghĩa với duyên sanh.
Duyên sanh thì Đức Phật chỉ có, ở trong Thập Nhị Nhân Duyên thì nó chỉ có mười hai duyên mà thôi. Còn cái kia nó trùng trùng, nó nhiều vô lượng, nó không có thể tính đếm được. Nó tùy theo các cái pháp đó mà nó sanh khởi liên tục, từ pháp này nó chuyển biến tới pháp khác, nó trùng trùng duyên khời, cho nên nó vô lượng.
Còn cái duyên sanh thì nó nằm gọn ở trong Thập Nhị Nhân Duyên mà thôi. Hễ cái này có thì cái kia có, mà cái này không thì cái kia không, cái này diệt thì cái kia diệt. Vì cái duyên sanh thì nó chỉ nằm gọn ở trong mười hai duyên, cho nên mười hai duyên này diệt sạch thì tức là thế giới giải thoát, mà mười hai duyên này sanh thì thế giới nó đau khổ.
Nghĩa là Đức Phật muốn thế giới tức là cái cuộc sống của con người gắn liền vào với thân, thọ, tâm, pháp của họ, cho nên cái cuộc sống nó gắn liền, mà cái thế giới, cái mười hai duyên nó hợp lại với cái thân, thọ, tâm, pháp của cái người đó, lồng ở trong cái cuộc sống.
Đó cho nên thí dụ như cái Thủ, cái Hữu thì nó đâu có nằm, cái đó là cái ngã sở, nó nằm ở ngoài rồi, nó không có nằm ở trong cái thân này. Còn cái Thức, cái Hành, cái Lục Nhập, cái Ái, cái Xúc thì nó nằm ở trong cái thân của chúng ta, cái Thọ cũng nằm trong thân của chúng ta. Còn cái môi trường xung quanh của chúng ta nó là từ cái Sanh, cái Thủ, cái Hữu, đó là cái môi trường ở xung quanh của chúng ta.
Cho nên vừa là mình mà vừa là các pháp ở xung quanh mình, cho nên Đức Phật nói đó gọi là Thập Nhị Nhân Duyên hay Mười Hai Nhân Duyên. Mà Đức Phật gọi Thập Nhị Nhân Duyên đó là một cái thế giới có mình, có mọi vật xung quanh, có ngã, có ngã sở, có mình, có pháp.
Cho nên nó toàn bộ là cái thế giới này, nó hợp lại thì nó thành ra một cái thế giới khổ. Mà nó rã ra, nó tan rã, nó hoại diệt thì cái thế giới đó nó hết đau khổ.
Cho nên cái nghĩa của duyên sanh, nó không phải là cái nghĩa của duyên khởi. Còn duyên khởi thì nó là trùng trùng duyên khởi, vô lượng lận.
Nó là về cái chữ nghĩa, mình phải hiểu rõ, không khéo thì mình gặp cái duyên khởi thì mình nghĩ rằng duyên khởi cũng như duyên sanh thì không đúng.
(45:46) Hỏi: “Con tu hơi thở bốn giây để ổn định hơi thở, con thấy rất an ổn và ngồi thở rất tỉnh, không có vọng tưởng như vậy có được không thưa Thầy?”
Đây là cô chỉ mới tập ổn định hơi thở trong bốn giây, cô thấy rất an ổn ở trong cái bốn giây, nó không có mệt nhọc.
Đáp: “Tập ổn định hơi thở bốn giây như vậy thì rất tốt, sau khi ổn định hơi thở xong con tiếp tục tu tập Định Niệm Hơi Thở và câu hữu các pháp khác để đạt mục đích mình tu.”
Đó là, bây giờ đầu tiên thì cô Liễu Tâm này cổ tu tập ổn định cái hơi thở, bốn giây, tức là cô thở hơi thở bình thường cô là bốn giây, cho nên cô tập cái hơi thở đó cho nó quen. Nhưng mà cô tập bốn giây thì cô thấy rất an ổn, hơi thở nó rất an ổn, nó không có làm cho cô mệt nhọc hay khó chịu. Vì vậy đó mà, bắt đầu cô khi mà ổn định được…
(Xem tiếp ở Pháp hành 35)
HẾT BĂNG
PHÁP HÀNH 35 - PHÓNG SANH VỚI LÒNG TỪ BI
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Thời gian: 1998
Thời lượng: [47:39]
https://thuvienchonnhu.net/audios/phap-hanh-35-phong-sanh-voi-long-tu-bi.mp3
(Tiếp theoPháp hành 34)
(0:00) Định Niệm Hơi Thở thì luôn luôn nó câu hữu với những cái định khác, cái pháp khác để cho nó đạt cái mục đích. Thí dụ như cái Định Niệm Hơi Thở vốn mục đích để đi giúp cho chúng ta nương vào cái sức tỉnh của hơi thở đó để mà chúng ta ly dục ly ác pháp, hay là chúng ta muốn tịnh chỉ một cái gì đó thì chúng ta nương vào hơi thở.
Cho nên khi mà bước qua cái Định Niệm Hơi Thở thì chúng ta không có còn đếm hơi thở nữa, mà chúng ta lại dùng pháp hướng kèm theo nó. Pháp hướng đó nhằm cái mục đích để làm gì?
Thí dụ như mình tu cái Định Niệm Hơi Thở, thí dụ, mình “Quán vô thường, hít vô tôi biết tôi hít vô, quán vô thường thở ra tôi biết tôi thở ra”, đó là mình kết hợp với Định Vô Lậu, dùng cái pháp Vô Lậu để quán vô thường các pháp, và đồng thời mình dùng pháp hướng đó mà mình nhắc với cái hơi thở, làm cho cái tâm mình nó vừa tỉnh trong hơi thở mà nó vừa có sự xả ly. Nó làm cho ly tham, ly sân và ly si.
(01:06) Cho nên khi mà bước sang qua cái Định Niệm Hơi Thở thì chúng ta không có còn dùng nó là sổ tức hay đếm nữa, mà chúng ta chỉ dùng cái pháp hướng kèm theo năm ba hơi thở hay mười hơi thở thì chúng ta cho một câu pháp hướng, để nhắc cái tâm mình, để ly cái tâm tham, tâm sân và tâm si của mình.
Hay hoặc là mình có một cái tâm trạng nào đó thương nhớ, hay hoặc là mình có một cái thọ nào đó làm cho cái thân mình khổ, đang bệnh tật, tâm mình nó dao động, cho nên vì vậy mình cũng nương cái hơi thở mình nhắc: “Cái thọ hãy đi đi, hít vô tôi biết tôi hít vô. Cái thọ hãy đi đi, thở ra tôi biết tôi thở ra!”
Đó thì như vậy là mình vừa nương hơi thở để tập tỉnh thức, mà cũng vừa cái nương hơi thở đó để mà xả ly cái nỗi khổ ở trên thân, thọ, tâm, pháp của mình. Tu như vậy mình kết hợp nó làm cho tâm mình không dao động, vì vậy mà trước cái thọ mà mình rất là bình tĩnh. Do đó cái thọ nó sẽ lui dần nó không làm cho mình không khổ đau nữa.
Cho nên tu theo đạo Phật chúng ta thấy có kết quả. Và cái kết quả giải thoát trước cái thọ, trước mọi cái sự việc làm cho chúng ta bất an, bất toại nguyện, nhưng chúng ta dùng pháp Định Niệm Hơi Thở câu hữu với Định Vô Lậu thì chúng ta sẽ thấy tâm mình được an liền, nó không còn khổ nữa.
Như bây giờ mình đang bị cảm, nhức đầu nó khó chịu, do đó thì mình ngồi lại mình nương hơi thở mình nhắc: “Thọ nhức đầu này phải đi, hít vô tôi biết tôi hít vô. Cái thọ nhức đầu này phải đi, tôi thở ra tôi biết tôi thở ra”. Mình nương hơi thở đi ra mình biết cái thọ nó đi ra, nó không còn ở trong thân mình nữa, đó là gọi là câu hữu.
Cho nên ở đây cô này nhận được cái lời dạy của Thầy rất rõ, cho nên cô biết sắp xếp cái chỗ tu, bắt đầu tu tập ổn định.
Còn ngay bây giờ nếu các con mới vô tu tập, thuở giờ chưa tập ổn định, thí vụ như: “Quán vô thường, tôi hít vô tôi biết tôi hít vô, quán vô thường tôi thở ra tôi biết tôi thở ra!”, thì như vậy là rõ ràng là mình chưa có ổn định hơi thở.
Còn cô này cô biết ổn định hơi thở rồi cô mới áp dụng Định Niệm Hơi Thở. Đó thì như vậy nó mới đi từng cái bước tu tập, nó mới có cái sự kết quả cụ thể.
(03:29) Hỏi: “Để xây dựng một tụ điểm với hơi thở hai mươi giây là vừa với sức của con, một ngày con tu bốn lần, mỗi lần cách xa hai giờ, nếu con tu thuần thục thì con có thể tăng số lần lên được không thưa Thầy?”
Đây là cách thức tu tụ điểm. Trên bước đường tu tập thì chúng ta phải tu tập cái phần tụ điểm, tức là chúng ta phải có một cái phần để sáu cái thức, tức là nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân và ý thức của chúng ta, sau này nó sẽ nằm chặt ở trên cái tụ điểm đó mà nó không di chuyển qua lại.
Cho nên chúng ta phải dành ra, khi mà ổn định hơi thở xong rồi, thì chúng ta phải dành ra cái thời gian mà tập tu cái tụ điểm, để làm cho một cái chỗ mà tâm chúng ta phải bám chặt vào cái chỗ đó, do vì vậy đó mà chúng ta không mất cái chỗ nằm để mà chúng ta nhập định.
Mà Thầy đã giảng rồi, đó là một cái tựa điểm để mà chúng ta làm những cái việc vĩ đại sau này. Bởi vì nằm ở trên đó thì nó mới gọi là định, mà không có nằm được ở một chỗ như vậy thì nó không định.
Cho nên cô này cổ cũng hiểu được cái lời dạy của Thầy, cô cũng không có bỏ sót, cho nên cô tu tập cái tụ điểm. Mà cái hơi thở của cô thì hai mươi giây. Nhưng ở đây cô có ghi, nói cho Thầy, mà không rõ là cô sẽ tu một hơi thở hai mươi giây trong bốn lần đó mà mỗi lần chỉ một hơi thở, hay hoặc là mấy hơi thở thì cô không có ghi rõ.
Cho nên ở đây thay vì cô sẽ tu một hơi thở đó rồi cô nghỉ, rồi đến cái thời khác cô tu một lần nữa của một hơi thở, thì đây là cái giai đoạn đầu tiên.
Còn cái giai đoạn kế thứ hai, thì cô thở một hơi thở hai mươi giây, thì cô tiếp tục cô nghỉ khoảng một phút rồi cô lại thở hai mươi giây lại một lần nữa, để tạo thành tụ điểm. Như vậy cô sẽ tu trong khoảng bốn lần hay là năm lần rồi cô xả nghỉ, đó là kể như là một thời tu tụ điểm. Và cứ như vậy mà tăng cái hơi thở lên.
Thí dụ bây giờ mình tu một hơi thở, thì sau đó mình tăng dần lên năm hơi thở, mà từ năm đến mười hơi thở là tối đa chứ không được tăng lên nữa. Mà chỉ độ một hơi thở mà tụ điểm đã tạo được, thì chúng ta cũng không cần phải tăng lên tới năm, mười hơi thở nữa.
Khi nào mà chúng ta gom tâm thì chúng ta thấy rằng cái tâm chúng ta nó bám chặt vào cái chỗ hơi thở xuất phát thở ra, thở vô, thì biết là cái tâm nó không di chuyển thì chúng ta không cần tu tiếp nữa, mà chúng ta xả cái hơi thở đó đi, tiếp tục tu cái khác. Đó là cách thức tu về cái tụ điểm.
Còn nếu mà nó chưa bám chặt thì chúng ta tăng lên hai hơi thở, ba hơi thở, bốn hơi thở cho đến mười hơi thở, tối đa là mười hơi thở chứ không được hơn mười hơi thở. Đó thì như vậy là mười hơi thở là chúng ta cũng đã tạo được cái tụ điểm rồi.
Đáp: “Không cần phải tăng lên, chỉ khi nào tâm con bám chặt vào tụ điểm thì con không cần thở hai mươi giây nữa, mà thở lại bốn giây bình thường để tu tập Định Niệm Hơi Thở mà tâm không thay đổi vị trí.”
Lúc bấy giờ mình trở về bốn giây, mình thấy có cái tụ điểm rồi, tâm nó thường bám rồi, nó không có còn có chạy qua chạy lại nữa, thì do đó mình trở về hơi thở bình thường bốn giây, và mình lại tập Định Niệm Hơi Thở để cho mình quán mình xả ly, ly tham, ly sân, ly si ra khỏi cái tâm của mình.
Đó mục đích là mình làm sao mà ly dục ly ác pháp, làm sao mà diệt ngã xả tâm, đó là cái mục đích của mình, chớ không phải là loanh quanh ở trong cái hơi thở không. Đó là chính mình tập để ổn định và để có tụ điểm, để rồi mình trở về với Định Niệm Hơi Thở mà mình hướng tâm, để mà nó ly tham, ly sân ra hết.
(7:22) Hỏi: “Con xin trình Thầy về cách đi kinh hành để tập tỉnh thức: Một ngày tu tập hai thời, mỗi thời là một phút. Cứ bảy mươi lăm bước chân của con là ứng với một phút. Con thấy một phút con đi như vậy không có tạp niệm xen vào, sau một tuần con tăng lên hai phút, và cứ như vậy con có thể tăng dần lên mãi có được không, thưa Thầy?”
Đáp: “Được nhưng phải lưu ý: tăng lên phải đạt tỉnh thức cao, có nghĩa là không tạp niệm và vô ký.”
Nghĩa là cứ tiến tu như vậy cho đến khi mà từ một giờ đến hai giờ mà tâm tỉnh thức không tạp niệm thì đó là quá tỉnh thức rồi. Có khi có thể nói rằng mình tu suốt cả ngày mười hai tiếng đồng hồ luôn, mà đi kinh hành như vậy, hoặc làm công việc như vậy mà nó không tạp niệm xen vào thì đó là cái sức tỉnh của mình rất lớn.
Và cái sự trình bày của cô mà tập đi kinh hành như vậy thì rất đúng: Bắt đầu mình tu một phút rồi dần đó mình đi dần dần mình tăng lên hai phút rồi ba phút, năm phút. Cách thức tu rất là cụ thể, có tiến bộ nhiều.
(08:24) Hỏi: “Con thấy đếm bảy mươi lăm bước thì không sao, nếu cứ đếm đến một trăm bước hoặc hơn nữa thì lại bị vô ký. Như vậy có lẽ tại con tu chưa đúng phải không, thưa Thầy?”
Đó là trình bày qua cái chỗ đó không phải tu không đúng, mà tu quá cái sức của mình, tu đó là tu đúng nhưng mà vì quá sức. Coi như là mình tăng lên, thay vì bảy mươi lăm bước này thì nó ứng cho một phút, mà mình tu tới một trăm bước, thì tức là mình sẽ tu lên cao hơn một phút mấy, thì nó sẽ rơi vào vô ký.
Cho nên cái sức của mình không được tăng lên, thì mình phải tu nó trong một tuần hay hoặc là hai tuần cho thuần thục bảy mươi lăm bước này. Rồi kế đó thì mình mới tăng lên mình mới tu tới một trăm, hai trăm bước mới được. Lần lượt mình tu dần dần tăng lên.
Đáp: “Từ bảy mươi lăm bước đến một trăm bước hoặc hơn nữa thì bị rơi vào vô ký, tức là con đã tu quá khả năng tỉnh thức của mình.”
Sức tỉnh thức của mình chỉ có bảy mươi lăm bước mà thôi, tu hơn thì bị đó. Đây cũng là một cái vấn đề tu tập rất cụ thể rõ ràng để thấy rằng cái sức của mình nó ở mức độ nào.
“Con nên lấy tiêu chuẩn bẩy mươi lăm bước mà tu tập, chừng nào sức tỉnh thức tăng lên thì con sẽ tăng số bước lên thêm.”
(9:53) Hỏi: “Ngoài thời khóa ra, lúc nào đi phố hoặc đi chợ thì con đi nhìn xuống đất, chú ý bước chân và nhắc tâm tỉnh thức Thân Hành Niệm, mắt không được lia láo, chỉ nhìn trước mặt cách hai thước để phòng hộ sáu căn. Nhưng lúc ấy con phải luôn tỉnh thức để phòng xe cộ và không để vô ký xen vào, con tu tập như vậy có được không thưa Thầy?”
Đáp: _“Được! Tu tập như vậy đi tăng thêm sức tỉnh thức mà không phí thì giờ.” _
Nghĩa là trong khi mình đi chợ hay hoặc là đi đâu đó thì mình sử dụng luôn cả cái pháp tu mình như vậy, và cũng là có cái sự phòng hộ mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình đối với những cảnh vật xung quanh, thì đó là nó tăng thêm cái sức tỉnh thức của mình.
Điều đó là điều rất tốt, không có phí thời gian, thay vì mình đi chợ hay hoặc là mình đi đâu đó thì mình không tu, thì đó là phi uổng cái thời gian mình tu tập.
(11:02) Hỏi: “Thưa Thầy, hôm trước có một chị hỏi con về lúc đi xe đạp thì tu tỉnh thức như thế nào? Con bảo: khi ngồi lên xe thì nhắc tâm: “Tôi đang đạp xe tôi biết tôi đang đạp xe!” Và ý thức vào chân đạp lên đạp xuống, và còn phải tỉnh thức xem có vật gì cản đường không để còn tránh. Nếu thất niệm lọt vào thì vô ký ngoan không là dễ gây tai nạn. Cứ thỉnh thoảng lại nhắc câu pháp hướng trên để giúp tâm tỉnh thức, không bị tạp niệm xen vào và vô ký.”
Đó là cô trình lại cái chỗ mà cô dạy người khác mà đi ở trên cái xe đạp, thì Thầy thấy rất là, nhận ra được cái cách thức tu mà Thầy đã dạy, thì cô cũng nhận ra kỹ, rất kỹ rõ ràng, chỉ còn áp dụng đúng hay là không.
Đáp: “Con chỉ cho người bạn cách tu tỉnh thức khi đang cưỡi xe đạp là đúng pháp. Nếu hàng ngày tu tập được như vậy thì sức tỉnh thức rất cao, sau này nhập định rất dễ và xả tâm rất tốt.”
Đó là Thầy đáp, nghĩa là chỉ người bạn con tu như vậy đó thì đó là đúng chớ không sai. Nhưng mà cố gắng mà tập được như vậy thì sau này nhập định rất dễ và xả tâm rất tốt.
(12:25) Hỏi: “Xin Thầy chỉ dạy cho con pháp phóng sanh như thế nào đúng chánh pháp?”
Dường như là Thầy đã có trả lời về cái pháp phóng sanh cho một cái người nào đã hỏi một lần rồi, chắc có lẽ là Thầy Chân Thành hỏi thì phải. Nhưng ở đây thì Thầy cũng sẵn sàng đáp luôn, nhưng mà mỗi lần đáp thì nó có những cái làm cho chúng ta hiểu rộng ra thêm chớ cũng không gì mà khó hiểu.
Đáp: “Phóng sanh với lòng từ là luôn luôn lúc nào cũng không làm khổ mình khổ người.”
Nghĩa là mình phóng sanh với lòng từ là luôn lúc nào mình cũng đừng có làm mình khổ mà cũng đừng có làm người khổ, đó gọi là phóng sanh, các con hiểu chưa?
Chớ không phải phóng sanh là đi mua chim cá về phóng sanh mà luôn lúc nào mình cũng làm cho tâm mình giận hờn phiền não đau khổ hết, thì cái đó phóng sanh không có lợi ích đâu. Mà phóng sanh tức là, với cái lòng từ là mình tránh, mình có đừng làm cho người ta đau khổ và chính mình đau khổ.
Mình cũng là một chúng sanh nè, mình đang nhờ cái tâm của mình phóng sanh để cho mình đừng có đau khổ, các con hiểu điều đó.
Khi mà mình giận hờn, mình phiền não, mình đau khổ, thì tức là nhờ có cái người khác mà phóng sanh cho mình, thì ai mà phóng sanh cho mình được? Chỉ có mình mới phóng sanh mình được thôi, làm cho mình nó sống trở lại, nó đừng có đau khổ nữa, tức là làm cho mình đừng khổ đau nữa, tức là phóng sanh đó.
Với cái lòng từ của mình thì luôn luôn lúc nào cũng không làm khổ mình khổ người đó là phóng sanh, và tất cả chúng sanh.
“Phóng sanh với lòng bi là khi nào chúng sanh đang đau khổ…”
Thầy có dạy cái này rồi, đau khổ có duyên gặp mình thì sẵn sàng phóng sanh, không có duyên gặp mình thì không nên đi tìm.
Thí dụ như hiện bây giờ, mình chưa có một cái tâm phiền não giận hờn gì hết, thì luôn luôn mình giữ được cái tâm đó gọi là phóng sanh, phóng sanh được cái tâm của mình. Mình làm cho cái tâm mình tiếp tục nó luôn luôn nó không có phiền não, không có bất toại nguyện, gọi là phóng sanh.
Nhưng mà khi nó có một sự đau khổ, người ta mắng chửi, nó giận nó tức, nó làm cho nó phiền não, nó đau khổ trong lòng nó, thì lúc bấy giờ chúng ta như là, cái tâm chúng ta như là một con vật mà bị thương, bị đau khổ rồi. Thì lúc bấy giờ đó, thì chúng ta phóng sanh với lòng bi của chúng ta đối với ta, thì chúng ta quán xét suy nghĩ để làm cho tâm chúng ta đừng có khổ nữa. Đó là chúng ta phóng sanh với lòng bi.
Còn bây giờ chúng ta giữ cái tâm của mình đừng có cho nó xảy ra một cái chuyện gì phiền não đau khổ hết, cẩn thận ý từ từng chút đó, gọi là phóng sanh lòng từ.
Đó Thầy phân biệt để cho thấy rằng cái chỗ phóng sanh nó đúng ý nghĩa của Phật pháp, chớ không khéo chúng ta đi ra chợ mua tôm cá phóng sanh, đó là cái hình thức phóng sanh chớ không phải là cái phóng sanh đúng.
Vì chính tâm mình đang khổ mà mình không phóng sanh nổi, thì mình phóng sanh cái con vật ở ngoài kia thì nó không có lợi ích gì cho mình nhiều ở đây đâu! Nó chỉ có cái là làm một cái việc phước thiện để mai kia mốt nọ mình có gặp tai nạn gì đó có người cũng phóng sanh mình bằng kiểu đó. Thì như vậy thì mình không phóng sanh cho mình thì đừng có nghĩ phóng sanh cho kẻ khác.
“Vì tất cả chúng sanh đều bị luật nhân quả nghiệp báo đang chi phối, vay trả, trả vay.”
Nghĩa là nói chung mình cũng đang sống ở trong luật nhân quả, cho nên nghe người ta nói một lời nói nào đó, tức là cái nhân mà, họ gieo vào ở lời nói đó, họ làm cho tâm mình trở thành một cái quả đau khổ trong đó tức khắc liền. Cho nên mình luôn luôn bị cái luật nhân quả nó chi phối như vậy, và tất cả chúng sanh đều cũng như vậy.
Mà trong khi mình biết rằng phóng sanh với Tứ Vô Lượng Tâm: Từ, Bi, Hỉ, Xả, vậy thì phóng sanh như thế nào để cho tâm mình thoát ra cảnh khổ đó mới là khó.
Chớ còn hầu hết một số người dạy phóng sanh thì chắc chắn là dạy chúng ta đi ra chợ mua chim cá hoặc rùa trạch, hoặc những con vật bị người ta bắt sắp giết rồi mình mua mình thả gọi là phóng sanh. Ở đây phóng sanh như vậy nghĩa là cạn lắm, cái ý nghĩ đó cạn lắm.
Chúng ta cũng làm, chớ không phải không làm điều đó, nhưng mà nhiều khi chúng ta làm để biến thành người ta có một cái nghề săn bắn chim hoặc là bắt chim để chờ chúng ta phóng sanh. Thì cái chuyện đó càng phóng sanh ra bao nhiêu thì chúng lại bắt vào bấy nhiêu, tức là coi như là thả ra mà bắt, cũng như là bắt cóc bỏ đĩa đó.
Chúng ta thả đây đằng kia chúng bắt, rồi chúng ta cũng lại thả nữa thì không biết chừng nào mà gọi là hết đau khổ. Càng thả ra thì chúng lại càng bắt lại bấy nhiêu!
(17:05) “Luật nhân quả do chúng sanh tạo ra vì thế chúng sanh phải gánh chịu. Ta không thể cứu hay giúp chúng sanh được, chỉ có duyên gặp nhau trong lúc tai họa, hoạn nạn thì ta không thể làm ngơ, mà phải thực hiện tâm bi của mình phóng sanh.”
Đó thì, ở đây cái luật nhân quả, thì tại vì những loài chúng sanh này, loài chim, loài rùa trạch hay là cá tôm… đều là do cái nhân quả cho nên chúng mới sanh làm những con vật đó để mà trả những cái nhân quả.
Thì chúng ta đi tìm, đi kiếm chúng để mà mua để mà thả chúng, thả rồi thì cái nhân quả đó chúng có hết không? Chắc chắn không hết, chúng bắt lại nữa, để mà cho đến khi chúng chết thôi.
Bởi vì cái nhân quả chúng đã tạo ra trong cái đời trước thì đời nay chúng phải mang cái thân đó, phải chịu người ta bắt, rồi người ta chặt đầu, người ta mổ bụng, người ta bỏ lên chảo người ta chiên, người ta nấu, thì cái chuyện cái nhân quả đó thì bây giờ chúng ta làm gì cũng không hết cái nhân quả của chúng sanh đâu.
Cho nên đừng có đi tìm chim cá mà mua một cách mà không có đúng với Chánh Pháp như vậy.
Mà khi mà chúng ta có cái duyên với chúng sanh đó, với một con chim, một con vật đó, chúng ta có duyên với nhau, đi trên đường đi, có nghĩa là chúng ta không có có ý đi vô trong chợ để lại cái chỗ bán chim đó mà mua chim thả, mà chúng ta đi ngang đó, thấy cái người đó họ ngồi họ bán con chim, mà con chim bị cột trói như thế nào, nó nằm một cách rất là đau khổ.
Do cái tình trạng nó quá đau khổ, nó làm động tâm chúng ta, cho nên chúng ta không thể làm ngơ được trước cái cảnh đau khổ đó, mà chúng ta mua bằng với một cái giá dù đắt bao nhiêu, đây là cái nhân duyên của mình với cái con vật đó mà, mình đâu có nỡ, cho nên dù đắt bao nhiêu mình cũng bỏ tiền ra mình mua, mua xong rồi mình đem mình thả con vật đó.
Mình biết là con vật đó cũng sẽ bị người khác bắt chớ không phải không, hay hoặc là cái người bắt này họ sẽ bắt lại. Nhưng mà chúng ta vẫn mua, vì đối trước cái cảnh khổ của người khác ta không có làm ngơ, con vật mà trước cảnh khổ đó ta không làm ngơ.
Nhưng ta đừng đi kiếm cái khổ đau của loài vật. Nếu mà ta đi kiếm thì biết bao nhiêu sự khổ đau của loài vật? Biết bao nhiêu con vật đang khổ đau?
Cũng như bây giờ ta đi kiếm người nghèo đói để mà cho người nghèo đói, thì bây giờ chúng ta đi kiếm thì biết bao nhiêu người, chúng ta làm bao nhiêu tiền để mà cứu giúp họ cho hết?
Đó là cái luật nhân quả của họ mà. Cho nên chúng ta làm sao mà giải quyết được hết cái này. Trừ ra có chính bản thân họ, họ phải giải quyết nhân quả của họ, thì họ mới có đầy đủ cơm ăn áo mặc, họ không có đói khát, chứ chúng ta không giải quyết cái nhân quả cho ai hết đâu.
Vì vậy mà trước mặt chúng ta gặp cảnh khổ thì chúng ta mua mà thả, chứ đừng có nghĩ rằng đi kiếm. Bây giờ cha mẹ của mình ở nhà đau, thôi mình ra chợ, đi vô cái chợ coi thử coi chim cá gì đó mua một mớ về mà thả nó rồi hồi hướng cho cha mẹ mình, điều đó là điều sai.
Luật nhân quả của cha mẹ mình là làm một cái điều gì ác đó, bây giờ mới thọ cái thân bệnh đó, thì bây giờ đó, mình có tạo cách gì cũng không bằng chính cha mẹ mình tạo, từ đó cái tâm cha mẹ mình không dao động trước cái thân bệnh đó, thì cái bệnh nó sẽ mau lành, đó là mình chuyển nhân quả.
Chứ còn mình đem chim cá phóng sanh, để mình nhờ phóng sanh chim cá để làm cha mẹ mình được tuổi thọ tăng lên, bệnh nó giảm đi, nó mạnh, thì cái chuyện đó có thể nói rằng, cái phước nó quá nhỏ, làm cái chuyện lành đó để tạo cái phước mà cha mẹ mình được mạnh thì nó quá ít, nó không bằng đâu.
Mà chính cha mẹ mình trong những cái cơn đau, cơn đau của sức tận cùng chịu đựng của thân mạng của mình, mà cha mẹ đừng có để cái tâm mình dao động. Mà hễ tâm dao động tức là tâm bệnh nữa rồi, thân đã bệnh mà tâm lại bệnh thì hai cái nó gồm lại, nó trở thành một cái thọ rất mạnh, nó làm cho cái người đó sẽ đi vào cái sanh tử luân hồi rất là đau khổ.
Cho nên ở đây cái phần mà phóng sanh thì nghe nó đơn giản, nhưng mà sự thật ra, đúng trong cái giáo lý của đạo Phật thì cái sự phóng sanh này chúng ta phải hiểu qua cái Tứ Vô Lượng Tâm: Từ, Bi, Hỉ, Xả mà chúng ta thực hiện cái phóng sanh, thì nó mới đúng cách.
“Phóng sanh người ta hiểu nghĩa thông thường là mua chim hoặc cá, loài vật khác đem xuống sông, ao, hồ hoặc là vào rừng thả. Phóng sanh còn có nghĩa rộng lớn hơn là thấy chúng sanh đang bị bệnh tật, tai nạn, giam cầm tù tội, bị hiếp đáp v.v. đang thọ khổ, ta giúp đỡ và an ủi làm giảm đi sự khổ hoặc hết khổ.
Phóng sanh còn có nghĩa là tu tập bi tâm. Tu tập bi tâm không có nghĩa là tìm kiếm chúng sanh đang thọ khổ mà tu tập. Tu tập bi tâm tức là thực hiện ngay trên sự đau khổ của thân tâm của mình.”
Đó thì phóng sanh mà ngay tâm bi là mình thực hiện ngay trên cái sự khổ của thân tâm mình. Bây giờ cái thân thọ mình đau nè, mà mình thực hiện được cái bi tâm, tức là lòng thương cái thọ đau khổ của bản thân mình, của cái nghiệp lực của mình nè, của cái nhân quả của mình nè, thì mình làm sao để cho nó hết thọ khổ này. Đó tức là mình phải cứu lấy mình, đó là chính cái chỗ của Phật pháp.
(22:24) “Bởi vậy tu Tứ Vô Lượng Tâm là Từ, Bi, Hỉ, Xả trên thân tâm của mình, như vậy mới gọi là giải thoát hay là thoát khổ.
Từ bi với thiên hạ, chúng sanh là mình thoát khổ hay chăng?”
Nghĩa là mình mua chim cá mình phóng sanh, mình có thoát khổ không? Chắc chắn điều đó không thoát khổ.
Vì mình làm ác mà mình, thí dụ như mình mua chim cá mình phóng sanh mà đi ăn trộm ăn cướp đó, thì tức là người ta cũng bắt mình bỏ tù, người ta cũng tra khảo, hỏi mình đồng bọn mình bao nhiêu người, mấy người, họ không tha mình chút nào đâu! Họ cũng không bao giờ mà bỏ mình ra khỏi tù đâu, họ cũng bắt giam mình.
Cho nên từ bi với thiên hạ, tức là chúng sanh đó, thì mình có thoát khổ hay không? Còn mình từ bi với mình thì mình biết cái tâm bi của mình, tâm từ của mình, thì mình không làm khổ người khác.
Tức là mình đâu có trộm cắp, mình đâu có làm cho người ta tan nát gia đình? Mình từ bi thì mình thương mình, thì mình không có làm cho người khác khổ, thì như vậy tức là mình đã thương mình, thì đó là phóng sanh.
“Hay tăng nghiệp quả thêm cho thiên hạ chúng sanh?’
Nghĩa là bây giờ đó, một chúng sanh nó đang ở trong cái cảnh bất hạnh nghèo khổ là do cái nhân quả đời trước họ đã tạo. Vì vậy bây giờ chúng ta đem cơm gạo đến cho họ, để cho họ thọ thêm cái nghiệp quả nặng thêm chớ làm sao mà dứt được cái nghiệp đó?
Thay vì họ phải nghèo khổ đó để mà trả cái nghiệp của họ bỏn xẻn, ích kỷ kiếp trước, bây giờ để làm cho họ sáng mắt ra, cho nên họ mới mở cái lòng bố thí ra, họ xả ra, còn đằng này, mình lại đem cơm gạo cho họ thêm, tức là cái lòng bỏn xẻn họ lại còn thêm lên nữa, tức là họ lấy của người khác chớ họ không dám bỏ của họ ra. Do đó thì cái nhân quả nghiệp báo đó nó sẽ càng tăng lên, họ sẽ càng khổ hơn và khổ hơn nữa, đói khát họ lại càng đói khát hơn nữa.
Cho nên người mà chưa hiểu nhân quả cho nên tập trung chỗ này, tập trung chỗ kia kêu gọi Phật tử đóng góp này kia để đi cứu trợ đầu này, đầu kia, đầu nọ, tức là quý thầy chưa hiểu nhân quả! Làm cái việc quý thầy tưởng là từ thiện, nhưng mà sự thật đưa người ta đi vào cái nhân quả nghiệp báo, càng tăng lên cái sự nghiệp quả đói khổ họ thêm lên, mà muôn đời họ không có trả được.
Còn trái lại, từ cái cảnh nghèo đó mà họ xả được tâm họ, họ biết nhường cơm sẻ áo cho người khác, thì ngay đó họ đã an ổn được cái tâm khổ đau vì đói khổ của họ.
Đó là cái đường lối của đạo Phật dạy chúng ta làm cái việc từ thiện đúng cách. Còn hiện bây giờ hầu hết là một số quý thầy làm việc từ thiện nó không có đúng cách.
Nói như vậy không có nghĩa là chúng ta không an ủi những người bất hạnh, mà như hồi nãy Thầy đã nói, trước cảnh đói khát của người khác, ta không nỡ tâm, nhưng ta không đi tìm kiếm làm cái việc đó, vì việc đó không thể nào mà đem họ hết khổ đau, chúng ta biết như vậy.
(25:16) Cho nên ngày xưa ông Ca Diếp ông đến gọi một bà lão ăn xin: “Bà hãy cúng dường cho tôi thì bà thoát ra cảnh nghèo. Còn bây giờ nếu mà tôi cho bà những cái thực phẩm bà ăn đầy đủ thì cái cảnh nghèo bà vẫn kéo dài thêm cái kiếp nghèo khổ của bà nữa, mà bà còn nghèo khổ hơn nữa!”
Cho nên ngày hôm đó bà lão chỉ xin được có hai xu mà chưa có được một hột cơm trong lòng, nghe ông Ca Diếp nói như vậy, thuyết phục bà như vậy, cho nên bà vui vẻ mà dâng lên hai xu để cúng dường cho ông Ca Diếp.
Và từ đó, thì đêm đó bà bị đói và lạnh, một đêm rét lạnh, bà bị đói và lạnh, và bà chết trong đêm đó. Và cái lòng mà bà bố thí cúng dường như vậy, cái lòng bà biết san sẻ ra như vậy đó, cho nên bà được sanh lên cõi trời. Từ sanh lên cõi trời đó bà được hưởng đầy đủ cơm áo không còn thiếu nữa, không còn là một bà lão ăn xin nữa.
Bây giờ, đây là cái phần của cô Liễu Tâm đã hỏi Thầy về cái phần phóng sanh như vậy. Muốn rõ nữa thì Thầy đã dạy cho các con thấy rất là cụ thể. Từ đây về sau chúng ta đừng có, phải làm một cái điều gì không đúng với Phật pháp, đừng có làm một cái điều mà Đức Phật đã dạy chúng ta mà chúng ta lại làm sai, hiểu sai.
Cho nên ở đây chúng ta đâu thấy cảnh màn trời chiếu đất của cái người bị bão lụt mà đã sập nhà sập cửa trong bão số năm vừa rồi, phải không? Chúng ta đâu có nghe, chúng ta đâu có thấy.
Thế rồi bây giờ người ta đi gọi mình cứu trợ bằng cách này bằng cách kia, làm cho mình nghe, làm cho mình thấy. Thì khi mà mình được nghe, mình được thấy thì mình sẵn sàng là mình chia sẻ, nhưng mà khi mình không được nghe không được thấy, thì thôi mình không có sẵn sàng chia sẻ.
Cho nên ở đây chúng ta không kiếm những cái khổ đó mà làm việc phóng sanh, mà chúng ta trực tiếp nghe thấy trước cảnh khổ của người khác thì chúng ta không làm ngơ, nhưng chúng ta biết chúng ta làm điều đó là chúng ta chồng thêm cái nghiệp cho kẻ khác.
Chớ không phải chúng ta cứu người đó đâu, không phải là chúng ta gieo một cái điều tốt cho người đó để thoát ra cảnh nghèo đói đâu. Họ càng nhận của mình bao nhiêu thì họ càng nghèo đói bấy nhiêu và tai họa đến với họ nhiều hơn nữa.
Đó, hiểu được Phật pháp thì phải hiểu được nhân quả như vầy, chớ còn nếu mà hiểu lơ mơ thì chúng ta, bởi vì trong cái giáo đoàn Đức Phật ngày xưa, ở chỗ này mà thất mùa, mà không có cơm ăn áo mặc, thì Đức Phật đi đến cái chỗ khác nơi mà có trúng mùa thì ở đó đi xin ăn. Còn chỗ này mà thất mùa thì mình không có ở đây xin, bởi vì có xin thì người ta cũng không có người ta cho mình, vì người ta thất mùa, cho nên Đức Phật đi.
Mà đức Phật cũng không đi lại cái chỗ mà trúng mùa đó, mà kêu gọi những cái người ở đó đóng góp lại để đi lại cứu trợ chỗ cái này. Bởi vì Đức Phật đã nhìn thấy được nhân quả đó, cho nên không có cứu trợ như chúng ta bây giờ, chỉ rời khỏi cái (nơi) đó để tránh cho người ta phải gánh thêm một số tu sĩ ở đây, phải lo cơm ăn áo mặc cho các tu sĩ.
(28:29) Về phần cô Viên Minh hỏi.
Hỏi: “Định Niệm Hơi Thở con tu ba mươi phút, hơi thở bình thường là ba giây. Cứ mỗi phút qua là con hướng tâm: “Cái thân phải nương tâm vững vàng, không được nhúc nhích!” Sau năm phút con xả, đi kinh hành rồi lại tiếp tục tu nữa cho đúng ba mươi phút.
Về sự công phu của con như vậy có đúng không? Có đôi lúc tai con nghe lùng bùng, không biết con tu bị sai chỗ nào? Thỉnh Thầy chỉ dạy cho con thông suốt!”
Đáp: “Định Niệm Hơi Thở ở đây con chỉ tu ba mươi phút, chia ra làm năm lần nhiếp tâm mỗi lần năm phút. Như vậy sự nhiếp tâm của con không quá sức. Thế mà đôi lúc tai con lại lùng bùng, đó là con bị ảnh hưởng tu hành sai trước kia…”
Hoặc là đau bệnh hoặc là tu sai cái gì đó.
“… khi con đến đây bằng pháp ức chế tâm.”
Nghĩa là khi mà đến đây thì luôn luôn mình phải dùng cái pháp để mà xả tâm hơn là ức chế tâm. Cho nên khi mà quen với cái pháp ức chế tâm rồi, thì con ngồi lại con cũng nhiếp hơi thở, nhưng mà luôn luôn nó quen cái sự ức chế tâm, mà do đó nó mới có thể xảy ra ảnh hưởng lùng bùng tai. Nhưng nó cũng không khó, cái phá đó nó cũng không khó đâu.
“Muốn phá tai lùng bùng, khi trường hợp xảy ra thì con nên hướng tâm nhắc: “Tai không được lùng bùng nữa, phải bình thường, thông suốt, nhẹ nhàng an ổn!”
Đó là cái câu hướng, để nhắc khi mà cái trạng thái đó nó lùng bùng. Thứ nhất là nó lùng bùng như vậy, là mình xả, mình đi kinh hành. Cái thứ hai mình ngồi tiếp tục, thì mình hướng tâm mình nhắc nó.
Nhưng mà nó chưa hết đâu, mình nhắc lúc bấy giờ nó chưa hết. Khi mình xả ra thì ngày hôm sau mình ngồi lại thì nó không lùng bùng. Nhờ mình nhắc, nên cái thời kế tới mình ngồi tu thì nó không có.
Nhưng mà thời kế tới nó còn có nữa thì mình nhắc nữa, chừng nào mà mình ngồi nó không có thì thôi mình không nhắc.
“Khi hướng tâm xong tiếp tục chú ý vào hơi thở không nên để ý tai lùng bùng, sau thời gian tu tập tai sẽ hết lùng bùng.”
(30:41) Hỏi: “Thầy dạy xả tâm ly dục ly ác pháp là phải tu Định Vô Lậu câu hữu với Tứ Bất Hoại Tịnh, câu này dạy là phải tu như thế nào? Danh từ Tứ Bất Hoại Tịnh con không hiểu, thỉnh Thầy dạy cho!”
