"Nếu mà không dạy giới hành thì các con như thiếu sót, không biết mình tu tập như thế nào, mà Thầy dạy toàn là giới luật không, không có cái pháp môn nào mà gọi là pháp môn tu. Cho nên Thầy triển khai cái giới hành để cho các con biết cái pháp nào mà thực hiện cho được giới luật nghiêm túc, thì cái pháp đó gọi là giới hành."
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Thời gian: 1998
(00:00) Hôm nay trước khi mấy con học giới hành. Giới hành tức là cái pháp môn tu tập cho giới luật của Phật nó được nghiêm túc, nó được thanh tịnh do đó mới gọi là giới hành.
Từ xưa tới giờ, hầu hết là người dạy giới thì người ta chỉ dạy giới bổn cho nên người ta không dạy giới hành, nên người ta không có biết cái pháp nào để mà hành, làm cho giới được thanh tịnh và người giữ giới đó được nghiêm túc mà không phải lấy giới mà ức chế.
Do vì vậy đó mà hôm nay Thầy bắt đầu để dạy giới hành, như năm rồi trong giáo án Thầy đã dạy, từ cái giới đức, giới hạnh, giới tuệ. Nhất là trong năm rồi Thầy dạy giới tuệ rất nhiều, giới đức tuy Thầy có dạy nhưng chưa được đầy đủ, giới hạnh cũng chưa được đầy đủ, chỉ có giới tuệ thì nói rất nhiều. Nhưng hôm nay thì Thầy lại dạy giới hành, trọn vẹn mùa hạ năm nay Thầy sẽ dạy giới hành.
Như trước kia thì Thầy cũng nghĩ rằng mình cũng không còn có đủ sức mà dạy giới hành nữa, cho nên trong cái mùa hạ năm nay thì Thầy nghĩ rằng Thầy không dạy nữa.
Nhưng cuối cùng thì Thầy thấy hầu như là, nếu mà không dạy giới hành thì các con như thiếu sót, không biết mình tu tập như thế nào, mà Thầy dạy toàn là giới luật không, không có cái pháp môn nào mà gọi là pháp môn tu. Cho nên Thầy triển khai cái giới hành để cho các con biết cái pháp nào mà thực hiện cho được giới luật nghiêm túc, thì cái pháp đó gọi là giới hành.
(1:46) Đó thì, hôm nay trước khi mà được nghe giới hành, thì Thầy đã có giảng sơ một vài lần cho các con nghe sơ về cái bắt đầu để mà thực hiện giới hành đó, như Tứ Chánh Cần chẳng hạn. Thì hầu như là có một số người thì nghe, rồi nó rối, nó không có biết rằng mình sẽ tu như thế nào. Hồi nào tới giờ mình tu như vậy, mà bây giờ nghe tới giới hành thì không biết là mình tu có đúng hay sai, cho nên rất là rối rắm ở trong cái đầu của mình.
Hỏi cô Út, do những cái sự hỏi cô Út cho nên cô Út có hỏi lại Thầy, cổ có đặt thành những câu hỏi cổ hỏi lại Thầy, và đồng thời thì cũng có những cái điều kiện là có người nói cổ dạy khác, không có giống Thầy, Thầy dạy khác, cô dạy khác. Cho nên do đó thì cổ hỏi cổ dạy như vậy, mà riêng Thầy dạy như vậy, có giống nhau, khác nhau chỗ nào, để Thầy chỉ cho cái chỗ khác nhau, giống nhau.
Đó thì hôm nay nhân dịp như vậy mà Thầy sẽ chỉ lại cho các con biết được cái giới hành và đồng thời cũng để chỉ cho biết cách thức cô Út cô dạy như thế nào, không dựa vào ở trong kinh sách mà dạy có đúng hay không?
Thì trước khi mà vào học giới hành, thì hiện giờ các con cũng như quý thầy chắp tay lên niệm hồng danh Đức Phật, bởi vì chúng ta đều là những đệ tử của Đức Phật, đều là đệ tử của đạo Phật, chúng ta chắp tay lên mà niệm Phật:
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!
(4:00) Bây giờ các con lắng nghe cho kỹ khi mà Thầy nói về giới hành. Thì như các con cũng đã biết rằng, các con đã học trong những giới luật của Phật, thì năm rồi Thầy có giảng về giới luật của Phật, nhưng nó không phải là giới hành. Nhất là cái Thập Thiện, và cái thập ác, Thầy đã có giảng cái phần Thập Thiện, thập ác rồi. Nói về giới thì nó là thiện pháp chớ không thể là ác pháp được. Nhưng mà chúng ta gồm lại để chúng ta thấy được Đức Phật đã nhắm vào cái thiện hay là cái ác. Vậy thì cái thiện là, cái nào thiện mà cái nào ác?
Nhiều khi chúng ta nghe cái chữ thiện thì chúng ta nghĩ rằng: cái gì mà mình làm có lợi ích cho người khác hoặc là mình làm cho người khác có lợi ích, hoặc là không đau khổ, hoặc là đem của cải tiền bạc giúp đỡ họ, hoặc là mua chim cá phóng sanh, hoặc là làm những cái việc như bố thí thuốc thang giúp họ bệnh tật gọi là thiện.
Thì nằm ở trong cái Thập Thiện và thập ác đó, thì chúng ta thấy Đức Phật không có nói trên cái vấn đề làm từ thiện giúp đỡ người, hoặc là giúp đỡ chúng sanh bằng cách phóng sanh, hay bố thí, cúng dường gì hết. Mà trong cái Thập Thiện, thập ác đó nó nhằm vào trong những cái giới luật mà chúng ta đã có học.
(5:33) Thí dụ như về giới, thì Đức Phật dạy không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, hay là không dâm dục, không vọng ngữ, không uống rượu, thí dụ như năm giới của người cư sĩ là như vậy.
Còn giới tỳ kheo thì chúng ta cũng biết rằng, về giới tỳ kheo thì nó có những giới gọi là giới đọa đó, thì về cái giới vọng ngữ thì chúng ta biết rồi, nhưng mà trong khẩu nghiệp của chúng ta nó còn ba cái điều về ác pháp nữa, thì ở trong cái giới tỳ kheo nó có những cái giới đó.
Do vì vậy mà những cái giới như nói phù phiếm, nói lời hung dữ, nói lời lật lọng, hay nói lưỡi hai chiều, đó là những cái mà nó là cái giới luật của Phật, nó nằm ở trong cái Thập Thiện. Còn ở trong Thập Thiện nó còn ba cái giới nữa là không tham, không sân, không si.
Như vậy là chúng ta thấy giới luật của Phật coi như là nằm trọn vẹn để mà khắc phục cái tâm tham, sân, si của chúng ta. Cho nên ở đây chúng ta thấy như thập ác và Thập Thiện, nếu chúng ta còn tham còn sân còn si thì chúng ta là ác, mà không tham không sân không si là thiện. Như vậy thì nó cũng đều nằm trọn vẹn trong các giới luật của Phật.
Vậy thì muốn thực hiện được nghiêm chỉnh các giới luật của Phật thì không có tham. Nó tham, nó có nghĩa là, chúng ta đừng có nghĩ rằng mình ăn trộm ăn cắp, nó thuộc về cái giới trộm cắp thì khác rồi, mà đây là tham, tham nhiều khi thương nhớ thì nó cũng là tham, tham ái đó. Cái đó nó quan trọng lắm. bởi vì khi mà hiểu được những cái nghĩa đó, nó thuộc về ác pháp hết à.
(7:15) Mình ngồi đây mình nhớ những người thân của mình thì nó thuộc về tham ái, thương yêu, rồi mình lo lắng cho những người thân của mình thì mình thấy đâu có làm gì ai khổ đâu, mình lo để mình giúp đỡ cho họ mà!
Hay hoặc là ngồi đây mình lo cái chuyện bây giờ có một trận bão nó làm cho bao nhiêu người ở cái tỉnh đó bị màn trời chiếu đất, bị khổ đi. Rồi bà con đóng góp nhau để đến cứu trợ họ, rõ ràng là cái thiện chớ gì, nhưng mà cái lo mà thương người khác như vậy, mà trong lúc chúng ta đang tu như vậy đó thì trong Thập Thiện gọi là thập ác, gọi là ác, tham ái.
Ái là yêu thương, mà tham ái tức là lo lắng để cho thực hiện cái lòng yêu thương đó, thì nó không có đúng ở trong cái Thập Thiện, cho nên chữ tham, sân, si nó rộng lắm, nó rộng cái nghĩa vô cùng mà mình thì nhầm ở trong cái ác pháp.
(8:12) Còn nếu mà mình thực hiện Tứ Vô Lượng Tâm, từ bi đó, thì tâm từ bi để nó đối trị với sân, đối trị với hại tâm của mình, với những cái tâm oán hận của mình, cho nên tâm từ tâm bi nó chỉ là đối trị cái tâm sân của mình mà thôi, còn đâu có đối trị tâm tham.
Bởi vì tham đây có nghĩa là thương người khác, giúp đỡ người khác cho nên trong Tứ Vô Lượng Tâm thì nó không có đối trị được cái tâm tham, mà nó đối trị được cái tâm hận của mình, với tâm sân của mình, sân hận đó.
Cho nên từ thì nó đối với tâm sân, mà bi thì nó đối với tâm hận của mình. Đó. Thì cái Tứ Vô Lượng Tâm nó chỉ tu để mà phá đi hai cái tâm đó mà thôi, nhằm chỗ sân hận thôi, còn cái Thập Thiện và thập ác nó thực hiện được một cái tâm giải thoát chúng ta hoàn toàn ờ trong thiện pháp.
Cho nên ở đây chúng ta khi mà học vào giới hành rồi thì chúng ta phải nghiên cứu kĩ về cái phần Thập Thiện và thập ác. Bởi vì đạo Phật không có nói cái ác nó ở ngoài cái tầm của cái thập ác này, mà nói cái thiện nó cũng không nói ngoài cái tầm của Thập Thiện, nó có cái đường lối rất rõ ràng.
Cho nên hàng ngày chúng ta nghĩ rằng mình, tâm mình khởi nghĩ thương cha nhớ mẹ hay hoặc là thương con nhớ vợ, thì tất cả những cái này đều là tốt chớ đâu phải là xấu, đâu có ác đâu? Nhưng mà chính ở trong cái Thập Thiện, thì nó là không thiện rồi.
Mình còn nhớ thương tức là tham rồi, tham ái, tức là nó làm khổ cho mình chớ gì? Nó làm cho mình nhớ mong, nó làm cho mình thương, nó làm cho mình lo lắng, thì tức là ác pháp rồi. Chớ nó không có làm khổ ai, nó làm lợi lạc cho người khác chớ không làm phải làm khổ người khác.(9:53) Nhưng mà nó là ác pháp ở trong tâm, nó làm cho mình khổ đó.
Thì ai là những người có gia đình, ai là những người mà không có cha mẹ, mà không thương không nhớ cha mẹ đâu? Mà khi cái tâm chúng ta khởi lên cái niệm như vậy thì chúng ta biết nó là ác pháp.
Vậy thì chúng ta thấy là cái pháp, cái giới hành đó, khi Thầy muốn nói ở đây Thập Thiện và thập ác để chúng ta thấy được cái giới luật của Phật nó sẽ nằm trọn ở đâu, nó nằm trọn ở trong cái Thập Thiện. Mà cái ngược lại cái Thập Thiện thì nó là thập ác, mà thập ác thì nó phạm giới và nó phá giới.
(10:31) Cho nên ở đây chúng ta tu tập thì chúng ta phải hiểu biết được cái thiện và cái ác, chớ không khéo chúng ta nghĩ bây giờ mình mang tiền bạc mình cứu trợ người ta là thiện, đó là mình tu về Tứ Vô Lượng Tâm, tâm từ. Trước cái cảnh khổ của người khác mình tu cái tâm đó, mình tu tâm bi, mình tu cái tâm từ bi của mình, chớ không phải là tu Thập Thiện thập ác đâu.
Cho nên tâm từ nó chỉ đối trị cái tâm sân của mình, biết thương người để nó đối trị, tâm bi nó đối trị cái tâm hận thù của mình, chớ không thể nào mà nó đối trị cái tâm tham của mình, nó không diệt hết cái lòng tham của mình.
Mà cái gốc từ do cái tham mà nó sanh ra, mà từ cái chỗ vô minh nó mới sanh ra cái tâm tham của chúng ta, chúng ta không hiểu chúng ta mới chấp đắm cái đó là đúng, cái đó là sai, cái đó là thiện, cái đó là phải, cái này là như thế này thế khác. Cho nên là từ cái chỗ vô minh.
Vậy thì từ cái chỗ mà Thầy nói ra những cái đó để cho quý thầy biết rằng, hiểu rằng, cái đó là không đúng, cái đó là sai, cái đó là ác, cái đó không thiện, nó đem đến cho đời sống quý thầy khổ đau. (11:40) Thì do đó quý thầy tin, chỉ đặt niềm tin, và suy tư cái lời nói đó có đúng hay không? Rồi thấy đúng thì quý thầy tin tưởng rằng cái lời nói đúng.
Nhiều khi có những cái quý thầy chưa biết cái đó là khổ, nhưng mà Đức Phật đã giảng cho quý thầy biết cái đó là khổ, nhưng quý thầy không tin đâu, bởi vì cuộc đời của quý thầy nó có những cái lạc, nó cám dỗ quý thầy, nó làm cho quý thầy vô minh không hiểu cái đó là khổ. Cho nên quý thầy cứ đâm vào những khổ.
Cũng như, ví dụ như một đứa bé năm sáu tuổi, hay là ba bốn tuổi, nó đâu biết rằng lửa là nóng là phỏng là đau khổ. Cha mẹ thì dặn “Con đi chơi đừng có thọc tay ở trong bếp lửa, đừng có thọc tay ở trong cái ngọn đèn, nó sẽ phỏng tay con à!” Nhưng mà đứa bé nó đâu có biết, nó cứ thấy cái ngọn đèn thì nó, hay hoặc là thấy cái đống lửa là nó bò lại, thì nó lăn ở trên đống lửa, đến khi mà nóng rát thì nó la nó khóc, thì cha mẹ đến đỡ nó thì phỏng mình phỏng mẩy hết!
Thì người ở ngoài thế gian, và cái tâm vô minh của chúng ta cũng như đứa bé, đứa trẻ ba bốn tuổi chưa có biết đời là khổ. Cho nên Phật nói khổ nó không biết đâu, nó tưởng là vui lắm, cho nên nó cứ thọc tay vào đó, thì khi mà phỏng rồi thì nó mới biết rằng, nó mới biết đau khổ.
Đó là những cái mà Thầy nhắc lại để cho chúng ta biết rằng, cái cuộc đời chúng ta toàn là những cái khổ, thấy nó là hạnh phúc đó chớ không phải là hạnh phúc đâu! Nó đưa đi đến chúng ta từ kiếp này đến kiếp khác, trôi lăn ở trong lục đạo. Nó không phải hạnh phúc đâu.
(13:12) Cho nên chúng ta đắm đuối ở trong cái lạc của thế gian, cái vui của thế gian, cái hạnh phúc của thế gian, tưởng là nó là sung sướng, nó là lạ, nó là đem đến cái vui mừng cho mình, cái hạnh phúc cho mình. Nhưng mà thật sự nó là khổ. Cho nên trong khi đó, nhiều khi cái mà chúng ta nghĩ rằng thiện nó không thiện đâu, mà chính thập ác nó đã vạch rất rõ, Thập Thiện nó chỉ rất rõ.
Nhưng mà khi mà chúng ta học Thập Thiện mà không có người vạch cho chúng ta hiểu ra, thì chúng ta hiểu Thập Thiện một cách rất là cạn cợt. Thập ác thì chúng ta biết, bởi vì cái ác nó làm cho chúng ta khổ, chúng ta biết. Nhưng mà nói đến thiện thì chúng ta nghĩ tưởng rằng mình làm cái gì từ thiện bằng cách này cách khác là thiện.
Không phải! Đạo Phật không có dạy chúng ta điều đó đâu, nhưng mà dạy chúng ta trên cái góc độ là Từ Bi Hỷ Xả để chúng ta thực hiện cái tâm của chúng ta.
Thì trong cái tâm, cái độ, cái tâm độ, mà khi chúng ta chưa từ bi với mình, mà từ bi với người khác thì hỏi có đúng cái nghĩa của từ bi không?
Một khi mà chúng ta khởi một cái tâm nhớ lại cha mẹ mình, nhớ lại, khi mình là người đi tu quyết giải thoát rồi mà cái tâm mình còn luyến tiếc, lòng còn luyến thương cha mẹ của mình, biết rằng người sanh ra mình phải thương chớ làm sao không thương, nhưng mà khi mà đứng trên con đường Đạo Phật mà quyết tu rồi mà mình thấy nó là thiện pháp thì coi chừng nhầm nó là ác pháp.
Nó đang làm cho tâm mình ray rứt, nhớ thương cha mình, có phải khổ không? Hay thương mẹ mình có phải khổ không? Nếu mình không đoạn dứt ác pháp này thì thử hỏi mình làm sao mình giải thoát được tâm hồn của mình?
Cho nên nhiều khi chúng ta thấy thiện, đứng ở trong góc độ của nho giáo thì chúng ta thấy rất thiện, là vì mình ở xa mình nhớ cha nhớ mẹ, mình là đứa con hiếu. Nhưng đối với đạo Phật thì không có nghĩa hiếu đâu, đó là ác pháp.
Nó là kiết sử, ái kiết sử, nó trói buộc, nó làm cho chúng ta bứt ra không được, mà vì đôi mắt chúng ta vô minh không nhìn thấy cha mẹ của chúng ta, anh em ruột thịt của chúng ta là nhân quả vay nợ với nhau mới sanh chung (với) nhau ra một gia đình, để gặp gỡ nhau, để mà trả, thuận thì thương nhau mà nghịch thì chửi mắng rầy lộn nhau, hằng ngày xảy ra những chuyện đau khổ!
Chúng ta không thấy được cái nhân quả cho nên chúng ta nghĩ đó là cha mình, là mẹ mình, chớ sự thật ra cha mẹ mình là người nợ mình hay hoặc là mình là người nợ của cha mẹ mình.
Nhưng dù nợ hay là không nợ mà khi đã sanh mình ra rồi, có tay có mắt, có nên con người như thế này mà biết được Phật pháp thì cái ơn đó chúng ta không bao giờ quên, nỗ lực thực hiện, đừng để cái tình cảm, cái ái kiết sử, cái tham, tham ái mà nó trói buộc chúng ta để chúng ta không có ra khỏi sự ràng buộc, chúng ta không có thoát khỏi cái tâm đó thì ngàn đời chúng ta không bao giờ đạt được cái thiền định của đạo Phật.
(16:11) Đó, cho nên chúng ta ở đây, tại sao mà Thầy dạy kỹ cái này? Để chúng ta biết rằng chúng ta bắt đầu chúng ta phải thực hiện cái pháp nào, để mà giới luật chúng ta nghiêm chỉnh.
Nếu còn tham ái, giới luật chúng ta chưa nghiêm chỉnh đâu. Hễ còn thương cha mẹ thì còn thương cái này thương cái kia, chưa bao giờ hết. Từ cái mầm móng này nó sẽ nảy sinh ra bao nhiêu thứ tình thương, mà từ bao nhiêu thứ tình thương đó nó sẽ khởi ra bao nhiêu cái thứ tham khác.
Bởi vì tham ái thì nó sẽ tham ăn, tham uống, tham ngủ, nó tham tiền, tham bạc, tham danh, tham lợi, hễ còn tham ái thì còn tất cả tham! Mà đoạn dứt được cái tham ái thì tất cả những cái tham khác nó mới đoạn dứt được.
Chớ đừng nói bây giờ tôi không tham tiền tham bạc mà giờ tôi nhớ cha nhớ mẹ. Nhớ cha nhớ mẹ tức là lồng trong cái tham tiền, tham bạc, tham danh, tham lợi, tham mình hơn người chớ không có ai mà muốn thua ai.
Cho nên từ cái nhỏ đó mà chúng ta không thấy là ác pháp, nó sẽ đẻ ra muôn ngàn ác pháp khác. Cho nên tưởng là ác pháp là chúng ta chửi mắng người, chúng ta đánh người, chúng ta làm cho người đau khổ bằng cách này, không! Ác pháp của Phật là ngay lại chỗ tâm tham đó là chúng ta làm khổ chúng ta đó. Thương là khổ, ghét là khổ, thù hận là khổ.
Cho nên ở đây chúng ta đã biết được cái pháp thiện và pháp ác cho nó cụ thể rõ ràng. Nhiều khi chúng ta học Thập Thiện chúng ta học sơ sơ, người ta nói thiện này thiện kia đủ thứ, nhưng mà không ngờ rằng mỗi một cái tâm niệm của chúng ta ở trong này làm cho chúng ta ray rứt một cái tình thương của chúng ta, thì đó không phải là thiện đâu, nó là ác pháp.
(17:38) Mà chúng ta hiểu được vậy thì chúng ta mới biết được cái điều kiện mà Đức Phật đã dạy một người tu sĩ vào đạo Phật phải tu cái pháp nào đầu tiên, để mà thực hiện cái pháp đầu tiên đó, để mà giữ được cái giới hành đó, để làm cho thân thọ tâm pháp của chúng ta thanh tịnh, nó không phạm giới. Thân nè, tâm nè, cái thọ nè, và các pháp nó không bị phạm giới.
Vậy thì cái pháp đó gọi là Tứ Chánh Cần. Cái tên của nó, bốn cái chỗ, bốn cái nơi để mà chúng ta phải siêng năng, cần, cần ở đây là cần tu, phải không. Cần tu tức là siêng tu, hằng ngày phải cần tu cái đó, cho nên gọi là Tứ Chánh Cần. Nó cần tu chớ không phải là không cần! Mà người tu hành mà không cần tu cái này thì ngàn đời cũng chưa bao giờ mà vào thiền định được.
Chớ không phải là các thầy siêng năng ngồi thiền nhiếp hơi thở, ức chế tâm không vọng tưởng, ngày ngày giờ giờ nào cũng lo ngồi thiền hết gọi là cần, không phải đâu! Cái đó chưa phải cần đâu, cần đó không đúng đâu. Cần cái kiểu mà ức chế tâm đó làm cho khổ cái thân của mình thêm, chớ chưa phải là đạt được đạo giải thoát đâu.
Còn chữ “cần” của Đức Phật, trong các pháp Đức Phật dạy chỉ có Tứ Chánh Cần mới gọi là cần mà thôi, còn các pháp khác Đức Phật không có nói cần. Tứ Thánh Định Đức Phật cũng không nói cần, mà Tứ Niệm Xứ Đức Phật cũng không có nói cần, mà Tứ Diệu Đế Đức Phật cũng không có nói cần, mà Bát Chánh Đạo cũng không có nói cần.
Nhưng mà có cái Chánh Tinh Tấn thì nó nằm ở trong cái Chánh ở trong cái Tứ Chánh Cần. Bởi vì mình siêng năng thì tức là phải nằm ở trong Tứ Chánh Cần.
Cho nên khi mà gọi là tấn căn là cái sự siêng năng, từ ở chỗ pháp Tứ Chánh Cần đó nó mới sanh ra cái căn gốc siêng năng, là do cái chỗ cần. Nó có tạo thành một cái lực gọi là tấn lực, cái sự siêng năng của cái lực đó nó không có làm cho mình lười biếng nữa, thì nó cũng từ ở chỗ Tứ Chánh Cần đó mà ra.
Bởi vì Tứ Chánh Cần là bốn cái chỗ mà cần siêng năng hằng ngày, cần mẫn mà làm công việc, tu tập công việc này, trau dồi công việc này thì gọi là cần. Đó thì quý Thầy thấy cái chỗ cần của chúng ta tu tập, thì cái bước đầu và cái người tu như thế nào chúng ta đã hiểu được thiện pháp và ác pháp.
(19:55) Vậy thì Thầy muốn nhắc lại để cho các thầy thấy, từ lâu tới bây giờ, quý thầy chỉ nghe Tứ Chánh Cần, Thập Thiện, là quý thầy coi thường, quý thầy không quan trọng đâu, quý thầy nghe có Sơ Thiền Nhị Thiền Tam Thiền hay Tứ Niệm Xứ là quý thầy xem nó là quan trọng.
Nhưng mà quý thầy quên rằng Tứ Niệm Xứ không phải là pháp môn để chúng ta tu. Tứ Niệm Xứ không phải là pháp môn để chúng ta tu mà Tứ Niệm Xứ là Đức Phật chỉ cho chúng ta bốn chỗ để chúng ta thực hiện các pháp môn ở trên đó đó, để làm cho bốn cái chỗ đó thanh tịnh.
Thầy sắp sửa dạy cho các Thầy biết rằng Tứ Niệm Xứ, thường hồi nào tới bây giờ người ta triển khai Tứ Niệm Xứ là người ta thấy như có một cái pháp môn Tứ Niệm Xứ để mà chúng ta tu tập. Ở đây Thầy triển khai Tứ Niệm Xứ không phải là pháp môn để chúng ta tu tập, mà là bốn cái chỗ để chúng ta thực hiện các pháp môn làm cho bốn cái chỗ đó thanh tịnh.
Tâm của chúng ta bây giờ không thanh tịnh nè, tham, sân, si nè, thì bây giờ chúng ta phải ở trên cái tâm đó mà tu tập các pháp khác để cho cái tâm chúng ta không tham, sân, si.
Cũng như thân của chúng ta nè, bất tịnh nè, nó sanh dục nè, nó ham cái thứ này thứ kia nè, nó đòi hỏi ăn uống nè, nó chưa có thanh tịnh nè, cho nên nơi trên thân của chúng ta phải tu tập làm sao mà cho nó không ăn uống phi thời nè, thấy thực phẩm mà nó không thèm nè, thì như vậy là ngay trên thân mà chúng ta tu tập.
Trên thọ là nơi cái thọ của chúng ta nó đau, nó nhức, nó khổ, nó đòi hỏi những cái lạc nè, ăn ngon nè, nó đòi hỏi những cái êm ấm nè, nó thấy những cái gì nó thích thú cho cái thân nó thoải mái dễ chịu là nó đòi hỏi cái đó, thì cái thân chúng ta đang ô nhiễm.
Cho nên chúng ta phải tu tập ngay từ ở chỗ cái thọ của chúng ta, cái thân của chúng ta, cái tâm của chúng ta, để cho nó thanh tịnh, nó không bị ô nhiễm.
Đó thì như vậy chúng ta mới thấy được cái con đường của đạo Phật. Chớ không phải Tứ Niệm Xứ là cái pháp để chúng ta tu tập cái tâm của chúng ta ở ngoài cái pháp này, mà Tứ Niệm Xứ là ở trên thân của chúng ta nè, chớ không ở đâu hết, mà trên thân tâm của chúng ta để thực hiện cho nó hoàn toàn thanh tịnh.
Cho nên Tứ Niệm Xứ xác định là bốn cái chỗ để chúng ta thực hiện các pháp của Phật để cho nó thanh tịnh, chớ không phải Tứ Niệm Xứ là pháp môn tu.
Cho nên khi mà chúng ta tu tập Tứ Chánh Cần thì chúng ta phải ở đâu mà tu? Có phải ở trên Tứ Niệm Xứ mà tu không? Phải không. Bởi vì cần để mà tu tập cái thân của chúng ta thiện nè, cái tâm chúng ta thiện nè, cái thọ chúng ta thiện nè.
Cái thọ bây giờ nó thấy đồ ăn nè, nó thích, nó thích ăn ngon cái miệng nó nè, chỗ mà cảm xúc để mà ngon đó đó, thì cái đó là cái thọ. Nó là ác thọ, chớ không phải là khổ thọ, chớ không phải là cái thọ mà nó thanh tịnh đâu, nó tốt lành đâu. Cho nên ngay từ đó mà chúng ta khắc phục được cái thọ thích, thấy thực phẩm ngon không ăn, không thích, không thèm thì đó gọi là chúng ta ở trên cái thọ mà tu cái thọ.
Các pháp, thân chúng ta là một pháp, tâm chúng ta là một pháp nè, thọ là một pháp nè, các pháp xung quanh chúng ta nè: nhà cửa, tủ, bàn, ghế, giường, chõng, tất cả mọi vật, quần áo y áo của chúng ta mặc nè, đều là các pháp hết.
Mà mỗi pháp nào mà nó làm cho thân tâm chúng ta đắm chìm ở trên pháp đó, là ngay ngay trên pháp đó chúng ta phải xả ly, chúng ta phải tu tập cái pháp gì để làm cho nó ly ra hết, thì như vậy gọi là trên Tứ Niệm Xứ mà thực hiện các pháp, chớ không phải Tứ Niệm Xứ có pháp tu.
(23:30) Thầy sắp sửa dạy giới hành để chúng ta biết được cái chỗ mà chúng ta tu. Như vậy bây giờ một cái người mà sắp sửa tu thiền định, thì chúng ta phải thực hiện cái pháp đầu tiên để mà đạt được cái thiền định, đó là Tứ Chánh Cần.
Bởi vì Phật đã dạy “cần”, cần tu cái này đầu tiên, cần tu hằng ngày. Khi mà cái này đạt được rồi thì tất cả các pháp khác chúng ta dễ dàng tu lắm, không còn khó nữa. Vậy thì bây giờ chúng ta cần cái gì, thứ nhất cần cái gì, nó có bốn cái cần lận, tứ là bốn lận mà.
(24:05) Thứ nhất là các pháp ác chưa sanh không cho sanh. Vậy thì các pháp ác như thế nào? Hồi nãy Thầy có nói thập ác rồi. Bây giờ cái tâm nó thương nhớ nè, nó là ác pháp rồi. Cho nên chúng ta biết nó ác pháp thì bây giờ nó khởi nó nhớ cha mình, nó nhớ mẹ, nhớ anh, nhớ em mình, đoạn dứt liền! Nó khởi lên cái niệm thương nhớ đó là đoạn dứt liền! Gọi là các pháp ác chưa sanh thì không cho sanh. Không cho sanh thì nó ở trong Thập Thiện chớ gì? Chớ nó đâu phải sanh cái thiện nào khác hơn?
Nếu các ác pháp có, thì Thập Thiện không có, còn thập ác không có, thì toàn là thiện chớ gì? Chớ đâu phải các thầy nghĩ là phải đem gạo, đem thóc, tiền bạc cho người khác là thiện đâu! Không phải đâu!
Bởi vì tâm của quý thầy nó khởi lên tham muốn, thương nhớ là nó ác pháp, mà giờ nó không khởi tham muốn, thương nhớ là nó thiện pháp. Vậy thì khi mà ác pháp không khởi thì tức là thiện pháp khởi. Cho nên Phật nói các ác pháp chưa sanh thì không cho sanh.
Luôn luôn giữ tâm bằng cách nào? Thì Thầy từng dạy các thầy rất rõ, khi giữ tâm nó mà đừng cho nó sanh các ác pháp, thì các Thầy phải tu Tỉnh Giác Chánh Niệm: đi kinh hành nè, làm công việc nè, đừng có cho một cái niệm gì khởi trong đầu của mình, thì có phải là giữ các pháp ác không sanh không? Phải không?
Bây giờ quý thầy nhiếp hít thở trong hơi thở, tức là Thân Hành Niệm Nội, thì quý thầy hít thở nè, phải không? Mà hít thở mà không cho một cái niệm nào mà khởi ở trong tâm của mình đó, có phải là ác pháp đã bị ngăn chặn không? Không cho sanh! Nghĩa là mình dùng cái Chánh Niệm Tỉnh Giác nè , cái Định Niệm Hơi Thở nè, mình tu tập thì các pháp có sanh không? Đâu có sanh!
Còn nếu mà mình làm biếng nè, thì mình ngồi lại thì nhớ cái này, nhớ cái kia, nhớ nọ thì ác pháp nó sanh, tức là mình có ngăn chặn không? Không có ngăn chặn! Mà không ngăn chặn thì nó phải sanh thôi. Mà nó đã sanh thì mau mau phải diệt. Phải diệt nó bằng cái định gì? Quý thầy có biết diệt nó bằng định gì không?
(26:20) Đó là Định Vô Lậu. Các thầy phải quán nó, cái đó là ác pháp hay là thiện pháp? Cái đó là như thế nào? Nó đem đến quý thầy khổ hay là không khổ? Các thầy hiểu chưa? Cho nên quý thầy đã thực hiện cái Định Vô Lậu, phải không? Cho nên khi mà nó đã sanh thì các thầy phải thực hiện Định Vô Lậu.
Mà khi mà nó chưa sanh có ra thì các thầy phải tu Chánh Niệm Tỉnh Giác: đi kinh hành, làm mọi công chuyện quét sân, quét nhà, tất cả mọi cái đều giữ tâm ở tỉnh thức, không cho một cái niệm sanh ra, mà không cho cái niệm sanh ra tức là không có ác pháp sanh ra, phải không?
Tức là thực hiện Tứ Chánh Cần, các ác pháp không sanh ra thì tức là thiện pháp. Cho nên suốt ngày quý thầy không có sanh ra ác pháp thì thiện pháp chớ gì. Mà ngày này, giờ này tất cả mọi cái đều là kéo dài cái thời gian ra mà không có ác pháp, thì các thầy đã tăng trưởng thiện pháp.
Như vậy là xác định cho chúng ta thấy rằng nếu mà chúng ta tu Tứ Chánh Cần thì ác pháp không có trong tâm của chúng ta, không sanh khởi được, không tăng trưởng được, thì thiện pháp nó sanh khởi và tăng trưởng kéo dài từ ngày này đến ngày khác.
Ba tháng quý thầy đã nhập định hoàn toàn, bởi vì tâm quý thầy không ác pháp, không tham sân si, tức là diệt rồi, thì tức là các thầy sẽ tịnh. Tâm tịnh, thân tịnh, thọ tịnh, pháp tịnh, bốn cái chỗ này đều là thanh tịnh hết rồi, do Tứ Chánh Cần mà thực hiện.
Cho nên Tứ Chánh Cần có cái tên gọi là Định Tư Cụ, dụng cụ để tu thiền định chớ không phải tu các pháp khác. Bởi vì ngồi mà hít thở để ức chế tâm mình là sai, niệm Phật ưng vô tâm là sai, mà chỉ thực hiện Tứ Chánh Cần tức là Định Tư Cụ, thì các Thầy thấy khi mình thực hiện Định Tư Cụ, thì ngay đó là gọi là định, cái dụng cụ để nó thực hiện được thiền định.
Mà thiền định của đạo Phật nó không phải là chỗ ức chế tâm, chỗ hết vọng tưởng, mà là cái chỗ tâm thanh tịnh không còn tham sân si, không còn thương, ghét, giận hờn ai nữa hết, lúc bấy giờ tâm như cục đất rồi.
(28:35) Vậy thì trong hằng ngày quý thầy tu những pháp mà Thầy dạy từ lâu tới giờ đó, là để thực hiện Tứ Chánh Cần, phải không. Hồi nào tới giờ Thầy không nhắc, nhưng bây giờ dạy về cái giới hành thì quý thầy mới rõ được cái Tứ Chánh Cần là cái quan trọng, và Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, Định Niệm Hơi Thở, Định Vô Lậu chỉ là những pháp trợ duyên cho Tứ Chánh Cần để thực hiện ngăn chặn các ác pháp và đoạn dứt các ác pháp, phải không?
Cho nên ở đây quý thầy thấy rõ, có gì đâu, quý thầy tu sai đâu, nhưng mà hồi nào tới giờ thì quý thầy chưa hiểu nó là Tứ Chánh Cần.
Bây giờ các thầy đã hiểu, đã học được cái giới hành, thì các thầy biết cái Tứ Chánh Cần là cái giới hành, chớ không phải giới hành là không sát sanh gọi là giới hành, mà là Tứ Chánh Cần để thực hiện không sát sanh, không nói láo nè, không vọng ngữ, không nói lời hung dữ nè, không trộm cắp nè, không dâm dục nè, đó gọi là Tứ Chánh Cần.
Mà Tứ Chánh Cần nó giúp cho chúng ta không phạm vào những ác pháp này, thì tức là chúng ta không phạm vào giới luật, chúng ta không phạm giới. Cho nên nó làm cho giới luật của chúng ta thanh tịnh, nghiêm trì, nó trở thành chúng ta giải thoát hoàn toàn.
(30:02) Đó quý thầy thầy chưa! Bây giờ quý thầy cứ lo ngồi thiền cũng chỉ là một pháp môn nhỏ trên Tứ Chánh Cần mà thôi. Bởi vì chỉ biết hơi thở ra, hơi thở vô nè, không có niệm thiện, niệm ác nè, thì lúc bấy giờ nó chỉ là ở trong cái niệm ác, chớ không phải là ngăn chặn cái niệm ác, chớ không phải ngăn chặn niệm thiện.
Vì thiện là một cái trạng thái nó làm cho chúng ta an ổn, không thương, không ghét không giận, không hờn, đó là thiện. Còn cái người mà người ta tu thiền mà người ta gọi là chẳng niệm thiện niệm ác, mình ngồi đây mình khởi nè, thương cha mẹ là thiện nè, mà lo suy tính một cái điều kiện gì để giết người, để hại người, để cướp của người đó là ác. Người ta nghĩ rằng cái niệm đó là niệm thiện và niệm ác. Không phải!
Ở đây khi mà cái tâm của chúng ta nó không có ác thì nó là thiện. Bởi vì Thập Thiện với thập ác nó đối với nhau, hễ có ác thì không có thiện, mà có thiện thì không có ác. Mà hễ tăng trưởng thiện, thì ác làm sao có được! Mà tăng trưởng ác thì thiện mất, làm sao có thiện được! Cho nên thiện không phải ở ngoài kia đem vào được, không phải ở chỗ khác mà đem vô đây được, mà thiện ở trong tâm của chúng ta. Cho nên Thập Thiện, thập ác vạch rất rõ để chúng ta biết. Và nơi đó mới giúp chúng ta giới luật nghiêm trì, không vi phạm giới luật.
(31:25) Đó thì hôm nay các thầy đã học được cái bài học để chúng ta biết rằng tổng hợp tất cả những hành động mà các thầy đã tu từ lâu tới giờ không có sai chỗ nào hết. Nó nhằm vào ở trên Tứ Chánh Cần để thực hiện ngăn chặn các pháp ác, mà tăng trưởng các pháp thiện. Bởi vì quý thầy kéo dài cái trạng thái mà không có niệm thiện, niệm ác ở trong này, kéo dài cái trạng thái này tức là tăng trưởng cái thiện của quý thầy, tăng trưởng cái tâm.
Thí dụ bây giờ ngồi đây tâm thanh thản nè, nó không nghĩ thương, nghĩ nhớ, nghĩ ghét, giận hờn ai hết. Mà từ một phút thì nó đã tăng trưởng một phút, mà hai phút, ba phút, năm phút, mười phút là nó tăng trưởng, như vậy gọi là tăng trưởng thiện pháp. Tăng trưởng thiện pháp tức là làm cho tâm hồn mình giải thoát ở trong trạng thái tâm thanh tịnh. Mà tâm thanh tịnh đó, cái tâm không tham sân si, không giận hờn, không giết hại chúng sanh đó, thì cái tâm đó là tâm thiền định, cái tâm định.
Cho nên Đức Phật nói khi mà tâm định thì chúng ta Dục Như Ý Túc chúng ta muốn như thế nào đó, chúng ta chỉ cần ra lệnh là nó đã tịnh chỉ y như chúng ta muốn. Bây giờ bảo hơi thở ngưng, thì nó ngưng, bảo diệt tầm tứ nó diệt tầm tứ, bảo nó quay vô không nghe âm thanh là nó quay vô không nghe âm thanh, không cần phải chúng ta tập.
Nhưng mà chúng ta cần phải ngăn ngừa các pháp ác không cho sanh, sanh không cho tăng trưởng, đoạn dứt liền, luôn luôn giữ gìn cái thiện pháp mãi ở trong tâm và kéo dài mãi, gọi là tăng trưởng nó. Việc làm có bấy nhiêu đó là đủ trên con đường tu hành của chúng ta rồi. Đơn giản, dễ hiểu, không khó khăn gì hết.
Chỉ vì chúng ta tu mà chúng ta không biết nó, mà chúng ta không giữ gìn nó, chúng ta không dụng cái Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, không dụng cái Định Vô Lậu, không dụng cái Định Niệm Hơi Thở để thực hiện cho cái tâm toàn bộ thanh tịnh này, không có ác pháp này, tăng trưởng cái thiện pháp này, thì tức là chúng ta đã vào thiền định.
(33:31) Vào thiền định rồi, tâm mà có định rồi, thì lúc bây giờ chúng ta chỉ cần dùng pháp hướng mà tịnh chỉ các hành mà thôi. Chúng ta nhắc một lần chưa xong thì hai lần, ba lần, năm lần, mười lần sẽ là xong. Sự tu hành như vậy nó đem đến chúng ta dễ dàng.
Thầy nói người nào tu cũng được, pháp của Phật rất dễ dàng. Không phải là người tu sĩ chúng ta tu mới được mà người cư sĩ tu không được, không phải! Miễn là người nào mà muốn sống đúng mà tu Thập Thiện này, với thập ác này thì luôn luôn phải sống đúng cái đời sống của người tu sĩ.
Bây giờ đó thì các con đã nghe được, biết được cái giới hành, các con nghe Thầy nói hết chưa? Cái giới hành là cái pháp môn Tứ Chánh Cần. Cái tên của nó là Chánh Cần: Chánh là chơn chánh, Cần là cần tu tập, cho nên gọi là Chánh Cần.
Cho nên Thầy nhắc lại nó là một cái pháp môn cần phải tu tập nhiều nhất để ngăn chặn và không cho tăng trưởng các pháp ác, luôn giữ gìn thân, thọ, tâm, pháp của mình. Cái pháp thiện đó là một trạng thái tâm thanh tịnh, là một trạng thái tâm định, hoàn toàn là thiền định của Phật.
(34:50) Bây giờ thì các con đã hiểu được, và biết được. Do cái chỗ mà cô Diệu Quang, tức là cô Út hỏi, hôm nay Thầy mới giải để cho các con Thầy rằng cái định Chánh Niệm Tỉnh Giác Định vẫn là một cái pháp giữ cho thân tâm của chúng ta không sanh khởi ác pháp và không tăng trưởng ác pháp, và Định Niệm Hơi Thở cũng nhắm vào cái mục đích là không sanh khởi ác pháp và không tăng trưởng ác pháp, và Định Vô Lậu cũng là một thứ định để khi ác pháp sanh ra thì nhờ cái pháp Định Vô Lậu mà đoạn diệt, tức là quán xét để mà đoạn diệt, không còn lậu hoặc. Không còn lậu hoặc tức là không có ác pháp, có lậu hoặc tức là ác pháp, không có lậu hoặc là thiện pháp.
Do vì vậy mà các con đã hiểu rõ được từng cái pháp hiện giờ các con đang tu là nó nhằm để trợ duyên, gọi là trợ pháp. Những cái pháp thiền định đó đó, nó là trợ pháp cho Tứ Chánh Cần.
Nghĩa là các con học về sinh ngữ, thì các con biết như Pháp văn nó có cái trợ động từ, có một cái động từ để nó trợ cho các động từ khác mà chia ra những cái động từ khác, thì cái này là cái trợ pháp, cái pháp nó trợ cho pháp kia, để làm cho cái pháp kia nó hoàn mãn, nó viên mãn được cái chỗ tu tập của nó, gọi là trợ pháp. Các con hiểu cái danh từ là trợ pháp, là nó trợ giúp cho cái pháp Tứ Chánh Cần thành tựu được điều tu tập của nó gọi là trợ pháp
Sau này Thầy sẽ dạy cho các con biết là cái Định Niệm Hơi Thở nó là cái trợ pháp cho pháp nào, chớ không phải là nó tự nó đi vào cái hơi thở mà đi vào thiền định được, mà nó là cái trợ pháp để chúng ta thực hiện tất cả các định, mà chúng ta nhập các định.
Cho nên cái hơi thở cũng là một trợ pháp sau này, còn hiện giờ đó, cái hơi thở nó là trợ pháp cho Tứ Chánh Cần. Nương vào cái hơi thở để cho cái tâm nó không khởi ác pháp, cho nên do đó nó giúp cho Tứ Chánh Cần thực hiện được thiện pháp.
(36:55) Như cô Út đã hỏi: “Bạch Thầy, bắt đầu tu thiền định phải tu pháp nào trước?” Đó là cô Út hỏi Thầy cái câu hỏi như vậy, cô Út còn hỏi thêm Thầy:
“Con thường nghe Thầy dạy 37 phẩm trợ đạo, từ Bát Chánh Đạo, Thập Thiện Đạo, Tứ Chánh Cần, Tứ Niệm Xứ, Tứ Thánh Định, Thất Giác Chi, Tứ Như Ý Túc, Ngũ Căn, Ngũ Lực đến Ngũ Uẩn, Thập Nhị Nhân Duyên, Tam Minh v.v thiền định của đạo Phật rất nhiều. Con nghe Thầy dạy rất nhiều, không biết tu loại nào trước, loại nào sau. Kính mong Thầy chỉ dạy để chúng con biết để mà tu tập cho rõ ràng.
Con nghe Thầy dạy thiền định gồm có Định Vô Lậu, Định Sáng Suốt, Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, Định Niệm Hơi Thở, Định Sơ Thiền, Định Nhị Thiền, Định Tam Thiền, Định Tứ Thiền, Định Vô Tướng, Định Bất Động Tâm, Định Bất Động Thân, Định Không Vô Biên Xứ, Định Thức Vô Biên Xứ, Định Vô Sở Hữu Xứ, Định Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ, Định Diệt Thọ Tưởng Định. Kính bạch Thầy, 16 loại thiền định, định nào tu trước, định nào tu sau? Định nào kết hợp với định nào để đồng tu một lượt, định nào tu riêng một mình? Định nào làm trợ duyên cho các định khác? Kính mong Thầy từ bi chỉ giáo cho chúng con để chúng con tu tập, lớp thấp, lớp cao, mới có căn bản!”
Do cái chỗ hỏi của các con mà cô Út mới hỏi lại Thầy, hỏi từng phần, từng phần nhỏ để mà Thầy giải thích ra, để mà các con hiểu. “Còn 37 Phẩm Trợ Đạo, từ Bát Chánh Đạo đến Tam Minh, vậy chúng con phải tu pháp nào trước, pháp nào sau? Mỗi pháp có phần khác nhau, giống nhau như thế nào? Nghĩa là mỗi pháp các con phải tu giống nhau sao và khác nhau như thế nào?” Cô Út hỏi vậy đó. “Và khi thực hành tu tập có tu giống nhau không? Xin Thầy hoan hỉ chỉ dạy cho chúng con biết!”
(39:07) Đó thì, trong cái phần thưa hỏi, một cái câu hỏi đầu tiên, mà hỏi một số câu hỏi quá là nhiều, thật là nhiều,. Nhiều để làm gì, nhiều để mà Thầy dạy cho rõ ràng, để mà các con biết cách dễ dàng mà tu.
Bắt đầu như vừa rồi thì câu hỏi đầu tiên thì Thầy đã giảng cho mấy con đã nghe rồi đó, giảng dã nghe rồi. Tức là chúng ta lấy Tứ Chánh Cần là cái pháp đầu tiên để mà chúng ta tu thiền định, các con hiểu chưa?
Tứ Chánh Cần là cái pháp môn đầu tiên để chúng ta tu thiền định mà Đức Phật đã xác định nó là Định Tư Cụ, dụng cụ tu thiền định. Và các con tu Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, Định Niệm Hơi Thở, Định Vô Lậu, là trợ pháp cho Tứ Chánh Cần như Thầy giảng hồi nãy rồi đó, Thầy nhắc lại đó, nó trợ pháp cho Tứ Chánh Cần. Vậy thì cái câu hỏi đầu tiên Thầy đã trả lời như Thầy đã giảng rồi.
Về 37 Phẩm Trợ Đạo và về thiền định thì ở đây, Thầy cũng trả lời từng cái phần một để cho các con thấy trên cái bước đường tu tập của mình:
“Đầu tiên, muốn tu tập thiền định của đạo Phật thì phải sống đúng giới luật. Muốn sống đúng giới luật thì phải sống thiểu dục tri túc, phòng hộ sáu căn.”
Đó là Thầy trả lời đầu tiên muốn tu theo thiền của đạo Phật đó, như hồi nãy đó là cái pháp hành, cái pháp hành là Tứ Chánh Cần, nhưng chưa phải là pháp đầu tiên.
Các con nhớ, pháp Tứ Chánh Cần chưa phải là pháp đầu tiên ở trong sự tu tập thiền định, mà cái pháp đầu tiên của sự tu tập thiền định thì phải sống đúng giới luật. Giới luật của Đức Phật, giới bổn viết ra như thế nào, thì đời sống của chúng ta phải sống đúng giới luật, đó là cái thứ nhất.
“Mà muốn sống đúng giới luật thì phải sống như thế nào mới là sống đúng giới luật? Vậy thì phải sống thiểu dục tri túc, phòng hộ sáu căn.”
Bởi vì giới luật của Đức Phật đưa ra vậy, mà nếu mà chúng ta sống không thiểu dục tri túc, không phòng hộ sáu căn thì chúng ta không sống đúng giới luật.
“Phải sống đúng thiểu dục tri túc, phải luôn luôn phòng hộ sáu căn thì chúng ta mới giữ gìn giới luật được.
Mà muốn sống đúng được đời sống thiểu dục tri túc, và phòng hộ sáu căn được trọn vẹn, thì chúng ta phải sống như thế nào?”
Chớ nói thiểu dục tri túc, rồi phòng hộ sáu căn, mà chúng ta không biết cái gì hết, thì chúng ta cũng đâu có làm sao cho được trọn vẹn cái này? Do đó chúng ta phải lấy ba hạnh, ba cái hạnh đó là ăn, ngủ, và độc cư, mà Thầy thường nhắc nhở quý thầy ở đây.
(42:14) Ăn: quý Thầy cố gắng khắc phục mình, ăn ngày một bữa, đừng ăn phi thời.
Ngủ: tập ngủ cho giờ giấc cho nghiêm chỉnh cho đúng, đừng có lúc ngủ trước, ngủ sau, lúc nào hễ muốn ngủ là ngủ, đừng có tự tại trong ăn ngủ thì không được. Đừng có vô ngại tự tại, đói ăn khát uống mệt đi ngủ thì không được, mà giờ nào ngủ là ngủ, mà giờ nào thức là thức.
Thí dụ như cái sức của mình, tối mình thức từ 7 giờ đến 8 giờ đi ngủ, 4 giờ khuya mình dậy, thì 4 giờ khuya mình dậy, tới 8 giờ đi ngủ 4 giờ khuya dậy, không ai bảo mình thức 10 giờ để làm gì. Nhưng mà ngày nào, tháng nào, năm nào thì cũng 8 giờ đi ngủ mà 4 giờ thức, tập cho nó đúng như vậy đi.
Còn nếu mà mình thấy khả năng của mình ngủ ít, thì 9 giờ mình đi ngủ, 3 giờ mình thức dậy mình tu tập. Mà nếu mình hay hơn nữa, sức mình hơn nữa thì 10 giờ mình đi ngủ, 2 giờ mình thức dậy, thì nếu mình đặt thành cái vấn đề đó thì tới giờ đó mình phải ngủ, chớ không được ngủ trước, mà nói 10 giờ thì không được 11 giờ đi ngủ. Ngủ trễ cũng không được, mà ngủ sớm cũng không được, mà thức sớm cũng không được, mà thức trễ cũng không được, buộc mình giờ giấc phải nghiêm chỉnh.
Còn ăn uống thì không nên ăn uống phi thời, ăn ngày một bữa. Mình đừng ăn vội vàng mà mình ăn chậm chạp, ăn nhai cho nhuyễn, thì cái số lượng ăn của mình trong một ngày một đêm, mình lượng cái sức mình mình ăn. Mình không được ăn quá no, quá căng bao tử, mà không được ăn quá đói.
HẾT BĂNG
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Thời gian: 1998
(00:00) Các con biết, người ta đi học để cho người ta hiểu Phật pháp, gọi là học tuệ trước, tu tuệ trước. Rồi kế đó người ta hiểu rồi, bắt đầu người ta tu thiền định. Khi người ta tu thiền định được rồi thì cái giới luật người ta mới nghiêm chỉnh. Còn bây giờ thì người ta đang học, thì người ta chưa có nghiêm chỉnh giới luật. Rồi người ta đang tu thiền định thì người ta cũng chưa có nghiêm chỉnh được giới luật. Phải không?
Cho nên cái này, hầu như là cô Út đã tiếp duyên khác với mọi người. Cho nên gặp cái trường hợp người ta nói tui tu, tui phải học hành, tui phải hiểu giáo lý của nhà Phật, thì đó là trí tuệ của chúng tôi. Do tui hiểu biết, tui mới ngăn chặn được cái lòng tham sân si của chúng tôi.
Còn cái này lấy giới luật, bây giờ tu ở giới luật như vậy, thì bắt đầu vô những giới luật khép chặt mình trong kỷ luật như vậy, thì hóa ra là mình khổ hạnh, mình ép xác mình, cho nên nói mình tự làm khổ mình. Cho nên do cái chỗ mà người ta hỏi, người ta nói như vậy, vì vậy mà cô Út hỏi lại Thầy, để Thầy được giải thích cái chỗ này, cái sai cái đúng ở chỗ người tu tập này đúng hay sai.
Câu hỏi:
“Tại sao con từng đập phá tâm tham sân si của mọi người để cho họ được giải thoát. Thế sao họ lại oán thù con?”
Đó là một cái câu hỏi, nghĩa là gặp chuyện gì là cô Út cô đập, cô làm cho người ta nổi sân lên, để rồi từng đó người ta thấy được tâm tham sâm si của người ta, để người ta xả, người ta bỏ, thế mà bây giờ người ta lại oán thù mình. Đó là những cái điều mà cô đã gặp phải.
Cho nên cô hỏi Thầy:
“Câu 8. Bạch Thầy, con thường dạy mọi người xả tâm tham sân si, họ lại bảo con dạy sai, không đúng với Thầy.”
Nghĩa là cô Út cổ dạy bảo phải xả tâm, chớ đừng có tham sân si, thì có người lại nói cô dạy đó sai, không đúng với Thầy, Thầy dạy khác.
(2:08) Thì đó là những cái lý để mà cô hỏi ra để cho biết, trong khi cô hướng dẫn, cô bị người khác nói cô dạy sai, mà cô thì mục đích cô nhắm vào chỗ tham sân si để xả cái tâm đó ra, hay hoặc là mọi sự kiện mà xảy ra làm cho cái tâm cái người ta lo, người ta buồn, người ta khổ, thì lúc bấy giờ đó, tìm mọi cách để cho người ta xả cái đó ra, thì nó không có giống cái pháp hành của Thầy dạy. Như thế nào đó, thì người ta nói dạy như cô Út không có giống Thầy.
“9. Con thường khuyên mọi người đừng có ngồi nhiều, vì ngồi nhiều giống như con cóc, chẳng có ích lợi gì cả. Vậy có đúng hay là sai?”
Nghĩa là cô Út thấy ai mà ngồi nhiều thì cô khuyên đừng có ngồi nhiều, mà lo xả cái tâm đi, ngồi nhiều nó không có ích lợi. Do đó thì có nhiều người cho rằng ngồi nhiều nó mới đạt được thiền định, mà không có ngồi thì nó không có đạt được thiền định. Do vì vậy cô mới đặt ra câu hỏi cổ hỏi Thầy.
Thầy sẽ lần lượt trả lời những cái câu hỏi này để cho các con, cũng như là trả lời cho các con, hai cái câu hỏi của cô Út, mà trả lời cho các con toàn bộ để các con hiểu được cái câu hỏi đó nó có cái nghĩa lý gì, đúng hay sai trên con đường tu tập của mình.
(3:30) Đó thì hôm nay thầy xin nhắc lại một lần nữa là dụng cụ, là cái phương pháp đầu tiên để cho chúng ta thực hiện thiền định đó là Tứ Chánh Cần. Thì Tứ Chánh Cần thì chúng ta phải ở trên thân, thọ, tâm, pháp là bốn cái chỗ xứ, bốn cái nơi xứ sở của Tứ Niệm Xứ mà tu tập cái Tứ Niệm Xứ này cho thanh tịnh.
Vì vậy chúng ta lấy Thập Thiện và thập ác chúng ta căn cứ ở trên thân, thọ, tâm, pháp của chúng ta mà chúng ta thực hiện Tứ Chánh Cần ở đó. Vì Tứ Chánh Cần dạy chúng ta biết hàng ngày, hàng giờ, hàng phút, hàng giây, phải siêng năng cần mẫn ngăn chặn không cho các pháp ác và đoạn dứt các pháp ác, luôn luôn sanh khởi, giữ gìn sanh khởi các pháp thiện, và tăng trưởng các pháp thiện, không để các pháp ác xen vào. Đó là Tứ Chánh Cần ngay trên Tứ Niệm Xứ mà thực hiện.
Và đồng thời thì chúng ta lại thực hiện Chánh Niệm Tỉnh Giác để trợ duyên cho Tứ Chánh Cần thực hiện các pháp thiện mà diệt trừ các pháp ác. Tu Định Niệm Hơi Thở cũng là trợ duyên cho Tứ Chánh Cần. Tu Định Vô Lậu cũng là trợ duyên cho Tứ Chánh Cần để thực hiện đoạn dứt các pháp ác, viễn li các pháp ác, xa lìa các pháp ác, tăng trưởng nuôi lớn các pháp thiện, sống mãi trong các pháp thiện.
Đó là những cái pháp mà hiện giờ hầu như là các con cũng như quý thầy, người nào cũng đã thông hiểu và đã từng tu tập những cái pháp đó hết rồi, biết cách thức tu, biết cách pháp hướng rồi, người nào cũng thông suốt hết rồi.
Chỉ cần siêng năng, nỗ lực, tu tập Tứ Chánh Cần, thì trong đó thực hiện Định Sáng Suốt, Định Niệm Hơi Thở, Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, thì chúng ta đã thực hiện trọn vẹn Tứ Chánh Cần. Có như vậy thì các thầy sẽ sớm thành tựu được đạo giải thoát của đạo Phật.
(5:45) Kế tiếp thì bây giờ thầy sẽ trả lời cho cô Diệu Hảo:
Trong những ngày gần đây thì con tu tập tốt, là không có niệm vọng tưởng trong cái Định Niệm Hơi Thở. Kế tiếp để mà phá âm thanh, thì như cô Út dạy rất đúng, là vì bám cho chặt trụ điểm, bám cho chặt hơi thở, tâm càng bám chặt thì âm thanh nó sẽ lần lượt nó sẽ mất.
Và đồng thời nếu mà tu được cái tâm tham, sân, si, không còn phiền não, không còn lo lắng gì hết, ác pháp không còn có nữa, thì con chỉ cần bảo cái tai, hay là cái nhĩ thức: “Phải quay vô trong, không có nghe âm thanh ngoài, tuyệt đối là không được nghe!” con chỉ ra lệnh như vậy là nó không còn nghe đâu.
Thầy nói thật, khi mà cái tâm thanh tịnh rồi thì con không cần phải bám cho chặt cho lắm gì nữa, con chỉ ra lệnh bảo: “Lỗ tai không có được nghe âm thanh, quay vô trong, nghe hơi thở ra vô thôi!” Con bảo sao thì nó làm vậy. Thì khi như vậy là con mới biết được cái đạo lực của con hiệu quả là do cái tâm thanh tịnh.
Còn bây giờ bảo là phải bám cho chặt, ôm cho chặt cái tụ điểm, để cho cái tâm, cái lỗ tai, cái nhĩ thức nó đừng có xiên ra ngoài, bám càng chặt thì nó không nghe, nhưng nó rất là mỏi mệt vì phải bám chặt, lơ lỏng là âm thanh tác động vào liền.
Còn nếu mà nỗ lực thực hiện Tứ Chánh Cần thì nó không cực đâu. Khi mà ác pháp không còn trong tâm con rồi, nó thanh tịnh rồi, con chỉ cần ra lệnh bảo nó không nghe là nó không nghe, bảo nó đừng có nghe âm thanh là nó không có nghe, trời sét nó cũng không nghe nữa chớ đừng có nói chi mà ếch nhái, ễnh ương kêu đâu.
Trời mưa hồi nãy rầm rầm như vậy đó, mà ngồi thiền bảo cái lỗ tai “Đừng có nghe trời mưa, đừng có nghe tiếng mưa rơi!” thì nó sẽ không nghe, nó nghe trong một trạng thái vắng lặng. Đó là chỗ mà con nỗ lực hơn một chút nữa để cho cái đạo lực nó thực hiện ở trong cái thanh tịnh tâm.
Còn bây giờ thì con khá, là vì có phần xả tâm, cho nên con nhiếp tâm, ức chế trong cái Định Niệm Hơi Thở, nó làm cho con thấy rằng không có cái vọng tưởng, tức là cái tạp niệm xen vào.
Và ở đây, ngay khi mà con vừa bám chặt vào cái tụ điểm để cái lỗ tai nó không nghe, mà hễ nó vừa muốn không nghe, nó vừa muốn hết nghe thì con rơi vào cái trạng thái coi như là nó lặng quá lặng. Nó lặng quá cho nên nó hết nghe. Vì vậy mà cái tỉnh thức của con nó chưa đủ, nó chưa đủ cái tỉnh thức. Do như vậy thì con phải tập cái tỉnh thức nhiều hơn. Tỉnh thức nhiều hơn con phải tập như thế nào?
Thí dụ như mà Minh Tông đã nói, khi mình muốn ru cho sáu cái thức của mình nó ngủ, thì như một người mẹ mà ru con, con nó ngủ không khéo rồi người mẹ cũng ngủ theo. Mà đúng vậy. Sáu cái thức của con sắp sửa ngủ thì cái tâm thức của con nó cũng lần nó lặng mất đi. Cho nên ở chỗ này con phải khéo mà hướng tâm tác ý ra thì nó mới không ngủ, chớ còn không khéo thì nó sẽ mất.
(9:11) Cho nên ở đây con diễn tả những cái lần mà nó bị như vậy đó, thì con cứ nhớ rằng: khi mà cái tâm nó bám chặt, âm thanh nó văng vẳng nó gần như hết muốn nghe, thì thường xuyên mình nhắc, cho đến khi mình nhắc mà tai không còn nghe nữa, mà tai không còn nghe tức là nó đã phá âm thanh.
Nhưng cái mấu chốt, cái cốt lõi mà để cho thực hiện cái âm thanh không còn nghe nữa đó, thì cái tâm thanh tịnh của con phải thực hiện toàn bộ thiện pháp, không được ác pháp xen vô.
(9:43) Như hồi nãy Thầy đã diễn tả về những cái ác pháp, nhưng mà từ những cái thiện pháp, mà từ lâu người ta không có ngờ. Người ta không có ngờ được, người ta cứ nghĩ những cái điều kiện đó là nó thiện pháp chớ không phải ác pháp. Nhưng mà khi một cái tâm mà khởi nghĩ lo lắng một cái điều gì cho những người thân của mình, thì đó là ác pháp chớ không phải là thiện pháp đâu.
Sau này khi mà Thầy viết ra thành cái giáo án, thành pháp hành đó, Thầy đem nhiều cái ví dụ này, ví dụ nhiều cái ác pháp này mà người đời, cái người mà chưa tu người ta lầm tưởng đó là thiện pháp. Thầy sẽ đem nhiều, tức là Thầy moi trong đầu Thầy ra, Thầy nghĩ tất cả những cái nào mà gọi là ác pháp, mà thuộc về cái tâm tham ái của chúng ta, thì Thầy moi ra, Thầy nêu lên tất cả những cái pháp ác đó. Còn ở đây Thầy chỉ nói một số ít như vậy thôi. Rồi Thầy sẽ viết ra, Thầy sẽ nói cái này rất nhiều, để chúng ta biết đó là ác pháp chớ không phải là thiện pháp.
Bởi vì cái này, cái dễ lầm lẫn của chúng ta, lầm lẫn thiện và ác. Mà cái lầm lẫn này là tại vì cái vô minh, cho nên chúng ta không hiểu nó được, tưởng nó là thiện nhưng mà không ngờ nó không phải thiện, nó là ác. Cho nên nó nuôi sống cái lậu hoặc, nó làm cho chúng ta lậu hoặc còn hoài mà không hết, nó không thể nào dứt được. Đó. mà hễ không dứt được lậu hoặc thì làm sao tâm cho thanh tịnh?
(11:17) Các con nhớ rằng cái lậu hoặc cái gốc nó rất lớn, cái đuôi chuột nó rất sâu, cho đến Tam Minh chúng ta thực hiện Lậu Tận Minh nó mới đoạn dứt được cái gốc chớ không phải thường. Còn nhánh lá của lậu hoặc nó rất nhiều. Chúng ta đốn ở bên đây rồi thì ở bên đây nó mọc lên, bên đây qua bên đây chặt bên đây thì bên đây nó mọc lên, nó cứ như vậy nó cứ lên hoài không có chịu hết.
Cho nên nếu mà không có Tứ Chánh Cần siêng năng mà chặt hàng ngày, hàng giây, hàng phút, thì bên đây chúng ta vừa làm xong, bởi vì làm mà kiểu làm biếng, cho nên chặt bên đây vừa xong thì bên đây nó lên rồi!
Còn làm mà làm siêng ấy, thằng bên đây nó chưa lên, bên đây người ta chặt xong rồi, thì bên đây chúng ta qua chúng ta vạt thêm vỏ nó nữa thì nó còn đâu chỗ nào nó lên. Còn bên đây mình chặt vừa xong nhánh thì bên đây nó lên nhánh, lo trở lại mà chặt nhánh bên đây thì bên đây cái da bên đây nó lại lên nữa rồi. Đó là tu kiểu làm biếng.
Còn tu mà kiểu làm siêng, kêu là cần, Chánh Cần ấy, Chánh Cần là siêng năng dữ lắm đó, chặt bên đây nó trụi xuống hết mà bên đây nó chưa có lên cái, ló được cái nhánh nào hết, cho nên qua bên đây còn cái nước là mình vạt vỏ nó, vạt cái vỏ xung quanh cái nhánh này đi. Vạt riết cái vỏ nó tuột xuống hết, do đó nó không còn da nữa thì tức là nó phải hết lên.
Còn đằng này mình chặt ở bên đây rồi, thì qua bên đây chặt, thì bên đây cái da này nó bung cái nhánh nó lên. Mà mình chặt theo kiểu làm biếng thì cái da này nó lên lại nhánh lên cao nữa, bởi vì bên đây chưa chặt xong thì làm sao chặt bên đây được, cho nên chờ chặt bên đây rồi qua bên đây, nó cao lên quá rồi.
Bây giờ mới chặt nữa thì bắt đầu bên đây nó lại lên nữa, cái kiểu mà chặt bên đây được rồi thì bên đây nó lại lên nữa rồi, cứ chặt hoài nó không hết. Kêu là tu làm biếng, phải không?
Chớ tu làm siêng, như Mật Hạnh mà làm siêng ấy bây giờ nó chặt sạch rồi, nó bứng luôn cái gốc rồi! Bây giờ đó thôi thật sự, nếu mà nó đi chơi kể như nó hô bay là nó bay trên mây xanh nó đi khắp cùng bốn biển, chớ đâu phải còn mà cưỡi xe honda mà chạy chở Thầy như hồi sáng này đâu, phải không?
Nếu mà siêng năng thì bây giờ nó xong mất rồi, không có còn vậy đâu. Và bệnh nó biểu hết bệnh thì khỏi cần mà phải uống thuốc gì hết, không có tốn tiền gì hết, vô cái truyền lệnh của nó mà. Bởi vậy mới làm chủ được sanh, tử, lão, bệnh chớ, còn nếu không có, mà hết bệnh mà nó không hết thì tu làm chi cho uổng!
Thầy nói thật, bây giờ mình đau mà mình bảo nó không hết, thì mình tu làm chi cho uổng. Mình bảo nó hết bệnh, nó phải nghe theo hết bệnh, thì mình mới tu chớ! Cho nên mình mới làm chủ được bệnh chớ, mình làm chủ được sống chớ, mình làm chủ được lão chớ, mình làm chủ được chết chớ, đó là những cái mục đích mà chúng ta nhắm đến chỗ tu tập.
(13:54) Cho nên ở đây thầy nhắc Diệu Hảo đó, con tiếp tục nỗ lực xả tâm. Những cái duyên sự mà đến với con, Thầy thấy thật là ác pháp thiệt chớ không phải là thiện pháp đâu. Nó réo rắt, ở đây trốn nó, mà Thầy cho ra cái thất ngoài kia xa nó, thế mà nó còn kéo vô nó còn tới lui đủ thứ hết, đủ cách hết, nó không bao giờ nó yên được đâu! Thì các con biết là cái ác pháp nó dữ lắm chớ không phải.
Cho nên ở trên cái Tứ Niệm Xứ thì cái pháp chúng ta rất sợ. Thân chúng ta không sợ nè, thọ chúng ta không sợ nè, tâm chúng ta không sợ, mà pháp chúng ta rất sợ. Tại sao mà Phật không dạy pháp tu trước đâu, nếu mà thân chưa xong mà tu pháp thì kể như pháp dập chúng ta nhàu hết đâu có chịu nổi đâu. Pháp nó xâm chiếm, pháp ở trong thân nè, pháp ở ngoài nè, nó tác động.
Cho nên chúng ta phải tu thân trước nè, rồi cái thọ, cái thọ là cái cảm giác chúng ta, tức là cái nơi mà chúng ta tu thứ hai đó. Cái nơi thứ ba là tâm. Mà cái nơi thứ tư là cái nơi cuối cùng, là các pháp, bởi vậy Tứ Niệm Xứ các con thấy các pháp nó tu sau cùng.