Đáp: “Tứ Bất Hoại Tịnh là bốn pháp làm cho thân tâm thanh tịnh, đó là Niệm Phật, Niệm Pháp, Niệm Tăng và Niệm Giới.
Định Vô Lậu câu hữu với Niệm Phật: Nghĩa là thân tâm Phật không lậu hoặc, thân tâm ta niệm Phật tức là thân tâm ta phải sống giống như thân tâm Phật.
Ví dụ thân Phật ăn ngày một bữa, không ăn phi thời, ngủ phi thời, thường đi kinh hành, đi khất thực, không trồng trọt làm việc gì khác ngoài vấn đề tọa thiền quán sát tâm mình, sống trầm lặng không tranh luận hơn thua với ai, biết nhẫn nhục, biết tùy thuận và bằng lòng mọi cảnh huống v.v.
Tâm Phật không ham muốn, không tham, sân, si v.v. Tâm mình niệm Phật cũng không tham muốn, không tham sân si giống như Phật vậy, gọi là thân tâm vô lậu kết hợp với Bất Hoại Tịnh.
Niệm Pháp câu hữu Định Vô Lậu: Nghĩa là pháp dạy như thế nào, thân tâm ta tùy pháp, sống đúng pháp, không làm sai pháp.
Ví dụ pháp dạy ăn ngày một bữa, không ăn uống phi thời, không ngủ nghỉ phi thời, lấy giới bổn phòng hộ sáu căn, sống đời sống thiểu dục tri túc, thường tu tập Tứ Chánh Cần, Tứ Niệm Xứ, Tứ Thiền, Tứ Như Ý Túc, Tam Minh v.v”.
Đó là cái Niệm Pháp, thì chúng ta tùy theo các pháp mà dạy, thì chúng ta sống, chúng ta nương theo các pháp. Pháp nào dạy như thế nào chúng ta làm đúng theo như các pháp, thì đó gọi là Niệm Pháp. Chớ không phải là ngồi đó niệm thầm thầm ở trong bụng mình là Niệm Pháp, như vậy là sai. Chúng ta sống giống, pháp dạy sao chúng ta làm y như vậy đó là Niệm Pháp.
“Niệm Tăng: Đời sống chúng tăng là gương hạnh hòa hợp như nước với sữa, ta phải sống và tu tập giống như chúng tăng như vậy.
Ví dụ: Ông Ưu Ba Ly trì giới đệ nhất, ta cũng nương theo gương hạnh của ông Ưu Ba Ly mà trì giới đệ nhất. Ông Đại Ca Diếp đệ nhất đầu đà, ta cũng nương theo gương hạnh của ông mà giữ hạnh đầu đà tu tập. Ông Mục Kiền Liên thiền định đệ nhất…”
Tức là thần thông đệ nhất đó.
“… ta nên noi theo gương hạnh của ông mà tu tập thiền định.”
Đó là, mình Niệm Tăng là mình nương theo vào những cái gương hạnh của các ngài mà mình tu tập.
“Niệm Giới, giới luật Phật dạy như thế nào, ta phải nghiêm trì giới luật như thế nấy. Không được phạm giới, bẻ vụn giới, phá giới, mà phải trì giới đệ nhất. Có tu tập được như vậy mới gọi là thân tâm vô lậu Bất Hoại Tịnh.”
Nghĩa là tu Định Vô Lậu nó kết hợp với Bất Hoại Tịnh là như vậy.
(33:51) Đó thì hôm nay Thầy giảng như vậy, thì con hiểu cách thức Niệm Phật rồi, Niệm Pháp, Niệm Tăng, Niệm Giới rồi. Nó không phải là ngồi đó mà chúng ta niệm Nam Mô A Di Đà Phật, hay hoặc là Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật là niệm như vậy, không phải! Chúng ta lấy thân, thọ, tâm, pháp của mình mà niệm Phật, bốn cái chỗ niệm, tức là gọi là Tứ Niệm Xứ đó, mà chúng ta niệm.
Và chúng ta niệm để mà câu hữu với Định Vô Lậu thì đó là Vô Lậu Bất Hoại Tịnh, nó câu hữu từ cái Định Vô Lậu mà nó làm cho thân tâm chúng ta không có hoại sự thanh tịnh. Do cái chỗ tu tập vậy đó gọi là kết hợp lại mà tu tập, thì chúng ta thấy kết quả rất là tốt.
(34:35) Hỏi: “Khi tâm tán loạn con tu Định Sáng Suốt, tỉnh thức sáng suốt. Kính thưa Thầy có đúng không?”
Đáp: “Khi tâm bị tán loạn phải quán xét trường hợp tâm tán loạn do nguyên nhân nào xảy ra?
Một: Tâm tán loạn vì bị ức chế quá nhiều.”
Nghĩa là bây giờ mình cứ ngồi thiền mình dùng cái hơi thở mình ức chế nó, thì bắt đầu mình xả nghỉ ra nó nghĩ ngợi cái này, cái kia. Hoặc là bây giờ mình tâm tán loạn, khi mà mình ngồi thiền vô cái thì mình nhiếp tâm chừng năm, mười hơi thở thì bắt đầu nó nghĩ chuyện này, nghĩ chuyện kia mà mình không còn nhiếp cái hơi thở được nữa, thì đó là do bị sự ức chế.
“Hai: Tâm tán loạn vì bị cô đơn.”
Độc cư đó, bởi vì mình sống có một mình không nói chuyện với ai hết, sống trầm lặng một mình đó, thì do sự cô đơn đó mà nó khởi ra những cái tán loạn.
“(Ba:) Tâm tán loạn vì bị gặp phải ngoại duyên, ngoại cảnh.”
Tức là người ta chửi mắng, người ta làm cái này kia, mình buồn phiền, mình giận hờn, tâm mình nó loạn xạ nó nghĩ đến chuyện này rồi nó buồn rầu tới chuyện kia, đó là nó tán loạn.
“(Bốn:) Tâm tán loạn vì bị lỗi lầm.”
Gọi là trạo hối đó, làm cái gì đó rồi cái lỗi đó người ta thấy được, mình thấy quá xấu hổ. Cho nên nó làm cho cái tâm mình ray rứt khổ đau, đó là nó vì trạo hối.
“Tâm tán loạn không thể tu Định Sáng Suốt và Định Tỉnh Thức mà giúp được, chỉ tùy theo mỗi trường hợp mà phá nó bằng Định Vô Lậu.”
Nghĩa là trong mỗi trường hợp, mình phải thông suốt mỗi trường hợp mà nó tán loạn như vậy đó, là do như cái thân mình bị bệnh, rồi mình suy tư, mình lo lắng, mình buồn rầu. Do như vậy đó, thì mình phải tu cái Định Vô Lậu bằng cách là quán xét nó qua nhân quả.
Cái nhân quả, do mình thọ cái thân này, do cái nhân quả đời trước mà đời nay mang cái thân nó bị bệnh tật thế này thế khác, vì vậy đó mình vượt lên trên nhân quả mà mình không thấy cái tâm mình dao động khổ sở nữa, thì nó sẽ hết tán loạn.
“Một: trường hợp thứ nhất, bị ức chế thì nên thư giãn tâm.”
Nghĩa là trường hợp mà bị ức chế, tu ức chế thì thư giãn tâm, bằng các pháp môn thư giãn tâm.
“Trường hợp thứ hai, bị cô đơn thì nên đọc thêm kinh sách mà phá nó.”
Nghĩa là mình ở một mình mình, không có ai hết mà mình thấy tâm mình nó khởi ra loạn tưởng như vậy, thì tức là mình lấy kinh sách mình đọc, rồi mình tư duy những cái nghĩa lý trong kinh sách thì cũng làm cho mình bớt loạn tưởng.
“Ba: Trường hợp thứ ba, giải quyết các duyên bằng nhân quả.”
Nghĩa là mọi cái duyên nó đến với mình, thì mình phải quán xét, nhìn nó bằng cái luật nhân quả thiện với ác, để cho tâm mình buông xả thì nó không còn tán loạn nữa.
“Trường hợp thứ tư, phát lồ sám hối, tự răn không phạm lỗi nữa.”
Nghĩa là trường hợp thứ tư thì mình tìm một cái vị thầy thanh tịnh giới luật, mình đến mình xin phát lồ với vị thầy đó. Mình thuật, mình nói lại những cái trường hợp mình phạm lỗi, mong vị thầy đó chứng minh để cho mình từ đây về sau mình không có phạm lỗi đó nữa, thì tâm mình nó mới được an.
(37:38) Hỏi: “Khi người tu thiền vào định mà tưởng thức vi tế còn, nên sợ rắn, thích ăn chuối chiên hoặc những thứ khác thì làm sao định được? Thỉnh Thầy chỉ dạy cho con hiểu!”
“Còn sợ rắn, còn thích ăn chuối chiên tức là chưa ly dục. Chưa ly dục tức là chưa ly ác pháp. Chưa ly dục, chưa ly ác pháp làm sao mà vào định được? Muốn nhập định đúng Chánh Pháp của Phật thì phải ly dục, ly ác pháp. Nếu không ly dục ly ác pháp mà nhập định đó là tà thiền, tà định.”
Nghĩa là mình tu mà mình thấy tâm mình nó còn như vậy, tức là mình biết nó chưa ly dục, vì vậy mà mình cố gắng, mình tu tập để cho mình ly. Vì vậy mình tu Định Vô Lậu nhiều hơn để sau này nó ly dục, ly ác pháp rồi thì mới có thể tu tập vào định mới có dễ dàng, chớ không khéo thì nó rất khó!
Bởi vì mình phải biết tâm mình nó còn thèm ăn, nó còn thích ăn, thì tức là nó chưa có ly dục, nó chưa có ly cái lòng tham muốn mình. Bởi vì qua cái ăn là mình xét mình, cái dục của mình nó còn hay là không còn, mình biết nhiều lắm. Con người của mình nó dễ hiểu mình lắm, nó không có khó khăn đâu, nó có cái gì thì mình biết liền.
Và vì vậy mình nỗ lực, mình phải tu tập để ly cho nó ra, để làm cho nó hết không ham nữa. Do như vậy, chỗ đó là cái chỗ mình đi vào thiền định nó mới dễ sau này.
(39:06) Hỏi: Kính Thưa Thầy! Hòa thượng chủ trương Thiền Tông, Thầy chủ trương thiền Giới - Định - Tuệ….”
Chớ không phải Thiền Đông Độ. Bởi vì Thiền Đông Độ là nó Thiền Tông nó đi từ cái bên Đông Độ nó đi sang qua Trung Hoa, cho nên gọi là Thiền Đông Độ.
Nó có một cái dãy, một cái số các vị Tổ Sư Thiền đó, là từ Tổ Ca Diếp truyền cho đến Bồ Đề Đạt Ma là tổ thứ 28 ở bên Thiên Trúc, ở bên Ấn Độ đó. Rồi từ tổ 28 đó là Bồ Đề Đạt Ma mới truyền sang qua Trung Quốc, truyền xuống cho năm vị Tổ nữa, cho nên nó gọi là 33 vị Tổ Sư Thiền đó, thì cái thiền đó gọi là Thiền Đông Độ.
Còn cái Thầy dạy ở đây, thì thiền Giới - Định - Tuệ, đi từ giới, định, tuệ, cho nên giới nó xả tâm ly dục ly ác pháp, nó mới nhập được cái Sơ Thiền, từ đó mới bước sang cái Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền, cho nên nó mới thực hiện tới Tam Minh, nó mới hoàn tất được con đường tu tập.
Còn cái Thiền Đông Độ thì nó chỉ giữ cái tâm của nó chẳng niệm thiện niệm ác, thì cái Phật Tánh nó hiện tiền ra thì thôi nó không còn đi nữa, tới đó là nó xong. Khi nào nó giữ cái niệm thiện, niệm ác nó không hiện ra nữa thì coi như là nó hoàn tất được con đường tu của nó. Cho nên cái thiền kia thì nó gọi là Thiền Đông Độ.
“… Giới - Định - Tuệ, con đường Thầy đi là con đường ngày xưa Đức Phật đã đi. Thưa Thầy, người kế vị Đức Bổn Sư đầu tiên là vị Tổ nào? Rồi đến Thầy, Tổ thứ mấy? Thỉnh Thầy dạy cho con rõ!”
Đáp: “Tất cả đệ tử của Đức Phật toàn là đạt được đạo theo khả năng chuyên môn của mình.”
Nghĩa là tất cả các vị đại đệ tử của Phật cũng như nói chung là 1250 vị Tỳ Kheo mà theo Đức Phật, đều là những đệ tử của Phật, phải nói rằng nó chưa có đệ tử nào mà toàn diện được như Đức Phật.
Đối với ngài Ca Diếp, ví dụ như ngài Ca Diếp thì chuyên môn về hạnh đầu đà, đệ nhất về hạnh đầu đà. Nếu mà giao cho ông lãnh đạo chúng tăng để mà làm một vị Tổ, thì ông bắt tất cả mọi người đều theo cái hạnh của ông chứ ông làm sao mà ông chan hòa được?
Cho nên nếu mà ổng mà làm Tổ của chúng ta, thì chắc chắn là chúng ta phải tu về cái hạnh đầu đà. Còn tất cả những cái kia thì ông không có giỏi, ông bình thường thôi. Cho nên ổng chỉ chuyên môn về hạnh đầu đà ổng là đệ nhất thôi.
Còn nếu mà ông Mục Kiền Liên mà còn sống đó, mà Đức Phật truyền thừa cho ông là thừa kế, là một vị Tổ mà dạy chúng ta, thì ổng là đệ nhất thần thông, tức là đệ nhất thiền đó, thì ổng bắt chúng ta tu thiền định không à, không bao giờ mà ổng dạy chúng ta giới luật đâu!
Cho nên ổng chuyên môn về cái đó rồi, ổng giỏi về cái đó rồi. Cho nên ông không có toàn diện, ông chỉ có cái phần đó giỏi thôi. Mà về cái hạnh đầu đà thì ông không bằng ai hết, về cái giới luật thì ông cũng bình thường thôi, không phạm mà cũng không ấy thôi, còn về hạnh đầu đà thì ông không có giữ như ông Ca Diếp như vậy.
Ngài Ưu Ba Ly thì chuyên nhất về giới luật cho nên đệ nhất trì giới. Đó thì mỗi người có một cái chuyên nhất, như ông La Hầu La thì đệ nhất mật hạnh, cái hạnh ổng nghiêm trì được cái đệ nhất, ông Xá Lợi Phất thì chuyên nhất Trí tuệ.
Đó cho nên những cái người đệ tử như vậy thì không có đủ cái khả năng mà để lãnh đạo, cho nên có những người, khi mà Đức Phật còn tại thế, có những người hỏi Đức Phật: “Sau này đức Phật tịch rồi thì ai là người thừa kế Đức Phật?”.
Thì Đức Phật nói: “Trong số đệ tử chúng ta chỉ chuyên nhất mà không có người toàn diện. Cái người mà toàn diện phải là có đủ oai thần, oai lực, thì mới có thể thay ta mà làm điều đó.”
Cho nên sau khi mà Đức Phật thị tịch, thì Đức Phật di chúc rằng thầy của chúng ta, đó là, sau này thầy của những vị Tỳ Kheo sau này, đó là giới luật. Cho nên ngàn đời, muôn đời, cách đây 2500 năm khi Đức Phật nhập diệt, thì ông thầy giới luật là vị Tổ thừa kế Đức Phật, đó là giới luật. Cho đến bây giờ Thầy cũng tu là theo vị Tổ giới luật đó mà thôi.
Mà xét cho cùng khi Đức Phật chứng đạo, khi mà Đức Phật đã tu chứng đạo thì Đức Phật mới thấy rằng: “Những cái pháp nào mà Ta phải đảnh lễ, cung kính cái pháp đó, để giúp Ta được giải thoát, thì đó là những cái pháp đáng cung kính, đáng tôn trọng”.
Thì chúng ta thấy rõ ràng là Đức Phật cũng nương vào cái chỗ Giới - Định - Tuệ mà Đức Phật đã được giải thoát. Vì vậy mà sau này, cái người thầy mà dạy cho Đức Phật thì cũng là Giới - Định - Tuệ, rồi cái người thầy mà dạy cho chúng ta cũng là Giới - Định - Tuệ chớ không phải ông Phật!
Nhưng ông Phật chỉ là một cái hình ảnh Giới - Định - Tuệ sống để mà chúng ta nương vào đó. Còn cái Giới - Định - Tuệ mà ông Phật đã tu tập, đã tìm ra được nó, thì Đức Phật khi mà chứng đạo thì Đức Phật nói: “Ta thấy cái pháp đó là cái pháp đáng cung kính, đáng tôn trọng, đã đưa Ta đi đến chỗ giải thoát, cứu Ta thoát ra khỏi kiếp sống của con người”.
Cho nên trong những cái bài kinh đó, Thầy rất thấm thía những cái bài kinh đó, là cái người mà dạy Đức Phật lại là Giới - Định - Tuệ. Rồi bây giờ Đức Phật lại truyền thừa lại cái người đó dạy chúng ta tức là Giới - Định - Tuệ, thì không bao giờ ngàn đời, không bao giờ cái Giới - Định - Tuệ đó nó có thể thay đổi.
Theo như, cũng như bây giờ, như Thầy bây giờ Thầy cũng có khả năng chuyên môn của Thầy, cho nên nó không thể toàn diện như Giới - Định - Tuệ được. Vì vậy mà Thầy bắt các con phải theo những cái kinh nghiệm riêng tư của Thầy, thì các con sẽ bị chệch đi, rồi sau này các con sẽ thừa kế Thầy làm vị Tổ kế nữa thì các con sẽ có một cái chuyên môn khác, cái khả năng khác, cái sở trường khác của các con đi. Do đó lần lượt nó sẽ lệch con đường của Phật đi, nó sẽ làm mất con đường đi.
Cho nên cái hay nhất của đạo Phật là không có một vị Thánh nào mà có thể thừa kế Phật, mà chỉ có pháp môn của Phật, tức là Giới - Định - Tuệ, là cái người thừa kế để hướng dẫn cho tất cả những vị sau này. Cho nên đạo Phật không có vị Tổ, mà chỉ có giới làm vị Tổ thừa kế Phật để dạy chúng ta.
(44:44) “Vì thế đệ tử của Đức Phật không có người nào toàn diện, đầy đủ oai lực, oai thần, tuệ lực v.v., nên không đủ khả năng thừa kế Phật để nắm rường mối đạo Phật.
Cho nên Đức Phật di chúc lại: Người có đủ oai thần, oai lực thừa kế Phật làm thầy trời, người và các vị Tỳ Kheo sau này là giới luật. Giới luật là vị Tổ đầu tiên và cũng là vị Tổ cuối cùng, ai theo đạo Phật là phải theo sự hướng dẫn của vị Tổ này. Làm sai lời dạy của vị Tổ này kẻ đó không phải là đệ tử của Phật.
Thầy tu theo đạo Phật là do vị Tổ này hướng dẫn, con tu theo đạo Phật cũng do vị Tổ này hướng dẫn, như vậy, Thầy không phải là người thừa kế làm Tổ thứ mấy của đạo Phật. Từ khi Đức Phật thị tịch đến giờ, chúng ta đều là học trò của vị Tổ này, và mai sau tất cả những người tu theo đạo Phật đều lấy vị Tổ này làm thầy.
Nếu Thầy không lầm, trong một bài kinh nào đó Thầy đã được đọc, chính vị Tổ này cũng là thầy của Đức Phật. Như vậy Phật và chúng ta đều nương theo vị thầy này mà tu tập đến giải thoát.
Còn 33 vị Tổ sư Thiền Đông Độ là một truyền thuyết huyền thoại của người sau bịa đặt ra. May mà kinh sách Phật Giáo còn ghi chép lại rõ ràng lời di chúc cuối cùng. Nếu không thì bây giờ chúng ta phải tin vào đâu?
Giả dụ nếu có sự truyền thừa từ Đức Phật đến các Tổ sau này chắc chắn thì con đường của đạo Phật đã mất gốc từ lâu. Không có sự truyền thừa mà các Tổ còn bịa ra được, còn thay đổi giáo lý của Phật, huống là có sự truyền thừa, thì sự thay đổi ấy phải gấp trăm ngàn lần hơn, thì Phật giáo bây giờ trở thành Ma giáo.”
Đó là câu trả lời của Thầy.
(47:14) Hỏi: “Thưa Thầy! Càng tu vọng tưởng càng hiện rõ, nó như một cuốn phim quay trong tâm con. Tầm Tứ chú ý hơi thở ra vô như khoảng năm hơn thở thì nó lại hiện ra, con lại Tầm Tứ chú ý hơi thở giống như con đang chiến đấu với vọng tưởng.
Con tu như vậy có đúng không thưa Thầy?”
Đáp: _“Con tu như vậy không đúng cách nên vọng tưởng không dừng được. Muốn tu đúng thì con phải hiểu vọng tưởng từ đâu sanh. _
Vọng tưởng sanh ra từ gốc lòng…”
(Xem tiếp ở Pháp hành 36)
HẾT BĂNG
PHÁP HÀNH 36 - NHỮNG ĐIỀU CẦN TU TẬP ĐỂ TÂM HẾT LẬU HOẶC
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Thời gian: 1998
(Tiếp theo Pháp hành 35)
(0:00) Trong cái muốn mà cho hết vọng tưởng, nó không còn sanh khởi như vậy thì con chỉ phải sống đúng cái đạo đức nhân quả và tu cái Định Vô Lậu. Thì muốn tu được cái, sống đúng cái nhân quả với cái Định Vô Lậu thì cái đời sống của con phải sống đúng giới luật của Phật. Vì chính giới luật là thầy của con, cho nên do vì vậy mà con phải lấy nó mà làm cái chỗ nương tựa, làm cái hòn đảo, làm cái ngọn đèn sáng để soi đường cho con, tức là giới luật đó.
“Còn Định Niệm Hơi Thở chỉ là một lộ trình tỉnh thức để thực hiện các loại thiền định”
Chớ không phải là dùng cái hơi thở để mà ức chế cái tâm con hết Tầm Tứ, hết vọng tưởng, mà chính cái Định Niệm Hơi Thở nó chỉ là một cái lộ trình tỉnh thức để thực hiện các loại thiền định khác.
Tức là muốn nhập Nhị Thiền, Tam Thiền hay Tứ Thiền, hay hoặc là Không Vô Biên Xứ, Thức Vô Biên Xứ hay là Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ, hay hoặc là đến Diệt Thọ Tưởng Định, đều là dùng cái sức tỉnh thức của Định Niệm Hơi Thở đó mà nhập các loại định đó. Chớ không phải là hơi thở nó sẽ nhập được các loại định đó, mà dùng cái hơi thở để nương vào cái hơi thở đó mà nhập vào các định đó.
“Nếu dùng Định Niệm Hơi Thở ức chế tâm là sai nên phải xả bỏ lối tu không đúng cách đó”.
Đó là cái phần của con hỏi Thầy.
(1:28) Như vậy có những cái chỗ nào mà không hiểu thì cần thưa hỏi là thưa hỏi thêm để rồi cho nó rõ ràng mà áp dụng vào tu. Trước khi tu thì chúng ta phải học, học cho biết cách thức tu, rồi đường lối tu như thế nào, rồi sau đó khi học xong rồi thì chúng ta dẹp cái học, dẹp hết cái học, không còn học nữa.
Tại vì những cái giáo lý này, từ xưa đến giờ nó chưa có vạch ra cho rõ ràng đường lối tu tập, nó chưa biết cái nào tu trước cái nào tu sau. Hôm nay, từ cái mùa hạ năm rồi Thầy mới giảng cái Giáo Án Đường Lối Tu Tập Của Đạo Phật, tức là kết hợp lại tất cả những cái bài pháp trong kinh Nguyên Thủy lại để mà vạch ra một cái đường lối tu tập.
Rồi năm nay Thầy dạy cái giới hành, tức là các cái hành động để mà tu tập, các cái pháp hành đó, thì năm nay coi như là chúng ta hoàn tất được cái con đường tu tập của Đạo Phật. Cho nên bây giờ chúng ta đã học xong, hiểu biết rồi, thì bây giờ chúng ta mới vạch ra một cái đường đi, bắt đầu tu cái gì trước cái gì sau, cái gì mà cuối cùng, cho nó rõ ràng và cụ thể.
Cho nên trong cái buổi mà học các pháp hành này, thì cái vấn đề mà thưa hỏi đó là vấn đề quan trọng để làm chúng ta biết rõ được con đường mà chúng ta đang tu. Cái pháp nào mà tu trước như thế nào, mà tu đến mức độ nào để rồi thay đổi cái pháp đó bằng cái pháp khác để tiến tới nữa, và cứ như vậy cho đến khi mà làm chủ sự sống chết và chấm dứt được luân hồi thì chúng ta mới xong.
Đó là cái chỗ mà chúng ta tu tập.
Vậy thì bây giờ cái gì, trong cái thời gian này còn ở trong hạ, thì các con có những gì cứ thưa hỏi, ghi chép hỏi cho kỹ để biết được cái cách thức tu cho rõ ràng.
Sau đó thì Thầy đi vân du một thời gian, thì lúc bấy giờ các con đã vạch định ra một cái lối của mình hằng ngày tu tập có kết quả, có giải thoát hoàn toàn. Vì chúng ta tu đúng theo pháp của Phật không còn bị sai lệch nữa.
Và hằng ngày Đức Phật đã xác định mà, ngày nào chúng ta tu tập là ngày đó chúng ta đã thấy kết quả, đem lại kết quả liền cho chúng ta, còn không kết quả thì chúng ta đã tu sai. Xác định cho chúng ta biết được cái sự tu tập của chúng ta như vậy nó rất rõ ràng đó.
Mà ngày nào chúng ta cũng tu tập kết quả thì cái sự kết quả đó nó sẽ trở thành một kết quả lớn, mà nó trở thành kết quả lớn thì tức là chúng ta đã cứu mình ra khỏi cái sanh, lão, bệnh, tử rồi.
(03:51) Bây giờ tới Từ Nguyện vấn đạo, hỏi Thầy.
Hỏi: “Kính bạch Thầy và Cô Út! Con đã chọn thời khóa sau đây để thực hiện mỗi ngày, Thầy và Cô Út xem và chỉ dạy cho con những gì còn sơ sót!”
Đáp: “Thời khóa con đặt ra tu tập suốt 24 tiếng đồng hồ, nếu sự tu tập áp dụng vào thời khóa có kết quả tốt và giờ tu đều cảm giác thoái mái an ổn, thì thời khóa rất tốt cho con tu tập. Ngược lại khó chịu, bất an và không có kết quả tốt thì nên thay đổi cho phù hợp với đặc tính của thân tâm con.”
Nghĩa là nếu mà con thấy đặt thành cái thời khóa rồi mình áp dụng trong một ngày một đêm, thì mình thấy: à áp dụng vô mình thấy có kết quả ngay liền.
Thí dụ như bây giờ nhiếp tâm trong hơi thở, thì hoàn toàn là không thấy tạp niệm xen vào rất là an ổn, và tu cái Định Chánh Niệm Tỉnh Giác nó cũng rất là tỉnh nó cũng không có hôn trầm, thùy miên, rồi mình áp dụng vào cái Định Vô Lậu, mình thấy xả tâm nó cũng dễ dàng, nó không còn khó khăn nữa, và tất cả mọi cái đều là mình tu tập mình thấy nó thoải mái dễ chịu, nó không có, những cái pháp mình áp dụng vô không có thấy cái pháp nào, là không có làm cho mình khó chịu, thì như vậy là mình đã áp dụng được cái phương hướng tu tập tốt rồi.
(05:31) Hỏi: “Kính bạch Thầy và Cô Út! Khi con bị một người đối xử xấu, thí dụ như bị đánh, bị chửi hoặc hay nói xấu con v.v. Nhưng khi họ bị nạn nếu con giúp đỡ họ thì đó có gọi là xả tâm không? Và nếu con có ý nghĩ không đội trời chung với người đó thì có gọi là tâm dính mắc ác pháp hay tâm còn chất chứa không?”
Đáp: “Câu hỏi này được trả lời, trước tiên là đạo đức, kế mới là xả tâm ly dục ly ác pháp. Một người làm khổ mình tức là người xấu, không tốt, là người ác.”
Cái người mà chửi mình nói xấu mình hoặc là đánh mình làm cho mình đau khổ, tức là mình phải hiểu người đó là người ác chứ không phải là người thiện rồi.
“Khi họ gặp nạn ta giúp đỡ họ thoát nạn. Thứ nhất, ta đứng trong góc độ nhân quả.”
Nghĩa là mình đứng ở trong góc độ nhân quả tức là đạo đức đó, thì họ gặp tai nạn, họ là cái người mà làm cho mình đau khổ nhất, thí dụ vậy đi, mà họ gặp tai nạn, là mình đứng ở trong góc độ nhân quả mà mình thấy họ tai nạn thì mình giúp đỡ họ, đó là mình đứng ở trên cái nền đạo đức của đạo Phật, tức là đạo đức nhân quả, thấy người ta khổ không có nỡ tâm mà bỏ người ta.
Mình đã hiểu biết, họ làm ác thì tức là họ phải thọ lãnh những cái ác do cái nhân quả đó, mà bây giờ chính họ đã tai nạn, đó là cái quả ác đã đem đến cho họ đó, thì mình không nhẫn tâm, vì mình đang thực hiện thiện pháp ở trong nhân quả mà.
Cho nên thấy họ khổ thì mình giúp đỡ họ, mà mình giúp đỡ họ không có nghĩa là giúp đỡ để họ không thù oán mình nữa. Mặc, họ có thù oán hay không thù oán thây kệ họ, nhưng mình đứng ở trong góc độ nhân quả mà làm cho hết bổn phận của một người tu đạo đức, của một người thực hiện đạo đức của đạo Phật.
“Thứ hai là xả tâm thù hận ác pháp.”
Nghĩa là mình làm được như vậy tức là mình xả được cái tâm ác ở trong lòng của mình. Mà nếu mình thấy rằng cái tâm của mình mình làm như vậy một cách gượng gạo, thì tức là mình chưa xả đâu.
Mà mình làm một cách gượng gạo như vậy là mình cũng chưa đứng ở trên cái đạo đức nhân quả nữa. Đạo đức nhân quả không cho chúng ta ở trong cái tâm gượng gạo, ở trong, còn cái ác pháp ở trong cái tâm mình.
Khi mình hiểu được ác pháp thì người ta có làm khổ mình cách gì thì mình vẫn giữ tâm của mình rất là thiện, không bao giờ có hận, có oán, có thù họ hết. Mà họ không có gặp nạn thì thôi, thì chúng ta cũng thản nhiên, mà họ gặp nạn thì chúng ta không nghĩ, giúp đỡ liền chớ chúng ta cũng không nghĩ gì khác hơn hết.
Mà nếu mà chúng ta đã đứng ở trên góc độ nhân quả mà giúp đỡ họ, mà tâm chúng ta rất thản nhiên, thì đó là chúng ta đã xả cái hận thù ở trong tâm và cái ác pháp ở trong tâm của chúng ta đó.
“Còn ngược (lại) với ý nghĩ không đội trời chung về nhân quả là kết thêm nhân ác.”
Nghĩa là cái nghĩ ở trong đầu của mình là thấy ghét người này, họ chết bỏ chớ không giúp đỡ họ gì hết, đó thì do đó mình lại kết thêm cái nhân ác ở trong cái nhân quả khổ cho mình.
(08:33) “Về xả tâm thì chưa ly được ác pháp…”
Nghĩa là về cái phần xả tâm thì coi như là mình chưa có xả được.
“… tâm mãi còn ôm ấp đau khổ.”
Nghĩa là còn buồn phiền họ, còn tức giận họ.
“Kinh Pháp Cú dạy: “Lấy oán trả oán thì oán chồng chất thêm oán, lấy ân mà trả oán thì oán kia sẽ tiêu trừ!”.
Bởi vậy đạo Phật thiết lập Chánh Pháp: Lấy bệnh khổ làm thuốc hay, lấy hoạn nạn làm thành công, lấy gai góc làm giải thoát, lấy ma quân làm bạn đạo, lấy khó khăn làm sự tác thành, lấy bạn tệ bạc làm người giúp đỡ, lấy kẻ chống nghịch làm người giao du, lấy sự thi ân như đôi dép bỏ, lấy xả lợi làm vinh hoa, lấy oan ức làm đà tiến thủ, thế nên ở trong chướng ngại mà vượt qua tất cả.”
Cho nên ở đây các con thấy, trong cuộc sống hàng ngày mình có những cái đối tượng mà tu tập xả tâm, đó thì: “lấy kẻ chống nghịch làm người giao du”, nghĩa là người nào luôn luôn, những cái người đó họ làm cho mình khổ đau bao nhiêu thì mình lại lấy người đó mình giao thiệp với người đó, để cho mình càng lúc mình xả được cái tâm, còn mình tránh né mình sợ người đó, thì ngàn đời cái tâm của mình không xả đâu.
Cho nên nó càng gặp những cái chướng ngại, cái khó khăn, thì mình lại càng gần cái chỗ chướng ngại khó khăn đó để mình tu tập cái tâm của mình, thì ở trong cái Bảo Luân Vương Tam Muội này Đức Phật đã dạy những cái lời dạy này.
“Người học đạo ngày nay không dám dấn thân vào mọi sự trở ngại.”
Nghĩa là thấy những cái chỗ mà trở ngại, thấy những cái chỗ mà khó khăn thì mình đi tìm cái chỗ yên tịnh, cái chỗ không có ai mà chửi mắng mình, không có ai làm cho mình khổ, mình ở chỗ đó, thì ngàn đời mình tu nó cũng chẳng tới đâu hết.
Mà mình, cái người mà học đạo mà biết được, mình dám dấn thân vào những cái nơi mà trở ngại đó, thì khi mà gặp trở ngại thì nó không còn trở ngại nữa. Còn mình ngại, mình trốn đi, mà khi mình gặp những cái sự trở ngại thì mình không thể nào mà đối phó.
“Bởi vậy Chánh Pháp của Phật cao thượng vì vậy mà mất cả, đáng tiếc, đáng hận biết bao!”
Đây thầy đọc lại cái câu của cái bài kinh:
“Người học đạo ngày nay không dám dấn thân vào mọi sự trở ngại nên khi gặp trở ngại thì không thể nào đối phó. Chánh Pháp cao thượng vì vậy mà mất cả, đáng tiếc, đáng hận biết bao!”
Đó là cái câu hỏi của Từ Nguyện, Thầy đã trả lời, để biết rằng chúng ta sống trong chướng ngại để mà chúng ta vượt ra chướng ngại. Cái đó chính là Đức Phật đã dạy trong Bảo Luân Vương.
(11:56) Hỏi: “Nếu có một người hoặc một số người áp dụng lời Thầy dạy, chỉ giữ ba y một bát đi xin ăn mà vô phước không được sống trong môi trường của Thầy, thì trong thời khó khăn này họ xin không ai cho, phải chết đói. Vậy những người này sau khi chết như thế nào?”
Nghĩa là ý muốn hỏi Thầy, là những người này mà đi khất thực mà không ai cho thì họ, sau khi đó họ chết thì họ, dùng cái hạnh đi khất thực vậy đó, họ chết họ sẽ như thế nào, họ có giải thoát hay là không giải thoát?
Đáp: “Đạo Phật là đạo trí tuệ, phải thông minh, phải biết thời điểm không gian và thời gian. Biết thời điểm tức là không gian và thời gian, để tu tập cho đến nơi đến chốn.
Thời điểm kinh tế khó khăn người ta giả danh tu sĩ đi xin ăn lừa gạt lòng tín ngưỡng của tín đồ, cho nên hiện giờ chưa phải lúc thực hiện hạnh khất thực cao quý của người tu sĩ giải thoát, mà phải biết tổ chức cuộc sống cho tu sĩ để bảo đảm đời sống tu hành cho đến ngày viên mãn.
Đường tu hành còn dài, hạnh đi khất thực chưa đủ để giải thoát sanh tử luân hồi, còn phải tu nhiều pháp khác nữa! Đừng nghĩ rằng hạnh đi khất thực là giải thoát hoàn toàn thì đó là nông nổi, không thấu suốt giáo lý của đạo Phật!”
Cho nên có nhiều người cũng chấp chặt rằng cái đi khất thực là giải thoát, nhưng mà đó là một cái góc độ để chúng ta giải thoát, tập tu giải thoát ở trong góc độ, cả một cái quá trình, một cái đường đi của đạo Phật chớ không phải chỉ có hạnh khất thực không.
“Người tu hành chỉ dùng hạnh đi khất thực để giải thoát thì chẳng bao giờ có giải thoát. Khi người ta không cho ăn mà chết thì đó là chết trong nghiệp quả đói, khát, vẫn bị nghiệp quả luân hồi chi phối dẫn dắt tái sanh trong thế giới khổ đau này!”
Nghĩa là không bao giờ hết khổ đau, không phải là nói mình đi dùng cái hạnh khất thực đó mình đi, rồi mình sẽ tái sanh lên cõi trời hay này kia, không phải đâu. Bởi vì mình không biết đường tu thì mình đi xin ăn như vậy chẳng qua là một người đi xin ăn thôi chớ không có gì khác hơn hết!
“Chỉ có người nào tu hành đoạn dứt lòng ham muốn và các ác pháp thì mới chấm dứt được sanh tử luân hồi. Còn có tâm ham muốn và các ác pháp thì dù có đi khất thực ngàn kiếp thì cũng chẳng giải thoát được gì!”
(14:40) Đó là những cái câu hỏi của Từ Nguyện hỏi Thầy.
Như vậy đó thì chúng ta biết rằng trong cái thời điểm này không phải là thời điểm đi khất thực, vì có nhiều người giả danh tu sĩ cũng mang y, ôm bát đi xin, nhưng mà đó không phải thực là đi xin để ăn.
Và đồng thời những người mà cũng lấy cái hạnh khất thực này mà đi xin mà không biết trọn vẹn các pháp của Phật, mà chỉ lấy cái hạnh mà đi xin ăn này, tưởng là nó sẽ giải thoát, thì người đó là một người tu ngu, không phải là người sáng suốt. Cho nên nó tu như vậy, đi khất thực như vậy mà hầu hết không giải thoát, chớ không phải là giải thoát.
Thí dụ như bây giờ thầy đặt thành vấn đề để cho các con sẽ thấy rất rõ, là như khất sĩ, hiện bây giờ cái phái khất sĩ rất đông người. Từ khi Tổ sư Minh Đăng Quang đã dạy cái đạo này, thì cái hạnh đi khất thực đã làm cho người ta quá kính trọng, quá tôn trọng, người tu hành như vậy là cao quý, rất là cao quý.
Nhưng vì không biết pháp tu cho nên hầu hết là giới khất sĩ họ lúng túng, cho nên đi cái hình thức, khất thực thì cao quý lắm rồi, nhưng mà khi tu để mà giải thoát thì rất lúng túng, cho nên cái hạnh khất sĩ của họ nó không đem đến cho họ giải thoát. Vì vậy mà sau này từ cái chỗ giữ gìn giới họ lần lượt họ lén lút phá giới, và coi như là phá giới gần hết.
Đó là một bằng chứng hiển nhiên cụ thể là vì, giữ được cái hạnh khất sĩ đi xin ăn này mà có pháp tu nữa để giải thoát thì cái hạnh khất sĩ này nó lại càng cao quý hơn nữa, đẹp đẽ hơn nữa, trái lại hình thức đi khất thực mà không có pháp tu, biến dần dần chúng ta sẽ trở thành kẻ ăn vụng, ăn vặt, nó sai, nó không đúng cách.
Đó thì cái chỗ hỏi của con.
Còn bây giờ thì chúng ta trở qua, đây là cái phần mà cô Diệu Quang hỏi. Từ hôm bữa 15 tháng 7 tới nay mà Thầy cũng chưa có dịp mà trả lời hết. Là cô hỏi để mổ xẻ những chi tiết vào những cái bài học cụ thể để cho các con thấy cái chỗ mà đi vào cái lối tu như thế nào để cho nó rõ ràng hơn.
(17:07) Hỏi: “Kính bạch Thầy, chúng con là những người mới vào tu…”
Đây là muốn hỏi như chẳng hạn là, như là Cô Viên Minh hay hoặc là những người mới tu đó, đây là muốn hỏi những người mới tu, như cái chú gì ở đằng trước đó, những người mới tu chưa có nghe giáo lý, chưa có nghe lời giảng của Thầy gì hết đó, thì như vậy là như thế nào? Hay hoặc là nghe được ở trong những cái băng của thầy giảng thì nó lung tung nó quá nhiều không biết làm sao mà tu tập đó.
“Kính bạch Thầy! Chúng con là những người mới vào tu. Kinh điển Thầy giảng dạy quá nhiều, nhất là “Giáo Án Đường Lối Tu Tập Của Đạo Phật” rất là mênh mông, từ Giới Đức, Giới Hạnh đến Giới Tuệ, bây giờ đến Giới Hành. Chúng con giống như người lạc vào rừng rậm, chẳng biết lối ra.
Vậy ngưỡng mong Thầy từ bi thương xót chỉ dạy cho chúng con lối ra!”
Đáp: “Người mới bắt đầu tu tập theo đạo Phật thì phải sống đúng giới luật. Muốn sống đúng giới luật thì người tu sĩ phải học giới luật cho thông suốt, mỗi giới luật phải biết đức hạnh giới ở đâu và hành giới chỗ nào, để thân khẩu ý không phạm giới, giới luật không bị bẻ vụn, ngày ngày sống đúng giới hạnh.”
Đó là cái giai đoạn thứ nhất của cái người mà mới theo đạo Phật, thì mới xuất gia đó, mới tu hành đó, còn người cư sĩ thì khác rồi. Ở đây Thầy muốn nói về cái giới xuất gia đó. Thì lấy giới luật mà khép mình ở trong cái khuôn khổ cái đời sống của mình, thì tức là các con phải học giới luật.