Bởi vậy cho nên bây giờ đầu tiên chúng ta tu cái thân, là chúng ta trốn ở trong hốc, trong hang, chớ không có dám ló cái đầu ra. Mà ló cái đầu ra thì các pháp nó dập chúng ta xuống, coi như là nó dập chúng ta tan nát hết, làm gì chúng ta ngóc cái đầu nổi mà chúng ta giữ cái thân được.
Rồi bắt đầu bây giờ cái thân mới tu được yên chút, thì cái thọ nó đánh, đó Mật Hạnh nó bị cái thọ nó đánh, cái thân nó mới được yên quay vô chút, bắt đầu cái thọ đập thôi tan nát hết, chịu không nổi.
Đó, rồi bắt đầu cái thọ mà nó đập rồi thì biết cái tâm nó sao? Nó phóng, nó chạy tùm lum. Coi như nó chạy nó mừng coi như là được giải phóng nó rồi, nó chạy nó phóng vào cùng hết! Nó không có chỗ nào nó chừa, phải không các thầy nghĩ!
Mình tu vậy chớ lơ mơ chớ nếu mà cái thân mà nó chưa xong, cái thọ nó đánh mình được rồi, bắt đầu cái tâm nó phóng ra nó chạy, thôi không có phương nào nó dừng hết, chỗ nào nó cũng chui vô nó phóng ra hết!
Thì nó phóng để gì các thầy biết không? Nó phóng nó chạy theo các pháp. Cho nên chừng đó mình làm sao mà tu các pháp? Phải không? Cái tâm bây giờ nó quay vô rồi thì chúng ta mới tu được các pháp, mới làm chủ được các pháp. Cho nên nếu mà chúng ta không độc cư thì các pháp nó sẽ đánh chúng ta chịu sao nổi!
Cho nên đừng có nói rằng tui tu là tui giải thoát, tự tại vô ngại, đói ăn khát uống, đụng đâu cũng được hết, không có phòng hộ sáu căn, đi ngó qua ngó lại, ngó lên ngó xuống, gặp phụ nữ liếc lia liếc lịa, thì thử hỏi cái đó làm sao mà tu tập được gì? Không phòng hộ sáu căn thì tức là bị xâm chiếm hết, đâu có tu tập được. Cho nên tới cuối cùng các thầy thấy, sự tu tập rất khó chớ không phải dễ.
(16:37) Cho nên chúng ta phải phòng hộ, hết sức phòng hộ, giữ gìn, hết sức giữ gìn. Mà muốn phòng hộ, thiểu dục, giữ gìn được như vậy, thì phải sống ăn ngủ, độc cư, thì chúng ta mới làm chủ được chớ! Cho nên Thầy nói, khi mà Thầy biết được như vậy thì các thầy nghĩ, mười năm ở trong thất mà Thầy sống chui rúc, không có dám ló cái đầu ra, sợ đụng pháp chớ gì.
Nghĩa là không dám nói lời nói, không dám thấy mặt ai hết, coi như là mặt trời cũng không dám thấy nữa! Thấy mặt trời là cũng là cái tâm nó cũng phóng chạy theo mặt trời nữa chớ đừng nói chi mà nó chạy theo người ta.
Cho nên là suốt ngày cứ ở trong cái nhà vầy, nhốt mình cũng như là bị tù chung thân vậy, người ta nhốt mình ở trong hầm cột vậy, không có cho ra thấy mặt trời mặt trăng gì hết à! Thì như vậy là đủ biết rằng tu nó khó hết sức khó chớ không phải không, mà cái độc cư là nó phải giữ gìn như vậy, nó thực hiện được vậy.
Mà đầu tiên Thầy thực hiện cái pháp, giới luật thì nghiêm chỉnh, cái pháp thì nó không đúng, là vì nó không có cái pháp hành, nó không có cái chỗ mà tu đúng nó. Nhưng mà nhờ giữ gìn phòng hộ, thiểu dục tri túc, giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh, cho nên nó tránh xa, nó không phóng dật, chớ đâu có biết được cái pháp Tứ Chánh Cần mà giữ gìn tu tập các pháp ác như thế nào, các pháp thiện tăng trưởng như thế nào, đâu có biết. Chớ cỡ biết như vậy thì tu rất nhanh chớ gì.
Nhưng mà sau đó Thầy trở về Định Niệm Hơi Thở, Thầy thực hiện nó trong vòng sáu tháng là Thầy đã xong cái con đường tu tập của Thầy. Mà cái kia Thầy phải tốn hết chín năm trời mà nó cứ trượt lên trượt xuống hoài, nó không vô thiền định được. Thời gian quá dài, chín năm trời.
Còn bây giờ Thầy dạy các con đúng pháp nè, nếu mà các con nỗ lực từ trong ba tháng đến sáu tháng các con xong rồi.
(18:24) Các con xong rồi thì đi trợ giúp với Thầy để độ người khác. Bao nhiêu người người ta tu sai, người ta đang khổ sở, người ta không biết pháp tu, mà giờ cứ ngồi đây cứ tu hoài, ở ngoài kia người ta cũng chẳng biết gì người ta tu, thì Thầy đang mong, còn các con thì ngồi đó mà chơi, tu kêu là tu lười biếng.
Chứ Thầy nói thiệt là, tu kiểu mà không chuyên cần thì Thầy nói là quá uổng rồi. Còn tu mà siêng năng thì trong sáu tháng, thầy trò trợ nhau độ người khác. Biết bao nhiêu công việc chúng ta phải làm, đời xã hội biết bao nhiêu sự bất hạnh, rồi tu biết bao nhiêu sự tu sai!
Mà các con tu xong rồi, bên nữ cũng như bên nam, thầy đang mong chừng sáu tháng, bây giờ tới Tết xong rồi, Thầy điều khiển các con đi hướng dẫn mọi người tu hành, làm những công việc lợi ích cho xã hội, làm tất cả mọi công việc hết!
Chúng ta không phải là tu ích kỷ đâu, nỗ lực cho xong để mà chúng ta làm. Nhanh chừng nào tốt chừng nấy, Thầy đang mong chờ! Tuổi thầy thì cứ mỗi năm qua Thầy thấy Thầy già xuống chút, mà ráng, coi như là Thầy ráng để mà Thầy duy trì cái cơ thể Thầy để cho nó khỏe, chớ không Thầy cũng phải bỏ cái thân này Thầy đi lâu rồi, chớ không phải mới đây đâu.
Nhưng mà vì chưa, nhìn trước nhìn sau chưa có gì hết, mà cái Trung tâm An dưỡng Từ thiện của Thầy nó ra đời để nó thực hiện cái chuyên tu và cái trợ giúp cho xã hội, mà nó chưa được thực hiện được, cho nên cứ ngồi đây mà sống chờ đợi đám đệ tử của mình để cho nó tu, thì thử hỏi rằng không biết chờ chừng nào, mà cứ mong cho nó giữ cho đúng cái lời dạy mình.
Cho nên có lần các con có hỏi Thầy, tại sao mà mười mấy năm trời nay, tại sao cái pháp của Thầy dạy mà không có người tu chứng đó! Tại vì các con không có nghe lời dạy của Thầy! Cứ cái lời dạy của Thầy mà không giữ đúng. Thầy thì mong cho các con giữ cho đúng, thì các con thực hiện nhanh, để mà Thầy không còn chờ đợi. Còn các con mà thực hiện sai thì cái thời gian nó cứ dài hoài, dài hoài.
(20:17) Bên nữ thì thiệt ra Thầy nói thật sự, Thầy thấy cô Út thì quá khổ, mà nếu mà các con khép hết vào trong thất, thì mình cô Út mà đương đầu với một số người mà họ phá cái Tu viện này thì chắc chắn bên nam các con cũng không yên đâu. Nó say rượu rồi mà cô Út mà cản trở một mình cô Út cản trở không nổi. Nó đi tới đằng sau nó quậy các con cũng tùm lum ra hết.
Có một đêm chừng khoảng độ 12 giờ rưỡi, không biết mấy con có hay không, có một chú say rượu vô nằm ở ngoài đường, cái đường đi vô thất Út đó, nằm ngủ dài ở đó đó, say rượu. Đêm trước thì ông ta ngủ trước này, rồi chó làm dữ quá ông không dám ngủ đây nữa. Ông mới đi ra ở sau đó đó, ông mới nằm dài ở trên cái đường chỗ vô thất cô Út đó, ổng nằm dài ổng ngủ đó. Thầy đi ra Thầy nói: “Ua con rắn con gì mà lớn quá mà nó nằm đây!”
Thầy mới đi từ từ Thầy lại, Thầy mới rọi cái đèn. Mới đầu thì Thầy rọi Thầy nói con rắn, mà con rắn hai đầu, sao lại hai cái đầu đen thui mà cái mình trắng xát? Nhưng mà đi gần tới thì Thầy rọi đèn Thầy thấy là cái ông say rượu bữa hổm, ổng nằm đây ông ngủ.
Trời ơi ông nằm ngủ mà rủi ro ông chết thì mình sao đây! Thôi Thầy cũng không động ổng, kệ. Mà Thầy nghĩ rằng Út chắc ở trong thất chắc không hay, chớ phải hay Út cũng hoảng hồn! Đó là những cái mà nếu mà người khác mà người ta cứ vô đây phá vậy hoài thì mình không yên tu đâu, rất là khó.
(21:51) Vừa rồi ở bên đằng trước này có một cái cô ni nào đó đến đây cũng quậy, mà dữ tợn lắm, mà cả 3, 4 đứa tụi nó trợ giúp cô Út mới đẩy cô đó đi ra khỏi Tu viện, chớ không cô đó nằm vạ ở đây nữa cũng phải mệt lắm!
Các con thấy trong cuộc đời, muốn tạo cho cảnh yên tu nó khó lắm, mà một phút yên thì nó không phải dễ tìm. Thử các con đi về gia đình rồi các con tu tập, tìm cái phút yên khó lắm. Cứ được một, hai ngày yên, thì vài ba ngày sau thì nó lại có người đến động mình rồi. Cho nên sống độc cư không đơn giản đâu, khó, rất khó, không phải dễ!
Vì vậy mà trên bước đường tu tập, một tháng mà các con ở đây, hoặc là một năm mà ở đây mà tu tập, các con ráng cố gắng thực hiện cho đúng những cái lời mà Phật dạy từ ngàn xưa, mà Thầy bây giờ nói rõ được cái ý nghĩa của cái pháp tu. Còn những cái người mà không có thực hiện, không có kinh nghiệm, thì không có nói được cái pháp này đâu.
Như về cái thiện như vậy họ không nói ra được đâu. Mà họ không nói ra được thì các con biết làm sao mà mình tăng trưởng thiện? Cho nên hồi mà Thầy còn đi học, học tới Tứ Chánh Cần đó, thì người ta giảng cho Thầy biết, là tăng trưởng các pháp thiện là mình phải đi bố thí, mình phải làm cái việc thiện xã hội nhiều, gọi là tăng trưởng, người ta dạy mình như vậy, quý thầy dạy vậy đó!
Nghĩa là mình phải đi tụng niệm cúng bái cho nhiều, đó là mình phải làm hết những cái nhiệm vụ của một ông thầy, thì đó gọi là thiện. Đó, hoặc là mình đi thuyết pháp cho nhiều, đó là thiện, kêu là bố thí pháp mà! Nhưng mà mình bố thí pháp như vậy cái tâm mình có động không quý thầy, có thiện không? Đâu có thiện chút nào đâu!
Hễ bố thí pháp hay thì người ta cúng dường tiền nhiều, rồi quần áo, rồi y áo đẹp, rồi đồ đạc, rồi tiền bạc nhiều, thì lúc bấy giờ chúng ta lại thành ác pháp mất hết rồi. Nó khổ lắm, cho nên nó đâu có phải dễ đâu. Cho nên nó không phải là Tứ Chánh Cần, không phải bảo chúng ta làm cái điều đó.
Nếu mà không có kinh nghiệm tu thì chúng ta không thấy được cái pháp này tuyệt diệu, nó làm cho chúng ta từng phút, từng giây có sự giải thoát trong tâm hồn của mình. Vì chúng ta không hiểu nó là thiện ở đâu, và cái mức thiện nó như thế nào, cho nên chúng ta không biết cách thực hiện được cái tâm của mình ở mức thiện đó.
Chớ còn nếu mà nói bây giờ làm thiện mà được giải thoát, thì bây giờ kêu Phật tử đóng góp rồi đi cứu trợ đầu này, cứu trợ đầu kia thì tâm mình được giải thoát, nếu mà làm như vậy là quý thầy mà đi cứu trợ nhiều, chắc bây giờ mấy ổng thành Phật hết rồi. Nhưng mà xét lại mấy ổng có thành Phật không các con? Đâu có thành Phật!
Mà dường như là mấy ổng kêu gọi như vậy, như bây giờ chúng ta đã thấy, như thầy Minh Phát, thầy đã chết rồi đó, thầy đã kêu gọi Phật tử là đóng góp làm từ thiện dữ lắm, nhưng mà thầy có thành Phật được đâu, thầy có làm chủ được sinh tử chỗ nào đâu! Thầy thấy thầy chết rất khổ, thầy bị ung thư, thầy chết rất khổ.
Nghĩa là thầy bị trầy da một chút xíu thôi, không bao giờ lành, nó cứ làm ghẻ hoài, nó không lành, thầy bị đái đường. Cho nên tất cả những cái bệnh khổ ở trên thế gian này, thầy làm việc từ thiện mà nó đổ dồn cho thầy, nó lãnh hết những cái khổ đó hết.
Thầy bị ung thư, rồi đái đường, rồi tất cả những cái bệnh gì mà người ta khổ nhất ở trên cái thế gian này gọi là cái bệnh khổ là thầy lãnh hết, coi như thọ lãnh hết. Bởi vì thầy làm thiện, cho nên thầy phát nguyện lớn là bao nhiêu sự khổ của thế gian đổ trên thân của thầy, đổ trên người thầy. Cho nên tuổi của thầy còn trẻ mà thầy đã tịch rất sớm.
(25:31) Đó thì hôm nay thì Thầy nói như vậy thì các thầy biết rằng, cái hiểu đúng Phật pháp nó mới đúng, mà hiểu đúng nó mới có pháp hành đúng, mà hiểu sai thì các pháp hành sai, sai mất đi, và chúng ta cũng không thực hiện được.
(25:47) Đến đây Thầy cũng xin chấm dứt cái buổi hôm nay, ngày mai hay ngày mốt, bữa nào mà Thầy giảng Thầy báo cho các con tập trung. Bởi vì từ đây về sau Thầy sẽ giảng Tứ Niệm Xứ. Tứ Chánh Cần rồi, mấy bữa rồi thì Thầy đã giảng Tứ Chánh Cần rồi chớ không phải không, nhưng hôm nay tập trung lại đây Thầy giảng cho nó rõ ràng và cụ thể.
Rồi bắt đầu từ đây Thầy sẽ giảng Tứ Niệm Xứ, Tứ Thánh Định, Tứ Như Ý Túc, Tam Minh, tất cả những cái pháp hành mà gọi là giới hành Thầy sẽ giảng hết. Giảng xong coi như là trách nhiệm của Thầy xong, và đồng thời Thầy viết, Thầy soạn lại một vài cái bài pháp nó cụ thể nhất cho cái sự tu tập và để cho các con in ra thành sách để giữ lại cái tài liệu.
Chớ còn mà viết hết những giáo án mà Phật đã dạy, thì cái việc làm đó thì Thầy thấy rằng cái sức của Thầy không có làm hết được. Nghĩa là cái thời gian Thầy làm chừng 5, 3 tháng cho nó xong những cái tập cơ bản thôi, căn bản của cái đường tu tập thôi, thí dụ như Tứ Niệm Xứ, Tứ Thánh Định, Tứ Như Ý Túc, Tam Minh, những cái pháp đó mình phải thực hiện cách nào, làm sao thôi. Rồi Thầy viết ra thành sách.
Còn những cái như cái bộ giới luật, Thầy soạn gần xong, kế đó thì Thầy tiếp tục Thầy giảng cái đạo đức nhân quả. Sau này các con sẽ dựa vào những cái bộ sách này, thì nó là đại cương mà thôi. Coi như là Thầy viết ra đây là đại cương, sau này các con tu xong rồi, các con mới dựa vào đây rồi các con sẽ viết ra thành những bộ sách lớn, nó đi vào những cái chi tiết, sâu sắc hơn, nó cụ thể hơn.
Chớ còn Thầy bây giờ ngồi lại mà Thầy viết đi ra từng chi tiết như vậy, thì cái thời giờ Thầy không còn có nữa, tuổi thì già, sức thì yếu rồi. Cho nên Thầy cũng nghĩ rằng làm được những cái cơ bản chắc nhất, để lại chắc nhất thôi, chớ còn cái mà để làm cả sáu, bảy chục tập, hay cả trăm cái cuốn sách như vậy thì Thầy không còn đủ sức mà có thể làm.
Nghĩa (là) thời gian không còn nữa, coi như là cái thời gian của Thầy nó không có còn, nó chỉ còn cái thời gian mà viết những cái đại cương, như cái cuốn vừa rồi, cuốn một Đường Về Xứ Phật, nó là chỉ đại cương thôi chớ chưa có phải là đi những cái chi tiết sâu đâu. Đọc vào đó thì các con thấy cái đại cương thôi, hiểu biết để mà tu thôi, chớ chưa phải là đi sâu xa đâu.
Đó thì vậy cho nên ở đây, về cái phần mà, những cái gì mà đặc biệt của Tứ Niệm Xứ thì Thầy viết ra, những cái gì mà đặc biệt của Tứ Thánh Định là Thầy viết ra, những cái đó nó thuộc về đại cương hết, Thầy ghi ra hết. Sau đó thì nó được in thành sách, để lại cho mấy con sau này.
(28:46) Từ đó thì các con sẽ kế tiếp con đường đó, bên nam cũng như bên nữ, các con hãy lấy cái đó mà các con khai triển ra, để giúp cho đời người ta tu hành, để triển khai, để chấn hưng Phật pháp lại. Đừng có để người ta mê tín, người ta cúng bái nhiều, người ta tụng niệm nhiều, người ta làm những điều sai.
(29:06) Các con thấy như ở đây, hầu hết như là nhang đèn Thầy ít có thắp lắm, bởi vì đó là cũng là hình thức mê tín đó các con, làm hao tốn tiền của lắm. Nhưng mà chùa nào bây giờ người ta cũng thắp hương hết, nhưng mà ở đây đặc biệt là Thầy, mọi lần thì còn thắp hương, nhưng mà từ đó trở về sau này Thầy ít có thắp hương, tượng trưng như vậy thôi chớ còn không có thắp.
Có lư hương thật sự, chứ không thắp hương. Lư hương để tượng trưng cho chúng ta thắp năm cây hương: Giới Hương, Định Hương, Dữ Huệ Hương, Giải Thoát, Giải Thoát Tri Kiến Hương. Năm cây hương đó chúng ta thắp lên, cái hương giải thoát ở trong tâm hồn của chúng ta thắp lên, chớ không phải là cái hương bằng bột cây mà thắp lên.
Bởi vì cái lời mà Thầy đã giải thích, Thầy đã trả lời cho các câu hỏi, thì nếu mà trước khi mà chưa trả lời thì còn thắp hương được, nhưng mà đã trả rồi thì chúng ta phải thi hành cái lời nói của chúng ta với cái hành động của chúng ta phải đi đôi, không thể nào là khác được.
Đó bây giờ thí dụ như các con trưng một cái bình hoa làm đẹp cho cái nơi thờ Phật, thì tốt hơn là chúng ta làm. Nhưng mà khi nào mà dạy về trưng cái bình hoa mà ý nghĩa nó như thế nào, đúng hay sai, mà khi mà dạy rồi thì chúng ta cũng không còn trưng cái bình hoa, nó như vậy, nếu mà đúng chánh pháp mà. Lấy cái hoa nào để mà trưng cúng Phật, mà cái hoa nào mà không đúng cách trưng cúng Phật?
Bởi vì Chánh Pháp chớ, mình nói đây Chánh Pháp chớ không phải là nói tà pháp. Nhiều khi tà pháp thì nó đem lại những sự mê tín, đem lại cái sự hao tốn tiền của, mà người tu sĩ đạo Phật thì các con biết rằng, khi bước vào tu theo đạo Phật, thì giới luật thì thiểu dục tri túc, làm cho ít tốn hao mà. (30:49) Mà bây giờ thiểu dục tri túc mà làm tốn hao thì làm sao đúng ý nghĩa của đạo Phật.
Đó. Cho nên các con phải hiểu biết được những gì mà Thầy nói ra, thì tức là cái đời sống chúng ta, cái lời nói của chúng ta phải hợp với cái hành động sống của chúng ta, chớ không thể nào chúng ta nói rồi chúng ta cũng làm, thì cái đó điều sai.
Cho nên từ cái ngày mà cái tổ đường này mà cất lên xong rồi, thì được cái dịp câu hỏi các thầy hỏi, mà Thầy trả lời, các con hỏi Thầy trả lời, thì do đó nó có hỏi nhằm ở trên những cái cây hương, cho nên từ đó về sau thì tại nơi đây, thì coi như chúng ta không có thắp hương nữa. Các con thấy Thầy không có thắp hương nữa. Hương người ta cúng cắm như vậy chớ còn không có đốt nữa.
(31:39) Bây giờ thì kế tới, tuần tới thì Thầy tiếp tục Thầy dạy về Tứ Niệm Xứ. Tứ Niệm Xứ dạy về bốn cái chỗ để mà chúng ta thực hiện các pháp. Rồi bắt đầu thực hiện các pháp như thế nào, pháp gì thực hiện ở trên đó, từ trên đó. Cho nên Thầy xin giới thiệu để các thầy và các con hiểu biết.
Tứ Niệm Xứ ở trên thân mà quán thân, tu về nhân tướng. Vậy thì tu về nhân tướng không phải là chúng ta ở trên cái thân này, mà lấy cái Tứ Niệm Xứ này mà tu cái thân, mà lấy cái pháp khác mà tu ở trên cái thân này.
Cho nên khi mà trên thân mà quán cái thân này, để làm cái thân này thanh tịnh đó, thì cái tu tập nhân tướng này, quán nó như thế nào, thế nào, để suy nghĩ nó thế nào để cho phá cái lậu hoặc của nó gọi là Định Vô Lậu.
Lấy cái Định Vô Lậu mà tu, làm cho cái thân này nó thanh tịnh, nó không còn bị lầm chấp, nó hiểu rất rõ cái thân này, nó không bị chấp cái thân này là cái ngã, nó không bị chấp cái thân này là thơm tho, là sạch sẽ, nó thấy rõ cái thân này là bất tịnh, hôi thúi, bẩn thỉu như thế nào, cho nên nó là cái Định Vô Lậu. Nó làm cho chúng ta không còn chấp cái thân chặt.
Đó là Thầy sẽ giảng. Rồi trên thân quán thân tu về nội, hành tướng nội, hành tướng ngoại, thì mỗi một cái thân như vậy chúng ta sẽ tu và đồng thời vừa nội, và vừa ngoại nữa, hành tướng nội và hành tướng ngoại nữa.
Cũng như nhiều khi mà chúng ta vừa đi kinh hành nè, mà vừa nương vào cái Định Niệm Hơi Thở chúng ta tu nữa, gọi là nội và ngoại. Rồi bây giờ trên thân quán thân mà tu về cái nội thân tướng mà ngoại thân tướng nữa, chớ đâu phải là tu có trên thân không đâu.
Và tu như vậy để xác định chúng ta lấy cái định gì mà tu cái thân này, rồi do đó tu cái thân được rồi, rồi các pháp tu cái thân rồi, thì bắt đầu lấy các pháp đó để tu cái thọ. Cái thọ là cái làm chúng ta đau khổ và làm cho chúng ta ưa thích.
Rồi khi mà tu được cái thọ rồi, thì bắt đầu bây giờ chúng ta trên thân mà quán thân, tu về cái tâm chúng ta. Nhân tướng của tâm, rồi cái hành tướng của tâm, rồi hành tướng nội của tâm, hành tướng ngọai của tâm, rồi vừa hành tướng nội, mà vừa hành tướng ngoại của nó. Nó sẽ là những cái định gì mà trong khi chúng ta phải thực hiện ở trên cái này để mà thực hiện cái tâm thanh tịnh. Rồi các pháp cũng vậy.
Cho nên nói thì chúng ta nói như vậy chứ giảng ra thì nó rất nhiều, viết ra thành sách thì nó rất nhiều điều mà chúng ta viết. Rồi những cái lời của Phật dạy chúng ta đều được xác định rất rõ ràng ông Phật đã dạy như vậy. Và đồng thời chỉ những rút tỉa qua những kinh nghiệm của Thầy dạy trên Tứ Niệm Xứ.
(34:34) Do đó những cái bài pháp Tứ Niệm Xứ nó sẽ không giống các pháp Tứ Niệm Xứ của các vị mà đã từng triển khai tu tập từ lâu tới giờ. Nó sai khác, nó không giống nhau, bởi vì người ta tưởng rằng ở trên thân này, quán cái thân này, tu cái thân này là cái pháp đó gọi là Tứ Niệm Xứ. Không phải đâu, cái pháp đó gọi là Định Vô Lậu hay hoặc Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, hay hoặc Định Niệm Hơi Thở.
Cái pháp đó nó có cái tên riêng của nó, và cái tên riêng của nó nó sẽ nằm ở trong cái pháp nào (trong) Bát Chánh Đạo, nó nằm trong Chánh Mạng, thì nói về thân mình thì phải Chánh Mạng rồi, phải không? Mà nói về các hành thì nó là Chánh Nghiệp. Phải rõ ràng nó phải nằm ở đâu để nó chỉ định được cái chỗ đó là mình phải tu cái chân chánh nào. Mà nếu nằm ở trong cái tâm của mình thì Chánh Tư Duy, Chánh Kiến, các con thấy chưa?
Chớ nếu mà không giải thích nổi Bát Chánh Đạo nằm ở trong cái Tứ Niệm Xứ này thì hoàn toàn là chúng ta không biết cách thức tu, mà coi như là Bát Chánh Đạo nó rời rạc nó không có ăn nhập vào ở chỗ này, thì cái đó là cái sai. Cho nên khi mà giảng rồi, nó từ ở bên các pháp này, 37 Phẩm Trợ Đạo nó đưa vào đây nó hết, nằm ở trên Tứ Niệm Xứ này, để chúng ta thấy nó thực hiện, nó thực hiện ở trên bốn cái chỗ này.
Cho nên Thầy nói rằng Thầy không muốn giảng, là vì giảng sẽ làm động thiên hạ, vì không có ai mà từ lâu tới giờ người ta giảng cái này. Mà mình giảng khác thì làm cho người ta thấy người ta nói bậy, rồi người ta đâm ra phiền não mình, cho nên Thầy không muốn giảng.
(36:11) Còn Tứ Thánh Định thì hầu hết là không có ai giảng rồi, người ta không có dám giảng bởi vì người ta không biết. Cho nên Tứ Thánh Định mà Thầy nêu ra tóm lược từ Sơ Thiền đến Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền, mỗi một cái Thiền mình phải tu cái gì cái gì, thì họ chưa có nêu được cái này đâu.
Thầy nêu ra được cái này, và đồng thời Thầy giảng ra thì các thầy sẽ biết rằng nó từ ở trên cái chỗ mà Tứ Niệm Xứ này, bốn cái chỗ này mà tu tập những Tứ Thiền Định đó, chớ không phải ngoài nó đâu. Đó thì, nó cũng nằm trên Tứ Niệm Xứ mà thực hiện Tứ Thánh Định, rồi Tam Minh thì nó cũng ở trên Tứ Niệm Xứ này mà nó thực hiện Tam Minh.
À bây giờ thân muốn bay, không phải là ở trên cái Tứ Niệm Xứ sao? Tâm muốn biến ra con chim, không phải ở trên tâm mà tu Tứ Như Ý Túc sao? Các con hiểu đều đó, cho nên nó đâu có đơn giản đâu, cho nên nó cũng nằm ở trên Tứ Niệm Xứ mà thực hiện.
(37:04) Bây giờ đó muốn, Thầy muốn cái tâm Thầy biến ra cái bàn này, nó là pháp đó. Cho nên từ Tứ Niệm Xứ nó phải thực hiện ra các pháp. Đó, bởi vì cái này nó phải dạy, dạy hết, dạy tất cả, lột xác hết các cả những cái pháp của Phật dạy, để rồi các con không có còn mò đường.
Dạy rồi thí dụ như từ lâu tới giờ mình chưa biết Tứ Như Ý Túc như thế nào, thì bắt đầu bây giờ dạy rồi các con thấy, bây giờ muốn cho cái tâm này nó thành cái bàn nè, thì chỉ ra lệnh nó, bảo cái tâm phải biến ra cái bàn, cái bàn này bằng mây, như vậy vậy vậy, cách thức như vậy, nó làm ra y như cái bàn.
Còn bảo cái tâm này phải biến cái thân này làm ra cái bàn, thì cái thân nó sẽ mất đi nó còn cái bàn không à, cái thân nó không còn ngồi đây, mà cái tâm mà nó biến ra cái bàn thì cái thân nó ngồi đây, thì nó có cái bàn khác ở bên. Đó cái lực của đạo là nó như vậy cho nên gọi là Tứ Như Ý Túc, mình muốn như thế nào thì nó sẽ đủ như thế nấy, túc là đủ mà, muốn làm sao nó làm đủ hết.
(38:07) Tu như vậy mà các con không ham, mà đi ham từng cái chuyện nhỏ nhặt ở ngoài đời thì Thầy thấy nó xa xôi quá. Tu như vậy chỉ cần ngồi đây muốn cái gì cũng có.
Bây giờ Thầy nói, muốn chiếc máy bay bảo nó hạ xuống đây, nó cũng hạ xuống cho mình ngồi chơi nữa. Phải không, các con muốn gì, muốn phi thuyền phải không? Nó cũng có biến ra phi thuyền cho các con đi chơi nữa, đi không gian nữa, chớ cái làm gì mà đi qua bên Mỹ mới có, cần gì mà phải qua bên đó. Thầy nói thật sự cái tâm của mình nó sẽ làm được, nó làm đủ tất cả.
Như vậy là chúng ta, tu như vậy mà chúng ta không tu. Thật sự ra Thầy mà nếu mà ở ngoài đời đó, Thầy mà có vợ con, Thầy bỏ quách hết, Thầy chả cần cái thứ đó đi. Làm sao mà vợ con mình sắm cho mình cái phi thuyền không gian được, phải không? Nó làm suốt cả đời nó chưa có đâu. Nó phải đi qua bên Mỹ, rồi nó học, mà nó đi lái nhờ của Mỹ, chớ làm gì nó có được.
Còn mình ở đây bây giờ mình tu cái này là mình muốn gì có nấy, không phải khỏe sao? Mà trong khi Thầy đã nói hết mình để cho các con thấy cái quyền lực của con người tạo các pháp ở trong vũ trụ. Người ta nói đấng vạn năng, chớ mình biến mình thành đấng vạn năng nè. (39:12) Cái lực đạo của mình như vậy, mà cái tâm của mình hết tham, sân, si là nó làm được cái chuyện đó đó.
Mà các con cứ đụng tới cái sân, đụng tới cái si, đụng tới cái giận hờn! Trời đất ơi! Đã bỏ hết cái này, thì có cái kia mà. Cái kia là vĩ đại mà không ham, đi ham chi cái sân, si gì mà cứ ai đụng tới cứ giận hờn hoài! Thiệt là ngu si sao đâu thiệt, tức quá, Thầy mà hiểu biết được cái Thầy bỏ cái rẹt, ai chửi Thầy như cục đất, còn các con bỏ gì? Nói gì cũng không chịu nghe hết! Trời ơi Thầy chỉ cái hay ho để mà mình ham cái hay ho đó, mình nỗ lực cái này!
Nhưng nói tận cùng cho quý thầy nghe. Khi mà nghe Thầy nói vậy mà cứ ham mình có thần thông đó, thì cái ham của quý thầy là còn cái dục thì quý thầy cũng không có cái gì hết. Quý thầy phải xả luôn cái dục đó, thì chừng đó quý thầy mới điều khiển nổi.
Chớ còn quý thầy nói tui quyết tâm tui xả tham, sân, si để quý thầy ước cái điều đó, hay hoặc là tui xả cái tâm tham sân si của tui, để tui bảo cái thân này bay trên hư không, rồi nó ngồi xếp bằng nó bay cho thiên hạ coi chơi, thì ngàn đời quý thầy cũng bảo nó không bay đâu. Quý thầy xả luôn cái đó thì nó bay đó.
Khi nào mà quý thầy không còn ham cái gì hết thì quý thầy ra lệnh nó sẽ làm được. Mà còn một chút, mình nói mình nỗ lực mình xả cho hết cái tâm tham, sân, si, để cho mình có cái này, thì chẳng có thứ gì hết. Đó là xả cho toàn thiệt thì nó có. Cho nên Thầy nói, thiệt là nó có một chút xíu thôi à, hết tham, sân, si thì nó có, cái gì nó cũng có hết.
Nhưng mà Thầy nói như vậy, nói những cái mà nó siêu việt như vậy, để nó gợi cho cái ý chúng ta quyết định, chúng ta phải làm cho được. Không phải làm được để mà ham thích cái này, mà làm được để giải thoát được cái tâm của mình làm chủ sanh tử này, đó là cái đích chính của mình.
Rồi tới chừng đó quý thầy được cái này, quý thầy coi như là vỏ trấu, nó không có nhằm nhò gì đâu. Cho nên nó đâu có biểu diễn mà đi khoe khoang. Cỡ sức mà nói thật sự, bây giờ Thầy xin giấy xuất cảnh, nhập cảnh, Thầy qua bên Mỹ Thầy làm một trò biểu diễn cho thiên hạ một cái là rần rần Thầy thu bạc biết bao nhiêu tiền, Thầy về đây Thầy làm từ thiện, người ta nổi tiếng dễ lắm chứ gì, phải không? Mà người ta nói Thầy rồi đủ thứ.
Nhưng mà Thầy làm như vậy, trong vòng chừng Thầy về đây thì Thầy đi xe hơi còn chớ còn Thầy bay không nổi nữa. Bởi vì cái dục của Thầy, cái tâm danh của Thầy nó lớn quá rồi, cái tâm dục của Thầy nó nhiều quá, Thầy bây giờ mất hết phép thần thông. Bởi vì nó sống đời cái người thế gian thường tình rồi, thì nó làm sao nó còn có những thanh tịnh được nữa mà nó thần thông. Các con hiểu biết điều đó.
(41:39) Thầy rõ lắm, cho nên cùng cực những cái gì mà thực hiện để mà trợ duyên thì thực hiện, mà không đúng thì không thực hiện. Cái đó, chuyện đó bằng trí tuệ, bằng sức lực của mình làm được, giải quyết được Thầy không hề động móng tay tới nó đâu.
Mà cái đó nó ngoài cái sức, không thể giải quyết được nữa, để cho nó được giảng hòa, để cho nó được giải quyết cho nó ổn thỏa, thì mới sử dụng một tí xíu mà thôi. Mà sử dụng rất khéo nữa chớ còn không để ai lộ biết nữa, chớ không phải là đơn giản, không phải là đụng đâu mỗi chút, mà mình làm sai một chút ít, nó đều nổi cái bản ngã của mình lên, nó đều sanh ra cái tâm dục.
Cho nên làm những cái điều này rất là cẩn thận, kỹ lưỡng, chớ không phải là muốn bay để mà bay chơi, rồi mấy con ngước mỏi cổ mà nhìn… (Không nghe rõ) Cái chuyện đó không phải là cái chuyện của một người tu mà làm cái chuyện đó.
Nếu mà Thầy làm con diều gió mà Thầy bay lên trên trời, các con ở đây cứ dòm ngó ngó riết, bay một lúc mất, ngó mỏi cổ thôi, thì cái chuyện đó là cái chuyện đùa chơi giỡn, rồi sau đó thì các con chỉ còn cái ham thích cái đó là cái sai, không có đúng. Cái chính đau khổ chúng ta là phải dứt ra nè, cái đó là cái chính, nó đang khắc khoải ở trong lòng của mình, có thân là khổ nè.
(42:50) Đó như bây giờ các con biết cái khổ của cô Huệ Ân chớ. Cổ tám mươi tám mấy tuổi rồi, cái già nó khổ lắm. Bây giờ cổ biết khổ lắm chớ phải không đâu, nhưng mà nhờ cái pháp nó làm cho cái tâm nó an ổn, chớ cái người già như vậy rất là khổ, không phải không. Cái thân nó đi đứng, hay làm cái gì nó mệt nhọc, nó tức nó nhói bên đây lắm. Phải không, Thầy nói các con không tin các con hỏi cô Huệ Ân thì các con biết liền.
Các con bây giờ còn thấy khỏe đó, chưa đâu, lớn lớn một chút xíu rồi cái nghiệp các con nó kéo dài tuổi thọ các con biết. Chừng đó các con đừng có rên, chớ cô Hụê Ân thì bây giờ nó biết, nhưng mà điều kiện, nó nhờ được cái pháp cho nên nó an ủi được tinh thần, nó sống thấy thoải mái.
Chớ còn đối với người đời, cỡ cái tầm vóc của nó là kể như là khổ rất khổ. Cô đơn, con cái mắc lo đi làm hết, sống một mình ở trong nhà, khổ lắm. Người ta nói già khổ mà, ai mà già rồi mới biết rằng khổ, quét quét như vầy là nó tức bên đây rồi. Nó cái thân nó suy yếu nó đến cái độ mà nó không thể tưởng, vậy nó mới chết được.
Cho nên vì vậy người ta hiểu biết được còn một chút sức khoẻ, đừng có nghĩ rằng nó sẽ khoẻ đâu. Nó sợ lắm các con. Đừng có nghĩ là ngày hôm nay chúng ta khoẻ đâu, rồi ngày mai nó khoẻ được vậy đâu, nó chưa đâu.
Cho nên khắc khoải, Thầy nói, làm sao ba tháng, sáu tháng xong là chúng ta khỏe. Nghĩa là bây giờ chúng ta muốn chết hồi nào chết, muốn sống hồi nào sống là chúng ta khoẻ. Còn bây giờ mà chúng ta bảo nó chết nó không chịu chết, mà bảo nó nín thở nó không chịu nín thì kiểu đó là chắc chắn là tới chừng nó nín thở là mình phải chết khổ à, mình không có làm gì được hết.
Cho nên bây giờ làm sao mà chúng ta bảo nó “Nín thở!” là nó nín thở được, thì chúng ta biết rằng mình làm chủ được nó. Mà bảo nó nín thở mà nó cứ thở hoài thì không được rồi. Còn chỗ nào đau nhức, mà bảo “Đừng đau!” mà nó cứ đau hoài, thì cái chuyện này mình chưa có làm chủ được rồi.
Mình hãy lo lấy cái số phận của mình, đang ở trong bốn cái khổ đó. Cho nên lo thì phải sống độc cư cho hẳn hòi, chớ nếu mà không sống độc cư thì quý thầy bị chết với nó đó, chớ nó không phải dễ đâu. Đây là một cái sự chân thật, Thầy nói thật, khổ lắm các con! Đi tu phải thực hiện cho được, để mà thoát ra bốn cái khổ này!
(44:57) Đó thì, như vậy thì các con bây giờ đã hiểu hết rồi. Thầy đã hiểu biết các con đã thâm nhập từng sống ở đây 3, 4 năm rồi, đã thâm nhập được những cái lời dạy của Thầy nhiều rồi. Và hiện bây giờ Thầy dạy về cái pháp hành, cái giới hành, để các con biết hành cái gì, cái gì, cụ thể rõ ràng từng chút, và những cái pháp mà các con đang tu, các con biết hằng ngày hằng giờ các con tu để mà giữ gìn cái tâm mình như thế nào các con đã biết rồi.
Thì như vậy là qua cái bài pháp này, các con đã nắm rất vững cái đường lối tu tập rồi. Và bây giờ các con còn nghi ngờ một cái gì nữa thì các con sẽ hỏi và đồng thời Cô Út đã thay các con để hỏi, và sau này thầy sẽ trả lời hết những cái lời cô Út. Và đồng thời thầy sẽ hỏi cô Út, bây giờ trong cái cuộc hướng dẫn bên nữ, con có gặp những cái gì khó khăn cứ hỏi Thầy đi. Hỏi hết, nghĩa là coi như là Thầy ghi lại hết, Thầy trả lời hết.
Để làm gì? Để cho các con sau này có những cái tài liệu, và biết được những cái sai, cái đúng trên con đường tu tập của mình. Thầy ghi lại hết, rồi sau này Thầy sẽ nghỉ, thầy không ghi nữa. Vì Thầy làm việc có một cái thời gian thôi, chớ không lẽ làm việc hoài. Thầy đâu phải là người cầu danh mà cứ ngồi viết sách để mà cho người ta biết tên tuổi mình đâu, đâu có nghĩa lý đó.
Cho nên Thầy chẳng muốn ai biết tên tuổi Thầy. Nhưng mà vì cái mục đích Phật pháp mà Thầy là người đã hiểu được đường lối tu tập của Phật pháp như vậy, cho nên không viết cái đại cương này ra, thì sau này ai biết đâu mà viết? Các con hiểu điều đó.
Cho nên Thầy cố gắng Thầy viết những cái đại cương, những cái giới luật, những cái điều mà Thầy đã qua kinh nghiệm tu tập của mình Thầy đã viết lại.
Rồi những cái gì mà khó khăn trên bước đường mà, qua những kinh nghiệm, như cô Út gặp phải, hướng dẫn gặp phải, các con thì chưa hướng dẫn cho nên các con chưa có gặp, còn cô Út thì gặp phải. Các con chỉ có cái tu tập gặp những cái khó khăn trên cái bước đường tu tập, các con hỏi.
Rồi gặp những cái điều mê tín dị đoan như thầy Chân Thành, hoặc là Chánh Tâm gặp thấy trong cái hoàn cảnh ở địa phương của mình, có những cái mê tín không có đúng con đường của Phật giáo, cho nên có những cái hỏi, vì vậy nó là những cái mà được Thầy trả lời cụ thể để giúp cho người ta thấu hiểu được Phật giáo, cái đúng cái sai của Phật giáo.
Còn cái phần cô Út hỏi, thì vừa là tiếp khách, vừa là hướng dẫn các con tu tập, vừa là đập phá những cái tâm tham sân si của các con, để giúp cho các con vượt qua, để tu tập, để giải thoát được mình, cho nên nó có những câu hỏi, nó súc tích được những cái thực tế và cái kinh nghiệm trong con đường tu tập của các con,
Cho nên Thầy thấy những câu hỏi này có giá trị sau này, giúp…
HẾT BĂNG
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Thời gian: 1998
(00:00) Cho nên từ cái ngày mà tu qua rồi, thì nó xả thiền ra, thì ăn cơm rồi, thì cái buổi trưa nó ngồi lại, nó ghi chép lại trong một cái ngày đêm nó tu tập, nó có những cái câu hỏi rất là đặc biệt. Và đồng thời Thầy cũng trả lời khuyến khích trong một tuần lễ nó tu tập, trong một tuần lễ nó tập như nào.
Cho nên hầu hết là các Thầy đều là, các con đều là bỏ tập nhật kí thời khóa chớ riêng Minh Tông thì còn giữ gìn mãi mãi. Từ cái ngày mà đặt thành cái nhật kí thời khóa tu tập tới bây giờ nó chưa có bỏ, lúc nào nó cũng ghi. Vì vậy mà những cái mà nó hỏi Thầy và những cái kinh nghiệm, rút tỉa được từ cái kinh nghiệm của nó.
Sau này thì Thầy cũng đặt những cái câu hỏi để mà trả lời tất cả những cái kinh nghiệm của nó, để nó thành ra một cái vấn đạo, để giúp cho cái người mà đi tới một cái giai đoạn mà tu tập cao hơn, như nó vậy, thì nó dễ hiểu hơn, nó dễ biết cách hơn.
Vậy cho nên cái phần này để dành riêng. Còn bây giờ nếu mà các con được đọc thì các con sẽ bị tưởng mất đi, cho nên chưa có cho các con đọc những cái câu hỏi này.
Bởi vì những cái này nhằm khi các con chưa tới cái giai đoạn đó, như bây giờ chưa hết vọng tưởng, còn vọng tưởng, chưa có làm chủ được cái ngủ mà vội làm chủ được cái tỉnh thức ở trong giấc ngủ phá mộng tưởng, thì như vậy mà đã theo những cái điều kiện mà nó thực hiện mà nói ra như thế này, thì các con bị ảnh hưởng tưởng hết, nó phải đi từng bước.
(1:29) Cho nên nó có những cái dễ mà cũng có những cái khó, mà cái khó đó thì mình phải đi từng bước thì nó mới dễ. Còn mình đi, mình nghe cái đó như vậy, cái bắt đầu cái mình làm liền, cũng như thí dụ như bây giờ cô Diệu Hảo, đang ở trong một cái tâm nó yên lặng, nó mới đạt được cái yên lặng, thì lẽ ra dùng cái yên lặng này để mà càng quét sạch cái tâm, giữ gìn cái thiện pháp của mình, tập tỉnh thức cao hơn, khoan phá âm thanh đã, thì nó hay hơn!
Trái lại thì, cô thấy nó vừa được yên lặng nó không có Tầm Tứ chớ gì, trong yên lặng đó thì cô vội cô phá âm thanh, thì trong khi cái tâm của cô nó chưa có sạch cái lậu hoặc, nó còn các pháp ở bên ngoài đập từng giây, từng phút, nó chưa có yên.
Nghĩa là, ở đâu người ta kéo đến cái nơi của cô, nó tạo thành một cái động, mà bây giờ cô ở đây, cô nỗ lực cô tu là nhờ cái sự trói buộc kiềm chế trong ba tháng hạ này. chớ nếu mà cỡ không thì cô cũng không yên mà ngồi đây được, cô phải về chớ không thể nào mà ngồi đây được,
Thế mà, đó là những cái pháp ở ngoài nó đập phá mình như vậy, thế mà cô phải nỗ lực hơn để mà xả ly được pháp, thì cái sự vắng lặng này nó sẽ là cái sự vắng lặng chân chính. Còn bây giờ mình dùng ức chế để vắng lặng, dùng bám cho thật chặt để mà vắng lặng, thì phải là vừa xả mà vừa bám, nó cả một cái sức dữ lắm.
Còn bắt đầu bây giờ chúng ta được yên lặng rồi, thì dùng cái yên lặng này, chúng ta nỗ lực hàng ngày, chúng ta tu yên lặng thì chúng ta phải tập tỉnh thức thêm, để mà xả ly, nghĩa là xả ly cái hoàn cảnh, cái ác pháp nó đến đập chúng ta. Thì xả được các pháp, bởi vì mình tu được cái thân cái tâm của mình yên tịnh rồi, thì bây giờ phải tu các pháp thanh tịnh chớ, để cho các pháp ngoài nó đừng có đánh mình nữa. Các con thấy không, nếu mà các pháp ngoài nó cứ đánh mình hoài thì nó mất thanh tịnh.
Cho nên các pháp ngoài phải ngăn chặn liền, không có cho nó đến phá nữa. Phải đập nó xuống hết để cho cái thân và tâm với thọ của mình nó được yên tịnh, để mình thực hiện, mà các pháp nó cứ đánh hoài, nó đánh hoài mình tu không được.
Cho nên khi mà thân, thọ, bây giờ tâm mình ngồi đây nè, nhiếp hơi thở nè, không vọng tưởng nè, nó yên lặng nè, đó thì mình biết rằng nó có sự yên lặng của thân và tâm của mình.
Bởi vì mình ngồi là cái thân mình yên lặng rồi, nó không dao động cái thân mình biết rồi, trong ba mươi phút mà, rồi bắt đầu cái tâm của mình không có niệm nào hết là nó yên lặng rồi. Như vậy là thân yên lặng và tâm yên lặng trong ba mươi phút. Mà bây giờ các pháp cứ đánh vô, mặc dù mình ngồi mà các pháp đánh vô thì cái hoàn cảnh mà tỉnh thức nó có xảy được trong tâm của mình tỉnh thức không?
Hay hoặc là mình đang lo, nó lo tức là không tỉnh thức, không Chánh Niệm rồi. Nó đang nghĩ ngợi cái này cái kia nó không Chánh Niệm rồi. Mà muốn nó Chánh Niệm thì phải phá cái lo lắng đó đi, nó đang ở trong cái Chánh Niệm. Còn nếu mà còn cái lo lắng thì cái Chánh Niệm nó không còn. Mà nó không còn thì bây giờ mình có phá cái âm thanh đi nữa, thì nó cũng không có phá nổi.
Cho nên bây giờ nó được yên lặng của thân tâm rồi tiến tới tu tập yên lặng của pháp. Đập xuống các pháp hết, pháp thương, pháp ghét, pháp giận, pháp hờn pháp gì cũng đập xuống hết, đập các pháp hết không có cho xâm chiếm vào tâm mình nữa. Thì đó mình mới thấy thân, thọ, tâm, pháp thanh tịnh. Thì bắt đầu Tứ Niệm Xứ này mới đi vào Tứ Thánh Định mới được. Phải không?
Thân, thọ, tâm, pháp thanh tịnh, tức là mình mới đi vào Tứ Thánh Định, thì như vậy gọi là ly dục, ly ác pháp.
(4:49) Thì khi mà thân, thọ, tâm, pháp mà thanh tịnh tức là ly dục, ly ác pháp rồi, thì như vậy chúng ta mới đạt được cái Thiền đầu tiên là Sơ Thiền. Tiếp tục cái Nhị Thiền là phải tịnh chỉ Tầm Tứ. Mà tịnh chỉ Tầm Tứ kiểu mà chúng ta ức chế là không được, mà chỉ có ra lệnh hướng tâm: “Tầm Tứ phải diệt, phải tịnh chỉ!”, thì ngồi đây, bắt đầu cái tịnh, cái tâm thức phải biết rõ hơi thở, mà “Tầm tứ phải diệt!”, thì bắt đầu ngồi lại nó không có một niệm vọng tưởng xen vô hết.
Mình ra lệnh à, chớ không phải là mình nhiếp gì hết, mình ngồi đó thản nhiên không có tập trung cái gì hết, không có gồng hai cái vai này lên, không có căng cái mặt lên. Cho nên mình ngồi rất nhẹ nhàng, thư giãn, mà không có tập trung…, chỉ ra lệnh của mình ngồi vậy cái hơi thở nó cứ theo mình mà nó ra vô ra vô ra vô.
Mình bảo hơi thở nhẹ, chậm thì nó nhẹ, chậm theo. Mình không có thở chậm nhẹ, mà bảo nó tự nhiên nó chậm nhẹ. Mình thấy cái chỗ mà mình điều khiển cái hơi thở chậm nhẹ nó khác, mà bảo nó chậm nhẹ nó là khác.
Khi tu tới đây, các con mới thấy được cái chỗ nó hay là cái chỗ này. Mình bảo nó khác mà mình làm chậm nhẹ, có khi mình bảo rồi mình thở chậm nhẹ, có, nhưng mà cái mình làm chậm nhẹ đó nó không hay đâu, nó có cái vận dụng ở trong đó nó làm cho mình mệt nhọc.
Còn mình bảo nó rồi mình ngồi vậy tự nó nó thở chậm nhẹ, mình biết cái hơi thở sao mà biết nghe lời, nó làm chậm nhẹ chớ không cần phải mình làm! Đó là lúc cái tâm thanh tịnh rồi đó, bảo cái gì nó nghe cái nấy.
(6:04) Cho nên mình bảo cái thân bay là nó phải bay, Thầy nói như vậy. Thì bắt đầu bây giờ mình bảo phải cái tâm này phải tỉnh thức nè, không có mộng mị, không có chiêm bao nè, không có ngủ. “Cái thân này ngủ đi!” Ra lệnh vậy cái thân nó ngủ mà cái tâm nó thức, chớ không phải cần mình tập nhiều nữa. Mình chỉ ra lệnh thôi, miễn cái thân này, mình làm cho các pháp thanh tịnh, đừng có tập, đừng có phá mình nữa, thì cái chuyện đó quá dễ chớ gì.
Thầy nói thật sự Thầy ở trong thất, cái kinh nghiệm này Thầy có. Thầy chỉ nói với mẹ Thầy là từ đây về sau đừng có cho ai vào thất Thầy hết, đừng có ai hỏi Thầy hết, hoàn toàn, ở ngoài chết hay làm gì cứ làm, đừng có hỏi Thầy, Thầy dặn mẹ Thầy vậy. Thì cho nên ai đến hỏi Thầy hay hoặc làm cái gì, thậm chí cô Út cũng không hỏi Thầy được! Thì con biết như vậy là xả hết các pháp, làm cho cái pháp thanh tịnh mà. Để không người ta hỏi mình là nó không có thanh tịnh được.
Tu tập như vậy nó mới tu nổi, ngăn chặn như vậy nó mới ngăn chặn chớ, chớ không để các pháp nó đến nó đập mình hoài. Mà đập hoài thì cái tâm mình tu lâu, nó mất thì giờ mình nhiều. Mất thì giờ mình nhiều lắm, rất cực. Đó, thì trên bước đường Thầy nhắc nhở các con phải hiểu rõ vậy.
Mà khi cứ ra lệnh, ra lệnh, thì các con ra lệnh bữa nay các con chưa xong, ngày mai ra lệnh cái nó làm! Nó làm à. Bữa nay ra lệnh làm như là nó mới quá nó chưa biết, nó chưa biết đúng tên đúng họ nó. Nhưng mà tự mình mình ra lệnh cái sao thấy nó làm không được, mình thay đổi câu hướng, mình nói sao đúng tên nó cái bắt đầu nó vô à.
Hồi đầu mình chưa có biết, mình nói nó trật, trật tên trật họ nó hay sao, thành ra nó không chịu quay, chừng mình nói đúng tên họ nó rồi cái bắt đầu nó làm vô. À như vậy là tại mình nói trật, cho nên mình suy nghĩ, cái bắt đầu mình nói, nói cái trúng, trúng cái nó quay vô, trúng quay vô, bảo cái nó nghe lời.
Mà nó nghe lời, tới chừng bảo “Tịnh chỉ hơi thở!”, cái nó tịnh chỉ hơi thở. Trời ơi sướng quá chứ gì, có tu gì đâu, cứ ra lệnh, ra lệnh, cái bắt đầu nó vô thiền định. Rồi bắt đầu mình ra lệnh nó bay nó bay, ra lệnh nó làm hai, ba người ngồi cả đống với nhau ở trỏng.
Mình ngồi ban đêm một mình mình muốn ngồi cả đầy thất ở trỏng, ngộ ta! Sao mà có mình mình mà bây giờ nó ngồi ba bốn ông như vậy, cái thất của mình nhỏ xíu mà ngồi chật hết! Mình nhìn mặt ông nào cũng giống ông nào hết, như vậy Thầy thấy sao ông nào cũng giống Thầy hết, sao mà ngồi giống ông La Hán vậy, ông nào cũng ngồi thiền hết. Như vậy mình thấy sao nó hay quá vậy?
(8:26) Mà bảo cái tâm thì nó làm cái tâm, mà bảo cái thân thì nó làm cái thân, chớ không phải là cái thân nó khác, mà cái tâm nó khác. Đó thì, Thầy nói như vậy, mình chỉ mình ngồi mình làm những chuyện như vậy, mình thấy trời ơi thiệt là, đạo lực thiệt chứ không phải là tầm thường.
Đó, hôm nay Thầy nói như vậy, không có nghĩa là chúng ta ham thích cái đó như Thầy nhắc hồi nãy, mà chúng ta phải làm chủ được cái sinh tử. Nỗ lực, đừng có ham những chuyện vu vơ, cái chuyện tầm thường ở thế gian, nó không có lợi ích gì hết, nó làm khổ cho mình thêm. Càng bước chân ham thích cái chuyện đời là càng khổ mình thêm. Cho nên chúng ta phải xả, xả thiệt là xả tận cùng, để rồi chúng ta phải nỗ lực tất cả những cái này.
(09:02) Đó, thì đến đây Thầy xin chấm dứt, để rồi các con về nỗ lực thực hiện. Nghe nhiều mà không thực hiện không bằng nghe ít mà thực hiện. Chẳng hạn bây giờ mà Thầy dạy Tứ Chánh Cần bấy nhiêu đó thôi, các con cứ nỗ lực tu tập bấy nhiêu đó, thì trong sáu tháng các con cũng sẽ làm được cái chuyện này.
Không cần phải nói nhiều nữa, không cần mà dạy Tứ Niệm Xứ thêm nữa cái gì nữa, bấy nhiêu cũng đủ lắm rồi đó. Nhưng dù sao đi nữa Tứ Niệm Xứ nó còn những cái chỗ để mà các con…
Lẽ ra thì Thầy dạy bấy nhiêu rồi các con nỗ lực tu. Một tuần lễ sau khi dạy Tứ Chánh Cần này, một tuần lễ các con sẽ báo. Mà báo được kết quả rồi thì cái người nào mà được nghe Tứ Niệm Xứ Thầy sẽ cho nghe, mà người nào mà không được nghe Thầy không cho nghe. Bởi vì người đó nghe mà không có chịu thực hành thì nghe thêm nữa làm gì, phải không?
Chừng nào mà Thầy nghe báo cáo “Thầy, bây giờ con đang học Tứ Chánh Cần, con đã tu như vậy vậy đó”, thì Thầy nghe thấy đúng, Thầy dạy Tứ Niệm Xứ cho nghe.
Mà nếu mà không có thực hiện được, thì nghe thêm nữa nó làm thêm cho mình tích lũy cái sự hiểu biết thêm chớ có lợi ích gì đâu. Nghe để tu, chớ không phải nghe mà để nghe, hay hoặc là để tích lũy cái sự hiểu biết đó, thì cái đó là cái sai. Nghe để thực hiện sự giải thoát.
Cho nên trong một tuần lễ, thay vì một tuần lễ qua rồi mà các con đã đạt được, thì biết đâu chừng trong chúng đây, các con trong tuần lễ mà tâm thiện nó kéo dài tuần lễ, các con ra lệnh mà nó bay được thì nó còn mau hơn nữa. Thầy nói là ba tháng chớ không biết chừng nỗ lực mà thực hiện trong một tuần lễ.
Bởi vì Phật nói bảy ngày mà. Chỉ có cần bảy ngày mà được thì các con sẽ thực hiện được Tứ Như Ý Túc mà, chớ đâu phải là đợi lâu đâu. Mà giờ nếu mà bảy ngày không được thì sáu ngày, sáu ngày không được thì năm ngày, cứ lui dần lại một ngày một đêm.
Bây giờ Thầy nói rồi, một đêm từ bảy giờ chiều này, mà cho tới sáng mà các con thức, tu hành mà nó hăng hái nó không có buồn ngủ, thì biết rằng nó đã đúng là Tứ Chánh Cần rồi, nó siêng năng dữ tợn rồi, nó không ham ngủ nữa. Do đó là sáng hôm sau các con bay lên trời được.
(10:53) Hôm nay, Thầy tiếp tục cái bài học Tứ Chánh Cần, thì chúng ta thấy rằng cái bài học Tứ Chánh Cần nó chưa có hết, cho nên chúng ta biết rằng các pháp ác để mà ngăn chặn. Như Thầy có nói sơ thì chúng ta biết rằng nó dùng cái Chánh Niệm Tỉnh Giác Định để mà ngăn chặn các pháp ác hay hoặc dùng cái Định Niệm Hơi Thở để ngăn chặn các pháp ác. Nhưng dùng cái Định Vô Lậu thì đoạn dứt các pháp ác.
Vậy thì hôm nay Thầy sẽ triển khai về cái Chánh Niệm Tỉnh Giác Định để ngăn chặn các pháp ác, để thực hiện Tứ Chánh Cần cho rốt ráo, cho thành tựu được cái Tứ Chánh Cần, làm cho tâm của mình còn toàn thiện, còn một sự giải thoát mà không có bị phiền não, tham, sân, si nữa, không có bị ác pháp sanh khởi và tăng trưởng.
(11:56) Cho nên trong cái vấn đề tu tập, rất là quan trọng khi mà học về cái giới hành, tức là cái phần mà luyện tập, tu tập và trau dồi, là cái phần rất quan trọng. Cho nên hôm nay, thì mấy con là những người mà đủ duyên, được nghe cái giới hành, được nghe các pháp hành của Phật.
Tức là Thầy không dạy ngoài cái vấn đề của các pháp hành, nhưng cái sự dạy của Thầy thì Thầy cũng không bảo là các con phải tin ngay lời Thầy, nhưng mà lấy một cái cái trí tuệ của các con mà suy ngẫm, suy ngẫm coi Thầy có nói đúng hay là không đúng. Bởi vì từ lâu tới giờ người ta dạy pháp thiện và pháp ác, thì người ta hiểu theo cái kiến giải của mọi người.
Cho nên hiện giờ Thầy cũng không bắt buộc là các con cũng như là quý thầy tin ngay liền ở Thầy, nhưng mà sự thực hiện cái tâm của mình nó có mang đến cái kết quả của sự giải thoát của cái pháp Tứ Chánh Cần này không? Bởi vì trong Tứ Chánh Cần, thì như các con cũng đã biết, các pháp ác chưa sanh thì không cho sanh, mà đã sanh thì cố gắng mà đoạn diệt, không có để cho nó kéo dài ở trong tâm của mình.
Và các pháp ác thì như Thầy đã dạy, thì các con thấy nó rất rõ ràng, thì ai cũng dạy các pháp ác thì cũng thấy cũng như vậy. Nhưng đến các pháp thiện, thì hầu như người ta dạy lại có khác hơn Thầy, cái nhìn nó có khác hơn Thầy.
Cho nên khi mà nói đến thiện, thì hầu hết là Thầy triển khai ở cái chỗ ác của cái ý hơn là ở chỗ cái ác của thân và khẩu, cái ác nó của ý. Mà cái ác của ý thì chúng ta biết tham, sân, si. Nếu có tham thì mới có sân, mà không tham thì không có sân. Mà có tham sân thì nó mới có si, còn nếu không có tham sân thì không có si, không có mê muội. Như vậy thì Thầy triển khai cái pháp ác đầu tiên của ba cái pháp ác ở trong ý của chúng ta, đó là tham.
Cho nên, muốn mà thực hiện cho rõ ràng cái điều kiện này, Thầy nói thí dụ như mình khởi thương nhớ đối với cha mẹ, thì do đó là đối với cái lòng hiếu thảo thì thương nhớ cha mẹ là thiện chớ sao lại ác! Nhưng đối với Thầy thì cho đó là ác pháp, thì các con hãy suy ngẫm cái lời nói của Thầy có đúng hay là không đúng?
Bởi vì đây nó ngược lại cái lời nói của các Thầy khác giảng, và nó cũng không đúng với những cái điều mà người ta nghĩ ở trong các tôn giáo khác, thí dụ như đạo Khổng, Lão Tử, mà khi mình nhớ cha nhớ mẹ mình, mình biến ra những cái hành động hay hoặc là mình cung phụng, mình trợ giúp cho cha mẹ mình bằng cách này cách khác, thì đó là thiện chớ không thể ác. Nhưng trái lại, khi mà thực hiện ở trên Tứ Chánh Cần, mà theo cái điều mà Thầy dạy, mà nhớ thương cha mẹ, điều đó điều ác.
Bởi vì mình làm sao để cho mình được giải thoát hoàn toàn ra khỏi sanh tử luân hồi, mà mình phải, mình mới trợ giúp cái người mà sinh thành dưỡng dục của mình, là cha mẹ mình. Còn bây giờ mình nhớ, mình thương, thì nó làm cho mình bị trói buộc, nó không thể ra khỏi các pháp ác đó, nó làm cho tâm mình ray rứt khổ sở, do cái lòng hiếu hạnh của mình bằng cách này, bằng cách khác. Thì những cái bằng cách đó nó không đúng tính cách hiếu hạnh của đạo Phật.
Vì mỗi một cái tôn giáo nó có cái hiếu của nó, nó không giống nhau đâu. Đối với đạo Phật thì cái hiếu của nó làm sao cho cha mẹ của mình, cái người mà đại bố thí cho mình đo, cho mình được cái thân xác này để mình tu tập đó, thì cái người đó là cái người ơn, ơn rất lớn đối với mình. Cho nên mình muốn đền đáp cái ơn đó, không có nghĩa là phải nuôi dưỡng người đó bằng cách này bằng cách khác, mà phải thực hiện sự giải thoát của mình cho xong, rồi đem cái kinh nghiệm giải thoát đó dạy lại cho người, giúp cho người cũng thoát ra khỏi cái cảnh khổ đau của kiếp người nữa, thì như vậy gọi là cái ơn chí hiếu.
Còn hiện giờ chúng ta, cái hiếu của chúng ta bằng cách là cung phụng, trợ giúp cho cha mẹ mình bằng cách này bằng cách khác, để cho cái cuộc sống trong cái hiện tại này được thảnh thơi, được một chút an ổn nào đó, thì cái đó chỉ là một cái cạn cợt của cái sự hiếu chớ không phải sâu sắc.
(16:26) Mà chính cái chỗ đó lại là nó thuộc về kiết sử, nó làm cho chúng ta bị trói buộc cái bổn phận làm con, bổn phận làm cha như thế nào, làm mẹ như thế nào. Đó là nó bị trói buộc ở trong một cái bổn phận mà không thoát ra. Cho nên ở đây, về cái phần mà thiện thì các con phải suy ngẫm rất kĩ, Thầy thì dạy khác mà mọi người đều có dạy khác.
Rồi còn về Tứ Niệm Xứ, bốn cái chỗ mà để chúng ta tu tập làm cho nó thanh tịnh đó, thì người ta đương nhiên người ta coi như là bốn chỗ đó để mà thực hiện một cái gì giải thoát ngoài bốn cái chỗ đó. Còn ở đây, bốn cái chỗ đó thì Thầy lại, cái hiểu biết, cái kiến giải của Thầy, thì nó nhằm là thực hiện bốn cái chỗ đó cho thanh tịnh, làm bốn cái chỗ đó nó không còn bị tham sân si phiền não, bị kiết sử trói buộc nữa, cho nên nó lại khác những cái phần khác như vậy.
Vì vậy mà trên cái bước đường giảng về cái giới hành, nó có nhiều cái sự đụng chạm với các bậc tôn túc, các bậc Hòa thượng và các vị tu sĩ Phật giáo từ mấy ngàn năm chớ không phải ít. Nghĩa là đạo Phật có 2500 năm, thì 100 năm trong thời Đức Phật, sau đó thì người ta lần lượt người ta đã làm lệch lạc con đường của Phật giáo, và người ta hiểu sai lệch con đường Phật giáo, như cả thiện và ác người ta lại hiểu sai lệch.
Bởi vì trong Thập Thiện thì Đức Phật có dạy chúng ta thấy rất rõ, không tham sân si, nó thuộc về ý. Mà không tham sân si tức là thiện pháp, mà có tham, có sân, có si thì đó là ác pháp. Thì ở đây chúng ta thấy tâm chúng ta không có tham, không ham muốn gì hết, không thương, không ghét ai hết thì đó là thiện. Mà có ham muốn thì đó là không có thiện, có thương nhớ thì đó là không thiện, cho nên nó còn ở trong cái tham ái, tham dục, thì nó không thiện.
Cho nên ở đây cái mục đích của đạo Phật dạy chúng ta biết cái thiện ác của nó, nó vượt ra ngoài cái nhân quả. Còn cái kia, thì thiện ác nó nằm ở trong cái nhân quả, nhân quả tức là nằm ở trong cái đối đãi. Đó, cho nên ở đây chúng ta thấy khi mà không ác thì tức là toàn là thiện, do đó hiểu được như vậy thì chúng ta mới thấy là các pháp hành của Đức Phật áp dụng vào thì nó sẽ có kết quả giải thoát cho từng cá nhân của mỗi người tu tập.
(18:48) Muốn được vậy thì Thầy mong rằng các con suy ngẫm rất kĩ, bởi vì ở đây có cái sự dạy của Thầy nó có khác người. Cho nên khi đó mình phải suy nghĩ chớ đừng có tin ở Thầy. Bởi vì những cái này đều là do những kinh nghiệm bản thân tu hành của Thầy, từ cái trí tuệ nó phát ra sự hiểu biết của giáo lý của đạo Phật như vậy.
Cho nên Thầy dạy thì các thầy, nếu mà thực hiện thì có sự giải thoát ngay liền như Đức Phật nói “Pháp của ta không có thời gian, đến rồi sẽ thấy ngay liền!” Đúng vậy, Thầy cũng dạy đúng như lời Phật đã xác định đạo, cái giáo pháp của Phật là như vậy.
(19:43) Cho nên trước tiên vào vấn đề để mà chúng ta tiếp tục tu tập, ngăn chặn các pháp ác không cho sanh thì bằng cái pháp gì, thì Thầy sẽ trả lời những cái câu hỏi của cô Út trước tiên mà Thầy đã, hôm rồi Thầy chưa có trả lời hết. Hôm nay Thầy trả lời được một phần nào, và đồng thời thì chúng ta sẽ học về cái pháp hành, các pháp hành nào để mà chúng ta ngăn chặn các pháp ác.
Vậy thì trước tiên Thầy sẽ đọc lại những cái lời nói để nó không làm rối loạn cái sự tu tập của các thầy và các cô, các con, là vì Thầy dạy trong các bài pháp của Phật, còn cô Út thì dạy ngay từ kinh nghiệm bản thân của mình, chỉ mong lo xả tâm của mình để cho tâm diệt trừ cái lòng ham muốn và các ác pháp, ngay chỗ kinh nghiệm mà xả, không phải ở những cái bài pháp, bài kinh của Phật.