Nhưng vì Thầy, cái bộ giới luật Thầy viết chưa có rồi, và cái tập thứ nhất của bộ giới luật thì chắc chắn là sắp sửa nay mai thì nó có thể lên vi tính, và đồng thời thì cô Châu cô sẽ mang về đây để mà photo ra rồi đóng thành sách. Coi như là lên vi tính rồi thì cái bản của nó như thế nào, thì mình đem về cái máy photo mình photo ra rồi mình đóng lại, chớ còn mình không có máy in mình in, mà mình phải photo cái bản đó ra.
Thì như vậy là mình cũng sẽ có được một số kinh giới, những cái cuốn giới đầu tiên. Giới đầu tiên thì đại khái giới thiệu, những mỗi cái giới ở trong đó thì Thầy dạy, mỗi cái giới chúng ta phải hiểu một cái giới đó nó có ý nghĩa gì ở trong cái giới đó, cái giới đó nó phải là như thế nào mà Phật chế ra cái giới đó?
Rồi cái tập thứ hai thì nói về cái đức giới và cái hạnh giới của mỗi giới đó là cái tập hai, còn cái tập nhất là giới thiệu giới để cho các con đọc lên các con biết cái giới đó là để giữ gìn như thế nào, thế nào, để làm sao cho nó đúng cái giới thôi. Còn cái tập thứ hai thì nói về đức giới và hạnh giới nó rõ ràng hơn.
Và có cái sự phê phán ở trong đó đối với những người viết giới từ xưa đến giờ và những người mà đang phạm giới ở trong cái giai đoạn này, từng những cái giới mà họ đang phạm, để chúng ta rút tỉa những kinh nghiệm đó mà chúng ta giữ gìn giới cho nghiêm chỉnh.
(20:16) Và cũng sắp sửa nay mai nếu mà cô Châu mang cái bộ kinh giới tức là tập Đường Về Xứ Phật thứ hai này, thì về đây thì chắc chắn là cô Châu sẽ ở lại, cổ lo cái phần cổ photo ra để mà chúng ta có những cái tập giới.
Từ đó, bây giờ bắt đầu vô mà học bây giờ không có giới mà lấy những cái tập kinh giới khác của các Hòa thượng, của các vị mà soạn giới, mà đưa các con học thì nó không đúng cái đường lối của mình rồi.
Cái tập giới thứ nhất Thầy đã soạn xong rồi, trong đó có in thêm cái phần vấn đạo là trải qua học về cái giới hành, thì chúng ta có thêm cái phần đó để khi mà học giới thì chúng ta lại hiểu thêm về cái phần mà tu tập về các cái giới hành. Thì đương nhiên là cái tập giới này thì sắp sửa gần xong, Thầy đã viết xong rồi, nhưng mà còn in nữa là xong.
Thầy đang soạn cái tập giới thứ hai, cái lời nói đầu và cái lời bạt của tập thứ hai, của tập giới.
Như vậy là chúng ta sẽ có ba tập: Tập thứ nhất là Đường Về Xứ Phật, giới thiệu cho hai cái lộ trình. Tập thứ hai nói về cái giới luật của người tu sĩ. Tập thứ ba thì nói về giới đức và giới hạnh của người tu sĩ.(21:38) Như vậy là chúng ta đã có những cuốn sách giới đầu tiên để mà chúng ta học tu.
“Bây giờ đã là cái phần giới xong rồi thì kế đó chúng ta lấy giới bổn phòng hộ sáu căn.”
Khi chúng ta hiểu giới rồi thì luôn luôn lúc nào chúng ta cũng phải khép chặt mình ở trong cái khuôn khổ giới để phòng hộ mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình, làm cho mắt thì không dính sắc, tai thì không dính tiếng, mũi thì không dính mùi, lưỡi thì không dính vị, da chạm thì không dính thọ, ý thì không dính pháp.
Đó là cách thức lấy giới luật mà giữ gìn cho nó, để nó va chạm, đụng chạm tất cả mọi sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp mà nó không bị dính mắc.
“Kế nữa thì phải tập sống đời sống thiểu dục tri túc.”
Nghĩa là mình cứ bỏ dần, bỏ dần vừa tạm đủ cho đời sống của mình thôi, không có để thừa. Thí dụ như hai cục xà bông thì mình bỏ bớt một cục, hai bàn chải thì mình bỏ dần bớt ra, bớt ra chừng nào mình thấy như vậy đủ cái đời sống của mình là thiểu dục tri túc thì thôi. Đó là tập sống thiểu dục tri túc.
“Hằng ngày chia thời gian tu tập các loại định.”
Và trong cái, bây giờ mình sống giới luật rồi, rồi mình lấy giới luật mình phòng hộ. Phòng hộ nghĩa là mình đi ra ngoài khỏi Tu viện hoặc là mình đi tới đi lui thì mình giữ gìn mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình như thế nào cho nó đúng cách, để cho mình phòng hộ được mắt tai.
Chứ còn nếu mình phòng hộ mắt, tai, mũi, miệng, nhất là miệng của mình mà mình không phòng hộ nó, thì nó đi nói chuyện này, chuyện kia, chuyện nọ, thì đó là nó làm cho động mình mà động người khác, cho nên mình phải giữ gìn cái miệng mình ghê gớm lắm. Cho nên đó là sự phòng hộ mắt tai, mũi miệng của mình.
“Hằng ngày chia thời gian tu tập các định và đồng thời trong khi đó vừa tập sống thiểu dục, vừa phòng hộ sáu căn mà vừa sống đời sống giới luật.”
Để làm gì? Để cái đời sống giới luật này nó không bị ức chế, mà nó có những cái pháp mà chúng ta làm cho nó sống một cách nó cởi mở và nó thích thú ở trong cái giới luật, nó thấy có cái sự an ổn và an lạc trong đó. Chớ còn nếu không mà chúng ta không có những cái pháp hành này mà cứ lấy giới luật mà sống thì chắc chắn chúng ta bị ức chế nhiều lắm.
“Thứ nhất chúng ta tu tập các định đó, thì định nào thứ nhất? Thì do đó chúng ta tu cái Định Chánh Niệm Tỉnh Giác Định tức là Thân Hành Niệm.”
Chúng ta đi biết đi, làm biết làm, tu tập những cái mà Thầy đã dạy các con tỉ mỉ về cách thức tu tập Chánh Niệm Tỉnh Giác.
“Cái thứ hai thì chúng ta tu tập Định Niệm Hơi Thở.”
Thì tu tập Định Niệm Hơi Thở, đầu tiên thì chúng ta ổn định hơi thở bình thường, rồi tu tập tụ điểm, đó là cái phần mới. Còn chúng ta đã tu tập xong rồi thì chúng ta dùng cái Định Niệm Hơi Thở này câu hữu với cái Định Vô Lậu và các pháp hướng, để mà chúng ta lo xả tâm, ly dục, ly ác pháp.
“Cái thứ ba là Định Vô Lậu quán, hướng, xả, tức là bất tịnh, vô thường, khổ, không, vô ngã.”
Đó là cái định mà chúng ta cần phải xem xét tư duy đó, và cần phải dùng pháp hướng, và cần phải xả bỏ, thì đó là cái Định Vô Lậu.
Bây giờ kế:
“Thứ tư thì chúng ta dùng Chánh Niệm Tỉnh Giác Định câu hữu với pháp hướng vô lậu.”
Chánh Niệm Tỉnh Giác Định mà câu hữu với pháp hướng vô lậu thì chắc các con nghe cái tên như vậy các con biết cách thức rồi đó.
“Thứ năm là Định Niệm Hơi Thở câu hữu với pháp hướng vô lậu.”
Nghĩa là trước thì chúng ta, cái phần thứ tư, thì trước chúng ta tu cái Chánh Niệm Tỉnh Giác câu hữu với cái pháp hướng vô lậu. Còn cái sau đó thì chúng ta lại tiếp tục tu cái Định Niệm Hơi Thở thì cũng câu hữu với cái pháp hướng vô lậu nữa.
“Sáu là Chánh Niệm Tỉnh Giác Định Câu hữu với Định Niệm Hơi Thở.”
Hai cái Định này câu hữu lại với nhau, để giúp cho sức tỉnh của chúng ta tăng lên càng nhiều càng tốt.
Thí dụ như bây giờ mình tu chừng một phút, đi kinh hành một phút mà nó giữ được tâm hai phút thì nó bị tạp niệm xem vào. Cho nên mình muốn đạt được hai phút thì mình câu hữu với cái Định Niệm Hơi Thở vô, thì do đó mình đạt được hai phút nó không có cái tạp niệm xen vô.
(26:01) “Tất cả các pháp hành này đều nhắm vào diệt ngã, xả tâm ly dục ly ác pháp để tâm được giải thoát an lạc, thanh thản và vô sự.”
Đó là những cái phần mà ở trên này từ cái giới luật, cho đến cái phòng hộ sáu căn, cho đến tập thiểu dục tri túc, rồi tập các cái loại định mà Thầy đã kể trên đó, thì các pháp này, thì nhằm cái mục đích của nó để cho chúng ta diệt ngã, xả tâm, ly dục ly ác pháp chớ nó không phải nhập định, nhập gì hết. Nhưng lúc bấy giờ cái tâm của chúng ta nó an lạc, thanh thản và vô sự, nó đạt được cái kết quả như vậy, giải thoát như vậy đó.
“Đây là giai đoạn tu tập thứ nhất…”
Cái phần mà nói ở trên này, các thiền định như vậy đó, và giới luật như vậy đó là cái giai đoạn tu tập thứ nhất.
“… mà một tu sĩ Phật giáo cần phải chấp hành nghiêm chỉnh tu tập. Hàng ngày không được biếng trễ.”
Đó là một cái người mà đã quyết tâm theo đạo Phật, rồi thì cái giai đoạn thứ nhất này là chúng ta đã biết tất cả các pháp hành như vậy rồi, và sống đời sống giới luật như vậy rồi, thông hiểu hết giới luật rồi thì chúng ta sẽ tu tập, coi như là đem đến cho một cái tâm hồn của chúng ta an lạc, thanh thản và vô sự, ngày này qua ngày khác.
Coi như chúng ta sống ở trong Niết Bàn, sống ở trong cái cảnh thiên đường rồi chớ không phải là cảnh địa ngục nữa. Ai làm gì thì tâm chúng ta như cục đất không bao giờ mà có hề hấn được cái tâm chúng ta chút nào hết. Tức là chúng ta được an lạc nhất trong cái xã hội này, trong cái loài người không có ai hơn chúng ta được, và hạnh phúc hơn chúng ta được.
Đây là một cái giai đoạn thứ nhất, thì các con phải thấy nó là cái giai đoạn quan trọng nhất cho cuộc đời tu hành chúng ta. Nó đạt được cái sự giải thoát của tâm chúng ta rất là cao quý. Nó làm cho con người chúng ta an ổn nhất, hạnh phúc nhất, không có ai hơn được, gọi là hạnh phúc hơn được chúng ta. Nó cao quý như vậy đó.
(27:54) Bây giờ câu hỏi kế. Cô Diệu Quang hỏi kế Thầy:
“Kính bạch Thầy! Làm sao biết tâm mình hết lậu hoặc?”
Ở đây thì trả lời, để khi, bởi vì nó hết lậu hoặc tức là nó đã ly dục, ly ác pháp đó, còn đoạn dứt lậu hoặc thì nó tới Tam Minh rồi nó mới hết.
Đáp: “Tâm hết lậu hoặc là tâm thường quay vào trong thân.”
Tâm nó không phóng dật ra ngoài, nó không chạy theo sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Mà thường thường, nó theo những cái hành động ở trong thân, nó nghe, nó biết ở trong thân, nó không có lưu ý những cái hoạt động ở bên ngoài của các pháp, mà nó nghe hoạt động ở trong thân nó, thì đó là lúc bấy giờ tâm nó đã hết lậu hoặc.
Còn tâm chưa hết lậu hoặc là luôn luôn nó nghe ra ngoài, cái thân của mình động dụng gì nó không lưu ý, tức là nó không quay vô trong. Cho nên hiện giờ hầu hết là chim kêu, gà gáy, chó sủa bên ngoài làm gì, thì cái tâm của các con dường như nó ở ngoài, nó không chịu ở trong thân của các con, đó là cái tâm chưa hết lậu hoặc.
Cho nên nó luôn luôn nó ở ngoài nó đón nhận, để rồi nó mới có những cái lậu hoặc, nó mới có phiền não, nó mới có đau khổ. Còn nó quay vào trong thì nó hết sạch à, nó không còn. Cho nên cái mà dễ nhận nhất là cái tâm mà hết lậu hoặc, thường cái tâm nó quay vào trong.
“Nó không phóng dật theo sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Trạng thái tâm lúc bấy giờ thanh thản, an lạc, Tầm Tứ phát khởi điều thiện đối với các pháp.”
Nghĩa là luôn luôn các đối tượng xảy ra trước mặt nó, cái gì nó cũng khởi là thiện, người nào nó cũng thấy tốt hết không có bao giờ nó thấy người đó là xấu, nó nghi người đó là trộm cướp hay người đó là ác, nó không nghi người nào hết.
Bất kỳ người đó ác, hung dữ cách gì, với cái đôi mắt của cái người mà tâm đã hết lậu rồi thì họ thấy toàn là người nào cũng là người tốt. Họ không thấy cái người nào là người xấu hết.
Con vật nào cũng là con vật tốt hết, một con rắn họ cũng không sợ là tại vì họ thấy con rắn là một con vật hiền lành chớ họ không thấy nó ác. Nghĩa là họ không thấy là con rắn sẽ cắn họ mà họ thấy con vật rất là hiền. Cho nên họ không còn sợ rắn, họ không còn sợ cuốn chiếu, họ không còn sợ một con vật gì hết. Nghĩa là con vật nào đối với họ cũng là con vật hiền lành hết. Đó là tâm nó đã quay vô, nó hết lậu hoặc, nó không còn lo lắng sợ hãi một con vật gì hết.
“Luôn luôn nghĩ tốt cho mọi người và mọi vật, không bao giờ có ý nghĩ xấu với người, với vật khác.”
Nghĩa là nó không có nghĩ người nào ác, mà cái con vật nào hung dữ hết. Cho nên tâm rất an ổn, đó là tâm nó đã hết lậu hoặc.
Bởi vậy, các con tưởng tượng ra, bây giờ mình chưa có được ở trạng thái đó, mình tưởng tượng ra tất cả những người xung quanh mình đều là người tốt, mình thấy tâm mình an lắm, mà mình đang nghi ngờ một người nào xấu, bây giờ thí dụ như mình nghi ngờ một người nào đó mà ăn trộm, thì luôn luôn mắt mình nó bắt buộc phải cứ để ý cái thằng đó, sợ nó lấy đồ mình! Cho nên đó nó làm cho mình động tâm lắm, nó làm cho mình bất an lắm.
Còn mình nghĩ người ta tốt, mặc dù là tới chừng họ lấy đồ mình, họ lấy, người đó cũng nghĩ là người tốt thôi, không bao giờ nghĩ xấu, cho nên cái tâm mình rất an ổn.
“Ngược lại tâm chưa hết lậu hoặc thường lo ra…”
Nó lo ra ngoài chớ nó không có như vậy.
“… suy tư chuyện này đến chuyện khác, khởi tâm tham muốn cái này đến đến cái kia, hay sinh ra việc làm này việc làm khác.”
Nó sanh chuyện làm cái này làm cái khác, đó là tâm nó phóng ra đó.
“Nó phá hạnh độc cư, chuyên nói chuyện phiếm, thân tâm luôn luôn hữu sự, đầu óc đầy ắp những sự việc, việc này đến việc kia, nó không có rỗng rang. Còn người mà tâm hết lậu hoặc rồi thì nó rỗng rang.”
(31:38) Đó thì thầy chỉ cho, bởi vì qua cái câu hỏi cô Út hỏi đó, thì cho chúng ta biết được cái trạng thái của tâm hết lậu hoặc, nó sung sướng lắm các con, nó thảnh thơi lắm! Một người mà hưởng được cái tâm mà nó hết lậu hoặc rồi, thiệt ra Thầy nói, nó không còn đi tìm một cái cảnh giới nào mà để cầu mình đi về đó nữa, mình chỉ ở được cái trạng thái tâm đó là mình thấy hạnh phúc của mình vô cùng rồi!
Mà người mà tu hành, cái tâm đó nó không có khó đâu các con, chỉ cần ly dục ly ác pháp là mình thấy nó hết lậu hoặc, nó lìa lậu hoặc rồi thì mình thấy nó được như vậy rồi, nó không khó!
Chỉ có mình nỗ lực mình tu, mình biết thời gian ngắn trong vài ba tháng thì mình thấy an lắm rồi. Nó không còn có ai xấu với mình hết, không còn ai ác với mình hết, mà ai cũng là người tốt hết, ai cũng là người thương yêu mình hết!
Họ chửi mình mình cũng thấy họ thương mình nữa, chớ cũng không phải ghét mình, họ giúp mình mau giải thoát đó. Họ giết mình mình cũng thấy là họ giúp mình, họ thương mình chớ không phải ghét mình, luôn luôn lúc nào, con nghe ông Phú Lâu Na ổng nói: “Họ còn thương con mà!”, thương cho đến khi giết ổng ổng cũng nói còn thương ổng chớ không có ghét!
Đó chính là cái tâm vô lậu rồi đó các con. Cái lời nói của ông Phú Lâu Na đối với Phật mà hỏi, thì đó là cái lời nói của người tâm hết lậu hoặc, nó vô lậu rồi.
(32:46) Hỏi: “Kính bạch Thầy! Con chỉ tu một pháp hướng “tâm như đất”, hằng phút, hằng giây, hằng ngày, hằng giờ, liên tục hướng tâm như vậy có hết lậu hoặc không thưa thầy?”
Nghĩa là bây giờ cô Út hỏi, hỏi cho rõ: Bây giờ con không tu được pháp nào lộn xộn hết, bây giờ con chỉ dùng cái pháp hướng thôi, hàng ngày con cứ ngồi con nhắc “tâm như cục đất”, con chỉ nhắc nó vậy thôi, rồi lát con nhắc nó nữa. Rồi con nghĩ ngợi gì, đầu óc nghĩ ngợi gì nghĩ, kệ, con không nhiếp hơi thở, con không tỉnh thức, không tu gì hết, chỉ có “tâm như cục đất” thôi. Con nhắc nó như vậy, vậy thì tâm con có hết lậu hoặc hay không?
Đây là cô Út cổ ngắt ra từng chút, từng chút để thấy, để qua cái lời đối đáp của Thầy, để thấy chúng ta phải tu như thế nào mà hết lậu hoặc, để làm cho chúng ta được giải thoát các con. Giải thoát như hồi nãy cô Út hỏi đó, tức là gợi ý cho chúng ta cái đầu tiên để cho chúng ta biết được cái tâm vô lậu của mình, nó đem đến cái sự giải thoát mình như thế nào, cái sự an ổn như thế nào, mà nó gọi là vô lậu đó.
Đó, thì nó rất là an ổn như vậy. Mà bây giờ muốn được cái an ổn đó, thì bắt đầu bây giờ, thay vì pháp Thầy dạy tùm lum quá như vậy con không biết đâu mà gồm lại, bây giờ con mới hỏi Thầy, bây giờ con chỉ dùng pháp hướng “tâm như cục đất”, tối ngày con cứ ngồi đâu con hướng “tâm như cục đất”, “tâm như cục đất”, như vậy là có đến cái ngày nào đó nó sẽ hết lậu hoặc hay không?
Đáp: “Không! Tu như vậy không bao giờ hết lậu hoặc.”
Nghĩa là mình cứ nhắc cái tâm của mình như vậy, mà mình không sống đúng cái không lậu hoặc thì nó vẫn phải là có lậu hoặc, chớ làm sao hết được. Mình nhắc nó như vậy là cũng như mình nhắc chơi vậy thôi, thì như vậy là không hết.
Cho nên có nhiều người hiểu lầm, con tu như vậy, con nhắc hoài như vậy một tháng, hai tháng, ba tháng rồi mà sao nó không hết? Tức là mình không sống đúng theo cái nhắc của mình.
Mình muốn tâm như cục đất, mà bây giờ người ta chửi mình mình không nhận, mình chửi mắng lại người ta cho đã rồi bắt đầu mình nói “tâm như cục đất” nữa. Rồi mai mốt người ta chửi mình nữa mình cũng chửi mắng người ta nữa, mình đánh người ta nữa rồi mình cũng bảo tâm mình như cục đất nữa, thì Thầy nghĩ rằng, các con nghĩ như vậy làm sao mà nó như cục đất được, phải không?
Ít ra mình nói tâm mình như cục đất, nhưng mà người ta chửi mình, mình có giận mình hờn, nhưng mà mình phải nghĩ rằng “tâm như cục đất, đừng có mắng chửi người ta!” thì nó giảm được cái mình không mắng chửi người ta rồi.
Mai mốt tâm như cục đất, thì mai mốt mình phải sống mình khép mình ở trong cái khuôn khổ nào để cho cái tâm mình nó như cục đất chớ! Còn cái này mình cứ để cho nó cứ phiền não trong lòng mình hoài thì nó cũng không như cục đất được.
Đáp: “Không, tu như vậy không bao giờ hết lậu hoặc!”
(35:13) Hỏi: “Kính bạch Thầy! Con tập sống đúng giới luật của Phật, không vi phạm một lỗi nhỏ, hằng ngày con tu một pháp hướng “tâm như đất” có kết quả hết lậu hoặc không?”
Đó, bắt đầu bây giờ cô Út mới thêm được cái giới luật thêm. Bởi vậy cổ hay là cái chỗ cổ tuần tự cổ thêm lần lên, để chúng ta thấy được cái pháp tu của chúng ta cái chỗ nào hết lậu hoặc.
Đáp: “Chỉ được năm chục phần trăm chứ không dứt hết lậu hoặc.”
Vì sống được cái giới luật này, cho nên do đó nó cũng khép mình ở trong khuôn khổ nho nhỏ mình không có lỗi lầm rồi, do đó cái tâm như cục đất nó có kết quả.
Nghĩa là bây giờ không chửi ai hết, nhưng nó có hờn hờn chút rồi nó cũng hết, hay hoặc giận chút rồi nó cũng hết, nhưng mà nó chưa hết sạch, cho nên nó mới chỉ đạt được năm chục phần trăm, nó mới được phân nửa thôi.
Đó thì các con thấy, bây giờ cô Út thêm cho một cái câu pháp hướng, và bây giờ sống thêm giới luật nữa thử coi nó được cái chỗ nào. Đó các con thấy nó khó như vậy chứ không phải dễ!
(36:14) Hỏi: “Kính bạch Thầy!… “
Bây giờ là Thầy trả lời rồi, thì cổ thấy bộ chưa ổn, mới có được năm chục phần trăm, phải tiến tới cho tới một trăm phần trăm chớ! Cho nên mới hỏi tới:
“Kính bạch Thầy! Con sống đúng giới luật và con nhìn cuộc sống bằng đôi mắt nhân quả không làm khổ mình khổ người, và con tu tập chỉ một pháp hướng, hằng ngày, hằng giờ, hằng phút, hằng giây “tâm như đất”. Như vậy con có hết lậu hoặc không thưa thầy?”
Đáp: “Hết! Con tu như vậy tâm con sẽ ly dục ly ác pháp diệt ngã xả tâm, cuộc sống và tâm hồn của con sẽ an lạc, thanh thản như cục đất.”
Con thấy có khó không? Từ mình khép mình trong cục đất rồi bắt đầu đôi mắt mình phải nhìn đó là nhân quả, cho nên bây giờ hằng ngày mình nhắc nó như thế nào, thì ngay đó cái tâm nó phản ứng rất nhanh vì vậy mà nó thấy được nhân quả liền, cho nên nó không có làm cho chúng ta đau khổ. Cho đến khi cuối cùng thì chúng ta hoàn toàn xả ly tất cả những cái dục và ác pháp.
Như vậy là có gì đâu? Sống đúng giới luật của Phật chứ có gì khác? Mà tập sống nhìn bằng nhân quả, thì nó xảy ra cái gì mình cứ nhân quả mình thấy thôi, mình đừng có thấy đúng thấy sai, đừng có thấy mình là đúng mà thấy người khác là sai thì nó là trật rồi, cho mình thấy nhân quả.
Như vậy là cô thêm cho một cái nữa thì Thầy thấy quá hay rồi. Cho nên các con thấy, đó là cái chỗ để mà dẫn dắt các con đi vào cái chỗ tu rất là rõ ràng cụ thể. Cho nên cái lời hỏi như vậy là có cái giá trị, để chúng ta biết được cái pháp tu đúng hay pháp tu sai.
(37:40) Rồi bây giờ cô lại hỏi thêm nữa:
“Kính thưa Thầy! Con sống không đúng giới luật, nhưng con tu Định Chánh Niệm Tỉnh Giác kết hợp với Định Vô Lậu hằng ngày, hằng giờ, hằng phút. Như vậy có diệt ngã, xả tâm ly dục ly ác pháp chăng?
Nghĩa là cô Út cô loại cái giới luật ra đi, cổ bây giờ cổ loại cái nhân quả ra đi, cổ bây giờ cổ bỏ hai cái này ra đi, mà cổ bỏ luôn cái pháp hướng “tâm như đất” đi, cổ bây giờ cô lấy về các thứ định mà cô nói thôi.
Nghĩa là con không sống đúng giới luật, nghĩa là ngày con ăn hai ba bữa, rồi bắt đầu con tu Chánh Niệm Tỉnh Giác Định nè, con tu Định Vô Lậu nè, hàng ngày con nỗ lực con tu, như vậy con có ly dục ly ác pháp được chăng?
Đáp: “Chỉ hoài công vô ích. Con tu như vậy giống như người nấu cát mong thành cơm.”
Nghĩa là tu không có giữ gìn giới luật mà tu cái Chánh Niệm Tỉnh Giác nè, tu cái Định Vô Lậu nè, hằng ngày quán nó vô lậu, quán vô thường, khổ, không, vô ngã, quán đủ thứ tùm lum hết. Rồi bắt đầu cũng dùng cái pháp hướng, cũng xả nó, cũng này kia nọ đủ thứ mà luôn luôn kết hợp với cái Chánh Niệm Tỉnh Giác, nghĩa là đi kinh hành này kia, tu Thân Hành Niệm đủ thứ hết. Nhưng mà hỏi Thầy, thì đó là Thầy cho là hoài công vô ích, chẳng có tới đâu hết.
(39:25) Bây giờ cô Út cô hỏi kế.
“Kính thưa Thầy! Con không giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh, sống với đôi mắt nhìn đời bằng nhân quả không làm khổ mình, khổ người và tu Chánh Niệm Tỉnh Giác câu hữu với Định Vô Lậu, như vậy con hết lậu hoặc không?”
Đó, bây giờ cô lại bỏ cái giới luật đi, mà cô chỉ sống với cái nhìn của mình với nhân quả, có nhân quả đến thì cô thấy nhân quả thiện ác, cô xả tâm mình không làm khổ mình, không làm khổ người, và cô tu tập Chánh Niệm Tỉnh Giác câu hữu với Định Vô Lậu thì như vậy có hết cái lậu hoặc không. Thì ở đây Thầy đáp:
“Không! Con tu như vậy chỉ được năm chục phần trăm mà thôi.”
Thì con thấy ở đây cái kết quả của cái nhân quả nó ghê gớm lắm đó các con. Nó chỉ giúp cho các con đạt được năm chục phần trăm đó, chứ không phải ở chỗ cái Định Chánh Niệm Tỉnh Giác và cái Định Vô Lậu đâu, mà chính cái nhân quả mà nó giúp cho.
Hồi nãy thì các con thấy có cái Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, Định Vô Lậu chứ gì, bỏ cái giới luật chứ gì, thì hoàn toàn là hoài công của mình rồi. Bây giờ cô Út cổ thêm cái nhân quả, thì con biết rằng mình đặt cái nền tảng nhân quả lên là cái sự tu tập nó có kết quả ngay liền, cho nên nó đạt được năm chục phần trăm. Thấy chưa?
Hồi nãy ở trên cũng bỏ giới luật, thì ở dưới này cô cũng bỏ giới luật. Cô đi từng chút, từng chút để đến chỗ để mà chúng ta biết được cái chỗ nào mà tu rốt ráo, để mà chúng ta lấy cái chỗ đó mà chúng ta tu.
Đó, cho nên ở đây, thì cổ thêm vào cái nhân quả thì Thầy cho rằng chỉ được năm chục phần trăm thôi.
Bởi vì cái đời sống cư sĩ người ta không có giữ gìn giới luật, người ta không có tu cái Chánh Niệm Tỉnh Giác, người ta không có tu cái Định Vô Lậu, mà người ta chỉ sống cái đạo đức nhân quả thôi, người ta thấy nhân quả thiện ác thôi, người ta cũng đem lại hạnh phúc cho gia đình, người ta sống trong xã hội, trong gia đình người ta rất là an vui.
Các con thấy cái đạo đức nhân quả nó kinh khủng như vậy đó, nó làm cho người ta hạnh phúc lắm đó. Bởi vì mình biết nhân quả rồi thì tâm mình nó xả liền à, nó không có còn dính mắc nữa. Cho nên ở đây cô Út cô đem cái nhân quả vô cái thì bắt đầu nó năm chục phần trăm liền! Các con thấy hay ghê không?
Còn thiếu nhân quả cái vô trong này thì mình tu gần chết mình mà nó chẳng đạt được cái gì hết! Thấy không, các con thấy Chánh Niệm Tỉnh Giác nè, hằng ngày đi kinh hành, thôi làm cái gì phải tập trung gần chết! Rồi câu hữu, rồi quán vô thường, khổ, không, vô ngã gì đủ thứ tùm lum hết, mà cuối cùng thì nó hoài công, nó chẳng hết cái phiền não tham, sân, si mình gì hết, các con thấy không?
Những cái pháp này Thầy nói thì nghe hay, nhưng mà nó không được xây dựng ở trên cái đạo đức của nó, cái nền tảng nhân quả thì nó chỉ hoài công, tu không có lợi ích đâu! Các con thấy chưa? Thấy cái chỗ mà hỏi và cái chỗ đáp, nó phải thấy được cái chỗ mà, bởi vì đạo Phật xây dựng trên một cái nền tảng đức hạnh mà. Cho nên lại đức hạnh của nhân quả nữa, cho nên nó lại quá thực, quá cụ thể.
Vì những cái lời hỏi này làm cho chúng ta sáng lên được rõ ràng cái đường tu chúng ta, cái chính là cái chỗ nào mà chúng ta đứng ở trên cái đất nào mà chúng ta sẽ tu tập mà đạt được thiền định. Mà nếu mà thiếu cái mảnh đất đó, mà chúng ta đứng cái chỗ khác là chúng ta không có xây dựng được cái chỗ giải thoát của chúng ta được.
(42:52) Bây giờ cô Út hỏi kế đây:
“Kính thưa thầy, con sống đúng giới luật nghiêm chỉnh, nhìn đời bằng đôi mắt nhân quả và tu tập Chánh Niệm Tỉnh Giác câu hữu với Định Vô Lậu như vậy con diệt ngã xả tâm ly dục ly ác pháp được chăng?”
Đáp: “Được, con tu như vậy tâm con sẽ hết lậu hoặc, thanh tịnh và an lạc.”
Nếu mà kết hợp luôn cả cái giới luật nữa, thì lúc bấy giờ đó coi như là, hồi nãy năm chục phần trăm mà thêm giới luật vô nữa thì chúng ta sẽ diệt sạch lậu hoặc của nó. Nó làm cho cái Định Chánh Niệm Tỉnh Giác Định này với cái Định Vô Lậu này nó trở thành một sức rất mạnh, nó làm cho lậu hoặc quét ra hết.
Còn nếu mà chúng ta chỉ có phần giới luật với nhân quả không thì nó cũng chẳng có cái kết quả đâu. Lần lượt thì các con sẽ thấy cô Út hỏi lần lượt nó đi tới.
“Được, con tu như vậy tâm con sẽ hết lậu hoặc, thanh thản và an lạc.”
(43:53) Hỏi: “Con sống không đúng giới luật, con tu Định Niệm hơi thở câu hữu với Định Vô Lậu. Kính thưa thầy, con tu như vậy tâm con có hết lậu hoặc hay không?”
Bây giờ cô bỏ cái định Chánh Niệm Tỉnh Giác, cô lấy cái Định Niệm Hơi Thở, rồi cô câu hữu với cái Định Vô Lậu, thì cô bỏ cái giới luật, cô không sống đúng giới luật, rồi cô bỏ luôn cái nhân quả. Do như vậy mà cô hỏi: Ở từ ở chỗ Định Niệm hơi thở này và câu hữu với Định Vô Lậu thì con có xả hết cái lậu hoặc hay không?
Đáp: “Không! Con tu như vậy chỉ hoài công vô ích.”
Đó, mặc dù, do đó khi mà đọc lại cái bài này các con mới xét thấy cái nào mà cần thiết cho cái nền tảng mà chúng ta tu tập.
(44:31 “Kính bạch Thầy! Con sống đúng giới luật, con tu Định Niệm Hơi thở câu hữu Định Vô Lậu, như vậy tâm con có hết lậu hoặc không?”
Đáp: “Con tu như vậy chỉ xả được tâm lậu hoặc năm chục phần trăm.”
Đó thì các con thấy, lấy cái giới luật mà không có lấy cái nhân quả, nhưng mà lấy giới luật gò bó mình trở lại trong khuôn khổ, rồi tu Định Niệm Hơi thở câu hữu Định Vô Lậu thì cũng chỉ đạt năm chục phần trăm, mà bỏ cái nhân quả ra.
(44:57) “Kính bạch Thầy! Con sống đúng giới luật, nhìn đời bằng đôi mắt nhân quả, không làm khổ mình khổ người, con tu tập Định Niệm Hơi thở câu hữu với Định Vô Lậu. Như vậy con có diệt ngã, xả tâm ly dục ly ác pháp được không thưa thầy?”
Đáp: “Được, con tu như vậy sẽ ly dục, ly ác pháp nhập Nhị (Sơ) Thiền rất dễ dàng, tâm lậu hoặc xa lìa, để lại một trạng thái an lạc, thanh thản do ly dục sanh.”
Đó các con thấy, chỉ thêm một chút xíu mà thấy kết quả nó lớn như vậy đó, chỉ cần thêm cái chỗ mà quan trọng. Và như vậy con thấy cái nào mà kết quả, trong đó cái pháp nào cái pháp chủ chốt để mà nó làm cho các con được giải thoát, thì các con biết rất rõ qua những cái câu hỏi này.
(45:47) Hỏi: “Kính bạch Thầy! Con sống đúng giới luật, giữ gìn nghiêm túc không vi phạm một lỗi nhỏ, không bẻ vụn giới luật, con không tu Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, Định Niệm Hơi Thở và Định Vô Lậu, như vậy con hết lậu hoặc hay không?”
Nghĩa là bây giờ đó cô Út hỏi Thầy, là mình chỉ cần giữ gìn giới luật thôi, nghĩa là không có vi phạm, không có làm cho giới luật bẻ vụn ra, nát ra. Mà: “Con thì không có tu Chánh Niệm Tỉnh Giác, không tu Định Niệm Hơi Thở và Định Vô Lậu như vậy con có hết lậu hoặc không?”
Nghĩa là cô lấy một cái câu hỏi đó để cho thấy rằng cái giới luật hoàn toàn nó có giúp mình đi hết lậu hoặc không. Thì Thầy trả lời:
“Không! Đó là một lối ức chế tâm, hình thức thì giới luật nghiêm trì nhưng tâm thì giới luật đã bẻ vụn!”
Nghĩa là mình không tu các pháp khác đó, mà chỉ có giới luật không, thì tâm của mình bị bẻ nát cái giới luật hết, nó phạm giới hết. Ở ngoài cái thân của mình với khẩu mình nó không phạm, chứ cái tâm của mình nó phạm, bẻ vụn hết.
“Tu như vậy chỉ làm khổ hạnh cho mình, chỉ làm khổ cho mình, chẳng ích lợi gì. Giống như các vị khất sĩ lấy giới mà nén tâm, chẳng bao giờ tâm lậu hoặc hết, chẳng bao giờ ly dục, ly ác pháp được, chỉ uổng một đời tu mang hình thức giới luật.”
(47:15) Hỏi: “Kính bạch thầy! Con không giữ giới luật nghiêm chỉnh, con không tu các loại định mà chỉ sống nhìn đời bằng đôi mắt nhân quả không làm khổ mình khổ người, như vậy con có hết lậu hoặc không?”
Đáp: “Không! Nếu sống nhìn đời bằng đôi mắt nhân quả đó là con đã thực hiện đạo đức nhân quả đem lại một cuộc sống an lành, hạnh phúc cho gia đình, đem lại cuộc sống hòa hợp an vui cho xã hội và đem lại trật tự phồn vinh cho đất nước, chớ không thể nào tâm con hết lậu hoặc.”
Các con thấy, bây giờ mình hoàn toàn mình giữ, mình chỉ giữ gìn có một cái đạo đức nhân quả thôi, mình nhìn đời bằng cái đạo đức nhân quả, ai làm gì mình cũng thấy là thiện, mình không thấy ác, mình biết rõ mình xả tâm của mình, mình không có chấp, cho nên mình thấy nó an ổn lắm, mình không có gì hết. Nhưng mà nó không thể hết lậu hoặc của mình đâu.
Cho nên Thầy đáp chỗ này rất kỹ. Nghĩa là coi như Cô Út bỏ hết, bây giờ mình chỉ là, giữ nội cái nhân quả, cái đạo đức nhân quả, tu tập cái nhân quả đạo đức đó mà thôi, thì đây Thầy đáp:
“Không, nếu sống nhìn đời bằng đôi mắt nhân quả, đó là con đã thực hiện đạo đức nhân quả, đem lại một cuộc sống an lành, hạnh phúc cho gia đình.”
Nghĩa là mình sống chung ở trong gia đình mọi người thì mình đem lại cái sự an ổn nhất cho gia đình của mình, không bao giờ mà có rầy rà với nhau.
“Đem lại một cuộc sống hòa hợp, an vui cho xã hội.”
Nghĩa là sống lân cận chòm xóm không bao giờ mà xích mích với người nào hết. Đạo đức nhân quả nó như vậy.
“… và nó đem lại một trật tự, an ninh phồn vinh cho đất nước.”
Nghĩa là đất nước nào mà đã sống được cái đạo đức nhân quả thì đất nước đó nó có trật tự, không có lộn xộn, không có trộm cướp, không có những cái chuyện mà xảy ra đau khổ mất trật tự cho đất nước đó.
Còn đối với để mà tu giải thoát để vô lậu đó thì nó không đạt được.
HẾT BĂNG
PHÁP HÀNH 37 - MƯỜI HAI NHÂN DUYÊN
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Thời gian: 1998
Thời lượng: [47:29]
https://thuvienchonnhu.net/audios/phap-hanh-37-muoi-hai-nhan-duyen.mp3
(0:00) “Kính bạch Thầy! Con không cần sống đúng giới luật, không tu Định Vô Lậu, Định Chánh Niệm Tỉnh Giác. Con chỉ tập Định Niệm Hơi Thở diệt Tầm Tứ nhập Nhị Thiền, Tam Thiền và Tứ Thiền có được không thưa thầy?”
Nghĩa là bây giờ cô hỏi Thầy, là mình bỏ hết không có cần giới luật, cũng như bây giờ các thầy họ không có sống đúng giới luật đâu. Rồi họ bây giờ họ chỉ ngồi thiền, họ dùng cái hơi thở sổ tức hay là tùy tức gì đó, rồi họ diệt cái Tầm Tứ đi, rồi bắt đầu họ nhập Tam Thiền, Tứ Thiền. Cô hỏi có thể nhập được hay không?
Chớ bây giờ nhiều người, người ta cứ nghĩ rằng mình sẽ ngồi thiền, mình ức chế cái tâm không vọng tưởng, thì mình sẽ nhập được Tứ Thiền, Tam Thiền, hay hoặc là nhập tất cả những cái loại thiền nào đó, thì đây cũng là một cái ý hỏi để cho chúng ta thông rõ hơn một chút xíu.
Và nhiều khi có những người mà đọc đến chỗ này, họ được nghe đến cái chỗ câu hỏi này, cũng làm cho họ sáng ra một chút.
Đáp: “Không! Con tu tập như vậy sẽ rơi vào tà thiền, tà định mà chẳng bao giờ nhập Tam Thiền đến Tứ Thiền được. Những loại Thánh Định này không thể một người còn mang tâm trạng phàm phu mà nhập vào được.
Một người chưa ly dục ly ác pháp thì không thể nào nhập vào các Thánh Định này. Vị Tỳ Kheo phá giới, phạm giới, ăn ngủ phi thời thì Bốn Thánh Định này chỉ là ngôn ngữ suông, chẳng ai nếm được mùi vị của nó.
Bởi vậy một vị Tỳ Kheo tu sĩ của đạo Phật phải sống đúng giới luật, phải nhìn đời bằng đôi mắt nhân quả, phải tu tập Định Vô Lậu, Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, Định Niệm Hơi Thở thì mới ly dục, ly ác pháp, mới diệt ngã, xả tâm, mới nhập vào Sơ Thiền.”
Tức là mới có được vào Sơ Thiền thôi.
“ Đạt được trạng thái ly dục, ly ác pháp này thì người tu sĩ mới có thể nhập Nhị Thiền, cho đến Tứ Thiền và Tam Minh.
Bằng giai đoạn thứ nhất không thực hiện được…”
Tức là giai đoạn ly dục ly ác pháp mà không có được đó, tức là không có sống đời sống giới luật đó.
“… tâm chưa hết lậu hoặc mà gọi là nhập Tam Thiền, Tứ Thiền thì đó là một điều phỉnh gạt người khác.”
Nghĩa là cái người tu mà sống không có đúng giới hạnh đó, thì cái người đó không bao giờ mà có thể gọi là nhập Tam Thiền, Tứ Thiền gì được hết, thậm chí như cái Sơ Thiền cũng chưa nhập được nữa. Bởi vì chính cái Sơ Thiền là cái thiền phải ly dục ly ác pháp rồi, thì cho nên cái tâm nó phải xa lìa cái lậu hoặc rồi.
(02:35) Nói đến đây thì có người hỏi Thầy: “Thầy nói cái lậu hoặc nó, mình lìa xa hay hoặc là mình đoạn diệt cái lậu hoặc nó, thì nó hết, thì như vậy là một vị mà chứng quả A La Hán nhập tới Tam Minh thì người ta mới đoạn diệt cái lậu hoặc?”
Đúng vậy, ở chỗ này là cái giai đoạn mà ly, mới có lìa cái lậu hoặc thôi, chứ chưa phải đoạn diệt lậu hoặc. Nó hết lậu hoặc, có nghĩa là ở chỗ này nó chỉ hết không có nghĩa là đoạn diệt, mà nó mới chỉ lìa cái lậu hoặc, nó làm cho người ta được cái trạng thái thanh thản, được trạng thái an lạc, nhưng mà người ta còn tiến tới tu.
Cho nên nội cái Sơ Thiền là người ta đã lìa được cái lậu hoặc chứ người ta chưa có đoạn diệt. Và vì vậy mà trải qua thời gian nữa thì người ta mới tiến tới, người ta mới nhập Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền, rồi chừng đó người ta mới tiến tới Tam Minh.
Cho nên tới cái Lậu Tận Minh, thì người ta mới bứng sạch cái gốc lậu hoặc, nó mới là đoạn dứt cái lậu hoặc, nó không còn nữa. Mà đoạn dứt cái lậu hoặc đó tức là chấm dứt cái sự tái sanh luân hồi.
Còn chúng ta ly cái lậu hoặc, lìa cái lậu hoặc thì chúng ta đã được giải thoát ở trong cái cuộc sống của chúng ta, không còn phiền não, khổ đau, giận hờn, tham muốn nữa.
Các con thấy rõ mình lìa, cho nên cái đời sống của mình nó an ốn, nó không còn có khổ đau, không ai mà làm gì mình, tâm mình như đất rồi, cho nên mình không còn giận hờn, phiền não nữa. Đó các con thấy rõ.
Cho nên ở đây chúng ta biết được cái giai đoạn mà giải thoát được cái tâm là cái giai đoạn của Sơ Thiền ly dục ly ác pháp.
Mà cái giai đoạn Tứ Thiền là giải thoát được cái thân, tức là làm chủ được cái thân, cho nên thân đau nhức hay hoặc là muốn chết hồi nào chết, muốn sống hồi nào sống, là cái giai đoạn Tứ Thiền.
Mà cái giai đoạn làm chủ được cái sự tái sanh không, chấm dứt cái tái sanh luân hồi, là cái giai đoạn của Tam Minh, tức là Lậu Tận Minh nó mới bứng sạch cái gốc lậu hoặc cho nên không còn tái sanh luân hồi nữa.
Chớ còn Tứ Thiền là nó làm chủ được cái thân này, nhưng mà nó chưa tới Tam Minh thì nó còn tái sanh luân hồi chớ chưa phải hết. Đó nó còn cái nhân của nó, cái nhân của nó rất sâu, cái gốc của lậu hoặc rất sâu, cho nên nó còn cái nghiệp đó mà nó đưa chúng ta đi đến cái chỗ tái sanh luân hồi.
Nhưng người mà nhập tới Tứ Thiền rồi thân định trên tâm, tâm định trên thân rồi, họ điên gì mà họ còn một chút nữa mà họ không có đi đến Tam Minh, cho nên họ phải đạt tới Lậu Tận Minh!
Cho nên đó là một cái điều kiện là cái người nào tới đây họ cũng phải đi tới thôi, để cho họ hoàn tất được con đường mà chấm dứt cái đời sống kế thứ hai của họ nữa. Nghĩa là đời sống này rồi đời sống sau họ không còn nữa.
(5:10) Bây giờ thì cô Út hỏi kế tiếp Thầy:
Hỏi: “Kính bạch Thầy! Tu đến định nào mới gọi là nhập vào dòng Thánh?”
Đây là những cái lời hỏi cuối cùng. Nghĩa là mình nhập vào cái định nào mà mình được vào dòng Thánh, mới gọi là Thánh. Cũng như nghe Thánh tăng, thì cái người mà nào nhập định được, như bây giờ các con chưa nhập định được cái định đó mà gọi con Thánh tăng thì không được, mà các con phải nhập được cái định đó thì mới gọi con là Thánh tăng.
Vậy mà muốn nhập được cái định đó là cái định gì mà mới gọi là mình bắt đầu mới vào được cái dòng Thánh, mới gọi mình là Thánh tăng? Tức là mình trở thành bậc Thánh sau này rồi đó, bây giờ là mình mới vào được cái dòng Thánh.
Đáp: “Ly dục ly ác pháp, diệt ngã, xả tâm mới được gọi là nhập vào dòng Thánh…”
Tức là Nhập Lưu đó.
“… tương ưng với người nhập Sơ Thiền.”
Cái người nhập Sơ Thiền là cái người đó họ đạt được cái quả Tu Đà Hoàn, cho nên cái quả Tu Đà Hoàn đó là mới nhập vào dòng Thánh, Nhập Lưu đó, thì nó tương ưng với cái Sơ Thiền và cái quả Tu Đà Hoàn.
Còn chúng ta mà ly dục ly ác pháp, diệt ngã, xả tâm thì chúng ta mới nhập được vào dòng Thánh, nó tương ưng với cái Sơ Thiền và tương ưng với cái quả Tu Đà Hoàn. Người nào mà tâm ly dục, ly ác pháp thì nó mới tương ưng được với những cái thiền định đó.
(06:33) Hỏi: “Kính bạch Thầy! Tu đến mức độ nào mà làm chủ được sự sống chết?”
Đáp: Những cái điều này là những cái điều mà các con cần phải ghi nhớ rất nhiều, nếu mà không có cô Út hỏi thì chắc chắn là các con, Thầy có giảng rồi nhưng mà nhiều khi các con không lưu ý đến.
“Tu đến mức tịnh chỉ hơi thở và các hành trong thân, thân hành tịnh chỉ thì làm chủ được sự sống chết.”
Đó thì các con thấy, cô Út hỏi: “Bạch Thầy! tu đến cái mức độ nào mà làm chủ được sự sống chết” mình muốn chết hồi nào, sống hồi nào đó,thì ở đây Thầy trả lời: Tu tịnh chỉ được hơi thở và các hành trong thân thì mới làm chủ được sự sống chết, còn cái hơi thở mà thở thì người đó dù có ngồi thiền nhập định bao lâu đi nữa cũng không làm chủ được sự sống chết. Tu mà ngồi thiền nhập định mà hơi thở không thở thì người đó mới làm chủ được sự sống chết.
(7:29) Hỏi: “Kính bạch Thầy! Tu đến mức độ nào mà chấm dứt được tái sanh luân hồi?”
Nghĩa là không còn tái sanh luân hồi nữa.
Đáp: “Tu đạt được Tam Minh mới chấm dứt tái sanh luân hồi.”
Đó các con thấy từng phần, từng phần nó rất là rõ ràng và cụ thể, con đường chúng ta tu tới đâu chúng ta biết. Nghĩa là mình nhập tới Tứ Thiền thì mình biết mình làm chủ được cái gì, mà mình nhập Sơ Thiền mình biết mình làm chủ được cái gì, mình có cái kết quả nó theo rõ ràng và cụ thể cho cái tâm hồn và làm chủ cái sự giải thoát của mình như thế nào.
(07:57) Hỏi: “Kính bạch Thầy! Tu đến mức nào mà để lại nhục thân, không hôi thối?”
Đó, từ cái chỗ mà chấm dứt sinh tử luân hồi, làm chủ được cái tâm, làm chủ được cái thân, rồi chấm dứt cái sự tái sanh, rồi bây giờ để lại nhục thân. Tại vì có những người để lại nhục thân, cho nên cô mới hỏi Thầy.
Đáp: “Tu nhập Diệt Thọ Tưởng Định, hay là Diệt Tận Định để lại nhục thân không hôi thối.”
Chỉ có cái định đó là không hôi thối thôi. Nhưng ở đây thì cô Út không có hỏi thầy: Như vậy có phải là cái định Diệt Thọ Tưởng Định đó là cái định cao nhất hay không, cô không có hỏi. Chứ phải cô hỏi thì Thầy có trả lời, vì cô không có hỏi.
Nghĩa là chúng ta có nhiều cái định, cho nên chúng ta không biết là cái định nào cao và cái định nào thấp, có phải là cái định mà để lại nhục thân không hôi thối, cái định đó là cao nhất hay là còn những cái định nào cao nữa không? Hay hoặc là Tứ Thiền là cao nhất? Hay hoặc là Sơ Thiền là cao nhất?
Nhiều khi chúng ta nghĩ rằng cái định nhập Diệt Thọ Tưởng Định là cao nhất, mà cái định Sơ Thiền lại là thấp nhất, thì trái lại hiểu như vậy mà không được cái sự xác định cụ thể thì coi như cái hiểu đó là cái hiểu tưởng tượng của chúng ta mà thôi.
(9:11) Hỏi: “Kính bạch Thầy! Con sống không đúng giới luật nhưng con nỗ lực tu Tứ Chánh Cần, ngăn ác diệt ác, sanh thiện tăng trưởng thiện. Như vậy tâm con có hết lậu hoặc không?”
Bây giờ cô trở về với các pháp mà hỏi Thầy, hồi nãy đứng ở trong góc độ giới luật và thiền định, bây giờ cô trở lại với các pháp để hỏi, để cho nó thêm một cái phần này rõ ràng thêm nữa.
“Kính bạch Thầy! Con sống không đúng giới luật…”
Nghĩa là thí dụ, một người tu họ sống không có đúng giới luật, ăn uống phi thời, cũng là xem ti vi hay hoặc này kia nọ mọi cách, đi chơi rồi cũng đủ cách không có giữ gìn giới luật.
“Nhưng mà con thì nỗ lực chuyên về tu Tứ Chánh Cần, con luôn luôn lúc nào cũng ngăn ác, diệt ác, mà tăng trưởng thiện pháp, nuôi kéo dài cái tâm thiện ra, như vậy tâm con có hết lậu hoặc không?”
Đáp: “Không! Tu Tứ Chánh Cần mà không có giới luật thì ví như người lau nhà mà cứ để bụi bặm bay vào hoài, thì không bao giờ mà lau sạch được.”
Nghĩa là mình lo mình ngăn ác mà mình cứ để mình không có giới luật ngăn chặn, cũng như là cái nhà của mình mình để gió nó thổi mà rác rến nó bay vào hoài, mà mình ở trong này mình cứ lau hoài thì cái nhà mình lau hoài không sạch đâu.
Đó là mình lấy nội cái Tứ Chánh Cần không mình tu, mình không cần kết hợp với giới luật hay hoặc pháp gì khác, cho nên cái Tứ Chánh Cần nó chẳng có lợi ích gì cho mình chút nào hết đâu.
Không, có nhiều người ờ bây giờ tôi lấy Tứ Chánh Cần mà tôi ngăn ác diệt ác, tăng trưởng thiện, khởi thiện để mà tu tập, thì chắc chắn là tôi cũng đạt được những cái giải thoát của tâm tôi chớ gì? Nhưng mà không đúng!
Bởi vì cái tu hành nó phải có những sự kết hợp như thế nào để cho nó có kết quả, chớ còn nếu không kết hợp mà tu đơn độc một cái pháp như vậy là coi như là mình tu điên, mình tu trật rồi, không có đúng!
(11:06) Hỏi: “Kính thưa Thầy! Con tu Tứ Vô Lượng Tâm mà không cần giữ gìn giới luật nghiêm túc, như vậy con có đối trị được tâm tham, sân, si của con hay không? “
Ở đây cô Út hỏi, bởi vì Tứ Vô Lượng Tâm, người ta nói tâm từ đối trị tâm sân mà. Đó, như vậy là thí dụ như mình quán bất tịnh thì mình đối trị tâm dục, mà quán từ bi thì đối trị tâm sân, quán tâm từ thì đối trị tâm sân, mà quán tâm bi thì đối trị tâm hại.
Tất cả những cái này nó có đối trị, mà nó đối trị được cái tâm sân, tâm hại, như vậy thì mình có hết tham, sân, si không? Đó là, mà hoàn toàn là mình không có, coi như là mình không có cần giữ gìn giới luật gì hết, mình chỉ tu Tứ Vô Lượng Tâm: Từ, Bi, Hỷ, Xả.
Đáp: “Không! Người tu Tứ Vô Lượng Tâm mà không giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh thì cũng ví như người muốn sạch mà tắm nước bẩn.”
Nghĩa là mình muốn cho mình sạch mà cứ mình lấy nước dơ mà mình tắm thì không bao giờ mình làm cho sạch cái người của mình hết, nó khó!
Bởi vì nó muốn từ, mà luôn luôn lúc nào cái hoàn cảnh của mình nó không từ, thì mình giữ cái tâm từ của mình nó không được! Mình muốn bi mà luôn luôn lúc nào mọi hoàn cảnh nó áp đặt mình, nó làm cho mình không bi được thì mình cũng tu không được. Cho nên mình phải tạo một cái bức rào ngăn cách để cho mình thực hiện cái tâm đó nó mới được.
Bởi vì chính cái tâm từ bi hiểu qua cái chỗ này, cô Út muốn hỏi Thầy là chỉ cho chúng ta hiểu, từ bi ở bên ngoài chớ không phải từ bi ở nội tâm mình. Mà chính từ bi của Đức Phật là dậy chúng ta từ bi ở thương mình, giúp mình thoát ra cảnh khổ, chớ không phải thương người!
Bởi vì đứng trong nhân quả thì nhân quả của người nào nấy chịu, chứ không thể nào mình thương người ta mà nó làm cho mình hết cái phần ở trong này, cho nên mình thương người thì mình phải từ bi đối với mình chớ không phải từ bi với ai hết.
Do đó khi mình biết từ bi, thì như vậy là mình phải sống một cái đời sống của mình đầy đủ giới luật, khép chặt mình ở trong khuôn khổ, do đó mình trở thành một bức tường thành ngăn chặn cứng chắc làm cho mình thực hiện cái Tứ Vô Lượng Tâm nó trở thành thương yêu mình chơn thật, làm cho mình thoát ra cảnh khổ của tâm tham, sân, si và phiền não.
(13:28) Trước khi kiểm tra mấy con tu tập Thầy sẽ trả lời những câu hỏi. Đầu tiên thì trả lời cho cô Diệu Quang. Thầy cũng không ngờ là cô Diệu Quang đã có nghiên cứu kinh sách rất kỹ, nhưng cô không có bao giờ mà cô nói về kinh sách, nhưng có điều là hiện giờ thì Thầy giảng về cái Giới Hành thì cô hỏi rất nhiều về cái vấn đề trong 37 phẩm trợ đạo. Thì gần đây thì cô hỏi Thầy về Thập Nhị Nhân Duyên.
Cho nên Thầy thấy rằng sau khi đọc, Thầy cũng vừa mới đọc cái cuốn Trái Tim của Hòa thượng Nhất Hạnh, thì nếu mà Thầy không có đọc của Hòa thượng Nhất Hạnh thì chắc chắn là Thầy cũng không biết cô Út đã hỏi là ai hỏi nữa.
Cho nên trước khi mà Thầy có cái tác phẩm này thì cô Út cổ cũng đã có đọc sơ qua rồi, cho nên khi mà đọc tới cái tác phẩm này, thì cái câu hỏi của cô Út, vì mỗi buổi tối thì nhiều khi cô Út đến Thất thầy cô Út mới ngồi hỏi những cái danh từ của Phật pháp. Gần đây thì cô hỏi rất nhiều về vấn đề này, là vì cô cũng muốn làm sáng tỏ thêm cái phần ngôn ngữ, cái phần giáo lý của nhà Phật để giúp cho các con hiểu thấu hơn.
Nhiều khi thì các con mắc bận tu nhiều, mà không có thời gian để mà nghiên cứu kinh sách để mà hỏi, chớ nếu mà các con có được cái thời gian mà nghiên cứu kinh sách mà hỏi, thì chắc chắn các con cũng sẽ hỏi rất nhiều.
Vì kinh sách Đại Thừa và kinh sách Nguyên Thủy nó có những cái danh từ mà hầu hết là các nhà học giả họ đều có nghĩ sai, tức là họ tưởng ra, họ nghĩ ra, rồi họ dựa vào cái giải thích ở trong kinh điển mà họ giảng rộng ra thôi chớ họ không có dám hiểu vượt ra khỏi cái nghĩa lý đó.
Do cái bài Thập Nhị Nhân Duyên, coi như trong đạo Phật cái bải Thập Nhị Nhân Duyên là cái bài khó nhất mà ít có người nào mà hiểu nổi, mà họ lại giảng nhiều nhất ở trong bài Thập Nhị Nhân Duyên. Còn cái bài Tứ Thánh Định là cái bài ít ai dám mó tới lắm, ít ai dám rờ tới nó lắm, nghĩa là ít có người giảng về Tứ Thánh Định.
Còn Tứ Niệm Xứ thì họ giảng lung tung, người nào cũng giảng, và cái Thập Nhị Nhân Duyên này họ cũng giảng nhiều, nhưng mà giảng sai, giảng sai rất nhiều. Từ những cái từ, cái danh từ mà dùng trong Thập Nhị Nhân Duyên cũng như Tứ Niệm Xứ thì họ đều giảng sai rất nhiều.
Cho nên qua cái chỗ mà muốn làm sáng tỏ những cái pháp này của đạo Phật, thì cô Diệu Quang có hỏi Thầy rất nhiều về cái vấn đề này. Nếu mà cái người mà không có chịu đọc sách thì chắc chắn là cũng khó mà có thể hỏi được những câu hỏi này.
(16:54) Cô hỏi:
“Kính bạch Thầy! Trong Mười Hai Nhân Duyên các nhà học giả xưa và nay thường giảng dạy và chia mười hai duyên này ra làm ba thời gian:
Một. Quá khứ có hai duyên.”
Trong cái thời quá khứ thì nó có hai duyên:
“Một là Vô Minh, hai là Hành.”
Đó là ở trong, họ chia cái Mười Hai Nhân Duyên này ra, thì trong thời quá khứ thì Vô Minh và Hành là hai cái duyên đó.
“Rồi trong hiện tại thì họ chia ra làm tám duyên: một là Thức, hai là Danh Sắc, ba là Lục Nhập, bốn là Xúc, năm là Thọ, sáu là Ái, bảy là Thủ, tám là Hữu.”
Họ chia làm tám duyên, đó là cái hiện tại.
“Còn về vị lai thì họ chia làm hai duyên: Sanh với duyên Ưu- Bi - Lão - Tử.”
Cho nên trong cái mà giảng dạy như vậy đó, thì đã chia cái Mười Hai Nhân Duyên ra làm ba cái thời gian: thời quá khứ và hiện tại và vị lai. Nghĩa là hiện tại chúng ta chỉ sống có tám duyên, còn cái quá khứ, cái tiền kiếp của chúng ta là hai duyên, và cái vị lai sắp tới của chúng ta là hai duyên nữa.
“Giảng như vậy có đúng không thưa Thầy?”
Nghĩa là khi mà người ta chia Mười Hai Nhân Duyên ra như vậy thì có đúng hay không? Bởi vì trong Mười Hai Nhân Duyên, Thập Nhị Nhân Duyên này nó là một cái vấn đề rất quan trọng.
Cái pháp này nó không phải là cái pháp để tu, mà cái pháp để chúng ta hiểu, cho nên Phật dạy: “những gì cần hiểu phải thông hiểu”. Bây giờ chúng ta phải hiểu nó, hiểu cái pháp Mười Hai Nhân Duyên này như thế nào để cho nó đúng cách mà chúng ta thực hiện cho đúng mười hai duyên này. Đó là cái cách thức hiểu.
Mà giảng như các nhà học giả mà giảng như vậy, thì cái hiểu của chúng lại là hiểu lệch mất đi. Coi như là cuộc sống của chúng ta nó chia ra, một cái thế giới sống của chúng ta nó chia ra làm ba cái giai đoạn thời gian của nó là quá khứ, vị lai và hiện tại.
Như vậy là trong hiện tại có tám duyên, còn bốn duyên kia thì nó ở quá khứ và vị lai, thì như vậy chúng ta thấy nó không có đúng cái tính cách, cái ý của Phật, mà thế mà người ta dám chia như vậy, thì nó làm cho chúng ta thấy mười hai duyên này, nó không làm sao mà chúng ta tu hành, hay là hiểu biết nó được để mà chúng ta đi vào cái chỗ nào.
Bởi vậy Thầy đáp, trả lời đó:
(19:51) “Từ xưa đến giờ các nhà học giả đã triển khai mười hai duyên theo lối mòn của nhau, họ là những người tu hành chưa đến nơi, đến chốn. Sự tu hành của họ phần nhiều rơi vào thiền tưởng nên phát triển tưởng tuệ, từ đó giáo pháp của Đức Phật họ đều suy tưởng qua tưởng tuệ này, nên giảng kinh thuyết pháp không giảng nổi.”
Nghĩa là triển khai không có ra đó.
“Pháp hành phần nhiều là lý thuyết suông và giảng sai ý Phật.”
Đó thì họ chia như vậy đó là sai ý Phật.
“Họ đã chia mười hai duyên ra làm ba thời gian: quá khứ, hiện tại và vị lai. Đó là lối lý luận theo tưởng pháp, không đúng nghĩa của Mười Hai Nhân Duyên.”
Nghĩa là Thầy muốn nói như thế này nè: cái Mười Hai Nhân Duyên này nó chỉ cho cái cuộc sống của chúng ta, nó hợp lại giữa thân con người và những cái các pháp xung quanh, hay hoặc là mọi vật xung quanh để tạo thành một cuộc sống, coi như là có thân con người, mười hai duyên này, thì nó có cái thân con người ở trong đó, và nó có những cái môi trường sống của nó ở trong đó.
Thí dụ như bây giờ, có cái thân của chúng ta mà không có gạo, không có nước thì chúng ta không có làm sao mà chúng ta sống. Mà mười hai duyên này nó chỉ cho chúng ta có cái thân người ở trong đó mà có gạo, có nước, có mọi vật để cho cái thân người nó sống.
Tức là Đức Phật muốn chỉ cho Mười Hai Nhân Duyên này trong cái hiện tại chớ không phải ở trong quá khứ và trong vị lai. Mà chỉ cho chúng ta biết rằng cái thân của chúng ta nó lồng ở trong cái môi trường sống của nó, để cho nó được sống đó, mà nó sống ở trong cái môi trường sống đó, gồm chung nó là Mười Hai Nhân Duyên.
(21:36) Mà Mười Hai Nhân Duyên như vậy mà nó gồm chung, nó hợp nhau để mà nó trở thành một cuộc sống của chúng ta, có thân và có môi trường sống như vậy, là cái mười hai duyên này nó hợp lại để chúng ta thành có một cuộc sống như vậy, thì đó là hợp lại một cái thế giới khổ. Khi nó hợp lại như vậy là cái thế giới khổ, không phải là cái thế giới giải thoát.
Ý Đức Phật muốn nói khi mười hai duyên này nó hợp lại, nó mới thành ra một cái môi trường sống và cái cuộc sống của một con người ở trong cái môi trường sống đó, là nó tạo thành một cái thế giới khổ. Cái thế giới của Đức Phật nhìn là cái thế giới Thập Nhị Nhân Duyên, là cái thế giới khổ.
Nhưng mười hai duyên này đã rã ra, thì cái thế giới khổ nó sẽ hoại diệt, nó sẽ mất đi, nó không còn khổ đau nữa. Rã không có nghĩa là nó sẽ bị chết hay hoặc là nó diệt đứt hết hoàn toàn mười hai duyên này phải đứt hết. Nhưng mà rã đây bằng cách nghĩa là tan rã, nó làm cho mười hai cái duyên này nó, coi như là cái người tu phải vượt lên trên mười hai duyên này, thì cái người đó mới giải thoát.
Chớ không phải rã có nghĩa là làm cho nó chết, làm cho nó diệt mất đi, có nghĩa là tiêu diệt nó đi, không phải vậy, mà chữ rã có nghĩa là phải hiểu, ở danh từ dùng, thì phải hiểu rằng mình vượt lên trên, mình sống ngược lại với cái sự hợp, cái môi trường hợp này để làm cho nó sống, thì chúng ta lại sống ngược lại với cái môi trường này, thì nó gọi là rã, làm ngược lại.
(23:08) Thí dụ như một cái vị tu sĩ thì sống ba y một bát, không nhà, không cửa, đó là sống ngược lại với cái môi trường sống của một người thế tục.
Là cái người thế gian thì họ không có sống như chúng ta là ba y một bát, mà họ sống phải làm lụng ra tiền ra bạc, rồi sống bằng cách chạy theo những dục lạc, ăn uống, ngủ nghỉ, hoặc là nhà cửa tốt đẹp, hay hoặc là mọi thứ vật dụng xung quanh họ, rồi anh em, bà con, tất cả mọi xung quanh, vây quanh họ, cái môi trường sống đó, để tạo cho cái thân Ngũ Uẩn của họ, nó hoàn toàn nó theo những cái dục lạc đó mà tạo ra cái thế giới khổ.
Còn trái lại chúng ta làm ngược trở lại, sống ngược trở lại nó, thì coi như là chúng ta thoát ra cái nỗi khổ đó. Có nghĩa là học Thập Nhị Nhân Duyên thì chúng ta biết rằng đó là cách thức học để mà chúng ta thông hiểu, để mà chúng ta đi ngược lại cái vòng của Thập Nhị Nhân Duyên, để rồi chúng ta giải thoát.
(24:09) Bởi vậy trong Thập Nhị Nhân Duyên nó có cái thân Ngũ Uẩn ở trỏng, chúng ta phải thấy được cái thân Ngũ Uẩn. Trong Ngũ Duyên hay gọi là Ngũ Uẩn, thì nó có là sắc, thọ, tưởng, hành, thức. ở trong Thập Nhị Nhân Duyên thì nó có cái sắc, rồi cái thọ, cái tưởng, cái hành, cái thức, nó có cái thân Ngũ Uẩn của chúng ta ở trong đó.
Thí dụ như chúng ta thấy nè, như nói về Thức, thì chúng ta thấy là Vô Minh nó mới sanh Hành, thì Hành có rồi phải không? Thì bắt đầu từ Hành nó mới có Thức, Thức nó mới có Danh Sắc. Danh Sắc là gì? Sắc là đã biết rồi, mà Danh là tưởng chớ nó đâu có gì khác hơn! Cho nên, rồi cuối cùng thì tới Thọ, thì chúng ta thấy cái Thọ nó có rồi.
Do vì vậy mà chúng ta thấy thân Ngũ Uẩn của chúng ta nó nằm trọn ở trong Thập Nhị Nhân Duyên ở trong đó. Còn những cái khác, thì những cái duyên khác là những cái duyên mà nó tiếp xúc, rồi những cái duyên đó nó tạo cho chúng ta có một cái đời sống khổ.
Đó là Đức Phật dạy về Ngũ Uẩn, chỉ cho cái thân con người gồm có năm duyên hợp lại, nếu thiếu một duyên thì thân Ngũ Uẩn này, thì thân người không thành. Nếu trong cái Ngũ Uẩn này mà thiếu một duyên thì nó không thành.
Thí dụ như bây giờ chúng ta có sắc, thọ, tưởng, hành mà không có thức, thì như vậy là chúng ta có cái thân, có cái cảm giác thọ mà có cái tưởng, mà thiếu cái thức, thì không có cái thức thì ai biết cái thọ? Nó đau hay là nó lạc, hay hoặc là thọ khổ thọ lạc, nó đâu có biết, phải không?
Mà nếu mà bây giờ trong cái thân Ngũ Uẩn này nó mất đi cái hành, thì cái thân của chúng ta như cái sắc và cái thân nó không có hành, thì nó ngồi như cục đất, nó đâu có lăn qua lăn lại được! Thì như vậy nó, cái thức mà nó không hành thì nó cũng chẳng biết gì hết, nó phải có cái hành.
Mà nếu mà trong cái thân Ngũ Uẩn của chúng ta mà nó không có thọ thì nó như cái cây kia, nó như cục đá kia, nó đâu có cảm giác là nóng, lạnh, hay hoặc là đau nhức, hay là hỷ lạc, nó đâu có biết được. Cho nên nó phải có thọ nó mới thành ra cái thân Ngũ Uẩn của mình, mà nếu nó thiếu cái duyên thọ thì nó cũng không thành.
(26:19) Mà nếu mà thiếu tưởng, thì chúng ta ngồi lại đây, thí dụ như bây giờ chúng ta ngồi đây mà chúng ta không có cái tưởng, thì cái đầu của chúng ta nó không khởi một cái niệm nào hết, thì như vậy chúng ta không thành cái thân Ngũ Uẩn rồi.
Bởi vì cái thân Ngũ Uẩn nó phải có cái tưởng, tức là cái thế giới tâm của nó, nó phải có cái trạng thái siêu hình của nó. Do đó cái tưởng nó phải có, không thể nào mà chúng ta dẹp nó, dẹp hết mà nó thành ra cái thân của chúng ta được.
Cho nên năm cái duyên này nó hợp lại nó thành ra một cái thân của con người chúng ta, nó trọn vẹn và đầy đủ.
Cho nên người tu thiền không có nghĩa là chúng ta phá cái hành, chúng ta cũng không diệt cái tưởng, mà chúng ta không diệt cái sắc, chúng ta không diệt cái thọ, mà chúng ta cũng không diệt cái thức.
Tại sao vậy? Tại vì chúng ta làm chủ nó chứ chúng ta không phải diệt nó.
Thí dụ như bây giờ làm chủ cái sắc là cái thân của chúng ta. Mà sắc của chúng ta nó tiếp xúc với sáu trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, nó tiếp xúc với những cái trần cảnh ở bên ngoài, nó mới tạo ra cho chúng ta cái tâm tham dục, ham muốn.
Do đó thì khi mà chúng ta muốn nói là diệt cái sắc, tức là ngưng cái sắc, thì tức là chúng ta vượt lên trên cái chỗ mà nó tiếp xúc mà nó không có dính mắc, nó không có tham đắm, nó không khởi cái tâm tham muốn, tham lam. Thì như vậy là rõ ràng là chúng ta đâu có diệt nó, mà chúng ta làm chủ nó!
Cũng như bây giờ cái thọ nó đau, thì chúng ta sẽ làm chủ cái đau đó, tâm của chúng ta không dao động. Đó là cái thứ nhất, sau đó chúng ta đẩy lui cái thọ đó ra khỏi cái thân của chúng ta làm cho chúng ta không thấy đau khổ nữa.
Bây giờ chúng ta tưởng là hay mộng tưởng chiêm bao, chúng ta hay tưởng ra cái này, nghĩ tưởng cái kia, do đó cái đầu óc nó hay lăng xăng, vì vậy mà chúng ta làm chủ nó chớ không có nghĩa là chúng ta diệt nó, cho nó hết có tưởng, chúng ta làm chủ nó.
Bây giờ chúng ta không có cho nó mộng, chiêm bao thì nó không chiêm bao, chúng ta không có cho nó khởi nghĩ một cái tưởng gì thì nó không khởi nghĩ. Mà cho nó là nó khởi nghĩ, mà không cho nó thì nó không khởi nghĩ, gọi là làm chủ.
(28:27) Bây giờ tất cả mọi cái này đều là ở trong cái hoạt động, tức là cái hành, mà chúng ta bây giờ tịnh chỉ làm cho nó ngưng, nó không hoạt động nữa, thì cái tưởng nó ngưng, cái thọ nó ngưng, cái sắc nó ngưng, nó làm chúng ta không có đau khổ, không có cái dính mắc, cho nên chúng ta làm chủ được cái hành.
Cái thức là cái biết, mà cái biết của chúng ta điều khiển cái biết chớ không phải để cái biết nó điều khiển mình. Chính bây giờ cái biết nó điều khiển mình, nó muốn cái gì, nó thích cái gì, cái thức mà chúng ta muốn cái đó, thức biết cái đó, thích cái đó thì chúng ta chạy theo cái đó, cho nên chúng ta không làm chủ nó.
Cho nên nói diệt tức là không phải diệt. Mà chúng ta làm chủ, điều khiển lại nó. Cho nên năm cái duyên này được chúng ta điều khiển, mọi cái chúng ta điều khiển được nó thì tức là chúng ta làm chủ được sanh, lão, bệnh, tử và chấm dứt luân hồi, chớ không phải chúng ta diệt. Ở đây dùng danh từ diệt là làm cho nó đứng lại, làm cho nó ngưng chớ không phải là làm cho nó chết, làm cho nó mất đi, nó không phải vậy.
“Đó là Đức Phật dạy về Ngũ Uẩn chỉ cho cái thân con người gồm có năm duyên hợp lại, nếu thiếu một duyên thì thân người không thành. Mục đích dạy Ngũ Uẩn là chỉ cho chúng ta đừng có mê lầm, cho cái thân Ngũ Uẩn này là ta…”
Cho cái thân ngũ uẩn này là mình đó.
“… là của ta, là bản ngã của ta.”
Mục đích cái này là do năm cái duyên này hợp lại chớ nó không phải cái nào là của mình ở trong này hết. Nghĩa là năm cái duyên này mà nó rã ra rồi thì nó không còn cái gì, như một người chết thì năm cái sắc, thọ, tưởng, hành, thức này nó không còn cái gì gọi là còn vĩnh viễn cho mình hết.
Cho nên người ta lầm chấp cái thân Ngũ Uẩn này, người ta có thể lấy thức cho là cái ngã của mình, hoặc là người ta cho cái sắc là cái thân này là cái ngã, hoặc là cho cái cảm giác của chúng ta là cái ngã, hoặc là cho cái tưởng đó là cái linh hồn của chúng ta là ngã, hoặc là các cái hành động đó là ngã, cho nên cái lầm chấp đó mà Đức Phật không có chấp nhận.
Do đó chúng ta phải học, phải hiểu để mà chúng ta không có lầm chấp nó. Vì vậy mà người ta chửi mắng mình, mình không phải thấy đó là có cái ngã của mình, cho nên mình không có giận hờn người ta chửi mắng mình.
Người ta chửi mình chó, tức là mình nghĩ rằng mình là chó, cho nên vì vậy mà có cái của mình hay hoặc là mình đã bị người ta chửi chó. Nhưng mà sự thật cái thân này người ta chửi chó mà đâu phải là mình? Mà đâu phải là của mình, mà cũng không phải bản ngã của mình, cho nên nó đâu là chó gì đâu mà sợ?
Nó chỉ là một duyên hợp, không thể nào có cái gì là của mình trong đó. Cho nên vì mình hiểu thấu suốt được như vậy, cho nên người ta chửi mình, mình không có giận. Còn không mình lầm chấp, mình cho cái thân của mình là ngã, vì vậy mà mỗi lần có cái gì mà bất toại nguyện, không đồng ý thì mình giận, mình tức, mình buồn, mình phiền, mình làm cho mình đau khổ.
Đó là những cái mục đích của Phật muốn dạy chúng ta cái thân Ngũ Uẩn là để nhắm vào cái chỗ mà chúng ta lầm chấp cái đó là của mình, cái đó là cái bản ngã của mình hay hoặc là cái đó là mình.
(31:34) “Đại Thừa đã lầm lạc, lấy thức uẩn mà làm thần thức, chơn như Phật Tánh. Thiền Tông cũng đã lầm lạc, lấy thức thanh tịnh không liên hệ với ngũ căn cho là Phật Tánh.”
Thiền Tông thì cũng lầm mà Đại Thừa thì cũng lầm, cho nên những cái nhà Đại Thừa và những nhà Thiền Tông này xây dựng trên một cái sai lệch, làm cho con đường tu nó chẳng đi tới đâu. Vì thế mà biết rằng các thiền sư họ nói gì nói, họ huyền thoại những câu chuyện gì câu chuyện, nhưng chúng ta đã rành, vì vậy mà chúng ta biết rằng họ tu chẳng tới đâu hết.
“Tất cả các duyên Ngũ Uẩn này kết hợp thành ra thân con người, nếu thiếu một duyên trong năm duyên này thì con người không còn là con người nữa. Một trong năm duyên này hư hoại thì các duyên kia đều hư hoại theo, không còn duyên nào sót lại. Trong Thập Nhị Nhân Duyên Phật đã xác định điều này rất rõ.
Trong Mười Hai Nhân Duyên này hợp lại thì Đức Phật gọi là thế giới đau khổ. Trong Mười Hai Nhân Duyên này tan rã thì Đức Phật gọi là thế giới hết đau khổ. Trong mười hai duyên này gồm có con người và môi trường sống của con người, như chúng ta đã thấy có năm duyên là thân Ngũ Uẩn: hành, thức, Danh Sắc tức là sắc và tưởng, thọ, là năm duyên.”
Như hồi nãy Thầy đã nói, thì ở đây Thầy cũng xin nhắc lại để cho chúng ta biết rằng mười hai duyên này nó chỉ cho cái môi trường sống và cái bản thân của chúng ta ở trong cái môi trường sống đó.
(33:20) “Danh Sắc, các nhà học giả giảng là thân và tâm.”
Nghĩa là danh - sắc thì các nhà học giả thường giảng nó là thân và tâm của chúng ta.
“Thân thì chắc ai cũng biết…”
Thân tức là thân tứ đại của chúng ta ai cũng biết rồi.
“… đó là do tứ đại hợp lại gọi là thân….”
Tứ đại là đất, nước, gió, lửa đó, cái thân này đất nước gió lửa.
“… còn gọi là sắc uẩn. Nhưng với tâm thì ai hiểu tâm này là tâm gì?”
Bởi vì chúng ta thấy thức nè, rồi tâm nè, rồi ý nè, những cái đó làm sao mà chúng ta biết được cái nói rằng danh sắc là thân và tâm của chúng ta, thì trong đó thân, tâm của chúng ta cái nào gọi là tâm và cái nào là thức?
Vậy thì lúc đầu, trên kia thì từ Vô Minh sanh Hành, Hành sanh Thức rồi thì ở đây cũng là Danh Sắc, thì trong Danh Sắc nó lại còn có cái tâm, vậy thì cái tâm này là thức nữa sao? Nếu gọi là tâm thức thì nó là sai, vậy thì nó có hai thức sao?
Cho nên nhà học giả cho rằng Danh Sắc là thân và tâm.
“Nhưng với tâm thì ai hiểu tâm này là tâm gì? Tâm thức ư? Không đúng! Thức là tâm rồi, mà tâm thức đó là thừa, do đó sai. Các nhà học giả nói Sắc tức là phần vật chất, sinh lý, và Danh là phần tâm lý, điều này lại còn sai hơn nữa.”
(34:57) Tại vì chúng ta phải hiểu rằng, như Thầy đã dạy, các con biết rằng nó có ba cái thức rất rõ ràng, chớ không phải một cái thức.
Thứ nhất là như cái Sắc, tức là cái thân của chúng ta thì nó có thân thức, mà thân thức nó thể hiện qua sáu cái thức chớ không phải một cái thức: Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức, nó sáu cái. Cho nên nói thân thức tức là nói sáu cái thức. Mà nói về tưởng thức thì nói một cái, gọi là tưởng thức. Mà nói về thức thì phải nói rằng thức thức mà thôi, chớ không thể nào là có sáu có bảy được. Chỉ có cái sắc, cái thân của chúng ta thì nó có sáu cái thức.
Cho nên ở đây chúng ta cũng biết rằng nó có ba cái thức rất rõ ràng. Vậy thì trong cái thân của chúng ta là nó đã có cái ý thức rồi. Vậy thì cái Danh là cái tâm của chúng ta, vậy cái tâm của chúng ta nó nằm ở trong cái thức nào đây? Nếu gọi là cái thức do Vô Minh sanh Hành, Hành sanh Thức, thì cái Thức này nó lại trùng hợp với cái thức kia sao?
Cho nên cái thức mà ở chỗ Danh này, chỗ Danh Sắc, này thì cái thức đó gọi là tưởng thức. Cho nên các nhà học giả không hiểu chỗ này, cho nên gọi nó là tâm thức. Thì nói vậy là nó hai cái thức rồi, thì không đúng.
(36:17) “Có nhà học giả nói Sắc tức là phần vật chất sinh lý, mà nói Danh là phần tâm lý.”
Tức là họ chỉ nói một cái danh từ chung, nói về phần vật chất thì nói về vật lý; còn nói về phần tâm, nói về tâm lý; nói về phần tinh thần thì thức nó cũng là phần tinh thần, mà tưởng thức nó cũng là tinh thần, mà ý thức nó cũng là tinh thần, thì cái tinh thần này nó sẽ nằm ở chỗ nào? Đó, nó nằm ở chỗ cái thức nào đây?
Cho nên nói một cách tổng quát là do cái chỗ mà không thấu suốt cho nên mới có nói như vậy, chớ còn nếu mà đã thấu suốt thì người ta xác định, như Thầy xác định:
Bây giờ Danh Sắc thì nó, thứ nhất là cái thân của chúng ta thì nó phải có ý thức. Mà nói về ý thức của chúng ta nó là tâm lý của cái thân. Mà Danh là cái, ở đây các nhà học giả nói là tâm, nhưng mà nói danh từ chung chung như vậy có nghĩa là không thông, mà phải nói là tưởng thức thì đúng. Nghĩa là Danh Sắc thì thân và tưởng của chúng ta chớ không phải gì khác hơn hết.
Thì như vậy là nó rõ ràng và cụ thể để chỉ cho cái thân Ngũ Uẩn chúng ta đang nằm ở trong Thập Nhị Nhân Duyên.
“Nhà học giả lại còn cho Danh Sắc nằm trong Thức, đó là một lý giải không đúng.”