Còn Thầy thì giảng từ ở trong những bài kinh, bài pháp của Phật mà ra, và trong đó chêm vào những cái kiến giải của mình, những cái mà mình tu tập qua kinh nghiệm mình thấy được, để nói lên giúp cho các con tu tập, cũng như các thầy để cho mau có kết quả và thời gian thu ngắn lại, để rồi chúng ta còn làm những lợi ích khác cho kẻ khác.
Cũng như sắp tới đây thì Thầy sẽ đưa danh sách của quý con vào ở trong cái ban Giáo dục Tăng Ni. Tuy rằng nó sẽ nằm ở trong cái danh sách của Giáo dục Tăng Ni để cho nó có chứng pháp lý hẳn hòi đàng hoàng. Nếu mà người ta chấp nhận thì mình sẽ có pháp lý, mình sẽ đi thuyết giảng, đem cái kinh nghiệm, đem cái sự thực tu, thực tập của mình, bên nam vậy, cũng như bên nữ như vậy.
Cho nên chúng ta chuẩn bị tất cả mọi hướng, nó đều, khi mà nó được tốt thì chúng ta sẵn sàng có cái điều kiện để mà chúng ta hướng dẫn người tu tập tốt.
Cho nên ở đây phần nhiều là những cái lời cô Út dạy, giảng, hỏi Thầy để giúp cho các con không có rối loạn khi mà Thầy giảng cái pháp hành này. Đương nhiên là thấy mình phải tu tập cái gì nó càng ngày càng rõ hơn, và từ lâu tới bây giờ chúng ta tu nó không phải là không lợi ích, nghĩa là nó đang tu những cái pháp đó để giúp cho chúng ta con đường thăng tiến lên chớ không phải là tu sai.
(22:10) Nhiều khi nghe, năm rồi Thầy giảng cái Giáo án đường lối tu tập của đạo Phật, sau khi nghe xong rồi thì hầu hết là một số người thì không biết cái pháp nào mà tu hết, nhiều quá, nhiều quá nghe lộn xộn. Cho nên năm nay chuẩn bị qua cái giới hành thì cô Út đã chuẩn bị những cái câu hỏi để hỏi, làm cho giải tỏa được cái ý nó lộn xộn, nó không biết cái pháp tu tập.
Và Thầy cũng cẩn thận hơn là không có giảng quá nhiều, mà không dẫn dắt cái người thực hành đi từng bước của nó, để biết rằng mình đã tu từ lâu tới những cái gì, để rồi tiếp tục mình sẽ tu những cái gì, từ cái dễ đến cái khó như thế nào.
(23:00) Bây giờ thì Thầy xin bắt đầu. Qua câu hỏi đầu tiên, như Thầy đã đọc trong cái ngày hôm kia để giảng rồi nhưng bây giờ xin lặp lại để chúng ta không có nhầm lẫn.
Về phần vấn đạo thì cô Út hỏi: “Bạch Thầy, hành giả bắt đầu tu thiền định của đạo Phật phải tu pháp nào trước?”
Đó thì, cái câu hỏi như vậy, thì trong khi đó cô dồn lại một câu hỏi đó cô hỏi rất nhiều, cho nên Thầy trả lời từng phần. Đáp cái câu hỏi thứ nhất mà cô Út vừa hỏi đó, thì Thầy đáp:
“Đầu tiên muốn tu thiền của đạo Phật thì phải sống đúng giới luật. Mà muốn sống đúng giới luật thì phải sống thiểu dục tri túc, phòng hộ sáu căn. Muốn sống đời sống thiểu dục tri túc và phòng hộ sáu căn cho trọn vẹn, thì lấy ba hạnh ăn, ngủ, độc cư làm tiêu chuẩn kỷ luật, khép mình trong khuôn khổ của nó.
Đó là những pháp đầu tiên tu tập về thiền định của đạo Phật. Đạo Phật lấy thân, thọ, tâm và pháp thanh tịnh, tức là loại trừ mười điều ác và tăng trưởng mười điều thiện, tức là đoạn trừ tâm tâm tham sân si đó.”
Đó thì cái câu mà trả lời cho cô Út hỏi Thầy ấy, thì các con nhớ rằng mình thường ở đây, mình lấy cái chỗ ăn ngủ độc cư của mình, mình làm cái tiêu chuẩn để mình khép mình ở trong cái khuôn khổ mà tu tập thiền định.
Do cái chỗ mà tu tập như vậy đó, thì cái giới luật nó mới thanh tịnh được. Mà từ cái giới luật mà nó thanh tịnh thì chúng ta mới có thể tu các cái pháp khác mới được, chớ còn nếu mà giới luật chưa thanh tịnh, ăn chưa được, mà ngủ chưa được, mà độc cư chưa xong, thì chúng ta sẽ tu nó mất cái thì giờ rất nhiều.
Cho nên chúng ta phải tập luyện và khép mình ở trong cái khuôn khổ đó để mà thực hiện cho được cái cuộc sống, cái cuộc sống đúng ba cái hạnh đó.
(25:34) Cho nên trong cái sự tu tập, thì như các con biết rằng những cái điều kiện mà nêu lên của Thầy mà dạy các con đó, ăn, ngủ và độc cư đó, đó là ba cái đầu tiên của người tu sĩ cần phải sống đúng ba cái hạnh đó. Và nếu mà sống đúng ba cái hạnh đó thì các con sẽ thực hiện được giới luật, thực hiện được cái đời sống đúng giới luật, nó không có vi phạm nữa.
Bởi vì độc cư các con không tiếp duyên và sống ăn ngày một bữa, và ít ngủ, thì nó làm cho các con sẽ thuần thục được cái chỗ, cái khép mình trong khuôn khổ đó, thì các con sẽ thấy rằng trên thân, thọ, tâm, pháp của mình bắt đầu nó có nhiều cái sự thanh tịnh, nó có nhiều cái sự tăng trưởng của các pháp thiện hơn là các pháp ác.
(26:20) Bây giờ thì cô Út hỏi tiếp Thầy:
“37 Phẩm Trợ Đạo, từ Bát Chánh Đạo, Thập Thiện Đạo, Tứ Chánh Cần, Tứ Niệm Xứ, Tứ Thánh Định, Thất Giác Chi, Tứ Như Ý Túc, Ngũ Căn, Ngũ Lực, đến Ngũ Uẩn, Thập Nhị Nhân Duyên, Tam Minh v.v, thiền định của đạo Phật rất nhiều không biết tu loại nào trước, loại nào sau, vậy kính mong Thầy chỉ dạy chúng con để dễ tu tập!
Thiền định gồm có:
1- Định Vô Lậu
2- Định Sáng Suốt
3- Định Chánh Niệm Tỉnh Giác
4- Định Niệm Hơi Thở
5- Định Sơ Thiền
6- Định Nhị Thiền
7- Định Tam Thiền
8- Định Tứ Thiền
9- Định Vô Tướng
10- Định Bất Động Tâm
11- Định Bất Động Thân
12- Định Không Vô Biên Xứ
13- Định Thức Vô Biên Xứ
14- Định Vô Sở Hữu Xứ
15- Định Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ
16- Định Diệt Thọ Tưởng Định.
Kính bạch Thầy 16 loại thiền định, định nào tu trước, định nào tu sau, định nào kết hợp với định nào để dễ, để đồng tu một lượt, định nào tu riêng một mình, định nào làm trợ duyên cho các định khác. Cúi mong Thầy từ bi chỉ giáo cho chúng con để chúng con tu tập từ lớp thấp đến lớp cao mới có căn bản.
Còn 37 Phẩm Trợ Đạo từ Bát Chánh Đạo đến Tam Minh, dạy chúng con phải tu pháp nào trước, pháp nào sau, mỗi pháp có phần khác nhau, giống nhau như thế nào, và khi thực hành tu tập có tu giống nhau không, xin Thầy hoan hỉ chỉ dạy cho chúng con biết.”
(28:08) Đó là cái phần câu hỏi của cô Út như vậy. Thì cái phần đáp của Thầy, vừa rồi thì Thầy trả lời rằng mình muốn sống đúng cái giới luật của Phật mình phải sống trong cái đời sống ăn, ngủ, độc cư, thì mình mới có thể sống đúng đời sống giới luật được, như Thầy trả lời rồi.
Bây giờ thì đến trả lời từng phần câu hỏi của cô Út đây:
“37 Phẩm Trợ Đạo từ Bát Chánh Đạo đến Tam Minh thì Tứ Diệu Đế là pháp đầu tiên cần phải thông hiểu.”
Các con nên nhớ rằng ở trong 37 Phẩm Trợ Đạo thì Tứ Diệu Đế là cái pháp đầu tiên mà cái người tu sĩ đạo Phật cần phải thông hiểu nó trước tiên, nghĩa là phải hiểu nó.
Bởi vì chúng ta có hiểu cái Tứ Diệu Đế thì chúng ta mới hiểu được cuộc đời đau khổ, cuộc đời toàn là khổ, cuộc đời là nước mắt, cuộc đời là bể khổ, là trầm luân, cho nên chúng ta mới dứt áo, dứt gia đình, dứt cuộc sống mà đi vào trong nơi tu hành, chịu đời sống Phạm Hạnh rất là gian khổ, vì chúng ta hiểu đời là khổ.
Nếu mà chúng ta chưa có thông suốt được cái pháp đầu tiên của Phật, tức là Tứ Diệu Đế thì chắc chắn chúng ta không thể nào thực hiện được cái đời sống Phạm Hạnh theo một tu sĩ nổi.
“Nên Đức Phật chuyển pháp luân lần đầu tiên tại Vườn Lộc Uyển là pháp Tứ Diệu Đế.”
Đó thì các con nghe pháp đầu tiên mà Đức Phật đã nói, pháp đầu tiên ấy, tại Vườn Nai, thì lúc bấy giờ Đức Phật thuyết pháp đầu tiên, mở miệng ra nói pháp của chính mình đã tu tập giải thoát, thì Đức Phật thuyết Tứ Diệu Đế. Cho nên ở đây là Thầy cũng thấy rằng Tứ Diệu Đế là một pháp đầu tiên để mà chúng ta cần phải thông hiểu chớ chưa phải tu tập đâu.
Pháp Tứ Diệu Đế chưa phải tu tập, bởi vì có nhiều người thấy tưởng đời là đẹp lắm, cho nên tưởng đời là hạnh phúc lắm, cho nên còn tha thiết, ham thích đời. Nhưng sự thật đời là một đống lửa, là lửa đang cháy, nó sẽ đốt và thiêu hủy chúng ta từng phút từng giây, nhưng mà có nhiều người thì không thấy nó cho nên còn ham đời, chớ biết được đời là khổ thì ngay đó người ta không còn thích thú gì đời cả hết, người ta lo người ta mau mau mà người ta dẹp đi, để người ta tiến tới cái chỗ giải thoát hoàn toàn.
(30:344) Vì cái ngả đời và cái ngả đạo, hai cái ngả này nó riêng rẽ nó không giống nhau, như Thầy đã dạy trong cái Đường Về Xứ Phật tập một.
“Cho nên pháp đầu tiên là Tứ Diệu Đế, còn pháp tu đầu tiên lại là Tứ Chánh Cần.”
Đó thì các con thấy chưa, cái pháp để mà hiểu đầu tiên, để mà hiểu biết đầu tiên đó là cái pháp Tứ Diệu Đế. Còn cái pháp mà tu tập đầu tiên, khi mà hiểu rồi thì chúng ta tu tập cái pháp nào, đó là chúng ta tu tập cái pháp Tứ Chánh Cần.
“Pháp tu cuối cùng của Đạo Phật là Tam Minh.”
Bởi vì cô Út hỏi cái pháp nào tu trước…
(Xem tiếp ở Pháp hành 04)
HẾT BĂNG
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Thời gian: 1998
(Tiếp theo Pháp hành 03)
(00:00) Pháp mà tu tập đầu tiên, pháp mà để tìm hiểu Phật pháp là Tứ Diệu Đế, mà pháp cuối cùng đó là Tam Minh. Còn pháp tu đầu tiên là pháp Tứ Chánh Cần, còn pháp tu cuối cùng là Tam Minh.
“Nếu người tu sĩ đạo Phật chưa xong Tam Minh thì còn tu tập nữa.”
Nghĩa là khi mình thực hiện Tam Minh chưa được, như bây giờ, mình nhập vào Bốn Thiền, tức là Thiền thứ tư, thân và tâm nó định với nhau thành một khối rồi, mà mình hướng tâm về Túc Mạng Minh. Mình hướng về cái đời gần nhất mà mình chưa hiểu biết được cái đời gần nhất của mình, rồi cái đời thứ 2, thứ 3, thứ 4, thứ 5, cho đến nhiều đời, vô lượng đời của mình mà mình chưa có thấy biết, thì Túc Mạng Minh mình chưa xong, thì mình còn phải tu cho xong.
Và khi mà đến Thiên Nhãn Minh thì nó ngồi tại đây, mà mình hướng tâm thì nơi đâu mình cũng thấy được hết. Mà Đức Phật có ví dụ như là mình đứng ở trên một cái lầu ở giữa cái ngã ba, giữa cái ngã tư đường, xe cộ, người qua kẻ lại, mình đứng trên đó mình nhìn xuống, thì mình thấy mọi người qua lại, không có người nào mà mình không thấy. Và như vậy tức là Thiên Nhãn Minh.
Còn Lậu Tận Minh, mà hướng tâm về Lậu Tận Minh thì tất cả những cái lậu hoặc, cái gốc của lậu hoặc nó sanh ra tham, sân, si, phiền não, Ngũ Triền Cái, Thất Kiết Sử, nó sanh ra những cái đó, thì bây giờ nó đoạn dứt, mình đều thấy rất rõ.
Mà không những thấy mình đã đoạn dứt rất rõ, và thấy chúng sanh đang sống ở trong cái gốc lậu hoặc đó rất là cụ thể, rõ ràng. Người thì ít, người thì nhiều như thế nào, thì chúng ta thấy rất rõ ràng. Do thấy rõ ràng như vậy cho nên nó mới đoạn dứt được cái lậu hoặc, cho nên cái đó gọi là Lậu Tận Minh.
Do cái chỗ tu tập cái pháp cuối cùng này, thì đương nhiên là cái người tu sĩ đó sẽ không còn tu tập nữa. Tới đây là cái người đó đã thực hiện được Tam Minh xong rồi, thì cái người đó nghỉ, bây giờ đi chơi chớ còn không có tu nữa. Nghĩa là tối là ngủ, chơi chớ còn không có tu tập gì nữa hết. Hoặc là ngồi thiền chơi vậy chớ còn cũng không có cái chỗ tu tập nữa.
Cho nên nói nhập thất, hay hoặc nói này kia, hay hoặc là ngồi thiền hay hoặc đi kinh hành như Đức Phật ngày xưa, chẳng qua là cái thói quen của mình như vậy thôi, chớ sự thật ra thì không phải còn tu tập nữa. Khi mà có được Tam Minh là mình đã làm chủ được sự sống chết, làm chủ được cái tâm của mình, không còn tái sanh luân hồi nữa, cho nên đó là cái pháp cuối cùng, tu tập cái pháp cuối cùng.
Và cái pháp đầu tiên, Thầy nhắc lại là Tứ Chánh Cần, còn cái pháp Tứ Diệu Đế chỉ chẳng qua là một cái sự hiểu biết cho thông suốt được cái chân lý của đạo Phật, từ cái khổ, nguyên nhân khổ, và cái Niết Bàn, cái cảnh giới, cái trạng thái tâm hết khổ, và cái con đường Bát Chánh Đạo, là tám cái nẻo để mà đoạn dứt được cái nguyên nhân khổ đó.
Cho nên cái Tứ Diệu Đế để dẫn dắt, để chỉ rõ cho chúng ta hiểu biết nó tường tận, chớ không phải là cái pháp tu, mà là cái pháp để hiểu biết thấu suốt được cái cuộc đời chúng ta như thế nào, và hiểu biết được cái lối để mà chúng ta tu tập, để mà đoạn dứt cái tâm ham muốn của chúng ta, tâm tham của chúng ta.
Cho nên cái pháp đó là cái pháp để hiểu biết mà thôi, người nào hiểu biết mà xả ngay, bỏ ngay cuộc đời, thì ngay đó không còn tham sân si nữa, thì người đó tu rất mau. Còn người mà hiểu biết mà chưa có xả bỏ được thì lần lượt sẽ tu tập Tứ Chánh Cần để dứt trừ các pháp ác, đoạn dứt các pháp ác mà tăng trưởng các thiện pháp. Đó là cái pháp tu đầu tiên, và cái pháp tu cuối cùng là Tam Minh.
(4:10) “Pháp môn của Đức Phật có tên là trợ đạo, có nghĩa là trợ giúp cho viên mãn được đạo, vì thế có chỗ giống nhau nhưng lại khác.”
Nghĩa là cái pháp môn của Phật nó giúp cho cái tâm được giải thoát, thân thọ tâm pháp của chúng ta giải thoát, cho nên nó trợ giúp các pháp khác, nó làm cho cái tâm chúng ta được mau giải thoát. Cho nên các pháp đó gọi là 37 Phẩm Trợ Đạo, trợ làm cho bốn cái chỗ thân, thọ, tâm, pháp của chúng ta được sớm thanh tịnh, được viên mãn, được giải thoát hoàn toàn.
Cho nên gọi là trợ đạo, cái pháp nó trợ cho cái tâm của mình, mà cái tâm giải thoát của mình đó là cái đạo, cái tâm thanh tịnh của mình đó là cái đạo. Mà nó trợ giúp cho cái tâm của chúng ta, cái thân của chúng ta, cái thọ của chúng ta, và các pháp được thanh tịnh, được sớm được mau thanh tịnh, thì các pháp tu tập đó như vậy gọi là trợ đạo.
(5:17) Mà các pháp trợ đạo thì nó trợ cho cái đạo thanh tịnh, thì có chỗ thì nó giống nhau, nhưng nó khác nhau. Nó giống nhau vì pháp nó trợ lực cho cái pháp kia, nó giúp cho các pháp kia, pháp kia nó giúp cho pháp này, do đó nó trợ cái pháp này, nó giúp cho pháp kia.
Cũng như thí dụ như chúng ta tu cái Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, thì nó trợ giúp cho cái Tứ Chánh Cần, làm cho nó ngăn chặn các pháp ác, đó là nó trợ giúp đó, nó trợ giúp cho Tứ Chánh Cần. Cho nên nó trợ giúp cho cái pháp khác, pháp khác nó làm cho cái tâm của chúng ta, cái thân tâm của chúng ta nó thanh tịnh đi, nó không còn tham sân si, nó không còn ác pháp nữa, đó gọi là trợ.
Thí dụ như cái pháp Định Vô Lậu, thì nó trợ giúp cho Tứ Chánh Cần đoạn dứt được cái ác pháp liền. Pháp nó sanh rồi, bây giờ nó đang tăng trưởng nè, do đó nhờ cái Định Vô Lậu chúng ta quán xét, cho nên chúng ta đoạn dứt nó liền, do đó nó trợ giúp cho Tứ Chánh Cần đoạn được cái ác pháp liền. Nếu không có cái pháp Định Vô Lậu, thì nó khó mà có thể dứt trừ được cái ác pháp. Nó cứ tăng trưởng lên, càng lúc nó càng lớn càng mạnh lên, nó làm cho chúng ta sân giận, phiền não, tham muốn, dữ tợn lên nữa, nó không có muốn lìa những cái vật chất ham muốn.
Thí dụ như bây giờ chúng ta có một chiếc xe Honda, giờ chúng ta thấy chiếc xe Dream họ đẹp, tốt quá, chạy nhanh hơn, thì chúng ta lại khởi cái tâm ham muốn. Mà nếu mà không có cái Định Vô Lậu, nó làm cho chúng ta quán xét để hiểu, thì cái tâm ham muốn nó tăng trưởng lên, nó ham muốn, nó bắt chúng ta phải chạy làm cái này, làm cái kia, hay hoặc ăn trộm cắp để lấy tiền rồi, hay hoặc đi ăn cắp cái xe của người ta để mình có cái xe. Do đó nó đẩy cho mình đi tới cái chỗ ác pháp, nó làm mình rất là khổ đau. Cho nên mình nhờ cái Định Vô Lậu đó mình quán xét, mình ngăn chặn, mình đoạn dứt nó liền, làm cho cái tâm ham muốn của mình chấm dứt lại.
Đó thì trong các pháp mà tu tập như vậy, thì những cái pháp đó gọi là trợ đạo, trợ giúp cho các pháp khác, cho nên nó có cái chỗ tu, nó có cái chỗ giống nhau, nhưng nó có cái chỗ khác nhau. Nhưng mà nó trợ giúp nhau thì nó là giống nhau, nhưng mà cái hành pháp của nó, cái pháp mà nó hành thì nó khác nhau.
Vì pháp này trợ lực cho pháp kia, pháp kia trợ lực cho pháp này, cho nên nó giống nhau là ở chỗ đó. Giống nhau là pháp nào nó cũng nhắm vào đoạn diệt ác pháp. Nghĩa là chúng ta phải thấy cái chung của nó là các pháp Phật, nó nhắm vào cái pháp nào nó cũng đoạn diệt cái ác pháp hết.
Thí dụ như Tứ Chánh Cần nhắc chúng ta phải cần hằng ngày phải cần đoạn dứt các ác pháp, không cho sanh khởi, thì cái pháp Định Vô Lậu nó cũng đoạn dứt cái ác pháp, nó xa lìa cái lòng ham muốn ác pháp đó. Rồi Định Chánh Niệm Tỉnh Giác nó giữ cho cái tâm của mình luôn luôn lúc nào cũng ở trong hành động mà không có khởi một cái ác pháp nào, không có khởi một cái niệm ác nào ở trong tâm chúng ta.
Thì như vậy nó, các pháp của Phật đều là nhắm vào nó đoạn diệt ác pháp, nó đoạn dứt cái ác pháp, nó không có cho cái ác pháp mà tăng trưởng, hay hoặc là sanh khởi ở trong tâm của chúng ta. Mà khi mà ác pháp nó được đoạn trừ, được đoạn dứt, nó không có ở trong tâm chúng ta nó không sanh khởi, thì cái thiện pháp nó sẽ sanh khởi, và nếu mà chúng ta giữ gìn không có cho ác pháp xen vào, thì cái thiện pháp đó nó tăng trưởng.
Cho nên các pháp nó giống nhau là ở chỗ nó nhắm vào đoạn diệt các ác pháp, viễn li, từ bỏ, xa lìa các ác pháp. Cho nên khi mà nó giúp cho chúng ta xa lìa được ác pháp, thì ta thường hằng vui sống, giữ gìn và bảo vệ, phòng hộ, che chở cho thiện pháp. Cho nên lúc bấy giờ, một người biết tu thì luôn luôn người ta vui sống với cái thiện pháp và giữ gìn, hộ trì, bảo vệ nó, che chở cho cái thiện pháp nó được còn hoài. Còn nếu nếu mà chúng ta không có che chở, không có hộ trì, không có phòng hộ, không có giữ gìn, thì thiện pháp nó sẽ bị ác pháp nó sanh khởi và nó sẽ tăng trưởng lên, nó làm cho chúng ta khổ đau.
(9:26) Đó là những cái phần mà mình tu tập phải thấy được các pháp như vậy. Còn khác nhau thì ở chỗ thực hành. Như bây giờ cái pháp Chánh Niệm Tỉnh Giác để mà trợ giúp cho cái Tứ Chánh Cần, thì Chánh Niệm Tỉnh Giác nó phải tập trung ở trong các hành động của chúng ta để cho nó không có cho pháp ác nó sanh khởi ra được.
Cũng như cái nó khác nhau, thí dụ như bây giờ cái Chánh Niệm Tỉnh Giác thì nó tập trung ở trong cái hành động đi, hoặc là tay chân chúng ta làm những cái công việc, cái hành động của nó, của thân của chúng ta hay của tâm của chúng ta. Còn cái Định Vô Lậu thì nó cũng trợ giúp cho cái Tứ Chánh Cần, nhưng nó lại quán xét cái pháp, cái niệm ác đó, để rồi nó xả, nó buông cái niệm ác, nó đoạn dứt cái niệm ác đó đi. Thì cái hành động nó quán xét thì nó không có ở trong cái hành động đi kinh hành, hoặc là hành động quét sân, hoặc là mọi cái công việc làm hằng ngày chúng ta tập trung trong hành động làm của thân thì nó khác rồi.
Cho nên nó khác nhau là nó khác nhau ở thực hành, mà nó giống nhau là nó giống nhau ở cái chỗ mà đoạn diệt cái ác pháp. Quý Thầy hiểu rõ như vậy, các con phải hiểu rõ như vậy, thì chúng ta biết rằng các pháp Phật giống nhau chỗ nào và khác nhau ở chỗ nào.
Cho nên mỗi pháp đều có tên riêng, do cái chỗ mà hành động tu tập nó khác nhau như vậy, cho nên nó phải có cái tên riêng. Thí dụ như Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, thì Chánh Niệm Tỉnh Giác Định thì nó tỉnh giác ở trong chỗ nào? Ở trong hành động. Mà cái Định Vô Lậu thì nó phải là ở trong cái chỗ quán xét để cho lậu hoặc nó không còn, thì nó khác nhau. Cho nên cái tên của nó, nó chứng tỏ là cái hành động của nó khác với cái tên của một cái pháp khác.
Cho nên nó có mỗi cái tên của nó để chỉ rõ cái hành trình tu tập của chúng ta, kết quả mang lại thân thọ tâm pháp của chúng ta được làm chủ và giải thoát hoàn toàn, theo kết quả giải thoát của từng pháp môn. Nghĩa là chúng ta giải thoát của theo từng pháp môn, nghĩa là chúng ta tu cái pháp nào thì nó có sự giải thoát ngay tại ở trên cái pháp đó.
Thí dụ như bây giờ chúng ta ngăn chặn các pháp ác nè, bằng cái pháp Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, thì chúng ta đi kinh hành từ đây nè, ra tới cổng chùa, rồi chúng ta đi vào nè, mà chúng ta giữ gìn không có cho các ác pháp nó khởi lên được, do đó ngay đó thì chúng ta nhận thấy nó có sự giải thoát ở từng cái chỗ tu tập của các pháp đó.
Bây giờ chúng ta, do một cái niệm nào đó khởi lên mà chúng ta muốn đoạn diệt cái niệm ác pháp đó, do đó chúng ta dùng cái Định Vô Lậu rồi chúng ta quán xét, chúng ta làm cho cái tri kiến giải thoát, cái sự hiểu biết của mình nó tăng trưởng nó lớn mạnh ra, nó làm cho chúng ta xả được cái ác pháp đó, đoạn dứt đựợc cái ác pháp đó, nó không còn ray rứt ở trong lòng của chúng ta nữa.
Thì khi mà chúng ta xả nó được vậy, thì chúng ta thấy rõ ràng là cái kết quả nó mang đến cái sự giải thoát từng cái pháp môn của chúng ta tu tập đó.
Chớ không phải là ở trong cái Chánh Niệm Tỉnh Giác đó mà nó giải thoát cho cái tâm chúng ta đang ở trong cái ác pháp, nó làm cho tâm chúng ray rứt được, là khi mà chúng ta dùng Chánh Niệm Tỉnh Giác. Trái lại chúng ta dùng cái Định Vô Lậu thì ngay cái pháp ác nó đang tăng trưởng, nó đang làm khổ đau tâm hồn chúng ta, thì chúng ta quán xét, thì chúng ta xả nó ra được.
(12:49) Đó thì xét thấy như vậy thì chúng ta biết rằng khi cái pháp nào mà chúng ta tu, thì ngay đó chúng ta có những cái kết quả của cái pháp đó liền, chớ không phải là không có, phải chờ năm, bảy ngày, hay hoặc một tháng, hai tháng mới có.
Cũng như bây giờ chúng ta tu cái định Nhị Thiền, diệt Tầm Tứ, thì do định sanh hỷ lạc, thì cái hỷ lạc đó thì ngay đó là cái chỗ mà dô cái định nó sinh ra, nó làm cho chúng ta thấy an lạc, và cái thân của chúng ta thấy nó nhẹ nhàng, thơi thới, nó thoải mái, nó dễ chịu, nó không còn có cái chỗ mà khổ sở và khó khăn.
Cũng như cái Sơ Thiền, do cái chỗ mà chúng ta ly dục ly ác pháp, nghĩa là toàn bộ tham, sân, si, mạn, nghi, và Thất Kiết Sử mà chúng ta đã đoạn dứt được, thì các lúc bấy giờ các ác pháp đó nó đã viễn ly, nó lìa ra rồi. Cho nên từ cái chỗ ly dục ly ác pháp đó thì nó sanh cái hỷ lạc, nó làm chúng ta có cái chỗ an lạc cho cái thân và tâm của chúng ta, trong đó cái thọ nó không còn đánh chúng ta được nữa.
Cho nên nó có những cái kết quả như vậy đó, nó mang đến những cái kết quả như vậy trong từng giây, từng phút mà chúng ta tu tập, chớ không là phải tu 5, 7 ngày nó mới có được những cái đó, không phải đâu. Khi mà chúng ta đã giữ gìn được cái tâm của mình ở trong cái chỗ mà ly dục ly ác pháp, thì chúng ta đã thấy được cái trạng thái ly dục ly ác pháp, cái hỷ lạc đó, cái trạng thái giải thoát đó.
(14:22) Cách thức tu tập pháp nào ra pháp nấy, nghĩa là tu tập pháp nào thì phải cho ra pháp nấy chớ có lộn xộn, pháp này mà xiên qua pháp khác.
Thí dụ như bây giờ chúng ta vừa đi kinh hành tu tập ở trong cái Chánh Niệm Tỉnh Thức ở trong hành động thân của chúng ta, thì trong khi vừa đi tỉnh thức ở trong cái hành động đó thì chúng ta lại quán xét bằng cái Định Vô Lậu, thì như vậy chúng ta đặt một cái niệm ở trong đó suy tư như vậy, đó là sai, không có đúng. Pháp nào nó phải ra pháp nấy, không thể nó lộn xộn.
Mà khi có một cái, như chúng ta học biết đó, nó có những cái pháp trợ cho pháp khác, như cái Định Niệm Hơi Thở nó là cái pháp nó trợ duyên cho các pháp để tu tập các pháp, thì cái Định Niệm Hơi Thở nó mới giúp cho chúng ta thực hiện các pháp khác. chớ còn nếu mà cái Chánh Niệm Tỉnh Giác thì nó không phải giúp cho chúng ta cái Định Vô Lậu được, mà chính cái Định Niệm Hơi Thở nó có thể giúp cho chúng ta ở trong cái Chánh Niệm Tỉnh Giác được, là vì nó là trợ pháp.
Cũng như, thí dụ như chúng ta học sinh ngữ, về pháp ngữ, thì chúng ta biết rằng cái động từ avoir nó là trợ động từ, nhờ nó mà chúng ta chia các động từ khác được. Đó thì cái Định Niệm Hơi Thở nó cũng như vậy, nó trợ pháp, nhờ nó mà chúng ta tu tập các pháp khác được thành tựu.
Chẳng hạn bây giờ chúng ta vừa đi kinh hành, thay vì chúng ta tập trung trong bước đi chúng ta, thì chúng ta lại nương vào hơi thở, vừa đi mà vừa nương vào hơi thở. Thì cái đó nó trợ cho chúng ta đang đi để giúp cho sức tỉnh của chúng ta, sau đó chúng ta thấy có cái sự tỉnh ở trong cái hơi thở rồi, chúng ta mới xả hơi thở, thì chúng ta quay trở lại cái bước đi. Thì lúc bấy giờ tâm chúng ta tập trung ở trong bước đi, nhờ cái hướng tâm của cái hơi thở, nương vào cái hơi thở để mà giúp cho sức tỉnh, để mà chúng ta biết cái bước đi của chúng ta rất rõ ràng. Đó gọi là trợ pháp.
Còn về sinh ngữ học, về Pháp ngữ thì nó gọi là, cái động từ đó thì gọi là trợ động từ, thì như vậy chúng ta thấy nó, những cái trợ pháp và trợ động từ nó gần giống nhau, để mà trong cái sự tu tập của chúng ta.
Cách thức tu tập pháp nào phải ra pháp nấy, không có giống nhau. Nghĩa là các pháp cũng không có giống nhau, pháp này nó không giống pháp khác, nhưng mà ở trong Phật pháp thì nó có thể nó câu hữu, nó câu hữu pháp này với pháp khác, để cho nó thực hiện, nhưng mà nó câu hữu nhiều nhất là nó, là chỉ có Định Niệm Hơi Thở là nó câu hữu với các pháp khác để nó hoàn thành được các pháp khác ở trong cái Định Niệm Hơi Thở.
Vì cái mục đích của Định Niệm Hơi Thở nó không dẫn chúng ta đi đến đâu được hết, mà nó chỉ dẫn chúng ta đi đến cái chỗ để trợ giúp cho các pháp khác mà thành tựu. Thí dụ như bây giờ chúng ta muốn nhập được cái Diệt Thọ Tưởng Định thì chúng ta cũng phải nương vào cái hơi thở, cái Định Niệm Hơi Thở, rồi chúng ta dùng pháp hướng, chúng ta nhắc cho đến khi mà ý hành của chúng ta ngưng hoạt động hoàn toàn, thì lúc bấy giờ chúng ta đã nhập Diệt Thọ Tưởng Định, chớ không phải là gì.
Nếu mà bây giờ, thí dụ như bây giờ chúng ta nương vào cái hơi thở, nhờ cái Định Niệm Hơi Thở, chúng ta nương vào ở trong hơi thở, tâm chúng ta bám chặt trong hơi thở đó, rồi chúng ta lại nhắc, lại hướng tâm, lại nhắc “Tịnh chỉ hơi thở, hơi thở phải ngưng đi, các hành ở trong thân ngưng đi!” Đó là thân hành phải ngưng.
(17:25) Do cái thân hành nó ngưng thì chúng ta nhập Tứ Thiền, nhờ cái hơi thở mà chúng ta nương vào đó để mà chúng ta nhập được Tứ Thiền, cho nên cái hơi thở gọi là cái pháp trợ duyên cho các pháp khác.
Cho nên sau này thì lần lượt Thầy dạy về cái giới hành, thì Thầy sẽ dạy về cái pháp Định Niệm Hơi Thở, nó trợ duyên để chúng ta biết cách nương vào hơi thở mà tu tập. Cho nên từ lâu tới giờ, thì hầu hết là các con muốn được tu tập, được rèn luyện từng cái hơi thở rất nhiều, ổn định hơi thở, tập hơi thở chậm, dài, ngắn, rồi tạo tụ điểm cũng bằng hơi thở của mình bằng mọi cách. Đến giờ này thì bắt đầu dạy về giới hành, thì hơi thở mới thấy là một cái quan trọng cho cái bước đường tu tập vì nó là trợ pháp cho tất cả các pháp ở trong Phật pháp.
Ở đây có nghĩa là Thầy trả lời chung cho sự giống nhau và khác nhau của các pháp. Còn trả lời riêng mỗi pháp, giống nhau khác nhau từng pháp này đối với pháp khác, có pháp thì giống nhau, với pháp này, pháp kia nó giống nhau từng pháp, thì khi nào mà Thầy có cái dịp mà Thầy giảng rộng ra, hoặc là soạn viết thành sách thì mới giảng từng pháp.
Còn bây giờ thì chúng ta nó không có thì giờ bởi vì Thầy dự định rằng Thầy sẽ cố gắng Thầy giảng cái thời gian ngắn nhất làm sao cho các pháp hành này, để cho mấy con được học tập trong một tháng cho nó xong, để rồi thì mấy con còn biết bao nhiêu công việc để tu tập và cũng còn biết bao nhiêu trở về trụ xứ để mà lo tu tập. Biết được cái pháp hành rồi thì dù ở đâu thì các con cũng sẽ tu rất tốt, chứ không có gì hết. Sợ khi mình không biết, mình tu sai, mình mới đi lạc vào những cái con đường sai mà thôi.
Bây giờ thì Thầy chỉ trả lời chung cho biết rằng là các pháp thì nó giống nhau khác nhau vậy thôi, chớ còn sau này thì lần lượt Thầy giảng tới về Định Niệm Hơi Thở, rồi về Định Vô Lậu thì lúc bấy giờ nó câu hữu với cái pháp nào như thế nào, thì Thầy sẽ dạy cái riêng cái chung của nó cho nó rõ ràng. Còn bây giờ thì chúng ta lướt qua để chúng ta còn phải học nhiều cái điều kiện khác nữa, chớ không có thì giờ mà chúng ta học hết.
(19:46) Về phần tu định, bây giờ cô Út hồi nãy hỏi có 16 loại định đó, thì bây giờ thầy mới nhắc lại:
Về phần tu định, 16 loại định thì định Chánh Niệm Tỉnh Giác là tu trước tiên, chớ không phải là cái Định Niệm Hơi Thở là tu trước tiên đâu. Cái Chánh Niệm Tỉnh Giác là tu trước tiên đó. Và cái định Diệt Thọ Tưởng Định là cái định tu sau cùng, đó thì các con thấy chưa. Chớ không phải chúng ta từ lâu, từ hồi nào đến giờ chúng ta tu sai, tu nó không đúng cách, cho nên chúng ta lấy cái trước làm cái sau, mà lấy cái sau làm cái trước.
Cho nên về pháp chúng ta tu tập thì Tứ Chánh Cần tu trước, mà về định thì chúng ta tu cái định Chánh Niệm Tỉnh Giác tu trước, bởi vì cái định Chánh Niệm Tỉnh Giác nó ngăn chặn không có cho các pháp ác sanh, đó thì cho nên nó hợp với cái Tứ Chánh Cần. Còn nếu mà không có cái pháp mà nó hợp với Tứ Chánh Cần thì làm sao mà nó ngăn chặn được các ác pháp sanh. Cho nên nó là Chánh Niệm Tỉnh Giác, nó ngăn chặn nó không cho sanh, đó. Thì về thiền định thì chúng ta phải thấy rằng định Chánh Niệm Tỉnh Giác là phải tu trước và định Diệt Thọ Tưởng Định là tu sau cùng.
(21:06) Trong các thiền định của Phật, loại thiền định nào cũng có sự kết hợp với các pháp môn khác, nghĩa là nó câu hữu với các pháp môn khác. Thí dụ như Chánh Niệm Tỉnh Giác nó câu hữu với cái Tứ Chánh Cần thì nó ngăn chặn các pháp ác, chúng ta thấy rất rõ. Đó như vậy, Thầy giảng như vậy các con suy ngẫm các con thấy Thầy giảng có sai không? Nó rất cụ thể, nó rất rõ ràng, nó phải câu hữu.
Tức là cái danh từ câu hữu là trong kinh, chớ đó là cái danh từ kết hợp. Nghĩa là chúng ta lấy cái định Chánh Niệm Tỉnh Giác đó mà chúng ta kết hợp với cái Tứ Chánh Cần, thì chúng ta biết rằng cái Tứ Chánh Cần nó sẽ dứt các ác pháp, nó không có cho sanh khởi các ác pháp, nó không cho các ác pháp sanh khởi.
Đó thì chúng ta thấy quá rõ ràng và cụ thể, chớ không phải còn cái mơ hồ như các vị mà giảng thiếu kinh nghiệm mà giảng không ra cái chỗ này. Cho nên ở đây nó cụ thể lắm.
Trong các thiền định của Phật, loại thiền định nào cũng có sự kết hợp với các pháp môn, câu hữu, không có định nào mà tu riêng rẽ. Nghĩa là cô Út hỏi có thứ Thiền Định nào mà tu riêng rẽ không? Cho nên vì vậy mà Thầy trả lời rằng nó câu hữu, nó kết hợp, nó tu chung với các pháp khác, chớ nó không có riêng rẽ nó tu độc lập mình nó.
Từ lâu thì các con cứ nghĩ rằng mình ngồi mình hít thở hít thở, mình chỉ biết như vậy đó, mình biết hơi thở ra, hơi thở vô vậy, đó là tu riêng rẽ, đó là sai đó các con. Cái mục đích mà nếu mà chúng ta giữ được cái hơi thở, nó không khởi một cái niệm nào ở trong đầu chúng ta đó, nó hoàn toàn nó diệt được các Tầm ấy, thì lúc bấy giờ chúng ta biết rằng đó là chúng ta đã câu hữu với cái Tứ Chánh Cần rồi, để mà chúng ta ngăn chặn các pháp ác ở trong hơi thở.
Thì hiểu rõ như vậy thì chúng ta biết nó phải có cái sự câu hữu kết hợp với cái pháp kia. Chớ giờ nó tu hơi thở mà nó hít thở hít thở mà nó không vọng tưởng, vậy thì cái kết quả nó đem lại cái gì đây? Cho nên chúng ta thở riết mà chúng ta không biết nó kết quả, chúng ta cứ ngỡ rằng nó hết vọng tưởng là nó vào định à? Định gì?
Nó phải nhằm có cái mục đích giải thoát thân tâm của chúng ta chớ, còn cái này nó hít thở như vậy, rồi bắt đầu cứ ngồi như vậy hoài như vậy, cứ hít thở hít thở từ ngày này sang ngày khác, không vọng tưởng rồi nó, bây giờ nó kết quả cái gì đây? Chúng ta không thấy. Nghĩa là nó ngăn chặn không cho các ác pháp sanh ra cho nên tâm chúng ta được giải thoát, thân chúng ta giải thoát chứ gì? Nó rõ ràng cụ thể, nó có cái nghĩa giải thoát của nó trong nó.
Còn cái này nó không có cái nghĩa giải thoát gì hết, mà chúng ta cứ chỗng khu mà hít thở, hít thở, rồi đếm 1,2,3,4. Có người ngồi 2, 3 tiếng đồng hồ ngồi hít thở mà không biết cái giải thoát, vậy giải thoát cái gì. “Tôi tu thiền định hơi thở tôi vậy!” Hay hoặc cái người niệm Phật, niệm riết để cho cái tâm nó nhất niệm ở trong hơi thở. Mà cái giải thoát này là giải thoát cái gì, hay là chờ chết để Đức Phật Di Đà rước mình về cõi cực lạc? Chuyện đó là chuyện mơ hồ rồi, cho nên nó không đúng rồi.
Vì vậy cho nên chúng ta phải biết rằng, khi mà chúng ta tu tập là phải kết quả nào? Là các ác pháp ngăn chặn không cho sanh. Mà nếu mà có một niệm thì nó đã sanh cái pháp ác rồi, dù là cái niệm gì mà nó sanh trong đầu chúng ta, trong lúc đó mà chúng ta nương vào hơi thở vậy mà nó sanh ra, thì đó là ác pháp rồi. Mà ác pháp thì tức là chúng ta không ngăn chặn thì làm sao giải thoát? Làm sao giải thoát được thân tâm của chúng ta?
Mà đã có một niệm sanh khởi thì tức là cái niệm đó là cái nhân quả rồi. Mà hễ nhân quả thì tức là nó đã, làm sao mà chúng ta đoạn dứt được cái chỗ mà tái sanh luân hồi? Đó chúng ta thấy rất rõ. Cho nên cái tu Phật chúng ta phải hiểu được cái quả của nó như thế nào, chớ người nói “Tui tu tui chẳng có quả gì hết!” thì tu cái gì? Cho nên chẳng có cần biết mình tu chứng cái gì, quả cái gì. Đâu phải!
Tôi tu tôi giải thoát, tôi biết tâm tôi không tham tôi biết không tham, mà không sân tôi biết không sân. Chớ này mình tu mà mình cũng chẳng biết tham, sân, si gì. Mình cũng không biết cái ác pháp nó còn hay là hết mình cũng chẳng biết, cứ ngồi hít thở hoài đó mà không biết mình giải thoát cái gì mà hít thở. Đó là cái tu ngu si, cái tu không trí tuệ.
(24:46) Còn ở đây đạo Phật dạy chúng ta câu hữu, dùng cái Định Niệm Hơi Thở mà câu hữu, để mà chúng ta ngăn chặn được cái pháp đó thì nó có ý nghĩa của nó. Rồi bây giờ chúng ta, thí dụ như dùng cái Định Niệm Hơi Thở mà câu hữu với Nhị Thiền là diệt Tầm Tứ, thì tức là chúng ta đang ở trong cái chỗ hoàn toàn không có ác pháp chứ gì? Nó rõ ràng.
Mà bây giờ mà nếu mà dùng cái Định Niệm Hơi Thở, tức là cái hơi thở chúng ta mà ly các loại hỷ của chúng ta, hỷ tưởng của chúng ta, thì tức là chúng ta nhập Tam Thiền chứ gì. Mà dùng cái hơi thở để mà chúng ta tịnh chỉ các hành của hơi thở, ngưng hoạt động hoàn toàn, thì đó là chúng ta nhập Tứ Thiền vì cái quả của nó sẽ đưa chúng ta nhập Tứ Thiền. Mà nhập Tứ Thiền là nó mục đích nó sẽ đoạn dứt cái gì? Thất Kiết Sử hay là Ngũ Triền Cái hay là gì ở trong đó chớ? Nó làm cho thân tâm chúng ta được giải thoát chớ?
Cho nên mỗi một cái thiền định như vậy nó đều nói lên được cái đoạn dứt cái gì, Hạ Phần Kiết Sử hay là Thượng Phần Kiết Sử hay là Ngũ Triền Cái. Nó cho chúng ta biết được cái chuyện mà chúng ta làm đó nó đạt được cái gì, nó kết quả được cái ác pháp, nó ly, nó đoạn dứt như thế nào, thì lúc bấy giờ chúng ta mới nhập được cái thiền định đó. Còn bây giờ chúng ta nhập thiền định mà chúng ta không biết là dứt các ác pháp như thế nào thì cái đó là tu ngu si.
Đó thì bắt đầu chúng ta thấy rằng, nghĩa là chúng ta tu thiền định, mà đối với thiền định của đạo Phật thì nó không có cái định nào riêng rẽ. Còn bây giờ chúng ta cứ hít thở mà biết cái hơi thở ra vô, mà nó không biết cái kết quả của nó là ở chỗ mức nào đó, thì như vậy là cái người đó tu cái thiền định riêng rẽ, nó không có cái câu hữu kết hợp.
(26:17) Định Niệm Hơi Thở là một loại thiền định trợ duyên. Đó bây giờ Thầy mới, bởi vì cô Út có hỏi Thầy: “Kính bạch Thầy, trong 16 loại định, định nào tu trước, định nào tu sau, định nào kết hợp với định nào để tu một lượt, định nào tu riêng một mình?” Đó có sự hỏi tu riêng một mình đó.
Cho nên ở đây Thầy mới xác định là không có cái định nào mà tu riêng một mình.
Rồi: “Định nào làm trợ duyên cho các định khác?“ Đó, bây giờ định nào mà làm trợ duyên, nếu mà không có hỏi câu này thì Thầy không có trả lời cái chỗ này. Cho nên vì vậy mà hỏi định nào làm trợ duyên, cho nên Thầy trả lời Định Niệm Hơi Thở là là một loại thiền định trợ duyên cho các thiền định khác.
Giống như động từ avoir, nhờ nó mà chia các loại động từ khác. Thì trong Pháp ngữ, thì các thầy cũng có học, các thầy biết đó, là chúng ta học avoir với être thì nó là hai cái động từ để mà chia cho các động từ khác, gọi là trợ động từ.
Còn ở đây chúng ta học Định Niệm Hơi Thở với Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, nhất là Định Niệm Hơi Thở là cái định mà nó trợ cho tu tập để giúp cho các định khác mà thành tựu viên mãn. Còn cái Định Chánh Niệm Tỉnh Giác nó chỉ giúp một phần nhỏ mà thôi. Cho nên phải nói rằng cái Định Niệm Hơi Thở là cái định trợ duyên rất lớn cho các pháp ở trong cái sự tu tập của chúng ta. Chớ nó không có riêng rẽ một mình nó, vì nó riêng rẽ một mình nó không có mang kết quả gì được hết. Định Niệm Hơi Thở rất quan trọng đối với các loại thiền định. Nghĩa là các loại thiền định muốn đạt được thì cái Định Niệm Hơi Thở là cái định niệm rất là quan trọng.
Cho nên chúng ta mà muốn tu tập thì chúng ta phải rèn luyện cái Định Niệm Hơi Thở, tập luyện cái Định Niệm Hơi Thở rất là kỹ lưỡng. Do cái sự tập luyện kỹ lưỡng của cái Định Niệm Hơi Thở thì sau này chúng ta dễ dàng tu tập lắm. Cho nên hầu hết là Thầy đã rèn luyện một thời gian rất dài với cái Định Niệm Hơi Thở, cho nên bây giờ dạy thì các con thấy Thầy không có nói về Định Niệm Hơi Thở. Nhưng mà nhờ cái căn bản mà các con đã rèn luyện được cái Định Niệm Hơi Thở đó, mà bây giờ các con sẽ tu nó dễ dàng lắm.
Như ngày nào, các con cũng thấy rằng như cô Diệu Thảo nè, cô Diệu Tịnh nè, mấy cô này về đây mà tu về Định Niệm Hơi Thở, mà diệt Tầm Tứ, coi như là diệt cái Tầm của mình đừng có cho cái vọng tưởng xen vào, thì suốt 3, 4 năm trời không phải là một chuyện dễ của mấy cô đâu, nhưng mà hôm nay, từ 20 phút hay 30 phút mà không có một vọng tưởng xen vào. Thì các con thấy rằng, cái phần thứ nhất là chúng ta phải nhìn thấy là cái tâm chúng ta có xả được một phần rồi đó. Và kế đó là cái thuần ở trong cái hơi thở, cho nên chúng ta biết áp dụng đúng pháp là đúng cái pháp hướng, để nó trợ duyên nó làm cho cái Tầm Tứ chúng ta nó không sanh khởi ra.
(29:08) Và bây giờ Thầy lại dạy về Tứ Chánh Cần để cho biết được cái kết quả của cái sự tu của các pháp này, nó giúp cho chúng ta ly các pháp ác, đoạn dứt các pháp ác để tăng trưởng các pháp thiện. Đó là cách thức rất là rõ ràng và cụ thể.
(29:22) Hôm nay Thầy dạy về cái phần Thân Hành Niệm. Nhưng mà trong bài kinh Thân Hành Niệm này, thì Thầy thấy rằng cái bài kinh mà Phật dạy về Thân Hành Niệm, thì cái bài kinh đó nó nhiều cái mà, thay vì nói về Thân Hành Niệm thì cái hành động của thân, thì trong cái bài kinh đó nó lộn xộn như thế này nè. Nó có nói thân rồi nói tâm, Tâm Hành Niệm.
Thí dụ như nó nói về Thân Hành Niệm, mà nếu mà nói Thân Hành Niệm thì nói cái hành động của chúng ta, đi, đứng, kinh hành, mang y mặc bát, đó là cái Thân Hành Niệm rồi. Rồi bây giờ nói đến cái chỗ hơi thở thì nó cũng là Thân Hành Niệm rồi. Rồi bắt đầu mà nói đến các cái thọ thì nó cũng gọi là Thân Hành Niệm, thì nó là sai.
Hoặc là nó nói đến cái tâm của nó, tâm tôi có tham tôi biết tham, tâm của tôi có sân tôi biết sân, đó là Tâm Hành Niệm chớ không phải là Thân Hành Niệm. Cho nên trong cái bài kinh này, tuy rằng cái bài kinh nguyên thủy nhưng mà nó không đúng cái cách của cái Thân Hành Niệm, nhưng mà nó lấy cái tên rằng Thân Hành Niệm, thì như vậy là Thầy không chấp nhận cho cái bài kinh đó là đúng.
(30:52) Vì vậy mà Thầy thấy hiện bây giờ, thì Thầy sẽ nhắc đến một vài cái pháp thiện và pháp ác, để cho qua những cái bài Kinh Pháp Cú, để cho các Thầy rút tỉa những cái ác, và cái thiện của con đường mà tu ở Tứ Chánh Cần cho rõ ràng hơn. Rồi sau đó Thầy sẽ dạy về cái Thân Hành Niệm, để chúng ta biết rằng từ cái chỗ đó mà chúng ta ngăn chặn được các pháp ác.
Bởi vậy nói về Tứ Chánh Cần thì phải nói về ác với thiện, và cái hành động để ngăn chặn được các pháp ác, và tăng trưởng các pháp thiện, để mà chúng ta hiểu, để mà chúng ta biết cách tu tập.
(31:40) Ở đây, cái đầu tiên là cái pháp ác đầu tiên, là chúng ta phải học về cái ngu của chúng ta. Tức là trong cái ý của chúng ta nó có ba cái pháp ác đó, ba cái pháp ác đó là tham, sân, si. Mà si tức là cái ngu của mình.
Cho nên ở đây trong cái câu Kinh Pháp Cú dạy: “Đêm rất dài với kẻ mất ngủ, đường rất xa với kẻ lữ hành mỏi mệt, cũng thế, vòng luân hồi sẽ nối tiếp vô tận với kẻ ngu si, không minh đạt chánh pháp”.
Nghĩa là ở đây cái câu Pháp Cú của Phật dạy, cái người mất ngủ thì thấy đêm nó trằn trọc, đêm nó dài nó không có, nó lâu sáng quá. Mà cái người đi đường mà mỏi mệt rồi, thì thấy con đường nó xa vời vợi. Còn mình còn khỏe thì con đường xa mình không thấy xa đâu.
Mà mình không phải là người mất ngủ, mình là người mà nằm xuống mà ngủ, thì sao mà thấy cái đêm nó ngắn quá, mới nằm xuống là đã là sáng rồi, không có để cho mình ngủ được nữa, cho nên đêm nó ngắn. Còn cái người mất ngủ cứ nằm trằn trọc mà ngủ không được, mong cho nó sáng, mà nó không sáng, đêm nó dài.
Thì cái vòng luân hồi nó sẽ nối tiếp vô tận mãi với cái người ngu không có thấy được nó, cho nên cứ đắm đuối chạy, ham mê theo cái dục lạc của thế gian, ham mê cái này, ham mê cái kia, chớ chúng ta chưa biết rằng cái luân hồi kiếp này nó sang kiếp khác, nó cứ lôi cuốn chúng ta mãi vô ở cái chỗ mà vô tận của cái luân hồi đó.
Chúng ta không thấy, cũng như cái người mà không thấy cái đêm dài, cũng như không thấy cái đường xa, khi cái người đó chưa có mỏi mệt, chưa có mất ngủ.
Những người phàm phu ngoài đời họ là những người chưa mất ngủ, cho nên còn ham ngủ, cho nên thấy đêm ngắn, những người ở ngoài đời họ chưa thấy cái đường xa, cho nên họ chưa phải là người mỏi mệt, chưa biết khổ. Còn chúng ta là những người hiểu và biết khổ, cho nên chúng ta mới thấy rằng mỗi một kiếp người mà luân hồi nối tiếp nhau cái sự đau khổ này, nó vô tận như vậy.
Cho nên đó là cái ngu của mình, cái ngu không thấy, cho nên không thấy, cho nên vì vậy mà chúng ta không vui lòng, không hăng hái, không tinh tấn mà ngăn chặn các pháp ác, để cho tâm chúng ta luôn luôn mãi sanh cái ham muốn cái này cái kia, cái nọ, chạy theo những cái ăn, cái uống, cái ngủ, cái nghỉ, cái vui sướng của cuộc đời, chạy theo những cái đó.
(34:04) Cho nên đó là cái ngu của chúng ta, không có thấy rằng cái nối tiếp cái sự luân hồi đau khổ mỗi kiếp người không có sung sướng gì hết. Đó là cái ngu.
Cho nên hằng ngày mà chúng ta tu tập, chúng ta thấy được cái khổ sở này, thì chúng ta không có còn sung sướng gì mà chạy theo cái dục lạc của thế gian, ham thích cái thế gian nữa. Miếng ăn chúng ta cũng không thấy ngon nữa, cho nên chúng ta không có thèm cái này hoặc cái khác, không có thèm một cái gì hết, mà chúng ta chỉ còn lo làm sao chấm dứt được sự luân hồi.
Vì chấm dứt được nó nó mới hết khổ, mà không chấm dứt được nó thì đời này cũng khổ, đời sau cũng khổ, dù chúng ta có vua chúa, giàu sang cách gì đi nữa thì chúng ta cũng khổ, chúng ta có đầy đủ cái vật chất thế gian này thì chúng ta vẫn khổ, không bao giờ mà chúng ta hết khổ. Đừng nói người giàu đầy đủ là sung sướng đâu, không sung sướng. Mà đừng bảo rằng người nghèo không có hột cơm ăn là sung sướng đâu, cũng không sung sướng đâu. Người nào cũng khổ ở trong cái vòng luân hồi của nó.
Biết rõ như vậy, tức là chúng ta mau mau, ngăn chặn các pháp ác. Mà các pháp ác đó đâu có gì mà khó mà không ngăn chặn. Chúng ta có pháp tu tức là Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, Định Niệm Hơi Thở, Định Vô Lậu, là chúng ta đã đoạn trừ được các pháp ác đó liền. Thế mà chúng ta không siêng năng, không tinh tấn để tu tập để chấm dứt cái vòng luân hồi này, cái vòng mà do chúng ta ngu si, mà cứ đắm đuối, cứ để cho pháp ác sanh khởi sanh khở trong tâm chúng ta mãi. Phiền não, đau khổ, ham muốn, nhớ thương, tất cả những cái này nó làm cho chúng ta đau khổ triền miên, bất tận.
Đó thì hôm nay, đầu tiên nói về cái sự đau khổ của cuộc đời, mà chúng ta ngu si chúng ta không biết, do đó mà chúng ta không chịu ngăn chặn các pháp ác trong tâm của chúng ta.
Cái câu Pháp Cú thứ hai ở đây nhắc về cái ái kiết sử: “Đây là con ta, đây là tài sản của ta. Kẻ phàm phu thường lo nghĩ như thế, nhưng chẳng biết chính ta còn không thiệt có, huống là con ta hay tài sản của ta”.
Đó là cái câu Pháp Cú Phật dạy như vậy. Nghĩa là chúng ta thấy con mình mình thương nè, cha mẹ mình nè, tài sản mình nè, cái gì cũng lo nghĩ cái này, cái nọ, cái kia, lo mà làm cho có của, có cải, có nhà có cửa, có xe có cộ, rồi ăn, rồi uống này kia, tưởng là cái đó là thiệt có, nhưng chính thân ta còn không giữ được, huống hồ là những vật đó, để mà có làm gì, có rồi cũng phải bỏ mà thôi, chứ có làm gì?
Chúng ta đem cái sức ra làm của cái tài sản bao nhiêu thì ngày nào đó chúng ta cũng bỏ, không có mang theo được gì. Thế mà những cái chuyện mà chúng ta ngu si như vậy, để mà chúng ta không nỗ lực thực hiện, ngăn chặn các pháp ác đó, ngăn chặn những cái tình thương đó, ngăn chặn những cái mà làm chúng ta không ra khỏi luân hồi này.
Đó thì ở đây, câu thứ hai để nhắc nhở cái sự tu tập của chúng ta, phải nỗ lực hằng ngày, phải siêng năng từng phút, từng giây để ngăn chặn các pháp ác đừng cho tăng trưởng, luôn luôn giữ gìn sống trong thanh thản, trong an ổn của cái thiện pháp.
(37:18) Câu kế của Kinh Pháp Cú: “Người ngu suốt đời gần gũi người trí vẫn chẳng hiểu Chánh Pháp, ví như cái muỗng múc thuốc thang luôn mà chẳng bao giờ biết được mùi vị của thuốc thang”.
Chẳng hạn các con gần được Thầy, nhắc đi nhắc lại như thế này, mà các con không chịu buông xả, không chịu ngăn chặn các pháp ác, không chịu đoạn dứt các pháp ác, mà cứ sống theo cái dục lạc thế gian, sống nhớ sống nghĩ, sống thương sống ghét, sống ham thích cái này cái nọ cái kia, thì cũng như là, ví như cái muỗng mà múc thuốc, cái muỗng múc thuốc nhưng nó chẳng biết cái mùi vị của thuốc thang như thế nào hết à!
Gần bên Thầy mà chẳng có được cái mùi vị giải thoát nào hết thì cũng như cái muỗng mà múc thuốc, cuối cùng là cái muỗng nó cũng chẳng biết cái vị thuốc đó là thuốc trị cái gì nữa, nõ cũng chẳng biết nữa. Gần Chánh Pháp mà không thực hiện được Chánh Pháp giải thoát, thì cũng ví như cái muỗng mà múc thuốc để mà bán thuốc cho người ta chớ còn nó chẳng có gì hết, đó thì thì rất uổng cuộc đời cho các thầy và các con.
Câu Pháp Cú kế: “Người trí dù chỉ gần gũi người trí trong khoảnh khắc cũng hiểu ngay được Chánh Pháp, chẳng khác gì cái lưỡi mới tiếp xúc với thuốc thang, đã biết ngay mùi vị của thuốc thang.”
Đó Đức Phật ví dụ, hồi nãy là cái muỗng múc thuốc, bây giờ là cái lưỡi chúng ta muốn nếm thuốc.
Cho nên khi mà cái người trí, cái người mà có trí thông minh người ta gần cái bậc trí, bậc tu hành, người ta chỉ nghe cái lời của một vị mà tu hành giải thoát, người ta nói ra rồi, thì ngay đó người ta nhận ra được Chánh Pháp liền. Cho nên người ta biết được cái mùi vị của thuốc đó liền, vậy mà ví như cái lưỡi của chúng ta, bỏ miếng thuốc đó vô thì biết cái mùi vị thuốc đó ngon, ngọt, cay đắng như thế nào, biết liền. Còn cái người ngu, thì họ như cái muỗng, chớ không phải là cái lưỡi.
(39:14) Cho nên cái người trí thì họ là cái lưỡi, cho nên từ đó họ bỏ hết, họ nỗ lực họ thực hiện, các cái pháp ác ngăn chặn không cho sanh khởi, không cho tăng trưởng. Còn cái người ngu thì cứ luôn để cho nó tăng trưởng, tăng trưởng mãi mãi mãi tăng trưởng hoài, thì đó là người ngu chớ không phải người trí. Người ngu thì không phải ví như cái lưỡi được, mà ví như cái muỗng múc thuốc mà thôi.
Đó là những cái mà để chúng ta thấy được chúng ta là người khôn hay là người ngu, hay là người mê hay người sáng. Một người mà sáng thì luôn luôn ngăn chặn các pháp ác, thực hiện cái pháp. Bởi vì những cái pháp này nó đâu phải là những cái pháp khó khăn, nó đâu có làm chúng ta phải điên khùng, mà chúng ta ngăn chặn được là thấy có giải thoát hoàn toàn, thấy tâm hồn có thanh thản an lạc liền tức khắc.
Còn cái người ngu thì luôn luôn cứ để cho ác pháp xen lẫn, khởi ham muốn cái này, cái kia, cái nọ, chạy theo những cái dục lạc của thế gian, đó là cái người ngu, cho nên nó là chỉ là cái muỗng múc thuốc chớ không phải là cái lưỡi nếm thuốc.
Đó là những cái pháp mà Phật đã nhắc nhở chúng ta để thực hiện cái Tứ Chánh Cần, để nhắc nhở chúng ta để thực hiện sự giải thoát của tâm hồn của mình, thân tâm của mình.
Câu kế nữa, “Khi ác nghiệp chưa thành thục, thì người ngu tưởng như đường mật, nhưng khi ác nghiệp đã thành thục, thì họ nhất định phải chịu khổ, đắng cay”.
Đó thì cái câu này, bây giờ đó, cái ác nghiệp nó chưa thành thục, cho nên chúng ta thấy những cái ham muốn cái này cái kia, ham muốn xe cộ, ham muốn ăn uống, ham muốn cái này cái kia, ham muốn đủ loại vật chất ở trên thế gian này, thì chúng ta thấy nó như đường mật, nó vui lắm, nó sung sướng lắm. Thấy người ta cười giỡn, người ta bài bạc, thấy người ta hút sách, thấy người ta đi tới, đi lui, thì mình mừng lắm, mình thấy mình vui theo.
Nhưng không ngờ đó là cái ngu của mình, tưởng nó như đường mật, nhưng mà thật sự ra khi mà ác nghiệp nó đến rồi, thì lúc bấy giờ nhất định là cái người ngu đó phải chịu thọ khổ đắng cay. Đời không có ai mà tránh khỏi những cái sự mà nhìn cái dục lạc của thế gian là đường mật, mà thoát khổ đâu. Người nào mà chạy theo cái dục lạc của thế gian, chạy theo những cái vật chất của thế gian, thì người đó phải chịu nhiều đắng cay.
Còn cái người nào mà không có chạy theo vật chất của thế gian, không thấy rằng cái dục lạc của thế gian là đường mật, thì người đó thoát khổ. Đó thì, hôm nay, những cái câu kinh Pháp Cú để nhắc nhở chúng ta tu tập trong các cái pháp của Phật, tức là Tứ Chánh Cần để nhắc nhở chúng ta biết cái thiện pháp, cái ác pháp mà ngăn chặn.
(41:52) Một câu Pháp Cú kế nữa: “Một đàng đưa tới thế gian, một đàng đưa tới Niết Bàn, hàng tì kheo đệ tử Phật hãy biết rõ như thế, chớ nên tham đắm thế lợi, nên chuyên chú vào đạo giải thoát.”
Ở đây, cái câu Pháp Cú này khuyên lơn chúng ta hai cái nẻo rất rõ ràng mà trong Đường Về Xứ Phật Thầy đã vạch ra thấy rõ, đời phải ra đời, đạo phải ra đạo. Đường đời phải như thế nào mà đường đạo phải như thế nào. Còn cái này, đạo nó chẳng ra đạo, mà đời nó chẳng ra đời. Chúng ta đã quyết tâm chọn lấy đường đời, để đi hướng đi về nẻo Niết Bàn, chớ không phải đi về dục lạc của thế gian nữa. Và đi về nẻo Niết Bàn thì chúng ta phải sống như thế nào cho đúng cách, phải tu tập như thế nào để đạt được.
Và hôm nay các con và quý thầy cũng đã rõ ràng con đường mà chúng ta hướng về nẻo Niết Bàn là phải, chúng ta phải thực hiện Tứ Chánh Cần. Phải không? Chúng ta đã thực hiện Tứ Chánh Cần thì con đường mà đi vào nẻo Niết Bàn thì tức là chúng ta sẽ đạt được kết quả ngay liền tức khắc, chớ không phải là không ngay liền.
Đó thì, hôm nay thì các thầy thấy rất rõ con đường mà đưa đến Niết Bàn là con đường mà chúng ta đang tu, đang thực hiện. Thì cái pháp mà chúng ta đang tu tập đầu tiên đó là Tứ Chánh Cần. Hằng ngày, hằng giờ, hằng phút, chúng ta ngăn chặn nó, không cho ác pháp sanh khởi, không cho tăng trưởng, thì đó là chúng ta đã tu tập thiền định. Mà thiền định thì sẽ đưa chúng ta đến chỗ chấm dứt sanh tử, chấm dứt luân hồi.
Hôm nay nghe rõ các pháp hành như vậy, thì Thầy mong rằng các con bên nữ, cũng như là các thầy bên nam, hãy nỗ lực thực hiện cho kỳ được, chấm dứt, không có thấy đời là thương, là ghét, là giận, là hờn gì nữa hết, mà phải thấy đời là một cái hình thức nhân quả, vay nợ trả nhau mà thôi.
Cho nên cái câu Pháp Cú hồi nãy, mình thấy rằng, đây là con của mình, đây là tài sản của mình, cái đó là cái khổ đau nhất, cái đó là cái không sáng suốt, cái còn bị chấp đắm, không sáng suốt. Mà mình hãy nhìn tất cả không phải gì cả hết, mà là nhân quả mà thôi, Thầy thường thường nhắc nhở các thầy rất nhiều, nó là nhân quả. Cho nên, chúng ta phải thấy nhân quả.
Chúng ta tu Tứ Vô Lượng Tâm cho nên chúng ta không làm ngơ trước sự đau khổ của người khác, trong đó có những người thân của mình. Chúng ta không làm ngơ trước sự đau khổ của người khác, nhưng chúng ta không có để đó là của cải của mình, tài sản của mình, đó là con của mình, đó là cha mẹ của mình, thì nó sẽ không được giải thoát hoàn toàn theo đạo Phật.
(44:57) Cho nên ở đây con đường mà đưa đến Niết Bàn là con đường phải đoạn dứt Thất Kiết Sử, bảy cái kiết sử thì ái kiết sử phải đoạn dứt, và cái tâm tham, cái ác pháp mà ở trong ác pháp tham, sân, si, thì cái tâm tham ái này, cái tâm tham dục này nó nằm rất trọn vẹn ở trong tất cả mọi cái ác pháp. Thương ghét cũng là ác pháp, chớ không phải nói thương là thiện pháp, mà ghét là ác pháp, cho nên phải rõ được như vậy.
Và qua những lời dạy Pháp Cú này, chúng ta mới cố gắng mà nỗ lực thực hiện cho kỳ được, làm cho được, để mà được giải thoát.
“Người đã giải thoát hết thảy, là đã dứt hết thảy buộc ràng, là người đi đường đến đích, chẳng còn chi lo sợ.“
Nghĩa cái người mà gọi là giải thoát, là cái người dứt hết các sự buộc ràng, tức là Thất Kiết Sử, thì như vậy mới có thể mà gọi là giải thoát. Chớ không phải giải thoát là chúng ta ngồi thiền nhập định, có thần thông, phép tắc gọi là giải thoát đâu, không phải đâu. Mà giải thoát…
(46:06) Muốn dứt hết các ràng buộc đó thì chúng ta phải tu Tứ Chánh Cần. Bởi vì chúng ta biết rằng các cái sự ràng buộc đó đều là ác pháp, nó không phải là thiện pháp. Cho nên chúng ta tu tập Tứ Chánh Cần là luôn luôn lúc nào chúng ta cũng giữ gìn ở trong pháp Chánh Niệm Tỉnh Giác, để cho các pháp ác không sanh khởi, và khi nó đã sanh khởi thì chúng ta mau mau dùng Định Vô Lậu để mà quét sạch nó ra, đập nó xuống, không có cho nó tăng trưởng.