Nghĩa là Danh Sắc: Danh là cái tưởng mà sắc là cái thân của chúng ta, hai cái này nằm trọn ở trong cái thức, thì như vậy sai. Bởi vì cái Danh là một cái phần tưởng, cái phần ý, cái phần mà hoạt động về tưởng, mà cái Sắc là cái phần hoạt động về ý thức.
Cho nên tuy rằng nói ba thức thế nhưng sự thực ra nó thì chỉ có một thức mà thôi. Nhưng khi hoạt động ở sắc, tức là ở thân của chúng ta, thì nó hoạt động sáu cái chỗ thức của nó, còn khi nó hoạt động ở tưởng thì nó hoạt động ở tưởng thức mà thôi. Đó là chúng ta thấy, còn khi mà nó không hoạt động ở Sắc, nó không hoạt động ở Danh thì nó sẽ hoạt động ở thức thức.
Chúng ta thấy nó rõ, nó có một chớ không phải hai. Nhưng mà nó còn hoạt động ở Danh, còn hoạt động ở Sắc thì không thể nào hoạt động ở thức được, nó ngưng hai cái này thì nó mới hoạt động ở chỗ thức thức.
Cho nên hướng tâm về Tam Minh thì đó là thức thức của chúng ta, chớ không phải là tưởng thức của chúng ta hoạt động được, hướng tâm về Tam Minh được, mà cũng không phải ý thức của chúng ta hướng về Tam Minh được.
(39:00) “Ở đây có duyên Thức thì mới có duyên Danh Sắc.”
Nghĩa là các nhà học giả họ cho như thế này nè:
“Nhà học giả lại còn cho Danh Sắc nằm trong Thức. Đó là một lý giải không đúng. Ở đây có duyên Thức thì mới có duyên Danh Sắc, Duyên Thức là một, duyên Danh Sắc là một.”
Nghĩa là không phải cái duyên này mà nằm ở trong cái duyên kia được, mà nó hợp lại, chớ không phải cái ý của Thầy muốn nói, đó là các cái duyên này hợp lại, chớ không phải cái duyên này mà nằm trong cái duyên kia, rồi duyên kia nằm ở trong duyên nọ, không phải vậy. Nhưng mà nhà học giả thì họ cho rằng cái duyên Danh Sắc nó nằm ở trong cái duyên Thức, đó là một cái lý giải sai, không đúng của họ.
Ở đây thì chúng ta phải hiểu rằng duyên Thức với duyên Danh Sắc là hai cái duyên, hai cái duyên này nó hợp lại thì nó mới tạo ra, nó tạo ra cái thế giới của nó.
Thí dụ như mười hai duyên này nó hợp lại, thì trong đó nó có duyên của Danh Sắc và duyên của Thức, thì duyên của Thức không thể nào, duyên của Danh Sắc không thể nào nằm trong Thức, hay là duyên Thọ duyên Ái mà nằm trong Thức, mà là nó hợp nhau lại, để nó tạo thành một cái môi trường sống và cái thân của chúng ta ở trong môi trường sống đó.
“Hai cái không nằm chung nhau…”
Nghĩa là cái Danh Sắc với cái Thức không thể nằm chung nhau được.
“… mà lại hợp nhau để tạo thành một cái khác, chớ không như nhà học giả cho Sắc là đối tượng của Thức và Danh cũng là đối tượng của Thức.”
Nó không phải đối tượng, mà ở đây là mười hai duyên này nó hợp lại. Cũng chẳng hạn bây giờ chúng ta bỏ đường vào trong một cái ly nước, rồi chúng ta bỏ sữa vào ở trong một cái ly nước, thì đường, sữa và nước nó sẽ hợp nhau lại, nó thành ra một cái thứ nước để mà chúng ta uống.
Thì như vậy thì bây giờ cái nước này nó không phải còn là cái nước nguyên chất hồi nãy, một cái duyên nước của nó như nguyên hồi nãy, mà sữa thì bây giờ nó bị pha với nước rồi, cho nên nó cũng không phải là còn một cái duyên chuyên nhất của sữa, mà đường bây giờ nó cũng pha với nước, pha với sữa rồi cho nên đường tinh của nó cúng không còn là đường nữa. Cho nên khi mà nó hợp lại để mà thành một chất nước, thì trong cái chất nước đó gọi là nước sữa, thì lúc bấy giờ nó không còn cái nguyên chất của nó nữa.
Cho nên cái Mười Hai Nhân Duyên này, khi nó hợp lại thì nó mới thành, mà khi mà chúng ta dùng những cái phương tiện mà rút nó ra, đường theo đường, nước theo nước, mà sữa theo sữa, thì bây giờ nó không còn là một cái thứ nước như hồi nãy nữa, nó khác ra đi.
Nó không phải nằm ở trong đó mà nó hòa tan nhau để hợp lại, chớ không phải là cái này nằm ở trong cái kia. Đó là hiểu như vậy mới hiểu nhân duyên.
Chớ còn nếu mà hiểu cái nằm trong và cái đối tượng, như Thầy bây giờ đó, ví dụ như chẳng hạn Thầy bây giờ, đối tượng trước cái micro này, thì cái micro làm đối tượng, làm sao mà Thầy hòa hợp với cái micro được? Các con phải hiểu.
Cho nên nước mà hòa tan với sữa hay với đường, thì nó hòa tan, nó hợp thành ra một cái thứ khác. Còn bây giờ Thầy là Thầy, mà cái micro này là cái micro, không thể nào Thầy là cái micro mà cái micro là Thầy được!
Đó cho nên ở đây nhà học giả lý luận nó, cho nó là cái đối tượng, Danh Sắc là đối tượng, Sắc là đối tượng của Thức, Danh là đối tượng của Thức, thì coi như là hai vật nó đứng, nó nghinh với nhau, nó ngó nhau chớ nó không có hòa hợp nhau. Vậy làm sao mà gọi là mười hai duyên hòa hợp?
(42:53) Đó là cái lối lý luận của nhà học giả.
“Những lý luận này nó thiếu sự hành…”
Nghĩa là cái người mà dùng cái lý luận như vậy đó. là họ:
“… thiếu sự hành trì, thiếu sự tu tập, cho nên họ không rõ mười hai duyên của Đức Phật chỉ cho cái gì.”
Nghĩa là họ chưa biết được cái mục đích Mười Hai Nhân Duyên này để chỉ cái gì, họ chưa có biết. Để vạch ra một cái lối nào đây? Để giúp cho cái người tu để hiểu cái này làm cái gì? Để lợi ích gì cho cái người tu?
“Nhà học giả chỉ dùng những danh từ suông để khiến cho người ta hiểu sai lệch ý mười hai duyên của Phật pháp.”
Nếu mà nói như vậy thì người ta hiểu một cách rất là sai lệch, người ta thấy như là cái đối tượng của mình, cái đối tượng của từ cái duyên này với cái duyên kia nó không có hòa hợp lại mà nó đối tượng nhau, thì nó đối tượng nhau thì cái nào nó cũng rời rạc nhau, thì nó có nghĩa lý gì mà gọi là mười hai duyên hòa hợp?
Cũng như bây giờ chúng ta thấy cái thân của chúng ta là Ngũ Duyên, có năm duyên hợp lại, mà bây giờ chúng ta ngắt ra từng cái, bỏ cái thức rời ra, rồi bỏ cái thân ra, rồi bỏ cái tưởng ra, rồi bỏ các hành ra, bỏ từng cái ra, là đối tượng với nhau như vậy thì cái thân chúng ta còn là cái thân không? Đâu còn là cái thân! Đó thì như vậy nó không có hòa hợp được.
Cho nên những cái người học giả họ không thể nào mà hiểu nổi kinh sách của Phật hết. Cho nên do cái sự mà đọc những kinh sách của Phật, thì chúng ta không có đủ cái trình độ hiểu biết, thì chúng ta bị lầm cái miệng của họ, cái lưới của họ, mà họ nói làm chúng ta hiểu sai lệch đi, làm chúng ta không biết đường đâu mà chúng ta tu tập.
Sau những cái lần mà giảng dạy và đồng thời vì cô Diệu Quang hỏi Thầy giảng về cái Giới Hành như thế nào, thì Thầy có nói qua những cái từ, qua những cái ý trong những cái hành của Giới Hành, thì Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo Thầy có nhắc đi nhắc lại, thì cô đã đọc những kinh sách này, cô có thấy được cái điều này, cho nên cô mới hỏi lại Thầy như vậy là đúng hay sai, để làm cho các con thấu rõ hơn.
“Nếu bảo Danh là tâm, là phần tâm lý thì như vậy rõ ràng Thập Nhị Nhân Duyên có hai thức: thức và tâm thức. Như vậy đã có hai duyên trùng hợp.”
Nghĩa là đã có cái thức rồi mà bây giờ lại còn thêm một cái tâm thức nữa, như vậy là rõ ràng có hai cái thức chớ không phải là một cái thức.
(45:29) Trong Mười Hai Nhân Duyên nó rất độc lập, nó không nhắc lại nhiều cái thức, cũng như trong Ngũ Duyên thì các con có thấy Đức Phật nhắc chúng ta nhiều cái thức không? Không, Đức Phật không có nhắc nhiều cái thức, mà Đức Phật chỉ nói: sắc, thọ, tưởng, hành và thức, có một cái thức mà thôi.
Nhưng mà khi mà chúng ta sử dụng chúng ta tu tập, thì chúng ta mới thấy được, ở trong cái thân của chúng ta nó có sáu cái thức: nhãn thức nè, nhĩ thức nè, tỷ thức, thiệt thức, thân thức nè, rồi ý thức nè. Nó có sáu cái thức rõ ràng.
Do đó khi mà chúng ta nằm chiêm bao, nằm mộng, thì chúng ta thấy cái tưởng thức của chúng ta hoạt động, nó biết cái này, biết cái kia, biết cái nọ trong giấc mộng rất rõ ràng, nó nghe, nó thấy, nó biết đủ loại ở trong đó, thì đó là tưởng thức.
Rồi bắt đầu bây giờ chúng ta thực hiện cho tới khi mà chúng ta hướng tâm đến Tam Minh hay hoặc là hướng tâm Tứ Như Ý Túc, có đủ cái thần thông biến hóa, thì lúc bây giờ cái tâm thức này nó thuộc về cái thức nào đây, mà tại sao chúng ta dẫn dắt cái biết này để mà nó làm những điều đó?
Cho nên chúng ta mới rõ ra: À, như vậy là cái này là cái thức thức, còn cái kia là tưởng thức, còn cái nọ là ý thức. Cho nên nó nằm ở trong sắc, trong tưởng và trong thức thức, chúng ta thấy rất rõ.
Vì vậy mà ở trong đây chúng ta lại thấy rất rõ, là trong cái phần Thập Nhị Nhân Duyên, nó cũng không bao giờ mà nói hai cái thức một lần. Nhưng một người tu thì chúng ta biết được cái chỗ nào là có cái thức, mà chỗ nào là không có cái thức. Mà cái thức đó nó có giống với cái thức đầu tiên kia không? Chắc chắn là không giống, nó không giống.
Cho nên từ cái chỗ mà Vô Minh sinh Hành, Hành sinh Thức thì cái thức đó nó không giống với cái thức của Danh, của Sắc, nó không giống với cái thức của Danh Sắc. Hai cái Danh Sắc này nó hợp lại, là tại sao mà ở trong Thập Nhị Nhân Duyên Phật không để nó ró ra là tưởng với…
(Xem tiếp ở Pháp hành 38)
HẾT BĂNG
PHÁP HÀNH 38 - ĐOẠN DỨT DUYÊN SANH ĐỂ VÀO ĐẠO
Trưởng Lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Thời gian: 1998
(Tiếp theo Pháp hành 37)
(0:00) Họ không biết cái sắc thức, cái tưởng thức và cái thức thức như thế nào, cho nên cái nào họ cũng nói, họ luận qua một cái lý luận của tâm vương rồi tâm sở, tất cả những cái đó để chỉ cho một cái thức của họ mà thôi, chớ họ cũng không biết như thế nào để phân cho nó rõ ràng, như chúng ta là những người thực hành.
“Có những nhà học giả cho Danh là ba uẩn.”
Đó thì các con thấy, ở đây Thầy trả lời để cho thấy, phần nhiều là cái cuốn sách này, trước kia là của cái người tu sĩ Nam Tông ở bên Miến Điện, họ đã viết cuốn sách này ra bằng Anh Ngữ, do một người Việt Nam mình dịch ra. Do vì vậy đó, thì trong một cái dịp mà cái vị sư đó họ đến đây thăm Thầy đây, thì họ đã gởi biếu cho cô Út hai tập, một tập nói về Thiền Minh Sát Tuệ và một tập nói về Thập Nhị Nhân Duyên.
Do đó thì quá lâu, cái thời gian từ đó tới nay nó cũng là mười năm rồi chớ không phải ít, do vì vậy đó mà Thầy còn nhớ lại trong cái vấn đề này, cho nên Thầy thấy một nhà học giả của người Miến Điện, họ là một vị tu sĩ, coi như là một vị Hòa thượng có uy tín ở bên Miến Điện, họ đã viết cái bộ sách này.
(01:25) Cho nên họ cho rằng, cũng giảng về cái Thập Nhị Nhân Duyên này, họ cho rằng ở trong cái Danh nó có ba cái uẩn: thọ uẩn, hành uẩn và tưởng uẩn, họ cho cả ba cái nó nằm trong cái Danh.
Tức là nhà học giả Việt Nam của chúng ta thì cho cái Danh đó là cái tâm, chỉ cho nó là cái tâm thôi, còn nhà học giả của Miến Điện thì cho nó là ba cái uẩn: thọ uẩn, hành uẩn và tưởng uẩn. Đó thì các con thấy nhà học giả này thì cho như thế này, nhà học giả khác thì cho như thế khác, cho nên đó là những cái sai họ không thấy được.
“Ở Thập Nhị Nhân Duyên đã có Hành.”
Nghĩa là các con thấy trong Thập Nhị Nhân Duyên: Vô Minh sanh Hành, Hành sanh Thức đó, đã có Hành rồi. Mà đây ở chỗ Danh này lại còn có cái hành uẩn nữa, lại còn có cái thọ uẩn nữa, mà ở trong Thập Nhị Nhân Duyên nó có cái Thọ nó mà! Khi mà Xúc thì sanh Thọ, Thọ sanh Ái đó. Thì cái Thọ đó nó có Thọ rồi, mà ở đây nó lại còn thêm một cái Thọ nữa.
Mà cái Hành nó đã có rồi, thì các thầy thấy, cái Hành nó đã có rồi, Vô Minh sanh Hành đó, Hành mới sanh Thức đó, thì cái Hành nó đã có rồi, mà ở đây còn thêm một cái hành uẩn nữa, thì như vậy là đã lặp lại Thọ, hai lần Thọ mà hai lần Hành. Như vậy trong Thập Nhị Nhân Duyên đã có hai lần Thọ, hai lần Hành, như vậy là sai, không đúng.
Chỉ có cái tưởng uẩn là đúng. Nghĩa là nhà học giả này cho ba cái thì trật, mà trong ba cái này lấy một cái là đúng, Danh là tưởng uẩn là đúng.
Họ không hiểu, họ cho quá nhiều mà họ không thấy đó là người ta chỉ một duyên ở trong đó là đủ để mà phối hợp nhau rồi. Thì ngay ở trong mọi cái, một hành động nào, ngay trong một cái duyên nào đó đều là có cái Hành ở trong đó hết.
(03:24) Cho nên ở đây thì chúng ta thấy rất rõ:
“Ở Thập Nhị Nhân Duyên đã có Hành và Thọ rồi thì lại thêm có Hành, Thọ một lần nữa. Như vậy nhà học giả này chưa hiểu Ngũ Duyên là gì và Thập Nhị Nhân Duyên là gì.
Nhà học giả còn cho Thọ, Tưởng và Hành là ba yếu tố tinh thần phụ thuộc vào Thức.”
Nghĩa là nhà học giả đó đó, cho thọ, tưởng, hành, thức này là ba yếu tố phụ thuộc vào Thức. Nó không phải phụ thuộc, mà ở đây Thầy nói như nước là nước, mà sữa là sữa, mà đường là đường, không thể nào nước mà phụ thuộc vào sữa, mà đường phụ thuộc vào sữa được! Cái đó là cái hiểu lầm lệch của họ, cái sai của họ mà họ không thấy.
“Thức là một nhân duyên như Thọ, Tưởng và Hành thì không thể nào phụ thuộc vào cái kia được.”
Bởi vì Thức đâu có nghĩa là chính ở trong mười hai cái duyên này, đều là những cái duyên độc lập của nó, nó phải hòa hợp nhau. Cũng như nước nó hòa hợp sữa với đường, thì đường nó hòa hợp với sữa, với nước. Đó thì, nó hòa hợp chớ nó không có một cái nào mà nó phụ thuộc vào cái nào được hết. Nó có hòa hợp là hòa hợp mà không hòa hợp thì thôi, chớ còn không có phụ thuộc vào được.
“Ví như Ngũ Uẩn hợp nhau tạo thành thân tâm của một con người, chớ không phải cái này phụ thuộc vào cái kia. Ví dụ năm người hợp nhau làm một con đường, thì con đường chính là mục đích của năm người này phải làm, công việc của ai thì nấy làm, chớ không phải phụ thuộc vào nhau.
(5:00) Có nhà học giả cho Lục Nhập là sáu căn và sáu trần, lại có người khác cho là sáu căn.”
Đó thì các con thấy từ những cái duyên ở trong cái Thập Nhị Nhân Duyên mà họ sai nhiều chớ không phải là sai một cái đâu. Có nhà học giả cho Lục Nhập là sáu căn và sáu trần. Mà trước kia thầy học thì thầy cũng học quý Hòa thượng cũng dạy nó là sáu căn, sáu trần. Và cái người mà cho nó là sáu căn đó, đó là một vị sư Miến Điện, họ đã cho sáu căn chứ họ không cho sáu trần.
(05:36) “Cái hiểu của nhà học giả đã đưa giáo pháp Thập Nhị Nhân Duyên đến chỗ tối nghĩa và lập luận loanh quanh, nó không có đúng. Bởi vì trong Thập Nhị Nhân Duyên, Danh Sắc đã có sáu căn rồi.”
Nghĩa là trong Danh Sắc chúng ta thấy, thí dụ như cái Sắc của chúng ta là có phải nó có mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý rồi, mà bây giờ thì trong khi nó lại có mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý một lần nữa sao? Cho nên Lục Nhập nè, họ nói sáu căn, sáu căn tức là mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình chứ gì? Phải không? Cho nên do đó là cái sai của họ rồi.
Mà trong khi đó Phật đã nói rằng Danh, Sắc mà Sắc là thân của chúng ta, Danh là tưởng của chúng ta, vậy thì sắc nó đã có mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý, tức là cái thân chúng ta phải có mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý. Cho nên Phật nói sắc, thọ, tưởng, hành, thức, năm cái này, mà sắc thì chúng ta biết rằng có năm cái căn của nó ở trong đó rồi, mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của nó rồi, phải không?
Cho nên ở đây nếu mà chúng ta cho Lục Nhập này là mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý là sai. Bởi vì Lục Nhập nó chỉ cho cái môi trường sống của con người của chúng ta là sắc, thanh, hương vị, xúc, pháp, phải không?
Cái vật gì mà có Sắc, cho nên ở đây nó Lục Nhập có nghĩa là sắc, thanh, hương vị, xúc, pháp, tức là sáu trần chớ không phải sáu căn. Sáu trần sắc, thanh, hương vị, xúc, pháp nó gọi là Lục Nhập, sáu cái nó đi vào, chớ đâu phải là sáu cái để mà nó tiếp giao ở ngoài đâu? Mà sáu cái ở ngoài nó đi vào ở trong cái thân người.
Cho nên thí dụ như có một cái hình ảnh nào đó, nó mới tiếp vào con mắt, căn của chúng ta là con mắt, nó mới tiếp vào với cái Sắc của nó. Cái Sắc của nó bắt đầu nó tiếp vào con mắt, thì nó thấy cái vật đó, nó thấy vật đó nó khởi ra ham muốn cái vật đó, cho nên cái vật mà nó thấy gọi là Sắc.
Bây giờ nó nghe âm thanh, âm thanh nó đi vào trong cái lỗ tai, bởi vì nó Lục Nhập là nó đi vào mà, lục là sáu, nhập là vào, sáu cái nó đi vào. Cho nên sáu cái này thì nó là sáu trần, phải không?
Cho nên có nhà học giả nói là Lục Nhập là sáu căn, sáu trần thì sai. Bởi vì sáu căn là thừa, sáu căn nó ở trong Sắc nó đã có sáu căn rồi, thì nó không cần phải nói đây sáu căn, mà chỉ cần nói sáu trần là đúng.
(7:58) Các con thấy, các nhà học giả họ không hiểu nổi, họ chỉ tưởng tượng ra mà họ, lập luận của họ như vậy thôi, họ không hiểu.
“Bởi vì trong Thập Nhị Nhân Duyên, duyên Danh Sắc đã có sáu căn rồi, còn lại thêm Lục Nhập là sáu căn nữa, thì hóa ra Thập Nhị Nhân Duyên có hai lần sáu căn!
Các nhà học giả đã không hiểu bài pháp Thập Nhị Nhân Duyên của Phật muốn nói gì, mà dám cả gan giảng giải làm lệch ý kinh của Phật, thì bảo sao không đọa địa ngục!
Cái sai lớn nhất của các nhà học giả trong Thập Nhị Nhân Duyên đó là duyên Sanh.”
Đó cái sai của họ là đến cái chỗ mà duyên Sanh này, họ sai rất lớn.
“Các nhà học giả cho duyên Sanh là sanh đẻ khiến cho bài Thập Nhị Nhân Duyên mất giá trị, tối nghĩa. Trong các bài kinh Nguyên Thủy cũng giải thích theo kiểu này.”
Nghĩa là trong những cái bài kinh mà ở trong kinh sách Nguyên Thủy họ cũng giải thích sanh là sanh đẻ đó, chớ không phải là giải thích theo cái kinh nghiệm tu hành.
“Nghĩa là các nhà học giả dựa vào những lời giải thích ở trong kinh tạng Nguyên Thủy mà giảng nói.”
Nghĩa là họ dựa vào cái nghĩa chữ Sanh ở trong những cái bài kinh do Phật giảng ở trong đó mà họ nói ra.
Nhưng mà sự thật ở đây, chắc chắn là không phải là Phật giảng những cái bài kinh này ở trong như vậy đâu, mà chính các nhà học giả, trước kia họ đã sửa lại những cái bài kinh đó khi họ không hiểu, họ đã sửa những cái bài kinh đó, và họ giảng thuyết ở trong những cái bài kinh đó là Sanh là sanh đẻ. Cho nên họ thiếu kinh nghiệm tu hành mà họ không có hiểu được cái Thập Nhị Nhân Duyên.
“Vì các nhà học giả không có tu hành, nên không dám thoát ra nghĩa của các bài kinh Thập Nhị Nhân Duyên.”
Nghĩa là bây giờ cái bài kinh ở trong cái kinh Nguyên Thủy đó, nó giải thích Sanh là sanh đẻ, thì bây giờ họ không có dám thoát ra vì họ không có tu hành, cho nên họ nghe vậy, họ hiểu như vậy chớ họ không có dám giải thích vượt ra khỏi cái nghĩa đó.
Cái nghĩa đó là một cái nghĩa sai mà họ cũng không dám vượt ra, họ cứ mần mò ở trong cái nghĩa đó, rồi họ luận cái này, luận cái kia loanh quanh chớ họ không có dám giảng đúng ra.
(10:27) “Bài kinh Thập Nhị Nhân Duyên Đức Phật đã khẳng định gồm có con người và môi trường sống của con người. Mười hai duyên này chỉ rất rõ, từ Vô Minh, Hành, Thức, Danh Sắc, Thọ là chỉ cho thân Ngũ Uẩn. Vì Danh Sắc là một tên khác của sắc uẩn và tưởng uẩn.”
Các con cứ hiểu, người ta gọi cái Danh Sắc tức là một cái tên khác của Sắc Uẩn và Ngũ Uẩn chớ không có gì khác hơn hết. Nếu mà một cái nhà học giả mà họ hiểu như vậy, họ biết là Danh Sắc là một cái tên khác của cái sắc uẩn và Ngũ Uẩn thì họ không bao giờ lầm lạc.
“Còn các nhân duyên khác chỉ cho sự tiếp xúc và môi trường sống của thân Ngũ Uẩn.”
Nghĩa là từ có cái thân Ngũ Uẩn này thì nó có những cái duyên để mà tiếp xúc, thì sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp là có cái duyên ra ở ngoài, các pháp ở ngoài để cho nó mới có Xúc chạm nó mới sanh ra Thọ, mới Ái, mới ham muốn, mới giữ, mới Thủ, mới giữ lại nó, nó mới có Sanh chớ!
Cho nên do cái chỗ đó mà chúng ta phải hiểu, các nhà học giả thật là không hiểu mà lại giảng Thập Nhị Nhân Duyên, thì đưa cái giáo pháp của Phật đi đến cái chỗ mê mờ mà không có rõ ràng.
“Vì thế Lục Nhập phải hiểu là sáu trần, sáu trần là sắc, thinh, hương vị, xúc, pháp, đó là những pháp bên ngoài thâm nhập vào thân Ngũ Uẩn.”
Nghĩa là các pháp đó nó ở bên ngoài cũng như sắc, thinh, hương vị, xúc, pháp, là các pháp nó ở bên ngoài, nó thâm nhập vào cái thân Ngũ Uẩn mình, nên gọi là Lục Nhập. Đó, thì các con thấy, ở đây Thầy xác định lại cho nó rõ ràng cái nghĩa của Lục Nhập.
“Vì thế Lục Nhập phải hiểu là sáu trần. Sáu trần là sắc, thinh, hương vị, xúc, pháp đó là những pháp bên ngoài thâm nhập vào thân Ngũ Uẩn nên gọi là Lục Nhập.
Sáu cái nhập vào, khi nhập vào thì có sự va chạm, nên gây ra cảm xúc do đó mới có duyên Xúc.”
Tức là mới có Xúc đó.
“Nơi duyên Xúc mới phát sanh ra Thọ. Thọ là một cảm giác, từ cảm giác dễ chịu sanh ra Ái. Ái tức là ưa mến, yêu thích, thèm khát, ham muốn, từ đó mới sanh ra Thủ.
Thủ tức là giữ lại cho mình làm của mình, mà đã giữ lại cho mình làm của mình nên từ đó có Hữu. Hữu tức là có, mà Hữu đây có nghĩa là của cải, tài sản và sản nghiệp v.v… Do có của cải, tài sản, sản nghiệp nên mới có duyên Sanh.”
Nghĩa là mình có của cải, tài sản này kia, tất cả mọi thứ nhà cửa, rồi anh em, dòng họ, cô bác tất cả mọi cái, nương tựa nhau mà sống ở trong cuộc sống này, có làng có xóm này kia, nó tạo thành, nhờ cái mà chúng ta tích trữ của cải tài sản, nhờ cái chúng ta có tình cảm đối với mọi người, cho nên có người thân, cũng có người ghét, cũng có người vầy, người khác.
Cho nên tất cả những cái đó nó trở thành một cái môi trường sống của chúng ta. Cho nên nó mới có buồn, có vui, có giận, có hờn, có đau khổ, nó đủ cách ở trong đó. Do cái chỗ đó, nó mới tạo cho chúng ta gọi là duyên Sanh. Mà Sanh ở đây tức là sanh y chớ không phải sanh tử, chứ không phải là chết, là sanh sản.
“Của cải, tài sản, sản nghiệp v.v… là chỗ nương tựa của cuộc sống con người. Do muốn tích lũy của cải tài sản và sản nghiệp nên con người phải làm lụng vất vả. Khi của cải hao mất thì ưu, bi, sầu, khổ rồi sanh ra bệnh, chết.”
Đó là một cách rất rõ ràng và cụ thể.
(14:31) Cho nên mười hai duyên chúng ta thấy, tới cái chỗ mà ưu, bi, sầu, khổ để chết, thì do cái duyên Sanh mà nó ra.
Từ cái chỗ mà chúng ta có thân, bắt đầu chúng ta có cái thân Ngũ Uẩn. Rồi từ cái thân Ngũ Uẩn, nó mới có cái Lục Nhập nó xâm chiếm vào cái thân của chúng ta, từ đó nó mới sanh ra Thọ, sanh ra Ái, rồi nó sanh ra, mới giữ lại những cái điều mà mình ưa thích, mình ưa thích mình giữ lại nó mới có những cái của cải tài sản đó.
Nó có của cải tài sản đó rồi thì nó hao mất, hay hoặc là mất đi một người nào, người thân của mình, người mình thương, thì nó làm cho mình đau khổ, vì vậy gọi là ưu, bi, sầu, khổ. Rồi từ cái ưu, bi, sầu, khổ nó nhiều lần như vậy nó tạo chúng ta mới bệnh, bệnh rồi mới chết.
Đó là cái cách thức của mười hai nhân duyên là nó như vậy.
(15:20) Như vậy mục đích nó để chỉ cho chúng ta biết rằng cái duyên nào mà chúng ta cần phải phá đây? Làm cho nó tiêu tan cái duyên đó đi để mà chúng ta giải thoát cho được.
Thì chúng ta thấy Sanh rõ ràng là gì? Vật chất xung quanh chúng ta nó ràng buộc, trói buộc chúng ta rất nhiều, cho nên bây giờ chúng ta có chùa to nè, có tháp lớn, hay hoặc là có của cải, tài sản, tiền bạc nhiều nè, cái đó có trói buộc chúng ta không? Có trói buộc.
Bởi vì cái người mà tu hành, người ta có kinh nghiệm người ta thấy rất rõ, và Đạo Phật, Đức Phật dạy rất rõ, không có cái mơ hồ, mà chúng ta lại giảng nó là sanh đẻ thì nó rất là mơ hồ.
Cho nên ở đây chúng ta thấy:
“Do mười hai duyên này, Đức Phật đã chọn duyên Sanh để đập tan cái thế giới của kiếp đau khổ này.”
Nghĩa là lấy cái duyên Sanh mà làm sao phá cho được cái duyên Sanh, thì cái thế giới đau khổ này nó sẽ diệt, còn cái duyên Sanh mà nó còn, thì cái thế giới đau khổ này không diệt.
“Cho nên khi một người bắt đầu mà xuất gia thì Đức Phật bảo như thế nào? “Cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, sống không nhà cửa, không gia đình”.”
Có phải đó là cái mục đích của cái câu kinh này, đó có phải là mục đích Đức Phật đã nhắm vào cái duyên Sanh không?
Đúng là vào duyên Sanh đó, làm cho chúng ta không nhà, không cửa không người thân thuộc gì hết. Chỉ còn có ba y một bát mà thôi, mà lại cạo bỏ râu tóc làm chúng ta xấu xí đi, không còn đẹp, không còn trang điểm cho nó tốt nữa, thì như vậy là chúng ta đâu còn có cái gì mà ham thích nữa, còn có cái gì mà trói buộc, cho nên đó là nhắm vào cái duyên Sanh mà giải quyết cho chúng ta được giải thoát.
“Đó là lối sống của một vị Tỳ Kheo đoạn dứt duyên Sanh để được giải thoát hoàn toàn.”
Đó, mình dứt được cái duyên Sanh thì mình mới giải thoát hoàn toàn, mà mình không dứt duyên Sanh thì mình không giải thoát hoàn toàn.
(17:09) “Đức Phật còn xác định thêm để đập phá duyên Sanh này một lần nữa: “Sanh đã tận, Phạm hạnh mới xong”.”
Nghĩa là khi nào mà cái duyên Sanh này, tất cả của cải, tài sản, dòng họ, quyến thuộc, tất cả mọi cái mà chúng ta đã lìa xa nó được rồi, nó đoạn tận rồi, tâm của mình nó không còn nhớ thương, không còn tiếc, không còn ham tiền, ham bạc, không còn gì hết, cắt đứt hết rồi, thì cái đời sống đức hạnh giải thoát của cái người tu mới là xong.
Đó thì, những cái câu kinh này nó đã xác định cho rõ, chúng ta thấy Thập Nhị Nhân Duyên Đức Phật đã xác định rất rõ, chứ đâu phải.
Đó thí dụ như cái câu đầu “Cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, sống không nhà cửa, không gia đình”, đó là cái thứ nhất.
Cái thứ hai thì xác định thêm để chúng ta thấy là: “Sanh đã tận, Phạm hạnh mới xong”, chỉ có cái duyên Sanh mà chúng ta đoạn tận nó được, lìa được nó rồi, xa nó được rồi thì cái đời sống tu sĩ chúng ta mới dứt.
Cũng như bây giờ thí dụ như Thầy nói, bây giờ như cô Diệu Hảo, cô tu như vậy, cô lo như vậy, cô không có lìa nó ra được, thì tức là cái duyên Sanh nó chưa có lìa, như vậy là Phạm hạnh chưa xong, tu không biết đời nào mà cho rồi.
Đó thì mình phải rút tỉa kinh nghiệm. Cũng như các con thấy khi mà tu hành mà các con còn vướng bận con cái ở trong gia đình, thì như vậy duyên Sanh nó chưa hết đâu.
Nghĩa là đói khát như thế nào mặc nó, miễn là mình tu cho được giải thoát mà thôi, không có cần đến của cải tài sản. Cho nên có nhiều người để ra, có của cải để giành, để rồi mình có chỗ mình nương tựa mình sống để mà, để rồi mình nương tựa mình sống, mình hàng ngày mình bỏ ra chút ít mình sống, như vậy là cái người tu chưa có dứt hẳn duyên Sanh.
Nghĩa là dứt hẳn duyên Sanh, đói khát chúng ta không màng nữa, đói khát chúng ta không có lo nữa. Mà nếu chúng ta không còn lo nữa, bữa đói, bữa no mặc, như thế nào cũng được, đó là chúng ta đã đoạn dứt duyên Sanh, không sợ.
Chẳng hạn là như bây giờ, Thầy rời chỗ này Thầy đi, bằng cách là Thầy đi bộ từ đây mà đi ra tới Hà Nội, không cần phải đi xe cộ, ngày nào đi tới đâu hay tới đó, một ngày đi được năm mười cây số cũng tốt, tới chỗ nào thì chỗ đó tối thì mình dừng lại mình nghỉ, có chùa thì mình ở, không chùa thì mình ở ngoài lùm cây, rừng bụi, cái gì cũng được hết.
Thì như vậy thì Thầy không có sợ đói khát. Trong lưng không có một đồng đem theo, thì đói thì mình xin ăn, ai có cho thì mình sống, mà không cho thì mình cũng vui vẻ chớ không phải lo đó mà sợ đói, sợ no phải đem theo hay bỏ tiền này kia nọ, thì như vậy mới là duyên Sanh nó mới đoạn.
Còn nếu mà đi ra mà Thầy sợ phải mang tiền theo thế này, thế khác để lên xe xuống ngựa hoặc này kia, hoặc đi có người này ủng hộ, người kia ủng hộ bằng cách này bằng cách khác, thì như vậy là chưa phải là cái người đã đoạn dứt duyên Sanh. Còn phòng hộ, còn lo sợ, còn này kia nọ thì như vậy chưa phải đoạn dứt duyên Sanh.
(20:18) Cho nên ngày xưa, Thầy xin nhắc lại, cái duyên Sanh mà Đức Phật đã đoạn dứt trong một cái câu chuyện như thế này:
Một hôm Đức Phật, thường thường thì Đức Phật có 1250 vị Tỳ kheo, nhưng mà thường thường Đức Phật đi là đi một mình chớ không có đưa đi theo một cái người nào, thỉnh thoảng thì lâu lâu có ông A Nan đi theo, mà không thì Đức Phật đi một mình mình.
Thí dụ như đây đi xuống thành phố, thì Đức Phật đi một mình mình, hay hoặc là đi ở đây, ở cái xã này, đi qua một cái xã khác, như thí dụ như ở đây là xã Gia Lộc, mà Đức Phật đi sang qua An Tịnh thì trong khi đó Đức Phật đi một mình chớ cũng không bao giờ mà đi hai ba thầy hay hoặc là năm mười thầy đi theo.
Cho nên một hôm đó thì Đức Phật đi sang qua một cái nơi khác, thì lúc bấy giờ trời tối, Đức Phật mới đến cái chỗ cái lò gốm, người ta làm đồ sành đó, thì Đức Phật mới đến xin cái ông chủ lò gốm: “Cho tôi được nghỉ ở đây một đêm!”
Thì cái ông chủ lò gốm ông nói: “Tôi đã lỡ cho một cái người tu sĩ khác họ cũng đến đây mà họ ngủ, họ ở rồi. Bây giờ cho ông thì không biết ông kia có bằng lòng không, vì có cái nhà trống này để mà làm đồ gốm thôi, còn những chỗ khác thì nó không có chỗ. Do đó nếu mà cái ông kia bằng lòng thì tôi cũng nhận cho ông ở đây một đêm”.
Thì Đức Phật mới nói: “Thôi được, ông cứ đưa tôi gặp cái vị đó đi!”. Thì khi mà đưa vào cái chỗ mà cái nhà trống để mà làm đồ gốm đó, thì gặp cái vị Tỳ Kheo đó, thì Đức Phật mới đến xin vị Tỳ Kheo đó: “Bây giờ lỡ tôi đi qua đây nó tối rồi, xin ngài vui lòng, xin hiền giả vui lòng cho tôi được ở đây một đêm, ngủ ở đây một đêm!”
Thì ông kia, vị tu sĩ kia mới vui vẻ: “Được, không có sao đâu, hiền giả cứ tự nhiên ở đây mà ngủ nghỉ cho nó khỏe, đừng có đi đâu chỗ khác mà mất công tìm!”. Do đó thì cái ông chủ lò gốm đó ông rất bằng lòng là cho hai người ở.
Thì lúc bấy giờ Đức Phật mới đem những cái vật dụng của mình mới trải ra ở dưới cái sàn nhà của cái người đó mà nghỉ. Thì đêm đó Đức Phật ngồi thiền, thì Đức Phật cũng thấy ông này cũng ngồi thiền cũng y như cách Đức Phật đã dạy các đệ tử, nhưng mà Đức Phật không biết cái ông này là học với ai mà sao cũng tu giống như mình, cũng hành động, thức giờ giấc cũng nghiêm chỉnh như mình.
Cũng như bây giờ thí dụ các con thấy nè, Thầy dạy bây giờ các con từ bảy giờ đến mười giờ mới đi ngủ, rồi từ hai giờ thức dậy, do đó cho đến năm giờ các con xả thiền. Rồi ban ngày thì từ 7 giờ các con tu đến 9 giờ rồi xả ra. Rồi từ 2 giờ cho đến 5 giờ các con cũng giữ giờ giấc như vậy.
Thì ông Phật thấy rõ ràng là cái ông này sao cũng tu đúng, mà mình đâu có dạy ông này hồi nào đâu? Cho nên Đức Phật mới mon men đến mới hỏi thăm: “Thưa hiền giả! Không biết hiền giả đã tu với ai, mà cái hành động của hiền giả tôi thấy tu rất tốt vậy?”
Thì ông đó nói: “Tôi tu với Đức Cù Đàm.” Đức Phật mới nghe ông ta nói vậy mới giật mình: “Ủa, như vậy là ông có bao giờ gặp Đức Cù Đàm chưa?” Thay vì nói Đức Cù Đàm tức là Đức Phật chứ gì, mà ông này lại không biết Đức Phật, cho nên ông Phật mới hỏi: “Vậy ông có bao giờ gặp mặt Đức Cù Đàm chưa, mà ông tu với ông ta?”.
Thì ông này mới nói: “Chưa bao giờ tôi gặp mặt ông ta hết, tôi chỉ nghe pháp của ông ta rồi tôi hướng tâm, tôi tin tưởng ông ta mà tôi nỗ lực tôi tu. Giờ giấc nghiêm chỉnh như thế này là do cái sự hướng dẫn của ông ta, tôi không làm sai cái lời hướng dẫn, nhưng mà tôi chưa bao giờ gặp ông ta hết.”
Do đó Đức Phật mới nói: “Cỡ mà có Đức Cù Đàm ở đây thì hiền giả có nhận ra được không?” Nói: “Không, tôi chưa biết mặt ông ta lần nào hết. Tôi nói có dịp nào, tôi sẽ đi về nước Xá Vệ để mà đến đảnh lễ ông ta, chớ còn bây giờ thì tôi chỉ theo pháp ông ta dạy, và hướng tâm tin tưởng nơi ông ta mà thôi, vì nghe cái tiếng của ông ta như vậy.”
(24:33) Đó, thì các con thấy, cả ngay cái người tu theo cái Pháp của Phật chỉ có nhận ra cái giờ giấc mà người ta biết thôi.
Cũng như bây giờ các con đi đến cái chỗ nào đó, mà thấy cái người đó giờ giấc mà tu đúng, thì các con biết cái người này đã có học pháp ở đây rồi. Thì hỏi người này: “Có bao giờ biết Thầy không?”, thì các con hỏi, thì người ta nói: ”Không biết!”, thì các con biết rằng người đó sẽ không có gặp được Thầy dạy người ta, nhưng mà người ta theo cái Pháp của Thầy mà người ta tu mà thôi. Bởi vì qua cái giờ giấc người ta đã thấy được.
Thì ở đây các con thấy, một cái người mà bỏ hết cuộc sống, cho nên người ta không có sợ hãi trước cái vấn đề gì, cho nên người ta đến một cái nơi nào đó thì người ta rất ung dung tự tại, người ta không lo đói, lo no.
Còn bây giờ, tại sao mà quý thầy đi lại có tiền hô hậu ủng, tức là tỏ ra cái danh của mình, cho nên phải có người hầu kẻ hạ như vua chúa, là cái thứ nhất. Cái thứ hai là đi một mình mà không tiền, không bạc ở trong túi thì sợ đói khát. Rồi ngủ bờ ngủ bụi, ngủ rừng, ngủ hang, ngủ dưới bóng cây thì quá vất vả khổ sở, cho nên họ không dám làm điều đó đâu.