Đó là chúng ta có những pháp tu tập như vậy đó. Có những cái pháp có giá trị để tu tập, để giữ cho tâm chúng ta luôn luôn được giải thoát hoàn toàn, được thanh thản được an lạc, nó không có một chút gì lo sợ một chút gì thương ghét, một chút gì giận hờn trong đó nữa. Đó là chính các con phải nỗ lực thực hiện các pháp này.
Thầy nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần, phải nỗ lực thực hiện. Đây là pháp đầu tiên để chúng ta đi vào thiền định, cũng là pháp đầu tiên để thực hiện con đường giải thoát. Bắt đầu vào, bắt tay vào là chúng ta đã thấy ngay có sự giải thoát liền. Nghĩa là không tu thôi, tu là có giải thoát liền ngay tức khắc.
Cho nên phải mạnh dạn, phải nỗ lực, phải thực hiện cho kì được, chớ không thể nào mà tu sơ sơ được, tu ít được, mà tu hết sức mình, để sớm chừng nào tốt chừng nấy, Vì các con còn phải cứu giúp biết bao nhiêu người đang chết đuối, đang sắp sửa chết đuối ở trong Phật pháp này.
HẾT BĂNG
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Thời gian: 1998
Thời lượng: [1:02:14]
https://thuvienchonnhu.net/audios/phap-hanh-05-trang-thai-cua-bac-a-la-han.mp3
(0:00) “Những kẻ dũng mãnh, chánh niệm, tâm không ưa thích tại gia, ví như con ngỗng khi ra khỏi ao chúng bỏ lại cái ao, cái nhà, ao hồ, của chúng không có chút tiếc nhớ.”
Nghĩa là chúng ta rời khỏi, chúng ta mà mạnh dạn mà giữ Chánh Niệm ở trong cái Chánh Niệm Tỉnh Giác này để ngăn chặn các pháp ác, mà không ưa sống ở tại gia đình của mình. Tại gia tức là sống ở trong gia đình của mình: anh, em, cha, mẹ, vợ, con này kia, sống không bao giờ mà có thể chúng ta ra khỏi sự đau khổ này.
Cho nên ở đây, Thầy muốn nhắc cái câu Pháp Cú này ví như một con ngỗng mà nó rời cái ao nhà của nó, nó bỏ đi rồi, nó không còn nhớ tiếc chút nào hết. Nó cứ tiếp tục nó đi, luôn luôn hoài hoài theo dòng nước mà chạy đi.
Đó thì ở đây chúng ta ví mình cũng như một con ngỗng mà rời khỏi cái ao nhà đó rồi, thì mãi đi luôn chớ không có nghĩ trở lại như thế nào. Tuỳ duyên ở những cái người ở trong gia đình của mình, có duyên thì mình độ, tiếp tục độ họ để mà giải thoát, mà không duyên, bây giờ mình có ở trong nhà, mình có dạy bảo họ cũng chẳng nghe.
(1:08) Cho nên ngày xưa có một vị tỳ kheo khi xuất gia tu hành theo Phật thì ngài có vợ và sắp sửa sanh đứa con, mà ngài ra đi.
Thì lúc bấy giờ ngài đi tu thì bà vợ ở nhà sanh ra đứa con, thì sau ba năm ngài được cái đoàn chúng tăng đi về cái khu vực của cái quê của ngài ở, cái nơi gần bên nhà ngài ở, bởi vì ngày xưa Đức Phật du tăng khất sĩ, cho nên không có ở lâu một chỗ nào hết.
Cho nên từ ngày mà ngài theo Phật rồi đi từ xứ này đến xứ khác mà không có dịp trở về quê hương của mình. Hôm nay cái đoàn tu sĩ đó nó mới được trở về quê hương, thì ba năm rồi mới trở về đó.
Thì bà vợ của vị tu sĩ này, nghe tin rằng chồng mình trong cái đoàn tu sĩ này được trở về đây, mà chờ mãi không thấy ông ta về. Tưởng đâu là ông về được đây, thì ông thế nào ông cũng ghé ông thăm, nhưng mà không ngờ ông không ghé thăm.
Cho nên bà mới lần mò mới đi vào ở trong cái khu rừng nơi mà các vị tỳ kheo ở đó, để mà dò, dò hỏi, thì rõ ràng là chồng bà đang tu ở cái góc rừng đó.
Cho nên hôm đó thì bà mới sửa sang trang điểm rất đẹp, mặc đồ rất là sang đẹp, rồi đồng thời thì bà ẵm theo đứa con bà đã sanh ra, bà đã sanh ra đứa con. Sau khi đón đầu cái vị tu sĩ này, đón đầu chồng mình, thì bà nói những lời rất là ngon ngọt, kêu anh kêu em, rồi xưng em rất là ngon ngọt.
Nhưng mà vị tu sĩ này vì phòng hộ sáu căn, vì tu tập, cho nên đối với ngài đã quen đi với cái sự phòng hộ, cho nên luôn luôn mặt nhìn xuống mà không ngó lên.
(3:05) Do đó người vợ nói đã đời, tiếng nói rất là ngọt ngào, êm thắm vô cùng. Thế mà ông lẳng lặng ông bước đi, ông tránh qua, rồi ông bước đi, ông không hề nói một lời nói nào hết, mà cũng không hề là nựng con của mình như thế nào hết.
Mà khi ra đi thì con chưa sanh, mà bây giờ về con đã sanh ra mà cũng chẳng cần nhìn mặt nó ra như thế nào nữa. Con người tu sĩ của đạo Phật sao mà vô tình đến nỗi mà không thể tưởng tượng được!
Cho nên ông lách qua ông đi kinh hành, ông không có nhìn mặt vợ, cũng không có nhìn con như thế nào hết, mà không hỏi thăm rằng ba năm nay em đói khát sao, có ăn không, cũng không bao giờ hỏi thăm viếng cái gì cả, đi luôn.
Bà ta tức giận quá. Ông chồng tu theo đạo Phật này sao mà vô tình đến cái mức độ lời nói của mình ngọt ngào như đường, thế mà chẳng ra gì hết, ông chẳng biết đường mật nó ngọt như thế nào, mà bây giờ nói vậy mà ông chẳng có còn biết đường mật gì nữa hết.
Cho nên bà mới chạy tắt ở trong rừng, bà chạy ra bà đón đầu một lần nữa. Kỳ này bà không có ngọt ngào nữa, mà bà làm hung dữ.
Bà mới nói với ông chồng: “Từ ngày anh đi tu tới bây giờ đó, tui ở nhà tui sanh con, tui chịu cực khổ, tui nuôi nấng cho tới bây giờ. Thì bây giờ con anh tui trả anh nè, anh nuôi làm gì làm, tui không có cần nuôi nó nữa đâu, tui quá cực khổ rồi. Anh là con người bạc tình, bạc nghĩa, không có tình nghĩa gì hết!”
Cho nên bà ta nói như vậy rồi bà ta chọt cho đứa con đau, nó khóc ré lên, rồi bà quăng nó xuống đường, ngay giữa vị tỳ kheo đang đi, quăng xuống đường để nằm đó, rồi bà chạy, bà bỏ đi.
Vị tỳ kheo này lẳng lặng bước tránh qua rồi đi, chớ cũng không ẵm đứa con lên mà vỗ nữa, con nín đi hay này kia, cho nên đi luôn qua. Do đó bà thì bà đâu có bỏ con bà được, cho nên bà đau lòng. Khi nghe con nó nằm nó lăn khóc, thì bà đâu có chịu nổi. Cho nên chờ ông ta đi qua rồi, bà chạy ra bà ẵm con.
Bà mới nói: “Thiệt ra những bậc tu sĩ, những vị tỳ kheo đệ tử của Cồ Đàm thật là mới là bậc giải thoát, nó không còn dính mắc nữa!” Cho nên cuối cùng thì bà về bà nuôi con bà cho nó lớn đúng bảy tám tuổi, rồi bà gởi vào ở trong Tăng đoàn, đi theo Đức Phật mà tu. Còn bà thì bà xuất gia, xin Phật xuất gia theo bên nữ bà tu.
Cho nên cuối cùng bà cũng thành A La Hán, mà đứa con cũng thành chứng quả A La Hán. Cả gia đình người ta, vợ chồng, con cái đều thành quả A La Hán, là vì một cái hành động giải thoát của vị tu sĩ này đã độ vợ con mình tu tập.
(5:51) Còn nếu mà cỡ ông, vị tu sĩ này mà rờ rẫm con, hay hoặc là thấy quăng con khóc như vậy, động lòng gọi là từ bi của các con.
Cũng như bây giờ, các con thấy như bây giờ, có một số huynh đệ của mình vắng mặt mà không được ở đây học những cái pháp này, các con thì không thấy được nhân quả, cho nên thấy cũng thương xót, mình được học mà người khác không được học.
Cái lòng từ bi đó thì các con không thấy nhân quả, cho nên vì vậy mà mình ước ao cho được những người đó được nghe những cái pháp Thầy giảng dạy. Nhưng các con đừng có lo nghĩ, hãy lo cho mình đi, đừng có lo đi. Mà mình lo như vậy thì những người đó cũng không độ họ được gì, mà họ đủ duyên họ thì một ngày nào đó họ cũng được nghe pháp này, chớ không có mất đi đâu hết.
Vì pháp mà Thầy đã giảng thì nó sẽ còn lưu lại, bởi vì nó là pháp bảo của Phật, được triển khai với một sự kinh nghiệm tu tập của Thầy. Nó không phải là một cái pháp do tưởng giải ra, mà là do cái pháp có sự thực hiện tu tập thật, có sự giải thoát thật, chớ không phải là một cái pháp tầm thường, do cái sự kiến giải bằng cách chưa tu mà nói ra những ý này, thì nó không hay chút nào đâu.
Cho nên ở đây nói thì Thầy bảo các con suy ngẫm cái lời Thầy nói có đúng, khi mà mình thực hiện mình có thấy đúng không, nếu mình thấy đúng có sự giải thoát, thì lời Thầy nói đúng. Mà nếu không có sự giải thoát tức là lời Thầy là kiến giải mà thôi, tưởng giải mà thôi.
Cho nên khi ở đây, mỗi một cái tâm niệm chúng ta khởi lên, mà như vậy thì các con cũng như các Thầy thấy nó là ác pháp. Vừa rồi thì Mật Hạnh có khởi lên một cái niệm, cho nên mới xin phép Thầy để mà mượn cái điện thoại gọi ra ngoài Hà Nội cho Chánh Đức về đây được nghe pháp. Là vì Mật Hạnh nghĩ rằng cái ơn của Chánh Đức đã giúp mình những thuốc thang bằng cái này cái kia, cho nên vì vậy mà bây giờ muốn trả một chút nhỏ ơn.
Nhưng mà Mật Hạnh chưa thấy nhân quả, cho nên vội vàng gọi Chánh Đức để vào đây được nghe. Thì hôm nay thì chắc chắn là Chánh Đức lo gói hành lý để mà lên tàu hoả để mà vào nam để mà nghe pháp. Nhưng mà đến đây không biết là có được nghe kịp hay không, hay là Thầy cũng đã giảng hết rồi. Đó là một cái nhân duyên của Chánh Đức mà thôi.
Còn các người khác, thì như bên nữ thì cũng có một số, rồi bên nam cũng có một số, mà không đủ cái duyên mà được nghe pháp, thì dù bây giờ có muốn cũng không được, có muốn họ cũng không có nghe được. Cho nên họ có đủ phước thì nó sẽ có người hỗ trợ cho họ được nghe pháp.
Cho nên chúng ta hãy, bây giờ chúng ta hãy nỗ lực chúng ta tu. Ngày nào đó, những cái người đó, họ do một cái nhân quả của đời trước với mình như thế nào đó, thì bắt đầu đó, mình tu xong rồi mình sẽ độ họ, mình sẽ dạy họ.
(8:54) Thì những người đó, ví dụ như bây giờ Thầy nói như cô Hạnh Minh, hoặc là cô Diệu Hồng, hoặc là Thuý, Trang, hoặc là má nó, đều là những người đều có gieo duyên với Phật pháp. Nhưng vì cái duyên Phật pháp đó chưa có sâu, cho nên nó chưa có thấy được cái Chánh Pháp.
Hễ hơi động một chút xíu là bỏ đi, tưởng là mình đã hay, nhưng mà không ngờ hiểu lạc một chút xíu, là tưởng rằng mình rời khỏi nơi này thì mình sẽ ở trong thất nỗ lực tu tập, thì chắc chắn được giải thoát. Còn ở đây thì bị lao động, bị làm này kia nọ, thì nó không được giải thoát. Nhưng mà sự thật không phải đâu.
Chính cái chỗ mà tu tập giải thoát, mà bằng cái cụ thể thực ấy, thi như các con cũng đã biết rằng, mình trực tiếp lao động mà mình phải giữ độc cư như thế nào.
Ở đây Thầy phải nói rằng, Thầy lưu ý, Thầy để ý, thì Từ Nguyện là một cái người mà tu tập giữ hạnh độc cư rất đúng. Bởi vì lúc mà Thầy ra bếp, nửa đêm mà Thầy ra Thầy phụ cô Út, thì rất đúng giờ nó mới ra. Nhưng mà Thầy thấy là ra thì tức là nó không hỏi gì hết, cái chuyện gì của nó làm thì nó cứ nó làm thôi, cho nên Thầy thấy đó là một cái hạnh độc cư của nó.
Cho nên hầu hết là các con cũng nên, khi mà làm việc cũng nên tập những cái hạnh độc cư như vậy. Đừng có thèm hỏi một gì hết, chuyện của ai nấy làm, mình biết công chuyện đó rồi mình cứ làm thuộc làu công chuyện đó.
Cũng như mấy ông thầy chùa mà tụng Bát Nhã vậy, họ thuộc làu rồi họ nhắm mắt họ không có nhớ gì hết, họ đọc lia đọc lịa, nó cũng thuộc. Các con thấy khi mà đọc chú vãng sanh không? Họ đọc lia đọc lịa, họ đâu có nhớ đâu, mà họ đọc không sai một chữ nữa, đó nó làu rồi.
Thì cái công việc của mình giữ độc cư là công việc làm nó cũng làu rồi, cho nên cứ làm mà thôi, chớ còn không nói gì hết. Công việc của mình ra đó thì mình tiếp ngay công việc của mình làm, không hỏi gì hết. Mình thấy ai bỏ cái công việc gì đó mà có thể mình làm được, thì mình cứ làm công việc đó thì mình làm. Thì như vậy mình mới giữ trọn vẹn độc cư, và do giữ trọn vẹn độc cư thì cái ác pháp nó không do cái kẽ hở đó mà nó sinh ra. Cho nên mình tu ở trong cái Chánh Niệm Tỉnh Giác của mình rất tốt.
Vì vậy mà bên nam thì như các con thấy, là mình giữ được cái hạnh độc cư, mình không có đến thất này, thất kia, thất nọ đó, thì đó tức là không có kẽ hở. Mà không có kẽ hở thì ác pháp không sanh ra. Mà cái ác pháp không sanh ra thì chúng ta đã giữ được thiện pháp, tăng trưởng thiện pháp chớ gì?
Mà nếu mà trong khi có một mình mình mà nó có kẽ hở, để cho kẽ hở nó sinh ra, là tại vì mình thiếu cái pháp Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, mình thiếu tu cái pháp đó, phải không?
Các con thấy, nếu mà trong khi Thầy ngồi đây thì Thầy nương hơi thở, mà Thầy xả ra Thầy nương hành động, Thầy quét sân Thầy nương hành động, có mình Thầy thì nó đâu có kẽ hở gì. Cái pháp Chánh Niệm Tỉnh Giác nó làm cho chúng ta ngăn chặn được các pháp ác không sanh, phải không?
(11:36) Do cái pháp đó mà nó ngăn chặn được, vì chúng ta luôn luôn ở trong hành động, cho nên hành động đó nó làm cho cái niệm của chúng ta không khởi. Phải không. Mà bây giờ chúng ta đến thất người khác, là tức là kẽ hở để cho cái niệm ác nó sanh đó, mình mở miệng mình nói chuyện là cái ác pháp sanh ra rồi đó, chớ không phải dễ đâu.
Cho nên ở đây chúng ta biết được, chúng ta nỗ lực chúng ta thực hiện. Vì vậy mà Thầy nói độc cư là bí quyết thiền dịnh, để mà chúng ta thực hiện được đạo giải thoát.
Cho nên các con rời khỏi nơi đây, các con nghĩ rằng mình sẽ độc cư chớ gì? Nhưng mà khi mà ra rồi các con không độc cư được đâu. Bởi vì cái nhân duyên các pháp ở bên ngoài, thân, thọ, tâm, pháp mà, các con nhớ, cái pháp nó sau cùng đó, mà nó làm cho các con bị trôi lăn ở các pháp ác, nó lôi cuốn các con ở trong các pháp ác.
Khi mà ra rồi, ai mà ở trong Tu viện chúng ta thấy sống như thế này buồn lắm, cô đơn, mà có một mình mình đâu có nói chuyện với ai, nhưng mà đi ra thì vui lắm. Nhưng mà các thầy thấy là, khi mà vui thì các pháp ác nó xâm chiếm các thầy tan nát ở trong cái đầu của các thầy hết rồi, cho nên pháp thiện nó đã bị mất rồi.
(12:48) Đó, cho nên nỗ lực tu tập. Thầy thấy ở đây, mặc dù lao động làm công việc nhưng mà tự nguyện, Thầy tin rằng nó sẽ sớm đạt được cái kết quả rất tốt, là giữ gìn được các ác pháp không khởi không tăng trưởng.
Và cách thức mà tu tập về cái niệm hơi thở thì nó cũng vững vàng lắm, chớ không phải là không vững vàng. Trước kia thì nó tu, có những cái pháp nó tu sai, như là thiền xuất hồn rồi này kia thì nó tu sai.
Nhưng mà sau khi từ ngày mà nó về đây nó tu, nó được tin tưởng, và nó nỗ lực, và qua nó giữ gìn đúng cái hạnh cho nên từ đó nó có yên ổn. Nhất là trong tâm của nó thiện pháp nó tràn trề, nó làm cho ác pháp không có xâm chiếm. Do nương vào những cái hạnh như vậy mà chúng ta sẽ thấy được giải thoát.
(13:34) Thí dụ như như bây giờ Thầy nói về cô Diệu Hảo chẳng hạn. Qua cái sự việc ở bên ngoài nó như vậy chớ nó đập cô Diệu Hảo, nó làm cho cô, cái tâm cái ác pháp nó sẽ sanh khởi, nó không đơn giản đâu. Cho nên nó cũng khó lắm chớ không phải dễ. Mà cô Diệu Hảo là người quyết tâm tu lắm đó. Cho nên Thầy thấy từ ba mươi phút cô vẫn ngồi mà không Tầm không Tứ, là kể như là cô cũng xả hết mình rồi.
Chớ nếu mà mà xả lơ mơ thì cái tài sản của cô ở dưới đó, cái kiểu sống của cô là cái người biết làm kinh tế sống đó, rồi cái môi trường mà cô sanh ra nó cũng nhằm ở trên cái môi trường làm kinh tế sống nữa, cho nên mà cô là một cái người biết tổ chức, mà cô dẹp bỏ, mà cô tu tập được ba mươi phút không vọng tưởng là các con thấy cũng không phải là cái chuyện thường đâu.
Nhưng mà Thầy thấy rằng cô tiếp tục mà cô xả tâm cô nữa, thì từ ba mươi phút này cô sẽ đi vào thiền định một cách rất dễ dàng, không có khó khăn. Nghĩa là chỉ cần xả thêm, tu tập đúng cái ác pháp và cái thiện pháp, ngăn chặn nó để tăng trưởng các thiện pháp, thì cô sẽ ra lệnh, cô Diệu Hảo sẽ ra lệnh nó phá âm thanh, không còn nghe âm thanh, và nó phá các hành, nó ngưng hoàn toàn, thì chừng đó cô sẽ làm chủ được sự sống chết của cô trong cái Tứ Thiền. Nó chỉ còn một bước nữa.
Và hôm nay Thầy dạy pháp hành để cho các thầy thu ngắn được cái thời gian tu tập, biết được cái chỗ nào mình tu tập, để cho nó thu ngắn cái thời gian. Cho nên Thầy xác định trên cái sự thu ngắn thời gian, nếu mà cái sự tu tập của chúng ta từ lâu nó đã thuần thục ở trong cái hơi thở rồi, mà hơi thở là cái pháp trợ duyên cho các pháp thiền định, mà đã thuần thục đã quen với hơi thở rồi mà bây giờ chúng ta đã xả được cái tâm, thì cái hơi thở đó sẽ nương vào mà tịnh chỉ tất cả cái gì mà chúng ta muốn. Nương vào hơi thở bảo thân này phải thể hiện như thế nào thì nó sẽ làm như thế nấy.
(15:30) Đó thì những cái mà chúng ta sẽ sắp sửa bước vào những cái giai đoạn mới giải thoát tâm hồn của chúng ta, thì chúng ta thực hiện được Tứ Chánh Cần xong rồi, thì con đường thiền định rất dễ dàng.
Mà cô Diệu Hảo không phải là còn nhỏ tuổi đâu. Nghĩa là cái sanh tử, cái luân hồi nó sắp sửa nó đuổi theo, cũng như là một cái người chăn trâu mà họ xách cái cây gậy họ lùa bầy trâu vậy đó. Thì cái sự sanh tử nó cũng lùa chúng ta như vậy, nó lùa cho đi mau để mà mau chết chớ không có gì hết.
Cho nên ở đây, nếu mà rút tỉa từng những cái kinh nghiệm của nhau mà chúng ta nỗ lực tu tập, chúng ta đừng có nghĩ ra ngoài.
(16:18) Người ta có duyên thì sẽ có cái phước báo, cũng như Chánh Đức nó có duyên cho nên nó khiến cho thầy Mật Hạnh đi gọi điện thoại, chớ còn ai mà gọi làm gì. Cũng như vì cái duyên, cái nhân duyên của Chơn Huệ.
Nhân duyên Chơn Huệ như thế nào? Là một người có phạm lỗi, biết sám hối, biết chừa những cái lỗi đó. Do cái nhân duyên mà biết giữ gìn những cái thiện pháp, mà khi được giảng về cái pháp này thì Thầy nói ngay với cô Út là hãy cho Chơn Huệ về đây tu tập.
Và hãy báo cho Chơn Tịnh hay rằng, mặc dù Chơn Tịnh là một cái người không nghe lời Thầy, phạm rất nhiều, không chịu sám hối, chừa bỏ, nhưng dù sao đi nữa Chơn Tịnh cũng là người ở đây rất lâu đối với Thầy, và cũng có công rất lớn đối với Thầy, đi từ chỗ này đến chỗ kia, Chơn Tịnh chịu cực khổ chở Thầy đi tới đi lui trong cái thời gian mà ở Phước Hải tổ chức những cái Tu viện ở đó, thì Chơn Tịnh là một người rất cực khổ với Thầy. Cho nên bây giờ là những cái giờ phút cuối cùng mà Thầy dạy về cái giới hành là phải trợ giúp cho Chơn Tịnh nghe.
Cho nên Thầy nói cô Út bây giờ ra cho Chơn Huệ hay, bảo về học tập, và cho Chơn Tịnh biết để về. Tuỳ duyên của nó, nhân quả của nó, chớ còn Thầy không ép. Nghĩa là đó là những cái mà có cái sự nhân duyên.
Bởi vì do sự biết sám hối, biết hối hận, còn những người khác thì họ không có biết sám hối, biết hối hận. Lẽ ra những cái lỗi lầm đó thì họ phải về sám hối với Thầy sau một cái thời gian, thí dụ như sau thời gian thì mình phải thức tỉnh chớ.
Thí dụ mình biết những cái đó, mình hờn giận trong bụng mình mình như vậy, thì đó là cái sai, thì mình về xin sám hối với Thầy: “Con thấy trải qua thời gian, vì cô Út cổ đập như vậy làm cho con thấy nó bực quá, cho nên lúc bấy giờ con không có làm chủ động được mình, cho nên chưa đủ cái lực để mà trau dồi tu tập cái tâm của mình để cho nó giải thoát, cho nên con thấy con có cái lỗi để giữ cái ác pháp trong tâm của con. Bây giờ con xin về sám hối với Thầy!”
Thì khi mà sám hối như vậy đó, thì tức là trong cái giờ phút mà học những cái này, thì làm gì Thầy cũng nhắc cô Út là cho gọi về hết, bởi vì những người biết lỗi, biết cái lỗi của mình. Còn những người, người ta chỉ cố chấp, người ta giữ gìn cái ác pháp đó, người ta cho rằng không lỗi, mà lỗi là tại cô Út, cho nên người ta không thấy.
Chứ sự thật ra, khi mà các con cũng như là mấy cô mà về đây tu tập, mắc mớ gì mà để làm cho giận hờn nhau làm gì? Nếu mà không phải con đường tu, thì chúng ta đập phá nhau để làm gì?
Vì con đường tu chúng ta nhắm vào chỗ giải thoát của tâm cái người mà tiến tới sự giải thoát, cho nên chúng ta mới đập phá nhau, để chúng ta thấy được cái tâm giận hờn phiền não, còn ác pháp trong tâm của mình, còn ghét, còn thù, để cho mình biết.
Nhưng mà sau thời gian các con thấy, thời gian dài như vậy, mà các cô không thấy được, không sám hối được. Lẽ ra thì dù ở nơi đâu thì thời gian rồi nó cũng nguôi ngoai, rồi nó cũng phải suy tư, rồi nó cũng phải thấy được cái chỗ. Còn đằng này thì các cô không thấy được, không về sám hồi.
Ít ra Thầy nói như nào cũng phải về sám hối: “Mặc dù bây giờ là cô Út nói không cho, nhưng mà con về đây con không dám, bởi vì ý của cô Út không cho con thì thôi, nhưng mà con về con xin sám hối cô Út, bởi vì đó là một cái lỗi lầm của con, trước đó con không thấy. Bây giờ con thấy thì con xin sám hối, xin Út tha. Nhưng mà chừng nào mà Út thấy được thì Út cho con trở về tu tập, mà chưa được thì Út phạt con thì bất kì con ở chỗ nào, con cũng luôn luôn con cũng mong ngày một nào mà Út thấy con biết ăn năn sám hối thì Út cho con về!”
(20:09) Một lời nói như vậy thì chắc chắn là sớm muộn rồi gì Đào cũng sẽ được về. Đằng này nó không về xin sám hối, nó nhắn nhe nó nói đầu này đầu kia thôi, nó về đây, nó nói một lời nói, rồi xin ra đi, chớ nó không có xin ở, mà nó xin ra đi.
“Bởi vì con lầm lỗi, cho nên con không dám ở đây nữa. Chừng nào Út cho thì con ở, mà Út không cho thì thôi!” Thì như vậy rõ ràng là cái sám hối đó có một cái giá trị, tức là mình hồi tâm mình thấy được cái chỗ sai chỗ đúng của mình. Mặc dù bây giờ nó đi ra nói gì nói, nhưng mà khi biết sám hối vậy thì bao nhiêu cái tội lỗi nó đều đổ xuống hết.
Đó Thầy ví dụ cho các con thấy trên vấn đề đó. Đó là nó tạo được cái duyên để mà tu học đúng Chánh Pháp của Phật.
Còn không khéo thì bây giờ nó ngồi thiền, nó cứ nghĩ rằng, ở trong đầu thì nó nghĩ rằng mình cứ nhiếp tâm mình ngồi như vậy là ức chế được cái âm thanh, rồi phá được các hành, thì tức là nhập định rồi làm chủ được sinh tử chớ gì?
Không bao giờ vô đâu các con! Nếu mà không tu đúng Tứ Chánh Cần thì không vô nổi đâu. Coi vậy chớ không đơn giản đâu, bởi vì đạo Phật không đơn giản.
Còn nếu mà các con muốn mà vào được tịnh chỉ các hành hơi thở thì các con phải dùng tưởng đó, phải dùng thần chú nè, phải dùng Mật Tông nè, phải luyện những cái này thì các con sẽ đọc thần chú lên các con biểu nó ngưng hơi thở, thì thời may nó ngưng đó. Mà nó ngưng trong cái tưởng chớ không phải ngưng thật. Chớ không phải là là tu theo cái thanh tịnh tâm đâu, mà tu theo cái tưởng thì có thể làm được.
Nhưng ở đây thì các con cũng hiểu rồi, do đó Thầy nói bây giờ thì các con hãy lo cho mình đi. Lo cho mình để rồi từng những người bạn quen thân của các con, nó có đủ duyên thì các con sẽ đem cái pháp mà các con thực hiện được, trong sáu tháng từ đây tới Tết các con xong rồi, thì các con cứu khổ mấy người đó cũng không khó khăn gì.
Cái nhân duyên của các con nó có với những người đó thì các con nói họ nghe, họ biết cái lỗi, cái sai của họ liền, thì do đó các con sẽ độ họ. Ở trong này thì các con thấy, mình sống chung nhau là có nhân duyên rồi. Mà có nhân duyên rồi thì chừng đó mình nhắc cái là họ nghe liền.
Đó thì các con đừng có nghĩ xa vời mà hãy nỗ lực thực hiện những cái mà Thầy dạy. Bây giờ phải cứu mình trước đi, đừng có nghĩ ai hết, đừng có lo ai hết, họ có đủ duyên phước thì tức là nó có duyên thì cô Út sẽ gọi họ về. Còn không có thì thôi.
Cũng như họ có đủ duyên Mật Hạnh gọi, mai mốt để mà Chánh Đức chở con về Hà Nội, để nó cất cái chùa cho con tu! Lời Thầy nói muôn năm nó còn ở trong băng này chớ đâu mất được các con, đâu có mất được. Do đó nó thành Phật ở Hà Nội đó chớ, nó thành ở trên Trúc Lâm chớ đâu phải, nó ở chùa Đồng đó. Con mai mốt làm tổ sư Trúc Lâm ở chùa Đồng chớ đâu phải ở đây đâu!
Cho nên cái ơn nghĩa đó gieo nhân quả đó. Cho nên chẳng qua cái gì cũng do nhân quả mà ra mà thôi. Do mình tạo nhân quả tốt thì sẽ hưởng được cái nhân quả tốt, mà mình tạo cái nhân quả xấu thì nó sẽ hưởng cái nhân quả xấu mà thôi.
Cho nên ở đây, tuỳ theo cái nhân quả mà chúng ta nỗ lực chúng ta thực hiện tu tập trên con đường tu tập của mình. Nếu mà không thực hiện được cái nhân quả tốt để mà ngăn chặn các pháp ác, thì con đường tu tập của chúng ta cũng khó.
(23:20) Bởi vì cái pháp Tứ Chánh Cần, rõ ràng là cái pháp tạo cái nhân quả thiện chớ không có tạo cái nhân quả ác. Cho nên ngay từ cái pháp đầu tiên mà chúng ta tu tập, thì như các con cũng đã thấy rằng, đó là toàn bộ là chúng ta giữ gìn cái thiện pháp, mà ngăn chặn và đoạn trừ các pháp ác, không có để cho các pháp ác sanh khởi ở trong tâm của chúng ta, từng phút, từng giây.
Và đồng thời chúng ta có những cái loại thiền định, cái loại thiền định đó để mà chúng ta thực hiện được, ngăn chặn được các pháp ác và đoạn dứt các pháp ác, chớ không phải chúng ta không có pháp, có pháp hẳn hòi.
Như vậy bây giờ các con đã thấy được, các Thầy đã thấy được, cái pháp mà của Phật dạy cụ thể và rõ ràng, thực hiện nó phải đi pháp nào, như thế nào rõ ràng, để chúng ta đạt được cái Tứ Chánh Cần. Đó thì, đạt được cái Tứ Chánh Cần thì ngay đó là tâm chúng ta có giải thoát rồi, giải thoát liền tức khắc, hàng giờ, hàng phút, hàng giây, như Thầy đã nói.
(24:33) Cho nên ở đây chúng ta thấy nó rất rõ ràng: “Những vị A La Hán ý nghiệp thường vắng lặng, ngữ nghiệp, hành nghiệp thường vắng lặng.”
Đó thì, các vị thấy rõ ràng là ở, các con cũng như các thầy đã thấy, gọi là một vị A La Hán thì cái ý nghiệp nó thường vắng lặng, tức là đâu có cái niệm nào ở trong đó. Nó phải thường vắng lặng chớ, còn mình cứ nghĩ cái này, nghĩ cái kia, làm sao gọi là vắng lặng?
Đó. Mà ngữ nghiệp vắng lặng, tức là miệng của mình đó, cái ngôn ngữ, ngữ nghiệp là ngôn ngữ của mình có nói không? Không có nói, cho nên nó thường vắng lặng. Và cái hành nghiệp thường vắng lặng. Cái hành nghiệp là cái thân hành của mình nó thường nó vắng lặng. Nó không có cái hành động ác ở trong đó, cho nên nó phải vắng lặng.
“Lại có chánh trí giải thoát nên được an ổn luôn luôn.” Luôn luôn lúc nào mà chúng ta được vắng lặng như vậy, thì cái chánh trí là cái trí sáng suốt của chúng ta như thế nào? Ở trong cái thiện pháp nó có cái biết chớ đâu phải là cái không biết, cho nên cái đó gọi là chánh trí.
Cũng như bây giờ tâm Thầy nè, không sân, không si, không tham, không muốn, không khởi ham muốn cái này, không nhớ, không nghĩ, không lo tất cả mọi cái. Thì ngay cái chỗ này Thầy có ngủ quên không, Thầy có vô ký không? Đâu có vô ký.
Cho nên Thầy còn chánh trí chớ, Thầy còn biết rất rõ chớ, Thầy còn thấy được cái thọ, cái thân của mình, cái tâm của mình, nó do cái chỗ ly dục ly ác pháp nó có cái an lạc của nó chớ. Thầy biết rất rõ, cho nên đó là cái chánh trí của Thầy chớ.
Mà cái chánh trí đấy là cái chánh trí gì? Chánh trí giải thoát. Ở trong thiện pháp là giải thoát rồi, chớ đâu phải là thiện pháp như Thầy đã dạy đó, trước kia tu Tứ Vô Lượng Tâm đó nó có được giải thoát không?
Lo kêu gọi Phật tử đóng góp tiền bạc, rồi ghi sổ ghi sách, rồi đi mua gạo, mua thóc, mua quần mua áo, mua mì gói, rồi mua xà bông, bột ngọt, mua loại này loại kia đủ thứ, để chúng ta đi làm việc từ thiện, bố thí cho những cái người bị nhà cháy, bị nước trôi thì tất cả những cái việc này, họ có được cái tâm mà an ổn không?
Mà lo lắng suy tư ở trong này nè: À bây giờ còn thiếu bao nhiêu, bây giờ ở cái khu đó nó như vậy là bao nhiêu nhà, rồi bây giờ nó còn thiếu bao nhiêu, mỗi nhà vậy là phải cho người ta bao nhiêu, mỗi người phải lãnh bao nhiêu?
Do nó tính toán đủ thứ ở trong đầu của mình như vậy thì thử hỏi cái đó nó có vắng lặng không? Nó không vắng lặng. Mà việc thiện đó nó không vắng lặng như vậy thì nó đâu phải là giải thoát của đạo Phật!
Đó cho nên chúng ta thấy một vị A La Hán tức là một người mà đã giải thoát đó, thì ngay khi mà chúng ta, đâu có cần phải có Tam Minh, hoặc là thần thông phép tắc gì, mà ngay khi cái ý nghiệp của chúng ta, cái ý của chúng ta không có khởi một cái niệm gì hết, vắng lặng, cái ngữ nghiệp chúng ta không có nói gì hết, luôn luôn chúng ta làm mà chúng ta không nói gì hết, nó vắng lặng, và cái hành động của chúng ta hằng ngày nó không có một cái niệm gì ác hết, không có cái sự việc gì động mà làm cho đau khổ chúng sanh hết.
Đó là nó đang ở trong vắng lặng. chớ không phải là cái hành nghiệp vắng lặng là chúng ta ngồi như cái gộc cây, không phải như vậy.
(27:59) Ở đây chúng ta nhằm ở trong cái ác pháp và cái thiện pháp, nhằm ở chỗ Tứ Chánh Cần mà chúng ta nói về một bậc A La Hán. Cho nên ngay đó mà chúng ta đã giữ được những cái hành động như vậy, thì tức là chúng ta là bậc A La Hán giải thoát hoàn toàn đó, nên luôn luôn lúc nào tâm của chúng ta cũng được an ổn.
Thấy chưa, thấy giải thoát chưa, thấy rõ ràng chưa? Thấy chúng ta là A La Hán hay không phải là A La Hán? Nhưng mà A La Hán của chúng ta bây giờ nó chỉ có được một chút à, rồi cái bắt đầu đó nó trở thành phàm phu.
Có không, quý thầy có không? Bây giờ chúng ta không có gì hết, trong tâm không có gì hết, nhưng chút nữa cái nó phàm phu liền á, nó không có kéo dài được cái trạng thái A La Hán.
Cho nên vì vậy mà chúng ta phải có những cái pháp thực hành, để cho nó kéo dài cái trạng thái đó, mà gọi là thiện xảo an trú ở trong cái định đó, cái định Chánh Niệm Tỉnh Giác đó, thiện xảo an trú trong cái Định Vô Lậu đó.
Đó là thiện xảo, chớ không phải đợi Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tứ Thiền mình mới thiện xảo trong đó. Mà cái định Chánh Niệm Tỉnh Giác, mà cái Định Vô Lậu chúng ta vẫn thiện xảo, để mà chúng ta kéo dài cái trạng thái không ác pháp, thiện pháp này, thì đó là thiện xảo chớ! Thiện xảo là khéo léo để cho tâm chúng ta an trú mãi ở trong đó mà không có một cái ác pháp khởi ra, thì đó gọi là thiện xảo.
Cho nên cái gì mà chúng ta muốn kéo dài được, tăng trưởng được cái điều đó, là phải có sự khéo léo, phải có sự thiện xảo ở trong đó, thì chúng ta mới được an trú trong đó. Mà cái thiện xảo, cái khéo léo đó, là chúng ta phải tùy theo ở cái khả năng và đặc tướng của mình để cho mình thiện xảo mình khéo léo, nó mới kéo dài được cái trạng thái giải thoát. Còn nếu mà mình không thiện xảo, không khéo léo thì mình không có được giải thoát.
(29:44) Trong cái cảnh mà yên tịnh như quý Thầy ở phía sau đó, thì cảnh đó là cảnh rất vui đối với A La Hán. Nhưng mà cái người mà ham cái chuyện đời thì cái cảnh mà yên tĩnh thanh vắng ở khu sau đó, thì coi như là cái địa ngục của quý thầy.
Trời ơi nó buồn quá trời! Gì mà nghe nó vắng lặng, gì mà nó nghe nó không ai nói chuyện hết, nhìn cái đám cây cũng như cái rừng, ở trong rừng như vậy, các thầy thấy buồn khổ quá! Thôi xách cuốc đi rẫy làm cỏ, hay hoặc là đi làm cái này cái khác, hay hoặc là kiếm sách kiếm báo nằm đọc cho nó vui. Thì như vậy rõ ràng là quý thầy đã phá cái cảnh thanh tịnh nơi tâm của quý thầy rồi.
Cho nên cái cảnh mà thanh tịnh, vắng lặng như vậy đó, là rất vui đối với vị A La Hán. Người mà gọi là A La Hán thì người ta sống trong cái cảnh mà Thầy đã đặt cho quý thầy ở, đó là cái cảnh rất vui cho quý vị đó.
Còn cái người mà thấy cảnh này, nghe nó buồn khổ quá, cho nên lại thất người này nói chuyện, lại thất người kia nói chuyện để cho vui, thì thôi thôi, thật sự ra thì sống giữa chợ đi cho xong, chớ còn sống trong cái cảnh này thì đâu có phải.
A La Hán thì người ta sống trong cái cảnh vắng lặng như vậy đó. Nhưng người đời thì chẳng ưa thích, trái lại dục lạc là cảnh ưa thích đối với người đời, vị A La Hán thì lại tránh xa. Cho nên cái cảnh dục lạc của thế gian ồn náo vui chơi, xe cộ chạy qua chạy lại, thế này thế khác, ăn uống ngủ nghỉ đó, thì đó là cái cảnh của thế gian.
Còn cái cảnh của A La Hán tránh xa từng cái ăn, uống, ngủ, nghỉ gì họ cũng tránh xa hết, họ sống thanh thản, yên lặng của đời sống của họ, trầm lặng ở trong một cuộc sống của họ, đó là những bậc A La Hán.
(32:53) Đó thì cái phần mà tu tập hôm nay về Tứ Chánh Cần, thì chúng ta phải biết rằng cái vấn đề rất quan trọng là chúng ta phải sống trong cái cảnh mà tạo cái cảnh nơi tâm của mình cho được yên lặng. Nó không có cảnh đó thì chúng ta phải tạo cho cái cảnh đó nơi tâm của mình, để cho nó được sống trầm lặng, sống cô đơn, không nói chuyện gì hết.
Thì như vậy là cái ưa thích của một cái người, nếu mà chúng ta ưa thích cái cảnh đó thì tức là chúng ta là bậc A La Hán, mà chúng ta chưa có ưa thích cái cảnh đó thì chúng ta chưa phải là bậc A La Hán. Như vậy là chúng ta tiếp tục để mà chúng ta thực hiện Tứ Chánh Cần thì chúng ta cần phải ưa thích cái cảnh yên tịnh.
Cho nên do một cái nhân duyên, mà các con ở bên nữ các con đã mất đi một cái cảnh yên tĩnh, để rồi tiếp xúc cái cảnh động. Nhưng tiếp xúc cảnh động thì các con lại nỗ lực hơn, tích cực hơn, chớ không khéo rồi các con sẽ ở trong cảnh tịnh mà rồi sanh ra làm việc này việc khác để cho nó bớt cô đơn, để làm cho nó vui, hoặc là đến thất này nói chuyện, đến thất kia nói chuyện, thì ở trong cảnh tịnh mà lại động thì nó không có nghĩa lý gì.
Cho nên ở trong cảnh tịnh, mà cảnh tịnh phải sống một mình, không nói chuyện với ai, thì cái tịnh đó nó lại càng thêm tịnh, nó sống lại với nội tâm của mình, nó xa lìa toàn bộ các ác pháp, thì như vậy mới là cảnh tịnh.
(31:28) Ở đây thì khi mà chúng ta mà thắng lại mình, tức là ngăn chặn được ác pháp, không có cho nó tăng trưởng và đoạn dứt nó được, thì Kinh Pháp Cú dạy như thế này: “Thắng ngàn quân địch chưa thể gọi là thắng. Tự thắng được mình mới là chiến công oanh liệt”.
Cái câu Kinh Pháp Cú này rất hay là vì mình thắng được cái tâm của mình ham vui, thắng được cái tâm chạy theo dục lạc, thắng được cái tâm mà không cho nó khởi niệm.
Do cái Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, do cái Định Vô Lậu, mà mình chiến thắng, hoặc cái Định Niệm Hơi Thở mà mình không cho cái niệm nó khởi vào, tức là mình đã tự thắng mình. Còn mình để các niệm nó xen ra xen vô, thì đó là mình không có thắng mình được rồi. Mà không có thắng được mình thì nó không phải là chiến công oanh liệt nhất.
Cho nên thắng ngàn quân địch chưa gọi là thắng, tự thắng được mình mới là chiến công oanh liệt. Thì hôm nay các thầy, các con đã thấy được cái sự chiến thắng nơi nội tâm của mình mới là sự chiến thắng. Không phải mình đi đánh lộn người ta, mình đánh hơn người ta mình là chiến thắng đâu.
Một mình mình đánh mười người, một trăm người chưa phải là chiến thắng đâu. Mà mình thắng được nội tâm của mình, không cho ác pháp sanh khởi, không cho nó tăng trưởng, đó là một chiến công oanh liệt nhất, mình thắng mình.
Câu Kinh Pháp Cú kế dạy: “Tự thắng mình còn vẻ vang hơn thắng kẻ khác, muốn thắng mình phải luôn luôn chế ngự lòng tham dục”.
Đó, tham là ác pháp mà, cho nên mình luôn luôn, mình phải giữ gìn rất là nghiêm chỉnh. Mà giữ gìn nghiêm chỉnh ở đây, mình có pháp chớ đâu phải là không pháp mà sao mà mình sợ, mình nói giữ nghiêm chỉnh là danh từ “giữ”, mà rồi mình biết giữ nó ra sao?
Còn ở đây mình có pháp nè, có pháp giữ nó nè, Chánh Niệm Tỉnh Giác mình có pháp giữ nè, Định Vô Lậu mình có pháp đoạn nè, dứt nó nè, hơi thở mình có pháp giữ nó nè. Rõ ràng là mình có pháp để mình giữ nó, cho nên mình sẽ chiến thắng được.
Mình đi đánh trận mà mình có đủ binh thơ đồ trận, mình có đủ mưu kế, mình có đủ vũ khí tối tân thì mình phải thắng trận rồi. Mà đây mình tu hành mình có đủ pháp để cho mình tu tập thì mình phải thắng rồi, chớ đâu phải là mình tu mà như không có pháp.
Từ lâu tới giờ đó, thì thấy các thầy cũng đi tu theo Phật, nhưng mà sự thật ra các thầy không có, ngay cái mặt trận của nội tâm mà quý thầy thắng. Quý thầy tu tập ở đâu xa không à, chớ không có thắng tâm mình.
Bắt đầu thí dụ như mình tu cái Thiền Đông Độ, thì mình “biết vọng liền buông”, mình buông để làm gì? Thì mình cũng chưa biết được cái mục đích buông để làm gì. Còn ở đây mình thắng nó là mình thắng ác pháp, mình thắng được cái nội tâm của mình không cho khởi ác pháp.
Mà mình có những cái pháp để mình tu nó. Còn cái kia mình cứ giữ tâm mình mà mình không biết cách giữ như thế nào để cho niệm thiện, niệm ác không có. Đó thì cái sự tu tập của mình nó phải có pháp, mà nếu không pháp thì đó là lời nói suông.
Đó thì hôm nay qua hai cái câu Pháp Cú “Mình thắng ngàn quân địch không bằng thắng tự mình”, mà mình “tự thắng mình vẻ vang hơn là thắng kẻ khác.” Mà muốn thắng mình thì luôn luôn phải ngăn chặn không cho các ác pháp sanh khởi, không cho nó tăng trưởng, thì tức là mình đã chiến thắng được nội tâm của mình.
(36:35) Đó, thì trên cái bước đường tu tập chúng ta đã có pháp, đã biết cách, thì chúng ta phải nỗ lực, phải thực hiện cho nó sâu, cho nó thâm sâu để kéo dài từng giờ này đến giờ khác. Như vậy bây giờ thì hầu hết là các con và quý thầy cũng đã rõ, thì hàng ngày chúng ta phải tinh tấn nỗ lực.
“Sống trăm tuổi mà giải đãi, không tinh tấn, chẳng bằng chỉ sống một ngày mà hăng hái chuyên cần.”
Ở đây Thầy muốn nói về Tứ Chánh Cần, dù bây giờ các thầy mà sống tu có cầm chừng, cầm chừng đi nữa, thì dù là tu Tứ Chánh Cần mà cầm chừng đi nữa, thì chẳng bằng người ta sống trong một ngày mà người ta hăng hái người ta nỗ lực, người ta giữ một ngày một đêm không có một cái niệm ác xen vô.
Còn quý thầy cứ để cho lát có cái niệm này xảy ra, lát nữa có niệm khác xảy ra, thì bây giờ có sống trăm tuổi đi chăng nữa, cũng không bằng người ta sống trong một ngày.
Bởi vậy Thầy nói 3 tháng, 6 tháng là xong, còn nếu mà quý thầy không nghe lời, mà quý thầy tu cái kiểu của quý thầy thì bây giờ đã 10 năm, sống thêm trăm tuổi nữa, bây giờ là 40, 30 tuổi rồi mà sống thêm 100, 200 tuổi nữa cũng chẳng đi tới đâu hết. Nghĩa là tu cái kiểu đó không bao giờ tới nơi.
(37:43) Người ta nói phải miên mật là như tường đồng vách sắt, không có kẽ hở cho nó lọt vào, ác pháp không có được sanh khởi, không được tăng trưởng, không có được lọt vào, ở trong cái chỗ cái tâm của chúng ta toàn là thiện pháp. Nghĩa là chúng ta phải miên mật, phải kín đáo, phải như tường đồng vách sắt, không có kẽ hở.
Còn như vách liếp như vầy thôi rồi. Tâm của quý thầy bây giờ mà tu như cái Tứ Chánh Cần Thầy nhìn như là cái tấm liếp của chúng ta đây thôi. Nghĩa là nhìn ra ngoài thấy ở ngoài hết rồi, thì ở ngoài nó lọt vô biết bao nhiêu chỗ nào lọt, cho nên tu như vậy thì biết đời nào mà cho xong.
Cho nên phải nỗ lực thực hiện là tâm mình kín đáo, nghĩa là từng phút từng giây nỗ lực Chánh Niệm Tỉnh Giác, Định Vô Lậu, Định Niệm Hơi Thở, liên tục ở trong những pháp này mà chúng ta nỗ lực kéo dài để giữ ác pháp không cho sanh khởi. Nghĩa là không cho nó kẽ hở để mà nó lọt vào trong tâm chúng ta. Đó là chúng ta đã chiến thắng nó, chúng ta đã chiến thắng được tâm mình đo.
(38:37) Còn nếu mà để cho nó kẽ hở mà lọt vô là quý thầy tu không biết chừng nào mà cho rồi. Mà rồi đây thì các thầy sẽ thấy rằng trong cái thời gian gần tới đây thì các thầy phải làm những cái việc lợi ích cho mọi người chớ không thể mà… Cho nên phải ráng, nỗ lực hết sức đi, để rồi … (Mất tiếng) kẽ hở, từng đó các thầy sẽ thấy sự giải thoát tới cái chỗ này.
“Hãy gấp rút làm những việc lành, chế chỉ tâm tội ác. Hễ biếng nhác việc lành giờ phút nào thì tâm ưa chuyện ác giờ phút nấy”.
Đó là cái câu Pháp Cú dạy cho quý thầy đó. Nghĩa là bây giờ phải gấp rút giữ gìn cho tâm mình luôn luôn nó là thiện, không được các pháp ác nó xen vào, chế chỉ tâm tội ác của nó, các ác pháp không có cho nó xen vô mà hễ biếng nhác, lười biếng một chút, bởi vì ở đây nó phải là tinh tấn rồi, nó phải siêng năng rồi, cho nên Tứ Chánh Cần là phải siêng năng tinh tấn tu tập, chớ còn lười biếng thì không thể nào mà có thể pháp ác nó không xen vô.
Mà hễ lười biếng thì với cái việc mà ngăn chặn các ác pháp này, thì việc lành này, thì giờ phút nào, thì tâm nó sẽ duyên theo các pháp ác giờ phút nấy, nó sẽ khởi ra. Và như vậy thì chúng ta không bao giờ mà thực hiện cái được sự giải thoát của chúng ta.
“Nếu đã lỡ làm ác chớ nên thường làm hoài.” Nếu nó lỡ sanh ra một cái niệm nào trong đầu, thì chúng ta nỗ lực khắc phục, từ đây về sau phải chặn đứng, không có cho nó sanh vô nữa. Đó là thì chúng ta có sự quyết tâm, nhiệt tâm như vậy thì nó mới có thể hết, chớ còn nếu mà không có nhiệt tâm quyết tâm vậy thì nó không hết.
“Chớ vui mà làm hoài”, chớ thấy nó như vậy mà dễ dãi rồi để nó cứ nó ra vô ra vô hoài ở trong cái tu tập của mình, thì như vậy là không bao giờ hết.
“Hễ chứa ác nhất định phải thọ khổ.” Hễ mà có cái tâm mà ra vô như vậy, thì quý thầy sẽ thấy khổ, các con cũng bên nữ các con cũng biết rằng nó sẽ khổ chớ không phải không khổ đâu.
“Nếu đã làm việc lành, hãy nên thường làm, làm mãi, nên vui làm việc lành. Hễ chứa lành nhất định là hưởng sự giải thoát, tức là thọ lạc”.
Ở trong câu Kinh Pháp Cú này dạy như vậy đó. Thì như vậy rõ ràng là chúng ta phải nỗ lực thực hiện những cái điều lành để mà luôn luôn tâm chúng ta được lành, thì chúng ta sẽ thọ được những cái quả an lạc.
(41:07) “Chớ khinh điều ác nhỏ, cho rằng chẳng đưa lại quả báo gì cho ta. Phải biết giọt nước nhiễu lâu ngày cũng làm đầy bình. Kẻ ngu phu sở dĩ đầy tội ác bởi chứa dồn từng khi ít mà nên”.
Nghĩa là chúng ta đừng có nghĩ rằng ngày nay mình chỉ có một lần nó khởi cái niệm ác ở trong đầu của mình, tức là một cái niệm nào thương ghét thôi, chớ Thầy không nói, đừng có nghĩ rằng chúng ta giết người gọi là ác đâu, mà đây là khởi một cái niệm thương nhớ, hoặc lo gì đó đó, thì cũng đủ là đó là một cái giọt nước nó nhỏ rồi. Mà ngày ngày mà nó nhỏ như vậy thì cái bình nó cũng sẽ đầy.
Cho nên kẻ ngu phu sở dĩ đầy tội ác bởi chứa dồn từng cái một ít, nghĩa là ngày chút, ngày chút. Cho nên chừng đó cái tâm của chúng ta, đến lúc đó người ta nói tiếng nói cái nó sân lên liền, nó tức giận nó lên liền, nó không có vui vẻ được.
Do chúng ta chứa từng chút, từng chút cái niệm ác nhỏ nhỏ, cái niệm khởi nhỏ nhỏ đó, mà cho đến khi đụng chuyện thì chúng ta thấy cái tâm của chúng ta chẳng có giải thoát được chút nào. Đó là cái quan tâm, cái lưu ý của chúng ta.
Cho nên hàng ngày thật sự ra quý thầy không có lưu ý đến cái niệm nho nhỏ, tưởng nó không có cái gì, nó đâu có làm cái gì tâm chúng ta phiền não giận hờn đâu, nó khởi cái niệm nó thôi chớ có gì đâu, nó thương nó nhớ nó ghét hoặc nó gì đó cũng đâu có gì mà khổ cho mình đâu. Nhưng mà cứ một lần chút, lần chút như vậy chớ mà nó đầy bình đó.
Mà khi đầy bình, chừng nào chúng ta biết nó đầy không? Khi mà người ta nói một cái lời nói gì nó không hợp với mình, nghe đó mình tức, đó là nó đầy bình đó, nó đầy bình nó mới tức nó chảy ra đó, nó tràn ra đó. Còn nếu mà nó đã cạn, nó đã hết sạch rồi thì nó không tràn ra chút nào hết, ai nói gì nói, chửi mình thì chửi, mình như cục đất, đó là nó đã cạn hết.
Còn bây giờ nó đầy bình, nó nhiễu đầy hết rồi, cứ một ngày Thầy nói có một cái niệm ác là nó đã nhỏ vô cái bình tâm của quý Thầy nó chứa trong đó. Cho nên không ai động tới thôi, mà động tới một cái là các thầy nhảy nay lên liền, như một con cọp dữ chưa nhịn ai được ai đâu, chưa nhẫn nhục ai đâu. Nó chưa đúng lúc đó, chớ đúng lúc rồi thì các thầy lộ ra cái tướng sân của các thầy dữ tợn, là vì những cái niệm đó mà nó đã nhỏ vào trong cái bình của quý thầy.
“Chớ khinh điều lành nhỏ”, nghĩa là hàng ngày mình coi thường cái việc lành của mình, tức là mỗi cái niệm ác nó khởi lên thì cái lành nó sẽ mất đi. Cho nên chúng ta đừng có khinh cái chuyện mà giữ gìn cái niệm ác đó thì cái niệm thiện nó mới tồn tại, nó mới giữ được, cho nên nó mới có cái niệm thiện.
(43:48) Do đó chúng ta coi thường cái niệm thiện cho nên chúng ta để niệm ác nó xen vô. Chớ nếu mà chúng ta không có khinh thường cái niệm thiện nhỏ này thì chẳng bao giờ mà chúng ta có cái quả báo nào, tức là người ta chửi, mình như cục đất liền.
“Chẳng đưa lại quả báo cho ta”, nghĩa là mình thấy rằng cái việc nhỏ này nó đâu có đem đến cái phước báo cho mình đâu.
“Phải nói rằng giọt nước nhiễu lâu ngày cũng làm đầy bình. Kẻ trí sở dĩ toàn thiện bởi chứa dồn từng ít, từng khi ít mà nên”. Nghĩa là mình cố mình giữ gìn, đừng có cho cái ác pháp xen vô, thì cái thiện pháp nó cứ một ngày một chút, ngày một chút, cho đến khi nó toàn diện thì lúc bấy giờ chúng ta mới thanh tịnh toàn tâm.
Một ngày chúng ta giữ nó đừng cho xen vô thì ngày bữa nay nó cũng được vậy, ngày mai được vậy, ngày mốt được vậy, rồi một tháng được vậy rồi hai tháng, ba tháng được vậy, thì luôn bây giờ ba tháng được vậy là cái bình của chúng ta nó đã đầy rồi, đầy thiện pháp rồi.
Mà đầy thiện pháp thì nó đủ cái quyền lực để mà chúng ta sai khiến được cái sự sanh tử luân hồi của chúng ta. Thì như vậy rõ ràng hàng ngày chúng ta tu tập cái này mà chúng ta sẽ đạt được cái Thiền Định rất là vĩ đại. Đó, đó là những cái bài Kinh Pháp Cú Phật đã dạy như vậy.
“Đem ác ý xâm phạm đến người không tà vạy, người thanh tịnh vô nhiễm. Tội ác sẽ trở lại làm ác như ngược gió mà tung bụi”.
Câu kinh Pháp Cú này thì nó nói trong cái vấn đề mà mình đem cái ác ý của mình mà xâm phạm đến người khác, đây là quá thô rồi, đây là những cái ác nó thô chớ không phải còn vi tế ở trong tâm của mình.
Mà sự thật ra thì như ví dụ như cái bình mà mỗi ngày nó có một cái niệm ác nó nhỏ vào, mình coi thường cho nên cái công phu tu của mình nó không kết quả. Mà mình coi thường cái sự mà, những cái việc giữ gìn cho cái tâm nó kéo dài trạng thái thiện, coi thường nó, để cho ác pháp xen vào thì cái kết quả cũng chẳng ra gì.
Mà mình coi trọng về cái thiện pháp, mình cố gắng giữ gìn cho miên mật, thì các ác pháp không có sanh khởi, toàn thiện pháp. Thì như vậy thì không có, mình sẽ được sự giải thoát hoàn toàn mà không bị cái thô của ác pháp, cái thô của ác pháp có nghĩa là như người ngược gió mà tung bụi, nghĩa là mình đứng ở dưới gió, gió ở trên thổi xuống mà mình tung bụi thì bụi nó sẽ rớt vào mình hết…
(46:22) Các ác pháp nó bùng dậy, thì lúc bây giờ cái tâm của mình như thế nào? Nó giận hờn, nó phiền não, nó đau khổ, nó làm cho mình khổ sở.
Thì lúc bây giờ đó là mình, coi như là mình từ lâu tới giờ, mình coi thường cái giọt nước nhỏ của ác pháp, mà mình coi thường nó cho nên mình để nó xen ra xen vô. Mình ngỡ tưởng rằng như vậy lâu ngày nó sẽ hết, lần nó bớt chút bớt chút, nhưng sự thật ra nó vẫn còn một cái niệm nhỏ đó, thì nó không bao giờ hết đâu.
Cho nên đến khi mà một ngày nó tích lũy một chút, tới chừng đó nó bùng cái là tâm mình giận hờn, phiền não, thì như là mình đã tung cái bụi, mà cái bụi đó nó ngược gió, nó lại làm cho mình dơ bẩn, mình đau khổ, đó là cái ý của trong cái sự ác pháp như vậy. Cho nên trong cái sự tu tập chúng ta phải hết sức tận lực và nỗ lực tu tập.
“Chẳng phải bay lên không trung, chẳng phải lặn xuống đáy biển, chẳng phải chui vào hang sâu núi thẳm, dù tìm khắp thế gian này chẳng có nơi nào trốn khỏi ác nghiệp đã gây.“
Nghĩa là một cái niệm nhỏ đó, hoặc là một cái sự hành động ác mà mình trốn ở đâu mình cũng không tránh khỏi được cái nhân quả, cái nghiệp ác đó.
Thô thì cũng không tránh khỏi, mà ác mà vi tế như cái sự tu tập của chúng ta hàng ngày giữ cái tâm mình không cho các cái niệm ác khởi, mà mình không thấy để cho nó khởi thì lâu ngày thì chúng ta cũng sẽ thấy được cái nghiệp ác đó, dù bây giờ chúng ta có trốn ở trong cái thiền định này, trốn trong thiền định kia thì chúng ta cũng không có chạy hỏi nó đâu.
Nghĩa là Thầy muốn nói trốn, tức là chúng ta ức chế tâm mình không có niệm này, không có niệm kia. Nhưng mà không có niệm này niệm kia nó chỉ trong cái giờ mà chúng ta tu mà thôi, còn ngoài cái giờ mà không tu thì các niệm nó sẽ có.
Ở câu Pháp Cú kế nữa thì “Chẳng phải bay lên không trung, chẳng phải lặn xuống đáy biển, chẳng phải chui vào hang núi sâu thẳm, dù khắp thế gian này chẳng có nơi nào mà trốn khỏi tử thần.”
Nghĩa là vì ác pháp đó, vì những cái niệm mà chúng ta không ngăn chặn, để mà tăng trưởng những ác pháp đó, thì cho nên tử thần chúng ta không trốn khỏi đâu, nghĩa là chúng ta không giải thoát. Đó thì cái sự tu tập như vậy thì chúng ta sẽ thấy được ở trên cái con đường mà tu tập đúng pháp hay là không đúng pháp.
(48:50) Đến đây thì chúng ta thấy, cái thì giờ chúng ta cũng không có nhiều, và đồng thời thì Thầy xin đọc lại cái bức thư của chú Chánh Tâm. Thiệt ra thì… cũng giải quyết cho chú…
Bởi vì toàn chúng ở đây Thầy thấy nghĩ rằng có nhiều người cũng có đủ duyên không có gia đình, nhưng mà cũng có nhiều người thì có gia đình nhưng mà chưa đoạn dứt được.
Chú thì, năm mùa hạ rồi thì chú có về đây tu tập, nhưng chú đã tu theo những cái pháp của thiền tưởng cho nên nó làm cho chú rất là căng thẳng thần kinh. Mỗi lần mà nhiếp tâm trong hơi thở là ngay đó là bị căng thẳng liền.
Từ khi mà vào đây Thầy bảo xả tâm, rồi lần vào kì này thì coi như đương nhiên là tu tập tốt, không còn có bị ảnh hưởng cái điều đó nữa. Tại vì cứ lo xả cái ác pháp chớ không có tu ức chế tâm, cho nên nó lần lượt nó thấy nó có những cái kết quả tốt. Bây giờ thì trong cái hoàn cảnh của chú thì nó rất là khó xử, chớ không phải dễ.
“Kính bạch Thầy, con xin cúi lạy Thầy, hôm nay con ghi lại lời thỉnh nguyện của con để kính trình lên Thầy để mong Thầy quyết định cho con.
Mùa hạ năm trước con có được nhân duyên nghe Thầy giảng về Giáo án đường lối tu hành theo đạo Phật. Đạo thì đã biết vậy, nhưng ở trong gia đình sống trong sự vui thích đam mê của thế gian, tâm con ít được rèn luyện, sức tỉnh thức luôn yếu, mà dục lạc lại quá thu hút, con luôn luôn phạm lỗi, làm tâm con luôn bị đau khổ trước những lỗi lầm.
Lỗi lầm đó, tâm con luôn bị hối hận mà không vượt qua được tội lỗi đó. Đứng trước những sự việc xảy ra và thực chứng những sự việc xảy ra đó, con càng thấm thía những lời của Phật. Đời là khổ, khổ muôn kiếp.“
Nghĩa là có sống trong cuộc sống rồi, Chánh Tâm mới thấy được cái đời là khổ và khổ muôn kiếp nữa chớ không phải là khổ trong một đời này.
“Biết được sự khổ đau và tâm con cũng bị nhiễm vào sự khổ đau đó mà không gỡ ra được. Hạ năm nay con lại quyết định dứt bỏ tất cả các công việc đang làm dở dang để theo Thầy tu tập nhằm vứt bỏ những khổ đau trong lòng. Vào đến đây Tu viện, tâm con có sự giải thoát rõ ràng.”
Nghĩa là vào Tu viện thì rời khỏi gia đình, thì nhìn lại thì nó có cái sự giải thoát. Cả hai cái cuộc sống nó khác nhau rồi, cho nên khi nhìn vào cái cuộc sống của thế gian thì mình thấy dường như là bị trói buộc, mà vào đây thì nó phải có sự giải thoát.
(52:00) Cũng như, thí dụ như Thầy nhắc lại các con thấy, khi mà cô Từ Đức, Thúy và Trang, nó không có xả được cái tâm của mình, có chút à, rồi các con, các thầy cũng thấy rất rõ.
Khi xin phép ra đi rồi, thì bắt đầu dự định là cái chương trình của mình ra cái khu đất của Tùng nó mua ngoài đó để cất nhà ở. Nhưng mà ra đó đâu phải nó làm vừa ý cho mình liền được đâu, làm khổ ở đó, không nước, không điện, rồi xa làng xóm thì không ở được, nó đều cất rất khó.
Rồi bây giờ mới về đất của cô Diệu Hảo để mà ở, thì về đó phải cất nhà cất cửa, cho đến hôm nay cũng vẫn chưa yên mà nó xảy ra nhiều cái sự kiện, có thể nói rằng nó đâu có ổn.
Thay vì bây giờ cô Út dời ra trước ở, ở sau ra trước, mình cứ ra trước, thì tức là sắp xếp một hôm, hai hôm thì ổn định rồi, thì mình cứ chuyên tu, lấy cái đối tượng trong cái sự việc đó mình tu tập, thì tức là mình cũng vẫn yên ổn, đâu có cái chỗ mà lăng xăng, lích xích như bây giờ, cho đến giờ phút này chưa có tạm yên gì hết, nhà cửa cũng chưa có xong xuôi gì hết.
Nó đâu có đơn giản đâu, thời gian nó rất mất, mà nó làm cho tâm mình bị động rất nhiều động đủ cách động.
Nên người ta cứ ngỡ tưởng đứng núi này trông núi khác, mình ra rồi thì chắc chắn mình sẽ có một nơi yên ổn tu tập. Mình tu tập mình nhập thất, ở trong thất có người hộ cơm cho mình ăn, mình khỏi làm khỏi gì hết, mình tu. Tu như vậy chắc chắn là không bao giờ mà, nếu mà thành tựu thì từ lâu đã bao nhiêu người về đây tu tập người ta đã hộ cơm, khỏi có nấu cơm khỏi gì hết, họ đã giải thoát hoàn toàn rồi.
Nhưng sự thật ra đâu có, cái chuyện đó đâu có đâu. Có nhìn người nào đi, thì các Thầy cũng đã thấy rằng, cái vấn đề đó không có đâu. Mà phải xả cái tâm của mình chớ không phải là ở chỗ mà mình ngồi trong thất, mình nhiếp tâm, mình thiền định rồi mình sẽ được giải thoát, không phải đâu. Nếu mà mình ở trong thất mình không biết xả tâm của mình thì mình cũng chỉ ức chế tâm mà thôi chớ không giải thoát.
Đó thì, các con thấy, từ cái chỗ đang ở trong cái cảnh giới tu tập yên ổn, từ ở sau mà dời ra trước có chút xíu rồi mình yên tu mình nỗ lực thì nó lấy lại bình thường như thường, và ngay đó là mình đã thấy mình đã xả tâm, mình sẽ được giải thoát, không có còn một cái pháp nào mà làm cho tâm mình nó bị dao động hết.
Còn cái này bị dao động ngay liền, bị dao động rồi từ cái dao động này nó sẽ tiếp nối cái dao động khác, nó làm đủ thứ dao động chớ không phải là không dao dộng.
Rồi đây không biết cuộc đời nó sẽ trôi lăn như thế nào, mang tiếng tu hành mà không đi đến đâu, rồi đời chẳng ra đời, đạo chẳng ra đạo, cuộc sống dở dở ương ương, gàn gàn không biết như thế nào.
Gần bên Thầy còn chưa được giải thoát, xa Thầy làm sao giải thoát được, biết làm sao mà Thầy ở đâu mà đi tìm, đâu có chuyện mà dễ dàng đó đâu. Cho nên ngay bây giờ mà không có nhẫn nhục được thì làm sao mà tìm sống gần bên Thầy được, đó là những cái khó. Cho nên ở đây Chánh Tâm đã thấy được điều này.
“Vào đến đây tu tập tâm con có sự giải thoát rõ ràng, cùng với hiểu biết thêm về đường lối và cách thức tu tập, tâm nguyện con càng có ý thức cầu giải thoát khỏi khổ đau của cuộc đời này, cần phải từ bỏ gia đình, sống không gia đình, sống khép mình trong giới luật và phải sống ở bên Thầy.”
Đó, một cái nhìn sáng suốt của Chánh Tâm, nó đã thấy được cái điều đó, phải sống ở bên Thầy. Nói thật sự ra trên con đường mà tu tập này mà nếu sống xa Thầy, dù là trong một ngày cũng là một cái bất lợi cho các con chớ không phải, nghĩa là có sai là Thầy có nhắc liền. Mà sống xa Thầy trong một ngày thì các con sẽ tu không biết chừng nào mà tới đâu, Thầy nghĩ rằng không biết chừng nào tới đâu.
Nói là nói, dạy là dạy vậy, nhưng mà có một cái bóng, một cái tàn cây bồ đề, nó sẽ che rậm mát cho các con tu. chớ nếu mà không có tàn cây bồ đề thì chắc chắn ai là che chở cho các con trên bước đường tu? Đâu phải các con cất cái thất rồi vào đó tu là nó che chở cho sao? Không có đâu. Có cái tàn cây bồ đề cho nên mà do đó các con không có lo đói, lo no, lo gì cả hết. Chỉ có tùy thuận, bằng lòng, vui trong cái cảnh của mình đang nỗ lực thực hiện đối với các pháp để làm chủ thân tâm của mình.
Như các con bên nữ, các con thấy, các con vui vẻ sống, luôn luôn tùy thuận, nhẫn nhục, bằng lòng trong mọi cái hoàn cảnh của mình, lúc nào cũng nỗ lực thực hiện để cái tâm của mình trong thiện pháp, lúc bấy giờ các con sẽ thấy giải thoát hoàn toàn chớ gì. Đâu có một cái ác pháp nó đến thì nó đến, mặc nó, chúng ta giải quyết chớ đừng để tâm chúng ta dính mắc nó là được.
(56:55) “Nhưng khi nghĩ tới lời dạy của Đức Phật không làm khổ mình, không làm khổ người, tâm lòng con dao động, choáng váng, nhưng ý thức mong muốn xuất gia của con không từ bỏ được, nên con luôn bị ám ảnh bởi ác pháp này. Con ghi lại những lời này trình Thầy, nhờ Thầy giải tỏa tâm trạng cho con và Thầy quyết định cho con!”
Đó thì các con nghe đến chỗ này các con thấy như thế nào? Hoàn cảnh của chú Chánh Tâm có một vợ một con, một đứa con.
Cho nên Phật dạy là không làm khổ mình, khổ người mà bây giờ đi tu, tức là vợ còn trẻ, con còn nhỏ như vậy, bây giờ mình làm sao đây? Nếu mình bỏ mình đi, tức là làm khổ người. Cho nên cái câu nói này chú nghĩ suy ngẫm, chú thấy rất là khổ.
“Tâm lòng con lại lao đao, choáng váng những ý thức mong xuất gia của con không từ bỏ được, nên con bị ám ảnh bởi ác pháp này. Con ghi lại những lời này trình Thầy, nhờ Thầy giải tỏa tâm trạng cho con và Thầy quyết định cho con.
Gia đình nhà con, bố con đã mất, mẹ con có thể ở với các anh chị của con, nhà có sáu anh em. Vợ con năm nay 26 tuổi và một cháu gái 5 tuổi. Cô ấy rất trẻ, do vậy việc đi lấy chồng sẽ không có mấy khó khăn. Cuộc sống của hai mẹ con cũng không mấy khó khăn, gia đình cũng có đầy đủ tiện nghi, sức sống.
Đức Phật cũng đã dạy rằng cuộc sống của con người chỉ là duyên tan hợp diễn biến theo luân hồi, để vay trả, trả vay, nên không có gì thực ở trong đó. Con nghĩ đời con cứ trả rồi lại vay, thì làm sao mà chấm dứt được sự khổ đau của kiếp con người? Để làm tròn bổn phận đối với đời thì chỉ có đến lúc nhắm mắt xuôi tay mới hết được phận sự.
Và cứ như vậy mãi tiếp diễn, ngày hôm nay còn khỏe mạnh, còn có Thầy ở bên, việc tu hành còn đầy khó khăn. Sau này già yếu và Thầy đã nhập diệt thì còn hy vọng gì mà đòi tu tập. Được thân người là khó, được gặp Thầy, được gặp Chánh Pháp là một điều khó gặp ở đời, con không muốn bỏ qua giây phút này. Thân con khổ đau, gia đình, họ hàng và mọi người cũng đều bị khổ đau mà không hề hay biết, nên con cũng chẳng muốn nấn ná ở đời nữa.
Con biết rằng việc tu hành theo Chánh Pháp là một việc làm khó khăn, gian khổ vô vàn, bởi dục lạc ở thế gian ngày nay lại quá nhiều và quá cuốn hút, và cũng bởi cái thân này là thân được huân tập biết bao dục lạc từ bao đời kiếp. Nhưng đã có Thầy là người tu hành và đã chiến thắng, nay con ước ao để được theo Thầy, để cũng được giải thoát như Thầy.
Con suy tư thấy rất rõ, rõ ràng chỉ có thể ở bên Thầy thì việc tu hành của con mới mong có được kết quả. Có Thầy ở bên, tu sai có Thầy chỉ bảo ngay. Thầy là hàng rào chắc chắn nhất để chúng con không bị các duyên bên ngoài chi phối. Mỗi cử chỉ, mỗi lời nói và lối sống của Thầy là gương hạnh để chúng con noi theo, mỗi bài pháp của Thầy là nguồn sinh lực tuôn trào sang chúng con, giúp chúng con trên đường gian khổ này.
Ở bên Thầy chúng con được sự che chở vô cùng, vô tận của Thầy, của một người cha già tận tụy. Ngày nay con sống ở trong thế gian thì nhân quả của cuộc đời trả muôn kiếp cũng không xong. Con viết lời thỉnh nguyện này để mong Thầy định vị cuộc sống cho con, kính cúi lạy Thầy.”
Đó là Chánh Tâm đã gởi Thầy một bức thư này, Thầy sẽ giải quyết vấn đề của nó trong cái chuyến đi về Hà Nội, Thầy sẽ về thăm và Thầy sẽ giáo dục gia đình của nó để giải quyết …
HẾT BĂNG
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Thời gian: 1998
Thời lượng: [47:42]
(0:02) Những câu hỏi của cô Diệu Quang mà bữa đó trả lời chưa hết. Cô hỏi Thầy:
“Kính bạch Thầy, tại sao gọi là Tứ Chánh Cần, Tứ Niệm Xứ, Tứ Thánh Định, Tứ Như Ý Túc?”
Nghĩa là tại sao mà những cái danh từ ở trong kinh điển của Phật, người ta gọi cái tên đó gọi là Tứ Chánh Cần, Tứ Niệm Xứ, Tứ Thánh Định, Tứ Như Ý Túc.
Thì ở đây Thầy sẽ trả lời, coi như trả lời cho cô Diệu Quang, tức là trả lời chung cho quý thầy, để không khéo cái tên mà trong kinh sách mà Phật đã đặt cái tên cho pháp môn của mình, để dạy người ta tu, thì cái tên đó nó phải xứng hợp với cái hành động tu tập, chớ không phải là thiếu cái hành động tu tập ở trong cái tên đó, thì cái tên đó không có nghĩa lý.
Đáp: “Tứ Chánh Cần là pháp môn giải quyết tâm con người thoát khổ đệ nhất, nên người tu sĩ phải chuyên cần, siêng năng tu tập từng giây, từng phút, từng giờ, không được dễ dãi, lơ đễnh, lời biếng.”
Nghĩa là trong cái pháp mà mang cái tên nó là Tứ Chánh Cần, nó chứng tỏ rằng phải cần mẫn siêng năng tu tập, cho nên nó có cái tên là “cần”, mà “chánh” tức là thiện pháp. Cho nên luôn luôn lúc nào cái pháp đó cũng phải thấy rằng cái sự tinh tấn siêng năng ở trong đó rất nhiều. Nếu mà cái người tu mà thiếu sự siêng năng tập luyện cái pháp này thì cái đạo giải thoát nó không có đến với cái người mà tu tập, cái hành giả mà tu tập.
Cho nên về cái pháp Tứ Chánh Cần, là cái pháp nói cho cái người tu mà mới bắt đầu tu, thì phải siêng năng hết sức mình, luôn luôn lúc nào giờ nào phút nào cũng phải siêng năng. Cho nên cái tên nó là “cần”, Chánh Cần: cần tu tập ở trong một cái Chánh Pháp, mà cần phải rất là cần thiết, cần cũng phải là siêng năng.
Ở đây giải thích từng chữ để cho cái tên đó, thì như giải thích nó, thì chữ Tứ là bốn, Chánh Cần là siêng năng, cần mẫn, trong cái sự chơn chính, chớ không phải trong tà pháp. Siêng năng trong cái sự chơn chánh, chớ không phải siêng năng ở trong cái sai, cái không đúng, cho nên nó là Chánh Cần.
Tứ Chánh Cần gồm chung ba cái chữ này lại để mà giải thích cái nghĩa của nó, thì:
“Tứ Chánh Cần là bốn pháp chơn chánh cần phải tu tập, siêng năng, không có được biếng trễ.”
(02:46) Đó là giải thích từng chữ để chúng ta hiểu cái tên của nó, để mà chúng ta biết rằng nó là cái pháp nó quan trọng như thế nào. Tại sao các pháp khác không gọi là “cần”, mà ở đây chỉ có Tứ Chánh Cần gọi là “cần”?
Bởi vì chính chúng ta là mang một cái tâm niệm tham, sân, si, tức là ác pháp, cho nên hằng ngày chúng ta không siêng năng cần mẫn mà tu tập cái này thì các ác pháp kia nó sẽ làm cho chúng ta đau khổ, nó làm cho chúng ta khổ sở. Do cái chỗ mà tu tập này thì chúng ta phải siêng năng, hết sức siêng năng.
Vì vậy bắt đầu như Thầy đã trả lời, người mới bắt đầu tu theo đạo Phật thì phải tu cái pháp Tứ Chánh Cần là cái pháp đầu tiên. Mà thời nay thì người ta không có hiểu nó, cho nên người ta không có tu Tứ Chánh Cần, mà người ta tu niệm Phật, người ta tu thiền hơi thở, người ta tu thiền biết vọng liền buông, hoặc là tham thoại đầu, công án.
Người ta tu cái đó thì nó không đúng cái Chánh Pháp của Phật, vì cái pháp mà chuyên cần siêng năng hằng ngày mà nỗ lực tu tập, đó là Tứ Chánh Cần. Nó làm cho chúng ta bắt đầu vào, như Thầy đã dạy, bắt đầu vào tu ngay liền tức khắc là chúng ta đã thấy sự giải thoát nơi thân và tâm của mình.
Chớ không phải tu đợi một năm, hai năm, năm năm, mười năm sau mới thấy hết sự giải thoát, mới hết là tham, sân, si, mà ngay cái chỗ chúng ta bắt đầu tu là chúng ta đã giải thoát khỏi tham, sân, si.
(04:27) Bây giờ để giải thích thêm cái pháp nữa mà như cô Diệu Quang đã hỏi đó, Tứ Niệm Xứ. Vậy Tứ Niệm Xứ là gì? Ở đây Thầy giải thích từng chữ để chúng ta thấy được cái chỗ Tứ Niệm Xứ.
“Tứ là bốn. Niệm là nhớ, là suy tư, là pháp.”
Các thầy nhớ rằng chữ “niệm” là nghĩa là mình nhớ, nhớ là niệm, ức niệm là nhớ lại, còn chữ “niệm” đây có nghĩa là nhớ, là suy tư, mình suy nghĩ một cái điều gì đó, gọi là suy tư, mà nó còn có cái tên nữa, cái chỗ mà “niệm” nó còn có cái tên nữa là pháp.
Hầu hết người ta chỉ biết cái danh chữ niệm là nhớ, là ức niệm, là suy tư, là suy nghĩ đó, còn cái “niệm” mà họ nghĩ ra là cái pháp thì chưa có ai nghĩ, chưa có người nghĩ nó là cái pháp. Cái chữ “niệm” này có ít người mà hiểu nó cái nghĩa là pháp.
Ở đây vì cái kinh nghiệm tu hành, trải qua trong cái thời gian tu tập, Thầy đã hiểu được chữ “niệm” này là cái pháp, chớ không phải là nhớ, hoặc là suy tư, là nhớ là suy tư, nó là pháp.
“Xứ là gì? Xứ là nơi, chốn, chỗ.”
Chữ “xứ” nó chỉ cho cái nơi, cái chốn, cái chỗ.
“Gồm lại Tứ Niệm Xứ là bốn chỗ đặt pháp môn tu tập trau dồi, làm cho bốn chỗ đó được thanh tịnh, trở thành giải thoát, không còn ô nhiễm các pháp thế gian, nên có tên gọi là Tứ Niệm Xứ. “
Nghĩa là Tứ Niệm Xứ nó không phải là một cái pháp môn để cho chúng ta tu tập, mà nó là bốn cái chỗ để chúng ta dùng các pháp môn khác, các thiền định khác, mà để chúng ta tập luyện bốn chỗ này cho nó thanh tịnh.
Vì trong thân của chúng ta, trong thân và ngoài thân của chúng ta không ngoài bốn cái chỗ này. Thân thì chúng ta cũng thấy rõ ràng là nơi thân của chúng ta, rồi thọ là cái cảm giác, rồi tâm của chúng ta, rồi các pháp xung quanh chúng ta, tất cả từ thân cho đến các pháp ở trong vũ trụ đều là nằm ở trên bốn cái pháp này.
Cho nên muốn cho được thanh tịnh, cả nội thân tâm của chúng ta và thế giới, các pháp ở trong thế gian này đều được thanh tịnh, thì không ngoài bốn chỗ này mà tu tập.
“… Chứ không phải Tứ Niệm Xứ là một pháp môn dùng để mà chúng ta tu tập cho được giải thoát.”
Nó giải thoát cái gì? Nếu mà lấy Bốn Niệm Xứ này mà tu tập để giải thoát, thì giải thoát cái gì? Vì Bốn Niệm Xứ là cái nơi để mà chúng ta tu tập bốn cái nơi đó cho thanh tịnh, tức là làm cho bốn cái nơi đó được giải thoát. Có hiểu được vậy mới là hiểu được Tứ Niệm Xứ.
(07:39) Bây giờ để trả lời cái danh từ "Tứ Thánh Định" mà cô Diệu Quang đã hỏi.
“Tứ là bốn, Thánh là bậc trong sạch, thanh tịnh không còn nhiễm ô thế tục, dính mắc dục lạc thế gian nữa.”
Chữ Thánh ở đây thì phải chỉ cho những cái người mà thân và tâm của họ trong sạch, không có còn nhiễm ô của những cái dục lạc của thế gian, nó không còn dính mắc những cái ham thích của thế gian nữa, thì cho nên gọi là bậc Thánh, gọi là Thánh.
Cho nên cái tên của nó để chỉ cho chúng ta, để đi vào trong những cái bậc Thánh. Cho nên cái pháp đó giúp chúng ta trở thành những cái bậc Thánh thanh tịnh thân tâm như vậy.
“Định là gì? Định là sự bất động của tâm…”
Đó, mình phải hiểu “định” là sự bất động của tâm.
“… sự yên lặng của thân tâm, sự vắng lặng của không gian, sự ngưng hoạt động trong thân, và sự thanh tịnh của tâm.”
Để giải thích cho chúng ta hiểu từng những cái danh từ để xác định được cái pháp môn mà chúng ta tu tập, cho nên:
“Định là sự bất động của tâm, sự yên lặng của thân tâm, sự vắng lặng của không gian, sự ngưng hoạt động trong thân và sự thanh tịnh toàn bộ của tâm.
Tứ Thánh Định là pháp môn của bậc Thánh đạt được sự thanh tịnh, yên lặng, vắng lặng, và bất động các hành, nơi thân, thọ, tâm và các pháp. “
Đó thì nơi thân, thọ, tâm, và các pháp đó là Tứ Niệm Xứ đó. Một cái pháp nó làm cho thân, thọ, tâm, pháp của chúng ta thanh tịnh bất động, đó là cái pháp mà tu tập làm cho bốn cái chỗ này nó trở thành thanh tịnh, đó mới gọi là Tứ Thánh Định.
(09:49) “Tứ Như Ý Túc nghĩa là gì? Tứ là bốn, Như Ý là theo ý muốn của mình, Túc là đủ, đầy đủ. Tứ Như Ý Túc là pháp môn thực hiện tâm muốn điều gì, thì thực hiện đầy đủ điều ấy, mới gọi là Tứ Như Ý Túc. “
Đó thì, nói đến Tứ Như Ý Túc, là chúng ta muốn cái gì thì chúng ta làm ngay được cái đó. Thí dụ như bây giờ là một người mà thế gian ham tiền ham bạc, thì cái người mà có Tứ Như Ý Túc, thì họ chỉ hướng tâm họ ra lệnh, thì ngay đó là một đống tiền, đống vàng rất lớn trước mặt họ có liền. Lòng họ muốn cái gì là đạt ngay cái nấy chớ không phải là khó khăn đối với họ.
Muốn cho có một bữa ăn ngon, đầy đủ những thực phẩm cao lương mĩ vị, thì ngay cái ý muốn đó, thì cái người mà tu Tứ Như Ý Túc đó, họ chỉ cần ra lệnh, là ngay tức khắc đã có một mâm thực phẩm rất là đầy đủ không có thiếu món gì, cao lương mỹ vị không có thiếu món gì hết, cho nên gọi là Tứ Như Ý Túc.
Muốn như thế nào thì cái tâm của chúng ta và cái thân của chúng ta sẽ làm ra được những cái đó, cho nên gọi là “Như Ý Túc”.
Cho nên nó có những cái tên, để xứng hợp với cái việc làm của nó, với cái việc tu tập của nó, nó làm chúng ta đạt được cái ý muốn của chúng ta như vậy, cho nên cái tên nó như vậy, thì cái việc làm nó cũng phải đạt được như vậy.
(11:36) Sau học được những danh từ, tên của các pháp, thì bây giờ cô Út Diệu Quang sẽ hỏi Thầy tiếp:
“Kính bạch Thầy tại sao người ta gọi Tứ Thánh Định là thiền Tiểu Thừa, thiền phàm phu, thiền ngoại đạo?”
Đáp: “Nói về Tứ Thánh Định là một loại thiền định rất đặc biệt mà từ xưa trước khi chưa có đạo Phật cho đến bây giờ, chưa ai thông hiểu cách thức tu tập cơ bản của nó, và cũng không có một học giả nào tưởng giải ra được.
Trừ Đức Phật, Ngài đã phát hiện ra được cách thức tu tập về loại thiền định này, cụ thể và rõ ràng. Nhưng các nhà học giả không có tu tập thực hành, nên những lời dạy của Đức Phật các ngài không tưởng giải ra được. Vì thế các ngài lập luận, quăng ném nó ra ngoài kinh điển phát triển Đại Thừa.”
Nghĩa là họ ném Tứ Thánh Định này ra khỏi ngoài cái kinh sách phát triển, kinh sách Đại Thừa, cho nên hầu hết kinh sách Đại Thừa không có nhắc đến cái tên Tứ Thánh Định, không có nói đến cái Tứ Thánh Định mà chỉ nói những loại thiền định ngoài cái bốn thiền định này.
“Vì những nhà viết kinh Đại Thừa không sao giải thích Tứ Thánh Định được, nên họ bịa đặt ra cái tên Tiểu Thừa Thiền, Phàm Phu Thiền, và độc ác hơn nữa thì họ gọi là thiền ngoại đạo.”
Đó, thì các thầy cũng thấy rằng những cái danh từ này đều là những cái nhà học giả, mà chúng ta thường gọi họ là những bậc Tổ sư đó, thì họ không có triển khai nổi cái Tứ Thánh Định là một cái loại thiền rất là đặc biệt.
Mới bắt đầu vào, thì như quý thầy biết rằng, khi mà chúng ta muốn nhập được cái Sơ Thiền, thì chúng ta phải tu hết sức biết bao nhiêu cái loại pháp môn, như Tứ Chánh Cần, Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, rồi đến cái Định Vô Lậu, đó là cái phần để tu tập ngăn chặn ác pháp và lòng ham muốn của mình.
(14:06) Còn cái phần mà giữ gìn thì phải lấy cả cái giới bổn, 250 giới Tỳ Kheo, 348 giới Tỳ Kheo Ni, và đồng thời phải sống một đời sống thiểu dục tri túc. Rồi phải phòng hộ sáu căn, mà Phật còn gọi là “Thánh phòng hộ sáu căn”, thế mà chúng ta mới đạt được cái Sơ Thiền, mới ly dục, ly ác pháp được.
Thế mà người ta gọi là Tiểu Thừa, là Phàm Phu Thiền, là thiền ngoại đạo, thì Thầy không hiểu họ đã hiểu Phật pháp như thế nào, mà họ dám nói những cái lời nói như vậy. Họ dám hạ những cái pháp mà Phật đã gọi là Tứ Thánh Định.
Mà Thầy có nhắc xác định được trong cái bốn thiền này, mà Đức Phật đã xác định là Như Lai Trú, là Phạm Trú, là Thánh Trú. Lấy bốn cái loại thiền này Đức Phật muốn nói đến cái sự an trú của một bậc Thánh, một bậc Như Lai, thì Đức Phật nghe nói Thánh Trú thì chúng ta biết rằng bốn loại thiền này, mà nghe nói Phạm Trú tức là đức hạnh của một người tu sĩ, là phải biết đó là nói bốn thiền này.
Cho nên cái xác định của Đức Phật rất rõ ràng về bốn loại thiền này để chỉ cho chúng ta biết rằng một cái sai, cái đúng của thời nay. Rồi đây một lúc nữa Thầy sẽ đọc cái bài kinh, ngay cả kinh Nguyên Thủy, mà người ta kết tập lại thành một cái bài kinh gọi là Thân Hành Niệm, rồi Thầy sẽ phân tích được cái sai, cái đúng của họ.
Trong khi đó chúng ta học về cái pháp Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, để ngăn chặn các ác pháp không cho sanh khởi, thì chúng ta mới biết được cái sai, cái đúng của người sau này đã thêm thắt đã làm lệch cái bản kinh, cái bài kinh mà trong cái bộ kinh Nguyên Thủy nữa chớ chưa phải là kinh Đại Thừa.
Đó là cái người sau họ đã làm lệch đi, để làm cho người đời nay không có tu hành, không có chứng được cái lý, cái thực cụ thể của Phật pháp, cho nên không làm sao mà dám nói cái đó sai, chỉ biết cái bài kinh đó là cái bài kinh của Phật, chớ còn không dám nói nó sai. Trừ ra có những người có kinh nghiệm tu hành, mới biết nó sai, đúng mà thôi.
(16:40) Và đồng thời còn phải xác định bằng một cái cuộc thực nghiệm trở về với cái thời quá khứ bằng cái sức lực của đạo lực Tam Minh mà rõ được, nghe được cái lời giảng của Đức Phật cách đây 2540 năm, mới xác định được cái bài kinh đó đúng sai. Chớ nếu mà không có những cái lực đạo như vậy, thì những cái bài kinh này làm sao chúng ta dám xác định nó đúng hay là sai.
Họ dám in, họ dám viết ra như vậy, để cho tới bây giờ chúng ta chưa biết rằng một người nào mà cả gan dám làm một cái điều này, mà để rồi kinh điển, để người sau không có biết đường lối đâu đúng, đâu sai, không dám nói sai, dù có biết sai cũng chẳng dám nói sai.
Như vừa rồi các Thầy và các con cũng đã đọc ở trong cái tập Đường Về Xứ Phật tập một, trong cái bài kinh Jivaka ở Trung Bộ Kinh, kinh Nikaya, thế mà người ta chỉ cần thêm mấy chữ thôi cũng đã làm lệch được cái ý của Phật pháp rồi. Từ đó người ta chạy theo dục lạc, mà người ta thọ hưởng những thịt, những thực phẩm bằng cái xương máu của chúng sanh một cách là thích thú.
Thế mà người ta cứ nói rằng Phật cho phép ăn thịt chúng sanh. Đó là một dã tâm độc ác của những bậc đả phá Phật pháp đến tận cùng như vậy. Thế mà chúng ta hiện thời nay chúng ta cũng chẳng dám nói đó là sai, cũng chẳng dám nói đó là đúng.
Cho nên ở đây nói về Tứ Thánh Định mà người ta gán cho những cái tên Tiểu Thừa Thiền, Phàm Phu Thiền và Ngoại Đạo Thiền, thật là đau lòng cho Phật pháp biết mấy! Những pháp môn siêu việt giúp cho con người ta đủ đạo lực để làm chủ sự sống chết và còn làm những việc siêu việt không thể lường được.
Như trong kinh điển Phật nói, nếu dùng bàn tay rờ mặt trăng, mặt trời, thế là một việc siêu việt như vậy mà không từ ở trên Tứ Thánh Định này thì làm sao làm những điều đó được?
Đến bây giờ cũng chẳng có nhà học giả nào triển khai Tứ Thánh Định này được. Vì hiện giờ chưa có một bậc Hòa thượng, một bậc tôn túc nào, một hành giả nào mà triển khai Tứ Thánh Định này cho có đường lối, cách thức tu tập đúng cách của nó, nên gặp Tứ Thánh Định họ lờ qua.
“Kinh sách của các học giả viết rất nhiều về Tứ Niệm Xứ, Tứ Diệu Đế, Sổ Tức Quan, Thập Nhị Nhân Duyên, chưa hề có cuốn kinh sách nào nói về Tứ Thánh Định.”
(19:41) Bởi vậy các thầy cũng như là các con, nếu mà đi ra nơi nào phát hành kinh sách để tìm một cái cuốn sách mà nói về Tứ Thánh Định thì chẳng có một cái nhà học giả nào mà dám viết nó hết, dám biên soạn nó ra hết.
Họ chỉ nói Tứ Niệm Xứ, Tứ Diệu Đế, Sổ Tức Quan, Thập Nhị Nhân Duyên, hoặc là Thập Thiện, hoặc là các cái loại kinh sách phát triển của Đại Thừa nói về thiền Phản Quang Tự Tánh hay hoặc là những cái pháp thiền Kiến Tánh, hay hoặc là những cái pháp thiền như “chẳng niệm thiện niệm ác, bản lai diện mục hiện tiền”. Đó là những pháp thiền để người ta tu, hy vọng được giải thoát.
Còn trái lại thì Tứ Thánh Định, thì họ chẳng dám rớ vào để mà nói cách thức tu tập như thế nào.
“Bởi vậy Tứ Thánh Định là pháp môn làm chủ được sự sống chết của chúng ta, sanh lão bệnh tử, tức là pháp môn giải quyết kiếp sống con người, chấm dứt đau khổ và luân hồi, một pháp môn tuyệt vời, có một đạo lực kinh khủng, tịnh chỉ hơi thở và các hành trong thân một cách tài tình.
Thế mà ai biết nó là một pháp môn quý báu và vô giá. Người ta chỉ còn biết miệng lưỡi lừa của các vị Tổ sư: Tiểu Thừa Thiền, Phàm Phu Thiền, Ngoại Đạo Thiền.”
Nghĩa là bây giờ người ta nói đến Tứ Thánh Định, thì người ta chỉ biết nó là Tiểu Thừa Thiền, Phàm Phu Thiền và Ngoại Đạo Thiền, chớ người ta chẳng có biết nó là một cái pháp quý báu và vô giá.
Nó làm chủ được cái sự sống, sự chết của con người, nó chỉ cần ra lệnh là hơi thở tịnh chỉ ngay liền, các hành ngưng hoạt động. Người ta không hiểu được cái pháp tuyệt vời và quý báu như vậy thì làm sao người ta tu tập làm chủ được sanh tử luân hồi?
(21:59) Bây giờ cô Diệu Quang hỏi tiếp Thầy.
Hỏi: (Đáp:) “Sổ Tức Quan, và Định Niệm Hơi Thở khác nhau rất xa. Sổ Tức Quan thì ức chế tâm bằng cách đếm số. Định Niệm Hơi Thở dùng pháp hướng Như Lý Tác Ý nên nhẹ nhàng diệt Tầm, tâm tỉnh thức hoàn toàn, không bị loạn tưởng.”
Cô Diệu Quang hỏi Thầy, cái pháp Sổ Tức Quan và cái Định Niệm Hơi Thở nó khác nhau và giống nhau như thế nào, xin Thầy dạy rõ cho chúng con hiểu? Thì Thầy trả lời:
“Sổ Tức Quan và Định Niệm Hơi Thở khác nhau rất xa. Sổ Tức Quan thì ức chế tâm bằng cách đếm số.”
Ở đây các con nghe rõ chớ không khéo thì các con tưởng Định Niệm Hơi Thở với Sổ Tức Quan là giống nhau.
Vì trong cái Ngũ Đình Tâm Quán mà ở các bậc Tôn túc họ kết hợp lại, từ cái quán từ bi để đối trị tâm sân, quán bất tịnh để đối trị tâm sắc dục, quán sổ tức quan để đối trị tâm loạn tưởng, thì tất cả những cái pháp này họ kết hợp lại, họ gọi là Ngũ Đình Tâm Quán.
Chớ trong kinh điển của Phật thì không có sử dụng cái Sổ Tức Quan này, mà họ đã lượm lặt nơi các kinh điển của các Tổ viết ra, rồi họ kết hợp lại những cái bài pháp như quán bất tịnh, quán từ bi của Phật để họ kết hợp lại, họ gọi là Ngũ Đình Tâm Quán.
Cho nên ở đây chúng ta tu hơi thở mà hơi thở nào gọi là Sổ Tức Quan, mà hơi thở nào gọi là Định Niệm Hơi Thở? Do hai cái pháp môn này nó khác nhau rất xa, chớ không có giống nhau đâu.
(24:02) Sổ Tức Quan thì phải biết rằng cách thức của nó là ức chế tâm bằng cách đếm số.
“Định Niệm Hơi Thở dùng pháp hướng Như Lý Tác Ý nên nhẹ nhàng diệt Tầm, tâm tỉnh thức hoàn toàn không bị loạn tưởng, hôn trầm thùy miên, vô ký.
Sổ Tức Quan do ức chế tâm, diệt Tầm Tứ nhưng chẳng được, nhưng chẳng đưa hành giả đi đến đâu, chỉ loanh quanh ở mê hồn trận của xúc tưởng hỷ lạc, nên chẳng lợi ích gì cho người tu tập.”
Đó thì, cái Định Niệm Hơi Thở thì nó có cái nghĩa nó khác, mà cái Sổ Tức Quan thì cái nghĩa nó khác, nó đi vào ở chỗ diệt Tầm Tứ để nó đạt được cái trạng thái hỷ lạc, rồi nó ở đó nó không biết cái đường ra, cho nên nó loanh quanh, loanh quanh ở trong đó rồi nó rơi vào thùy miên, vô ký, hoặc là hôn trầm. Còn cái Định Niệm Hơi Thở thì nó có cái mục đích nó khác.
Cho nên nó, như Thầy đã nói cái Định Niệm Hơi Thở là cái pháp trợ duyên, nó trợ giúp cho các pháp khác. Cho nên ở đây Thầy trả lời cho cô Diệu Quang là:
“Định Niệm Hơi Thở là pháp môn trợ giúp cho hành giả tu tập nhập các loại định khác, nên nó có lợi ích rất lớn cho đường tu tập giải thoát.”
Mục đích của cái Định Niệm Hơi Thở là nó là trợ cho các pháp, chớ nó cũng không giúp cho chúng ta đi đến cái mục đích cứu cánh giải thoát được, nó giúp cho các pháp mà thực hiện được cái giải thoát, cái mục đích giải thoát.
“Định Niệm Hơi Thở là trợ pháp cho các pháp môn khác để đạt được viên mãn cứu cánh, nên nó là pháp môn có hiệu quả và có lợi ích lớn.
Nghĩa là nó giúp cho các pháp môn khác, để chúng ta tu tập nó đem lại cái kết quả.
Bây giờ một cái ví dụ mà các thầy và các con cũng sẽ thấy rất là dễ: Khi chúng ta tu tập Chánh Niệm Tỉnh Giác, như đi kinh hành nè, bây giờ chúng ta tập trung ở trên cái bước đi của chúng ta, chúng ta nhớ được cái bước đi của chúng ta một lúc, rồi cái bắt đầu chúng ta lại quên đi.
Nhưng mà chúng ta biết kết hợp với cái hơi thở, hơi thở vô với hơi thở ra, thì chúng ta vừa thấy được cái bước đi của chúng ta, mà vừa biết được hơi thở, nương vào hơi thở để thấy bước đi càng ngày càng tỉnh hơn.
(26:23) Các thầy có kinh nghiệm tu hành các thầy mới thấy được cái điều mà kết hợp cái Định Niệm Hơi Thở với cái Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, hai cái kết hợp lại thì quý thầy thấy cái này rất rõ.
Còn nếu quý thầy chưa có tu tập được thì quý thầy tập thử đi, rồi nghe cái lời Thầy coi có không. Ở trong chúng đây có người mà tập mà kết hợp được cái hơi thở, cái Định Niệm Hơi Thở với cái Định Chánh Niệm Tỉnh Giác mà đi kinh hành hoặc làm công việc, thì thử coi phải tỉnh không, nó rất tỉnh đó.
Đó là cách thức để tu tập để hành pháp cho nó đúng cách, mà nó làm cho chúng ta được cái sức tỉnh ngăn chặn các ác pháp không cho sanh khởi.
Cái mục đích của cái Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, là cái mục đích của nó để giúp cho Tứ Chánh Cần, như Thầy đã giảng rồi, nó ngăn chặn không cho ác pháp sanh khởi. Mà muốn cho đạt được cái Chánh Niệm Tỉnh Giác Định thì nương vào cái Định Niệm Hơi Thở, khéo léo giữ gìn cái hơi thở một bên với cái tỉnh thức ở trong cái hành động của chúng ta, thì nó sẽ kéo dài và nó rất tỉnh.
Đó là những cái mà chúng ta khéo kết hợp câu hữu nó trở lại để mà chúng ta tu tập. Thì ở đây có người nào mà đã có cái kinh nghiệm tu tập, thì cái lời nói của Thầy nó không phải là nói sai đâu, chúng ta làm thử rồi chúng ta sẽ thấy được cái chỗ mà vi diệu của cái Định Niệm Hơi Thở, nó trợ giúp cho cái Chánh Niệm Tỉnh Giác rất là tỉnh thức.
“Định Niệm Hơi Thở là trợ pháp cho các pháp môn khác để đạt được viên mãn cứu cánh, nên nó là pháp môn có hiệu quả, có lợi ích lớn. Hành giả tu tập mà bỏ Định Niệm Hơi Thở thì kết quả chẳng có ích lợi nhiều đâu.”
Nghĩa là cái kết quả nếu mà bỏ cái Định Niệm Hơi Thở mà mình tu nội cái Chánh Niệm Tỉnh Giác không thì kết quả không lớn, tức là cái thời gian nó không dài ra đâu, nó rất khó.
(28:20) Bây giờ cô Diệu Quang hỏi tiếp Thầy:
“Kính bạch Thầy! Tại sao Phật giáo lấy giới luật làm pháp môn đầu tiên để tu tập, không lấy Thiền Định và Trí Tuệ tu tập trước như các nhà Đại Thừa Bắc Tông và Thiền Tông?”
Nghĩa là cô Diệu Quang hỏi Thầy: Tại sao Phật giáo lấy giới luật mà tu trước để làm cho con người tu quá khổ, quá là khổ hạnh, phải đời sống phải sống trong giới luật chớ không được, phải thiểu dục tri túc như vậy, thì phòng hộ sáu căn như vậy, nó làm cho cái người tu phải sống một đời sống quá khổ.
Còn Bắc Tông, tức là Đại Thừa, các nhà Đại Thừa Bắc Tông với Thiền Đông Độ thì người ta lấy thiền định mà người ta tu trước, người ta lấy sự học tức là trí tuệ người ta tu trước, cho nên người ta không có giữ gìn giới luật, cho nên đời sống người ta thoải mái, dễ chịu, người ta tu thấy nó thích hơn là cái tu mà lấy giới luật.
Đó là cái ý của cô Diệu Quang là thấy một số các thầy, cũng như các con mà về đây tu tập, khép mình ở trong cái kỷ luật, giới luật như vậy, thấy nó làm quá khắc khổ. Thay vì một ngày mình ăn hai, ba bữa, thì mình ăn có một bữa, rồi tập ít nói, rồi tập phòng hộ sáu căn, rồi tập xả tâm cái này cái kia rất là cực.
Còn cái kia người ta chỉ có ngồi thiền định thôi, hoặc là người ta đến, người ta nghe người ta học Khổ Dế, Diệt Đế, Đạo Đế như thế nào. Người ta học hiểu vậy thôi, chớ còn người ta không có áp dụng, người ta học giới luật người ta cũng hiểu biết thôi, mà người ta không có áp dụng vào cái đời sống người ta cho nên người ta thoải mái, người ta dễ chịu.
Còn mình đây tu tập như vậy mình thấy quá khổ, cho nên cái ý của cô Út muốn hỏi để cho chúng ta hiểu cho thấu suốt tại sao mà Đức Phật lại không lấy, như các nhà Đại Thừa, như Thiền Tông mà tu tập, lại bắt buộc chúng ta phải lấy giới luật mà làm đầu?
(30:19) Đáp: “Đạo Phật thấy suốt được lý nhân quả.”
Nghĩa (là) đạo Phật mà ra đời là đã thấy được cái nhân quả, thấy suốt được cái nhân quả.
“Nên tất cả giáo pháp…”
Của mình đó, của Đức Phật đó.
“… thì đều được xây dựng trên nền tảng thiện pháp.”
Nghĩa là tất cả những cái bài thuyết giảng, bài pháp nào cũng đều là nhằm để chúng ta thực hiện ở trên cái thiện pháp. Như bây giờ chúng ta tu Tứ Chánh Cần, chúng ta thấy cái pháp Tứ Chánh Cần, thì nó là cũng thực hiện ở trên thiện pháp mà đoạn trừ cái ác pháp.
Rồi bây giờ như Tứ Thiền, như là Tứ Diệu Đế, như là các cái pháp Tứ Niệm Xứ, đều là giúp cho cái thân, thọ, tâm, pháp của chúng ta đều là ở trong pháp thiện, không có ở trong pháp ác. Tất cả những cái pháp mà chúng ta thực hành cũng đều là pháp thiện.
Rồi giới luật cũng dạy toàn bộ là thiện không, chớ không có cái nào mà dạy trong cái ác pháp. Nghĩa là các pháp hành, các giới hành này, nó là các pháp để mà chúng ta hành, để mà chúng ta đem lại cái pháp thiện ở trong thân và tâm và thọ của chúng ta và các pháp.
Thì như vậy, cho nên Đức Phật đã thấy suốt được cái lý nhân quả, do nhân quả thiện và ác mà tạo con người khổ.
Cũng như Thầy có thường nhắc ở trong cái lúc Thầy mà Thầy giảng về cái giáo án này, thì Thầy có nhắc: từ cái nhân quả mà chúng ta sanh ra chớ không phải chúng ta ở cõi nào mà chúng ta đến. Do cái nhân quả mà chúng ta sanh ra. Rồi chúng ta chết đi chúng ta cũng trở về nhân quả.
Do cái chỗ đó, nếu mà đạo Phật không thấu suốt được cái lý nhân quả thì chắc chắn không có xây dựng cái giáo pháp của mình ở trên cái nền tảng của nhân quả.
Cho nên thấy được cái nhân quả nó chi phối con người như vậy đó, từ cái chỗ mà chúng ta sanh ra cũng từ nơi đó, mà nó từ vô thủy của nhân quả chớ không phải là mới đây. Rồi bắt đầu chúng ta chết đi thì chúng ta cũng trở về nhân quả, tiếp tục ở trong nhân quả để tiếp diễn cái sự luân hồi của chúng ta mãi mãi trong nhân quả.
(32:27) Do cái chỗ này cho nên đạo Phật mới đặt cái nền tảng pháp môn của mình ở trên nền tảng của nhân quả, lấy cái thiện pháp làm cái mục đích để đi vào cái sự cứu cánh giải thoát cho chính mình. Cho nên pháp của Phật từ cái bài pháp đầu tiên cho đến cái bài pháp cuối cùng, thì đều gọi những cái tên nó là Sơ Thiện, Trung Thiện và Hậu Thiện.
Đó thì như vậy là chúng ta đã rõ, mà nếu mà lấy một cái gì khác mà đi ngược lại, thì chắc chắn là sẽ không đúng đạo Phật.
“Giới luật của Phật gồm có giới bổn, giới đức, giới hạnh, giới tuệ, giới hành.”
Mà Thầy đã giảng từ cái giới bổn, đến giới đức, giới hạnh, giới tuệ rồi, bây giờ cái hạ năm nay là giảng về giới hành, tức là các pháp môn để hành, để đạt được cái giới luật cho nó được nghiêm túc và đời sống của chúng ta được giải thoát hoàn toàn các ác pháp, ra khỏi các ác pháp.
“Nói đến giới tức là nói đến thiện. Nói đến thiện tức là nói đến sự an vui, thanh thản của tâm hồn. Mà đã an vui, thanh thản của tâm hồn là giải thoát khổ cuộc đời.”
Đó, thì chúng ta thấy thiện là nó sẽ giải thoát được cái đau khổ của cuộc đời, mà chính chúng ta đi tìm sự giải thoát khỏi cái sự đau khổ của cuộc đời, cho nên phải lấy cái pháp thiện mà làm cái mục đích mà chúng ta phải nhắm đến con đường tu tập.
“Muốn được an vui, thanh thản của cuộc đời không gì hơn là phải sống đúng giới luật.”
Nghĩa là muốn được cuộc sống mình an vui, thanh thản thì phải lấy giới luật mà sống, thì nó mới giải thoát được.
(34:12) “Nhờ giới luật mà tâm mới ly được ác pháp và lòng ham muốn của chúng ta. Tâm ly được ác pháp và lòng ham muốn thì tâm nó trong sạch và thanh tịnh. Do tâm trong sạch và thanh tịnh tức là thiền định. Vì thế Đức Phật dạy: Giới sanh Định.”
Rõ ràng là khi tâm của chúng ta ly dục và ly ác pháp thì nó mới thanh tịnh. Mà nó mới thanh tịnh, cái thanh tịnh đó đó, tức là thiền định. Vì thế mà Đức Phật nói do giới mà sanh định, do giới làm cho tâm chúng ta thanh tịnh, mà thanh tịnh tức là định, vì vậy gọi là: Giới sanh Định.
“Khi tâm đã có định, định là sự nghỉ ngơi thân và tâm.”
Tâm mình bây giờ nó có định rồi, nó là cái sự nghỉ ngơi. Còn trước kia mình chưa ly dục ly ác pháp, thì phải dùng giới, phải sống cho đúng cái hạnh giới, thì nó rất là khắc khổ, nó làm cho mình cực khổ trên bước đường tu tập. Nhưng mà sau khi mà cái tâm nó thanh tịnh rồi, nó có định rồi, thì từ đó cái định là một sự ngơi nghỉ của thân tâm của mình.
“Do sự ngơi nghỉ này tâm nó được lóng sáng.”
Mình càng ở trong cái thiền định thì tâm của mình nó được lóng sáng.
“Tâm được lóng sáng nên tâm rất sáng suốt, không còn bị kiến chấp và ngã chấp…”
Nó sáng suốt, cho nên mỗi cái mà hồi nào tới giờ mình hiểu mà mình cho nó rằng đúng, bây giờ mình đều sáng suốt mình nhận ra cái sai.
Cũng như hồi nào tới giờ Thầy không biết cái bài kinh này sai, cho nên cứ thấy nó là đúng. Nhưng mà sau khi cái tâm nó lóng sáng được ở trong định rồi, lần lượt nó phá được cái kiến chấp “đúng” đó, nó thấy những cái bài kinh đó các bậc Hòa thượng, các bậc thầy dạy mình nói rằng đúng, nhưng bây giờ Thầy thấy nó là sai.
Cho nên cái bị cái kiến chấp của người khác nhồi nhét vào mình đó, thì mình đã xả ra được, mình thấy nó sai. Và cũng từ đó cái ngã chấp của mình, nó cũng từ cái sáng suốt đó mà cái ngã của mình nó bị triệt tiêu đi, nó bị chấm dứt đi, nó không còn chấp ngã nữa, ngã chấp.
“…thấy suốt lậu hoặc của con người là khổ.”
Nghĩa là chúng ta thấy được cái kiến chấp, cái ngã chấp và thấy được cái lậu hoặc của con người là khổ, tất cả những cái này đều là khổ.
“Vì sự thấu suốt này khiến cho hành giả giải thoát hoàn toàn ra khỏi tâm lậu hoặc. Vì thế Đức Phật dạy: Định sanh Tuệ là vậy.”
(36:34) Tuệ không có nghĩa là cái trí tuệ hiểu mênh mông cái gì cũng hiểu hết mà không đúng vào cái con đường giải thoát, thì cái sự hiểu đó cũng là cái hiểu sai, không có đúng.
Cho nên cái hiểu này, bây giờ nó rõ thấu được. Rõ thấu được thứ nhất là do lậu hoặc mà con người khổ. Nó rõ thấu được là cái Tứ Diệu Đế là cái khổ, rồi cái nguyên nhân mà nó tập hợp những sự đau khổ, rồi diệt cái khổ đi, diệt cái nguyên nhân khổ đi, thì ngay đó là một trạng thái giải thoát.
Rồi từ đó nó suy ra, nó biết được tám cái nẻo để đi đến cái chỗ mà Diệt Đế, đi đến cái chỗ giải thoát đó, cho nên nó thấu rõ, thấu rõ thật rõ. Vì vậy mà nó thấu rõ thật rõ, thì hoàn toàn lậu hoặc nó sẽ đoạn dứt.
Còn bây giờ chúng ta hiểu biết bằng cách là chúng ta được người khác dạy cho hiểu biết, nhưng chúng ta chưa thấu rõ. Thấu rõ phải do cái định, cái tâm nó có định, nó lóng sáng, thì lúc bấy giờ chúng ta mới thấu rõ tận nguồn gốc của sự đau khổ con người.
“Cho nên trong Tứ Thánh Định Đức Phật dạy rằng: ly dục ly ác pháp nhập Sơ Thiền, do ly dục sanh hỷ lạc. Khi nào tâm định trên thân, thân định trên tâm thì hướng đến Tam Minh sẽ thấu rõ.”
(37:58) Bây giờ từ cái chỗ mà chúng ta ly dục ly ác pháp, chúng ta mới nhập được cái Sơ Thiền, thì ở trong Tứ Thánh Định xác định rõ, từ cái chỗ mà thiền thứ nhất thì chúng ta phải đi vào cái giới, nó mới sanh ra được cái định, từ cái định đó thì chúng ta mới thấy được thân định trên tâm và tâm định trên thân. Lúc bấy giờ cái thân mà nó định thì nó bất động, nó không còn thở, nó mới định. Nó còn thở thì làm sao mà nó định được?
Cho nên khi mà nó định trên tâm của nó được rồi, thì lúc bấy giờ chúng ta hướng tâm của mình đi đến Tam Minh, thì mình sẽ thấu rõ.
“Thấu rõ thứ nhất như thế nào? Một là Túc Mạng Minh, hai là Thiên Nhãn Minh, ba là Lậu Tận Minh. Ba Minh này đã viên mãn tức là trí tuệ giải thoát của đạo Phật hiển hiện, hành giả sẽ hoàn toàn giải thoát, làm chủ sanh tử, chấm dứt luân hồi.
Ngược lại đạo Phật Đại Thừa…”
Đó thì cái đạo Phật mà chúng ta tu theo cái đường lối của đạo Phật, thì khi mà chúng ta đủ Tam Minh thì chúng ta chấm dứt sanh tử luân hồi, chúng ta hoàn toàn là không còn tu tập nữa, nghỉ ngơi cho khỏe, chứ chúng ta hết có cái pháp nào mà gọi là tu nữa.
(39:10) Còn bây giờ nói về cái đạo Phật Đại Thừa, tức là đạo Phật phát triển:
“Ngược lại đạo Phật Đại Thừa, thì Bắc Tông và Thiền Tông lấy kiến thức học tập làm trí tuệ…”
Lấy cái sự huân học, hiểu bài học này, bài kinh kia, hiểu biết rộng rãi, thì đó gọi là trí tuệ, sự hiểu biết.
“… lấy ức chế tâm làm thiền định…”
Lấy cái chỗ mà ức chế, dùng cái pháp môn mà ức chế cái tâm mình để làm cho cái Tầm Tứ nó không khởi lên cái niệm, thì họ lấy cái pháp đó họ tu, lấy cái học và lấy cái pháp ức chế đó mà họ tu tập.
“… còn giới luật thì không cần giữ gìn, nên đức hạnh của một vị Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni không có.”
(39:56) Cho nên nhìn vào cái giới mà Phật giáo Đại Thừa với Thiền Tông thì cái giới luật họ không có nghiêm chỉnh, họ ăn uống phi thời, họ sống trong chùa to tháp lớn, họ sống trong những cái vật chất đầy đủ, không thiếu một thứ gì hết.
Do đó cái tâm của họ nó chạy theo những cái dục lạc của thế gian. Đời có những vật gì, thì ở thế gian người ta có giàu có, người ta có vật gì, thì ở trong chùa họ cũng có những vật nấy, họ không thua gì ở ngoài đời chút nào hết.
Nghĩa là đời sống của họ cũng đầy đủ vật chất như các người khác chớ không có thua. Do cái chỗ mà họ không có giữ gìn giới, cho nên cái đời sống của họ nó thiếu cái hạnh, thiếu cái đức hạnh của một vị tỳ kheo.
Họ cứ nghĩ rằng khi mà họ tu, họ học hiểu rồi, họ tu cái pháp thiền định mà ức chế tâm, sau khi đạt được thì giới luật họ nghiêm chỉnh, họ nghĩ như vậy.
“Cuộc sống của tu sĩ đời chẳng ra đời, đạo chẳng ra đạo, danh lợi giống như người thế gian.”
Đó thì các thầy quán xét những cái lời mà Thầy giải thích cho cô Diệu Quang, có đúng hay là không. Rất là đúng trong cái hiện đại, vì chúng ta đang tiếp xúc với các thầy tu Thiền Tông và các thầy tu theo pháp môn Đại Thừa, thì chúng ta thấy đời sống của họ rõ ràng cụ thể, chứng minh cho lời nói của Thầy không có vu khống họ chút nào.
Nhưng chúng ta cũng biết rằng trong cái giới tu sĩ hiện giờ có những người rất là tha thiết. Họ không có nề hà cái sự giữ gìn giới luật, nhưng họ chưa biết pháp môn, cho nên họ đang sống trong cái cảnh họ đang lầm lạc, mà họ chưa biết cái pháp môn chơn chánh để họ hoài đầu, đi hướng về con đường của đạo Phật.
Nếu một ngày nào họ biết rằng giới luật để đưa họ đi vào cái chỗ giải thoát, tâm thanh tịnh để đi đến thiền định chơn chánh của đạo Phật, nhập được bốn thiền Tứ Thánh Định, thì chắc chắn họ sẽ hoài đầu trở lại rất nhanh. Họ không hề ham danh, ham lợi, ham chùa to tháp lớn, mà họ chỉ còn đi chọn lấy một cuộc đời giải thoát như Đức Phật, và các bậc Thánh Tăng mà thôi.
Đó là trả lời cho cô Diệu Quang khi cô hỏi về cái giới luật và cái cách thức tu của các tu sĩ hiện giờ.
Như vậy thì các thầy cũng như quý con đã hiểu biết cái đường lối tu tập Giới Định Tuệ. Mà hiện giờ thì người ta tu về tuệ và định mà bỏ giới, còn chúng ta thì quá khắc khổ là vì chúng ta tu từ giới đi vào thiền định rồi mới tới tuệ.
(42:46) Hỏi: “Kính bạch Thầy, theo chỗ con hiểu thời nay người tu sĩ lấy sự hiểu biết tu trước, Tuệ, kế đó tu Định, hoặc là Tuệ Định song tu, Thiền Giáo đồng hành.”
Nghĩa là họ vừa học mà vừa tu thiền định. Nghĩa là vừa hiểu, học hiểu giáo lý lời Phật dạy ở trong kinh Đại Thừa và tập thiền định ức chế tâm. Nghĩa là có khi thì họ tu trước bằng cái trí tuệ, như có nhiều người bây giờ họ chạy theo họ học về giáo lý của Phật, để lấy cấp bằng này cấp bằng kia, thì họ không có thời gian rảnh rỗi để mà tu thiền định, cho nên họ chỉ chuyên học mà thôi.
Rồi thậm chí như học sinh ngữ, Anh ngữ hay là Pháp ngữ, hay Nga ngữ, hay Nhật ngữ, hay Hoa ngữ để nó làm một cái đà tiến ở trên cái sự học hỏi của họ, từ cái Cử nhân họ đến cái bằng Tiến sĩ, họ phải dùng một cái loại ngoại ngữ để đi du học. Thì đó là họ chuyên về cái tuệ mà họ không có chuyên về định.
Còn có chỗ thì Định Tuệ song tu, tức là Thiền Giáo đồng hành, nghĩa là họ vừa học mà vừa tu thiền định, rồi họ học để sách tấn cho cái sự tu tập của họ. Nghĩa là bữa nay giờ này thì họ ngồi thiền, nhưng mà sáng mai thì họ ngồi họ nghe bài kinh thuyết giảng, để làm cho họ phấn khởi trong lòng họ, đặng họ nỗ lực họ tu thiền nữa.
Cứ mỗi một bài pháp là sách tấn họ làm cho họ tu đạt được hay không được. Nhưng mà mỗi lần nghe một cái bài pháp của một vị Tổ sư, hay một vị tôn túc nào dạy một cái pháp thiền, nói nó đúng cái chỗ mình tu, làm như mình thấy nó đúng quá, đúng quá làm cho mình ham thích tu thêm nữa, coi như là hâm nóng mãi mãi.
Thiền Giáo đồng hành, có nghĩa là hâm nóng mãi mãi để cho người ta tu. Chớ còn nếu mà không có học giáo thì người ta tu một thời gian sau người ta chán. Là vì người ta sẽ thấy không có kết quả trong cái sự tu tập, mà không được nghe cái lời mà sách tấn khuyến khích thêm, thì họ sẽ bỏ cuộc tu.
(45:01) Do đó, vì vậy mà có một cái pháp môn gọi là Định Tuệ song tu, vừa tuệ mà vừa định tu song song với nhau.
“Họ nghĩ rằng tu như vậy tâm lần lần thanh tịnh, đạt được sự giải thoát.”
Nghĩa là định tuệ song tu như vậy đó. Tuệ là cái sự hiểu biết nó giúp cho mình siêng năng tinh tấn tu định mà không có thối tâm, không có bỏ cuộc, và sự tu tập như vậy, vừa hiểu mà vừa có tập ức chế tâm như vậy, tâm dần dần nó thanh tịnh nó không còn cái vọng tưởng nữa. Do cái sự thanh tịnh này, họ sẽ đạt được cái sự giải thoát hoàn toàn.
“Thì chừng đó giới luật không giữ mà giới luật nghiêm túc.”
Họ nghĩ rằng sau này mình không cần giữ, mà tới chừng mà tâm mình thanh tịnh rồi, thì bắt đầu nó không có ăn uống phi thời nữa, nó không có phạm giới nữa, họ nghĩ như vậy. Nhưng mà cái nghĩ tưởng như vậy, nó thành ra hiện giờ một số tu sĩ, tu đã mười năm, hai ba chục năm về tuệ định song tu đó, cho đến giờ này thì giới luật họ cũng chẳng nghiêm túc.
Do giới luật chẳng nghiêm túc thì biết rằng họ chưa giải thoát hoàn toàn. Và họ chưa giải thoát hoàn toàn thì giới luật, do cái chỗ tu như vậy, cho nên hy vọng của họ là khi mà thiền định, mà định với tuệ mà tu như vậy, thì nó sẽ đạt được, nghiêm trì được giới luật, nhưng mà cuối cùng thì không có đạt được một cái gì hết.
“Có phải vậy không thưa Thầy?”
Đó là Cô Út hỏi Thầy có phải họ tu như vậy có được không?
Đáp: “Điều con hiểu rất đúng nhưng kết quả đi ngược lại, tâm dục lạc thế gian đầy rẫy, khéo che đậy mà thôi. Bản ngã to lớn, thích tranh luận hơn thua, tìm mọi cách đánh lạc hướng, khiến cho tín đồ không phân biệt đâu là Chánh Pháp của Phật, đưa ra nhiều luận giải của tưởng pháp, tạo hình ảnh trừu tượng “tâm phủ trùm vạn hữu”.”
Đó tức là, khi mà họ đưa ra những cái luận giải của họ, họ tưởng ra, họ giải thích ra như cái tâm họ phủ trùm cả cái vạn hữu ở trên thế gian này, coi như là họ đã hoàn thành được cái tâm rộng lớn mênh mông của họ đó.
“Đó là tâm phủ trùm vạn hữu…”
Đó là cái cách thức hình ảnh trừu tượng của họ, họ tưởng tượng ra nó, cái tâm họ phủ trùm vạn vật như vậy.
“… còn hình ảnh mê tín thì họ "phản bổn hoàn nguyên".”
Trong cái chỗ mà…
(Xem tiếp ở Pháp hành 07)
HẾT BĂNG
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Thời gian: 1998
(0:00) Cho nên nó biến ra cái hành động tụng niệm, cúng bái, sám hối. Thường thường nó phải từ cái chỗ mà cúng bái tụng niệm, dù là một ngày một đêm họ chỉ cúng bái tụng niệm một lần hoặc hai lần, điều đó cũng còn cái hình ảnh của sự lạc hậu, không đúng với Chánh Pháp của Phật.
Bởi vì họ chỉ nương vào cái chỗ tụng niệm để làm cho họ, sách tấn cho họ con đường tu, họ thấy họ còn có cái hình ảnh tu, chớ nếu không thì họ thấy họ không có cái gì mà để tu hết.
Thì ở đây chúng ta thấy từ cái hình ảnh trừu tượng đó là "tâm phủ trùm vạn hữu" đến cái chỗ mê tín để gạt người thì coi như là "phản bổn hoàn nguyên", trở về với cái cội nguồn, cội gốc của nó. Đó là cái mê tín, cái sự thật nó không có cái chỗ mà, cái gốc mà để chúng ta trở về. Đó là một cái.
Cũng như nói không có cõi Cực Lạc mà người ta nói có cõi Cực Lạc, có Đức Phật Di Đà, đó là một cái hình ảnh mê tín, nó gạt người ta. Bởi vì Phật đã dạy là chúng ta không có cái linh hồn, mười hai nhân duyên diệt thì chúng ta không còn một cái gì mà còn lại hết, thì đâu còn cái vật gì mà gọi là trở về Cực Lạc được! Thế mà còn một vật trở về Cực Lạc thì tức là một cái linh hồn. Mà có linh hồn thì mới có cảnh giới siêu hình.
"Phản bổn hoàn nguyên" vốn mục đích cũng như vậy, nhưng mà cái tên nghe nó hay ho hơn, trở về với nguồn gốc của nó. Nguồn gốc của nó, nguồn gốc của con người mà sanh ra thì kinh điển của Phật cũng xác định từ nhân quả. Bây giờ chúng ta “phản bổn hoàn nguyên" tức là trở về nhân quả, thì trở về nhân quả thì ác với thiện, có gì đâu.
Đó cho nên chúng ta thấy nó sai cái ý của Phật, cho nên nó biến thành một cái tình trạng mê tín. Mà tới biến thành cái tình trạng mê tín thì nó trái lại, thì những cái nơi chùa đó, thì họ phải cúng bái, tụng niệm, rồi sám hối.
Sám hối, khi mà chúng ta biết cái lỗi của mình thì mình cố sửa, chớ sám hối ai mà làm cho mình tiêu tội được? Ai làm cho mình hết tội được? Vì cái hành động làm ác, hành động mà làm tội là do cái nhân quả của mình. Cho nên biến từ cái chỗ cúng bái tụng niệm sám hối thành nó lạc hậu, nó không có đúng cái tính cách của cái người tu sĩ của đạo Phật.
(02:21) Đạo Phật thì không có mê tín, không có lạc hậu thì nó mới đúng tính cách của nó. Còn cái này, nó mê tín, nó trừu tượng, nó mê tín nó lạc hậu thì nó không đúng tính cách.
“Vì tu học tuệ trước nên thích bài bác.”
Bởi vì mình học, mình có cái sự hiểu biết, mình chấp, mình chưa có giữ gìn nghiêm túc đức hạnh cho nên mình không có tập sống trầm lặng, ít nói. Cho nên khi mà mình có sự hiểu biết thì cái tâm của mình nó thích lắm, nó thích cái hay ho, nó thích mình hơn người, cho nên khi mà có sự hiểu biết thì nó thích nói, nó thích đem ra những cái hay của mình khoe khoang.
Cho nên có người họ cho đó là sai, cái mình tức, vì vậy cho nên mình phải cãi cọ rồi mình tranh luận, rồi do cái chỗ mà sai cái kiến chấp của mình đi, thì mình phải bài bác cái chỗ của người ta. Do đó thì nó phải có sự chống đối, rồi phê bình, rồi chỉ trích, rồi nói xấu với nhau, nói xấu kẻ khác. Đó là nhược điểm của tu sĩ của Phật giáo thời nay.
Nó là những cái mà chúng ta thấy dùng cái tuệ mà tu trước, nó đưa đi đến cái nhược điểm, mà cái nhược điểm rất là tệ hại cho những cái vị tu sĩ của Phật giáo thời bây giờ. Đó là những cái hình ảnh mà chúng ta thấy trước mặt.
Thường thường khi mà chúng ta học hiểu được rồi, nó ấm ức trong lòng lắm, nghe ai nói gì thì nó muốn tuôn ra để mà cãi, để mà tranh luận chớ nó không chịu nín cái miệng nó lại.
Còn cái người mà tu giữ gìn giới luật thì ngay trong cái giới luật, thì về cái khẩu nó có bốn cái giới của nó, nó bắt buộc chúng ta trầm lặng, không có nói phù phiếm, không có nói tranh luận, không có nói hơn thua, không có nói xấu người khác, không có nói những cái lời mà hung ác, nói người ta thế này thế kia.
(04:11) Cũng như bây giờ các thầy cũng như là các con mà nghe Thầy giảng đây, rồi mình thấy mình học đây là đúng Chánh Pháp, còn người ta tu theo Đại Thừa hay Thiền Đông Độ nó sai. Rồi các Thầy chổng khu về bài bác người ta, chính đó là cái mình sai, mình không hiểu cái đó là mình sai.
Người ta không có đủ duyên người ta chưa gặp được Chánh Pháp. Mình có duyên mình thì mình gặp được Chánh Pháp thì mình lo tu giải thoát, cớ sao mình lại chỉ trích người ta nói sai? Cái đó là sai. Sai chỗ mình, chớ không phải Thầy dạy để các con lấy cái hiểu biết này mà đi chỉ trích người khác là làm sai.
Bởi vì Thầy dạy các con đừng có làm khổ mình, đừng có làm khổ người. Mà không làm khổ mình khổ người thì lấy chỉ trích người ta làm gì, nói người ta sai làm gì? Người ta tu sao thì người ta hưởng được cái chỗ tu của họ. Mà người ta tu không sai thì người ta hưởng được cái quả ở chỗ tu của người ta, mắc mớ gì mình lại nói.
Cho nên khéo léo. Ở đây Thầy thường cấm ngặt, là vì mình tu mình phải sống trầm lặng, mình phải sống độc cư, mình tập ít nói, không nói, nghĩa là không tranh luận hơn thua ai hết.
Ai nói mình tu sai mình cũng làm thinh chớ cũng chẳng cãi là nói tui tu đúng. Đừng có cãi, tu đúng mình biết. Vì tu đúng mình có giải thoát, còn tu sai không giải thoát, mà cố kiến chấp thì đó là sai. Còn mình tu đúng mà mình cũng kiến, mình cũng chấp rằng mình tu đúng, đó là mình sai!
Mình tu đúng thì mình biết được tâm của mình thanh tịnh, không còn tham, sân, si, không còn ham muốn cái này cái kia thì mình biết được cái chỗ giải thoát của mình, thì họ có nói sai thì mặc họ, có ăn thua gì mình? Mình giải thoát thì mình giải thoát còn họ không giải thoát thì mặc họ, cớ đâu mà mình lại tranh luận rằng tui tu đúng, còn mấy ông tu sai!
Rồi không cho người ta đi chùa đi miễu, nói đi như vậy là mê tín là này kia nọ. Nghe Thầy nói ở đây để cho mình biết được cái pháp của mình, mình đem trọn niềm tin mình tu tập, chớ không phải nói mê tín rồi mình đem ra mình bài bác nói họ mê tín, họ lạc hậu, họ xách cây họ đập mình chớ ở đó họ nhịn cho mình.
Đó thì ở đây, các con cũng như các thầy phải nghe hiểu cái chỗ này, cho nên học để biết mà tu chớ không phải học để mà tranh luận hơn thua bài xích người ta. Cái đó là cái tội lỗi, nhớ những cái lời Thầy dạy là không nên làm khổ mình và khổ người, vì mình nói làm người ta khổ, tức là người ta cũng phải tìm cách người ta làm khổ mình lại.
(06:33) *Hỏi*: “Kính bạch Thầy! Tại sao con từng đập phá tâm tham, sân, si của mọi người để họ thoát ra khỏi tam độc, được tâm giải thoát an vui và thanh thản thì họ lại oán thù con?”
Đáp: “Tại vì họ không muốn giải thoát, sợ bỏ tham, sân, si quá uổng, vì thế mà họ thù ghét con là phải.”
Bởi vì họ tiếc cái tham, sân, si, bỏ xuống đi thì nó không, hết tham, sân, si thì nó uổng quá! Cho nên vì vậy mà cô Diệu Quang đập phá để cho nó lộ cái tướng tham, sân, si, để biết cái tâm tham, sân, si của mình còn mà mình xả nó đi. Thế mà họ không chịu xả, mà khi mà họ đi ra rồi họ lại còn oán hận. Thì thật ra thì họ không muốn bỏ tham, sân, si, cho nên họ trở thành những oán hận.
Hỏi: “Tu là mục đích diệt trừ và đoạn dứt tam độc tham, sân, si. Cớ sao tu mà không chịu bỏ? Có người về đây tu hành suốt ba năm, năm năm, mười năm mà vẫn còn mang tâm đó!”
Đó thì cô Diệu Quang hỏi Thầy. Vì vậy:
“Họ còn mang tâm đó là vì họ tu sai.”
Nghĩa là họ tu cái pháp sai cho nên nó không có diệt được cái ác pháp, mà ác pháp đó là tham, sân, si. Cho nên các cái pháp mà họ đang tu đó, là họ tu sai, không đúng. Nếu mà tu đúng thì họ phải diệt cái đó được, mà họ tu sai cho nên họ diệt không được.
“Diệt ngã xả tâm, ly dục, ly ác pháp. Họ không chịu xả, ly bằng các pháp môn xả và ly. Ngược lại họ tu các pháp ức chế tâm để đạt được định, gọi là tu tắt. Do tu sai như vậy, dù có tu suốt cả triệu năm thì tâm tham, sân, si vẫn còn nguyên vẹn.”
(8:22) Hỏi: “Kính bạch Thầy! Con thường dạy mọi người đừng nên ngồi thiền nhiều mà hãy lo quán xét tu tập xả, ly, xả tâm tham, sân, si, họ lại bảo con dạy sai, không đúng như lời Thầy dạy.”
Đáp: “Thầy dạy Định Vô Lậu tức là diệt ngã xả tâm, ly dục, ly ác pháp, nghĩa là xả tâm tham, sân, si, chớ có gì sai khác ở con? Chỉ có danh từ Định Vô Lậu để xác định đó là pháp môn của Đức Phật.”
Đó thì các con và cũng như các thầy đã thấy, cô Út thì không có dùng cái Định Vô Lậu mà nói, mà chỉ bảo rằng mình phải suy nghĩ, tìm kiếm những cách nào để mình xả cái tâm mình khi mình bị tham, sân, si, ham muốn cái gì đó, mình tìm những cách đó mình xả nó ra, đừng có để trong tâm của mình. giận hờn, phiền não, đau khổ lâu dài, cách thức mình phải tìm hiểu suy nghĩ.
Thì cái Định Vô Lậu nó cũng là cái định quán xét để tư duy, để xả. Mà Thầy thì dùng những cái danh từ trong kinh sách để xác định đó là cái pháp môn của Phật chớ không phải là của Thầy đặt ra. Còn cô Út dạy thì nó không có dùng những cái danh từ ở trong kinh điển, chỉ bảo rằng mình tự tìm hiểu, suy nghĩ rồi mình xả.
“Con dạy mọi người quán xét tùy pháp, tùy người, tùy sự việc, tùy hoàn cảnh mà xả tâm tham, sân, si.”
Nghĩa là đứng trước mọi các cái pháp thì tùy mọi cái để mà xả ra.
“Thầy dạy người ly dục, ly ác pháp theo giáo lý của đạo Phật cũng vốn xả tâm tham, sân, si, có gì khác đâu, chỉ khác ở danh từ Phật điển mà thôi.”
Nghĩa là hai bên dạy, thì một người không có dạy danh từ của Phật điển, một người thì dạy danh từ Phật điển, cho nên nghe thì những cái danh từ, thì với cái lời nói bình dân mộc mạc, hai cái thì nó nghe nó không giống nhau, nhưng mà cái ý của nó là cũng là cái ý chỗ ly dục, ly ác pháp, diệt ngã xả tâm, xả cái tâm tham, sân, si của mình.