Còn trái lại, nếu một người mà đã ly được cái Sanh y này rồi, thì họ sẽ không còn sợ hãi đâu.
Cho nên đứng trước Thầy, Thầy nghĩ rằng các con thì người nào cũng, bên nam này, người nào cũng nói muốn theo Thầy, nhưng mà sự thật họ theo Thầy chừng một ngày là họ đã bỏ cuộc họ đi về mất rồi. Thầy tin rằng đây mà Thầy, từ từ mà Thầy đi bộ đây về tới thành phố thôi là họ đã bỏ Thầy họ đi rồi, họ không còn theo Thầy nỗi.
Tại sao vậy? Tại vì chưa bao giờ họ đi bộ như vậy, và họ không chịu nhọc nhằn như vậy đâu. Bởi vì xe cộ bây giờ nó quá tiện lợi, mà bây giờ mà đi bộ như vậy thì chắc chắn là không thể nào. Mà cái người mà thực hiện mà không đúng những cái hạnh như vậy, thì đương nhiên là Sanh không có tận đâu, thì Phạm hạnh nó không xong.
Đó là Thầy muốn nói để cho cái duyên Sanh mà chúng ta tu tập chúng ta. Cho nên trong cái người tu sĩ chúng ta không thấy cái vất vả, mà chúng ta thấy cái giải thoát, nó không bị trói buộc bởi những cái tiện nghi của cái thế gian này, nó không bị ràng buộc làm chúng ta ham thích cái này, đó là những cái tu hành của chúng ta.
“Đó là lối sống của một vị Tỳ Kheo đoạn dứt duyên Sanh để được giải thoát hoàn toàn. Đức Phật còn xác định thêm phải đập tan cái duyên Sanh này: “Sanh đã tận, Phạm hạnh mới xong”. “
Đó là những cái câu kinh mà Đức Phật đã dạy cho các vị Tỳ Kheo trong cái thời trước để phá đi duyên Sanh.
“Có dứt được duyên Sanh thì giới luật của Phật mới nghiêm chỉnh. Nếu duyên Sanh không dứt được thì đời sống tu sĩ có khác nào là một cư sĩ trọc đầu!”
Nghĩa là chúng ta không dứt được cái duyên Sanh mà chúng ta nỗ lực tu theo Pháp Phật, giữ gìn giới luật bằng cách này hoặc bằng cách khác, thì nó cũng như là một người cư sĩ trọc đầu mà thôi.
“Từ chỗ sống thanh tịnh giới luật và tu tập các giới hành, khiến cho thân tâm thanh tịnh, xa lìa lòng ham muốn và các pháp, nhờ đó ta mới tiến sâu vào thiền định bằng pháp hướng tâm vào định. Từ định ấy ta mới hướng tâm đến trí tuệ, do đó ta mới có tri kiến và tri kiến giải thoát.”
Bởi vì cái chỗ này, tại sao Thầy nhắc lại cái chỗ này để thấy, từ chỗ cái đời sống mà thanh tịnh như vậy đó, nghĩa là cắt đứt tất cả những cái duyên Sanh thì nó mới là thanh tịnh, từ đó giới luật chúng ta mới nghiêm chỉnh được.
Chớ nếu mà còn một chút gì thì ở trong tâm của chúng ta nó chưa có đoạn dứt cái duyên Sanh đó, nó còn nghĩ nhớ này kia, thì giới luật chúng ta, nói rằng chúng ta giữ giới là cái hình thức giới chứ sự thật tâm chúng ta nó không giữ giới chút nào đâu.
(28:36) Cho nên từ cái chỗ mà cắt được cái duyên Sanh rồi, thì chúng ta thực hiện giới luật thì giới luật rất nghiêm chỉnh. Mà thực hiện những cái tu tập thì tâm của chúng ta nó mới có thanh tịnh được, ác pháp nó mới dứt được.
Từ cái chỗ duyên Sanh đó mà chúng ta đi vào đạo thì nó rất dễ dàng. mà từ cái chỗ duyên Sanh đó mà chúng ta chưa đoạn dứt được thì chúng ta vào đạo rất khó khăn. Xác định rất dễ dàng và trí tuệ, và tri kiến giải thoát của chúng ta nó cũng dễ dàng.
“Thập Nhị Nhân Duyên xác định: Sanh dứt thì Ưu - Bi - Sầu - Khổ dứt, đó là đi thuận chiều. Còn đi ngược chiều: Sanh dứt, thì Hữu dứt, Hữu dứt thì Thủ dứt, Thủ dứt thì Ái dứt, Ái dứt thì Thọ dứt.”
Các con xích lại gần con!
“Thọ dứt thì Xúc dứt, Xúc dứt thì Lục Nhập dứt, Lục Nhập dứt thì Danh Sắc dứt, Danh Sắc dứt thì Thức dứt, Thức dứt thì Hành dứt, Hành dứt thì Vô Minh dứt. Đến đây thì thế giới đau khổ diệt, nên Đức Phật dạy: “Những việc làm đã làm xong, không còn trở lui trạng thái này nữa”.
Mười Hai Nhân Duyên đạo Phật đã chọn cửa Sanh mà vào, vì thế Ngài dùng giới luật là pháp môn đầu tiên để đánh phá thành trì duyên Sanh.”
Bởi vì cái giới luật của Phật nó nhắm vào cái duyên Sanh đó mà nó đập phá, cho nên cái người nào mà giữ gìn giới luật thì người đó phải là đập phá cái duyên Sanh. Mà đập phá duyên Sanh tức là không còn chỗ nương tựa của một con người phàm phu nữa.
“Nhân duyên được xem là Sanh và (là) ải địa đầu, nếu chiếm được Sanh là giải thoát Ưu - Bi - Lão - Tử. Ưu - Bi - Lão - Tử đã phá thì Vô Minh cho đến Thủ, Hữu cũng đều tan tành.”
Đây là một cái bài pháp mà chúng ta thấy được cái điều kiện mà chúng ta phải thực hiện.
Bởi vì nó là mười hai duyên, mười hai duyên tức là mười hai cái phần để nó hợp nhau mà nó thành cái thế giới khổ của chúng ta. Muốn cho cái thế giới khổ của chúng ta hết khổ chấm dứt sanh tử luân hồi, làm chủ sự sống chết, thì nhắm vào cái duyên Sanh đó mà đập phá.
Mà đập pháp nó thì tức là phải giới luật là cái pháp đầu tiên để ngăn chặn chúng ta không còn phạm vào cái cuộc sống của cái thế gian nữa.
(31:25) “Đây là lối lý luận của nhà học giả:”
Nghĩa là các nhà học giả họ sẽ lý luận.
“Nếu đời sống hàng ngày chỉ thuần túy Vô Minh thì Đạo Phật đi vào bằng cửa nào? Làm sao có sự cứu độ? Làm sao có sự chuyển hóa?”
Đây là cái lối lý luận của nhà học giả. Nếu đời sống hàng ngày mà chúng ta thuần túy ở Vô Minh, thì đạo Phật sẽ đi bằng cái cửa nào mà vào? Làm sao cứu độ được, làm sao chuyển hóa được cái tâm của mình?
“Cho nên ta có Vô Minh nhưng cũng có Minh.”
Nghĩa là trong Vô Minh nó có minh ở trong đó. Ý của các nhà nhà học giả nói mà, họ lý luận như vậy, tức là họ sẽ phá vào cái cửa Vô Minh bằng cái Minh.
“Nếu ta không có chút Minh nào thì tại sao Phật nói: Tất cả chúng sanh đều có hạt giống trí tuệ của giác ngộ, của giải thoát?”
Đó là cái lối lý luận của họ ở trong kinh sách Đại Thừa. Họ cho rằng mỗi chúng ta đều có Phật Tánh trong đó, đều có trí tuệ, đều có cái hạt giống của trí tuệ, của giác ngộ, của giải thoát, thì đó là cái Minh chớ không phải là Vô Minh. Mà trong Vô Minh nó cái Minh đó, cho nên từ đó chúng ta phải đột phá, khai triển cái Minh đó.
“Khi một tâm còn ác pháp thì không thể nào gọi là Minh được.”
Đây các con, các con lưu tâm cái vấn đề này rất là quan trọng. Khi cái tâm của chúng ta nó còn cái lòng ham muốn, nó còn ở trong ác pháp thì hoàn toàn là chúng ta Vô Minh chớ không thể nào Minh. Bây giờ làm sao chúng ta triển khai cái Minh này được?
Khi mà chúng ta triển khai cái Minh này được, là chúng ta phải lìa cái cái lòng ham muốn, phải lìa các ác pháp thì cái Minh nó mới hiện ra được. Còn bây giờ cái Vô Minh của chúng ta, là tại vì cái dục và ác pháp nó che đậy, nó làm mờ đi, mà lúc bấy giờ mình chưa có vén ra được, cho nên làm sao mình có Minh được?
Như vậy là mình muốn vén cái màn mây mờ này, lòng ham muốn của mình và ác pháp, thì chúng ta phải đi vào cái ngõ Sanh chớ không thể đi vào cái ngõ Vô Minh này mà phá được. Bởi vì cái ngõ Sanh là nó ở trong đó nó mới sanh dục, nó mới sanh ra ác pháp.
Các con xích lại đây con, ngồi xích lại nghe.
Bởi vì một cái tâm mà nó còn cái lòng dục, nó còn cái lòng ham muốn, nó còn ác pháp, thì nó không thể nào gọi là Minh được. Mà cái dục và ác pháp này, nó ở trong cái môi trường nào mà có cái này? Nó ở trong cái môi trường Sanh, cái duyên Sanh mà nó có.
Sanh là nhà cửa, của cải, tài sản, anh em, cha mẹ, ruột rà tất cả những cái này nó mới sanh ra lòng ham muốn, nó mới sanh ra cái ác pháp. Cho nên nếu mà muốn cho có Minh, không phải từ chỗ Vô Minh mà khai triển Minh được, mà phải đi từ cái chỗ Sanh mà phá cái duyên Sanh thì cái Minh nó mới có, tức là phải ly dục, ly ác pháp thì nó mới có.
(35:02) “Minh có được khi nào lìa xa lòng ham muốn và ác pháp. Còn hiện giờ ta cố gắng học hỏi thông suốt Tam Tạng kinh điển, thì cái Minh đó không còn là Minh nữa. Vì cái lớp Vô Minh của dục và ác pháp che đậy cái lớp Vô Minh kia, khiến cho ta tưởng mình giải thoát, nào ngờ không giải thoát.”
Nghĩa là chúng ta chấp nhận rằng chúng ta sẽ đi học thông suốt những Tam Tạng kinh điển để hiểu biết, đó là khai mở cái Minh của chúng ta, để làm chúng ta hiểu là cái lòng ham muốn là ác pháp thế này thế khác.
Nhưng chúng ta lại lầm, từ cái lớp Vô Minh này, tức là cái lớp Vô Minh mà học hỏi thêm này, là do cái lòng dục mà ham để cho có Minh, cho nên nó đậy lên một cái lớp Vô Minh kia nữa. Cho nên một cái người học hỏi càng nhiều, thông suốt càng nhiều, nói năng lưu loát càng nhiều thì cái người đó lại càng Vô Minh hơn nữa, lại càng có tâm ham muốn hơn nữa.
Nhưng mà cái người đó cứ ngỡ tưởng mình là giải thoát, mình hiểu, cứ ngỡ rằng mình giải thoát, nhưng cái hiểu đó chưa phải là giải thoát.
“Vì lối sống của những nhà học giả Minh đang sống trong dục lạc, chưa nói lên được làm chủ của cuộc sống thì làm sao nói lên được sự làm chủ của sự chết?”
Bằng chứng rất rõ là các con thấy là cái người học, họ có bằng tiến sĩ Phật học, họ thông suốt giáo lý bằng mọi cách, nhưng cái cuộc sống của họ, họ chưa làm chủ được cái ăn, cái ngủ của họ, họ chưa được làm chủ trong cái đời sống thiếu hụt của họ, họ còn sợ những sự thiếu hụt, họ còn sợ những cái đói kém, họ còn sợ những cái thèm khát ham muốn của họ, họ còn lo lắng những điều này thế kia, cho nên họ không dám lìa xa cái môi trường sống trong dục lạc của thế gian, họ không lìa xa được Sanh y của họ, thì họ làm sao họ làm chủ được sự chết của họ?
“Cho nên cái Minh của họ là cái lớp Vô Minh che đậy trên một cái Vô Minh khác. Kinh sách họ viết ra giải thoát chỉ là lời nói suông, lời nói không đi đôi với việc làm của họ.
Để trở lại câu hỏi của cô Diệu Quang, khi Thầy đã giải thích cho các con hiểu mười hai duyên mà các nhà học giả đã làm lệch ý nghĩ của Phật, chia mười hai duyên này ra làm ba thời quá khứ, vị lai và hiện tại, đó là một việc làm sai lệch lớn.
Mười hai duyên như Thầy đã giảng chỉ cho các duyên hợp lại thành một thế giới đau khổ trong hiện tại. Ví dụ một cái nhà phải có các duyên hợp lại như cột, kèo, đòn tay, gạch ngói, hồ cát, xi măng, cửa cái, cửa sổ v.v…, mới tạo ra được cái nhà. Thế mà người ta chia cái nhà ra manh mún ba thời gian thì con nghĩ cái nhà còn vững không?
Vậy thì ở đây, đầu tiên là họ chia cái Thập Nhị Nhân Duyên ra, kết luận lại thì chúng ta thấy đó là cái sai. Giải thích từng duyên, có những duyên dạy rất sai, để làm chúng ta không hiểu biết.
Ở đây mục đích của bài Thập Nhị Nhân Duyên là Đức Phật nhắm vào để chỉ cho chúng ta biết cái cửa nào mà chúng ta phá vào để mà chúng ta được giải thoát, phá cái duyên nào để làm cho các duyên khác nó sẽ hoại diệt, nó không còn dính mắc với chúng ta nữa. Đó là Đức Phật đã xác định nhiều câu nói ở trong kinh để chỉ cho đó là phá vỡ cái duyên Sanh.”
Như vậy là bài Thập Nhị Nhân Duyên chúng ta thấy rất rõ ràng và cụ thể, để giúp chúng ta một đời sống của người tu sĩ.
(39:10) Bây giờ cô Diệu Quang hỏi tiếp Thầy.
“Tại sao người ta giảng Danh Sắc là đối tượng của Thức? Xin Thầy giảng cho con hiểu chỗ này!”
Nghĩa là hồi nãy Thầy đã có giảng rồi, thì bây giờ cô Diệu Quang hỏi, thì nó nhiều câu hỏi, nhưng mà câu hỏi đầu là tổng quát, cho nên Thầy đã giảng qua hết.
Bây giờ thầy đáp trở lại để nhắc lại, để chúng ta hiểu.
Đáp: “Tại người ta hiểu Thức là một cái khác của Danh Sắc. Ở đây chúng ta nên hiểu các duyên hợp lại để thành một cái hợp chất khác, chớ không phải là đối tượng của Thức nữa.”
Hỏi: “Hữu tạo ra Sanh, mà đã Sanh thì thế nào cũng có già chết, vậy có đúng không thưa thầy?”
Đáp: “Không. Lối giải thích như vậy không đúng nghĩa của Đạo Phật. Như thầy đã giải thích ở trên, Sanh không phải sanh tử mà là Sanh y, đó là chỗ nương tựa của thân Ngũ Uẩn để sống trong đau khổ bất tận.”
Nghĩa là chữ Sanh này như Thầy giảng hồi nãy là Sanh y, là cái chỗ nương tựa của thân Ngũ Uẩn để làm cho nó sống ở trong cái cuộc sống đau khổ.
Hỏi: “Mười Hai Nhân Duyên có phải pháp hành để tu giải thoát hay không?”
Nghĩa là cô Diệu Quang hỏi Thầy, có phải là Mười Hai Nhân Duyên này đó là cái pháp hành để chúng ta tu giải thoát không? Hay là nó là một cái gì?
Đáp: “Mười Hai Nhân Duyên này là pháp môn để hiểu biết thế giới khổ của con người do các duyên hợp lại. Nhờ có hiểu biết các duyên nên mới biết cách phá duyên nào trước để chuyển thế giới khổ đau này trở thành thế giới không đau khổ.”
Hỏi: “Kính thưa Thầy! Người giác ngộ Mười Hai Nhân Duyên thì chứng quả Duyên Giác A La Hán, nhưng các nhà học giả đã giảng Mười Hai Nhân Duyên tỏ ra rất là thông suốt, sao lại không chứng quả Duyên Giác A La Hán? Xin Thầy chỉ rõ cho con hiểu!”
Đáp: “Nếu người nào đã thông suốt Thập Nhị Nhân Duyên, ngộ được Duyên Giác thì chùa to, tháp lớn, danh lợi, ăn ngon, mặc đẹp họ đều bỏ xuống hết, chỉ còn ba y một bát, chỉ còn một du tăng khất sĩ sống không nhà, không gia đình, thì đó mới gọi là giác ngộ Duyên Giác. Bằng không chỉ là học giả mà thôi.”
Các con thấy khi mà chúng ta ngộ được Thập Nhị Nhân Duyên rồi, thì chúng ta bỏ Sanh y, đoạn dứt Sanh y, thì đời sống của chúng ta chỉ còn là một du tăng khất sĩ, chỉ có ba y một bát, không còn một cái vật gì cả hết, không còn một cái sự gì dính mắc ở trong gia đình mình hết, thì như vậy mới gọi là Duyên Giác, mới gọi là ngộ Duyên Giác. Còn nếu không thì người đó chỉ là học suông cái Duyên Giác mà thôi.
Cho nên mà từ khi ngộ được cái lý Duyên Giác, Thầy biết cái mấu chốt đau khổ của con người là do cái duyên Sanh mà đau khổ, cho từ đó mà xả lần, xả lần, xả hết xuống mà không còn chừa một cái vật gì hết, để rồi còn hai bàn tay trắng, đi lang thang từ nơi này đến nơi khác, thì đó mới chính là cái hạnh của một du tăng khất sĩ, của một người tu giải thoát.
(42:49) Nếu còn chùa to, còn tháp lớn, còn chỗ này, còn chỗ kia, thì tức là chưa phải là cái người đoạn dứt duyên Sanh.
“Giác ngộ được Duyên Giác, tức là họ đã sống đúng giới luật.”
Nghĩa là mình ngộ được cái lý Duyên Giác thì không bao giờ mình vi phạm giới luật của Phật hết.
“… sống đúng giới luật của một bậc Thánh. Do ly dục ly ác pháp như vậy, tâm thanh tịnh vô cùng, từ đó họ tịnh chỉ các hành, nhập Bốn Thiền làm chủ sự sống chết, và hướng tâm đến Tam Minh chấm dứt sanh tử luân hồi.”
Nghĩa là chỉ ngộ Duyên Giác, bỏ sạch hết không còn dính mắc trong tâm mình, chớ không phải tu gì hết, cho nên những bậc Độc Giác Phật, là bậc Duyên Giác đó, họ ngộ được cái lý Duyên Giác rồi, thì họ biết cái cửa đi vào chỗ Duyên Giác, cho nên họ đoạn dứt ngay cái duyên Sanh, từ đó họ bỏ hết, họ không còn có cái gì mà chú ý đến, vì biết đó là những cái sự trói buộc rất chặt con người mà không thể nào thoát ra được.
Cho nên khi mà họ bỏ được như vậy, đó là họ đã ly dục, ly ác pháp trọn vẹn. Từ đó họ tịnh chỉ các Hành nhập Bốn Thiền và hướng tâm đến Tam Minh một cách rất dễ dàng, từ đó họ chấm dứt sanh tử và chấm dứt luân hồi, họ chứng quả A La Hán hoàn toàn.
Chỗ này các con lưu ý, họ chỉ ngộ được Mười Hai Nhân Duyên là cánh cửa của đạo giải thoát đầu tiên, nên ngộ xong là họ đã xả ly hết, vì thế thiền định và Tam Minh giống như vật trong túi, lấy ra không có khó khăn gì hết, cho nên chứng quả A La Hán rất dễ dàng.
Người mà ngộ Duyên Giác được, họ xả ly được hết, thì thiền định đối với họ không còn khó nữa, cho nên họ rất dễ dàng tu, còn chúng ta chỉ vào cái cửa Sanh y này, cái duyên Sanh này mà chúng ta xả không được, cho nên chúng ta mới tu rất lâu, nó quá lâu, là tại vì cái duyên Sanh nó còn chằng chịt rối ren, nó đủ thứ làm cho chúng ta còn phiền não còn ác pháp trong tâm.
“Duyên Giác còn gọi là Độc Giác…”
HẾT BĂNG
PHÁP HÀNH 39 - TẦM QUAN TRỌNG CỦA HẠNH ĐỘC CƯ
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Thời gian: 1998
(0:00) “Từ Nhị Thiền đến Tứ Thiền cấp độ hơi thở có giống nhau không? Có giống như hơi thở chậm, nhẹ bình thường mà chúng con đang tu không? Khi muốn nhập vào các định thì phải ra hơi thở, vậy ra hơi thở như thế nào?”
Đáp: “Từ Nhị Thiền đến Tứ Thiền cấp độ hơi thở có sự thay đổi chậm và nhẹ hơn hơi thở bình thường mà con đang sống.”
Nghĩa là cái hơi thở bình thường mình, cái hơi thở từ Nhị Thiền cho đến Tứ Thiền, coi như là Tứ Thiền nó ngưng, còn cái Tam Thiền thì nó còn ở trong cái hơi thở chậm và nhẹ của nó, nó không như cái hơi thở bình thường của mình.
“Tùy theo trạng thái khinh an của thân và tâm mà hơi thở thay đổi.”
Nghĩa là thân tâm mình nó khinh an nhiều hay là khinh an ít mà nó thay đổi cái hơi thở mình chậm, nhẹ. Nếu mà nó khinh an ít, thì nó gần như là hơi thở bình thường, mà nó khinh an nhiều thì cái hơi thở nó chậm nhẹ hơn, nó phơn phớt nhẹ hơn, thì nó thay đổi theo cái độ khinh an.
“Ra hơi thở để nhập các định khác là ra hơi thở của định mình đang nhập.”
Chỗ này các con hiểu, nghĩa là muốn ra cái hơi thở, bây giờ ở trong Sơ Thiền mà mình muốn nhập Nhị Thiền thì mình phải ra cái hơi thở của Sơ Thiền, rồi từng cái hơi thở Sơ Thiền đó, mình mới hướng tâm mình nhắc diệt Tầm Tứ để mình nhập Nhị Thiền, và mình hướng tâm hơi thở chậm và nhẹ hơn nữa.
Trình độ hơi thở nó chậm nhẹ xuống thì cái khinh an nó lại thay đổi, nó không như là ở chỗ Sơ Thiền, do đó đến một lúc thì nó đứng lại, thì cái trạng thái khinh an nó đứng lại chỗ đó thì do đó nó nhập Nhị Thiền, nó không tăng nữa, và hơi thở nó chậm đến chỗ đó, nó không có chậm hơn nữa, do đó nó nhập ở Nhị Thiền.
Và đồng thời thì lúc bấy giờ, nếu mà chúng ta ở trong hơi thở của Nhị Thiền, thì tức là chúng ta chưa nhập, mặc dù là nó hết Tầm Tứ nhưng chưa nhập Nhị Thiền. Khi nào chúng ta xả hơi thở thì chúng ta không còn chú ý hơi thở nữa, ở trong trạng thái khinh an của cái trạng thái không hơi thở, thì lúc bấy giờ mới gọi là nhập Nhị Thiền, diệt Tầm Tứ.
Mà muốn nhập Tam Thiền thì phải ra cái hơi thở của Nhị Thiền, rồi ở trong cái hơi thở của Nhị Thiền đó mà hướng tâm để mà xả ly mười tám cái loại hỷ tưởng. Khi mà xả ly được mười tám loại hỷ tưởng rồi, thì lúc bấy giờ tâm chúng ta nó nhập vào Tam Thiền, lúc bấy giờ hơi thở của Tam Thiền cũng không thấy nữa mới là nhập Tam Thiền, còn ở trong hơi thở của Tam Thiền thì chưa nhập Tam Thiền.
“Ví dụ: đang ở trong Sơ Thiền muốn nhập Nhị Thiền thì phải ra hơi thở của Sơ Thiền, dùng pháp hướng nhập Nhị Thiền. Đang ở trong Nhị Thiền phải ra khỏi trạng thái Nhị Thiền…”
Tức là trạng thái khinh an của nó đó.
“… ở trong hơi thở của Nhị Thiền, hướng tâm nhập Tam Thiền. Muốn nhập Tứ Thiền thì phải ra hơi thở Tam Thiền rồi hướng tâm nhập Tứ Thiền.
Đang ở trong trạng thái Nhị Thiền, muốn ra hơi thở phải hướng tâm ra hơi thở….”
Nghĩa là mình đang ở trong trạng thái Nhị Thiền tức là mình không thấy hơi thở, thì mình phải nhắc tâm để cho tâm nó thấy biết hơi thở, thì tức là mình ra hơi thở.
“… rồi tâm bám vào hơi thở Nhị Thiền mà xả trạng thái Nhị Thiền, như vậy gọi là ra hơi thở.”
(3:53) Hỏi: “Khi người chết hiện về báo mộng cho người thân biết mình đã chôn giấu một vật gì mà trong nhà không ai biết. Có người bảo đó là chết vào giờ linh mới về báo. Hiện tượng như vậy giải thích như thế nào? Xin Thầy chỉ dạy!”
“Ở đây không phải linh hồn người chết về báo mộng mà chính tưởng uẩn của người nào mạnh nhất sẽ giao cảm được những điều này mà thị hiện giấc mộng thần giao cách cảm.”
Đó là khi một cái người chết mà gọi là hiện về báo mộng cho mình, báo cho thấy bây giờ thí dụ như cha mình chết, mà ông chôn giấu tiền bạc ở đâu đó mình không biết, do đó thì một đêm đó mình nằm mộng mình thấy ổng về báo là: “Ba sẽ chôn giấu tiền bạc ở dưới cái chân giường, con nên đào ở dưới đó lên thì đó là tiền bạc của ba giấu đó”.
Thì do cái chỗ đó mà sáng hôm sau thì người con đào ngay cái chỗ chân giường đó mà lấy lên một cái hũ vàng. Thì như vậy rõ ràng là có cái linh hồn của người đó về, và có người bảo đó là chết nhằm cái giờ linh, cho nên mới về báo mộng như vậy. Còn nếu mà không có chết vào cái giờ linh thì không có báo mộng như vậy.
Cho nên ở đây thì chúng ta cũng phải hiểu rằng không có linh hồn người chết, vì chết rồi nó tan hoại hết, nó không còn có cái gì mà có thể báo mộng.
Nhưng vì ở trong nhà chúng ta mọi người không chiêm bao mà có một người chiêm bao, tức là cái tưởng uẩn của họ nó hoạt động mạnh hơn là mọi cái tưởng uẩn của người khác.
Vì cái ý thức của người nào mạnh hơn thì cái người đó khó mà hoạt động của tưởng uẩn, còn cái người này họ tưởng uẩn mạnh, cho nên khi mà cha mẹ họ chết rồi, họ thường giao cảm với, cái tưởng của họ giao cảm với cái khoảng không gian, trong cái khoảng không gian đó, thì coi như là họ tưởng như là cha mẹ họ còn sống chứ chưa có chết, do đó họ giao cảm những cái gì mà cha mẹ họ đã chôn giấu ở đâu thì họ thị hiện ra giấc mộng, rồi họ báo lại cho những người khác đào lên, hoặc là đến đó tìm thì thấy ra được.
Đó là do tưởng của chúng ta chớ không phải là do linh hồn người chết về báo. Đó là cái phần về thế giới siêu hình, mà người ta không ngờ rằng chỉ có cái tưởng của chúng ta mà thôi.
Cũng như bây giờ, ví dụ như bây giờ chúng ta đang ngồi đây, mà có một người mẹ chúng ta ở xa mà bây giờ đang bệnh, do cái tưởng của chúng ta mà giao cảm được cái nỗi khổ của mẹ mình đang bệnh khổ đó, do đó mình nằm chiêm bao mình thấy mẹ mình đau bệnh rất nặng.
Mà quả đúng vậy, nó có cái trường hợp như vậy, cho nên chúng ta thấy, lúc bấy giờ không có nghĩa là người mẹ mình về báo cho mình biết rằng mẹ mình đã bệnh đau như vậy, mà chính mình đã giao cảm, tưởng của mình đã giao cảm được.
Cũng như mình ở đây, mà người mẹ mình ở bên Mỹ mà chết, thì mình nằm mộng mình thấy mẹ mình về báo: Mẹ mình bị chết rồi, đã bệnh như vậy, chết rồi thì bắt đầu mình thức dậy, thì mình dường như là mình thấy như có một linh hồn báo cho mình biết rằng, mẹ mình về báo cho mình biết rằng chết.
Nhưng mà sự thật không phải, tưởng của mình giao cảm được với cái nỗi nhớ nhung của mình, cái lòng thương yêu của mình đối với mẹ, do đó mình giao cảm được cái chết của mẹ mình qua những cơn bệnh đó.
(7:25) Thì cũng như vậy, cái người chết đi, họ không có nói được. Trước khi chết cái lòng họ bị chôn giấu một cái tài vật gì đó, thì cái lòng đó, cái sự tiếc nuối đó, nó bàn bạc, nó làm cho cái người đó dùng cái tưởng mà họ đã giao cảm được cái chỗ mất mát đó, cái chỗ chôn giấu đó mà họ thể hiện qua giấc mộng, thì cái đó là cái phần về thế giới siêu hình.
Mà giải thích thì chúng ta chỉ giải thích cỡ tầm giống đó. Vì cái ý thức hiểu biết nó có hạn lượng, nó không thể nào vô hạn, chỉ khi nào mà chúng ta đạt đến được cái trí vô hạn, thì lúc bấy giờ cái này chúng ta khỏi cần giải thích mà chúng ta cũng rất là dễ hiểu.
(8:13) Hỏi: “Kính thưa Thầy! Khi đã biết tu, ăn chay, giữ giới của Phật hoàn toàn, nhưng mỗi khi có sự việc người nhà nhờ thái thịt, làm cá, và cả chiên, rán, xào, nấu, tuy rằng không ăn, không trực tiếp sát sanh, nhưng vì tùy thuận mà nhận làm thì điều này có phạm giới không? Có chịu nghiệp báo nhân quả về sau không?”
Đáp: “Biết ăn chay tức là biết tu tập tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả. Đã tu tập tâm từ bi mà còn thái thịt, làm cá, chiên, rán, xào, nấu thì mắt thấy, tay làm sự chết chóc đau khổ của chúng sanh, thì lòng dạ nào còn làm được!
Tuy không ăn thịt chúng sanh, nhưng thân hành động trực tiếp tạo sự đau khổ tội ác. Nói về giới người này đã phạm giới, nói về nghiệp báo người này phải chịu thọ nghiệp khổ như người khác!
Cho nên Thầy đã dạy, tùy thuận mà không bị lôi cuốn vào việc ác, còn bị lôi cuốn vào việc ác thì nhất định tìm cách tránh né hoặc nhất định không làm điều đó. Có người ăn ngày một bữa, sống đúng phạm hạnh, đến chùa khác ăn ngày ba bữa tùy thuận cho họ vui lòng, nhưng không ngờ đó là một điều phạm giới!
Phật Giáo dạy chúng ta tu hành cái đúng của Đạo Phật, nhất là đạo hạnh của một vị Tỳ Kheo thì dù có chết chớ không phá Phạm hạnh, thà chết chớ không làm phỉ báng Phật Pháp.”
Nghĩa là khi mà chúng ta tu hành, chúng ta biết được cái đạo hạnh của một vị tu sĩ như thế nào, cho nên chúng ta không tùy thuận.
Như bây giờ chúng ta ăn ngày một bữa nè, mà chúng ta đến chùa khác sợ mình ăn ngày một bữa rồi nó chọi với người khác, chọi ở chùa khác thì người ta sẽ tìm cách người ta ghét mình, thà là người ta giết mình nhưng nhất định là mình ăn một bữa là ăn một bữa, không có thể nào mà tùy theo họ được.
Cũng như là mình nghiêm trì với một cái điều kiện đức hạnh nào đó, mà họ lôi kéo mình để phạm cái giới đó, nhất định là mình, thà là họ giết mình chớ mình không có phạm giới.
Cũng như ở đây thầy Từ Minh về nói với Thầy như thế này: Nếu con mà giữ gìn ăn ngày một bữa thì chỉ trong vòng chốc lát mà ở Hương Đài thì người ta sẽ hất con ra khỏi đó không bao giờ cho con ở đó hết, cho nên con phải tùy thuận vui với họ như vậy, chứ trong thâm tâm của con thì vẫn ăn ngày một bữa!
Điều đó là một cái lý luận không đúng cách. Đối với Phật giáo, chúng ta thà chết chớ không phạm giới. Sống mà phạm giới thì thôi đừng tu hành theo đạo Phật mà làm gì. Cho nên có một câu chuyện như thế này:
(11:45) Có hai vị Tỳ Kheo ở xa muốn đến gặp Phật, vì từ lâu họ đã được các vị đệ tử của Ngài dạy cho tu hành, cho nên được cái duyên mà đi về để gặp Phật. Thì trên cái đường đi về, thì hai người phải qua một cái sa mạc. Trong khi qua cái sa mạc đó thì hết nước uống, do đó đến một cái vũng nước, ở trong đó nó có những cái loại côn trùng ở trong nước rất nhiều, mà hễ uống thì coi như là mình uống, mình giết hại côn trùng ở đó, mà không uống thì khát phải chết.
Một vị thì nhất định không uống, thà chết, thì cái vị không uống thà chết, thì cái vị đó bị khát quá mà chết, không thể đi đến gặp Phật. Còn cái vị kia nói thà là mình gặp Phật, chứ còn mình không uống thì mình chết thì mình không làm sao gặp Phật. Cho nên cái vị đó uống nước đó cho đỡ khát rồi mới đến gặp Phật.
Thì khi mà đến, thì Đức Phật nói: Cái người mà đã không phạm giới, đã gặp ta trước lâu rồi, còn nhà ngươi mà gặp ta mà phạm giới như vậy thì coi như không gặp ta.
Đó thì các con thấy cái giới luật của Phật nó như vậy đó, chớ không phải là với một cái tầm thường. Chúng ta tùy thuận nhưng không bị lôi cuốn vào cái pháp ác. Tùy thuận ở pháp thiện thì chúng ta làm, nhưng tùy thuận ở pháp ác thì chúng ta không làm.
(13:16) Hỏi: “Kính bạch Thầy! Thầy thường dạy chúng con muốn tu giải thoát không còn bị tái sanh luân hồi, thì người tu phải đạt đến Tứ Thiền, trí tuệ phải đến Tam Minh thì mới đoạn dứt lậu hoặc, mới làm chủ được sự sống chết, mới chấm dứt được sự tái sanh luân hồi.
Đối với người cư sĩ tại gia, Thầy chỉ dạy năm giới, sống đúng mười điều thiện và thể hiện đạo đức nhân quả không làm khổ mình, khổ người cũng được giải thoát.
Như vậy hai trạng thái giải thoát này có giống nhau và khác nhau như thế nào?”
Đáp: “Người cư sĩ giữ năm giới, hành Thập Thiện, sống nhìn đời bằng đôi mắt nhân quả đó là giải thoát được tâm mình bằng thiện pháp, nên tâm hồn thanh thản, an lạc, lúc nào cũng yên vui, hạnh phúc, nhưng không thể làm chủ được sự sống chết của thân.
Người cư sĩ họ mới ly được ác pháp nhưng chưa lìa được dục lạc, dục thế gian, vì thế họ khó mà nhập định được. Họ phải tu tập ở giai đoạn ly dục của vị Tỳ Kheo thì mới có nhập được các loại định.”
Ở đây các con nên nhớ, cái người cư sĩ họ tu ở năm giới, ở Thập Thiện, và nhìn đời bằng đôi mắt nhân quả thì giúp cho cái tâm của họ ly được ác pháp, chớ còn cái lòng ham muốn của họ nó vẫn còn chớ chưa hết, cái dục chưa hết đâu, cho nên họ không thể nào mà nhập các định được.
Họ phải tiếp tục tu để lòng ham muốn, vì họ còn ham muốn làm ra tiền, làm ra cuộc sống làm ra cái nọ kia nữa, nhưng họ làm ra bằng cách thiện pháp chớ không phải làm ra bằng ác pháp nữa.
“Người cư sĩ chỉ giải thoát được ác pháp nơi tâm, còn người tu sĩ thì giải thoát được thân tâm trọn vẹn. Họ chỉ giải thoát được ác pháp chứ không giải thoát được cái dục trong lòng ham muốn của họ. Cho nên hai cái giải thoát này nó khác xa, nó không giống nhau.”
(15:30) Hỏi: “Kính bạch Thầy! Khi có duyên sự cần thiết, người xuất gia có ở chung với người tại gia thời gian ngắn hạn hoặc dài hạn được không? Có bị phạm giới không?”
Đáp: “Người xuất gia không được ở chung với người tại gia, vì ở chung có nhiều duyên phiền phức, làm tổn thương giới hạnh, phạm tội Ba Dật Đề.
Ở chung ngắn hạn nhưng phải ngủ riêng, ăn riêng, vì người tu ăn có một bữa, không thể ăn chung với người khác được. Ở chung với người tại gia có nhiều duyên rất là phiền phức, làm cản trở đường tu, vì họ chẳng biết tu nên tạo ra chướng duyên, nghiệp ác v.v…”
Đó là trong cái phần cái người tu của chúng ta rồi, mà biết tu mà chúng ta ở chung với cái người thế gian, thì đó là một cái chướng duyên rất lớn, họ làm những cái điều kiện mà chúng ta không thể nào an tâm mà tu hành.
Người mà biết tu rồi thì chỉ sống trầm lặng, sống một mình thì mới có thể tu được, mà sống mà có người này người kia là không bây giờ tu tới đâu hết, uổng công của chúng ta.
Trừ ra một người mà tu xong rồi thì người ta mới dám tiếp độ chúng sanh, còn tu chưa xong mà tiếp độ chúng sanh, thì chúng ta như người mù mà dẫn một đám mù mà đi, thì chúng ta đồng chết với nhau hết!
(16:58) Hỏi: “Kính bạch Thầy! Người xuất gia tu hành nhưng lại ở vào thời điểm gặp khó khăn, không thuận tiện cho việc tu tập, nên người đó phải trở về trụ xứ ẩn tu, không bằng chiếc áo nhà tu, vẫn giữ nếp sống đạo lý ly dục ly ác pháp, sống thiểu dục tri túc, phòng hộ sáu căn, giới luật nghiêm trì không sai phạm. Thường sống theo Phạm hạnh và làm lợi ích cho những người xung quanh. Luôn vui sống trong đạo đức nhân quả, không làm khổ mình, khổ người thì người đó có được giải thoát sanh tử luân hồi hay không?”
Đáp: “Sự tu hành là một điều khó, phải có hoàn cảnh thuận tiện, phù hợp cho pháp môn tu thì mới đạt được ước nguyện. Nếu hoàn cảnh không thuận tiện thì khó mà thực hiện Phạm hạnh. Phạm hạnh mà không thực hiện được thì Thiền Định làm sao nhập được?
Sống ẩn sĩ đúng cách Phạm hạnh, nhưng dù chiếc áo nào cũng được giải thoát chấm dứt sanh tử luân hồi, chỉ ngại sống không đúng Phạm hạnh, duyên thế gian lôi kéo, khiến cho thân tâm dao động, con đường tu cách trở!”
Nghĩa là tuy mình nói như vậy, chứ mà tạo ra được cái môi trường, cái hoàn cảnh sống cho phù hợp để mà tu, thực hiện được Phạm hạnh không phải là một cái chuyện dễ, rất khó.
(18:27) Hỏi: “Kính bạch Thầy! Hiện nay ở các chùa thường có lệ cúng chim đại bàng trước giờ thọ thực, vậy ý nghĩa như thế nào? Đức Phật có dạy trước khi ăn cúng chim đại bàng không?”
Đáp: “Trong kinh điển phát triển…”
Tức là kinh điển Đại Thừa.
“… cho chim đại bàng là bậc đại nhân ví như Đức Phật. Kim Sí Điểu là một trong tám bộ chúng. Tám bộ chúng gồm có: 1- Thiên chúng, 2- Long chúng, 3- Dạ Xoa, 4- Càn Thát Bà, 5- A Tu La, 6- Kim Sí Điểu, 7- Phi nhân, 8- Đại mãng xà.
Tám bộ chúng này có Thiên Long Thần hơn hết, nên đặt lên hàng đầu gọi là Thiên Long Bát Bộ.”
Thường thường chúng ta nghe nói Thiên Long Bát Bộ gia hộ hay hoặc này kia đó, ở trong chùa có thờ Thiên Long Bát Bộ đó, đó là tám cái loại này này.
“Theo kinh Đại Thừa dạy thì Thiên Long Bát Bộ luôn luôn hộ trì Phật pháp, hộ trì người tu. Do sự hộ trì này nên trong các chùa Đại Thừa, trước khi thọ thực cúng chim đại bàng, vì chim đại bàng hộ trì và giúp đỡ người tu hành.
Trên đây chỉ là một sự tưởng tượng của các nhà Đại Thừa. Phật đã chẳng dạy “các con tự thắp đuốc lên mà đi”, cớ sao lại có Thiên Long Bát Bộ và nhất là Kim Sí Điểu hộ trì chúng ta tu hành? Điều này không đúng với tinh thần tự chủ của Đạo Phật.
Làm gì có Chư Thiên, Long chúng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Kim Sí Điểu, Phi Nhân, Đại Mãng Xà gia hộ và giúp đỡ chúng ta được? Nhân quả do chúng ta làm thì chúng ta phải gánh chịu, chớ không thể nào có người khác gia hộ chúng ta được. Đó là những loại kinh tha lực, với những bọn ma quỷ này làm gì gia hộ bảo vệ cho chúng ta được?