(10:28) Hỏi: “Kính bạch Thầy! Con thường khuyên mọi người đừng ngồi thiền nhiều, vì ngồi thiền nhiều giống như con cóc và sẽ thành cóc, có đúng như vậy không?”
Đáp: “Đúng! Xưa Đức Phật cũng dạy: tu hạnh con bò sẽ thành con bò, mà tu hạnh con chó sẽ thành con chó, tu hạnh ngồi nhiều sẽ thành con cóc, con ếch, v.v…”
Đó là lời Đức Phật ngày xưa cũng đã dạy cái vấn đề này rồi. Nghĩa là có một cái người tu sĩ ngoại đạo, họ tu về hạnh con bò, từ cái ăn họ ăn cũng làm giống y như con bò, rồi cái ngồi, cái nằm họ làm cũng y như con bò. Họ nói họ tu như vậy, cái khổ hạnh giống như con bò vậy thì họ sẽ sanh về cõi Phạm thiên.
Thì ông Phật nói: "Đừng có hỏi tôi, hỏi tôi tôi nói rồi ông sẽ khổ à!” Thì ông ta ba lần hỏi Đức Phật, ông mới nói: "Thiệt ra ông muốn hỏi thì tôi phải nói, nhưng ông đừng có buồn!”
Cho nên Đức Phật xác định tu hạnh con bò thì sau này mình sẽ thành con bò. Bởi vì mình quen cái thói đó rồi, thì khi mình chuyển cái kiếp thì mình cũng sẽ thành giống y con bò, cũng ăn kiểu như con bò, rồi cũng nằm kiểu con bò, rồi cũng đi kiểu con bò, đó là tu hạnh con bò.
Rồi có một vị tu sĩ cũng ngoại đạo, họ tu theo hạnh con chó. Cách thức ăn thì cũng làm giống như con chó, rồi cách thức đi cũng giống như con chó, cách thức nằm cũng giống y con chó. Đến hỏi Phật, Phật cũng nói như vậy, tu hạnh con chó thì sẽ thành con chó.
Thì bây giờ chúng ta ngồi nhiều thì, trong các loài vật thì có con cóc, con ếch là ngồi nhiều thôi chớ có con gì mà ngồi nhiều? Cho nên chúng ta cũng sẽ thành con cóc và con ếch mất! Cho nên tu cái hạnh nào thì nó sẽ thành cái hạnh nấy. Bởi vì mình quen cái thói quen đó thì mình sẽ thành.
Cho nên ở đây Thầy chỉ dạy các con cố gắng ngồi từ một giờ ba mươi phút rồi tập luyện cái đạo lực, xả cái tâm của mình cho nó thanh tịnh. Từ đó cái đạo lực nó sẽ làm chủ được cái sự sống chết của mình và mình sử dụng Tứ Như Ý Túc, mình muốn cái gì thì nó làm theo cái nấy, chớ không phải ngồi nhiều mà làm được cái chuyện này.
Cho nên những cái hiện bây giờ người ta tu sai, người ta ngồi nhiều từ ba bốn tiếng đồng hồ, từ bảy tám tiếng đồng hồ, nhưng cuối cùng thì nó đi về đâu? Nó trở thành con cóc con ếch mà thôi.
Cho nên các thầy thấy bên khất sĩ như sư Giác Chánh, ngài ngồi nhiều, thậm chí như ngủ ngài cũng ngồi ngài ngủ luôn. Cho nên cuối cùng bây giờ cách thức của ngài ngồi nó thụng xuống nó giống như là con ếch mà ngồi chớ không khác gì hết. Cho nên nó rất khổ là vì người ta không hiểu, người ta tưởng ngồi đó là Phật, đó là cái sai.
(13:03) Hỏi: “Kính bạch Thầy, con dạy mọi người tu phải lao động, làm việc. Thầy dạy mọi người tu không lao động, không làm việc. Như vậy thế nào xin Thầy dạy cho rõ!”
Đó là giữa cô Út dạy tu phải làm việc, còn Thầy dạy tu không làm việc, vậy thì hai bên này như thế nào?
Đáp: “Người mới tu tâm chưa xả, ly dục, ly ác pháp mà vội vào thất nhập thất tu tập tức là tránh duyên tránh cảnh. Đó là hình thức ức chế tâm, nén tâm. Khi tiếp duyên tiếp cảnh thì tâm nào tham, sân, si, tật nấy, lòng dục vẫn còn nguyên vẹn, cường độ còn mạnh hơn trước!
Người mới tu, theo như Đức Phật dạy: phải ngay trên Thân Hành Niệm mà tu tập, thân làm gì thì ý phải tập trung nơi việc làm ấy.”
Nghĩa là Đức Phật dạy chúng ta Thân Hành Niệm, lát nữa đây rồi Thầy sẽ đọc cái bài Thân Hành Niệm, rồi Thầy giải thích cho các con hiểu được cái cách thức của Đức Phật dạy, để chúng ta biết đó là chúng ta đang thực hiện cái định gì. Và đang, cái kết quả của nó sẽ ngăn chặn được những cái pháp gì, và kết quả sẽ đem đến cho chúng ta được lợi lạc cái gì.
“Người mới tu mà không lao động, thân sanh lười biếng, tâm ý bạc nhược, mất hết ý chí, không còn nghị lực tu tập.”
Đó thì, các con với các thầy xét, khi cô Út dạy tu phải lao động, tức là cái cơ bản của cái người mới vào tu, thì chúng ta lao động, để rồi lấy cái hành động đó mà chúng ta tu tập Chánh Niệm Tỉnh Thức, chứ không phải là vô trong thất rồi ngồi, rồi ngủ, rồi chơi.
Bởi vì ngồi không không làm gì hết thì nó sẽ buồn ngủ. Mà cái sức của mình nó chưa có định thì mình ở trong đó mình có làm gì khác hơn được? Cho nên từng đó nó sanh ra lười biếng. Mà nó sanh ra lười biếng thì chỉ có ngủ, ngủ đã rồi ngồi dậy tu cho có chừng, có giờ giấc như vậy thôi, rồi cuối cùng thì chẳng có ra gì.
Cho nên một số người rất đông là ai cũng muốn ham nhập thất, không có lao động, ngồi trong thất mà tu. Cuối cùng rồi thì chẳng ai ra gì hết, cứ nhìn chung là chúng ta thấy không có kết quả gì.
“Con đường tu có nhiều khó khăn, cần phải có đủ ý chí và nghị lực vượt qua.”
Con đường nó coi vậy chớ nó không phải là nó suôn sẻ để chúng ta vào ở trong thất rồi ngồi tu rồi thành Phật được liền đâu, không phải đâu. Chúng ta phải biết từng cái giai đoạn tu.
“Người mới tu phải tu tập trau dồi thân tâm trong các đối tượng, trong mọi hoàn cảnh, mọi sự việc để tâm ly dục, ly ác pháp.”
Nghĩa là mới tu thì mình phải tu ở trong mọi cách. Cho nên vì vậy đó, mình phải phòng hộ sáu căn nè, mình phải tu thiểu dục tri túc nè, rồi mình phải tu trong cái ăn nè, rồi tập luyện trong cái ngủ nè, rồi tập nhẫn nhục nè, rồi tập tùy thuận bằng lòng trong mọi cái, để cho cái tâm mình nó ly dục, ly ác pháp.
(16:02) “Người mới tu phải tự rèn luyện mình trong lửa đỏ để thấy được thân tâm mình có chiến thắng tâm mình được chưa. "Thắng ngàn quân địch chưa thể gọi là thắng, tự thắng được mình mới là chiến công oanh liệt”.”
Đó là câu kinh Pháp Cú đã nói. Cho nên người mới tu như là một người phải tự chiến thắng lại mình, phải rèn luyện mình trong lửa đỏ chớ không thể nào mà vô trong thất mà tránh duyên yếm thế, mà ngồi trong thất để không có cảnh động, thì cái người đó dù tu suốt đời thì tâm họ cũng chưa có xả ly được gì hết.
“Người mới tu phải thấy sự xả tâm là điều quan trọng, nếu không thấy được điều này mà cứ nhập thất tu tập ức chế tâm thì tu tập chẳng đi đến đâu, chỉ uổng cho một đời mang tiếng tu hành.
Người mới tu lấy lao động làm sự tu tỉnh giác, thì tỉnh giác ấy mới tu tập dễ dàng.”
Đó thì các con thấy cái người mà mới tu thì không thể ngồi không mà ngồi đó mà nhiếp tâm hơi thở mà nó tỉnh thức đâu, nó sẽ rơi vào ở trong thùy miên, hôn trầm và vô ký.
“Người mới tu mà không lao động thì dễ rơi vào vô ký, thùy miên, hôn trầm, sanh ra lười biếng mỏi mệt, bần thần, thích ngủ, thích ăn, thích chạy theo dục lạc.”
Nghĩa càng tu mà sai thì nó lại khiến cho chúng ta thích ngủ, thích ăn, rồi thích chạy theo dục lạc.
(17:28) “Người mới tu mà quá say mê trong lao động…”
Người mới tu mà lấy cái cớ rằng mình lao động mà say mê trong lao động, làm việc nhiều, tìm việc làm này rồi tìm việc làm khác, thì đó là tu sai rồi. Cho nên cái việc làm để mà tu chớ không phải tìm cái việc này rồi sanh cái việc kia, làm cái này cái kia.
Thầy nhắc lại, như Chánh Trực ở đây cũng vậy. Nghĩa là sáng mình đi quét sân thì mình quét sân mà thôi, đường xá có dơ thì mình nhổ cỏ, thất mình có dơ thì mình làm chút ít, không! Tính ra cái việc làm đi chặt cây, làm nào là vườn thanh long, rồi bày ra rồi đào mương đào hầm hố, đem hết cái sức lực của mình làm, làm say mê ở trong công việc như vậy, thì thử hỏi còn tu cái gì được nữa không?
Đó không phải tu mà chỉ sợ cô đơn, làm cho nó quên đi cái sự cô đơn, làm cho nó quên đi cái sự ham ăn ham ngủ của mình. Chứ sự thật ra, một cái người mà làm say mê, người ta quên ăn quên ngủ, còn cái người mà ở không cứ ngồi nhớ ăn nhớ ngủ hoài! Đó cho nên nó có cái khó như vậy. Cho nên chúng ta không sanh ra các pháp làm, mà các pháp nó có sẵn thì chúng ta cứ làm.
(18:40) Cho nên Thầy nhắc, người nào mà thấy cái công chuyện hàng ngày mình làm chuyện đó, thì mình cứ tiếp tục mình làm công chuyện đó, đừng hỏi thêm, đừng hỏi bớt, cứ làm thì như đó đã giữ độc cư và đã tu đúng.
Bởi vì cái hành động mà mình làm công việc đó nó quen rồi thì mình cứ giữ cái hành động đó mà mình nhiếp tâm, vừa nương hơi thở mà vừa biết được hành động đó rất cụ thể. Do đó sức tỉnh của mình càng ngày càng cao lên.
(19:01) Còn mình sanh ra chuyện mới, thì bắt buộc cái đầu óc mình phải suy nghĩ cái này cái nọ cái kia, thì như vậy đó mình đã không có tỉnh thức rồi, tạp niệm nó xen vô lung tung đủ thứ ở trong đó hết.
Rồi khi mà làm ra thì phải lo thất bại, rồi phải lo nó không thành công, rồi lo người ta chê, người ta cười mình thế này thế khác. Mình không có một cái việc gì, mình là người vô sự, nhưng mà sự việc đó là sự việc chung, cho nên không ai khen mình giỏi mà cũng không ai chê mình dở. Mình cứ làm công việc cho nó đúng với cái chỗ tu tập của mình mà thôi.
“Người mới tu mà say mê trong việc làm thì tu sai. Làm vừa sức để mà tu chớ không phải ráng làm cho xong việc.
Người mới tu mà tâm cứ nảy sanh việc làm này đến việc làm khác là tu sai, mê việc làm.
Người mới tu biết lấy việc làm để tu tập xả tâm và phòng hộ sáu căn và tỉnh thức nên không làm quá sức mình.
(20:01) “Người mới tu, tập để ly dục ly ác pháp. Người đã tu tập ly dục ly ác pháp được, thì mới nhập thất ở nơi hoang vắng một mình.”
Nghĩa là cái người mà tu tập ly dục ly ác pháp rồi thì bắt đầu bây giờ mới có nhập thất ở nơi hoang vắng một mình. Chớ còn khi mà chưa ly dục, ly ác pháp mà nhập thất ở một mình thì chắc chắn là sẽ không có đạt kết quả, mà sẽ ngủ li bì trong đó chớ không có kết quả đâu, sẽ sanh ra lười biếng ở trong đó.
Cho nên khi mà tu tập ly dục, ly ác pháp được rồi thì mới có thể sống nơi hoang vắng mới được.
“Chừng đó mới là không có làm việc.”
(20:42) Nghĩa là ly dục, ly ác pháp rồi, thì chúng ta bây giờ mới nhập thất để tu thiền định, thì chắc chắn là không có làm việc nữa.
“Hằng ngày nỗ lực rèn luyện đạo lực để điều khiển sự sống chết và chấm dứt tái sanh luân hồi.”
Nghĩa cái người mà tu ly dục ly ác pháp rồi, tâm mà không tham, không sân si rồi, thì cái người đó bắt đầu mới ở nơi hoang vắng, mới gọi là nhập thất sống một mình, mới không làm việc nữa.
Vì hàng ngày phải luyện tập rèn luyện cái đạo lực, cho nên sự rèn luyện đạo lực này nó đòi hỏi ở chúng ta phải có thì giờ rất nhiều để mà chúng ta rèn luyện nó. Thì do cái sự rèn luyện nó, thì nó mới có đủ cái sức lực nó tịnh chỉ hơi thở, nó làm chủ được cái sự chết sống của chúng ta, và cũng từ đó nó mới chấm dứt được cái sự tái sanh luân hồi của mình. Thì:
“Như ông Mục Kiền Liên tâm đã ly dục và ác pháp, ông mới xin Phật vào cư trú nơi khu rừng hoang vắng để tu tập rèn luyện đạo lực. Nhờ Phật trực tiếp chỉ dạy ông mới nhập được các định và dùng đạo lực thể hiện các thần thông. Vì thế, (trong) đệ tử của Phật, ông là người đệ tử đệ nhất thần thông.”
Đó thì, sau khi ly dục, ly ác pháp rồi thì ông Mục Kiền Liên mới xin Phật vào cư trú nơi một khu rừng hoang vắng. Nhưng mà trong khi đó ông tu tập cái gì? Ông tu tập Tứ Như Ý Túc đó. Nghĩa là khi mà cái tâm mình ly dục, ly ác pháp rồi thì mình mới bắt đầu mình tu tập Tứ Như Ý Túc.
Thì Định Như Ý Túc, thì trong đó nó sẽ từ cái gì? Từ cái Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền. Mà bây giờ muốn nhập Nhị Thiền thì chỉ cần ra lệnh nó, mà luyện cái đạo lực mà ra lệnh nó, thì Nhị Thiền, muốn nhập Nhị Thiền thì phải tịnh chỉ Tầm Tứ. Thì bây giờ chúng ta chỉ ra lệnh: “Tầm Tứ phải tịnh chỉ, hơi thở phải chậm và nhẹ nữa để nhập vào Nhị Thiền.”
Thì chúng ta ra lệnh như vậy, thì bắt đầu chúng ta ngồi bám chặt trong cái tâm mình, bám chặt trong hơi thở, thì lúc bấy giờ tuần tự hơi thở sẽ chậm nhẹ dần dần, cho đến khi Tầm Tứ hoàn toàn không có khởi sanh ra nữa, thì lúc bấy giờ chúng ta đã nhập Nhị Thiền.
(22:46) Thì lúc bấy giờ chúng ta dùng pháp hướng chứ chúng ta không ức chế để cho nó hết vọng tưởng, như bây giờ mà chúng ta đang ngồi hít thở để ức chế vọng tưởng.
Còn trái lại, thì ông Mục Kiền Liên, khi mà ông hết, ông ly dục, ly ác pháp rồi, ổng mới xin Phật vào một khu rừng hoang vắng ổng luyện cái đạo lực, thì cái đạo lực ổng hằng ngày ổng nói gì? "Tầm Tứ phải tịnh chỉ, nhập Nhị Thiền!", thì do đó ông cứ ra lệnh như vậy.
Rồi ông ngồi ông bám chặt, giữ cái tâm ông trong cái hơi thở, cái tụ điểm, và như vậy cho đến khi cái ý ông tác ý ra, ông nghĩ bây giờ tâm mình nó không còn thất niệm nữa. Ông nghĩ rằng bây giờ nó hoàn toàn yên tịnh, không còn vọng tưởng nữa, thì ông Phật hiện, dùng thần thông hiện đến sát bên ông nói: "Ông phải im lặng như Thánh, không được khởi niệm đó", thì ngay đó ông tịch luôn cái niệm đó thì ông đã hoàn toàn đã nhập được Nhị Thiền.
Thì trong khi mà ông luyện tập cái đạo lực để mà nhập Nhị Thiền đó, thì ông bị hôn trầm rất nặng, do đó Đức Phật mới đến dạy ông năm cách để phá hôn trầm.
Đó thì, các con thấy tuần tự những cái gặp khó khăn ở trên cái bước đường mà tập Định Như Ý Túc, thì cái này, cái Định Như Ý Túc nó thuộc về, ba cái loại thiền này thì nó thuộc về cái Định Như Ý Túc rồi, nó nằm trong cái Định Như Ý Túc.
Bởi vì mình muốn nhập cái định nào thì nó phải như cái ý muốn của mình. Mà bây giờ mình muốn mình nhập Nhị Thiền, bảo Tầm Tứ tịnh chỉ mà nó không tịnh chỉ, tức là mình như ý túc được không? Đó mình bảo: “phải ly hết mười tám loại hỷ” nè, “nhập Tam Thiền” nè, “tâm tỉnh thức” nè, “không có được ngủ” nè, “phá mộng tưởng” nè, nhưng mà nó cứ, cuối cùng nó ngủ nó cứ mộng hoài, thì như vậy là mình nhập được Tam Thiền chưa?
Cho nên mình chưa được Định Như Ý Túc. Mà Định Như Ý Túc ra lệnh như vậy thì chúng ta đã nhập được. Thì như vậy là lúc bấy giờ chúng ta đang sống ở trong hoang vắng, thì chúng ta tu cái gì? Tu Tứ Như Ý Túc chớ không phải gì.
Mà khi định được Định Như Ý Túc rồi, thì bắt đầu chúng ta tu tới cái gì? Dục Như Ý Túc, muốn cái gì thì nó làm ra cái nấy, phải không? Rồi bây giờ Tuệ Như Ý Túc, muốn cái trí tuệ gì thì chúng ta thể hiện ngay được cái trí tuệ đó.
(24:48) Đó thì thấy như vậy là rõ ràng là, khi mà vào thiền định thì muốn nhập Bốn Thiền thì chúng ta phải tu Tứ Như Ý Túc chớ đâu phải gì, bởi vì trong Tứ Như Ý Túc thì có Định Như Ý Túc.
Cho nên ở đây, nếu mà muốn dạy Bốn Thiền thì tức là chúng ta phải dạy Tứ Như Ý Túc rồi. Chớ không phải là dạy: bây giờ phải hít thở hơi thở như vậy để ức chế nó vào vọng tưởng, thì cái người đó dạy sai, không đúng, không đúng cách của đạo Phật đâu.
Thì bây giờ chúng ta mới thấy được cái chỗ mà ông Mục Kiền Liên đã vào trong cái khu rừng hoang vắng, là khi ông đã ly dục, ly ác pháp. Còn bây giờ các thầy thấy tâm ly dục mình có ly chưa? Ác pháp có ly chưa, tham, sân, si còn hay hết chưa? Mà bây giờ vội vô thất không chịu làm việc, không này kia, cứ ngồi như con cóc thì cô Út cổ chẳng nói là như con cóc sao?
Đó thì rõ ràng là chúng ta chưa có phải ở chỗ cái mức, cái giai đoạn đó để mà tu Tứ Như Ý Túc, tức là Định Như Ý Túc, thì chúng ta không có thể nào mà vô trong thất mà ngồi. Mà hàng ngày chúng ta tiếp duyên, hàng ngày chúng ta lo xả tâm ly dục, ly ác pháp, thì đó là đúng cách của chúng ta tu tập.
Cho nên ông Phật, các thầy thấy là, đệ tử của ông Phật thường đi khất thực, chớ đâu có lúc nào mà sống trong độc cư, trong yên tịnh đâu, không có đi khất thực đâu. Nhưng mà khi mà ở trong rừng hoang vắng rồi như vậy thì có người khất thực giúp cho ông ta tu.
(26:11) Cho nên các thầy nhớ rằng trong sáu người, nghĩa là năm anh em Kiều Trần Như và Đức Phật, hai người đi khất thực cho bốn người kia ăn. Nghĩa là bốn người kia, sáu người mà hai người đi khất thực cho bốn người ăn. Nghĩa là bốn người không đi khất thực, mà hai người khất thực cho bốn người ăn và mình ăn nữa, là hai người khất thực cho cả sáu người ăn.
Vì vậy đó thì qua cái câu chuyện đó chúng ta nhớ, khi nào mà người mà sống trong hoang vắng để mà thực hiện Định Như Ý Túc, thì lúc bấy giờ đó có những vị tỳ kheo khác khất thực để giúp cho mình cái thực phẩm hàng ngày mình dùng để mình tu tập những cái phần đó, phần cuối cùng đó. Thì như vậy là chúng ta không còn lao động, chúng ta không còn đi tới đi lui, chúng ta nỗ lực thực hiện Tứ Như Ý Túc.
Đó thì ông Mục Kiền Liên là cái người tu như vậy đó.
“Chỉ khi tâm xả ly dục lạc thế gian, lúc bấy giờ mới nhập thất không lao tác, tập luyện Tứ Như Ý Túc.”
Đó, cái câu mà Thầy viết ở trong này để mà trả lời, thì sau này cái tập này thì nó sẽ photo hoặc in vào trong một cuốn sách thứ hai thuộc về vấn đạo, để chúng ta biết được cách thức chúng ta tu tập cái đúng cái sai.
“Chỉ khi nào tâm xả ly dục lạc thế gian, lúc bấy giờ mới nhập thất không lao tác…”
Tức là không lao động nữa.
“… tập luyện Tứ Như Ý Túc.”
Nghĩa là bây giờ chúng ta tập luyện Tứ Như Ý Túc thì trong đó có Tam Thiền đó, Tam Thánh Định đó. Còn cái Sơ Thiền là cái định ly dục, ly ác pháp, đó là cái Sơ Thiền, do cái chỗ mà giới luật nó đạt được cái thiền thứ nhất rồi. Cho nên bây giờ chúng ta còn ba cái thiền nữa, thì tức là chúng ta phải tu tập Tứ Như Ý Túc thì chúng ta mới đạt được ba cái thiền này.
“Tâm chưa xả ly dục và ác pháp mà vội vào thất thì chẳng khác nào như một người yếm thế trốn đời, chẳng ích lợi cho mình, cho đời. Người tu hành như thế là chưa biết rõ cách thức tu.”
Nghĩa là chưa có rõ cái cách thức tu.
(28:16) “Nhập thất có nhiều giai đoạn.”
Ở đây thì các con thấy cái nhập thất nó có nhiều cái giai đoạn tu, ở đây là những cái điều mà cần thiết để cho các thầy và các con ghi nhận để mà cho nhớ rõ.
“Nhập thất có nhiều giai đoạn:
1- Giai đoạn phòng hộ,
2- Giai đoạn xả ly.”
Tỉnh Giác Chánh Niệm đó.
“3- Giai đoạn Định.”
Tứ Thánh Định đó
“4- Giai đoạn Tuệ.”
Tứ Như Ý Túc đó.
“Hai giai đoạn đầu nhập thất trong mọi hoàn cảnh, mọi đối tượng làm mọi sự việc.”
Nghĩa là hai cái giai đoạn đầu, giai đoạn phòng hộ, giai đoạn xả ly, thì hai giai đoạn đó đó, thì chúng ta nhập thất, chứ chúng ta đâu phải là người, nhập thất tức là nói cái sự tu tập của chúng ta. Mà:
“… nhập thất tu ở trong mọi hoàn cảnh, mọi đối tượng, làm mọi việc. Hai giai đoạn sau là nhập thất nơi hoang vắng.”
Tức là hai cái giai đoạn: giai đoạn định và giai đoạn tu tuệ đó, thì hai cái giai đoạn đó là cái giai đoạn mà chúng ta nơi hoang vắng, không làm việc.
Cho nên Thầy dạy thì các con hiểu ở trong hai cái giai đoạn sau cùng, mà hai giai đoạn đầu thì các con chưa hiểu, cho nên hầu như có người chưa hiểu rồi chấp, chấp chặt ở trong thất mà nỗ lực ngồi không mà tu, mà trong khi tâm mình tràn trề bao nhiêu ham muốn, bao nhiêu ác pháp chưa có xả ly. Thế mà cứ ngồi ở trong thất tu, thì như vậy thì làm sao mà tu cho tới đâu? Đó là những cái hiểu sai lạc làm cho sự nhập thất nó lệch lạc đi.
Rồi bây giờ thí dụ như các con cứ nghĩ có một số người bây giờ ở đây tu tập, họ cứ nghĩ rằng cái lời Thầy dạy là nhập thất là không có làm việc, cho nên do đó họ xả ly cái tâm họ chưa được, họ sanh ra những điều kiện nghĩ ngợi. Họ tưởng, bây giờ về nơi quê hương của họ, họ cất một cái thất, họ nhập thất ở đó, có người lo cơm nước họ ăn, họ nhập thất họ tu, họ không lao động không gì hết, thì chắc thời gian họ theo pháp Thầy dạy, chắc chắn là thời gian họ sẽ thành tựu.
Nhưng mà sự thật ra họ đã tu sai cái giai đoạn của họ rồi, thì họ không thành tựu được gì hết.
Cho nên các con thấy có một số chị em, có một số quý thầy, ở đây tưởng rằng họ sẽ về họ cất thất rồi họ nhập thất tu, có người hộ cơm nước cho họ, như vậy là họ sẽ thành tựu. Chắc không bao giờ thành tựu điều gì đâu. Họ chưa biết được cái giai đoạn, họ chưa biết được cái tâm của họ, họ chưa xả được cái gì đâu.
Cho nên Thầy đã hiểu biết được những cái điều này nhưng nói cho ai nghe đây, họ đâu có nghe lời Thầy!
(30:52) *Hỏi*: “Kính bạch Thầy! Thầy dạy độc cư mà chúng không hiểu rõ, biến thành độc câm, con dạy gì họ cũng chẳng tin, xin Thầy giải thích cho rõ ràng!”
Đó thì, Thầy thường dạy độc cư, nhưng mà các con thì hiểu một cách rất là lệch lạc.
Cũng như ở đây có mùa hạ năm rồi thì thầy Thiện Thuận có về đây tu tập, hiểu qua cái chỗ độc cư thì thầy lại là độc câm, thầy không thèm nói nữa. Ôi thôi thầy làm cũng rối loạn dữ tợn, thầy hiểu sai một chút mà nó thành trật mất cái đường cách thức của Thầy dạy mất đi.
Bởi vì trong cái giáo lý và cái giáo pháp của Phật dạy, nó không có cái chỗ mà á khẩu, nghĩa là câm đó, không có câm, mà Phật chỉ dạy tịnh khẩu chớ không phải là dạy á khẩu. Thế mà người ta câm không nói chuyện, thì Thầy cũng không biết sao.
Tịnh khẩu nghĩa là không có nói chuyện phù phiếm, không có nói chuyện ác, không có nói chuyện vu khống, không nói chuyện hai chiều, không có nói lời hung dữ, không có nói vọng ngữ, thì như vậy là gọi là tịnh khẩu.
Còn mình làm thinh mà mình gọi tịnh khẩu, mà trong bụng mình ác pháp nó đầy ở trong đó, thì cái khẩu của mình nó chưa có lúc mà nó nói ra, chớ lúc mà nó nói ra chắc nó chửi người ta tan nát hết không còn!
Đáp: “Bốn mươi hai bài kệ của Phật dạy độc cư rõ ràng, cớ sao lại biến nó thành độc câm? Tịnh khẩu quý thầy hiểu sai biến thành á khẩu, câm.
(32:33) Tịnh khẩu nghĩa là không nói vọng ngữ, ác ngữ, lưỡng ngữ, phiếm ngữ, chớ không phải không nói. Còn á khẩu là câm không nói ra.”
Ở đây các con nên ghi những cái danh từ này:
“Tịnh khẩu nghĩa là không nói vọng ngữ, ác ngữ, lưỡng ngữ, phiếm ngữ.”
Đó, những cái danh từ ở trong kinh thì nó dạy rất rõ đó. Khi mà tịnh khẩu thì chúng ta không có nên dùng những cái vọng ngữ, rồi ác ngữ, lưỡng ngữ, phiếm ngữ. Đó, thì những cái danh từ đó thì ghi để nhớ chớ không kéo không nhớ thì không biết đâu mà nói.
Đó thì tịnh khẩu là không có dùng những cái loại ngữ đó, chớ còn nói cái điều tốt thì mình nói có sao đâu? Cho nên có nhiều người chẳng dám nói mà cứ lấy giấy mà viết, thiệt ra là không câm mà muốn câm!
Cho nên cái người câm họ muốn nói lắm chớ, mà họ nói không được, họ ư ư, họ ra dấu tùm lum ra hết, thì chúng ta tập theo cái người câm chớ không phải là tập tịnh khẩu. Đó, độc cư là nhắm, là chúng ta vào cái chỗ tịnh khẩu chớ không phải là gì khác.
“Độc cư là sống trầm lặng một mình, sống tâm quay vào trong, không phóng dật, sống không kết bè kết bạn, không nói chuyện phiếm, chỉ lo sống đúng pháp, đúng giới luật, ngày ngày chuyên cần tu tập trau dồi thân tâm bằng các pháp Phật đã dạy.”
Nghĩa là cái người sống độc cư là người lấy pháp làm cuộc sống của mình, cho nên Phật nói lấy pháp làm hòn đảo để mà tu tập nó. Vì vậy mà độc cư là vốn chúng ta sống cách sống để lấy các pháp làm cái cuộc sống của chúng ta, làm cái chỗ nương tựa vững chắc mà không hề lúc nào mà chúng ta buông cái pháp ra.
Còn cái này chúng ta cứ buông cái pháp ra khỏi, cũng như là cái người mà đã bị chết đuối ở biển mà nhờ có cái phao mới sống trên mặt biển đó, thế mà cứ thỉnh thoảng thả cái phao ra!
(34:35) Chúng ta biết cái pháp nào, như Tứ Chánh Cần phải tu tập như vậy, và cách thức phải dùng thiền định như vậy để tu tập Tứ Chánh Cần, thì luôn luôn chúng ta giờ phút nào chúng ta cũng bám vào cái pháp đó mà chúng ta sống. Thì như vậy là lấy pháp làm chỗ nương tựa, lấy pháp làm chỗ hòn đảo, phải không?
Còn cái này mình cứ mình buông ra cái phao của mình, mình buông cái hòn đảo ra, thì sóng gió nó dập dồn, nó nhận mình xuống đáy biển chết còn gì! Cho nên các thầy, các con không thấy rằng mình đang sống đây là mình đang sống ở trong cái biển đau khổ, mà nếu mình buông cái phao này ra, buông cái phao pháp của Phật ra, thì ngay đó là bị sóng nó dập mình xuống dưới đáy biển, mình đau khổ liền!
Cho nên Phật nói: hãy tự lấy mình làm hòn đảo, hãy lấy pháp của Phật mà làm hòn đảo, hãy lấy mình làm ngọn đèn soi cho mình đi, hãy lấy pháp của Phật mà soi đường cho mình đi, đừng có rời cái ngọn đèn đó ra, vì rời ngọn đèn đó ra là đêm tăm tối nó sẽ che ám mình đi!
Cho nên mình phải sống trong pháp, sống đúng pháp, luôn luôn lấy pháp mà bám. Cho nên Phật nói "tùy pháp" là theo pháp, nương pháp, bám chặt pháp, cách thức tu á. Chớ còn các con, cứ xét đi coi Thầy có đúng không, các con luôn luôn rời các pháp, không chịu bám chặt pháp, tội nhất là cứ để một ngày không biết nó rời ra khỏi cái phao đó bao nhiêu lần, tức là rời khỏi cái pháp bao nhiêu lần.
(36:03) Cho nên Phật nói: nương theo pháp tức là tùy theo pháp, bám chặt pháp, ôm chặt pháp, lấy pháp làm chỗ nương tựa vững chắc, đừng buông nó, thì chúng ta mới có sự giải thoát hoàn toàn.
Mà sống độc cư là phải sống như vậy mới có nghĩa của nó. Sống độc cư không có nghĩa là không nói chuyện, nhưng nói chuyện gì nói bây giờ? Bởi vì mình sống độc cư, mình sống luôn luôn ở trong pháp, lấy pháp làm chỗ nương tựa, thì biết cái gì bây giờ mình nói. Mà mình nói tức là mình buông pháp rồi còn gì!
“Nên âm thầm lặng lẽ, nỗ lực tu tập không có phút giây nào rảnh rỗi mới gọi là độc cư.”
Nghĩa là không có giờ nào mình rời các pháp của mình đang tu.
Thầy đã cho các con các pháp Tứ Chánh Cần, rồi cho các pháp để chúng ta tu tập ở trên Tứ Chánh Cần: đó là Chánh Niệm Tỉnh Giác, đó là Định Niệm Hơi Thở, đó là Định Vô Lậu, ba cái pháp Định này để chúng ta thực hiện cái Tứ Chánh Cần hoàn toàn sẽ được giải thoát. Mà lìa ra một phút một giây là các con, các thầy đã tự mình đã nhận chìm mình xuống dưới đáy biển rồi!
Cho nên phải hiểu biết cái lời của Phật dạy, là luôn luôn lúc nào chúng ta cũng đừng để thất niệm. Thất niệm tức là lìa khỏi pháp. Ôm chặt pháp, ôm chặt cái phao này, ôm chặt cái nơi nương tựa vững chắc này, thì chúng ta mới thoát ra khỏi cái cuộc đời đầy trầm luân đau khổ, đầy cám dỗ biết bao nhiêu sự ham thích.
(37:34) “Trước các pháp tâm không bị cám dỗ là độc cư.”
Đây các thầy và các con nghe Thầy giải thích cái chỗ độc cư, bởi vì cô Út hỏi để cho biết rõ, để không khéo các con chỉ hiểu một cách rất phiến diện, chỉ biết á khẩu làm thinh là độc cư, điều đó là điều sai.
“Trước các pháp, tâm không bị cám dỗ là độc cư.
Trước những người thân quyến thuộc, tâm không động lòng thương ghét là độc cư.
Trước những lời mạ nhục phỉ báng, tâm không giận hờn phiền não là độc cư.
Trước những cảnh thọ lạc, thọ khổ, thọ bất lạc bất khổ, tâm không dao động là độc cư.
Trước những cảnh éo le đau khổ của kẻ khác, tâm vẫn thanh thản an nhiên, bất động là độc cư.
Trước những cảnh chết chóc như chỉ mành treo chuông, tâm vẫn thản nhiên bất động là độc cư.
Trước những cảnh ác thú và giặc cướp, tâm vẫn an nhiên bất động là độc cư.
Chớ không phải độc cư là không nói chuyện!”
Đó, cuối cùng Thầy xác định cho các thầy thấy, trong cái vấn đề đó như vậy. Nhưng mà mình độc cư mình biết chuyện gì bây giờ nói? Nói khởi chuyện ra, có ý ra khỏi pháp thì ngay đó mình đã buông cái phao.
(38:43) Cái phao đã cứu mình thoát ra khỏi cuộc đời đầy đau khổ, thế mà mình vội vàng mình buông nó ra để mình nói chuyện gì? Mình có chuyện gì nữa mà nói? Chuyện sanh tử đang kề cận, ngày bây giờ mình đang sống, ngày mai chết biết làm sao mà tránh khỏi đây?
Chắc chắn là mọi người đang ngồi trước mắt Thầy, người nào cũng phải đi vào cái cảnh chết. Mà cái cảnh chết đó không biết ai đi trước mà ai đi sau? Con đường này chắc chắn ai cũng phải đi!
Thế sao chúng ta không nghĩ đến giờ phút đang sắp sửa lâm chung, đang sắp sửa chết đây? Vui sướng gì cuộc đời này mà cái chết đang đeo ở trên vai trên cổ của chúng ta đây? Ngày mà chúng ta bỏ thân này, chúng ta còn biết được thân nữa hay không? Ngày mà chúng ta bỏ thân này, biết chúng ta có được thân khác mà có gặp được Chánh Pháp như thế này nữa không?
Ngày nào Thầy ra đi, Pháp bảo còn thì đó là phước duyên của chúng sanh, mà Pháp bảo này được tiêu hủy và được đốt đi thì biết chúng sanh có còn đủ duyên gặp nữa không?
Không gặp được chánh pháp như thế này, không được nhắc lại những pháp mà Phật ngày xưa đã truyền lại! Kinh sách của Phật còn đó, nhưng Chánh Pháp của Phật đã lu mờ. Người ta tu sai lệch mà bây giờ Thầy đã làm sống lại, đó là cái duyên phước của một số người ngồi trước mắt Thầy, để nhìn thấy cái chết đang réo rắt, đang thúc hối chúng ta sắp tới con đường chết, chớ không phải ai khỏi chết đâu, mà vui, mà sướng, mà chạy theo dục lạc!
Đừng nghĩ rằng tôi còn trẻ tuổi là tôi chưa chết, biết đâu chừng cái chết sẽ đến với người trẻ tuổi chứ chưa phải là người già. Trong các con, có khi các con chết trước Thầy, mà cũng có khi các con chết sau Thầy, ai biết được cái sự tử sanh này?
(40:37) Trong cái lời thưa hỏi của thầy Chân Thành thì có cái chỗ này Thầy xin trả lời chung để chúng ta thấy ở đây có người trẻ và cũng có người già.
*Hỏi: “*Bạch Thầy, con xin Thầy chỉ dạy! Người trẻ tuổi và người nhiều tuổi tu có gì khác và giống nhau?
Người trẻ tuổi ít huân tập ở đời nên dễ tu, người nhiều tuổi do huân tập các pháp thế gian nên khó tu chứng. Nay do luật nhân quả mà người tuổi trẻ và người nhiều tuổi nhiễm tập nhiều đời, tốt hay xấu mà dẫn đến tu lâu hay mau là do đặc tướng này?”
Đó là cái câu hỏi để Thầy trả lời giữa cái người tuổi trẻ và cái người tuổi già, tuổi lớn tuổi.
Ở đây chúng ta thấy trong một đời chớ chúng ta chưa thấy vô lượng đời của chúng ta, vô lượng kiếp của chúng ta. Trải qua nhiều đời, nhiều kiếp chúng ta làm con người, chúng ta huân tập những cái pháp thế gian quá nhiều và huân tập cái pháp tu quá ít.
Trong đời nay, chúng ta có đủ nhân duyên vì đời trước chúng ta có gieo duyên với Chánh Pháp cho nên chúng ta gặp. Nhưng đời trước chúng ta chưa tu, cho nên đời nay gặp Phật pháp thì chúng ta tu có một thời gian nào đó mà thôi.
Người lớn tuổi mà gặp Phật pháp muộn, người tuổi trẻ mà gặp Phật pháp nhanh, nhưng rồi lại tu cũng chẳng được, thì do đó là cái nhân quả của đời trước đã chưa tu tập nhiều, đã huân Phật pháp chưa nhiều và gieo duyên được cái thời gian nào đó. Thì cái người tuổi trẻ cũng như người tuổi già, họ gieo duyên với chánh pháp trong cái thời gian nào đó rồi họ phải rời khỏi, nghĩa là họ phải bỏ cuộc.
Cho nên có nhiều vị tu sĩ họ tu hành một thời gian rồi họ ra đời, họ có vợ có con họ sống, thì đó là cái duyên của họ gieo Phật pháp có bấy nhiêu đó thôi, rồi họ đắm nhiễm trở lại.
(42:49) Còn có người thì tuổi già, họ tu tập cho đến khi chết mà họ không ra đời, thì họ gieo cái duyên họ ở kiếp sau để tiếp tục tu nữa. Còn người tuổi trẻ, còn trẻ gặp sớm được Phật pháp, được cái duyên tu tập, nhưng họ tu một thời gian rồi họ ra đời họ sống như người đời, thì cái người này đã tạo cái duyên đời trước tu tập, có cái duyên tu tập với Phật pháp cho nên sớm gặp Phật pháp.
Nhưng rồi họ không chịu khắc phục mình để tiến tới tu hành, họ buông trôi Phật pháp để rồi đời lôi cuốn họ, họ tạo những cái nhân, cái nhân đời. Vì thế họ sẽ mất đi cái duyên Phật pháp của kiếp sau, nghĩa là kiếp tới họ chẳng còn nữa, họ không gặp Phật pháp nữa.
Là vì cái kiếp đã qua rồi họ có vô duyên với Phật pháp, cho nên sớm tuổi trẻ của họ đã gặp được Phật pháp, họ tu một thời gian rồi tâm họ nhiều cái duyên họ thối động. Họ không có nhiễm thế gian nhiều cho nên tâm họ, họ thấy rằng cần phải hiểu biết chuyện thế gian, cần phải có sự vui chơi thế gian rồi mới biết khổ, biết này kia mới xả bỏ đi, thì tu mới được.
(44:06) Còn trái lại, thì họ nghĩ như vậy nhưng khi mà họ tu hành, họ đã ra đời thì cuộc đời không để cho họ trở lại với đường đạo một cách dễ dàng, chớ con đường đạo để cho họ trở lại đời rất dễ dàng.
Khi họ không muốn tu, họ ra đời rất dễ, nhưng đời không bao giờ cho họ vào đạo dễ dàng. Ai là những người đã có cuộc đời sống, những người lớn tuổi nhiều tuổi đã có cuộc đời mà muốn đi tu không phải đơn giản như một người tuổi trẻ.
Người tuổi trẻ khi đi tu thì được đồng ý của cha mẹ quá dễ dàng, còn người tuổi già mà dứt áo, dứt của cải tài sản, dứt vợ con mà đi tu, chuyện không đơn giản. Nhưng mọi người đều có nhân duyên, có người thì dứt áo đi tu, bỏ được, nhưng có người muốn tu mà dứt không được.
Thì người tuổi trẻ mà có duyên Phật pháp, sớm tu mà tiến tới được giải thoát thì đó là tốt, mà không tiến tới giải thoát mà trở ra đời thì người tuổi trẻ này sẽ mất duyên Phật pháp.
Vì cái duyên tu của mình từ đó tạo được những bao nhiêu phước đó, thì lúc bấy giờ ra đời họ sẽ hưởng cái phước đó. Và khi hưởng được cái phước đó thì cái phước tu của họ sẽ hết rồi, họ không còn bước trở lại cái con đường tu tập nữa, và cái kiếp tới họ cũng không còn cái duyên tu tập nữa.
Bởi vì khi bước ra đời thì cái nhân quả của cuộc đời cám dỗ họ, làm cho họ đắm đuối, họ phải trả những cái nhân quả thiện và ác ở trong cái cuộc sống đời, từng đó họ trôi lăn ở trong sáu nẻo luân hồi.
Còn người tuổi già mà nỗ lực tu, đời này chưa xong, kiếp này chưa xong, kiếp khác chưa xong, thì kiếp khác nữa và tiếp tục mãi mãi, thì có thể đến ngày giải thoát, do sự bền chí từ kiếp này đến kiếp khác đó, thì từ vô lượng kiếp chớ không phải trong một kiếp.
Chẳng hạn như Thầy, Thầy tu hành không phải trong một đời nay mà cả nhiều đời, nhiều đời chớ không phải trong một đời nay. Mà mỗi đời đều là từ tuổi trẻ đi lên mà tu tập chớ không bị nhiễm ô thế tục.
(46:26) Cho nên trong cái thời đại này mà Thầy đã tự mình đã vượt ra tu tập để làm chủ được sự sống chết, tu đúng giáo pháp của Phật Giới Định Tuệ, không phải là một việc làm của một người mới tu trong một đời nay được, mà phải nhiều đời huân tập, do huân tập liên tục không kẽ hở. Nghĩa là không có hưởng cái dục lạc của thế gian, đời nào cũng như đời nấy.
Cho nên khi sanh Thầy ra thì những người thân của Thầy đều là những nhà nho và những người biết coi tướng số, cho nên họ nhìn Thầy họ nói Thầy đã ba đời làm Hòa thượng.
Đúng vậy, trong đời nay, tâm nhiễm ô của Thầy không có, cho nên đối với sự cám dỗ của pháp thế gian không làm Thầy bị ô nhiễm. Từ đó Thầy hướng đến cái con đường tự trong thân tâm của mình, lấy giới luật mà làm đạo. Đi vào nơi nào, chùa nào mà thấy thiếu giới luật là tâm Thầy lại thấy ray rứt khó chịu, từ đó phải rời bỏ những nơi đó mà đi…
(Xem tiếp ở Pháp hành 08)
HẾT BĂNG
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Thời gian: 1998
(0:00) Về nhập thất, cất một cái thất nhỏ rồi mình nhập thất tu tập. Chính mình mình phải giữ lấy giới luật làm thầy hướng dẫn con đường tu tập cho chính mình, không còn biết nhờ ai nữa hết.
Đó là cái đời của Thầy, và cái đời của Thầy trong hiện kiếp và cái đời của Thầy trong nhiều kiếp đã qua cũng đều là huân tu không kẽ hở, nghĩa là không có bị nhiễm đời. Cho nên Thầy tự giải thoát được chính mình là nhờ nhiều đời huân tập.
Còn các con, do cái chỗ không nhiều đời huân tập, cho nên đời nay có duyên được gặp Phật pháp, vì cái duyên ngày xưa các con đã gieo cái duyên cúng dường Thầy, và tha thiết được tu như Thầy trong những hang núi, hoặc là nơi chòi tranh vách đá, từ đó tâm thấy Thầy tu hành ham thích, rồi theo Thầy tu hành.
Do cái duyên như vậy mà cái đời trước không thực hiện được, nó còn rớt được cái tâm ham muốn đó, cho nên đời nay, khi gặp Thầy thì cái tâm ham thích đó nó nổi lên, nó sống lại. Nó tu trong cái thời gian nào đó, rồi nó hết cái duyên, cho nên nó được cái sự nhắc nhở, khuyến khích để tạo cái nhân mới, cái duyên mới, thì nó tiếp tục nó phát triển được con đường này.
Trái lại nó từ cái tâm, nó chạy theo dục lạc, tức là nó phóng dật ra ngoài, nó chạy theo dục lạc thế gian, thì do đó, dù cái lời vàng ngọc quý báu của Thầy khuyến khích, họ cũng chẳng còn nghe. Bởi vì cái tâm phóng dật của họ quá mạnh, cường độ quá mạnh, khiến cho họ không dừng bước lại, ham thích chuyện thế gian, ham thích dục lạc thế gian, thấy đó là thiên đàng, thấy đó là vui, thấy đó là thích thú.
Nhưng không ngờ đó là bóng đèn sáng của con thiêu thân, mà người đó toàn là vô minh, không thấy thật sự. Cho nên đắm đuối chạy theo thì sẽ làm mất duyên tu hành nhiều kiếp và nhiều kiếp, không còn gặp lại được nhau nữa.
Cho nên Thầy thường nói với thầy Mật Hạnh như thế này: ngày mà con trở lại thì ngày đó Thầy không còn trong thế gian. Thầy nói tuy vắn nhưng mà phải hiểu xa, là nghĩa là không còn Phật pháp vĩnh viễn.
(02:31) Bởi vì ngay bây giờ có gieo được duyên Phật pháp thì gieo cho sâu dày, mà gieo không được thì nó sẽ mất. Vì cái phước duyên ngày xưa cúng dường cho một bậc tu, tức là Thầy ngày xưa, thì bây giờ còn cái duyên làm đệ tử của Thầy, và Thầy cố hết sức mình để hướng dẫn, đào tạo, để đem gieo cái duyên mới, tạo cái nhân mới được giải thoát hoàn toàn trong kiếp này.
Nhưng không đủ, cái sức đạo không đủ, cái duyên của Phật pháp còn thiếu, cho nên không đủ khắc phục thầy Mật Hạnh tiến vào con đường giải thoát. Thầy thấy hoa đời đẹp hơn hoa đạo, cho nên thầy muốn đi ra, và muốn đi ra đó là thầy đã tự thiêu thân thầy, nhưng rồi thầy sẽ thấy. Còn bây giờ thì nói gì thì nói nhưng không thể nào ngăn chặn được. Thầy đã hiểu được tâm trạng đó.
Ở đây toàn chúng tức là toàn huynh đệ, và cũng lấy cái gương hạnh đó để mà chúng ta soi chung, để mà chúng ta nhìn chung. Con đường tu không phải là con đường dễ. Giải thoát theo đạo Phật không phải là sự giải thoát tầm thường. Chúng ta muốn trở thành một bậc Thánh không phải là một chuyện thường.
(03:54) Chúng ta muốn trở thành một bậc siêu việt mà Thầy nhắc đi nhắc lại, để cho quý thầy thấy không phải là chuyện tầm thường của một kẻ tầm thường mà làm được.
Đời không thể nào mà làm được như những người tu, thế mà người ta không thấy đó là cái cao quý, lợi ích rất lớn cho con người rất lớn, cho con người rất nhiều. Người ta chỉ thấy cái nhỏ, cái nhỏ của cái thế gian, người ta không thấy cái lớn, cho nên người ta sẽ mất đi Phật pháp.
(4:26) Hôm nay nhân cái dịp thầy Chân Thành hỏi “người trẻ tuổi và người nhiều tuổi”, Thầy mới nói hết để cho mà nghe, do câu hỏi. Nếu không hỏi thì chắc Thầy cũng không nói gì ai cả, và cũng nói là cũng là có ý nhắc nhở thầy Mật Hạnh.
Thầy tu tốt lắm. Thầy rất là mừng khi thấy thầy tâm quay vào, Thầy chỉ nghĩ rằng trong thời gian rất ngắn, thầy sẽ đạt được Tứ Thiền, làm chủ được sự sống chết cụ thể, rõ ràng. Nhưng thầy không chiến thắng nổi thọ của thầy, vì thế mà tâm thầy chơi vơi.
Thầy thường nhắc phải liều chết, coi mạng sống này như là chỉ mành treo chuông, như lông hồng thì chúng ta mới chiến thắng nổi. Những phút cuối cùng để đạt được đạo là những phút thử thách cam go, và thử thách rất lớn.
Thầy chỉ có một phút, một giây nữa, một đường tơ nữa, là thầy đã làm chủ được kiếp sống của con người, là một người siêu việt, tuổi trẻ tài cao không ai hơn được.
Nhưng phước thầy chưa đủ, cho nên những lời mà Thầy sách tấn, thầy không chịu, thầy còn nhát gan, thầy còn không đủ nghị lực chiến thắng lại thọ của mình, để rồi tới giờ này, phút này, thầy cũng phải uống thuốc, cũng phải trị bệnh. Nhưng bệnh thầy có hết hẳn đâu, nó là duyên nghiệp của nhân quả, nhưng lời Thầy nói thầy có tin đâu.
Thầy cứ ngỡ rằng mình uống thuốc rồi nó sẽ hết bệnh. Nếu mà uống thuốc hết bệnh thì làm gì có người có già, có chết? Không bệnh này thì cũng bệnh khác, các thầy có nhớ chăng?
Đó là những cái điều mà rất là đau lòng, khi một người đã thấy đường nói với người không thấy đường, thì người không thấy đường không bao giờ tin mình.
(06:24) Bây giờ Thầy tiếp tục trên cái bài học Thân Hành Niệm, để cho thấy được cái pháp ngăn chặn ác pháp.
Bởi vì trong Tứ Chánh Cần, các pháp ác chưa sanh thì không cho sanh, ngăn chặn không cho sanh, thì ngăn chặn bằng pháp nào? Đó là Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, là cái pháp ngăn chặn các pháp ác. Đó là Định Niệm Hơi Thở, ngăn chặn không cho các ác pháp sanh.
Cho nên Tứ Chánh Cần, nếu mà không có pháp Chánh Niệm Tỉnh Giác, không có Định Niệm Hơi Thở, thì không thể nào mà ngăn chặn các pháp ác sanh, mà không cho sanh được.
Các thầy thấy Đức Phật dạy pháp nào, nó câu hữu, nó kết hợp, nó rất là dè dặt, nó rất là khít khao cho cái đường tu của chúng ta, làm chủ được, sự làm chủ rõ ràng. Nếu một cái người có kinh nghiệm tu hành người ta thấy thiệt tuyệt vời!
Cho nên ở đây khi dạy giới hành thì các thầy thấy rất rõ một cái điều mà Thầy đã giảng dạy cho các thầy. Khi mà, trong cái bài pháp Tứ Chánh Cần, Phật nói các pháp ác chưa sanh không cho sanh, đã sanh thì mau mau đoạn diệt. Như vậy thì lấy cái pháp nào mà không cho nó sanh đây?
Thì hầu hết các nhà học giả không biết. Thầy nói họ không triển khai được điều này, cho nên họ không biết pháp nào mà ngăn chặn được, chỉ ráng mà ngăn chặn. Ráng là ráng làm sao, nếu không có pháp thì ráng chỗ nào? Cho nên nói về Tứ Chánh Cần họ khai triển không nỗi. Cho nên ở đây chúng ta đã hiểu biết được cái pháp để mà chúng ta tu tập Tứ Chánh Cần.
Các pháp ác chưa sanh không cho sanh, thì chúng ta hãy hằng ngày, hằng giờ, hằng phút thì chúng ta tu tập Chánh Niệm Tỉnh Giác, tu tập Định Niệm Hơi Thở thì các pháp ác không sanh nó sẽ không sanh.
Và các pháp ác đã sanh thì mau đoạn diệt. Vậy thì cái pháp nào mà nó sanh ra mà đoạn diệt nó? Hay hoặc là ra rồi chúng ta đoạn diệt liền, chúng ta biết cách nào đoạn diệt đây? Phải có pháp môn chớ, phải có cách thức tu tập nó chớ? Chúng ta mới đoạn diệt nó được chớ? Đó là cái pháp Định Vô Lậu.
Vậy thì trong cái bài Thân Hành Niệm, thân là cái thân của chúng ta, hành là cái hành động, thì do hành động của thân của chúng ta mà đặt cái pháp lên mà tu. Chữ Niệm đây là Pháp chớ không phải niệm cái thân của chúng ta.
Các thầy hiểu cái chỗ mà hiểu, chớ còn nếu mà hiểu sai, từ những cái danh từ người ta dịch ra chưa chắc đã là những danh từ “Niệm” này đã là đúng. Nhưng qua kinh nghiệm thì chữ Niệm này, chúng ta phải hiểu nó là cái Pháp, cho nên từ trong cái thân mà chúng ta phải đặt cái pháp lên để mà tu tập. Mà cái Thân Hành là cái hành động của cái thân mà tu tập nó.
(09:45) Vậy thì trong cái bài pháp Thân Hành Niệm, thì cái bài pháp này là ở trong cái Kinh Trung Bộ - Tập 3, bài kinh số 119, tên kinh là Thân Hành Niệm. Đó cái tên kinh nó là Thân Hành Niệm. Bài kinh nó như thế này, Thầy xin đọc lại cái nguyên văn của nó:
“Như vầy tôi nghe, một thời Thế Tôn trụ ở nước Xá Vệ, tại rừng Kỳ Đà, tịnh xá của ông Cấp Cô Độc, rồi một số đông đảo Tỳ Kheo, sau khi buổi ăn, sau khi đi khất thực trở về đang ngồi tụ họp tại hội trường, câu chuyện này được khởi lên giữa Tăng chúng.”
Nghĩa là sau khi đi khất thực, ăn cơm xong rồi thì các vị Tỳ Kheo này mới hội họp ở cái hội trường rộng lớn như là cái tổ đường của mình ở đây vậy đó. Họ họp nhau, rồi họ ngồi, họ mới nói chuyện với nhau về cái pháp tu:
“Thì có một vị Tỳ Kheo mới khởi sự nói lên điều này: “Thật vi diệu thay này chư Hiền Giả! Hy hữu thay chư Hiền Giả! Thân Hành Niệm khi được tu tập và làm cho sung mãn, có được quả lớn, có được công đức lớn, như đã được Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác tuyên bố…” và câu chuyện này giữa các Tỳ Kheo ấy đã bị đoạn diệt. “
Nghĩa là cái câu chuyện mà đương tuyên bố nói ra như vậy đó, thì đến đây thì cái câu chuyện đó bị gián đoạn đi, bởi vì không có còn nói nữa.
(11:40) Thì lúc bấy giờ Đức Phật, trong cái buổi chiều thì họ đang bàn bạc về cái vấn đề cái pháp Thân Hành Niệm, thì trong khi Đức Phật từ cái thiền tịnh độc cư, Ngài mới đứng dậy đi đến hội trường, đi đến cái chỗ mà các chúng Tỳ Kheo đang ngồi mà nói chuyện, bàn chuyện nhau, thì Đức Phật đi đến đó, thì các vị Tỳ Kheo ngưng không có nói nữa, tức là gián đoạn cái câu chuyện nó không có tiếp nữa.
Cho nên khi mà Đức Phật đến hội trường, thì Đức Phật mới hỏi. Đây, cái đoạn chỗ đức Thế Tôn, Thầy xin đọc tiếp:
“Thế Tôn vào buổi chiều từ thiền tịnh độc cư, đứng dậy đi đến hội trường. Sau khi đến ngồi lên chỗ soạn sẵn, sau khi ngồi, Thế Tôn bảo các Tỳ Kheo: “Ở đây, này các Tỳ Kheo, các ông hiện nay đang ngồi bàn vấn đề gì, câu chuyện gì mà các ông bị gián đoạn?””
Nghĩa là các ông thấy tôi mà các ông ngưng lại đi, không có nói nữa, đó là cái câu chuyện gì? Tthì Đức Phật hỏi các vị Tỳ Kheo như vậy, thì có một vị Tỳ Kheo đứng lên bạch như thế này:
“Ở đây, bạch Thế Tôn, sau khi ăn xong, sau khi đi khất thực trở về, chúng con mới ngồi tụ họp tại hội trường, và câu chuyện sau này được khởi lên, được một vị Tỳ Kheo khởi lên nói: “Thật vi diệu thay chư Hiền Giả, thật hy hữu thay chư Hiền Giả, Thân Hành Niệm này được tu tập làm cho sung mãn, có quả lớn, có công đức lớn, đã được Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác tuyên bố.” Bạch Thế Tôn! Câu chuyện này của chúng con chưa bàn xong thì Thế Tôn đã đến.”
(13:30) Thì Đức Phật nghe vị cái Tỳ Kheo đó nhắc trở lại cái chuyện mà các vị đang bàn về vấn đề cái pháp Thân Hành Niệm, thì Đức Phật nói:
Này các Tỳ Kheo, Thân Hành Niệm tu tập như thế nào, làm cho sung mãn như thế nào, có quả lớn, có công đức lớn? Ở đây này các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo đi đến một khu rừng, hay đi đến một gốc cây, hay đi đến một ngôi nhà trống và ngồi kiết già, lưng thẳng và an trú chánh niệm trước mặt.
Chánh niệm là cái niệm giữ lấy cái niệm chơn chánh, đó là cái niệm gì? Cái niệm hơi thở. Thì thay vì, thì ở đây cái bài Thân Hành Niệm, đầu tiên thì chúng ta phải dạy cái Thân Hành Niệm Ngoại. Mà ở đây cái bài này, ngay từ vô thì Đức Phật lại dạy cái Thân Hành Niệm Nội, tức là hơi thở, cho nên nó không có thứ lớp đó, cái chúng ta thấy nó rõ ràng.
Theo cái Tứ Niệm Xứ thì Đức Phật có dạy rất rõ: “trên thân quán thân mà tu về nhân tướng để khắc phục tham ưu.” Thì tu về nhân tướng của nó, nó không có hành, mà tu về cái nhân tướng, chớ không phải hành tướng.
(14:51) Mà trên thân quán thân, tu về hành tướng ngoại, thì đó là tu ở trong hành động như đi kinh hành hoặc làm công việc của thân của mình, gọi là hành tướng ngoại. Trên thân quán thân mà tu về hành tướng nội, đó là hơi thở ra, hơi thở vô thì nó mới đúng, nó đúng cách. Đó là trên Tứ Niệm Xứ đã dạy như vậy.
Còn ở đây vào cái bài Thân Hành Niệm, thì chúng ta phải dạy ngay cái hành động ngoại trước, và hành động nội sau. Bởi vì hành động nội nó nhắc cho chúng ta để đi vào thiền định, để làm chủ được sự sống chết, vì vậy mà nương vào cái hành động nội này thì chúng ta sẽ khắc phục.
Như Thầy đã dạy Tứ Chánh Cần, thì chúng ta nương về hành động ngoại để mà ngăn chặn không cho các ác pháp sanh, và nương về hơi thở để ngăn chặn không cho các ác pháp sanh. Thì cái hành động nội và hành động ngoại chúng ta phải tu cái nào trước?
Bởi vì hành động nội nó rất khó, là vì chúng ta ngồi kiết già thì chúng ta không thể kéo dài cái thời gian dài một, hai tiếng đồng hồ không thể dài được. Thứ nhất, ngồi kiết già hai chân đau tê thì không thể ngồi rồi, mà bị thọ đánh thì không bao giờ mà còn nhiếp tâm ở trong tỉnh thức, ở trong hơi thở được. Chúng ta phải thấy cái kinh nghiệm dạy chúng ta biết điều đó mà.
Cho nên ở đây, mà nếu mà ngồi như vậy, hít thở như vậy, thì cái thời gian chúng ta chỉ có ngắn ba mươi phút mà thôi. Cái sức chúng ta mà người chưa ngồi thiền lâu, chưa ngồi kiết già lâu, ba mươi phút là chịu không muốn nổi rồi đó.
Đó là, bây giờ chúng ta, mà lại ngồi mà hít thở như vậy, thì chúng ta dễ bị hôn trầm, thùy miên, vô ký. Nghĩa là cái tâm mà chúng ta giữ cho nó hoàn toàn tỉnh giác, không có tạp niệm xen vào, để tỉnh thức, để ngăn chặn các ác pháp đó, thì lúc bấy giờ chúng ta sẽ rơi vào hôn ký (hôn trầm, vô ký), thùy miên, không có thể nào trật được.
Cho nên chỉ có khi mà chúng ta đi kinh hành, lao động, thì chúng ta không bị rơi vào hôn trầm, vô ký, thùy miên, chúng ta không bị rơi.
Cho nên ở đây chúng ta thấy rằng, cái bài pháp mà do Đức Phật dạy như vậy là thiếu, thiếu trước, thiếu sau. Như vậy là người sau này đã kết tập, làm sai, không hiểu, không có kinh nghiệm, chớ ông Phật dạy không phải thiếu kinh nghiệm như thế này.
Nghĩa là ông Phật phải dạy cái nào trước, cái nào sau, còn cái này dạy như vậy là sai. Mặc dù là cái bài pháp nói đúng chớ không sai, nhưng mà điều kiện là thứ tự sắp xếp như vậy là sai. Cái người mà sắp xếp này là cái người không đúng.
Đó, Thầy mạnh dạn dám phê phán được cái sai, cái đúng, và Thầy nói rằng quý thầy đừng tin nơi cái miệng Thầy của nói, mà hãy suy ngẫm coi có đúng không? Qua sự kinh nghiệm của quý thầy, quý thầy suy ngẫm có đúng không?
Nếu quý thầy chưa có tỉnh thức bằng hành động bên ngoài, mà quý thầy vội tỉnh thức bằng hơi thở thì quý thầy sẽ bị hôn trầm, thùy miên, vô ký, bởi vì hết vọng tưởng là quý thầy sẽ bị. Thầy nói quý thầy cứ rút tỉa kinh nghiệm coi có không? Còn quý thầy cứ đi kinh hành, cứ lao tác đi, quý thầy không rơi vào vô ký, hôn trầm, thì sức tỉnh thức các thầy càng ngày càng tăng lên.
Ông Phật dạy có kinh nghiệm hẳn hòi, đàng hoàng, nhưng người sau sắp xếp lại cái bài kinh này, là cái người sau làm sai. Đó là cái người không có kinh nghiệm, chớ không lý mà ông Ca Diếp không biết điều này để mà kết tập kinh điển bằng cách là lấy trái làm phải, lấy phải làm trái như thế này sao?
Cho nên chúng ta, nếu mà các thầy, các con, mà chúng ta có đủ cái Túc Mạng Minh, chúng ta trở về với cái thời quá khứ, chúng ta nghe cái bài pháp Thân Hành Niệm này Đức Phật đã dạy, thì chúng ta biết rằng đúng hay sai, và cái người mà viết lại cái bài kinh này sai hay đúng, chúng ta biết rõ.
Bây giờ một mình Thầy khó mà xác định, nhưng mà Thầy dám xác định ở đây trước quý thầy. Nhưng không phải là chỗ quý thầy đem cái bài kinh này ra mà nói người ta làm sai này kia. Quý thầy lấy chỗ nào chứng minh?
Cho nên quý thầy hãy tu như Thầy đi, rồi quý thầy trở về nghe Đức Phật Thích Ca nói lại cái bài kinh này, Thân Hành Niệm. Trong khi Đức Phật dạy cho một số Tỳ Kheo này thì quý thầy sẽ nghe rõ từng cái bài trước, bài sau rất rõ ràng, chớ không phải như thế này.
(18:43) Đây bây giờ Thầy nói về cái bài đầu tiên Thân Hành Niệm mà Đức Phật dạy là Chánh Niệm Hơi Thở. Thầy xin đọc tiếp:
“Chánh niệm vị ấy thở vô, chánh niệm vị ấy thở ra”. Chánh niệm tức là biết cái hơi thở, biết cái hơi thở vô và biết cái hơi thở ra.
“Hay thở vô dài, vị ấy biết tôi thở vô dài, hay thở ra dài, vị ấy biết tôi thở ra dài, hay thở vô ngắn, vị ấy biết tôi thở vô ngắn, hay thở ra ngắn vị ấy biết tôi thở ra ngắn. Cảm giác toàn thân tôi sẽ thở vô, vị ấy tập. Cảm giác toàn thân tôi sẽ thở ra, vị ấy tập. An tịnh thân hành tôi sẽ thở vô, vị ấy tập. An tịnh thân hành tôi sẽ thở ra, vị ấy tập.
Trong khi vị ấy sống không phóng dật, nhiệt tâm tinh cần, các niệm và tư duy thuộc về thế tục được đoạn trừ. Nhờ đoạn trừ các pháp ấy nội tâm được an trú, an tọa, chuyên nhất, định tỉnh. Như vậy, này các Thầy Tỳ Kheo, Tỳ Kheo tu tập Thân Hành Niệm.
(19:58) Cái bài pháp nó như vậy. Bây giờ Thầy sẽ giải thích cho các thầy thấy:
“Chánh niệm vị ấy thở vô, chánh niệm vị ấy thở ra”, nghĩa là chánh niệm, tức là Đức Phật muốn nhắc là mình phải biết, chớ chưa có nhắc gì hết. Bây giờ mình hít vô, mình biết mình hít vô, mình thở ra, mình biết mình thở ra, gọi là chánh niệm.
Còn bây giờ kế thì Đức Phật dạy: “Thở vô dài, vị ấy biết tôi thở vô dài. Hay thở ra dài, vị ấy biết tôi thở ra dài”. Thì cái_“Tôi thở ra dài”_ hay là “Tôi thở vô ngắn” hay là “Tôi thở vô dài” thì cái thở ra thở vô, bắt đầu cái chữ chánh niệm là mình chỉ cần biết mà mình không có hướng tâm, mình không có nhắc. Mà đến cái chỗ mà “tôi thở vô dài, tôi biết tôi thở vô dài”, hay là “tôi thở ra dài, tôi biết tôi thở ra dài”, thì cái đó là pháp hướng kèm theo.
Cho nên nó thường đóng và nhấn mạnh cho chúng ta biết rằng cái chỗ đó, để mà chúng ta nhắc cái tâm của mình kèm theo cái pháp hướng.
Cho nên ở đây chúng ta mới thấy cái kế của Đức Phật dạy “cảm giác toàn thân tôi sẽ thở vô”, nghĩa là mình hít vô mình nhắc, bây giờ mình không có nhớ cái thân của mình là cảm giác như thế nào, nhưng mà nhắc cái thì mình thấy có cái cảm giác của cái thân của mình.
Cho nên “cảm giác toàn thân tôi sẽ thở vô, cảm giác toàn thân tôi sẽ thở ra”, phải không? Mình nhắc như vậy, làm cho cái tâm mình nó chú ý vào cái cảm giác của cái thân của mình trong lúc mình đang tu.
(21:53) Rồi “an tịnh thân hành tôi biết tôi thở vô, an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra”. Đó thì, cái bài pháp Đức Phật bảo mình nhắc mình như vậy để cho mình biết cái sự an tịnh.
Rồi “an tịnh thân hành”, thì ở đây chúng ta, do cái chỗ chúng ta tu tập cái thân, cho nên_“cảm giác toàn thân”, rồi“cảm giác an tịnh thân hành”_, thì rõ ràng là chúng ta đang tu tập ở trong cái thân hành.
Nhưng có cái bài pháp để sắp tới đây thì Thầy đọc tới, thì trong cái Thân Hành Niệm mà lại dạy nó lộn nữa. Ở đây thì “an tịnh thân hành” là đúng pháp, mà “an tịnh tâm hành” là sai. Mình đâu phải tu trên cái tâm hành, mà mình tu ở trên thân hành! Phải không. Mà mình nhắc “an tịnh tâm hành” là sai.
Hay hoặc “cảm giác toàn tâm tôi thở vô, cảm giác toàn tâm tôi thở ra”, thì cái đó là, ở đây không phải là cái Thân Hành Niệm mà cái Tâm Hành Niệm. Cho nên từng cái pháp, ở đây thì trong cái bài Thân Hành Niệm, nó có cả cái_“cảm giác tâm hành”_ thì Thầy sẽ đọc tới.
Cho nên ở đây, cái bài này nó rất đúng, là vì “cảm giác toàn thân tôi sẽ thở ra, cảm giác toàn thân tôi sẽ thở vô”, rồi “an tịnh thân hành tôi sẽ thở ra, an tịnh thân hành tôi sẽ thở vô.”
Ở đây mình đọc cái bài kinh mình phải thấy rõ, khi mà nói về thân hành thì cái cảm giác này, cảm giác của thân. Mà khi nói về tâm hành thì nó là cảm giác của tâm, hít vô, hít ra, nó do cái cảm giác của tâm.
Đó. Thì trong những cái, bây giờ đó, khi mà mình đã hướng tâm mình nhắc như vậy đó, thì vị ấy phải sống như thế nào? Sống tâm không phóng dật. Chứ không phải là mình phóng dật, mình phóng dật mà mình hướng tâm mình tu vậy không kết quả đâu.
(24:01) Cho nên Đức Phật dạy ở trong cái bài kinh này:
Trong khi vị ấy mà tu tập như vậy, thì cái tâm “không được phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, siêng năng.” Tức là nhiệt tâm, hãy đem hết cái sức nhiệt tâm của mình và tinh cần là siêng năng. “Các niệm và tư duy thuộc về thế tục đoạn trừ.” Lúc mà mình tu tập cái pháp hơi thở như vậy, thì mình đoạn trừ các cái pháp đó đi.
Thì sự thật ở đây, nó chưa phải là trên cái pháp Vô Lậu, mà nó cũng chưa phải là trên cái Tứ Niệm Xứ, mà nó chỉ mượn cái Thân Hành Niệm, mượn cái định Chánh Niệm Tỉnh Giác ở trên cái hơi thở này, mà để tu tập, làm cho các ác pháp ngăn chặn không cho sanh khởi.
Mà ác pháp không cho sanh khởi, thì các thầy thấy cái câu chỗ này nè, thì tâm của người đó có phóng dật không? Không có phóng dật, phải không?
Cái tâm của người đó phải siêng năng rồi, thì những cái chuyện thế tục, những cái chuyện ham muốn, cái chuyện danh chuyện lợi, thì có đoạn trừ không? Lúc bấy giờ mà mình cứ giữ cái niệm hơi thở như vậy thì nó sẽ đoạn trừ tất cả những cái tâm đó.
Và vì vậy đó, mà mình an tọa ở trong cái chỗ tu hành của mình, mình ngồi nó rất là an ổn, chuyên nhất và định tỉnh. Cái tâm mình nó định tỉnh ở trong cái hơi thở đó. Như vậy là một cái vị Tỳ Kheo tu về thân.
Mà ở đây chúng ta lấy cái bài Thân Hành Niệm này, nó không phải độc lập là cái pháp Thân Hành Niệm, mà cái pháp này nó giúp cho chúng ta để đoạn trừ các pháp ác trong Tứ Chánh Cần.
Bởi vì khi mà cái tâm mình hướng ra hướng vô vậy, thì nó có một cái ý, nó có một cái gì mà nó nảy sanh ở trong đầu chúng ta được không? Mà nó không có nảy sanh ra được thì cái tâm có phóng dật không? Không có phóng dật nè. Phải không. Mà nó không có phóng dật, thì các cái việc về thế tục mà nó ham muốn đó, nó có đoạn trừ không? Nó đâu còn ở trong tâm của mình được nữa!
Cho nên nó cụ thể rõ ràng. Và vì vậy mà ác pháp không có sanh khởi được, và thiện pháp thì tăng trưởng. Đó. Thì ngay về cái hơi thở thì chúng ta đã tu tập được như vậy rồi.
(26:27) Thì bây giờ đến kế tiếp, thì Đức Phật lại dạy cái Thân Hành Ngoại đây. Thân Hành Nội, thay vì phải Thân Hành Ngoại đi trước mà Thân Hành Nội phải đi sau mới đúng cách. Bởi vì mình phải tu tập tỉnh thức, rồi mình mới ngồi lại mình mới tu tập mới được.
Bây giờ Đức Phật lại dạy tới cái Thân Hành Nội, thì trong khi ở đây, cái bài đầu tiên thì các thầy lại thấy nè: các vị Tỳ Kheo đi đến một khu rừng, hay đi đến một gốc cây, hay ngồi một ngôi nhà trống, rồi mới tu được cái hơi thở đó.
Mà nếu bây giờ “lại nữa”, cũng đang ngồi thì làm sao đi? Thì ở đây “lại nữa” là cái bài kế Đức Phật lại dạy Thân Hành Niệm này:
“Lại nữa, này các Tỳ Kheo! Tỳ Kheo đi biết rằng tôi đi, hay đứng biết rằng tôi đứng, hay ngồi biết rằng tôi ngồi, hay nằm biết rằng tôi nằm. Thân thể được sử dụng như thế nào vị ấy biết thân thể như thế ấy. Trong khi vị ấy sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, các niệm và tư duy thuộc về thế tục đoạn trừ. Nhờ đoạn trừ các pháp ấy, nội tâm được an trú, an tọa, chuyên nhất, định tỉnh. Như vậy các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo tu tập Thân Hành Niệm”.
Như vậy là cái bài này ở cái đoạn sau này Thầy nói rằng, khi mà chúng ta thực hiện Tứ Chánh Cần thì cái chỗ mà “trong khi vị ấy sống không phóng dật”, chúng ta lúc bấy giờ có phóng dật không?
Bây giờ cái hành động Thầy đưa tay Thầy biết Thầy đưa tay nè, Thầy đi Thầy biết Thầy đi nè, Thầy ngồi Thầy biết Thầy ngồi nè, Thầy nói Thầy biết Thầy nói nè, Thầy nằm Thầy biết Thầy nằm nè, Thầy mặc y, Thầy mang bát Thầy biết nè. Mỗi hành động Thầy làm Thầy đều biết cái hành động đó. Cũng như bây giờ Thầy đang quét sân nè, Thầy biết Thầy đang quét sân. Mà Thầy sợ nó quên quét sân đi, Thầy nhắc “tôi quét sân tôi biết tôi quét sân”.
Thì như vậy luôn luôn lúc nào Thầy giữ gìn cái tâm của Thầy luôn luôn lúc nào cũng ở trong cái hành động của mình, thì như vậy là những việc dục lạc của thế tục nó còn cám dỗ Thầy được không? Tâm Thầy nó còn phóng ra theo các pháp được không? Nếu mà phóng ra thì nó là niệm ác mất rồi.
Cho nên áp dụng vào Tứ Chánh Cần thì chúng ta thấy rằng, trong cái Thân Hành Niệm nó làm chúng ta tỉnh táo, rất tỉnh táo và chúng ta đoạn dứt các pháp ác, chấm dứt các pháp ác không cho sanh khởi. Đó là cái pháp tu Thân Hành Niệm.
Và như vậy chúng ta, cái đầu tiên chúng ta thấy rằng, cái bài kinh này Đức Phật phải dạy cái đi, đứng, nằm, ngồi, hành động của chúng ta ở bên ngoài trước, thì tới cái hơi thở sau, là nó hay nhất. Bởi vì cái ngồi nó có thời gian ngắn, mà cái đi, mà làm tất cả những công việc nó có thời gian dài chúng ta để tập tỉnh thức.
“Lại nữa, này các Tỳ Kheo! Tỳ Kheo khi bước tới, bước lui, biết rõ mình đang làm. Khi ngó tới, ngó lui, biết rõ mình đang làm”. Nghĩa là biết mình đang ngó tới, ngó lui đó.
“Khi co tay, khi duỗi tay biết rõ mình đang làm. Khi mang áo Tăng già lê, mang bát, mang y biết rõ mình đang làm. Khi ăn, uống, nhai, nếm biết rõ mình đang làm.Khi đứng, ngồi, ngủ, thức, nói, im lặng biết rõ mình đang làm.
Trong khi vị ấy sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, các niệm và tư duy thuộc về thế tục được đoạn trừ. Nhờ đoạn trừ các pháp ấy, nội tâm được an trú, an tọa, chuyên nhất, định tỉnh. Như vậy này các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo tu tập Thân Hành Niệm”.
(29:47) Đó thi, rõ ràng là đây là cái phần mà chúng ta tu tập Thân Hành Niệm rất rõ mà. Nhưng mà đổi ngược lại, cái bài mà tu tập này nó sẽ nằm ở trước, cái thứ tự của nó phải trước, rồi sau đó chúng ta mới tu tập về hơi thở chỗ chúng ta tu về thân hành niệm. Thì cái đó nó hay, quá hay và tuyệt vời, đúng là biết cách sắp xếp cho từng giai đoạn tu trước, tu sau.
Còn bây giờ ngay vô tu hơi thở, thì người đó ngồi chút xíu là bắt đầu họ bị đau hay hoặc này kia, họ bất an rồi, họ bị thọ đánh rồi, rồi họ ngồi một hơi đó thì bắt đầu họ rơi vào vô ký, hôn trầm. Bởi vì đang ở trong cái chánh niệm thì họ không có vọng tưởng, thì họ cũng bị rơi vào vô ký, chừng đó họ biết ở đâu mà họ là chánh niệm được nữa? Đó họ mất đi. Cho nên đây là cái sai.
Mà khi mà tu tập cái Thân Hành Niệm Ngoại nó đã tỉnh thức rồi, bắt đầu họ ngồi nửa tiếng một tiếng là tỉnh thức, nó không bị rơi vào hôn trầm, thùy miên, vô ký.
Cái đó là những cái kinh nghiệm đã dạy mình, cho nên mình biết rằng khi mà bố cục một cái bài pháp thì phải cái pháp nào nói trước, cái pháp nào nói sau, bố cục như vậy là bố cục sai.
(30:54) “Lại nữa, này các thầy Tỳ Kheo, các thầy quán sát thân này, từ bàn chân trở lên trên cho đến đỉnh tóc, bao bọc bởi da chứa đầy những vật bất tịnh sai biệt. Trong thân này, đây là tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, thận, tủy, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, phân, mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, nước mủ, nước ở khớp xương, nước tiểu.
Này các Tỳ Kheo, cũng như một bao đồ, hai đầu trống đựng các loại hạt như gạo, lúa, đậu xanh, đậu mè, gạo đã xay rồi. Một người có mắt đổ các hột ấy ra mà quan sát: Đây là hạt gạo, đây là hạt lúa, đây là đậu xanh, đây là đậu lớn, đây là mè, đây là hạt lúa đã xay rồi.
(32:01) Cũng vậy, này các Tỳ Kheo, một Tỳ Kheo quán sát thân này từ dưới bàn chân trở lên trên cho đến đảnh tóc, bao bọc bởi da chứa đầy những vật bất tịnh sai biệt. Trong thân này: Đây là tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, phân, mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, nước mủ, nước ở khớp xương, nước tiểu.
Khi vị ấy sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, các niệm và tư duy thuộc về thế tục được đoạn trừ. Nhờ đoạn trừ các pháp ấy, nội tâm được an trú, an tọa, chuyên nhất, định tỉnh. Như vậy, này các thầy Tỳ Kheo, Tỳ Kheo tu tập như vậy gọi là tu tập Thân Hành Niệm.”
Cái bài pháp này có phải Thân Hành Niệm không các thầy? Khi nghe như vậy có phải là Thân Hành Niệm không?
Bây giờ chúng ta ngồi đây, cái ý của chúng ta nè, quan sát cái thân này nè, như là một cái bao nó chứa nào là răng, móng, lông rồi thịt, gân, xương, thận, tủy, tim, gan, phèo, phổi, thì đây là cái bao nó chứa đầy đủ ở trong đó đủ thứ hết. Thì mình ngồi mình quan sát cái thân của mình, như vậy có phải là Thân Hành Niệm không?
Đối với bài kinh như thế này mà gọi nó là Thân Hành Niệm, thì các thầy có chấp nhận không? Như vậy có phải là cái người mà kết tập kinh điển này là kết tập sai không?
Thân Hành Niệm là cái thân phải có sự động của nó mới Thân Hành Niệm chớ? Còn này nó có động đâu. Cái ý của chúng ta đang quan sát cái thân, tức là quan sát cái thân của chúng ta. Nó như là một cái bao để chứa tất cả những cái đồ bất tịnh này, phải không? Như vậy là Định Vô Lậu quán bất tịnh chớ không phải là Thân Hành Niệm! Nó đâu phải là Chánh Niệm Tỉnh Giác.
Bởi vậy khi đọc cái bài kinh chúng ta mới biết được cái bài kinh sai, bài kinh đúng. Mà đây là kinh Nguyên Thủy hẳn hòi, đàng hoàng, kinh Pali chớ đâu phải là kinh Đại Thừa đâu.
Còn nếu mà Đại Thừa mà Thầy đọc, bởi vì Thầy viết cái bộ Đường Về Xứ Phật mà trước đâyThầy bác biết bao nhiêu bài kinh của Đại Thừa không? Thầy đập xuống biết bao nhiêu! Nhưng bây giờ Thầy không có cho ra cái thứ đó đâu, nó động chạm biết bao nhiêu.
Còn đây là cái bài kinh Nguyên Thủy mà họ dám kết hợp vô như thế này để mà gọi là Thân Hành Niệm trong một cái bài như thế này. Thì thấy kiểu này là có phải cái bài Thân Hành Niệm không?
(34:29) Đây là Thầy muốn nói để cho chúng ta biết được cái sai cái đúng của kinh sách hiện giờ, là sai quá, người ta không có biết được cái đúng cái sai.
Mà đặt một cái tên Thân Hành Niệm là nó phải thực hiện. Hồi nãy Thầy có giải thích, từ cái tên của nó phải thực hiện cái hành động của nó ở trong cái pháp môn. Mà đây đặt cái tên của cái kinh này là Thân Hành Niệm, mà cái chỗ này có phải là Thân Hành Niệm không? Ngồi quán sát cái thân, cái thân nó cứng đờ đó chớ nó có rung động cái chỗ nào gọi là nó hành? Như vậy nó có đúng với cái tên không? Như vậy là sai.
Nó chỉ có một cái bài thứ nhất là hơi thở, một cái bài thứ hai là cái hành động của thân của chúng ta bên ngoài, đó là đúng, nhưng mà sự sắp xếp thì nó không đúng, cái trước cái sau.
Các thầy cứ lấy cái trí tuệ, cái suy nghĩ của mình, mà nghe những cái lời Thầy nói có đúng hay là sai. Chớ đừng có tin cái miệng của Thầy. Thầy nói theo cái ý của Thầy, cái sự hiểu biết của Thầy, còn quý thầy suy nghĩ cái lời của Thầy nói có đúng hay là sai. Bởi vì hầu hết quý thầy đều có một cái trí tuệ, ở trong cái trí tuệ.
Cho nên Phật ngày xưa cũng nói, ta nói đừng có tin ta, mà những gì ta nói mà làm có ích lợi, có sự giải thoát thì hãy tin, mà không có ích lợi, không có sự giải thoát, người ta chê, thì đừng có làm, nó không đúng đâu. Thì những lời mà Thầy nói ở đây thì các thầy còn suy nghĩ những cái lời Thầy nói đúng, sai.
Đó thì, toàn bộ cái bài kinh này nó rất nhiều chớ không phải. Họ nói kết hợp lại nó đủ các thứ ở trong này, nó tất cả những cái, thậm chí như Bốn Thiền nó cũng ghép vô đây nè, bốn cái định nó cũng ghép vô đây nè, mà nó nói gọi là Thân Hành Niệm của nó. Thì tất cả những cái này đều là cái sai của nó.
Thân Hành Niệm chỉ có một cái khoảng thời gian hành động nội và hành động ngoại, và nội, ngoại một lượt mà thôi. Cho nên trên Tứ Niệm Xứ, Thầy giảng về Tứ Niệm Xứ các con sẽ thấy rõ.
Ở trên Tứ Niệm Xứ, bắt đầu thì chúng ta tu về nhân tướng nó trước, rồi sau đó chúng ta mới tu về cái hành tướng của nó, thì hành tướng ngoại và hành tướng nội. Sau khi hành tướng ngoại và hành tướng nội xong rồi, thì chúng ta tu cái hành tướng nội và hành tướng ngoại đồng thời một lượt. Nó hai cái, vừa tu ở ngoại mà vừa tu ở trong nội nữa.
(36:38) Cũng như bây giờ quý thầy tu cái Chánh Niệm Tỉnh Giác, vừa đi mà vừa nương hơi thở, nó cả hai cái chớ không phải một cái, thành ra nội và ngoại.
Thì hơi thở của chúng ta như thế nào? Là nội phải không? Mà ngoại là hành động của chúng ta đi kinh hành, là ngoại. Lấy cái nội này, cái hành động nội này mà thực hiện với cái hành động ngoại kia, thì hai cái này nội ngoại đồng thời tu một lượt. Thì do đó không phải là sức tỉnh của chúng ta cao lên sao?
Cho nên ở trong Tứ Niệm Xứ xác định rõ mà, nội ngoại đồng tu mà. Còn bắt đầu tu cái ngoại, rồi tu cái nội, rồi mới nội ngoại đồng tu.
Thì ở đây nó có những cái sai, mà Thầy phải dạy để cho các con thấy rằng trong khi chúng ta phải lấy được những cái đúng, như thế nào đúng, để mà chúng ta tu tập. Chớ không phải đọc như thế này, cái bài kinh như thế này, rồi bắt đầu chúng ta ngồi đây mà quán bất tịnh.
Mà quán bất tịnh tức là tu Định Vô Lậu, tu Định Vô Lậu để đoạn diệt các pháp ác, đoạn dứt các pháp ác. Các pháp ác chưa sanh thì tu Chánh Niệm Tỉnh Giác và Định Niệm Hơi Thở để mà ngăn chặn không cho nó sanh. Các thầy hiểu chớ?
Bởi vì ngăn chặn tức là chúng ta tu ở trong tỉnh thức thì không có nó khởi ra được, phải không? Tỉnh thức ở trong hành động ngoại, tỉnh thức ở trong hành động nội, rồi tỉnh thức ở trong hành động nội và ngoại. Đó là như quý thầy kết hợp giữa cái hơi thở và cái bước đi kinh hành của mình hay việc làm của mình, đó là nội, ngoại.
Còn bây giờ mà quán bất tịnh tức là tu Định Vô Lậu, mà Vô Lậu là các pháp ác đã sanh, cho nên chúng ta phải đoạn diệt. Mà nó sanh ra cái pháp gì? Bây giờ nó chấp cái ngã nè, nó sân si, nó phiền não nè, thì chúng ta phải coi nó chấp cái thân này là ngã, hay là chấp cái tâm?
Mà nó chấp thân thì chúng ta mới quán bất tịnh, quán xem coi cái thân này, là cái bao da này nó sẽ chứa những cái gì, cái gì, hôi thúi bẩn thỉu như thế nào? Thì đó để mà chúng ta đoạn dứt cái chấp ngã của chúng ta.
Mà nó kiến chấp thì nó thuộc về tâm, thì chúng ta phải quan sát về cái tâm để mà chúng ta tu cái Định Vô Lậu, trên tâm quán tâm mà. Tu cái Định Vô Lậu để quét sạch cái kiến chấp của chúng ta, nó làm cho chúng ta đi vào đúng con đường của Đạo Phật.
Thì như vậy thì quý thầy thấy rằng, trong cái con đường tu tập của mình thì những cái bài kinh như vậy, thì chúng ta làm sao mà chúng ta tin nổi được mà chúng ta theo đó mà chúng ta tu?
Mà nếu mà cứ đọc cái bài kinh này Thân Hành Niệm rồi tôi tu đủ thứ cái này, tôi cứ đọc như vậy, mà cái danh từ mà đọc thì các thầy thấy, cái chỗ mà để mà khắc phục tham ưu, cái chỗ mà đoạn trừ các ác pháp, thì Đức Phật nói như thế này, chúng ta biết cái pháp nào mà chúng ta đoạn dứt nó nè:
(39:15) “Trong khi vị ấy sống không phóng dật”. Sông không phóng dật, bây giờ chúng ta sống không phóng dật chúng ta làm sao nè? Cái tâm mình nó cứ ngồi đây mà nó phóng nó nhớ cái này, nhớ cái kia, nó không phóng dật sao? Nó phóng dật đó chớ.
Vậy thì muốn không phóng dật thì phải làm sao? Thì rõ ràng là cái pháp hồi nãy mà chúng ta nương vào cái hơi thở, mà nương vào cái hành động đi thì cái tâm nó phóng được không, cái pháp đó nó làm cho tâm chúng ta có phóng được không?
Bây giờ chúng ta đang biết cái hơi thở nè, đang biết cái hành động đi, thì cái tâm nó còn cái chỗ nào mà nó phóng ra không? Thì nó có phóng dật đâu. Cho nên chúng ta nhiệt tâm, tinh cần ở trong những cái giữ gìn trong cái hành động, thì nó không còn cái kẽ hở, thì cái tâm nó không phóng dật.
Rồi bây giờ đó: “Các niệm và tư duy thuộc về thế tục”, tư duy tức là suy nghĩ các cái niệm, nó chưa có khởi ra. Vì cái pháp Chánh Niệm Tỉnh Giác nó làm cho các pháp đoạn dứt đi, nó không có khởi ra được, thì chúng ta có pháp nào đâu mà chúng ta lại tư duy nó, suy nghĩ nó như cái Định Vô Lậu, để mà chúng ta đoạn trừ? Đó, cho nên chúng ta có đoạn trừ gì đâu.
Do cái pháp Chánh Niệm đó mà chúng ta ngăn chặn các pháp ác, thì pháp ác không cho sanh, cho nên chúng ta đâu có cái pháp nào mà chúng ta cần nó phải đoạn trừ. Do đó thì tâm của chúng ta như thế nào?
Bây giờ nội tâm chúng ta sẽ an trú, an tọa, chuyên nhất, định tỉnh. Rõ ràng là quý thầy cứ giữ gìn, vừa hơi thở mà vừa cái hành động đi, hay hoặc là trong hành động đi, hay hoặc là chuyên nhất một hơi thở. Thì do đó quý thầy có thấy cái tâm của mình chuyên nhất và định tỉnh không? Và có thấy cái sự an tọa cho cái sự ngồi hay hoặc là sự đi của mình an ổn không? Chắc chắn là sẽ có sự an ổn.
Đó thì, như vậy là chúng ta có cần quán xét đoạn trừ không? Mà ở đây thì viết như vậy. Bây giờ đã tu cái pháp đó rồi, mà bây giờ còn phải đoạn trừ nó thì cái bài kinh đó, như vậy là chúng ta đã có cái pháp, đã ngăn chặn, đã làm cho nó không sanh thì cái gì mà còn sanh ở trong này mà phải đoạn trừ?
Cho nên ở đây chúng ta có pháp chúng ta tu thì chúng ta không có còn lo lắng nữa.
(41:27) “Lại nữa, này các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo như thấy một thi thể quăng bỏ trong nghĩa địa một ngày, hai ngày, ba ngày. Thi thể ấy trương phồng lên, xanh đen, nát thối ra, Tỳ Kheo quán thân ấy như thân này, tánh chất là như vậy, bản tánh là như vậy, không vượt khỏi bản chất ấy.”
Nghĩa là mình quan sát cái thây ma phồng lên, như vậy là, bây giờ thì quý thầy thấy trong cái bài kinh này, nó là một cái quán sát, mà quan sát một cái thân sình hôi, thúi như vậy, để chúng ta tu phá cái ngã của chúng ta, chấp cái thân là cái ngã của mình. Như vậy là mình tu cái Định Vô Lậu chớ không phải là tu cái định Chánh Niệm Tỉnh Giác.
(42:21) Cho nên ở đây mình biết rằng trong cái pháp Tứ Chánh Cần thì mình cần phải tu ba cái định, cái Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, một cái Định Niệm Hơi Thở, và một cái Định Vô Lậu. Có ba cái định, nhưng cái Định Chánh Niệm Tỉnh Giác và cái Định Niệm Hơi Thở là nó ngăn chặn các pháp ác, mà cái Định Vô Lậu thì nó đoạn dứt các pháp ác. Chúng ta phải hiểu được như vậy.
Thì ở đây thì chúng ta chỉ nói về Thân Hành Niệm, tức là chúng ta chỉ nói về cái phần hoạt động của cái thân, tu ở trong các hành động của cái thân, để ngăn chặn các pháp ác, chớ không phải tu ở trong cái Định Vô Lậu để mà quán xét, vì chưa tới cái phần này. Cho nên cái Định Vô Lậu thì phải nói trong cái phần khác, không phải nói ở trong cái Thân Hành Niệm, trong cái bài kinh này.
Cho nên ở đây tuy rằng chúng ta tu tập cái Định Chánh Niệm Tỉnh Giác và Định Niệm Hơi Thở thì như Thầy đã nhắc lại ở trong cái bài kinh này rồi, thì chúng ta đã thấy rằng từ cái hành động, đi, đứng, nằm, ngồi, co tay, mặc áo, ăn uống, tất cả mọi cái hành động đó đều là tỉnh thức trong cái hành động đó, gọi là Chánh Niệm Tỉnh Giác.
Rồi đồng thời cái hơi thở ra biết thở ra, mà hơi thở vào biết vào đó, thì chúng ta biết được cái hơi thở ra, vào như vậy đó, đó là Chánh Niệm Tỉnh Giác của cái hơi thở, mà cái danh từ của nó gọi là Định Niệm Hơi Thở, vì Định Niệm Hơi Thở Thầy đã nói nó là một cái trợ pháp để cho nó trợ các pháp khác. Sau này chúng ta nhập thiền định thì cũng đều nương vào cái hơi thở này mà chúng ta nhập các thiền định
(44:07) Nhưng đầu tiên mà chúng ta tu nó, thì đương nhiên được xem nó là Chánh Niệm Tỉnh Giác Định chớ không phải là Định Niệm Hơi Thở. Bởi vì giúp cho chúng ta tỉnh thức ở trong cái hành động nội, mà hành động nội tức là hơi thở ra, hơi thở vô. Cho nên ở đây gọi nó là Định Niệm Hơi Thở thì cũng được, hay gọi nó là Chánh Niệm Tỉnh Giác trong nội thân của chúng ta thì cũng được.
Vì vậy cái bài kinh Thân Hành Niệm này, nó chỉ có hai phần, một cái phần hơi thở và một cái phần hành động thân của chúng ta, thì nó xác định cho chúng ta biết hai cái định đó để ngăn chặn các pháp ác ở trong Tứ Chánh Cần, nó không cho sanh ra.
Và đến cái Định Vô Lậu thì nó phải quán xét thân bất tịnh, những các pháp đều vô thường, khổ, không, vô ngã của nó, tất cả những cái pháp đều là nó không thường còn, cho nên làm cho tâm của chúng ta không dính mắc và chấp đắm. Đó là Định Vô Lậu để các pháp khác mà nó khởi trong đầu của chúng ta ra, thì ngay đó chúng ta phải quán sát nó, rồi chúng ta diệt xả nó đi, đoạn dứt nó đi, không được kéo dài nó, thì đó là chúng ta đã đoạn các pháp ác.
Như vậy khi mà ngăn chặn không cho các pháp ác sanh khởi, và đoạn dứt các pháp ác đã sanh khởi, thì chúng ta đã có ba cái định để mà chúng ta tu tập, để thực hiện được cái Tứ Chánh Cần.
(45:37) Mà khi thực hiện được Tứ Chánh Cần như vậy rồi thì ngày ngày chúng ta sống trong thiện pháp, mà trong thiện pháp thì cái thiện pháp đó thì như Thầy đã nói, Thầy xin nhắc lại, là cái thiện pháp đó nó không phải là một cái việc mà đi làm từ thiện như từ lâu tới giờ, như từ nào tới giờ.
Như các con, các thầy, như các,mấy cô ở đây tu hành thì nghe thiện pháp, thì người ta không biết là cái thiện nào đúng mà cái thiện nào sai. Nhưng không ngờ là cái tâm chúng ta hoàn toàn, nó không tham, không sân, không si, nó không ở trong cái ác, cái thập ác, thì nó là thiện pháp chớ đâu phải là cái chuyện ở ngoài kia mà đem vào nó là thiện pháp!
Chuyện ở ngoài mà đem vào thiện pháp, đó là chuyện phóng sanh, chuyện đem việc bố thí, từ thiện đó là chuyện ở ngoài. Còn cái chuyện thiện pháp ở trong của chúng ta nó là Thập Thiện, không tham, không sân, không si, không trộm cắp, không tà dâm, không sát sanh, không nói vọng ngữ, ác ngữ, lưỡng thiệt, không nói phiếm ngữ, thì tất cả những cái đó là những cái ác pháp.
Còn cái mà chúng ta hiện giờ đã giữ gìn được cái tâm của chúng ta không có sanh khởi những cái ác pháp đó thì tức là thiện pháp. Mà tăng trưởng cái thiện pháp đó ra, tức là chúng ta kéo dài cái thời gian của cái tâm của chúng ta không có ác pháp đó, thì tức là tăng trưởng thiện pháp.
Chứ không phải làm những cái việc từ thiện bên ngoài mà đem vào gọi là tăng trưởng thiện pháp. Như mua chim cá phóng sanh, bây giờ mua một con, hai con, ba con là ít, bây giờ mua nhiều gọi là tăng trưởng, không phải! Mua một trăm, hai trăm, một ngàn, một triệu con gọi là tăng trưởng, không phải! Cái chuyện đó không phải là cái chuyện làm của một người tu ở trong Tứ Chánh Cần.
(47:35) Cho nên hiểu đúng thì nó sẽ được giải thoát, mà hiểu sai thì không giải thoát. Mà hiểu đúng thì tức là chúng ta có pháp môn tu tập đúng, đó là Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, đó là Định Niệm Hơi Thở, đó là Định Vô Lậu.
Vì vậy nội ba cái định này nó đã giữ cho chúng ta thực hiện được thiện pháp ở trong tâm của mình, tức là thực hiện được sự giải thoát ở trong tâm của mình. Một người biết được cách thức tu tập Tứ Chánh Cần, thì Thầy tin rằng các thầy sẽ được giải thoát.
Và đồng thời hôm nay sẽ đem cái bài Thân Hành Niệm, tức là cái hành động của cái thân để mà chúng ta đặt cái niệm mà chúng ta tu Tứ Chánh Cần, như cái bài pháp Thân Hành Niệm mà Phật đã dạy ở Trung Bộ.
Nhưng vì cái bài kinh này nó lộn xộn, nó đủ cách của nó ở trong này, đủ thứ ở trong này, cho nên Thầy đọc ra để mà quán xét được cái sai của một kinh, và đồng thời để nhắc lại cái bài kinh Phật dạy, đúng như vậy là Thân Hành Niệm, còn những cái khác thì chưa phải là Thân Hành Niệm.
Để chúng ta biết sau này, vì cái thời gian mà các con tu xong rồi, các con cần nghiên cứu kinh sách này nọ, đọc lại tất cả những kinh sách hết. Nghĩa là…
HẾT BĂNG
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Thời gian: 1998
Thời lượng: [47:43]
https://thuvienchonnhu.net/audios/phap-hanh-09-dinh-niem-hoi-tho.mp3
(0:00) Hôm nay Thầy bắt đầu Thầy dạy tiếp cái phần Tứ Niệm Xứ, nhưng Thầy xin nhắc lại Tứ Chánh Cần.
Vì vừa rồi Thầy đã dạy các con học về cách thức tu tập Tứ Chánh Cần. Bởi vì cái pháp Tứ Chánh Cần, các pháp ác chưa sanh không cho sanh, trên cái pháp Tứ Chánh Cần nó dạy như vậy, nhưng mà chúng ta biết cách nào mà chúng ta không làm cho các pháp ác sanh? Cho nên chúng ta có những cái loại định như: Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, Định Hơi Thở.
Rồi các pháp ác mà đã sanh thì phải mau đoạn dứt. Vậy chúng ta biết cách nào mà đoạn dứt? Do đó chúng ta biết được cái Định Vô Lậu, do cái Định Vô Lậu mà chúng quán xét thì chúng ta mới xả cái niệm ác đó đi, các pháp ác đó đi.
Vì vậy mà trong Tứ Chánh Cần chúng ta có ba loại cái định để mà chúng ta ngăn chặn không cho các pháp ác sanh và đoạn dứt các ác pháp đã sanh. Mà khi mà ngăn chặn không cho sanh, thì cái thiện pháp nó sanh khởi. Nó sanh khởi nghĩa là cái tâm của chúng ta nó không có ác pháp. Nó không có ác pháp tức là thiện pháp.
Thí dụ như nó không tham, không sân, không si, thì tức là thiện pháp không tham, không sân, không si nó ở trong tâm của chúng ta nó hiện tiền. Và chúng ta kéo dài cái thời gian đó ra, đó là chúng ta tăng trưởng cái thiện pháp, chớ không phải chúng ta thêm một cái thiện pháp nào hết.
Vì vậy mà chúng ta đã hiểu rõ được có ba cái pháp tu, ba cái pháp đó là Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, và Định Niệm Hơi Thở, và cái Định Vô Lậu, ba cái pháp đó để mà chúng ta sử dụng tu Tứ Chánh Cần.
Khi thông hiểu được ba cái pháp này, thì nhất là cái Định Niệm Hơi Thở, nó rất khó vì nó vừa là nó trợ giúp cho cái pháp Tứ Chánh Cần để tu, để chúng ta chánh niệm ở trong cái hơi thở, nhưng mà nó là một cái pháp để trợ cho các cái pháp khác nữa, chớ không phải trợ cho cái pháp Tứ Chánh Cần không.
(2:19) Cho nên hôm nay trước khi mà học về Tứ Niệm Xứ, thì Thầy sẽ nhắc lại để cho chúng ta rõ được cái Định Niệm Hơi Thở, mà chư Phật, nhất là Đức Phật Thích Ca Ngài đã dạy rất rõ ràng trong cái Định Niệm Hơi Thở.
Mà từ lâu thì Thầy chỉ dựa vào theo các cái hơi thở của các Tổ dạy như pháp An Bang, như Sổ Tức Quan tức là đếm hơi thở, hoặc là Tùy Tức, tức là khi mà đếm quá thuần thục thì chúng ta xả cái đếm để chúng ta còn nương theo hơi thở gọi là Tùy Tức. Nhưng những cái pháp đó nó không đúng với cái Định Niệm Hơi Thở của Phật đã dạy.
Hôm nay, vì soạn và viết ra để thành một cái Giáo Án Đường Lối Tu Tập Của Đạo Phật, cho nên những cái gì mà Đức Phật đã dạy thì Thầy dạy lại, Thầy triển khai Thầy dạy lại, còn cái gì không phải của đạo Phật thì Thầy không có dạy. Như trước kia Thầy đã tùy thuận Đại Thừa, kinh điển phát triển mà Thầy không có bỏ ra, hôm nay bỏ ra để chúng ta thanh lọc lại cái nào là của đạo Phật, những cái nào không phải của đạo Phật.
Cho nên chúng ta thấy Đức Phật cũng có dạy hơi thở, Định Niệm Hơi Thở, nhưng mà dạy khác hơn các Tổ. Do như vậy, thì hôm nay Thầy thêm để cái phần mà Định Niệm Hơi Thở. Vì chúng ta biết rằng cái hơi thở ra hơi thở vô mà khi để tu mà ngăn chặn các pháp ác thì chúng ta, nó có khác.
Là vì chúng ta tỉnh thức ở trong cái hành động nội thân của chúng ta, như ở trong Tứ Niệm Xứ, trên thân quán thân tu về hành tướng nội. Hành tướng nội là cái hành động của cái thân nội của mình, là cái hơi thở ra hơi thở vô. Nghĩa là hơi thở chúng ta dài, thì chúng ta nương theo dài mà chúng ta nương vào đó mà chúng ta tỉnh thức ở trong cái hành động đó để làm cho các pháp ác không sanh ở trong tâm chúng ta.
(04:34) Thì cái Định Niệm Hơi Thở đó là trong khi đó nó chỉ trợ giúp cho cái Tứ Chánh Cần. Mà trong khi mà tu cái Định Niệm Hơi Thở như vậy đó, thì các con cũng như quý thầy cũng phải biết rằng đây là Tỉnh Thức Chánh Niệm ở trong hơi thở, cho nên chúng ta thường dùng cái pháp hướng.
Nói chung là cái pháp nào như Chánh Niệm Tỉnh Giác Định tu ở trong mọi hành động, thì chúng ta cũng có cái pháp hướng chớ không phải là Thầy dạy ở đây Thầy không nhắc pháp hướng, nhưng mà quý thầy cũng nhớ rằng phải có cái pháp hướng.
Thí dụ như mình đi mười bước, hai chục bước mình nhắc: “Tôi đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành”, hoặc là tôi quét sân, thì mình quét năm, mười chổi thì mình nhắc: “Tôi quét sân tôi biết tôi quét sân”. Đó là cái pháp hướng mà, để nó kèm theo nó giữ cho cái tâm của mình đi dài dài một cái thời gian dài ra, mà không có một cái tạp niệm, hay hoặc là không có cái vô ký quên đi cái hành động mình đang làm công việc đó.
Thì cái Định Niệm Hơi Thở mà chúng ta hướng về cái hơi thở, hướng tâm về hơi thở, để cũng là nhắc, tức là cái pháp hướng này là pháp hướng nhắc tâm, để cho nó tỉnh thức ở trong cái hơi thở, cái tâm chúng ta tỉnh thức mãi, mà nó không bị mê, hay hoặc là không bị một niệm khác xen vô.
Cho nên thí dụ như mình tu về tỉnh thức cái hơi thở của mình, thì cái pháp hướng là các thầy cũng nhớ rằng mình nhắc, thí dụ như mình hít thở năm, mười hơi thở thì mình nhớ: “Tôi thở vô, tôi biết tôi thở vô. Tôi thở ra, tôi biết tôi thở ra.”
Tức là mình nhắc để cho mình biết mình thở vô, thở ra, thì đó là mình tập tỉnh thức. Còn trái lại cái Định Niệm Hơi Thở, thì nó cũng bắt đầu từ cái tỉnh thức đó, nhưng nó còn có những cái khác nữa, chớ không phải có bấy nhiêu đó không.
Cho nên ở đây Thầy muốn nhắc lại về cái Định Niệm Hơi Thở, là tại vì nó là một cái pháp môn trợ cho tất cả các pháp môn khác. Như Thầy có nói nó là một cái trợ động từ, nó cũng giống như một cái trợ động từ của Pháp ngữ để mà chia tất cả những cái động từ khác.
(06:36) Đó thì, hôm nay thì chúng ta thấy rằng trong cái hơi thở, cái Định Niệm Hơi Thở là cái định hơi thở đó, nó là cái pháp để mà giúp chúng ta tu hành các pháp khác.
Cho nên mới đầu thì chúng ta học chúng ta thấy rằng chúng ta chỉ hướng có: “Tôi thở vô, tôi biết tôi thở vô. Tôi thở ra, tôi biết tôi thở ra.” Đó là mình nhắc, rồi mình thở năm, mười hơi thở mình lại nhắc một lần, thì như vậy nó giúp cho mình tỉnh thức ở trong ba mươi phút, hay là một giờ khi mình tu tập.
Để cho mình tỉnh thức đó để mà ngăn chặn, nó ngăn chặn, cái mục đích của cái tỉnh thức đó không phải nó đem lại cái kết quả của cái hơi thở đó mà chúng ta nhập thiền, nhập định gì cả, mà nó ngăn chặn được cái ác pháp không sanh khởi ở trong tâm của chúng ta, như tham, sân, si, ham muốn cái này, thương nhớ cái kia, giận hờn cái nọ.
Cái mục đích của nó sẽ đạt được là ngay chúng ta giữ gìn được cái tâm ở trong cái hơi thở, thì chúng ta biết rằng tâm chúng ta không khởi ra niệm ác, không có thương, ghét giận hờn ai hết.
Vì nó mắc tỉnh thức ở trong cái hành động của hơi thở, cho nên nó đâu có sanh được pháp nào, cho nên ngay liền chúng ta thấy có sự giải thoát. Nó không còn một cái tâm niệm làm chúng ta buồn khổ hay là thương ghét, hay là giận hờn ai nữa, nó không có ác pháp.
Đó là chúng ta đã đạt nhờ cái Định Niệm Hơi Thở như vậy mà chúng ta đã đạt được cái cứu cánh. Cái cứu cánh là cái giải thoát, cái mục đích mà chúng ta thực hiện trong cái pháp tu đó. Cho nên ngay liền thì chúng ta thấy có sự giải thoát thật sự.
Thì cái sự giải thoát thật sự đó nó giúp cho chúng ta một cái kết quả rõ ràng và cụ thể là khi trong cái giờ phút tu thì chúng ta cũng thấy, mà sau cái giờ phút tu chúng ta bắt đầu đi vào những cái hành động như đi, đứng, nằm, ngồi, tất cả những cái hành động mà ngoại thân, chúng ta không tu cái Định Niệm Hơi Thở nữa, thì chúng ta cũng đang giữ cái tâm của mình không có niệm khởi.
Do đó ngày này qua ngày khác thì chúng ta hoàn toàn là không có ác pháp. Đó là cái mà chúng ta vừa cái Định Niệm Hơi Thở mà cũng vừa với cái Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, nó ngăn chặn được các pháp ác không sanh khởi trong tâm chúng ta, và khi nào mà lỡ nó có sanh một cái pháp gì đó, thì chúng ta đoạn dứt liền bằng cái Định Vô Lậu, như các con và cũng như các thầy cũng biết.
(08:52) Bây giờ Thầy kế tiếp cái bài Định Niệm Hơi Thở để chúng ta biết nó không phải tu có bấy nhiêu đó để mà đạt (đoạn) được cái niệm ác mà thôi, tăng trưởng cái niệm thiện mà thôi. Nó còn có những cái đặc biệt của nó, để mà nó tự thân của nó, nó cũng có vì những giải quyết cho cái giải thoát của cái thân, thọ tâm pháp của chúng ta.
Bởi vì ngoài cái thân, thọ, tâm, pháp Tứ Niệm Xứ này, bốn cái nơi mà để chúng ta tu tập, tức là bốn cái lĩnh vực mà để tu tập, thì chúng ta đều đặt các pháp trên đó mà tu tập. Tu tập cho tất cả bốn cái chỗ này nó trở thành tốt đẹp và nó trở thành thanh tịnh.
Chớ không phải là Tứ Niệm Xứ là có một cái gì mà, có cái pháp để làm cho một cái khác thanh tịnh, không phải. Tứ Niệm Xứ là chỉ bốn cái chỗ để chúng ta đặt các pháp trên đó mà chúng ta thực hiện cho nó thanh tịnh, bốn cái chỗ đó thanh tịnh.
(9:44) Bây giờ nói về cái Định Niệm Hơi Thở. Cái bài tập thứ nhất về Định Niệm Hơi Thở, nó có từ bài tập thứ nhất, bài tập thứ hai, bài tập thứ ba, chớ nó không phải có một cái bài mà “hơi thở ra tôi biết tôi thở ra,” mà “hơi thở vô tôi biết tôi thở vô” đâu. Đó là cái Chánh Niệm Tỉnh Thức của cái hơi thở đầu tiên chúng ta tu.
Cho nên ở đây đầu tiên thì Đức Phật có khuyên như thế này nè: một người muốn tu tập Định Niệm Hơi Thở thì cái vị đó phải đi đến một khu rừng, khu rừng là cái nơi vắng vẻ, cái nơi không có người ta đến.
Hay đi đến một cái gốc cây, ở cái nơi nào mà có cái gốc cây hay hoặc này kia, để cho mình ngồi ở bên gốc cây đó mình tu tập. Tức là cái cây có cái gốc thì cái cây nó có cái tàn nó mát mẻ, cho nên mình ngồi dưới gốc cây đó mình tu. Hay đi đến chỗ một cái nhà trống, chỗ nhà trống tức là cái nhà mà không có ai hết, họ bỏ trống rỗng.
Chúng ta sẽ vào những cái nơi vắng vẻ đó, cái nơi yên tĩnh đó mà chúng ta cái Định Niệm Hơi Thở. Thì trước tiên chúng ta muốn tu tập nó thì chúng ta đi chọn cái chỗ mà vắng vẻ như vậy, rồi bắt đầu chúng ta ngồi kiết già.
Ở đây Đức Phật không có dạy chúng ta ngồi bán già mà dạy chúng ta ngồi kiết già, nghĩa là phải chéo hai chân, lưng thì thẳng lên, rồi đặt cái niệm hơi thở trước mặt của chúng ta.
Nghĩa là như Thầy đã nói, cái niệm hơi thở của chúng ta mà đặt trước mặt, tức là cái tụ điểm chỗ đó, cái hơi thở ra và hơi thở vô. Như vậy thì cái nhân trung của chúng ta là cái chỗ mà nó, từ cái hơi thở hít vô thì nó cũng đi ngang qua đó, mà từ cái hơi thở ra nó cũng đi ngang qua đó, cho nên lấy cái chỗ tụ điểm đó mà chúng ta làm cái chỗ để tâm chúng ta tập trung ở chỗ đó, để biết cái hơi thở ra và hơi thở vô.
Cho nên đặt niệm ở trước mặt của chúng ta, tức là ở trước cái mặt của chúng ta là cái nhân trung của chúng ta đó, đặt cái niệm chỗ đó đó.
(11:38) “Vị ấy chánh niệm”, chánh niệm đây là không phải là tà niệm. Cái chánh niệm là cái tập trung tâm của chúng ta đó, là gọi là chánh niệm. Tức là mình đặt cái niệm hơi thở ngay tại cái chỗ tụ điểm, tức là mình chọn lựa cái chỗ nào đó thì mình mới đặt cái niệm hơi thở của mình, cho nó thở ra thở vô ở đó.
Cho nên Phật nói là chánh niệm hơi thở vô và chánh niệm hơi thở ra, nghĩa là mình đặt cái chỗ nào đó để cho cái hơi thở từ đó nó xuất phát ra vô, cho nên gọi là chánh niệm hơi thở vô, chánh niệm hơi thở ra.
Đó là cái thứ nhất để mà chúng ta biết chọn cái tụ điểm. Nếu mà tu tập không có chọn chỗ tụ điểm thì bây giờ chúng ta thở thấy nó thở chỗ này, lát nữa chúng ta thấy thở chỗ kia, lát nữa chúng ta thấy từ ở ngoài này nó xa rồi nó đi vô, hoặc là đi theo hơi thở, chạy đủ thứ cái chỗ nơi, cho nên nó không tập trung được, cái tâm nó không có gom lại tập trung được. Cho nên chúng ta phải đặt cho nó nằm yên một chỗ.
(12:39) Bây giờ cái bài tập thứ nhất, khi mà chúng ta đã đặt niệm đúng chỗ rồi, tức là có tụ điểm rồi, hơi thở ra hơi thở vô tại chỗ đó rồi, thì bắt đầu chúng ta tập cái bài tập thứ nhất. Đây quý thầy và các con hãy nghe cái bài tập thứ nhất về hơi thở.
Mà từ lâu thì Thầy cũng dạy hơi thở, Thầy cũng nhắc đi nhắc lại nhưng mà không có nói rõ ràng như hôm nay. Là vì hôm nay là dạy về cái giới hành, nó là sự tu tập nó làm cho chúng ta thanh tịnh ở trong giới, thân tâm chúng ta thanh tịnh không có phạm giới, nó làm cho chúng ta có đầy đủ đức hạnh giải thoát, làm cho mình không khổ mà người khác không khổ.
Thì cái hơi thở, bây giờ bài tập thứ nhất thì chúng ta tập như thế nào? Chúng ta ngồi ngay ngắn rồi, bây giờ chúng ta mới nhắc: “Thở vô dài, tôi biết tôi thở vô dài”. Bây giờ mình thở vô tức là hít vô đó, mà cái hơi thở của mình dài thì mình biết tôi thở vô dài. Phải không.
Bây giờ mình bắt đầu mình thở vô dài rồi, cái thứ hai thì mình phải thở ra, bởi vì hai hơi thở nó mới vào một cái “túc”, tức một hơi thở, một trọn vẹn một hơi thở. Cho nên bây giờ hít vô rồi thì bắt đâu thở ra, “thở ra dài, tôi biết tôi thở ra dài”, đó, rõ ràng là mình nhắc, tức là nhắc cái tâm của mình, như hồi nãy “tôi thở vô tôi biết tôi thở vô, tôi thở ra tôi biết tôi thở ra”, đó là mình nhắc như vậy.
(14:02) Nhưng bây giờ thì lại, về cái bài tập này nó thuộc về Định Niệm Hơi Thở, mà nó không phải trợ giúp cho Tứ Chánh Cần, mà nó tập luyện cho nó thuần thục để rồi mình dùng nó mà mình câu hữu với tất cả, tức là kết hợp với các pháp khác để mà tu tập.
Cho nên cái bài tập thứ nhất của nó “hít vô dài” hay là “thở vô dài, tôi biết tôi thở vô dài”, tức là mình nương theo cái hơi thở, rồi mình nói, mình hướng tâm, mình nhắc ở trong đầu của mình cái câu này. Rồi: “thở ra dài, tôi biết tôi thở ra dài”. Đó, là hai cái câu này nó kết hợp lại, nó làm một cái hơi thở của chúng ta, một hơi thở, tức là hít vô thở ra.
Rồi kế đó mình thấy bây giờ cái hơi thở của mình nó không có dài, mà mình nói dài là trật, nó không đúng. Cho nên mình thấy cái hơi thở mình nó ngắn, vậy cho nên bây giờ đó, mình mới sửa lại cho đúng theo cái hơi thở của mình. Mà muốn sửa đúng theo hơi thở của mình, thì mình thấy nó ngắn cho nên mình nói: “Thở vô ngắn, tôi biết tôi thở vô ngắn”.
Đó. Thì tức là đây là ở một hơi thở nè, mình hít vô thì mình nói: “Thở vô ngắn, tôi biết tôi thở vô ngắn”. Rồi bắt đầu bây giờ mình thở ra, thì mình nói theo cái hơi thở mình đang ra, “thở ra ngắn, tôi biết tôi thở ra ngắn”.
Rõ ràng là nhắc cho mình, cái pháp hướng này nhắc cho mình biết cái hơi thở của mình. Rồi trong khi mình nhắc như vậy thì mình lại làm thinh, mình không nói nữa, mà mình cứ thở ra thở vô để cho cái tâm mình nó biết cái thở ra vô ngắn như vậy.
Rồi một lúc nữa mình lại nhắc “Thở vô ngắn tôi biết tôi thở vô ngắn, thở ra ngắn tôi biết tôi thở ra ngắn”, tức là mình nhắc theo đúng như cái hơi thở của mình.
Do đó thì, nó nhắc làm cho mình kéo dài được năm, mười hơi thở nữa mà không có một tạp niệm. Và đồng thời nếu mình cứ để như vậy hoài, mình thở không nhắc nữa, thì lát nó quên đi. Nó quên đi thì nó có những cái vọng tưởng, cái tạp niệm khác. Do vì vậy đó mà mình phải nhắc lần nữa.
Mà mình tu tập như vậy, cái bài tập thứ nhất này mình tu tập như vậy, không có nghĩa là tu tập tỉnh giác ở trong hơi thở, tỉnh thức ở trong hơi thở. Mà cái bài tập này vốn để cho mình luyện tập để điều hòa cái hơi thở của mình, để ổn định cái hơi thở của mình, để mình biết rõ nó dài nó ngắn theo cái đặc tướng riêng của mình, để mình tu tập không cái mệt, không có khó khăn không có khổ sở cho cái thân của mình. Đó là cái bài tập thứ nhất.
Và cũng vì cái chỗ tu tập này nó làm cho mình quen đi với cái hơi thở, mình mới coi vậy chớ nó không quen đâu. Và đồng thời khi mình nhắc tới nhắc lui, đồng thời vừa thở mà vừa nhắc, thì nó cũng phải khéo léo mình mới nhận ra được cái hơi thở mình ngắn, hay là hơi thở mình dài. Hay hoặc cái sức mà mình thở dài mình chịu đựng nổi, nó không mệt, do đó mình tùy theo chỗ cái hơi thở đó mà mình rèn luyện.
(16:52) Và cái đầu tiên để cho chúng ta thấy rằng ở chỗ này nó không phải là cái Chánh Niệm Tỉnh Giác của trong hơi thở, mà cái chỗ này nó là cái Định Diệt Tầm Giữ Tứ.
Cái bài tập thứ nhất này, là cái định tu tập như vậy, nương vào cái hơi thở mà tu tập như vậy, để cho nó không có những cái niệm vọng tưởng xen vô. Thì cái định mà không có những cái vọng tưởng xen vô, thì cái chỗ mà tập luyện cái bài thứ nhất này, thì chúng ta tập luyện cái Định Diệt Tầm Giữ Tứ. Chớ nó không phải là cái định này là cái Định Niệm Hơi Thở, mà dùng cái hơi thở để chúng ta tu tập cái Định Diệt Tầm Giữ Tứ.
Có hiểu như vậy thì mới thấy được cái vấn đề mà Đức Phật dạy chúng ta từng bước một, tu tập từng chút, từng cách thức tu tập, chớ không phải là ào vô cái ngồi đó hít thở, hít thở cho hết vọng tưởng, thì cái chuyện đó chúng ta thật sự ra chúng ta chưa biết cách thức tu tập. Và cái người hướng dẫn mà như vậy thì cũng chưa biết cách hướng dẫn người.
Cho nên qua những cái bài mà Đức Phật dạy chúng ta tu tập thiệt là cơ bản, vững vàng. Mà mỗi một cái bài tập như vậy, để chỉ cho chúng ta biết cách thức tu tập, cái đó thuộc về cái loại định nào, để cho chúng ta biết.
Cho nên cái bài tập thứ nhất của Định Niệm Hơi Thở thì nó là cái bài tập để chúng ta tu tập cái Định Diệt Tầm Giữ Tứ. Đó nó có cái tên đó, cái tên định của nó là Định Diệt Tầm Giữ Tứ.
(18:20) Mà khi mà nói bây giờ tôi tu cái Định Diệt Tầm Giữ Tứ ở trên thân quán thân tu về hành tướng nội, mà tu cái Định Diệt Tầm Giữ Tứ, thì lúc bấy giờ quý thầy biết là cái định gì rồi, phải không?
Tức là mình phải biết cách thức mình tu cái gì rồi, tức là cái Định Niệm Hơi Thở trong cái bài tập thứ nhất của nó, lấy trong cái bài tập thứ nhất của cái Định Niệm Hơi Thở thì chúng ta biết đó là cái Định Diệt Tầm Giữ Tứ.
Đó, nó có như vậy chúng ta mới biết được cái pháp của Phật nó rất là tỉ mỉ để cho chúng ta luyện tập từng chút một, chớ khi không mà nhảy vô mà để tu mà hết vọng tưởng liền, thì thật sự ra thì các thầy phải tu mất cái thời gian rất lớn để mà ức chế tâm của mình.
Còn cái này Phật dạy, chúng ta tu tập thử coi, kết quả dữ lắm đó, chớ không phải là không đâu. Thầy thấy đây là, trải qua trước kia Thầy cũng chưa có biết cái đường lối này đâu, nhưng mà sau khi mà tu tập xong rồi, nhìn lại cái lời của Đức Phật dạy thật là có đủ kinh nghiệm, chớ không phải là không có kinh nghiệm, kinh nghiệm rất kinh nghiệm.
Từ cái chỗ mà hướng tâm, nhắc từng câu như vậy để cho cái tâm nó không có tạp niệm xen vô, cho đến khi mà kéo dài 30 phút hay một giờ mà không có một cái vọng tưởng nào xen vô, thật sự ra thì Thầy thấy không có cái pháp nào hơn là cái pháp này.
Mặc dù là quý thầy có sổ tức đi nữa, đếm từng hơi thở, cho đến cả trăm hơi thở nhưng vọng tưởng vẫn xen vô. Còn cái này chúng ta tu, chúng ta sẽ thấy rằng cái sức của chúng ta, tức là tùy theo cái đặc tướng của chúng ta mà chúng ta sẽ nỗ lực tu thì không có Tầm.
(19:50) Ở đây tới cái bài tập thứ hai. Ở đây cái bài tập thứ nhất thì Thầy đã xác định cho quý thầy biết rằng cái định đó là cái Định Diệt Tầm mà giữ Tứ đó. Bây giờ tới cái bài tập thứ hai.
Bài tập thứ hai cũng nương vào cái hơi thở mà tu tập, cho nên đây thì Đức Phật hướng tâm nhắc như thế nào trước: “Cảm giác toàn thân tôi sẽ thở vô, cảm giác toàn thân tôi sẽ thở ra”, tức là cái hướng tâm theo đó.
Nghĩa là bây giờ đó, khi mình tu tập cái Định Diệt Tầm Giữ Tứ nó đã không có Tầm nữa rồi, thì tức là nó sẽ có một sự an ổn. Mà cái sự an ổn đó thì tức là cái gì mà an ổn đó cho cái thân này? Thì cái cảm giác, cái cảm giác toàn thân chúng ta thấy nó có cái sự an ổn đó. Cho nên cái cảm giác toàn thân tôi biết.
Bởi vì lúc bấy giờ nó tỉnh thức, do cái chỗ mà không có cái tạp niệm xen vô đó, thì cái cảm giác toàn thân mình thấy rất rõ. Nó xảy ra cái gì mình thấy rất rõ, nó an lạc, nó không an lạc, biết rất rõ, nó rất là kỹ lưỡng.
Cho nên ở đây, đầu tiên vô cái bài pháp thứ hai này, thì Đức Phật dạy “Cảm giác toàn thân tôi sẽ thở vô, cảm giác toàn thân tôi sẽ thở ra”, thì nó cũng nương theo hơi thở. Và khi mà mình nhắc như vậy, mình lại thở năm, mười hơi thở, thì mình, cái cảm giác đối với cái thân của mình nó vẫn còn bàng bạc ở trong cái thân của mình, chớ chưa phải mất đâu.
Cho nên lúc bấy giờ, mất cái cảm giác đó đó, mà cái bài tập thứ hai này nó làm cho cái tâm của chúng ta nó có một cái trạng thái rất là an ổn. Từ đó chúng ta tiếp tục chúng ta tu cái hơi thở này.
Cái hơi thở mà “cảm giác toàn thân” này chúng ta tu, tu cho đến một lúc thì chúng ta lại thuần thục, thuần thục thì nó lại thấy rõ ràng một cái sự an tịnh của thân hành của mình.
Nghĩa là cái hơi thở ra vô mà nó có cái an tịnh ở trong đó. Cho nên lúc bấy giờ chúng ta cảm thấy có một cái sự an tịnh thật sự, tức là cái cảm giác toàn thân chúng ta thấy có sự an tịnh. Vì vậy mà bắt đầu thì chúng ta nói “an tịnh thân hành tôi sẽ thở vô, an tịnh thân hành tôi sẽ thở ra”.
Đó, bây giờ mình có một cái cảm giác của sự an tịnh của cái thân của mình, mà thân hành là cái động dụng của cái hơi thở chúng ta ra vô, mà chúng ta thấy an, rất là an ổn, mà rất là thanh tịnh. Cho nên mình nhắc cái câu đó, mình hướng tâm để cho cái trạng thái đó nó được an trú.
Cho nên Phật dạy như thế nào? Thiện xảo an trú trong định! Thiện xảo là mình phải khéo léo, mà khi nó có cái đó rồi thì mình nhắc cái đó đó, nó sẽ kéo dài cái đó ra. Mình nhắc cái trạng thái đó nó sẽ kéo dài ra.
(22:38) Thí dụ bây giờ mình có sự an tịnh rồi, mình nhắc “an tịnh thân hành tôi sẽ thở vô”, thở vô tức là mình nương vào hơi thở, nhưng mà cái cảm giác an tịnh đó là nó làm cho cái tâm của mình ở trong cái trạng thái để cho nó thích thú, để cho nó ham tu, để cho nó thoải mái, dễ chịu.
Mình nương hơi thở mà mình không thấy có sự an tịnh, không có sự thoải mái dễ chịu, thì mình tu mình lười biếng lắm. Nhưng mà ở đây mình thấy toàn thân an tịnh, qua cái hành động của nội thân của mình, mình nghe nó rất an ổn.
Cho nên ở đây “an tịnh thân hành tôi sẽ thở vô”, thở vô là cái hành động của cái thân, nội thân. “An tịnh thân hành tôi sẽ thở ra”, thì bây giờ đó mình thấy cái sự an tịnh nó đã được có rồi. Nó làm cho mình thấy thích thú, rồi bắt đầu mình thấy mình bây giờ cỡ mình không nhắc nó nữa nó vẫn còn có, cho nên cái tu tập của mình nó vẫn còn có liên tục chớ nó không có mất.
Thì trong cái bài tập thứ hai này, thì chúng ta thấy đây là cái thân, cảm giác toàn thân, rồi cảm giác an tịnh thân hành, hai cái này nó thuộc về thân. Cho nên bây giờ đó, khi mà cái bài tập thứ hai này mà nó đã được cái sự an tịnh, thì an tịnh nó sẽ có một cái cảm giác của nó, một cái cảm giác của nó như thế nào?
(24:03) Cái cảm giác nó vui mừng, lâng lâng ở trong lòng của mình. Cho nên ở đây, qua cái phần kế của cái cảm giác an tịnh này, thì Đức Phật dạy “cảm giác hỷ thọ tôi sẽ thở vô, cảm giác hỷ thọ tôi sẽ thở ra”.
Nghĩa là bây giờ mình thấy có cái niềm vui, cái niềm vui là do cái sự an tịnh này, nó thấy mình có những cái sự tu tập của cái Định Niệm Hơi Thở. Cái Định Diệt Tầm Giữ Tứ này nó mang lại cho mình có cái niềm vui, có sự an tịnh, có sự cảm giác toàn thân, cái sự an tịnh, rồi có một niềm vui nho nhỏ trong tâm hồn của mình, trong hơi thở ra và hơi thở vô của mình. Thì khi mà nó có cái niềm vui đó rồi thì cái thân của mình nghe nó nhẹ nhàng, khinh an vô cùng lận.
(24:52) Cho nên Đức Phật tiếp tới thì Đức Phật cũng nương theo hơi thở để mà lắng nghe được cái trạng thái an ổn, khinh an của cái thân của mình. Cho nên Đức Phật dạy, mình cũng nương hơi thở chớ đâu có lìa hơi thở được, lìa hơi thở thì coi chừng nó sẽ rơi vào chỗ xúc tưởng hỷ lạc mất đi.
Cho nên cứ ôm chặt hơi thở mà nhắc những cái đó, để cho nó, cái trạng thái do cái định mà nó xuất hiện, do cái định mà nó sanh ra mà nó không bị mất. Cho nên “Cảm giác lạc thọ tôi sẽ thở vô, cảm giác lạc thọ tôi sẽ thở ra”.
Hồi nãy hỷ là cái niềm vui, cái niềm mà nó có được cái sự an ổn thân tâm của mình qua những cái hành của thân, qua những cái cảm giác của toàn thân. Bây giờ cái hỷ đó đã làm cho mình vui, mà mình vui thì mình thấy rằng cái thân của mình bây giờ nó an lạc, nó nhẹ nhàng, nó phơi phới. Cái thọ lạc này nó đi đến nó làm cho chúng ta thấy quá là khinh an ở trong cái thân và tâm của chúng ta.
Cho nên ở đây khi mà có cái trạng thái đó rồi, thì lúc bấy giờ chúng ta cũng nương vào hơi thở, thỉnh thoảng chúng ta lại nhắc, nhắc nó một câu: “Cảm giác lạc thọ tôi sẽ thở vô, cảm giác lạc thọ tôi sẽ thở ra”.
Và đây là, các thầy cũng như các con, nếu mà học thuộc lòng cái này, khi nó có đến thì chúng ta hướng lên, bởi vì nó thuộc lòng. Còn khi mà nó có đến rồi chúng ta quên, không biết làm sao đây, nói làm sao đây? Thầy có dạy rồi mà mình không biết mình nói như thế nào đây? Lúc đó cứ nhớ chữ lạc, chữ hỷ rồi không biết nói làm sao, quên cái chữ “cảm giác”, hoặc là quên chữ “an tịnh” mất đi rồi.
Cho nên mình không biết làm sao mà cấu kết được cái pháp hướng. Do vì vậy đó mà các con và các thầy ghi chép lại cái câu này, là câu này từ ở trong kinh Đức Phật đã chọn để cho các đệ tử Người để thực hiện, cho nên chúng ta cũng nên ghi chép.
(26:42) Nhưng mà chúng ta có thể viết những cái câu pháp hướng khác, tùy theo cái đặc tướng của chúng ta, mà nó phù hợp hơn là những cái câu này của Phật dạy. Nhiều khi chúng ta dẫm lại cái pháp hướng của Phật, nó không trúng cái đặc tướng của chúng ta, nó làm chúng ta khó chịu.
Thí dụ như câu này nó dài quá, bắt buộc mình phải thở chậm quá, cho nên làm mệt, nương theo cái hơi thở mình nói một hơi, mình hướng tâm vừa thở mà vừa nói, mình phải ráng mình thở cho thiệt chậm đặng cho nó hết câu nói chớ gì! Do đó hết câu nói nó mệt muốn đứt hơi mình! Vì vậy mà an lạc không thấy, hỷ thọ không thấy, khinh an không thấy, mà thấy mệt, mà thấy khổ sở, đó là mình tu sai.
Cho nên do vì vậy mà cái đặc tướng của cái hơi thở của mình nó dài, thì mình tạo cái câu dài hơn để mình nhắc nhở. Mà cái thân của mình nó có cái đặc tướng thở cái hơi thở ngắn, mà mình thở chậm mà dài để mình hướng tâm cho hết cái câu theo hơi thở của mình, thì lúc bấy giờ mình sẽ hoàn toàn là mình thấy khó chịu.
Cho nên nó tùy theo cái hơi thở ngắn, hơi thở dài, rồi mình chế biến cái câu này nó nói theo cái hơi thở ngắn của nó, nó nhanh chóng hơn. Thí dụ như nói “an tịnh thân hành” thì mình chỉ bỏ chữ “thân hành” đi, thì mình nói: “An tịnh tôi sẽ thở vô, an tịnh tôi sẽ thở ra”.
Tức là mình biết cái gì an tịnh, cái thân của mình chớ gì? Thì mình bỏ bớt đi, thì nó làm cho nó vừa với cái hơi thở vô và hơi thở ra của mình. Đó là khi mà tu hành thì mình còn phải khéo léo để trạch pháp, chọn lấy một cái câu nó vừa hợp với cái khả năng riêng biệt của mình.
Bây giờ cái phần kế nữa. Thì chúng ta đã tu tới cái “Cảm giác lạc thọ tôi sẽ thở vô, cảm giác lạc thọ tôi sẽ thở ra”. Cảm giác tâm hành, bây giờ tới về phần tâm rồi. Hồi nãy là phần thân, rồi phần thọ, bây giờ về tới phần tâm:
“Cảm giác tâm hành tôi sẽ thở vô, cảm giác tâm hành tôi sẽ thở ra”. Thì hồi nãy thân cũng cảm giác, rồi tâm cũng cảm giác, bây giờ cái tâm nó cảm giác tâm khác à. Các con cũng như các thầy nên lưu ý về cái phần thân và phần tâm. Hai cái tuy rằng nó một cái danh từ gọi vậy chứ cái tâm nó khác, mà cái thân nó khác.
(29:08) Rồi bây giờ cái tâm của mình. cái tâm hành của mình, mà mình thấy nó an ổn, thì cho nên mình thở hơi thở mình cũng nương vào “An tịnh tâm hành tôi sẽ thở vô, an tịnh tâm hành tôi sẽ thở ra”.
Đó thì bây giờ đó, mình đã thấy cái sự an tịnh của tâm của mình như thế nào, thì mình biết cái tâm mình nó rất an tịnh như thế nào, thì mình rõ để mình hướng theo cái hơi thở, để mình an trú ở trong cái an tịnh đó, nó kéo dài ra. Tức là nhờ hướng như vậy, nó sẽ kéo dài cái trạng thái an tịnh đó. Còn nếu mình không hướng thì nó một lúc thì nó lại mất đi, nó không còn có nữa.
Rồi bây giờ đó, khi mà cái tâm của mình nó có sự an tịnh như vậy đó, thì mình có cái sự tỉnh thức đối với cái tâm rất rõ ràng và cụ thể lắm, cho nên cái cảm giác về tâm thì mình thấy rất rõ tâm mình như thế nào.
Còn bây giờ nhiều khi cái thân của mình nó có những cái cảm thọ mát, lạnh, nóng thì mình biết, nhưng mà nói về cái tâm thì mình thấy, mình không biết cái tâm nó cảm giác như thế nào, như thế nào thì mình không biết. Nhưng mà khi mình tu đó, rồi từ đó nó có cái sức tỉnh, thì mình thấy cái cảm giác về cái tâm của mình nó sao, nó không giống như cái thân đâu.
“Cảm giác về tâm tôi sẽ thở vô, cảm giác về tâm tôi sẽ thở ra”. Đó. Và khi mà mình tu tập tới cái hơi thở tới chỗ này rồi, thì mình thấy cái thân tâm của mình nó rất là an ổn, nó rất là khinh an, nó rất là nhẹ nhàng. Cho nên lúc bấy giờ luôn luôn lúc nào mình cũng vui vẻ, mình cũng thích thú ở trong cái sự tu tập.