Trong Kinh Nguyên Thủy Đức Phật dạy: “bọn này thường đến phá phách các vị Tỳ Kheo đang tu tập”. Chỉ có những người mê tín lạc hậu mới tin vào điều này, cúng bái Kim Sí Điểu.”
Thì các con thấy, Bát Bộ Thiên Long mà Thiên Long Bát Bộ, mà thường thường người ta hay nói ở trong các chùa Đại Thừa, thì do đó là tám cái loại này này. Mà tám cái loại này là tám cái loại độc ác nhất.
Thiên Long, Thiên chúng thì tức là cảnh giới trời, Chư Thiên rồi, thì nó là hiền rồi, Long chúng tức là cái loại rồng, Dạ Xoa là Quỷ Dạ Xoa đó, Càn Thát là quỷ Càn Thát đó, A Tu La là quỷ A Tu La, Kim Sí Điểu là loại chim, Phi nhân là loại mà không có giống người nhưng mà rất ác đó, Đại mãng xà là cái loại rắn độc, rắn dữ, rắn lớn đó, thì tất cả những cái loại này, tám cái thứ này gọi là Bát Bộ đó, tám cái chủng loại này rất là ác độc, đối với người tu của chúng ta đều là phá chớ không phải là hộ.
Nhưng mà bên Đại Thừa lấy cái chỗ này mà họ cho rằng người nào phá mình, thì đó mình mới lấy cái chỗ đó để mình tu tập, để cho mình được giải thoát. Nhưng mà ở trong cái kinh Nguyên Thủy thì như Thầy đã nói, như A Tu La thường đến phá các vị tu sĩ.
Thí dụ như một vị tu sĩ nam thì A Tu La nó biến ra một cái hình người nữ rất đẹp, nó đến nó trêu ghẹo cái vị đó, còn nếu là một vị tu sĩ nữ thì nó biến ra một cái hình người nam rất đẹp, nó đến nó trêu ghẹo người tu sĩ nữ.
Cho nên đó là những cái ma, những cái loại phá chớ không phải là những ủng hộ. Thế mà trong kinh Đại Thừa thì coi như là nó ủng hộ.
Và Kim Sí Điểu là một trong tám cái Bát Bộ này, là một cái loại chim mà trong kinh điển Đại Thừa, nó bay lên trên trời, cánh nó che mát rợp trời, nó nhìn xuống dưới thế gian này, nó thấy ai mà tâm còn tham sân si chưa hết, thì nó dùng cái thần thông nó làm cho cái người đó hết tham, sân, si để đạt được sự giải thoát.
Cái người nào mà chưa chứng quả A La Hán thì nó trợ giúp cho chứng quả A La Hán, nó làm cho những cái người đó được giải thoát hoàn toàn. Vì thế mà trước cái bữa ăn chúng ta thường hay cúng chim Đại Bàng, đó là cái kiểu của các nhà Đại Thừa.
Nhưng mà trong kinh Nguyên Thủy thì cho những cái loài này là những cái loài ma, những cái loài mà làm cho cuộc đời tu hành chúng ta rất là vất vả, khổ sở.
Đó thì hôm nay, thì các con muốn theo Đại Thừa, thì cứ trước bữa ăn thì nên cúng chim đại bàng, còn muốn tu theo Nguyên Thủy, thì cái thứ này là coi như là cái thứ mà chúng ta tránh xa, chớ không có quyến rũ nó, cúng bái.
(23:23) Hỏi: “Kính bạch Thầy! Trong kinh sách Đại Thừa làm phúc hay làm thiện cứu giúp người bệnh khổ, tai nạn thì chính bản thân mình cũng được tiêu tai giải nạn. Nhưng con chưa hiểu biết ở trường hợp nào, Thầy dạy không khéo làm phúc thiện mà phải gánh chịu nghiệp báo thay cho người, điều này con chưa hiểu. Xin Thầy chỉ giáo!”
Đáp: “Con đã học nhân quả, bệnh tật, tai nạn khổ ách đều do chính nhân ác mà ra. Họ đã làm ác, họ phải gặt quả khổ, đó là luật công bằng nhất của nhân quả, mà không có một đấng vạn năng nào có thể cứu họ được, giúp họ được, huống là chúng ta làm phúc làm thiện, cứu giúp người bệnh khổ, tai nạn thì chính bản thân mình cũng được tiêu tai giải hạn!”
Đó là cái câu ở trong kinh thường hay dạy chúng ta làm những cái điều mà làm phước làm này kia, đó là cái câu có đúng như cái điều kiện mà chúng ta đã hiểu biết đúng Phật Pháp hay không?
“Làm phúc làm thiện không phải là gieo nhân lành sao?”
Nghĩa là làm phúc làm thiện giúp người ta bệnh tật, khổ, thì đó là làm thiện rồi.
“Mà đã gieo nhân lành thì chuyển được quả khổ nơi bản thân mình.”
Nghĩa là mình làm được những cái điều lành đó thì nó chuyển được cái quả khổ. Nhưng mà cái người mà làm những cái điều lành đó, mà nói rằng sẽ được những cái, chính bản thân mình cũng được tiêu tai giải nạn thì không phải, nó chuyển cái quả khổ chớ nó không được! Mà mình cầu mong thì chắc chắn là không được. Vì có mục đích làm thiện mình vượt thoát những cái tai nạn hay bệnh tật, thì cái đó là không bao giờ có được.
“Làm phúc làm thiện với người mà lại làm ác với tất cả loài vật, giết hại chúng sanh, ăn thịt chúng sanh thì có phúc thiện không? Làm phúc làm thiện cứu giúp người bệnh khổ tai nạn, là để cầu danh làm từ thiện, cầu lợi gạt người khác thì phỏng có thiện không?
Trong kinh điển Nguyên Thủy Đức Phật dạy: “Cứu giúp người nghèo khổ là làm cho người nghèo khổ hơn”.”
Đó trong kinh sách Nguyên Thủy thì chúng ta thấy Phật xác định cái này rất rõ, vì nhân quả mà.
“Cứu giúp người nghèo khổ là làm cho người nghèo khổ hơn. Như ông Ca Diếp đến khất thực bà lão ăn xin để giúp bà thoát cảnh nghèo khổ.”
Đó là một cái câu chuyện ở trong kinh Nguyên Thủy, ông Ca Diếp ổng đến ông xin cái già bà ăn mày, xin bà, miễn là bà bố thí cho ông ta một cái gì đó thì bà thoát ra cảnh nghèo khổ. Còn nếu mà ông cho bà một cái gì thì để cho bà sống thêm trong một ngày, hai ngày, thì bà nghèo khổ lại nghèo khổ hơn.
“Do có duyên trong nhân quả, ta mới gặp người bệnh tật, khổ nạn, nghèo cùng để giúp đỡ nhau, để trả duyên nhân quả đời trước, để gieo nhân thiện đời sau, chớ không phải làm phúc để được phúc như trong kinh Đại Thừa dạy.”
Nghĩa là mình ở đây, với cái đôi mắt của mình làm một cái việc thiện, mà làm việc thiện với nó ý nghĩa gì, chớ không phải làm phúc làm thiện để được chính bản thân mình được tiêu tai giải nạn, thì cái chuyện mà đi làm như vậy thì nó không đúng cái tư cách của nhân quả.
“Vì có duyên nhân quả ta mới gặp người bệnh tật, khổ nạn.”
Chẳng hạn bây giờ mình gặp cái người đó tức là mình có duyên, chớ còn bây giờ mình đi tìm cái người bệnh tật, khổ nạn thì thiếu gì? Mình xuống nhà thương thì bệnh tật cả đống, mình muốn gặp nhiều lắm, rồi mình muốn giúp đỡ họ bao nhiêu cũng được hết.
Nhưng đó là mình đi tìm cái người khổ nạn đó, thì đi tìm như vậy thì mình coi chừng, mình giúp cho họ, họ thoát ra cái cảnh khổ của họ thì mình phải gánh cái tai nạn cho họ, bởi vì mình đi tìm cái nhân quả của người khác để mình gánh.
Cũng như bây giờ có một người đó họ gánh một cái gánh đá rất nặng, thì mình nói thôi để mình làm phước, mình đi tìm những cái người mà gánh nặng này để mình gánh cho họ, thì mình đi đến cái chỗ mà người ta làm hồ mà họ đẩy đá, họ gánh đá đó, mình kê vai vô mình gánh, rồi tiền thì họ lấy còn mình thì gánh dùm.
Mình làm phước như vậy, thì rốt cuộc về cái thân của mình bị bệnh tật, thì tiền mình không có uống thuốc, mà gì mình cũng không có hết, mà người ta lấy tiền người ta sài, thì như vậy có phải là mình làm phước để đem lại cái họa cho mình hay không?
Đó là cái sai. Ở đây mình phải nhìn với cái sự nhân quả, là khi nó vô tình mình gặp cái người đó bệnh tật, hoặc là khổ nạn của họ, hoặc là cảnh nghèo đói của họ, mình sẵn sàng giúp đỡ họ, là vì cái nhân quả của đời trước cho nên hôm nay khiến cho sự ngẫu nhiên mình gặp họ, chớ không phải mình đi tìm họ.
Còn cỡ mà con đi tìm họ mà để cứu khổ cái thế gian này, chắc chắn là con có đem cả trăm vạn cái thân của con mà con trải ra mà giúp cho họ để cho họ hết khổ, chắc chắn là trăm vạn cái thân của con nó tới chết nó cũng không hết cái khổ của chúng sanh nữa! Đó là cái nhân quả của người ta mà, mà con lại gánh những biết bao nhiêu cái sự khổ cho bản thân con không?
Cho nên ở đây phải hiểu cho rõ ràng. Mục đích của mình giúp, là vì cái nhân duyên mình với người đó có cho nên mình mới gặp người đó. Gặp người đó trong cái cảnh khổ của họ, mình không thể làm ngơ vì đó là cái duyên nhân quả, do cái duyên nhân quả đó mình mới trả cái nợ nhân quả của đời trước, vì vậy mà đời trước họ giúp mình những cái duyên gì mà đời nay khiến mình gặp họ. Do đó mình trả cái duyên nhân quả của đời trước.
Và nếu mà họ không có cái duyên nhân quả của đời trước với mình, nhưng mà họ có cái duyên mà đã gặp mình trong cảnh khổ của họ, thì đây là mình gieo cái nhân thiện của đời sau, của hiện tại và đời sau cho mình, chớ không phải làm phúc để được phúc như trong kinh Đại Thừa dạy.
Đó, phải hiểu cho đúng Phật giáo thì như vậy trong cái việc làm thiện của các con mới đúng.
“Nhìn thực tế trong xã hội, ta đã gặp nhiều người làm lành, làm phúc mà mong cầu lành phúc đến với mình thì lại chẳng bao giờ có. Do sự làm lành, làm phúc không đúng cách mà phải gánh chịu nghiệp báo thay cho người khác là vậy. Bởi vậy muốn làm một việc thiện thì ta phải cân nhắc kỹ lưỡng, không khéo trở thành làm ác mà quả khổ trở về ta.”
Bởi vì nhân quả của họ gánh chịu, mà mình đi tìm cái nhân quả của họ để cho mình thay mình thế, mình vào đó để cho họ thoát khổ, thì mình phải lãnh chịu cái khổ đó chớ làm sao mình hết được!
“Phật dạy “làm một điều gì phải có trí tuệ”, làm thiện theo xu hướng, theo phong trào thì chẳng thiện chút nào.”
Nghĩa là mình nghe người ta, người ta lại rủ mình: Bây giờ phải đi chùa hay hoặc là cúng dường thế này, mình cũng nghe theo mình làm, đó là theo xu hướng, theo phong trào của họ, thấy người ta đi làm việc đó rồi mình cũng đi làm.
Bây giờ mọi người, người ta đi làm việc từ thiện người ta họp nhau người ta cũng rủ mình: Bây giờ đó, có cái chỗ nhà cháy này kia, người ta đói khổ màn trời, chiếu đất, bây giờ mình họp nhau để cho mình đi làm cái việc từ thiện này, thì lúc bấy giờ mình theo cái phong trào đó mình làm, chứ thực sự trong thâm tâm của mình chưa phải có một chút thiện nào hết. Đó thì đó là mình làm việc theo cái phong trào.
“Làm thiện phải do tự tâm của mình thương xót người mà làm, thương xót người và vật mà làm.”
Đó thì các con hiểu trong cái chỗ làm thiện của mình nó phải có cái đúng cách của nó, chớ còn không đúng cách của nó thì cái làm thiện đó nó trở thành đem cái họa cho mình đó.
Cho nên ở đây vấn đề thứ nhất là mình hiểu rằng: cái nhân duyên tại sao tui lại gặp cái người này lại khổ trong cái cảnh này, tui sẵn sàng giúp, đây có lẽ là cái nhân quả của đời trước, cho nên tui phải làm để mà trả cái nhân quả.
Thứ hai nếu mà cái duyên mà gặp nhau như thế này, thì nếu mà tôi không có nhân quả vay nợ của người này, thì chắc chắn là tôi phải gieo cái điều thiện cho cái hiện tại và mai sau của tôi, cho nên tôi sẵn sàng giúp, nhưng tôi không đi tìm kiếm những cái người mà đang, tự họ đang tạo những cái nhân ác, họ phải gặt lấy cái quả khổ, mà tôi đi tìm kiếm để mà tôi giải khổ, thì xã hội này, thế gian này, tôi không bao giờ giải khổ hết cho mọi người này được.
Đó là phải hiểu đúng như vậy.(31:52) Đó thì hôm nay thầy giảng như vậy để cho các con hiểu, để biết cách làm thiện cho đúng cách, chớ không khéo nó không, cái sự hiểu biết của mình sai thì mình làm thiện cũng sai, mà sự hiểu biết làm đúng thì nó sẽ làm đúng.
Nhiều khi chúng ta làm cái đường, nhưng vì chúng ta làm cái đường đó để mà chúng ta cầu danh hay hoặc là để chúng ta do cái tai tiếng mà làm cái đường này, được cái thiện như thế này để chúng ta làm ăn một cái chuyện khác.
Người ta bỏ ra một đồng người ta làm thiện, để người ta lấy cái danh tiếng thiện đó mà người ta làm ăn, người ta lấy cả triệu đồng cái chỗ nơi khác, đó là cách thức khéo léo của một cái người gọi là mượn thiện mà làm ăn cái chuyện lớn.
Thì trong cái việc mà làm thiện rất là khó chớ không phải dễ, đòi hỏi chúng ta phải thật tâm biết thương người hay không. Cho nên thực hiện phải là tâm từ bi mới đúng, còn nếu mà không có thực hiện được tâm từ bi mà làm thiện, coi chừng chỉ là danh mà thôi.
Chúng ta nghe người ta nói cái ông đó làm vậy vậy vậy là thiện, ông đó tốt, nhưng mà sự thật ra, chỉ mình thích người ta khen mình như vậy mà mình đi làm chớ không phải là vì mình thương người ta mình làm!
(32:55) Hải Tâm hỏi Thầy.
Hỏi: “Thưa Thầy! Con tu Định Vô Lậu câu hữu:
1. Tứ Bất Hoại Tịnh.
2. Định Chánh Niệm Tỉnh Giác.
3. Dùng quán, hướng, xả.
4. Sống hạnh độc cư.
Sống độc cư rất khó, con chưa khép chặt được tâm con nên nó không tuôn trào, nếu không tuôn trào thì suốt cuộc đời con cũng không ly dục ly ác pháp được, có phải vậy không thưa Thầy?
Và con tu Định Vô Lậu như vậy có đủ chưa hay phải câu hữu với Tứ Vô Lượng Tâm, Tứ Chánh Cần, Tứ Niệm Xứ, và nhìn đời bằng đôi mắt nhân quả?”
Đáp: “Sống độc cư đúng cách thì tâm mới tuôn trào, tâm có tuôn trào thì tâm mới ly dục ly ác pháp nên tâm chưa có tuôn trào thì tâm chưa ly dục ly ác pháp. Vậy phải sống đúng hạnh độc cư, ít giao du, ít nói chuyện phiếm, như bốn mươi hai bài kệ Phật đã dạy độc cư.
Tâm ở trạng thái bình thường, độc cư thì con tu Định Vô Lậu câu hữu Tứ Bất Hoại Tịnh, định Chánh Niệm Tỉnh Giác, dùng pháp quán, hướng, xả thì vừa đủ.”
Nghĩa là cái tâm trạng của con lúc bấy giờ ở cái trạng thái bình thường, thì con tu như những cái mà con mà đã nêu trên, bốn cái điều kiện nêu, từ độc cư, từ Tứ Bất Hoại Tịnh, định Chánh Niệm Tỉnh Giác và dùng các pháp quán, hướng, xả để mà tu, thì đó là cái dạng của tâm bình thường, cái tâm nó không có một cái gì mà dao động đó, thì mình tu như vậy là rất tốt.
(34:32) “Tâm ở trạng thái không bình thường, nó có những chướng duyên…”
Tức là nó có những sự kiện gì, thì chúng ta không thể tu ở trong những cái pháp đó như vậy được.
“Thì con phải câu hữu Tứ Vô Lượng Tâm, Tứ Chánh Cần, Tứ Niệm Xứ và nhìn đời bằng đôi mắt nhân quả. Như vậy con tu Định Vô Lậu mới trọn vẹn.”
Mới toàn vẹn đó. Đó thì phải hiểu, ở đây chỗ này thì chúng ta phải biết phân biệt được. Bởi vì con nêu ra một cái số để mà xác định cho cái phần thứ nhất ở trạng thái bình thường, và phần thứ hai là ở trạng thái không bình thường. Do hai cái phần này thì chúng ta mới thấy được cái đường tu cụ thể rõ ràng hơn.
(35:16) Nếu mà không phân biệt rõ ràng như vậy thì chúng ta thấy nó tu lộn xộn ghê gớm lắm, nó nhiều thứ pháp mà không biết cái chỗ nào tu cái gì.
Bởi vì khi mà tâm của chúng ta mà gặp những cái duyên sự gì bất toại nguyện làm cho tâm chúng ta phiền não, thì chúng ta phải nhìn đời bằng cái đôi mắt nhân quả để xả cái tâm chúng ta mới nổi. Chớ còn nếu mà không nhìn bằng nhân quả thì chúng ta xả không nổi đâu, chúng ta có quán, có nói “tâm như cục đất” chúng ta cũng không xả được đâu!
(35:42) Hỏi: “Nếu con sống đúng hạnh độc cư, ăn và ngủ đúng giờ giấc nghiêm chỉnh, theo con hiểu trong hạnh độc cư ăn và ngủ đã có các pháp phòng hộ sáu căn, thiểu dục tri túc, bốn loại thiền định, Tứ Vô Lượng Tâm, Tứ Diệu Đế, Tứ Chánh Cần v.v…
Như vậy có đủ để con ly dục ly ác pháp diệt ngã xả tâm không thưa Thầy?”
Đáp: “Nếu muốn giữ trọn vẹn độc cư ăn và ngủ thì hằng giờ, hằng phút, hằng giây con phải thực hiện các pháp thầy đã dạy. Nhưng phải lập thành một chương trình tu tập như thế nào cho phù hợp với khả năng của mình thì mới giữ được hạnh độc cư.”
Hạnh độc cư không có dễ dàng, vì vậy mà mình muốn giữ được hạnh độc cư thì phải có những cái pháp hành, chớ không phải đơn giản một số nào đó mà được.
“Giữ được hạnh độc cư trọn vẹn thì con mới diệt ngã xả tâm ly dục, ly ác pháp được.”
Hỏi: “Thưa Thầy! Người tu theo đạo Phật sống đúng giới luật, thực hiện đầy đủ các pháp, nhưng sống chưa đúng hạnh độc cư thì có đạt được mục đích giải thoát không thưa Thầy?”
Đáp: “Một người tu theo đạo Phật mà sống thiếu độc cư thì người đó không thể giữ gìn giới luật trọn vẹn, các pháp hành tu tập chỉ hoài công vô ích. Con đã chẳng nghe Thầy thường bảo “Độc cư là bí quyết thành công của thiền định”. Thiếu hạnh độc cư thì tu hành chẳng đến đâu, chỉ có hình thức mà thôi.
Cho nên Đức Phật dạy “Người tu sĩ phải sống trầm lặng, ca ngợi hạnh sống trầm lặng, vui thích trong đời sống trầm lặng”.”
Các con nhớ những cái bài pháp mà Thầy đã dạy cái này rồi, chỉ có cái này nó mới độc cư được, mà độc cư được thì mới có làm chủ được sự sống chết của mình, còn lơ mơ thì không bao giờ được đâu.
“Dù người đó giữ gìn giới luật nghiêm túc và tu đầy đủ các pháp mà không sống đúng hạnh độc cư thì không bao giờ đạt được cứu cánh giải thoát.”
(38:01) Hỏi: “Thưa Thầy! Người không giữ đúng hạnh độc cư chỉ lo tu Tứ Chánh Cần, Tứ Vô Lượng Tâm, Tứ Niệm Xứ, Tứ Bất Hoại Tịnh v.v… thì tâm có tuôn trào, có hết lậu hoặc không?”
Đáp: “Không! Nhờ sống độc cư tâm mới tuôn trào, tâm có tuôn trào thì mới dùng các pháp tu tập xả ly nó. Do xả ly nó mới hết lậu hoặc, diệt ngã, xả tâm, ly dục ly ác pháp.”
(38:31) Hỏi: “Thưa Thầy! Tu chứng thì không còn tham, sân, si, nhưng sao có người lại bảo nó vẫn còn trong tâm, nhưng nó khởi lên là người ta diệt liền? Kính xin Thầy giải thích cho con được rõ!”
Đáp: “Người tu chứng thì tâm không còn tham, sân, si nữa. Người tu chứng mà tâm còn tham, sân, si là chưa chứng. Đó là lối che đậy của giáo lý Đại Thừa.
Con không nghe Phật dạy sao “Tâm có tham tôi biết tâm tôi có tham, tâm không tham tôi biết tâm tôi không tham” v.v… Nếu biết tâm không tham là biết tâm không tham là biết tâm giải thoát, nếu biết tâm có tham là biết tâm chưa giải thoát. Lời Phật dạy cụ thể rõ ràng không có mù mờ.
Tâm tham sân khởi lên liền biết, diệt liền, đó là người tu chưa chứng còn đang trên đường tu tập, mới diệt được tham, sân, si thô còn vi tế chưa diệt hết. Người này còn phải tu nhiều hơn nữa vì vi tế rất khó tu, khó hết, mà các nhà Đại Thừa gọi là Bồ Tát còn tạp khí.”
(39:50) Hỏi: “Thưa Thầy! Trong kinh sách Đại Thừa thường dạy: Đạo Phật có 84 ngàn pháp môn! Có đúng như vậy không thưa Thầy?”
Đáp: “Đó là lối khéo léo của các nhà Đại Thừa để đưa vào Phật giáo các pháp môn của ngoại đạo mà mọi người đều công nhận là của Phật Giáo, thì không còn ai cãi được.
Con thử đem hết kinh sách của Đại Thừa ra kê khai các pháp thì cũng chỉ có trăm pháp là cao nhất, có đâu đến 84 ngàn pháp môn? Các nhà Đại Thừa khôn mà không ngoan là chỗ này, làm cho người sau lật tẩy bộ mặt gian xảo của ngoại đạo muốn diệt Phật giáo tận gốc.”
(40:43) Hỏi: “Thưa Thầy! Định nào cao nhất của Đạo Phật?”
Đáp: “Định cao nhất của Đạo Phật là Định Diệt Tận Định. Diệt Tận Định khẩu hành, thân hành và ys hành đều tịnh chỉ hoàn toàn, tất cả các hành động trong thân đều ngưng nghỉ.”
(41:09) Hỏi: “Thưa Thầy! Định Niệm Hơi Thở con vẫn bám chặt tụ điểm, nương theo hơi thở chậm và nhẹ ra vô chú ý từng hơi thở.
Một, thỉnh thoảng con hướng tâm nhắc phá âm thanh để tạo sức tỉnh thêm, không rơi vào trạng thái an, như vậy có được không thưa Thầy?
Đáp: “Được. Nhưng con phải tăng lên một giờ không cần câu hữu với Định Vô Lậu và các định khác.”
(41:37) Hỏi: “Thưa Thầy! Con tu Định Vô Lậu câu hữu định Chánh Niệm Tỉnh Giác, quán xét tư duy khi tâm con khởi dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu.
Con cũng thường quán xét về nhân quả, dùng pháp hướng để xả tâm lìa lậu hoặc, con tu như vậy có được không thưa Thầy?”
(41:56) “Được! Phải nhiệt tâm tinh cần tu tập, và nhất là giữ trọn hạnh độc cư thì kết quả mới nhanh chóng.”
(42:03) Hỏi: “Thưa Thầy! Về thời khóa con chia như vậy có đúng không?
Một ngày con chia làm bốn thời, thời nào con cũng tu Định Niệm Hơi Thở trước, xả nghỉ mười phút đi kinh hành, tu tiếp Định Vô Lậu rồi đến tu định Chánh Niệm Tỉnh Giác câu hữu với Định Vô Lậu, và thường nhắc tâm: “Tâm như cục đất, không thương, không ghét, không giận, không ham muốn gì hết! Tâm phải bất động trước các đối tượng, trước mọi sự việc v.v…”
Thời cuối buổi tối, sau cùng một giờ con tự kiểm điểm lại xem một ngày tu tập có đúng hay sai, cần dứt bỏ và cần tu tập những gì để con hướng tâm nhiều hơn nữa, và con không quên rằng lúc nào con cũng phải sống độc cư dù đi đâu, dù làm việc gì!”
Đáp: “Thời khóa của con đã sắp xếp như vậy để tu là phù hợp với khả năng, nhưng phải cố gắng và nhiệt tâm quyết tử mới giữ trọn vẹn thời khóa này. Nhất là hạnh độc cư phải cố gắng nhiều hơn mới giữ trọn. Tu tập để được làm chủ sanh tử chấm dứt luân hồi là một việc làm vĩ đại, không có việc làm nào trên thế gian này sánh được.”
(43:30) Đến đây là Thầy đã trả lời hết những cái câu hỏi của các con, của cô Diệu Quang để giúp cho phần các con hiểu thêm phần giáo lý, là cô Diệu Quang đã giúp rất nhiều. Và cái phần kinh nghiệm tu tập thì các con đã hỏi Thầy để giúp cho các con rút tỉa được những cái, sắp xếp được những cái thời khóa mà tu tập cho nó tốt hơn.
Và trên cái bước đường tu tập thì như các con đã biết rằng. Thầy nhắc đi nhắc lại rất nhiều cho các con là cái hạnh độc cư, nó là bí quyết thành công của con đường tu tập để giải thoát. Mười năm trong thất mà Thầy giữ hạnh độc cư, cho đến mức độ mà trước làn tên mũi đạn mà Thầy không phá hạnh độc cư của mình, thì các con đủ biết rằng cái hạnh độc cư nó quan trọng đến mức nào.
Do vì vậy mà Thầy nghĩ trong thời nay khó có người mà thực hiện được cái hạnh độc cư. Và nhìn chung thì các con biết rằng, trong chúng tu chúng ta cũng có những người mà giữ độc cư, nhưng mà chỉ được năm bảy phần chớ không thể trọn vẹn hết mười phần.
Cũng như một trăm phần trăm thì người ta giữ được chừng bấy chục phần trăm là cao lắm, ít có người mà trọn vẹn được một trăm phần trăm. Nếu mà người nào mà giữ được trọn vẹn được một trăm phần trăm, thì người đó sẽ hoàn toàn là họ sẽ giải thoát, giải thoát hoàn toàn và rất nhanh chóng.
Môi trường để tạo cho các con tu tập mà các con chỉ giữ được một tháng độc cư không nói chuyện, không tiếp duyên, sống cho mình, sống trầm lặng một mình mình, thì cái thời gian đó cao lắm là các con cố gắng dữ lắm tầm một tháng, chớ còn không thì chưa hẳn là được một tháng.
Nếu mà các con thấy một tháng mà các con lại tiếp duyên, lại tạo ra cái cảnh động cho tâm của con mà phá mất hạnh độc cư thì lúc bấy giờ các con lại bắt đầu tu trở lại nữa, và cứ như vậy mà thời gian các con bị mất rất nhiều.
Thay vì làm chung với nhau mà không hề có một lời nói với nhau, làm chung với nhau mà không hề để tâm nghe chuyện người khác, thì đó gọi là độc cư.
Người nào nói gì nói, mà mình không cần nghe câu chuyện của người khác, mình tìm cách mình tránh xa, để cái lỗ tai của mình, nó ở gần nó hay nghe cho nên mình tìm cách mình tránh xa, và cái sự tránh xa đó nó giúp cho các con tu nhanh chóng hơn. Chứ còn các con mà cứ ở gần, cái lỗ tai nó bắt buộc nghe, và nó nghe tức là làm cho các con mất độc cư, tức là bị động tâm.
Cho nên muốn giải thoát để mà tâm ly dục, ly ác pháp, để thực hiện được thiền định mau chóng thì chỉ có hạnh độc cư mới giúp cho các con được mà thôi!
Mà giữ làm sao trọn vẹn, sống làm sao trầm lặng một mình, sống làm sao mà sung sướng ở trong đời sống trầm lặng một mình, đừng có tiếp duyên ở ngoài. Mặc dù các con sống chung nhau, làm việc chung nhau mà sống độc cư được thì cái đó là cái cao quý nhất.
Ngày xưa ba vị Tôn Giả đã sống chung nhau trong một cái thất, mà họ đã giữ độc cư trọn vẹn suốt ba năm, họ đã thành tựu tất cả các loại thiền định. Thầy tin rằng nếu mà các con giữ đúng được hạnh độc cư thì không bao lâu các con cũng hoàn tất.
(Xem tiếp ở Pháp hành 40)
HẾT BĂNG
PHÁP HÀNH 40 - ĐƯỢC YÊN ỔN TU HÀNH KHÔNG PHẢI CHUYỆN DỄ
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu Sinh
Ngày giảng: 1998
(Tiếp theo Pháp hành 39)
(0:00) Muốn được trọn vẹn thì các con phải giữ hạnh độc cư. Từ lâu Thầy nhắc hạnh độc cư nhưng vì cái duyên của các con do có cái sự tiếp xúc nhau, nhưng người nào mà cố gắng giữ hạnh độc cư dù tiếp xúc đi nữa, vẫn giữ được sống đời sống trầm lặng.
Giữ được đời sống trầm lặng thì các con tu càng ngày thấy càng tiến bộ, và tâm hồn nó bắt đầu quay vào, và quay vào thì các con rất dễ dàng tu thiền định. Chớ còn nó không chịu quay vào thì rất là khó chớ không phải dễ.
Nhưng khi nó quay vào mà các con lại để tự nhiên, và lần lượt tiếp tục sống độc cư, thì tâm các con lần lượt nó sẽ đạt được những cái định mà rất tự nhiên. Còn khi mà tâm quay vào mà các con vội vàng dùng cái trạng thái quay vào của nó để ức chế nó, thì lúc bấy giờ nó cũng không đạt được kết quả.
Là tại sao? Tâm vốn không chịu ức chế. Tâm vốn của chúng ta không chịu ức chế, là vì khi mà nó quay vào để tự nhiên quay vào, và cái hạnh độc cư các con cứ giữ độc cư, đừng có để cho mất hạnh độc cư. Vì mất hạnh độc cư tâm nó sẽ phóng ra mà Phật gọi là phóng dật.
Cho nên chúng ta cứ giữ cho tâm quay vào, mà giữ độc cư cho trọn vẹn, thì tuần tự cái độc cư đó nó sẽ giúp cho cái tâm của các con thể hiện các định, nó ở mức định nào thì các con ra lệnh ở mức định đó, nó sẽ vào được chớ không phải ngồi mà cố gắng ức chế.
Như cô Diệu Hảo cố gắng ức chế, khi mà tâm có hơi yên thì lại cố gắng ức chế, cho nên nó gây ra trạng thái rối loạn cơ thể, cũng là một cái tai hại rất lớn khi mà không biết. Cho nên mỗi người mà vấp ngã xuống, trên mỗi bước đường tu mỗi người vấp ngã xuống một cái gì, thì để lại cho kinh nghiệm chúng ta một cái quý giá vô cùng.
Chẳng hạn là như Mật Hạnh vấp ngã té xuống thì lại để cho chúng ta một kinh nghiệm rất là lớn. Nhưng mà sự vấp ngã đó, chúng ta còn trên bước đường tu tập chưa phải là trôi lăn, chúng ta còn tiếp tục trở lại.
Cũng như cô Diệu Hảo, sự vấp ngã cũng là làm cho cô một bài học, và bài học đó cũng rút tỉa những kinh nghiệm để giúp chúng ta sau này.
Nó có lợi ích chứ không phải là thiếu lợi ích. Vì trên con đường tu tập chúng ta không ngờ được, khi đạt được một cái gì đó thì chúng ta đừng có vội vui mừng, mà hãy tuần tự, tự nhiên để mà giữ.
Cho nên Phật bảo chúng ta “sống trầm lặng, ưa thích trầm lặng, sống đời sống ca ngợi sự trầm lặng”, thì sự trầm lặng đó nó làm cho chúng ta tỉnh táo, tề chỉnh, cẩn thận, ý tứ từng chút, tự nhiên để cho tâm mình lần lượt mà nó thanh tịnh, lần lượt mà nó giải thoát, chớ đừng có vội ép nó giải thoát thì không được.
(03:03) Chỉ có chúng ta sống đúng, hàng ngày thực hành đúng pháp, giữ gìn đừng có cho vi phạm một lỗi lầm nhỏ nào hết thì cái sự tu tập rất mau.
Còn chúng ta tu tập mà không giữ gìn sống đúng, thường hay phá độc cư, không giữ gìn đúng hạnh, để tâm buông lung chạy theo ăn ngủ, chạy theo vui với thế gian, thích nói chuyện thì sự tu hành chúng ta rất chậm và rất lâu.
Đó là những điều mà Thầy nhắc nhở các con. Và kế tiếp thì hôm nay cũng là gần ngày ra hạ, thì như vậy là hôm nay chắc chắn là các con sẽ hết mùa hạ ba tháng an cư, nhưng chúng ta vẫn là những người tiếp tục tu mãi, có những gì thưa hỏi, và đồng thời thì Thầy sẽ kiểm tra lại những cái phần tu tập của của các con thêm, để cho các con ngồi thiền cho vững, và hướng tâm cho chắc, sống độc cư cho trọn để thực hiện được sự tu tập giải thoát.
Còn cái phần Thầy đi du phương, thì tức là đi tìm nơi để cho những người tại địa phương đó họ có chỗ nơi họ tu tập, đừng tập trung về nơi này nữa mà chúng ta tu cũng không được mà họ tu cũng không được.
Là vì họ tập trung về đây giấy tờ thì phiền phức, giáo hội thì không để yên, nó có nhiều cái khó khăn, cho nên Thầy muốn giải tỏa bằng cách là đi từ cái địa phương này đến địa phương khác để hướng dẫn cho họ có cái địa điểm tu cho tốt, để từ đó họ ở đó mà tu. Thỉnh thoảng Thầy về thăm rồi hướng dẫn họ là tốt hơn hết, chứ đừng đi tới đi lui mà làm động.
Thí dụ như ở đây khoảng bốn người, nhưng mà bốn người tu trong cái môi trường này mà nỗ lực tu tập và sống không có bị thay đổi, nghĩa là không có người thêm người vào, thì nó không bị làm động tâm, làm cho bốn người này ngày ngày nỗ lực sống trầm lặng thì họ sẽ đạt được kết quả.
(5:25) Còn trái lại thì bữa nay sống bốn người, ngày mai thì năm người, ngày mốt thì mười người thì do cái sự tăng thêm hay là giảm xuống, rồi từng đó cái tâm họ cũng sẽ dao động trước cái hoàn cảnh của những người tới lui. Mà những người tới lui cũng tu không đến đâu, mà những người ở lại đây tu cũng không đến đâu vì phải có những sự xáo trộn đó.
Cho nên, thí dụ như ở đây năm người là năm người, quyết sống chết độc cư trong năm người này, thì công việc của họ làm hàng ngày họ đều có cái sự làm quen đi, nó không có cái sự mà chưa quen. Và người mới vào thì làm cho họ động, còn những người đã quen đi, họ cứ ai công việc nấy, cho nên từ đó họ sẽ sống độc cư được trọn vẹn.
Cho nên không thêm và cũng không bớt, do như vậy mà chúng ta tu tập càng ngày càng tiến tới tốt, mà trái lại có thêm là có động. Cho nên chúng ta phải tìm mọi cách, làm sao mà sống cho đúng cái hạnh độc cư, ngăn chặn được những cái điều mà các duyên bên ngoài sẽ đập phá vào chúng ta.
Các duyên bên ngoài sẽ đập phá vào chúng ta như thế nào? Bữa nay có khách, mai có khách, bữa kia có khách.
Cho nên Thầy nghĩ rằng các con cũng phải nên, có thể nói, như cô Út đã đề nghị với Thầy là nên cho các con một số người lui ra sau mà chuyên tu, để cho thực hiện được ở trong một vài tháng hay là trong một năm nữa cho nó xong. Sống trọn vẹn độc cư thì trong một năm, nửa năm thì các con sẽ hoàn tất được, đừng có để động.
Còn ở phía trước coi vậy chớ rất động, từ ngày mà các con ra trước, các con sẽ bị động nhiều, và vì các con chưa biết cho nên khi mà ra sau thì bị cô đơn, bị sống độc cư, cho nên các con cũng hay nói chuyện làm mất độc cư trọn vẹn cho các con.
Cho nên cô Út thấy cái điều mất độc cư đó, mà dời cho các con ra đằng trước, để rồi chuẩn bị cho các con phải những người như thế nào để đưa ra khu sau, để mà thực hiện độc cư cho được.
Mặc dù chúng ta thực hiện độc cư nó có nhiều cách chớ không phải là trong một cách, không phải chúng ta tự giam mình ở trong một cái thất sống một mình gọi là độc cư. Nhiều khi sống một mình trong thất mà chưa hẳn độc cư. Độc cư mà tâm niệm nghĩ cái này, nghĩ cái kia cũng chưa phải là độc cư.
Mà nhiều khi chúng ta sống chung nhau ba bốn người, năm sáu người từng đã quen biết nhau mà không nói chuyện với nhau, thì từng làm chung nhau, mà không khởi một ý niệm nào hết, luôn luôn sống trong pháp để mà tu tập, thì chính đó mới là thật độc cư, cách thức đó mới có thể đi đến nơi đến chốn. Còn nếu mà tu không đúng thì chúng ta tu mãi mà không có đến nơi đến chốn được.
Đến đây thì Thầy sẽ kiểm tra lại, cho các con ngồi lại chừng khoảng độ, bây giờ là bốn giờ mấy rồi, trễ không các con? Thôi Thầy kiểm tra chừng khoảng mười lăm phút thôi.
(08:35) Hôm nay Thầy bắt đầu Thầy kiểm tra lại cách thức mấy con ngồi coi thử coi nó ra sao. Kế đó thì Thầy sẽ trả lời những cái câu hỏi của các con.
Giờ thì cô An Tịnh, con đã sắp xếp cách thức tu tập từ cái pháp quán câu hữu với Định Niệm Hơi Thở cho đến cái Định Chánh Niệm Tỉnh Giác. Thầy thấy sắp xếp như vầy rất là ổn, nhưng mà còn tùy theo cái khả năng của con, tức là cái đặc tướng của mỗi cái cơ thể của con người.
Nếu mà suốt ở trong một ngày một đêm 24 tiếng đồng hồ, mà sắp xếp như thế này, buổi sáng tu khoảng ba tiếng, buổi trưa tu ba tiếng, buổi chiều tu ba tiếng, buổi tối tu ba tiếng, buổi khuya tu ba tiếng. Suốt cái thời gian mà như vậy thì rất tốt.
Nhưng nếu mà cái đặc tướng, cái khả năng của mình, nó không đi suốt được ba tiếng trong một buổi như vậy, thì con nên đi trong hai tiếng thôi. Mà nếu mà hai tiếng đồng hồ mà thấy cái sức khỏe của mình nó không có đủ sức để kham nhẫn thời gian tu tập, thì mình lui lại còn một giờ rưỡi hay hoặc là một giờ, rồi lần lượt tu liên tục trong những cái giờ tu mình phải đạt được chất lượng.
Một cái giờ tu là phải đạt được chất lượng. Còn cái giờ nghỉ thì các con nên nói rằng đừng có nghỉ mà rồi cũng tu ở trong đó thì nó không có tốt.
Nghỉ là xả, là trở về với trạng thái bình thường, cái trạng thái bình thường của mình, đừng có tu, đừng có luôn luôn cứ theo cái kiểu mà tri vọng, biết vọng liền buông, cứ hễ thấy vọng tưởng cái là lật đật nó buông ra, thì lúc mình nghỉ mình cũng mắc buông vọng tưởng thì tức là, khi nào nhớ là mình buông mà khi nào quên thì mình không buông, thì cái đó nó không có đúng pháp.
Ở đây cái giờ tu, tức là cái giờ mình làm chủ cái sự sống chết, cái thân tâm của mình muốn điều khiển cái gì đó, thì cái giờ tu là cái giờ làm chủ. Mà cái giờ không tu, cái giờ xả nghỉ thì trả lại cái quyền tự do cho nó, nó muốn nghĩ ngợi nó làm cái gì đó nó làm.
Đừng có cứ luôn luôn lúc nào cũng tu, thì nó không hay, nói đi đứng, nằm ngồi đều tu, thì đó là cái ngôn ngữ chứ sự thật ra nó không phải tu như vậy. Mà vì nó đã quen đi, cái người xưa dạy cho người nay tu nó cứ, giờ hễ có nói tu thì luôn luôn trong bốn oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi đều có tu hết, tưởng như vậy là kết quả cao, thì không phải.
Để ý cái phần này bởi vì đây là một cái thói quen nó đã lâu đời, là khi đã không đi tu thì thôi, mà đã đi tu vào thì coi như giờ nào mình cũng không có vọng. Mà cái sức của mình thì tu nó không nổi như vậy, mà lại muốn làm chuyện như vậy. Cho nên tu mãi mà dậm chân tại chỗ là vậy đó, là vì cái sức nó làm chưa có được, mà nó làm hơn cái sức của mình.
Ở đây cái mục đích là chúng ta tu là cái giờ, thí dụ như bây giờ buổi sáng chúng ta lấy 30 phút chúng ta tu trong buổi sáng… Bao nhiêu cái thời gian đó chúng ta xả nghỉ, tâm chúng ta bình thường, để cho nó bình thường, để cho nó phải gò bó ép buộc, nó đừng có vọng tưởng như thế này thế khác, thì cái đó không đúng.
(12:07) Chúng ta tu 30 phút, 30 phút đó một buổi sáng chúng ta làm chủ rất là rõ ràng và cụ thể, không có một cái tạp niệm. Ở trong kinh điển của Phật “không thất niệm”, là trong cái giờ mà chúng ta tu nó không có thất niệm. Còn ngoài cái giờ mà chúng ta tu, thì chúng ta đâu phải là lúc nào chúng ta cũng giữ cái niệm đó.
Cho nên vì vậy mà ngoài cái giờ ra thì chúng ta, như Đức Phật đi kinh hành, rồi đi khất thực, rồi đến các vị tu sĩ ngoại đạo rồi nói chuyện thế này thế khác, thì như vậy rõ ràng là đâu có phải là lúc nào cũng tu đâu. Cho nên chúng ta cũng phải xét qua cái đời sống của Đức Phật, rồi xét qua cái sự tu tập của mình.
Cho nên, thí dụ như các con thấy, buổi sáng tu ba mươi phút, ba mươi phút hoàn toàn chất lượng rất cao. Xong ba mươi phút rồi các con làm, thì các con không có cần phải tu tu tu tu gì hết, làm như một người mà người ta chưa có từng tu, cứ làm.
Nhưng mà khi mà có một cái sự việc gì, nó làm cho các con phiền não trong lòng, nó làm cho các con có cái buồn, hay hoặc là có cái lòng nhớ nghĩ đến thương người thân của mình như thế này, thế khác, thì ngay đó các con dùng cái Định Vô Lậu mà quán xả cái tâm của chúng ta.
Còn nếu mà nó không buồn, không phiền não, không nhớ, không nghĩ, không gì hết, nó có nghĩ ngợi chuyện này, chuyện kia, mà không có làm mình thương nhớ nỗi khổ trong lòng của mình, thì thôi để nó bình thường cũng như một người sống bình thường, thì tốt hơn là cứ xả cái vọng tưởng, xả vọng tưởng đó làm gì!
Ở đây chừng nào mà chúng ta muốn nhập một cái định, mà từ một giờ cho đến một ngày, một đêm, cho đến bảy ngày, bảy đêm, thì chừng đó chúng ta phải có một cái lực nào đó, chúng ta mới có thể kéo dài cái thời gian nhập định.
Còn cái đời sống của chúng ta là cái đời sống hiện giờ như các con đang sống, đang nghe Thầy nói chuyện, thì các con đâu có nhiếp tâm ở trong pháp nào tu đâu? Đó thì các con cứ giữ cái tâm mà bình thường như vậy, không có lo mà diệt tâm, mà xả ngã gì ở trong cái lúc bình thường.
Nhưng mà trong cái lúc tu, cái giờ tu, thì phải tu cho thật tu. Nghĩa là đừng có để cho thất niệm, mà thất niệm thì không tốt.
Còn các con tu suốt ba tiếng đồng hồ trong một buổi, nó thất niệm tùm lum à, rồi ngày nào nó cũng bị thất niệm hết, mà không biết mình tu trúng ở chỗ nào, hay làm sao, mà lúc thì nó không vọng tưởng, lúc thì nó yên, lúc thì nó không yên, mà rốt cuộc rồi thì đụng sự việc gì đó thì các con lại không giữ được cái tâm của mình, thì nó cũng có phiền não.
Cái đó là cái các con tu nó nhiều, tu rất nhiều mà cái rất nhiều đó nó không có kết quả đâu. Cho nên nghe lời Thầy dạy thì các con tu cho nó tốt.
Thí dụ như cô Diệu Tịnh, cô sắp xếp lại cái thời khóa tu, thì từ cái pháp hướng cho đến cái trạch pháp đều là có thể câu hữu với các định rất rõ ràng và cụ thể. Qua cái bài học sắp xếp như thế này, Thầy thấy rất tốt.
(15:13) Nếu mà không sắp xếp như thế này thì coi như là mình không có biết mình tu cái gì. Mình sắp xếp như thế này thì mình biết: bảy giờ mình tu cái gì, rồi tám giờ mình tu cái gì, chín giờ mình tu cái gì.
Còn trong khi đó mà mình thấy sức mình yếu, mình thấy cái khả năng của mình kham nhẫn một thời gian dài ba tiếng đồng hồ liên tục mà nó bị thất niệm, thì do đó mình không nên tu nhiều như vậy.
Mà mình cũng chấp trước cái thời khóa y như vầy, mà trong ba mươi phút mình chia làm ba thời gian tu của ba loại định, tu Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, rồi tu Định Niệm hơi Thở, rồi Định Vô Lậu, chia ra mà chỉ trong ba mươi phút, thì như vậy là rõ ràng là trong ba mươi phút mình chia làm ba cái loại định, thì cố gắng mà trong ba mươi phút này tu ba cái định đó hoàn toàn không thất niệm, thì cái đó là cái tốt nhất.
(16:05) Cô Diệu Tịnh hỏi Thầy, khi mà tu cái Định Vô Lậu, thì nếu mà nó có cái đối tượng gì làm cho tâm mình nó phiền não hay hoặc là tâm mình nó nhớ, nó nghĩ cái gì đó thì mình tu, còn không có thì mình không có nên tu, mà tu như vậy có được không?
Thì cô hỏi thầy.
“Kính thưa Thầy! Còn về Định vô Lậu, chỉ khi có đối tượng con đặt niệm trước mặt ngồi kiết già quán xét để xả tâm, có được không thưa Thầy?
Đó là, về cái phần Định Vô Lậu, thì trong khi mà các con ngồi chơi, bây giờ thì không phải là ngồi mà quán suy tư nữa, bởi vì tất cả những cái lý của đạo mình đã hiểu rồi, biết cái thân này vô thường, bất tịnh, biết hết rồi, không có người nào mà không biết. Biết thân - thọ - tâm - pháp là khổ, là vô thường, là khổ, là không, là vô ngã, biết rồi, biết hết rồi, không có gì mà không biết.
Cho nên bây giờ, chúng ta không cần phải ngồi lại mà tư duy để mà quán xét cái đó nữa. Mà chúng ta tu, thì câu hữu cái Định Vô Lậu với cái Định Niệm Hơi Thở, để nhắc nó ly tham hay hoặc là ly sân hay hoặc là ly si, thì nhắc nó, nhắc tức là dùng cái pháp hướng.
Còn khi nào mà có đối tượng nó làm cho chúng ta phiền não, nó làm cho chúng ta có giận hờn, có nhớ thương, có đau khổ, thì lúc bấy giờ chúng ta mới đặt cái niệm, cái đối tượng đó trước mặt chúng ta rồi chúng ta tư duy quán xét, thì nhìn nó qua một góc độ nhân quả.
Hoặc là đối với trong thân của mình, mình nhìn qua cái vô thường của nó, đối với cái tâm của mình thì nhìn qua cái vô thường, đối với cái thọ nhìn qua cái khổ, do vì vậy mà chúng ta xả nó đi, không có còn dính mắc nữa.
Cho nên có thì chúng ta mới tu Định Vô Lậu mới quán xét, mà không có thì thôi. Cũng như bây giờ cái tâm chúng ta, bữa nay cô Út nấu phở hay là mì, hay hoặc là hủ tiếu, hay là bún riêu, mà nó sanh tâm thèm muốn ăn, thì như vậy, hay hoặc là lâu nay thì cô Út không có đâm muối vừng, đậu phộng với mè, để mà mình thấy nó cũng thèm.
Thì do đó, những cái tâm ý mình khởi lên nó thèm muốn ăn những cái như vậy đó, thì chúng ta phải dùng cái Định Vô Lậu mà quán bất tịnh các thực phẩm để đuổi nó ra, để đừng cho cái tâm mình nó còn tham đắm, đừng có thèm ăn những cái thứ đó, thì do đó nó sẽ trở về cái trạng thái tự nhiên mà nó không có…
Và trong cái vấn đề tu tập phải quán xét cho kỹ, về Định Vô Lậu thì khi có cái đối tượng, tức là có một cái sự việc, có một cái pháp nó làm cho tâm chúng ta khởi lên tham, sân, si nó phiền não, nó thương nhớ gì đó, thì chúng ta mới đặt cái niệm đó mà suy tư để xả nó cho được.
Còn bình thường tâm chúng ta không có thì dùng cái pháp hướng: “Quán ly tham hít vô tôi hít vô, quán ly tham tôi thở ra, tôi thở ra”. Thì như vậy mình nhắc nhở để mình nương cái hơi thở mà mình xả cái lòng tham của mình.
Bây giờ cái tâm tham của mình nó chưa có, mà khi nó thấy, nó nhớ cái món ăn đó mà nó thèm, tức là tâm tham nó có, thì bắt đầu bây giờ mới dùng cái Định Vô Lậu mà quán. Còn không thì cái Định Vô Lậu không có ngồi quán, quán không không, tâm mình không có gì hết mà quán, thì cái đó không có đối tượng, nó sai, nó không có đúng.
(19:37) Cho nên trong những cái thì giờ mà tu tập, các con thường xuyên câu hữu. Nhất là cô chọn lấy Tứ Chánh Cần để mà tu tập thì Thầy xin nhắc lại để các con rõ. Pháp Phật nó đặc biệt nó lạ lắm, nó có nhiều cái nó rất hay.
Khi mà tu Chánh Cần tức là ngăn ác, diệt ác, mà giữ thiện, tự nhiên cái thiện nó có ở trong tâm của mình, chớ mình không có giữ thiện, mà ngăn ác, dứt ác, làm cho những các pháp ác không có xâm chiếm được thân và tâm của mình, cho nên đó là cái pháp ngăn ác mà diệt ác.
Còn cái pháp mà sanh khởi thiện và tăng trưởng thiện, đó là cái pháp Tứ Vô Lượng Tâm. Ai nương vào pháp Tứ Vô Lượng Tâm thì nên tu tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả bốn cái tâm này, rồi cũng câu hữu với các Định, Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, Định Niệm Hơi Thở, Định Vô Lậu, ba cái định đó, để mà phối hợp tu cái tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả.
Thì nó, khi mà sanh khởi và tăng trưởng thiện pháp thì ác pháp nó cũng không có chen vô được. Mình không ngăn chặn nó nhưng mà ác pháp nó không chen vô được, nó luôn luôn mình cố gắng mình tăng trưởng cái lòng Từ, Bi, Hỉ, Xả của mình lên, thì tất cả các pháp ác qua suy tư nó cũng đều mất hết.
(20:56) Còn về cái phần tu Tứ Chánh Cần, thì ngăn chặn và đoạn dứt các pháp ác, chớ không có đụng chạm gì đến các pháp thiện hết. Nhưng mà các pháp thiện thì tự nó, nó đã hiện tiền ở trong cái trạng thái tâm xả của mình.
Cho nên bên kia thì không có dứt ác, không có diệt ác mà luôn luôn tăng trưởng thiện pháp, thì trái lại nó cũng được giải thoát. Còn bên đây thì ngăn ác, diệt ác mà không cần phải lo lắng trong cái phương pháp mà giữ cái thiện pháp, tăng trưởng thiện pháp. Như ở trong Tứ Chánh Cần đã bảo là ngăn ác diệt ác là thiện pháp nó đã có.
Mà muốn tăng trưởng nó thì tức là chỉ sống trong cái trạng thái mà không tham, không sân, không si, thì đó là cái trạng thái tăng trưởng của nó. Cho nên ở bên đó nói, để tăng trưởng thì sự thật ra thì nó không tăng trưởng.
Còn ở bên Tứ Vô Lượng Tâm, thật sự ra là tăng trưởng thiện pháp, là vì mình đi mình chú ý để mà mình khỏi tránh đạp những côn trùng hay là dế, kiến ở dưới chân của mình, tức là tăng cái tâm từ. Do cái tâm từ đó nó làm cho sức tập trung của mình, Chánh Niệm Tỉnh Giác rất là cao.
Đó thì, mỗi đứa đều thấy mình hợp với cái pháp nào thì nên chọn cái pháp nấy mà tu tập.
(22:05) Còn nếu mà thấy hai pháp này nó không hợp với mình, thì mình tu cái Thánh phòng hộ sáu căn. Tức là không có cho mắt nó dính với các sắc, thí dụ như con mắt nhìn thấy một cái vật gì đó, thì không cho con mắt mình nó bị dính cái sắc đó, gọi là phòng hộ mắt.
Tai cũng vậy, nghe âm thanh mà không có để cho cái âm thanh đó nó dính vào trong lỗ tai, nó khởi ra ham nghe nữa, thích nghe nữa, hay hoặc là cái âm thanh đó nó làm cho mình khả hỷ, khả ái, khả lạc, nó làm cho mình thích thú đắm mê trong cái âm thanh đó.
Cho nên do đó mình giữ tâm không dính mắc. Thì trên cái sắc, thanh, hương, vị, cái vị cũng vậy, nó không cho dính với cái thiệt căn của mình, do mình giữ gìn mắt tai mũi, miệng, thân, ý, thì mình không cho dính mắc với sắc thanh, hương, vị, xúc, pháp.
Do cái chỗ mà phòng hộ sáu căn đó thì nó cũng đưa chúng ta đi đến chỗ cứu cánh giải thoát. Vì mình phòng hộ cho nên mình không sanh ác pháp, không bị dính mắc, cho nên tâm không sanh ác pháp, và luôn luôn lúc nào cũng ở trong thiện. Còn mình không phòng hộ nó, thì tức là tâm mình phóng dật, chạy theo mọi vật nó mới sanh ra ác pháp, nó mới có tham, sân, si.
Cho nên tu Ngũ Căn, tức là tu về pháp Ngũ Căn, tức là giữ cho năm căn của mình đừng có tiếp xúc với, có tiếp xúc với năm trần, nhưng mà nó không bị dính mắc các trần. Đó là người lấy năm căn mà tu làm cho năm cái căn này nó trở thành thiện pháp, nó không có ác pháp trong đó nữa, do đó gọi là Thánh phòng hộ sáu căn.
(23:49) Cho nên ai có duyên thì tu những cái pháp đó. Còn cái Thất Giác Chi thì phải ly dục, ly ác pháp rồi, nhập Sơ Thiền rồi, thì chừng đó nó mới thể hiện được cái Trạch Pháp Giác Chi, Hỷ Giác Chi, Khinh An Giác Chi, Tinh Tấn Giác Chi, Niệm Giác Chi, Định Giác Chi và Xả Giác Chi.
Thì lúc bây giờ đó thì, mình mới có tu Giác Chi, mà bây giờ nó chưa có nhưng mà khỏi cần tu nữa, vì đã có như vậy thì cái lực nó đã có rồi, do đó mình tiến tới mình tu Tứ Thánh Định, Tam Minh, Tứ Như Ý Túc chớ khỏi cần phải tu Thất Giác Chi.
Nhưng vì có Thất Giác Chi mình mới biết được trạng thái đó là cái trạng thái của Bồ Đề, cái trạng thái giải thoát, cho nên mình tiến tới ở trong trạng thái đó mình tiến tới.
Thí dụ như bây giờ nó Hỷ Giác Chi, thì ngay đó mình thấy phải giữ được cái niệm Hỷ Giác Chi này thì cái Khinh An Giác Chi này nó phải có, vì cái lạc, cái hỷ thì nó phải tiếp theo đó. Và nếu mà cái lạc hỷ mà nó có, thì cái Tinh Tấn Giác Chi nó xuất hiện, mình lúc nào mình muốn tu, lúc nào nó cũng siêng năng, tu cái gì nó cũng siêng năng hết, nó không có còn lười biếng cho nên gọi là Tinh Tấn Giác Chi.
Rồi cái Niệm Giác Chi nó cũng xuất hiện những cái niệm nó rất là cụ thể và rõ ràng, nó không có còn lúc mất lúc còn, luôn luôn lúc nào nó cũng hiện tiền cái niệm, nó không có làm thất niệm. Cho nên cái niệm đó là niệm Bồ Đề, Niệm Giác Chi.
Thí dụ như bây giờ mình bảo cái tâm quay vô, không nghe ngóng ra ngoài nữa, luôn luôn biết hơi thở ra vô hay hoặc đừng vọng tưởng, thì lúc bấy giờ tâm nó quay vô, luôn luôn lúc nào nó cũng như vậy, cho nên nó gọi là Niệm Giác Chi, nó không bị thất niệm. Cho nên cái đó gọi là Niệm Giác Chi.
Tiếp tục cái tâm trạng mình lúc bấy giờ như vậy, thì chúng ta tiến tới cái thiền định rất dễ. Nhưng dù sao đi nữa nói thì cũng không bằng là chúng ta phải tu đúng cái căn cơ và mỗi hoàn cảnh của các con, ai cũng đều có những cái hoàn cảnh riêng tư.
(25:44) Khi mà về đây, cái trụ xứ ở đây, thì các con là người tạm trú, tạm vắng, cho nên nó đòi hỏi cải giấy tờ đi tới đi lui, nhiều khi những cái vấn đề này nó rất động tâm, nó làm cho tâm chúng ta bị động, tu tập rất khó.
Cho nên Thầy thiết nghĩ rằng, chỗ nào mà yên ổn khỏi cần xin phép tắc, thí dụ như các con thấy, một vị tu sĩ ở trong miền Nam này đi ra Miền Bắc, ở tu trong cái động Hương Đài, mà rồi người ta cũng không hỏi giấy tờ gì cả hết, nghĩa là mới đầu thì người ta còn hỏi này kia sau đó thì người ta không hỏi. Nhưng mà mình tập trung trong Tu viện như thế này, thì nó không yên ổn đâu, nó phải giấy tờ rồi trình tới trình lui đủ thứ.
Còn chúng ta, thí dụ như bây giờ một đứa nào ở trong đây mấy con, mà đứa nào đi đến chỗ nào đó ở, bắt đầu chúng ta trình nó một lần, sau đó chúng ta ở nó không nói gì hết. Nhưng mà cuối cùng nếu mà chúng ta tập trung mười người, hai mươi người, ba mươi người mà làm cái kiểu như là cất cái chùa hay gì đó thì coi chừng, nó rất là nguy hiểm!
Và đồng thời Thầy xin nhắc thêm một lần nữa, trong cái giai đoạn của chúng ta nó có nhiều cái khó khăn. Vì Giáo hội hiện giờ, thì càng ngày nó càng biết tới, nó rất khó. Khi mà chúng ta xuất gia trở thành một tu sĩ, thì giấy tờ phải hợp lệ. Nghĩa là đi ra, người ta thấy cái đầu mình cạo, mặc chiếc áo tu sĩ, rồi người ta hỏi giấy tờ coi mình tu giả hay là tu thiệt, mình tu thiệt thì họ cho mình giấy tờ.
Nhưng mà thật sự ra thì các con cũng biết là, dù có giấy tờ gì đi nữa thì cái người tu giả vẫn là tu giả, mà cái người không giấy tờ mà quyết tâm tu thì người đó vẫn là tu thiệt, chớ không phải là cái người đó đủ giấy tờ mà tu thiệt đâu.
Họ chỉ có giấy tờ vậy để cho chứng tỏ họ là người tu sĩ, chớ trong khi đó họ không phải tu nữa, mà họ tu danh, tu lợi. (27:32) Cho nên ở đời, dù là có cái pháp lý chắc chắn, họ có đủ giấy tờ là một tu sĩ, nhưng mà sự tu hành của họ không phải tu.
Cho nên chúng ta hôm nay chúng ta thấy rằng, cái người cư sĩ với chiếc áo cư sĩ tụi con mà quyết tâm tu, cũng đạt được sự giải thoát như thường, chỉ vì chúng ta sống đúng giới hạnh.
Còn chúng ta mặc chiếc áo nhà tu, rất khó! Mỗi một vị tu sĩ chúng ta phải đóng một cái … của hàng năm, rồi mỗi lần mà cái nơi mà chúng ta ở, coi như là một cái thất, tịnh thất gì, tên gì đó, Giáo hội sẽ cho chúng ta một cái tên.
Mới vào thì khuyến dụ chúng ta ghê gớm lắm, chúng ta vào đi để rồi nó có giấy tờ này kia, có chuyện gì thì chúng tôi, Giáo hội sẽ bảo đảm cho mình, nhưng mà khi vào rồi thì đã là hàng năm thì mình phải có một cái tiền …
Đây Thầy nói hết những cái đau khổ nhất của một người tu sĩ đã đi tu rồi đâu có làm gì ra tiền, mà thế mà phải tiền… Nghĩa là hàng năm phải có một cái tiền thuế đó, như là thuế thân của các vị đó.
Rồi kế đó thì người ta làm việc từ thiện ở đâu không biết, người ta muốn làm gì người ta làm, nhưng người ta đến người ta gọi mình phải đóng góp, là mình ở trong bàn tay của Giáo hội thì dù ít, dù nhiều mình cũng phải có đóng góp chớ không có đóng góp không được. Nhiều khi ít quá người ta cũng nói, chớ không phải đơn giản.
Cho nên ví dụ như mình cất một cái nhà mình gọi là tịnh thất này, tịnh thất kia, cái danh từ tịnh thất mà không biết chừng mình tu có được hay không nữa chớ đừng nói.
Cho nên nó rất là khó khăn, khi mà chúng ta cạo cái đầu rất là khó khăn chớ không phải dễ! Do đó chúng ta phải tốn hao một số tiền trong khi chúng ta đâu có làm gì có tiền, vì vậy mà chúng ta phải… cái số tiền đó.
Thí dụ như ở trong Tu viện của Thầy, thì người ta tính mỗi thầy là nộp bao nhiêu tiền, mỗi người vậy đó, là một trăm hay hoặc là năm chục, người ta tính ra bao nhiêu người thì người ra cộng số tiền đó. Rồi người ta tính những cái người tịnh nhân ở trong này là bao nhiêu người, tức là như các con gọi là tịnh nhân đó, bao nhiêu người.
Rồi người ta tính mỗi Phật tử mà đi đến đây, thí dụ như ở ngoài Hà Nội người ta đến đây, những Phật tử đến đây, người ta thấy cái chùa này Phật tử đông đảo như vậy thì người ta ước lượng là cải số đó cũng phải khoảng một ngàn người hoặc là năm trăm người, thì Giáo hội nó định như vậy. Do đó nó định như vậy là mỗi Phật tử vầy là bao nhiêu tiền, mỗi người Phật tử là bao nhiêu.
Thì trong khi đó Giáo hội người ta tính rất kỹ, cho nên người ta phải có số tiền rất lớn để người ta chi phối về cái ăn, về cái sinh hoạt đủ thứ đủ mặt của họ.
Cho nên Thầy nghĩ rằng các con mà trở thành tu sĩ cũng là cái điều rất là ngặt nghèo. Khi chúng ta chấp nhận một đời sống vô gia đình, không nhà cửa, không làm ra tiền bạc, thế mà chúng ta phải đóng một số tiền! Mà nếu không đóng thì chúng làm khó dễ lắm đó, chớ không phải dễ đâu.
Thầy nói để rồi các con có trực tiếp đứa nào mà có rành những cái Giáo hội, những cái nơi mà nó đã thành lập hoàn toàn rồi đó, thì lần lượt mà nó xin phép mấy con vào rồi thì mấy con mới thấy được cái chỗ vấn đề đó.
Thí dụ như các con ở đây thì họ tính bao nhiêu tiền thì Thầy lo hết. Nhưng mà các con cất một cái thất ra riêng rồi, mà được Giáo hội chấp nhận rồi thì tức là các con cũng phải đóng tiền này nọ kia đủ thứ. Mới đầu người ta dụ mình vô, sau đó mình vô rồi thì bắt đầu người ta tiếp tục người ta cứ tiền này, tiền nọ, tiền kia đủ thứ hết.
(31:13) Thí dụ như bây giờ, Giáo hội làm một cái việc gì đó, ngày nay là ngày thương binh liệt sĩ, thì nhà nước kêu gọi bây giờ Giáo hội phải đóng góp để làm cái lễ cho cái ngày thương binh liệt sĩ, thì quý thầy phải đến các cái thất xem những tu sĩ mà đã thành một thành viên ở trong Giáo hội rồi thì phải đóng góp, đứa nào cũng khỏi chạy đâu cho khỏi hết.
Thì nếu mà các con không có tiền thì các con sẽ về xin cha mẹ, anh, chị, em hay hoặc là Phật tử rồi mới có tiền mà đóng góp cho họ. Còn những nơi mà người ta giàu có, mà Phật tử đông, thì chuyện đó người ta không lo.
Nhưng mà Thầy thấy rất là, tức là thấy cái đời tu hành của chúng ta, nó đi vào riết rồi nó không còn cái ý nghĩa gì tu hành hết, mà là buộc lòng cái người tu sĩ phải lo cái cuộc sống hơn, chống chọi với cuộc sống hơn. Nếu mà chúng ta không có tiền bạc thì chúng ta không có ngồi yên tu, tới nay tính chuyện này, mai tính chuyện kia.
Cho nên ở đây hôm nay, chúng ta là những người đi tìm giải thoát chớ không phải đi tìm cái hình tướng của người tu sĩ. Vì vậy mà các con, nếu mà người nào còn muốn cầu cho mình có một cái giấy tờ để mà tu sĩ, thọ Tỳ Kheo này kia đó, cầu như vậy Thầy thấy rằng các con bị dính mắc nhiều lắm, bởi vì càng lúc người ta sẽ đến động các con rất lớn trên con đường tu tập.
Cho nên hiện giờ thì Thầy nghĩ, nếu mà nỗ lực tu để giải thoát thì các con chấp nhận và đồng thời mình sống như một cái người dân bình thường, bổn phận người công dân của mình, mà mình nghèo thì nhà nước còn xóa đói giảm nghèo, người ta không có đến mà thu mình cái này, cái kia, nọ, chứ không phải người ta thu mình đủ mọi mặt đâu. Còn hễ mà mình mà vào tôn giáo thì mấy ông tôn giáo không có tha mình chút nào hết.
Đó là những cái điều mà Thầy đã thấy trước, nó có những cái khó khăn. Với vả lại thì Thầy cũng không muốn mấy con khi mà cạo bỏ râu tóc rồi mà làm không đúng đức hạnh, để cho người khác chê cười Phật Pháp thì đó là một cái nỗi đau lòng.
Bởi vì tu sĩ khi mà vào một cái chùa rồi thì cứ lo sinh hoạt, còn làm ra tiền, trồng vườn, trồng tược này kia để sống như một cuộc đời người thế gian thì không còn nghĩa lý gì giải thoát hết, thậm chí như có người lập vườn cà phê rồi, trồng vườn chuối hay hoặc là vườn cây này kia.
Cho nên nhiều khi Thầy thấy mấy con, cô Út điều hành ở ngoài đó, thiệt ra thì trồng là trồng chớ mình cũng không phải mình làm như vậy để mà sống. Vì cô Út cổ sợ nhà nước nói mình ở không thế này, thế kia, thì trực tiếp với ngành công an … Họ cũng bày ra cái này kia để cho có cái hình thức làm.
Cho nên Thầy nói mình tu rồi, chẳng sợ người nào hết, tôi không ăn trộm ăn cướp ai, miễn là làm sao tôi có ngày một bữa cơm tôi sống mà thôi, tôi đi xin người ta là đủ.
Cho nên Thầy không có nghĩ, từ khi mà Thầy mở cái Tu viện này Thầy không có nghĩ rằng mình phải làm cái hình thức, bây giờ ở trong cái khu vườn của mình thì mình trồng cây cho nó mát vậy thôi chứ Thầy không nghĩ, trước kia Thầy cũng có đem ít cây tràm về trồng, sau đó rồi trồng điều, thì Thầy thấy điều nó cũng làm cho chúng động, trong cái mùa điều phải đi lặt hột này kia, rồi đi kiếm ăn từng đồng từng cắc, như vậy quá vất vả!
Cho nên Thầy thấy, Thầy cũng lần lượt mà Thầy trồng cây tràm vô chỗ đó hết, để cây tràm nó thay thế nó trở thành khu rừng chúng ta ở tu.
Chúng ta không phải đi tìm cái ăn, cái mặc cho nó sang, mà chúng ta đi tìm giải thoát. Cho nên dẹp bỏ hết, không phải chúng ta là những người lười biếng, nhưng mà chúng ta làm như vậy là không đúng cách.
Do như vậy đó, thì hôm nay các con thấy rằng, trên cái bước đường tu tập nó có nhiều cái khó, như bây giờ các con về, Thầy mới qua cái chuyến này đi thì Thầy về thầy thăm cái khu vực của cô Diệu Hảo, nơi đó để cho những người địa phương ở đó tu tập, một vài người ở địa phương khác về thì được, nhưng mà đông nữa thì không nên.
Vì những địa phương khác mà về mà xin phép tắc, thì nó làm cho Giáo hội lưu ý và nó làm cho chính quyền lưu ý. Còn cái người địa phương đó mà đến đó thì coi như là ở quanh ấp, xã đó thì người ta không có lưu ý đâu, thì nó rất dễ.
Như một hai người ở địa phương khác đến thì không sao, mà với chiếc áo cư sĩ, chứ với chiếc áo tu sĩ thì coi chừng những cái địa phương khác thì người ta cũng lưu ý đó.
(35:59) Cho nên vì vậy đó, thì Thầy thấy nó cũng bất tiện lắm, cho nên hôm nay Thầy bàn lại. Ở đây sẵn có cô Diệu Hảo, con cũng biết rằng… Cũng có nói với Thầy làm đơn xin, thì nó bẻ tới bẻ lui chớ nó không phải là nó dễ dàng lắm đâu.
Cũng phải như Thầy ở đây, nó bẻ tới bẻ lui nó nói cái này trật, cái kia trật, nó bắt mình phải sửa tới sửa lui, là cái mục đích nó muốn mình phải cho tiền nó đó.
Chứ còn Thầy ở đây làm một cái đơn, thì đến giao nó rồi, thì như hôm trước Thầy làm cái đơn xin đặt mấy cái tượng Phật, thì đưa ra rồi thì nó chứng nó không nói sai nói đúng gì hết. Rồi kế làm cái đơn xin kế đó, thì nó khó hơn, nó nói Thầy đặt cái tượng Phật mà không có cái vị trí, rồi rủi Thầy đặt ở ngoài ruộng, ở ngoài chỗ khác làm sao? Thành ra phải đặt ở chỗ nào phải có vị trí. Do đó nó bẻ Thầy chỗ đó, vì vậy thì Thầy lại sửa cái đơn đó thì đúng theo cái ý của nó thì nó chứng.
Lần sau mà xin về làm cái nhà này, thì quý thầy muốn làm bằng tầm vông, trúc tre nó không quan trọng gì đâu, nhưng mà sự thật các con nên hiểu rằng khi mà người ta làm khó mình bây giờ trúc tre người ta cũng làm khó mình nữa.
Thầy nhớ lúc đầu tiên mà thầy Như Hải, cô Chánh về đây đó, Thầy cất một loạt năm sáu bảy cái thất, cho đến khi mà cất khoảng mười cái thất chúng về ở, thì lúc bấy giờ đó mặt trận ở huyện nó vô nó làm khó, nó nói Thầy cất nhà để mà, cái kiểu này là kiểu đã chiến, kiểu này tập trung chống đối nhà nước! Nó kiếm chuyện đủ mọi cách hết.
Cho nên trong cái cuộc họp Thầy mới hỏi như thế này: “Một cái người tu sĩ cũng là một người công dân của một đất nước, thì người công dân có quyền cất cái chòi hay hoặc là cất cái nhà kho, nhà củi hay hoặc cất thậm chí như đến cái cầu tiêu nữa, cái bồn tắm đi nữa, thì cái người công dân người ta cũng có quyền làm điều đó.
Vậy thì bên tôn giáo tụi tôi cũng là một cái người công dân, thì trong khi chúng tôi phải có cái phép, như cất cái chùa thì chúng tôi đồng ý rồi, còn như người công dân thì cũng phải có cất cái nhà củi, nhà kho hoặc là cất cái phòng tắm, vệ sinh gì đó, thì tất cả những cái người công dân đều làm cái đó, đâu có xin phép?”
Thì cái ông, không biết chủ tịch Mặt trận nào đó ở huyện, ông nói: “Người mà tôn giáo làm cái gì cũng phải xin phép hết!” Nghĩa bây giờ nói chung là làm cái gì, cất cái gì cũng phải xin phép hết!
Thiệt ra thì Thầy nói: “Như vậy là chúng tôi là tôn giáo thì chúng tôi phải xin phép hết, còn cái người công dân làm cái gì cũng không xin phép. Vậy thì chúng tôi không làm tôn giáo thì chúng tôi có được không? Như bây giờ chúng tôi cởi bỏ chiếc áo này ra thì chúng tôi là con người rồi, người công dân chúng tôi không có gì hết, vậy thì chúng tôi cất cái gì được?”
Thì ông ta nói: “Vậy thì cất cái nhà không được thờ Phật!”, “Tôi nói tôi đâu có thờ! Tôi không thờ ông Phật nào hết. Nhưng mà tôi vẫn là một tu sĩ, tôi không thay đổi gì hết, hoàn toàn tôi không thay đổi gì hết, tôi chỉ bỏ chiếc áo chứ tôi không thờ ông Phật đâu, thì tôi cất cái gì tôi cũng được hết! Giờ đồng ý thì tôi bỏ cái đó đi, tôi cất cái gì cũng được hết!”
Thành ra Mặt trận thua Thầy là chỗ đó: “Thì nếu mà ông chấp nhận, về tôi đem mấy cái tượng tôi gởi chùa hết. Ở đây tôi cất nhà cửa bao nhiêu kệ tôi, ông đồng ý không? Đồng ý thì tôi cất hết, tôi cất năm sáu bảy chục cái nhà lên, bởi vì tui là người công dân mà, tui có quyền tui cất chứ!”. Thì trong cái buổi họp ông kẹt lý, ông không nói được, ông nói “tôi thua Thầy!”
Cho nên tất cả những cái này, đều là nhờ như vậy đó mà nó không quậy phá Thầy chớ không khéo nó phá dữ lắm, không phải dễ dâu. Các con yếu yếu là nó bị, cho nên Thầy rút tỉa trong kinh nghiệm Thầy nhắc nhở.
Hôm nay là Thầy muốn đi lại những cái địa điểm để tạo cái, nhìn lại cái chỗ, nơi mà các con có thể ở yên ổn tu không. Và đồng thời mình khéo léo vì mình biết Phật pháp rồi, cách thức tu mình cũng biết rồi, mình chỉ cần ở yên thôi. Đừng có để ba cái ông Giáo hội này ông quậy phá mình lắm chớ không phải không đâu, nay đòi tiền này, mai đòi tiền kia.
(40:17) Như cô Diệu Hảo, con không biết là có giấy tờ chưa chớ nếu mà con có giấy tờ rồi mà con xin cất chùa rồi thì con biết mấy ông Giáo hội ông đến hoài, ông thăm viếng hoài, nhà nước không thăm chớ còn mấy ổng thăm. Đó là cái khó chứ không phải dễ đâu.
Rồi tiền bạc mình không có, Phật tử thì cũng không có cung cấp, chỉ lấy cái chút ít vốn liếng mình nghĩ là kinh tế mình nuôi chúng, thì lúc bấy giờ nó là một cái gánh nặng, nặng lắm, vừa ở trong mà vừa ở ngoài.
Còn Thầy ở đây, tuy vậy chớ Thầy rất dễ, là vì các con hết gạo Thầy chỉ viết bứt thơ hoặc là Thầy gọi điện thoại xin Phật tử ở thành phố họ đem về cho. Hoặc là không có tiền Thầy xin: “Bây giờ có đóng góp như vầy, Giáo hội kêu đóng góp như vầy, xin Phật tử giúp đỡ cho!”, thì họ sẽ giúp đỡ liền. Nếu mà các con, coi chừng là các con khó lắm chớ không phải dễ đâu.
Cho nên đứng trước cái hiểm họa của cái người tu sĩ hiện giờ, chúng ta gánh vác ở trên vai, nó hai phía, một phía là nhà nước, một phía là Giáo hội, nó không có đơn giản. Bao nhiêu tiền bạc gì nó cũng lần lượt nó cũng rút tỉa hết chớ không có…
(41:28) Cái chuyến đi này, thì Thầy sẽ về thăm. Hôm nay thì Thầy kiểm tra lại cho các con ngồi, coi thử coi cách thức ngồi vững hay không, nếu mà không vững thì ở lại để mà Thầy kiểm tra, còn vững thì các con sẽ ở đâu, vị trí nào các con lần lượt… Xong rồi các con về tu tập, rồi thỉnh thoảng Thầy về Thầy thăm.
Rồi khi nào mà thấy những cái khó khăn thì về đây ở trong một tháng, hai tháng, nửa tháng để Thầy giúp đỡ cho, hướng dẫn, mà Thầy không có, thì Thầy sẽ đến trụ xứ mấy con trong một lát hai lát hướng dẫn rồi Thầy đi chỗ khác.
Đối với Thầy thì coi như là không có chỗ nào là cái chỗ mà trụ vĩnh viễn của mình. Bắt buộc đến chỗ này năm mười ngày rồi đến chỗ khác. Lúc nào Thầy đến thăm các con thì sau cái thời gian đó thì Thầy không có ở lại đó mà Thầy lại đi chỗ khác.
Do bên các con là bên nữ, cho nên với một vị Thầy không có được ở lại cái chỗ khu vực nữ, cho nên đến thăm các con thì trong một ngày đó thì Thầy sẽ di chuyển đến một cái nơi nào ở cho nó yên, nó đúng với cái giới luật của Phật. Rồi còn duyên thì Thầy đến hôm sau, mà không thì Thầy lại đi vào cái khu vực tổ chức để mà Thầy ở trong đó một vài ngày để mà thỉnh thoảng lại về với các con.
Rồi có khi mà Thầy về ở đây ở năm tháng hay ba tháng thì trong lúc đó đứa nào mà yếu, tu mà chưa vững thì về đây, gặp trực tiếp với Thầy để mà Thầy hướng dẫn tu tập cho nó vững, rồi nó vững rồi thì các con tự về trụ xứ của mình rồi nỗ lực tu tập.
Thầy thấy cái pháp nó không khó, chỉ có cái quyết tâm. Nó có cái khó mà Thầy lo ngại, là cái khó là vì các con mà đi vào cái trụ xứ các con thì không có người bảo vệ, nghĩa là không có cái người mà giữ gìn cho các con được sự độc cư đó, thành ra nó có những cái duyên mà đến làm cho các con mất độc cư.
(43:33) Thí dụ như người này tới, người kia lui, rồi nói chuyện này, chuyện kia… Chớ còn ở tại cái trụ xứ của Thầy thì nó dễ, là khi mà Thầy đưa ra sau mà không có cho tiếp khách nữa, thì dù thân nhân này kia cũng không cho đi ra đâu. Nhưng mà có cho thì mới đi chứ còn không cho thì không dám.
Cho nên khi mà tu hành nó có cái khó là cái chỗ mà các con về trụ xứ của mình là người thân nhân thì nó rất khó tu, không phải dễ. Họ là những người chưa biết đạo, cho nên họ đến họ nói chuyện tình cảm hoặc này kia thăm viếng đó, nó làm mình động lắm. Nó rất khó ở chỗ đó!
Còn trong các con đứa nào mà vững vàng, có cái khả năng rồi, thì Thầy cũng sẽ hướng dẫn cho đến cái vị trí nào đó, vừa tu thêm những cái bước đường mình chưa xong, mà cũng vừa hướng dẫn người khác tu. Nhưng đây là một cái điều rất khó, chỉ mình tu không thì dễ chớ mình vừa hướng dẫn mà vừa tu nó rất động, nó không có…
Như cô Út, cổ rất động đó, cho nên cô rất khó… Chớ không phải dễ. Cho nên những gì mà các con làm xong thì Thầy mới mừng, chớ mà bây giờ đưa ra mà đi làm đạo, hướng dẫn người khác, thì qua ba năm ở đây tu tập, Thầy tin rằng như, thí dụ như ở bên nữ, thì như các con, thì Thầy thấy tu thì nó cũng chưa đến đâu đâu.
Nhưng mà qua những cái hạnh tu thì Thầy thấy có đứa làm tốt lắm, có đứa có thể đi ra hướng dẫn, lấy gương hạnh mình, sống đúng giới hạnh, rồi cái gương hạnh của mình trầm lặng ít nói, tâm nó cũng giảm những cái sân phiền não, nó có cái ý tứ, nó có cái dè dặt cẩn thận trong mọi mặt, thì mấy đứa như vậy là rất là tốt.
Ở trong này thì có được những đứa rất là tốt, nhưng có đứa thì còn chưa có tốt, nhưng mà rồi sẽ tốt sau này hết. Nhưng mà hiện giờ thì con đang tu tập rất là nhiều.
Và đồng thời thì hiện bây giờ được cái hạnh như vậy, mà bây giờ đi ra mà làm đạo thì nó gây thêm cái uy tín tốt cho Tu viện chứ không sao. Nhưng mà có cái là chính bản thân cái người mà đi ra mà làm đạo, qua cái gương hạnh tốt của giới luật, của cái sự nhẫn nhục, tùy thuận như vậy, thì người ta quý mình, nhưng con đường tu của mình tới nữa thì nó bị đứng đó!
HẾT BĂNG