Cho nên cái bài tập kế này về cái Định Niệm Hơi Thở, thì quý thầy cũng nên nhớ rằng khi mà nó đạt được những cái kết quả về tâm như vậy rồi, thì cái tâm vui mừng của mình, tức là cái tâm hân hoan nó sẽ thể hiện.
Lúc nào nó cũng vui vẻ, cho nên người ta chửi mình cũng không biết giận, là tại vì mình vui quá vui rồi, cho nên mình không biết giận ai hết. Người ta nói mình chó, trâu, mình thấy mình cũng vui nữa, không có buồn nữa.
Cho nên hầu hết là mình tu, tại vì mình tu không đúng cách, cho nên do vì vậy mà mình cố mình dùng cái Định Vô Lậu, mình cố mình hướng tâm mình xả nó. Nhưng mà mình nhớ rằng mình tu tập đúng cách rồi, tự nhiên cái tâm nó vui, nó vui rồi mình cũng dễ tha thứ mọi người nữa.
Mình vui quá mà, đâu có còn giận ai nữa, cho nên khi nghe người ta chửi mình mình cũng không biết giận nữa, vì cái tâm mình hân hoan. Cho nên ở đây cũng nương vào cái hơi thở mà tu tập cái tâm: “Với tâm hân hoan tôi sẽ thở vô, với tâm hân hoan tôi sẽ thở ra”.
Đó rõ ràng, mình nhắc. Ở đây nó có phần, có tâm hân hoan nhắc, thì rất là cụ thể. Mà không có tâm hân hoan nhắc, thì mình tu một lúc sau thì lại có hiện ra tướng hân hoan của cái tâm của mình. Đó.
Cái gì cũng vậy, mình cố gắng mình tu tập, thì đầu nó chưa có, nhưng mà sau nó lại có. Rồi khi mà cái tâm hân hoan mình nó đã có rồi, thì cái sức định tỉnh nó sẽ làm cho chúng ta biết rõ ràng hơi thở.
(32:16) Còn đằng này quý thầy tu thiền định, quý thầy ngồi. Khi mà có cái trạng thái hỷ lạc, an ổn cho quý thầy, thì lần lần cái tỉnh thức đó lại mờ mờ mờ mờ, nó lần lần lần, nó theo cái sự say say của hỷ lạc đó, nó làm riết, cái tâm của quý vị nó mất, nhiều khi nó vô ký nó không biết nữa. Nó thích cái an lạc, thích cái khinh an lắm, nhưng mà nó cứ ôm chặt theo cái đó, thì nó đi riết cái nó lạc mất.
Còn cái này nó càng lúc nó lại càng tỉnh táo lên, nó càng rõ ràng lên, cái sự hân hoan, cái sự an tịnh của thân, của tâm của mình như thế nào, nó càng biết rõ, càng lúc nó tỉnh táo, nó càng nhiều cái sức tỉnh táo hơn.
Cho nên lúc bấy giờ do cái sức tỉnh táo đó thì chúng ta cũng nương vào hơi thở để mà an trú cái sức tỉnh táo đó, nó kéo dài trong cái thời gian mà chúng ta tu tập thiền định.
“Với tâm định tỉnh”, đó bây giờ nó có tỉnh thức rồi, cho nên mình mới nhắc: “Với tâm định tỉnh tôi sẽ thở vô, với tâm định tỉnh tôi sẽ thở ra”.
Nhưng mà mình tu một thời gian, mà mình thấy cái tâm mình nó không định tỉnh, nó luôn luôn nó mờ mịt, nó muốn buồn ngủ, nó muốn hôn trầm gì đủ thứ, nó làm sao cũng không có tỉnh táo, mình nhắc: “Với tâm định tỉnh tôi sẽ thở vô, với tâm định tỉnh tôi sẽ thở ra”.
Mình nhắc một hơi thì mình nhìn lại mình thấy nó định tỉnh, nó sáng suốt ra. Đó. Rồi bây giờ trong cái hoàn cảnh của mình, nó có những cái đối tượng. Khi mình ngồi mình xếp chân lại để mình tu cái tâm không Tầm Tứ, Diệt Tầm Giữ Tứ đó, mà mình tu thì cái sự việc đó nó làm cho cái tâm của mình nó bận rộn, nó suy tư, nó lo lắng.
Thì bây giờ mình làm sao để cho nó hết suy tư lo lắng, để cho mình ngồi lại mình tu cho được? Nhiều khi nó có chuyện gì, rồi bắt đầu mình ngồi vô cái mình lo lắng, mình ngồi đó mình nhiếp tâm không được, nó cứ nghĩ ngợi cái này kia. Nhất là cái sợ hãi, nó làm cho mình không có yên tâm chút nào mà ngồi đó mà nhiếp tâm nổi hết.
(34:19) Cho nên vì vậy đó, mình phải nhắc cái tâm của mình “Với tâm giải thoát tôi sẽ thở vô, với tâm giải thoát tôi sẽ thở ra”. Thí dụ như vừa lúc nãy có một người chửi mắng mình, bây giờ mình ngồi lại nghe nó tức tối quá, mà nó không có được giải thoát như vậy, thì nó làm sao nó yên mà mình tu?
Cho nên mình phải dùng cái câu pháp hướng này. Nghĩa là nó đang giận hờn, tức bực ai đó, hay hoặc là nó đương thương, nhớ, hay lo lắng ai đó, hay hoặc mình có một người thân đang bệnh, mà giờ tâm nó cứ lo cho người thân, sợ uống thuốc không hết rồi chết đi, mình sẽ mất mẹ, mất cha mình đi, buồn quá!
Cho nên cái tâm nó làm cho mình bồn chồn, lo sợ đủ cách, thì mình ngay đó mình phải nhắc “Với tâm giải thoát tôi sẽ thở vô, với tâm giải thoát tôi sẽ thở ra”. Mình nhắc một hơi thì cái tâm nó bắt đầu nó an trú, nó không có còn sợ hãi, bồn chồn nữa, nó không còn lo lắng nữa.
Tùy theo mỗi cái đặc tướng, mỗi cái hoàn cảnh của mình nó xảy ra một cái gì, thì mình dùng cái câu pháp hướng đó để nhắc, để dẹp cái đó xuống đi, để đem lại cái sự bình tĩnh, định tỉnh cho cái thân tâm của mình.
Bởi vì cái tu tập này nó rất khéo léo. Cái tâm mình nó chưa được định tỉnh, mình ngồi lại thì nó chuyện này đến chuyện kia nó lăng xăng ở trong đầu, thì mình nhắc “Với tâm định tỉnh tôi sẽ thở vô, với tâm định tỉnh tôi sẽ thở ra”.
Rồi mình thở năm, ba hơi thở mình lại nhắc nó để cho nó định tỉnh. Cho nên nó định tỉnh được rồi, bắt đầu nó không còn rối nữa, ở trong đó nó không có loạn tưởng ở trong đó nữa.
Còn bây giờ cái hoàn cảnh của mình nó không giải thoát, mình ngồi lại thì tâm mình nó lăng xăng, lộn xộn, nó khó quá. Cho nên mình nhắc tâm mình phải giải thoát, làm cho nó giải thoát, cho nên nhắc riết một hơi cái nó xả những cái điều mà lăng xăng ở trong đầu nó, những cái lo lắng suy tư, những cái sợ hãi của nó.
Xả nó được rồi, bắt đầu chúng ta thấy mình an tịnh ở trong cái hơi thở. Cho nên lúc bấy giờ tâm của mình an tịnh, hay là thân của mình an tịnh, thì khi mình thấy nó an tịnh rồi, mình muốn kéo dài cái trạng thái đó ra thì mình nhắc “An tịnh tâm hành tôi sẽ thở vô, an tịnh tâm hành tôi sẽ thở ra”.
(36:20) Chớ không phải các thầy nghĩ rằng, không phải là mình sắp xếp từ bài một cho đến bài hai như thế này, rồi mình mới tu tuần tự thứ tự như vậy. Không phải đâu. Ở đây nó lộn xộn đủ thứ. Tùy theo cái tâm của mình lúc bấy giờ nó ở trạng thái nào thì mình phải dùng cái câu pháp hướng đó nó ở trạng thái đó.
Hoặc là mình đang muốn được ở trạng thái đó, cái tâm ước muốn mình được an ở trong cái trạng thái đó. Mà cái trạng thái đó bây giờ nó đang buồn khổ, thì mình nhắc cái trạng thái mình ước muốn để cho nó hân hoan để cho nó vui vẻ đó. Thì mình nhắc một hơi, mình nương theo hơi thở một lúc, thì nó sẽ đạt được cái kết quả của cái pháp hướng.
Các thầy, các con nhớ được không? Nhớ như vậy, thì chúng ta mới biết rằng, ở đây không thể nào mà sắp thứ tự rằng chúng ta phải tu cái pháp bài thứ nhất, bài thứ hai, bài thứ ba đâu.
Mà ở đây những cái câu này nó tùy theo những trạng thái, khi bắt đầu từ cái chỗ “Cảm giác toàn thân tôi sẽ thở vô, cảm giác toàn thân tôi sẽ thở ra”, tùy theo mọi cái hoàn cảnh mà chúng ta sử dụng câu đó trước, hay hoặc là câu kia sau, chớ không phải là có một thứ lớp.
(37:22) Còn nhất định là chúng ta mới đầu, chúng tu tập cái bài thứ nhất đó, về Định Niệm Hơi Thở, để mà chúng ta biết cái hơi thở, chánh niệm ở trong hơi thở dài, hơi thở ngắn của chúng ta.
Khi mà chúng ta nói dài trước, thì chúng ta biết rằng mình theo không có kịp, hơi mệt, cho nên vì vậy mình nên thở ngắn. Mình thở ngắn thì tức là nó vừa với sức của mình, thì mình hướng cái câu hướng đó, hoặc nhanh hơn, hoặc chậm hơn một chút, để cho nó vừa với cái đặc tướng hơi thở của mình.
Vì vậy mà cái bài tập thứ nhất thì các con sẽ đạt được những cái kết quả đầu tiên, tức là Diệt Tầm Giữ Tứ. Đó là cái Định Diệt Tâm Giữ Tứ
Bài tập thứ hai là tùy theo những cảm giác thân tâm của mình, mà có thể hướng tâm an tịnh trước, hoặc hướng tâm hỷ trước, hoặc hướng tâm lạc trước, hoặc hướng tâm cảm giác tâm hành trước, hay hoặc là thân hành trước. Tùy theo nó ở trạng thái nào thì chúng ta sử dụng cái pháp hướng đó ở cái trạng thái nấy.
Cho đến cái câu mà: “Với tâm giải thoát tôi sẽ thở vô, với tâm giải thoát tôi sẽ thở ra”, thì cái câu mà tâm giải thoát thở vô, thở ra này, thì rõ ràng là nó sẽ áp dụng đầu hay hoặc là áp dụng đuôi, tùy theo cái chỗ đó.
Bây giờ tới cuối cùng mình, “với tâm định tỉnh”, “với tâm hân hoan”, “với cảm giác về tâm”, rồi “cảm giác an tịnh tâm hành”, tất cả mọi cái, khi mà nó, cuối cùng, nó thấy được cái sự giải thoát của nó thì mình lại nhắc giải thoát. Nghĩa là ở trạng thái tâm nào thì chúng ta phải tu pháp hướng đó ở trạng thái tâm nấy.
(38:49) Bây giờ tới cái phần số sáu này, thì chúng ta thấy rằng cái phần này là cái phần mà chúng ta tu tập để xả cái tâm, để ly cái tâm của mình, tham, sân, si. Mà nó cũng là cái phần để mà chuẩn bị cho cái sự thuần thục để mà thực hiện cái Định Vô Lậu làm cho tâm tham, sân, si của chúng ta sạch, và cũng là một cái pháp trợ giúp thêm cho cái Tứ Chánh Cần để thực hiện được các thiện pháp cho trọn vẹn.
Bây giờ ở đây câu thứ nhất của nó đó, cũng nương vào cái hơi thở mà tu tập cái pháp này: “Quán vô thường tôi sẽ thở vô, quán vô thường tôi sẽ thở ra”.
Tại sao vô thường? Vì đây là mình tu các pháp mà, các pháp đều vô thường, thân chúng ta vô thường, tâm chúng ta vô thường, thọ chúng ta vô thường, tất cả mọi cái đều vô thường.
Chúng ta đã hiểu như vậy cho nên chúng ta ở đây, chúng ta tu rất dễ dàng, là vì chúng ta chỉ cần “quán vô thường tôi sẽ thở vô, quán vô thường tôi sẽ thở ra”, đó.
Thì như vậy là rõ ràng là mình thấy vạn pháp đều là vô thường, không có một cái vật gì mà nó thường hằng hết mà nó phải thay đổi, thay đổi hết, bữa nay nó vầy, ngày mai nó khác.
Cái bàn này trước kia nó mới, bây giờ nó cũ, rồi nó gãy, nó sắp hư, thì đó gọi là vô thường. Cho nên thân này hồi nhỏ nó khác, bây giờ nó già nó yếu, nó không còn mạnh khỏe nữa, thì nó là vô thường. Cho nên mình chỉ cần nhắc “Quán vô thường tôi sẽ thở vô, quán vô thường tôi sẽ thở ra”.
Đó là cái pháp tu, tu để nhắc cho mình biết vạn pháp đều vô thường, để không khéo rồi mình thấy “A cái bàn này đẹp quá!”Nhưng nó đẹp có một thời gian của nó trong hiện tại này, chớ ngày mai ngày mốt nó sẽ cũ, cũ rồi nó sẽ bị mục nát đi, nó đâu có còn thường nữa. Cho nên do mình biết nó vô thường, vì vậy cái đẹp của nó nó không quyến rũ mình được, cho nên mình không tham nữa.
(40:46) Bây giờ mình biết rõ là cái tâm của mình còn tham, tham ăn, tham ngủ, còn tham ái, tức là còn thương, còn giận hờn, ghét cái người này người kia, cho nên nó còn tham. Vì vậy đó mình cũng nương vào cái hơi thở, cái Định Niệm Hơi Thở này, để mình tu để mình ly tham, mình xả nó ra, mình làm cho nó rời ra, nó không còn dính ở trong cái lòng ham muốn của mình nữa.
Đó cho nên ở đây thì Phật dạy “Quán ly tham tôi sẽ thở vô, quán ly tham tôi sẽ thở ra”. Nghĩa là mình hít vô đó, thì mình hướng tâm theo cái hơi thở vô của mình, thì mình nói “Quán ly tham tôi sẽ thở vô”, rồi bây giờ cái hơi thở mình đi ra nè, thì mình cũng nói:_“Quán ly tham tôi sẽ thở ra”_. Đó, nghĩa là mình ly cái lòng tham, sân, si của mình, thì tức là mình ly cái tham thì mình nhắc cái ly tham đó.
Thí dụ như bây giờ mình quán đoạn diệt cái tham của mình, làm cho nó đừng có tham muốn, đừng có này kia. Bây giờ mình ly rồi, nhưng mà nó chưa có lìa, tức là chưa có đoạn được nó. Cho nên mình bắt đầu mình sẽ tiếp tục nương vào cái hơi thở, mình tu một cái thời gian để ly cho được cái tham của mình.
Mà bây giờ tiếp tục thì mình thấy nó ly được nhiều rồi, thì do đó mình trên cái bước đường tu tập về Định Niệm Hơi Thở, thì mình lại quán thêm: “Quán đoạn diệt tham tôi sẽ thở vô, quán đoạn diệt tham tôi sẽ thở ra”.
(42:13) Nghĩa là mình đoạn diệt cái lòng tham của mình, để cho mình nương theo hơi thở là mình nhấn mạnh, để cho mình diệt nó đi, đừng để cái tâm của nó ở trong cái tâm của mình. Đó thì như vậy là cái lối của Đức Phật dùng cái pháp hướng rất nhiều để cho mình ly tham, đoạn diệt, để mình được giải thoát.
Rồi bây giờ đó, nếu mà đoạn diệt được thôi, mà nó không đoạn diệt được, mà nó cứ lầy nhầy hoài, thì mình biết rằng cái pháp hướng này nó chưa đúng cách nó, nó còn dai quá.
Mình ly, mình lìa ra rồi mà mình đoạn không có được. Nó cứ còn, thỉnh thoảng nó còn chen vô, nó còn tới lui, cho nên mình hướng tâm mình đoạn không được. Mình thay đổi liền, mình phải hướng như thế nào để cho đúng cách đây? Đúng cách đây để rồi từ đó mình mới đoạn diệt nó được.
Thì do đó mình phải: “Quán từ bỏ tham tôi sẽ thở vô, quán từ bỏ tham tôi sẽ thở ra”. Đó, thì thấy như vậy thì, bây giờ mình đoạn diệt nó không được, sao nó không dứt, cho nên mình từ bỏ nó trước đã.
Hồi nãy mình ly nó ra, rồi bây giờ mình từ nó ra đi, mình từ bỏ nó nữa đi. Ly nó mà nó không cái chịu ly cho thật ly đi, nó cứ còn bám bám theo mình hoài, bây giờ mình từ bỏ nó đi. Thì mình từ bỏ nó, thì mình nương vào hơi thở để mình hướng tâm mình nhắc, mình nhắc nó mình từ bỏ.
Vậy thì chúng ta sẽ thấy có một cái tâm tham, mà ở đây chúng ta đã tu ba cái giai đoạn: quán ly tham, rồi quán đoạn diệt, và quán từ bỏ. Phải không.
(43:38) Bây giờ tới cái sân. Cái tham rồi, thì bắt đầu mình có thể mình thêm chỗ tham, mình bỏ chữ tham mình thêm chữ sân: “Quán ly sân tôi sẽ thở vô, quán ly sân tôi sẽ thở ra”. Đó mình chỉ thêm, mình bỏ chữ tham đi mình thêm chữ sân vô, thì như vậy là làm cho mình không còn sân nữa chớ gì?
Rồi bắt đầu mình “Quán đoạn diệt sân tôi sẽ thở vô, quán đoạn diệt sân tôi sẽ thở ra”. Mình đoạn diệt cái sân đi, đừng cái để cho nó còn nữa. Nhưng mà mình thấy sao nó cũng còn, cho nên mình phải quán từ bỏ. Do đó mình “Quán từ bỏ sân tôi sẽ thở vô, quán từ bỏ tham (sân) tôi sẽ thở ra”.
Đó, thấy như vậy: tham, sân si. Tham sân thì mình đã tu tập rồi. Bây giờ trong cái si, si là cái vô minh, mà đây chữ si của Phật muốn nói ở đây là cái chỗ ham ngủ, si là thùy miên, vô ký, ham ngủ đó, hay là hôn trầm.
Cho nên chữ si chỗ này không phải là chữ minh và chữ vô minh đâu. Nếu mình nói vô minh thì mình phải có một cái sức định để mình vén được cái màn vô minh của nó.
Nhưng mà muốn vén được cái màn vô minh đó thì trước tiên mình đập cái hôn trầm, thùy miên, cái vô ký, phải đập sạch nó. Nó không còn ham ngủ nữa, nó không còn ngồi đó mà ngủ gục nữa, thì nó sẽ minh được, nó sẽ sáng suốt, nó có trí tuệ.
Muốn được như vậy thì mình phải nhắc “quán ly si”, ly si tức là ly cái buồn ngủ, hay hoặc là “quán lìa xa cái tâm ngủ tôi sẽ thở vô, quán lìa xa cái tâm ngủ tôi sẽ thở ra”. Mình lìa xa cái lòng ham ngủ của mình.
Đó thì như vậy, rõ ràng là mình lìa cái si. Bây giờ mình gồm lại, mà nếu mình dùng ngắn, thì “quán ly si”, “quán lìa cái si”, “quán ly si tôi sẽ thở vô, quán ly si tôi sẽ thở ra”, hay hoặc là tùy theo từng chỗ dùng chữ, “quán ly vô minh tôi sẽ thở vô, quán ly vô minh tôi sẽ thở ra”.
Chữ vô minh cũng là si, mà ngay chữ si thì mình cũng quán được, mà ngay chữ ngủ, hôn trầm, “quán ly hôn trầm tôi sẽ thở vô, quán ly hôn trầm tôi sẽ thở ra”, hay hoặc là “quán ly thùy miên tôi sẽ thở vô, quán ly thùy miên tôi sẽ thở ra”.
(46:01) Đó, thì mình chỉ có thay đổi những cái chữ đó mình dùng. Thì mình bị cái bệnh nào, bệnh tham của mình thì mình quán ly tham, đoạn diệt tham, từ bỏ tham. Mà nếu mình hay sân, chuyện gì nó cũng dễ sân thì mình lại dùng câu này nương vào hơi thở để nhắc, để lìa cái sân của mình.
Tùy theo mọi cái đặc tướng, có nhiều người tham nhiều mà sân ít, có nhiều người sân nhiều mà tham không có, có nhiều người thì ham ngủ nhiều mà sân cũng không có, mà tham cũng không có mà ham ngủ.
Cho nên tất cả những cái này, do tùy theo những cái đặc tướng, mà chúng ta có ba cái: hành tướng, nhân tướng và đặc tướng. Do cái đặc tướng này mà chúng ta phải quán. Vì cái đặc tướng nào thì chúng ta đặt cái niệm đó ngay ở chỗ đó, mà chúng ta quán ly nó, đoạn diệt nó, và từ bỏ nó.
Đó, hôm nay về cái Định Niệm Hơi Thở là cái mục đích của nó để giúp cho chúng ta ly tham, ly sân, ly si, mà nó đã ly tham, đoạn diệt sân, và từ bỏ sân, thì nó trợ duyên cho Tứ Chánh Cần, nó giúp cho Tứ Chánh Cần toàn ở trong thiện pháp.
Nó trợ giúp, mà không trợ giúp trực tiếp, mà đây là cái sự trợ giúp gián tiếp của cái Định Niệm Hơi Thở. Còn cái Định Niệm Hơi Thở mà Chánh Niệm Tỉnh Giác, nó trực tiếp để ngăn chặn các pháp ác không sanh.
Đó các thầy thấy pháp gián tiếp, rồi cái pháp trực tiếp, thì mỗi một cái pháp nào nó cũng có cái sự trợ giúp ở trong đó. Nhất là cái Định Niệm Hơi Thở thì nó trợ giúp, nhưng mà trợ giúp bằng trực tiếp và trợ giúp bằng gián tiếp. Thì ở chỗ mà quán từ bỏ tham, sân, si này nó là cái gián tiếp.
HẾT BĂNG
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Thời gian: 1998
(0:00) Về cái Định Niệm Hơi Thở thì ở đây chúng ta cái phân rõ hai phần như Thầy xin nhắc lại đó.
Cái phần thứ nhất là Chánh Niệm Tỉnh Giác Định trong hơi thở, còn cái kia là Chánh Niệm Tỉnh Giác Định trong cái hành động của thân bên ngoài. Đó thì chúng ta thấy hai cái pháp này đều là cái pháp Chánh Niệm Tỉnh Giác cả hết, nhưng mà tỉnh giác hơi thở và tỉnh giác trong hành động, hai cái này nó thuộc về hành động nội và hành động ngoại mà thôi.
Còn cái Định Niệm Hơi Thở thì nó giúp cho chúng ta là tu cái Định Diệt Tầm Diệt (Giữ) Tứ, đó là pháp đầu tiên của nó.
Kế đó là những cái pháp mà nó trợ giúp gián tiếp cho cái Tứ Chánh Cần, làm cho các ác pháp sẽ bị đoạn diệt và nó giúp cho cái thân của chúng ta nó có những cái cảm giác, làm cho chúng ta thấy an lạc, làm chúng ta thấy hân hoan, làm chúng ta thấy định tỉnh, làm chúng ta thấy giải thoát. Nó giúp cho chúng ta thực hiện trên con đường càng tu càng thấy những kết quả thích thú, ham tu hơn, đó là cái Định Niệm Hơi Thở.
Nó chưa có áp dụng vào những cái định như Tứ Thiền hoặc là cái định khác nữa. Nó áp dụng tất cả mọi cái loại định thì cái Định Niệm Hơi Thở nó áp dụng rất nhiều. Thậm chí như Thất Giác Chi nó cũng áp dụng vào cái Định Niệm Thất Giác Chi nữa, nhưng ở đây vì chưa dạy tới Thất Giác Chi cho nên Thầy không có giảng dạy.
Nhưng ở đây bây giờ, chúng ta sẽ thấy được cái kết quả của cái Định Niệm Hơi Thở này, nó giúp cho cái thân và tâm của chúng ta thanh tịnh. Thanh tịnh tức là nó không còn tham sân si nữa tức là thanh tịnh, nó ly dục ly ác pháp cho nên nó thanh tịnh.
Ở đây Đức Phật khuyên chúng ta tu cái Định Niệm Hơi Thở để cho nó đạt được cái sự thanh tịnh. Nếu mà chúng ta tu tập thì chúng ta sẽ đạt được cái kết quả thanh tịnh đó:
“Tỳ kheo đi đến một khu rừng, hay đi đến một gốc cây, hay đi đến một căn nhà trống, ngồi kiết già lưng thẳng, đặt niệm trước mặt. Vị ấy chánh niệm thở vô, chánh niệm thở ra”.
Thì như vậy là nãy giờ mà Thầy đã đọc lại cái Định Niệm Hơi Thở, cách thức tu, thì bây giờ muốn cho cái thân và tâm và thọ của mình được thanh tịnh, thân, tâm, thọ và các pháp được thanh tịnh, tức là bốn chỗ này thanh tịnh đó, thì chúng ta thường xuyên mà tu tập như Thầy đã giảng hồi nãy, thì nó sẽ như thế nào?
“Tu tập như vậy làm cho sung mãn”, làm cho sung mãn tức là làm cho đầy đủ đó. Như vậy niệm hơi thở vô, hơi thở ra “sẽ có quả lớn, thì có lợi ích rất lớn”, nghĩa là nó có cái quả lớn để cho chúng ta, vì nó đem đến cho chúng ta được cái trạng thái thanh tịnh, rất thanh tịnh. Đó, thì đó là cái thứ nhất.
(02:48) Và đồng thời, cái quả như thế nào? Ở đây Phật cũng có dạy như vậy là trước khi mà chúng ta đi tìm cái nơi yên tịnh để chúng ta tu hành đó, rồi chúng ta cũng quán.
Bây giờ từ cái chỗ mà chúng ta quán cái hơi thở của chúng ta, như bắt đầu “cảm giác toàn thân”, cái bài thứ nhất mà “hơi thở dài”, “hơi thở ngắn”, thì nó là cái Định Diệt Tầm Giữ Tứ nó không quan trọng rồi.
Đến cái bài thứ hai thì chúng ta từ cái chỗ mà “cảm giác toàn thân” cho đến cái mà “quán từ bỏ tham sân si” của chúng ta, từ bỏ, đoạn diệt, rồi ly tham đó, cho đến chỗ cái chỗ “quán từ bỏ” đó, thì cái phần này nó sẽ giúp cho chúng ta có được những cái quả lớn của nó.
(03:39) Niệm hơi thở vô hơi thở ra sẽ được tu tập như vậy cho sung mãn thì chúng ta sẽ đạt được cái gì? Đạt được hai quả:
Ngay ở trong hiện tại thì chúng ta có Chánh Trí. Nó làm cho chúng ta sáng suốt, lúc nào nó cũng có sự hiểu biết, ai làm gì chúng ta cũng hiểu biết. Nghĩa là người ta chửi mình mình cũng vẫn hiểu biết. Mình hiểu biết, mà cái hiểu biết của cái Chánh Trí nó làm chúng ta không có giận cái người đó, ghét người đó. Nó đạt được cái Chánh Trí đó.
Nếu có cái quả thứ hai, thì ngay đó là chúng ta có được một cái quả, cái quả Bất Lai. Nghĩa là nó không có trở lui lại với cái đời sống phàm phu.
Ở đây bây giờ Thầy nói ví dụ nè, như Mật Hạnh bây giờ đã tu tập như vậy, khi bây giờ Mật Hạnh có ra đời, có thực hiện cái cuộc đời Mật Hạnh cũng vẫn là một người tốt chớ không bao giờ mà có phạm những cái bậy bạ, cái tầm bậy như con người chưa tu. Nghĩa là không có ác pháp đối với nó, nghĩa là ác pháp đến nó, nó vẫn có một cái Chánh Trí, nó biết được liền.
Cho nên ở đây nó có hai cái quả. Cái quả hiện tại mà cái người tu mà cái tâm nó quay vô, thì nó đạt được cái Chánh Trí. Nó thấy được cái đúng, cái sai. Nó không bao giờ nó bị cái đam mê của cái tà pháp bên ngoài mà cám dỗ làm nó sai. Nghĩa là nó không tiếp tục tu lại trên con đường tu nữa, nhưng mà nó vẫn có cái Chánh Trí.
Và nếu cái Chánh Trí đó nó sẽ có cái quả, cái quả đó là cái quả Bất Lai. Nó không đưa con người trở về cái phàm phu tục tử của đời sống của từ con người thô lỗ cho đến loài thú vật. Nó không đưa cái người đó trở về đó, mà từ cái chỗ đó, nó sẽ đưa trở về bậc Thánh, bởi vì cái Chánh Trí đó sẽ có cái kết quả, nó trở về bậc Thánh nếu nó đi tới. Còn nếu nó đứng lại đó thì nó vẫn chủ động được những cái xấu của người thế gian, cái ác của người thế gian.
Để rồi Thầy nói đây, rồi sau này thì các con sẽ tìm ở lại trong huynh đệ của các con, các con sẽ thấy lời nói của Thầy là đúng, cũng là cái lời nói ở trong kinh sách của Phật. Đây là cái quả của cái người tu tập, nó sẽ không mất cái quả giải thoát, cái quả đức hạnh đó nó không mất, nó không làm mất cái quả đó.
Chẳng hạn bây giờ các con thấy tu mình chưa có làm chủ sanh tử, chưa có gì hết, nhưng mà các con cũng sẽ được những cái quả rất lớn. Mà cái quả đó nó đạt được cái Chánh Trí, nó làm cho chúng ta vững vàng ở trên bước đường đời, hơn là lúc trước mà chúng ta chưa tu, nó có ác pháp. Mà ác pháp trong lúc đó chúng ta không biết nó là ác, cho nên chúng ta cứ làm, khi mà khổ rồi thì hay chớ còn chúng ta không biết.
(06:22) Còn cái này, khi mà Chánh Trí thì nó không bị sai lệch, nó không bị làm như cái người tục tử phàm phu, hung dữ như một con thú vật, nó trở về cái con người thật sự.
Nó còn một cái quả nữa. Tu tập trên đây thì sẽ được những bảy cái quả lận, nghĩa là nó có kết quả là bảy cái quả của nó, chớ không phải là một cái quả. Cái sự tu tập như hồi nãy cái bài Định Niệm Hơi Thở nó đem lại cái quả của nó như vậy, nó làm cho chúng ta tiến tới cái thiền định rất dễ.
Bảy quả của nó, quả thứ nhất là Chánh Trí, nó sẽ đoạn diệt được năm hạ phần kiết sử. Nghĩa là phải nói rằng mười phần kiết sử nhưng mà kết lại thì chúng ta sẽ thấy nó Thất Kiết Sử, nhưng mà nó diệt được năm cái hạ phần kiết sử. Cái Định Niệm Hơi Thở đó nó diệt được năm cái hạ phần kiết sử.
Cái trạng thái, thường thường cái người đó họ được ở trong cái trạng thái của cái tâm thanh thản của họ, chớ không phải là nó mất tiêu đâu. Họ thường thường họ cũng có thanh thản ở trong tâm của họ, cho nên họ cũng vẫn đạt được Bát Niết Bàn.
Rồi cái quả của họ nó hiện, trong hiện tại thì nó cũng sẽ có những cái Niết Bàn nó hiện tướng ra, nhưng mà cái Vô Hành Niết Bàn, nghĩa là có lúc nó ở trong cái vô thức của họ, nó cũng có cái trạng thái, nó làm cho họ rất là an ổn gọi là Vô Hành Niết Bàn.
Rồi Hữu Hành Niết Bàn nghĩa là bình thường trong những cái hành động hằng ngày của cái người này, nó có những cái hành động, mà cái hành động mang đến cho họ có cái niềm vui, cái niềm đó là cái niềm không tham, không sân, không si, không giận hờn.
Nó có cái trạng thái gọi là trạng thái giải thoát của họ. Mặc dù nó không được thường xuyên, nó không được sống thường xuyên, nhưng mà cái quả đó vẫn có đối với cái người mà tu cái Định Niệm Hơi Thở.
Hoàn toàn trong khi nó ngủ, tức là Vô Hành đó, nó không có hoạt động, thì nó cũng đạt được cái trạng thái yên tịnh trong giấc ngủ, chớ không phải là những cái ác pháp ở trong cái giấc ngủ đó, hoặc là làm bất an trong giấc ngủ đó, không có, nó được cái Vô Hành Niết Bàn.
Vì vậy thì cái người mà tu cái Định Niệm Hơi Thở đó, nó sẽ đạt được cái bậc Thượng Lưu. Thượng Lưu đây Đức Phật muốn nói là cái tâm Thượng Lưu chúng ta, biết xả bỏ, biết xả những cái lỗi lầm của người khác, tha thứ người khác. Cho nên nó được cái quả của nó là Thượng Lưu, luôn lúc nào nó không có hẹp hòi, nó không ích kỷ, nó không xấu xa, mà luôn luôn lúc nào nó có cái hành động cao quý của nó.
Và nó đạt được cái Sắc Cứu Cánh Thiên, là khi cái người này có chết đi thì họ cũng sanh vào cái cảnh trời Sắc Cứu Cánh, chớ nó không có mất cái quả. Mà cảnh trời Sắc Cứu Cánh thì các thầy biết rằng, ngay trong khi mà cái người tu đó họ đang sống trong mọi cái cảnh của thế gian này, nhưng mà tâm họ luôn luôn ở trong cái cảnh trời Sắc Cứu Cánh đó.
(9:38) Đó thì, nó được bảy cái quả tốt đẹp của nó. Kế đó thì cái người mà tu cái Định Niệm Hơi Thở này, thì họ thân không rung động, tâm không dao động, hai cái, thân không rung động.
Nghĩa là ngồi thiền thì nếu mà hướng tâm như vậy thì thân không rung động, bởi vì tỉnh, nó không mê. Còn nó mê nó sẽ chạy theo an lạc thì thân nó bồng bềnh, nó dao động. Cho nên đó mình thiếu cái pháp hướng để nhắc tâm, cho nên mình không có nhắc nó, cho nên cái thân mình nó bị dao động, nó bồng bềnh, bồng bềnh.
Như cháu Trang hồi còn ở đây tu hành hay nói, “Sao cái thân con ngồi khi mà hết vọng tưởng, nó bồng bềnh bồng bềnh, rồi lúc cái nó mất”. Thì đó là nó bị rơi vào cái trạng thái của tưởng, rồi nó thấy cái thân nó bồng bềnh, bồng bềnh, như nổi, như chìm, nó dao động, lúc lắc.
Ở đây cái người mà tu theo kiểu cách của Đức Phật như vậy, là cái thân không bị rung động và cái tâm cũng không dao động. Nhờ tu tập Định Niệm Hơi Thở vô hơi thở ra như vậy, làm cho sung mãn như vậy, nên thân không rung động, tâm không dao động.
Đó, nó có những cái kết quả. Và những cái kết quả đó là cái Định Niệm Hơi Thở chúng ta luyện tập để nó mang lại những kết quả này, để sau khi mà chúng ta đi vào thiền định khác thì nó không bị cái thân dao động, cái tâm dao động.
Mà nó có một phần giải thoát được các lậu hoặc nữa. Cái Định Niệm Hơi Thở này tu thì nó có một phần nó giúp chúng ta cũng giải thoát được các lậu hoặc. Trước khi giác ngộ, chưa chứng Chánh Đẳng Giác, đây là lời Đức Phật nói:
“Khi còn là Bồ Tát, ta tu tập nhiều với pháp môn này. Do ta tu tập nhiều với pháp môn này, thân ta và con mắt không có mỏi mệt, không có mỏi nhọc, và tâm ta giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ”.
Nghĩa là các pháp này, pháp kia, Đức Phật không bị dính mắc, không có chấp thủ vào những dính mắc đó. Cho nên do nhờ cái tu tập này mà Đức Phật không có bị dính mắc.
Mặc dù là tu cái cái pháp của các vị thầy dạy cho mình, tu cái Không Vô Biên Xứ, cho đến cái Định Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ. Nhưng mà tu được rồi thì Đức Phật cũng không dính mắc, không chấp thủ những cái pháp này, cho nên thoát ra khỏi một số lậu hoặc rất là lớn.
Cho nên cái Định Niệm Hơi Thở nó có cái giá trị như vậy, mà ngay từ đầu các con cũng như các thầy về đây, Thầy bắt buộc phải tập ổn định hơi thở nè, rồi tập làm cho có một cái tụ điểm để mà bám chặt cái hơi thở nè, rồi luyện cái hơi thở dài, chậm, để tạo thành cái tụ điểm. Từ luyện cái hơi thở bình thường mấy giây, tu tập để cho nó thuần thục ở trong hơi thở.
(12:28) Vì cái Định Niệm Hơi Thở nó có nhiều cái lợi ích như vậy và nó cũng là một cái pháp để mà chúng ta trợ duyên cho các pháp khác.
Cũng như một cái người học Pháp văn, thì người ta bắt buộc mình phải học chia cái động từ “avoir” hoặc “être”, nó phải cho làu, thuộc làu, để rồi dùng nó chia mà các động từ khác cho nó dễ dàng.
Thì ở đây thì các thầy cũng thấy rằng Thầy đã nhào nặn quý thầy. Các con phải luyện tập cái hơi thở, không có nói pháp nào hết, mà cứ vô cứ luyện tập hơi thở để cho nó thuần thục, nó quen với cái hơi thở, nó rất là thuần, do đó bây giờ mới áp dụng vào những cái khác thì nó mới dễ. Sau khi áp dụng vào cái khác thì vừa biết thở, mà lại vừa nhắc cho mình về cái pháp đó để xả tâm.
Bây giờ thí dụ như “Hít vô tui biết tâm tui cần xả tâm tham, thở ra tui biết tâm tui xả tâm tham”, đó là mình câu hữu với Định Vô Lậu chớ gì! Đó mình biết như vậy. Bây giờ “Hít vô tui biết thân tui không phải là ngã, thở ra tui biết thân tui không phải là ngã”, đó là mình câu hữu với Định Vô Lậu chứ gì, để mình diệt ngã chớ gì!
Đó, tất cả những cái này, nếu mà mình chưa thuần thục hơi thở, thì mình hít vô thì mình nói chưa có kịp, mà mình thở ra rồi mình nói cũng chưa có kịp.
Còn mình thở vô mình đã quen rồi, cho nên vì vậy mà mình thở vô cái mình nói, thì trong khi đó cái tâm mình nó hướng theo, nó lại đặt thêm một cái Định Vô Lậu, nó câu hữu với cái Định Vô Lậu, nó phá đi cái ngã, nó phá đi cái chấp ngã của mình. Nó làm cho mình không còn tham, sân, si, giận hờn nữa.
Hay hoặc là bây giờ “Hít vô tui biết tâm tui như cục đất, thở ra tui biết tâm tui như cục đất”, thì mình hít vô mình cũng nói, nó nương vào cái hơi thở nó rất tỉnh.
Như Thầy nói bây giờ, thí dụ như các con thấy nè, mình nương vào hơi thở mà mình tu cái Chánh Niệm Tỉnh Giác ở bên ngoài nữa, thí dụ như mình vừa đi mà mình biết hơi thở tức là mình câu hữu giữa hai cái định Chánh Niệm Tỉnh Giác của nội và Chánh Niệm Tỉnh Giác của ngoại, hai cái mình câu hữu, thì mình thấy sao mình đi sao nó tỉnh quá, nó đi hai, ba vòng mà nó không có tạp niệm. Thì đó là mình câu hữu giữa hai cái: hơi thở và cái hành động đi của mình.
Cũng như bây giờ mình vừa quét mà mình câu hữu được với cái hơi thở của mình nữa. Mình biết cái hơi thở ra, vô mà mình vừa quét, nó làm cho mình rất tỉnh trong cái thời gian, tức là gọi là nương hơi thở để mà biết rõ cái hành động đang quét sân hay quét nhà. Cách thức tu tập nó như vậy đó, tức là câu hữu như vậy.
(14:43) Cho nên cái Định Niệm Hơi Thở là nó để dùng để mình nhờ nó mà mình tu tập các định khác, mình vào định.
Cũng như bây giờ Thầy nói, bây giờ thí dụ như mình tu về cái Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền, thì mình rằng cái Nhị Thiền là phải diệt Tầm Tứ, mà cái Sơ Thiền thì phải ly dục ly ác pháp.
Mà bây giờ mình chưa có ly dục ly ác pháp thì mình “Hít vô”, bây giờ mình: ”Hít vô tui biết tâm tui ly dục ly ác pháp, thở ra tui biết tâm tui ly dục ly ác pháp”, mình nhắc tâm mình ly dục ly ác pháp. Nhưng bây giờ nó chưa ly mà mình nhắc nó, tức là ý của mình là muốn cho nó ly dục ly ác pháp, đó là mình câu hữu với cái Sơ Thiền.
Và đồng thời mình nhắc như vậy, và nhắc như vậy thì mình sống đúng cái giới hạnh, thì cái giới hạnh nó giúp cho mình ly những cái dục, ly những ác pháp. Và mình tập Tứ Chánh Cần, nó làm cho mình lìa các ác pháp đó ra. Và do cái sự tu tập đó, và do cái sự câu hữu này nó nhắc, nó làm cho những cái này nó kết hợp, nó thành một cái đạo lực.
Khi đó mình nhắc “Tâm như cục đất, không có giận hờn phiền não”, thì do đó tâm nó như cục đất không phiền não, thì nó sẽ ly dục. Vì vậy mình nói “Tâm phải ly dục ly ác pháp, nhập Sơ Thiền” là ngay đó nó sẽ nhập liền, nó sẽ ở chỗ trạng thái mà không có ham muốn, không có ác pháp.
Cho nên mình câu hữu như vậy thì mình nhắc, ngay đó là nó vô Sơ Thiền liền tức khắc. Thì bắt đầu bây giờ nó vô Sơ Thiền thì, bởi vì mình nương hơi thở để mình nhắc nó, thì khi mình nhắc như vậy, thì cái hơi thở ra vô này, thì nó là cái đường để cho mình đi vào cái Sơ Thiền.
Mà khi mà nó ly ác pháp rồi, thì bắt đầu nó còn hơi thở thì cái hơi thở nó do cái ly dục ly ác pháp sanh hỷ lạc. Nó sanh hỷ lạc, thì cái hỷ lạc đó nó làm cho chúng ta không có cái thấy cái hơi thở của chúng ta đang thở ở chỗ cái Sơ Thiền. Vì vậy mà chúng ta còn thấy một cái trạng thái ly dục ly ác pháp. Đó là cách thức là như vậy.
Bây giờ Nhị Thiền thì chúng ta nhắc: “Cái tâm phải tịnh chỉ Tầm Tứ!” Thì bắt đầu mình nhắc như vậy. Thì khi mà mình bảo “Cái tâm phải nương hơi thở, phải tịnh chỉ Tầm Tứ!”, thì lúc bấy giờ nó nương hơi thở ra hơi thở vô. Vì hằng ngày mình nương cái hơi thở, mình thở ra thở vô, để cho mình diệt Tầm diệt Tứ.
Như hồi nãy đó Thầy nói tu diệt cái Tầm mà giữ Tứ đó, “hít vô tui biết tui hít vô, thở ra tui biết tui thở ra” đó, “hít vô dài tui biết tui hít vô dài, thở ra dài tui biết tui thở ra dài”đó.
Đó là cái chỗ tu tập làm cho cái tâm của chúng ta nó nương vào cái hơi thở mà nó diệt Tầm Tứ. Thì bây giờ mình nhắc nó thì ngay đó là nó đã diệt Tầm Tứ để nó nương vào hơi thở, rồi từ đó nó nhập vào cái Nhị Thiền.
Đó thì các con và các thầy thấy, cái Định Niệm Hơi Thở nó có một cái giá trị rất cao, là nó trợ giúp cho chúng ta đạt được những cái kết quả mà chúng ta mong muốn. Đó.
(17:21) Thì đây là về cái phần Định Niệm Hơi Thở. Coi như là Thầy dạy hôm nay là các con biết từ căn bản, sơ cơ, cách thức tu tập về cái Định Niệm Hơi Thở, chớ không phải là dạy sổ tức, tùy tức đâu.
Nhưng mà trước kia là vì dạy theo các pháp môn của Đại Thừa, của kinh sách Nguyên Thủy, của các pháp mà của các Tổ dạy, thì Thầy thấy từ cái pháp sổ tức, tùy tức thì nó cũng là do cái chỗ tu tập để làm cho Tầm Tứ nó diệt, vọng tưởng nó hết, cho nên hướng dẫn các con nương vào cái chỗ sổ tức, chớ không hướng dẫn theo cái kinh sách của đạo Phật.
Mà bây giờ thì chúng ta đã thành lập một cái Giáo án đường lối của đạo Phật, thì tất cả những cái gì mà của các Tổ đặt ra, nó không phải là của đạo Phật mà của các Tổ, thì chúng ta để qua một bên.
Sau đó thì chúng ta sẽ có một bài kết hợp, cái gì mà làm cho lợi ích trên bước đường tu tập thì chúng ta lấy để mà nương theo đó mà hướng dẫn người tu. Cái gì mà nó không có lợi ích bằng cái pháp mà Phật dạy thì chúng ta nên bỏ nó.
Thí dụ như bây giờ cái pháp sổ tức, nó là cái pháp ức chế tâm, thì nó không bằng cái pháp mà chúng ta hướng tâm về hơi thở, do đó chúng ta thấy nó không kết quả, vì nó ức chế tâm thì dễ rơi vào các trạng thái định tưởng. Bởi vì ức chế tâm thì cái ý thức của mình nó không hoạt động, thì cái tưởng thức nó phải hoạt động.
Còn cái này, chúng ta ý thức nó vẫn còn hoạt động theo cái pháp hướng, cho nên nó không mất đi, do đó chúng ta không ức chế tâm, mà do vì vậy m chúng ta hướng để mà xả tâm. Từ cái xả tâm nó hết vọng tưởng, nó diệt Tầm Tứ bằng cách là nó ly cái tâm ra.
(18:55) Bây giờ đến cái giai đoạn tu tập Tứ Niệm Xứ rồi. Vậy thì tiếp tục ở trên cái bước đường mà tu tập Tứ Niệm Xứ, thì chúng ta đã bước qua một cái giai đoạn Niệm, thì tức là phải tới Định. Chữ Niệm ở đây, thì ở đây nó có bốn chỗ để mà chúng ta niệm.
Nhưng mà chữ Niệm, Tứ Niệm Xứ đây là bốn cái chỗ để đặt pháp. Chữ Niệm đây là pháp, cho nên chúng ta đặt cái pháp ở trên cái chỗ đó, cái nơi đó, để mà chúng ta tu tập cái nơi đó, chúng ta tu làm sao cho đạt được cái chỗ đó.
Cho nên khởi đầu tu tập thiền định, bởi vì ở đây đạo Phật nói chung hoàn toàn là thiền định, không có một pháp nào là không thiền định.
Mới đầu vô chúng ta tu tập Chánh Niệm Tỉnh Thức thì cũng là Thiền Định. Nếu không có cái pháp này, không có pháp Chánh Niệm Tỉnh Thức thì chúng ta không ngăn chặn được ác pháp, thì Tứ Chánh Cần chỉ là nói suông, không có nghĩa gì hết, không có cách thức tu rồi.
Cho nên nếu mà giải thích riêng từng cái pháp, như Tứ Chánh Cần riêng ra, thì chúng ta nói: các pháp ác chưa sanh không cho sanh, thì lấy cái gì không cho nó sanh đây, mà người ta bảo rằng mình đừng cho sanh?
Không cho sanh là tui làm sao tui không cho sanh? Nó tự ở trong tâm tui, nó tự các pháp ở ngoài nó đập vô, nó chửi mắng tui, nó làm cho tui khổ, thì tức là tui phải sanh, mà bảo tui đừng sanh là tui lấy cái gì tui chặn nó được đây?
Cho nên vì vậy nếu mà chúng ta lấy riêng nội cái pháp Tứ Chánh Cần mà tu, thì chắc chắn là chúng ta không biết rồi. Cho nên hầu hết là các thầy mà giảng dạy, các Hòa thượng mà giảng dạy về Tứ Chánh Cần nó độc lập riêng nó ra, thì coi như là các thầy đó không biết đâu, không biết pháp tu đâu.
(20:29) Cho nên nói Tứ Chánh Cần, chứ sự thật ra chúng ta tu những cái thiền định: Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, Định Niệm Hơi Thở, Định Vô Lậu, ngay trên đó chúng ta mới ngăn chặn được các pháp ác, và không cho các pháp ác tăng trưởng. Đó thì, nó phải có cái pháp để mà chúng ta tu tập.
Bây giờ chúng ta đã hiểu được như vậy, thì cho nên tất cả các pháp của Phật đều gọi là thiền định hết, không có pháp nào là không thiền định.
Chúng ta có cái quan niệm sai lầm, là hễ khi nào mà nói thiền định là phải khoanh chân ngồi kiết già, rồi ngồi đó hít thở hay niệm Phật gọi là thiền định. Hễ thấy ai ngồi thì gọi là thiền định, còn cái người mà đi họ không cho thiền định.
Mà ngay cả khi mà chúng ta đi kinh hành mà chúng ta nhiếp tâm, đó là Chánh Niệm Tỉnh Giác Định của người ta mà! Cái định ở trong cái hành động đi của người ta mà.
Trong khi người ta quét sân, người ta lặt rau, người ta nấu cơm, người ta làm mọi công việc, thì người ta tu ở trong cái Định Chánh Niệm mà, cái tâm của người ta đang giữ cái Chánh Niệm đó, cái niệm chân chánh đó để ở trong cái tỉnh thức đó.
Thế mà mình không cho người ta định, chỉ bảo rằng mình phải ngồi trước bàn Phật kìa, đốt cây hương lên kìa, rồi mới ngồi chéo chân ở trên đó, rồi ngồi hít thở đó. Mà trong khi hít thở đó, chắc gì mà cái tâm của người hít thở đó là nó đang yên tĩnh, không có vọng tưởng đâu?
Nó nghĩ tầm bậy tầm bạ, nó ham, nó ngồi đây mà nó nghe người ta ở ngoài bếp mà chiên xào gì đó, bắt đầu cái nước miếng nước mồm nó ngồi đó mà nó chảy ra, rồi nó nhớ ba cái đồ chiên đồ xào. Thì thử hỏi như vậy là lúc đó nó thiền hay là lúc đó nó thèm ăn?
Cho nên, khi mà ngồi thiền như vậy, thì thử hỏi khi mà người ta đi kinh hành vậy người ta có ngủ không? Còn mình ngồi, một lúc nghe nó an an, cái thân nó lặng lặng, cái bắt đầu gục xuống gáy vậy. Thì cái đó là thiền gì? Thiền gục chớ thiền gì!
Bởi vậy người ta nhập Tứ Thiền thì cái anh này lại nhập “ngủ thiền”. Anh ngủ ở trỏng, thành ra anh phải nhập “ngủ thiền” chớ sao! Anh hơn Phật là cái chỗ ảnh nhập “ngủ thiền”.
(22:14) Cho nên cái ngồi nó không có phải là cái chỗ thiền, nhiều khi nó lại sai lệch đi, nó chưa đúng. Nhưng cái ngồi cũng là một cái tu thiền, nếu mà tu đúng. Còn bây giờ mình tu mình cứ gục lên gục xuống, thì cái đó là thiền gì? Hay hoặc ngồi đó mà loạn tưởng nhớ cái này cái kia, thì cái đó là thiền gì? Đó là không phải thiền.
Còn bây giờ người ta đi như vậy, mình cho rằng người ta không tu thiền, thì cái đó sai. Tu phải vô chùa, phải gõ mõ, tụng kinh, cái đó là trật nữa! Cái đó là chửi lộn với ông Phật chớ tu cái gì?
Lâu lâu ông Phật ổng làm thinh, ông ngồi, ổng bằng xi măng ông ngồi đó, mình cứ réo tên Nam Mô A Di Đà Phật, tức là chửi ổng chứ gì, kêu tên ổng, chửi ổng! Nếu mà ông không bằng xi măng chắc là ông cũng không chịu nổi, ông buông chân xuống, ổng cũng rầy dữ: “Sao mày cứ kêu tên tao hoài?”
Bây giờ thử hỏi đi, mình ngồi đây mà ai kêu tên mình có tức không? Cứ réo cái tên mình hoài có tức không? Còn bây giờ ông Phật ổng ngồi đó, thí dụ như ông Phật Di Đà, cứ Nam Mô A Di Đà Phật, Nam Mô A Di Đà Phật, ổng tức mình “Tao, cái tên tao mình cứ gọi hoài!” Nó là những cái sai, nó không có đúng đâu.
Cho nên ở đây phải thực hiện là làm sao cho thân - thọ - tâm - pháp của mình nó được thanh tịnh, nó không bị ác pháp, nó làm cho được giải thoát nơi đó, thì cái đó là cái đúng.
Cho nên ở đây thì phải biết rằng tất cả những pháp của Phật đều là thiền định.
Khởi đầu tu tập thiền định, là bắt đầu từ Định Tư Cụ. Định Tư Cụ tức là Tứ Chánh Cần, các thầy thấy rất rõ. Bởi vì cái pháp này là pháp đầu tiên để mà chúng ta thực hiện thiền định. Mà Định Tư Cụ thì nó đã xác định cho chúng ta được ba cái định ở trên cái chỗ tu tập đó rồi.
Mà quý vị đã được học và thực hiện trên Tứ Niệm Xứ, nghĩa là trên cái Định Tư Cụ này, là Tứ Chánh Cần này, nó được thực hiện ở trên Tứ Niệm Xứ chớ không phải, là bốn chỗ mà chúng ta tu tập, thì lấy cái Định Tư Cụ này đặt ở trên bốn chỗ đó để tu tập cho bốn cái chỗ này nó được thanh tịnh, tức là thân - thọ - tâm - pháp của chúng ta.
(24:00) Cho nên Tứ Niệm Xứ là bốn lãnh vực được quý vị thực hiện các loại thiền định trên đó, gồm có mười sáu loại định. Nghĩa Đạo Phật đâu có nói một cái thứ thiền định đâu, mà mười sáu cái loại định, mà lấy bốn cái chỗ thân - thọ - tâm - pháp mà gọi cái tên chung của nó là Tứ Niệm Xứ.
Lấy bốn cái lãnh vực này để chúng ta thực hiện mười sáu cái loại định ở trên đó, để làm cho bốn cái chỗ này nó sạch sẽ, nó thanh tịnh, nó không còn ô nhiễm, nó không còn ác pháp nữa. Bốn cái chỗ này giải thoát là chúng ta giải thoát. Chớ không phải là chúng ta tu cái vấn đề ngoài.
Thí dụ như bây giờ mình niệm “Nam Mô A Di Đà Phật” để cầu cho mình được vãng sanh Cực Lạc, thì cái đó là vấn đề ngoài rồi. Mà ngay cái thân này không có gột rửa cho sạch sẽ thì thử hỏi làm sao mà cho nó hết giận, hết hờn? Ngay cái tâm này mà không có gột cho nó sạch sẽ thì nó buồn phiền, nó lo lắng, nó sợ hãi, nó thương, nó ghét, nó giận, nó hờn, nó đủ thứ.
Cho nên thân - thọ - tâm - pháp là bốn chỗ để mà chúng ta tu tập, làm cho nó không giận hờn phiền não, không đau khổ nữa.
Như cái thân của chúng ta nè, bị cái thọ nó làm cho cái thân chúng ta thấy đau nhức cái chân nè, nhức cái đầu nè, mà chúng ta không tu ở trên cái này, để khi mà cái thọ nó có đánh vào cái thân thì chúng ta không thấy đau đớn gì hết. Thì cái đó là mới cụ thể để giải thoát được cái bệnh ở trên thân của chúng ta.
Còn cái này chúng ta tu vấn đề ngoài, thí dụ niệm Phật nó có nhằm nhò gì ở trên thân này đâu? Cầu vãng sanh cực lạc thì nó có ăn thua gì? Còn bây giờ mình giữ Phật Tánh thì Phật Tánh nó cũng nhằm nhò gì ở trên cái thân này đâu? Phật Tánh thì nó vô hình này kia, tôi kiến tánh để thành Phật rồi, cần gì mà phải tu cái tâm này đâu?
Do đó thì cuối cùng thì mình không giải thoát cái thân tâm của mình, mà ngay trên cái này, cái thân tâm mình đang khổ nè, mà không có tu tập.
Còn ở đây chúng ta ngay ở trên bốn cái chỗ đó gọi là Tứ Niệm Xứ, trên bốn chỗ đó để mà tu tập. Tu tập làm cho bốn chỗ đó nó không còn đau khổ, nó không còn chết chóc, nó không còn sanh tử luân hồi, thì ngay bốn cái chỗ này là bốn cái chỗ mà chúng ta cần phải, lấy các pháp, cần phải rèn luyện, cần phải làm cho nó sạch sẽ, làm cho nó không còn đau khổ nữa. Bốn cái chỗ này không có đau khổ nữa, thì chúng ta gọi là giải thoát.
Vì thế bốn lãnh vực này rất quan trọng. Một con người ai cũng có bốn cái chỗ này. Người nào chúng ta cũng thấy là thân - thọ - tâm - pháp, phải không? Trong thân người, người nào cũng có bốn cái này hết, không có người nào là không có, ai cũng có hết.
Nhưng đối với người chưa tu tập, còn phàm phu, thì bốn chỗ này là bốn chỗ ô nhiễm bất tịnh. Nghĩa là tâm tham ăn, thân này ăn này, rồi tâm ham muốn cái này cái nọ kia, nó ô nhiễm đủ thứ hết, mà nó bất tịnh, nó đủ cách hết. Cho nên thân - thọ - tâm - pháp của cái người phàm phu thì nó là bất tịnh. Nhưng mà đối với người mà tu tập thì cái thân - thọ - tâm - pháp của họ lần lượt nó mới thanh tịnh.
Bốn chỗ này thường sanh khởi, vì nó bất tịnh đó mà nó đem đến cho chúng ta nhiều cái đau khổ. Cho nên nói, bốn chỗ này thường sanh khởi mọi thứ đau khổ của kiếp người.
Nghĩa là nơi thân nè, nếu mà thân không bệnh thì chúng ta không thấy khổ nè, mà thân có bệnh chúng ta thấy khổ không? Khổ nè. Mà tâm chúng ta không bị ai chửi nè, mà cứ bị ai chửi chúng ta thấy có khổ không? Rồi tâm của chúng ta nó không có, bình thường nó không gì hết, mà nó khởi nó thương nó nhớ, hay hoặc là cha mẹ nó bệnh đau chết, nó khóc lóc bù lù, bù loa bù lê, thì thử hỏi nó có khổ không?
(27:24) Đó, rõ ràng là nơi bốn cái chỗ này nó thường sanh khởi những cái niệm đau khổ của kiếp người.
Thì chúng ta biết được bốn cái chỗ đó như vậy đó, thì nó là địa ngục hay thiên đàng cũng nơi bốn chỗ này mà thôi. Cho nên bốn chỗ này mà không lìa xa ác pháp thì ngay đó là địa ngục cho kiếp người.
Nghĩa là ác pháp là cái tâm khổ, như mình sân là ác pháp, như mình tham là ác pháp, như mình ngu si là ác pháp, mình ham ăn ham ngủ là ác pháp đó. Cho nên nếu mà mình không lìa cái ác pháp này thì ngay đó là địa ngục của cái kiếp mình đó, luôn luôn lúc nào mình cũng khổ hết.
Còn nếu bốn chỗ này, thân - thọ - tâm - pháp này mà chúng ta lìa xa ác pháp, thì nơi đó là Niết Bàn, chớ đâu cần đi tìm Niết Bàn ở chỗ nào? Nơi bốn cái chỗ này mà chúng ta lìa được ác pháp, thì nơi đó là Niết Bàn.
Chắc chắn ai cũng biết được cái cảnh giới Niết Bàn, dễ dàng lắm, cụ thể lắm, nó rõ ràng. Không có ác pháp thì đó là Niết Bàn, mà có ác pháp thì đó là địa ngục, nó là đau khổ.
Tất cả các pháp môn của Phật đều lấy bốn chỗ này thực hiện. Nghĩa là cho nên luôn luôn pháp nào của Phật cũng ở trên bốn cái chỗ này để mà thực hiện hết. Cho nên tu tập, trau dồi, rèn luyện hay dứt bỏ đều ở trên cái chỗ này.
Bây giờ thí dụ như cái thân của chúng ta nè, ghiền thuốc nè, ghiền cafe nè, ghiền thuốc phiện nè, ghiền rượu nè. Thì ở chỗ cái thân ghiền nay nè, nó muốn uống rượu nè, nó muốn hút thuốc nè, nó muốn uống cafe nè, nó thèm nó khát nè.
Thì do đó chúng ta phải nỗ lực muốn làm cho nó thanh tịnh không còn ham muốn đó nữa, thì phải dứt bỏ không có được uống rượu nè, không được hút thuốc nè, không được uống cafe nè, không được hút á phiện nè.
Thì như vậy mình tự dứt bỏ mình, chớ không ai dứt bỏ cho mình được hết. Bởi vì cái này là do nhân quả mình đã tạo ra mình thành thói quen, thành nghiệp, thì mình phải chịu bỏ, chịu lấy, chớ còn ai mà làm giúp cho mình được.
Cho nên ở đây thì ngay từ ở trên cái chỗ thân - thọ - tâm - pháp này mà mình dứt bỏ, mình rèn luyện, mình trau dồi, thì nó sẽ trở thành những thiện pháp, nó làm cho mình được giải thoát.
Chớ không phải ngoài cái chỗ này, mình đi cầu khẩn, mình tu tập cái gì để cho nó giải thoát được, thì không bao giờ có được, mà phải ngay ở trên bốn cái chỗ này. Mà bốn cái chỗ này gọi là Tứ Niệm Xứ.
(29:37) Cho nên chúng ta học Tứ Niệm Xứ chúng ta phải hiểu được, rành cái chỗ này. Chứ nếu mà học Tứ Niệm Xứ mà không rành thì chúng ta coi như là cái pháp Tứ Niệm Xứ, cho nên người ta nói Tứ Niệm Xứ là “trái tim thiền định”. Có phải đặt tên vậy trúng không? Các thầy thấy đặt cái tên đó đâu có trúng.
Bởi vì nó là trái tim thiền định, mà thật sự ra, ở đây mình làm cho nó thanh tịnh, chớ nó là trái tim cái thứ gì? Mà bao nhiêu thứ định mà đem đặt lên đây để mà tu nó chớ đâu phải là nó là cái nhịp tim của chúng ta, để chúng ta thực hiện cái thiền định của Tứ Niệm Xứ này đâu?
Nếu mà nói như vậy thì Tứ Niệm Xứ là một cái loại thiền định để mà chúng ta để thực hiện các cái loại thiền định cao, thiệt cao siêu của nó, nó là cái gốc, nó là trái tim mà, cái nhịp tim, nhịp máu của chúng ta mà. Nhưng mà nói như vậy không có nghĩa đúng đâu.
Bởi vì bốn cái chỗ này là bốn cái chỗ ô nhiễm của một con người phàm phu tục tử. Chúng ta muốn giải quyết cho nó thoát khỏi bốn cái chỗ ô nhiễm này để cho nó thanh tịnh, thì chúng ta dùng các pháp Thiền Định khác mà đem về đây, để mà rèn luyện nó.
(30:44) Cũng như bây giờ Thầy ví dụ để cho thấy, như cái nhà mình ở đây ne, cất lên bằng tầm vông, trúc tre, nó xấu quá, nó không có đẹp đẽ. Cho nên từ đó mình mua những cái mành bằng nylon, mình trang trí cho những cái cửa sổ, rồi cửa cái, để làm hay hoặc là mua vài cái đèn như thế này để treo lên, để làm cho nó đẹp thêm, cho nó coi được một chút, thí dụ vậy.
Thì cái kia mình cũng phải đem những cái pháp khác để mà gọt rửa, để làm cho nó sạch ra. Bởi vì, cũng như cái nhà mình đây bây giờ nó dơ, thì bắt đầu mình phải đem nước mình rửa cho nó sạch. Chớ cái nhà dơ, rồi mình lấy cái nhà dơ này mình làm cho nó nữa, thì nó dơ nữa thì sao?
Cho nên ở đây mình biết cái nơi này nó đang bị bụi bặm, dơ bẩn, nó ô nhiễm, không có sạch, cho nên mình mới lấy cái bàn chải nè, mình mới lấy cái thùng nước nè, mình mới lấy xà bông nè, mình mới lấy thuốc tẩy mình đem vô đây nè, mình mới tạt nước, mình rửa, mình cọ cái chỗ này cho nó sạch.
Thì cái chỗ này đang bị cọ rửa sạch mà gọi nó là thiền định thì Thầy thấy, nó là thiền định gì?
(31:46) Có hiểu vậy thì mới biết được cái chỗ tu tập của chúng ta. Chính thân - thọ - tâm - pháp của chúng ta nó đang ô nhiễm nè. Nó đang tham mê nè, nó đang giận hờn, nó đang phiền não nè.
Mà bây giờ nó đang nhiễm như vậy đó thì chúng ta phải lấy Định Niệm Hơi Thở nè, chúng ta lại phải lấy định Chánh Niệm Tỉnh Giác nè, chúng ta lại phải lấy định Tứ Chánh Cần nè, chúng ta phải lấy Định Vô Lậu nè, chúng ta lại phải lấy Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền nè, chúng ta mới đem nó để mà rửa nó làm cho nó sạch nó đi, nhờ các thiền định này mà làm cho nó sạch đi.
Thì như vậy cũng như là các thiền định này nó cũng như là cục xà bông nè, nó bàn chải nè, nó bàn chà nè. Chúng ta chỉ còn có ra công mà chà cái nền này cho nó làm cho sạch, vách này chúng ta chà rửa cho nó sạch.
Thì như vậy rõ ràng là Bốn Niệm Xứ này nó có phải pháp chúng ta để tu đâu, mà nó nơi để chúng ta chùi rửa cho nó sạch, bởi vì nó đang nhơ bẩn, nó đang ô nhiễm, có đúng không? Thầy nói đây quý thầy cứ suy ngẫm có phải không?
Thân của quý thầy hiện bây giờ, nếu mà nói là tui không ô nhiễm, thì tức là thanh tịnh rồi. Mà thanh tịnh rồi thì cái thân của quý thầy nó đâu có còn bẩn thỉu như thế này? Tức là nó đâu còn bất tịnh. Phải không?
Cho nên do vì vậy mình mới xét cái thân mình nó còn bẩn thỉu lắm, nó còn bất tịnh lắm. Cho nên mình phải còn gột rửa. Mà còn gột rửa tức là còn tu chớ gì! Cho nên phải lấy cái pháp mà để gột rửa nó, mà cái pháp còn gột rửa nó thì tức là tu.
Cho nên ở đây không thể nói là Tứ Niệm Xứ là pháp môn được. Mà Tứ Niệm Xứ là bốn chỗ để chúng ta dùng các pháp môn khác để tu tập trên đó. Cho nên Thầy mới nói Tứ Niệm Xứ nó sẽ xác định được các loại thiền ở trên đó. Trước kia Thầy có tuyên bố những cái lời nói đó.
Hầu hết là người ta giảng về Tứ Niệm Xứ, người ta không lột trần được cái này. Dường như là Tứ Niệm Xứ là một cái pháp môn để tu chớ không là thấy nó được, ở trên đó nó xác định được. Cho nên cái người mà giảng về cái Tứ Niệm Xứ họ không xác định được các định ở trên Tứ Niệm Xứ. Như “ở trên thân quán thân” nè, tu cái định gì? Họ không xác định được.
Mà họ xác định được thì họ mới biết rằng cái thân này nó đang dơ bẩn cái này nè, nó đang nhiễm ô cái này nè, thì bắt đầu mình phải đem cái định này, tức là cái bàn chải này, cái cục xà bông này đem đến đây rửa nó, rửa cái chỗ đó cho nó sạch. Thì nếu mà đem cái bàn chải, cái cục xà bông, rồi đem nước đến mà rửa nó, thì cái đó nó gọi là cái tên gì? Rồi đem một cái vật khác để mà lau cho nó khô thì nó gọi là tên gì?
(34:21) Đó thì nó phải có cái tên. Thí dụ như trên thân quán thân nè, tu về nhân tướng, thì nó là Định Vô Lậu, nó khắc phục tham ưu. Mà trên thân quán thân tu về hành tướng ngoại thì nó có cái tên Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, trên thân quán thân tu về hành tướng nội thì có cái tên là Định Niệm Hơi Thở.
Đó rõ ràng nó xác định được cái định đem lại rửa sạch cho cái chỗ đó đó. Cái chỗ đó đang bẩn thỉu đó, thì chúng ta sẽ rửa cho nó sạch. Mà rửa cho nó sạch, thì tức là nó phải có một cái tên của Thiền Định đó, của cái pháp môn đó làm cho nó sạch. Thì như vậy gọi là chúng ta đã hiểu được Tứ Niệm Xứ, còn nếu mà không thì chúng ta không hiểu Tứ Niệm Xứ.
Bởi vì hầu hết là từ xưa đến giờ các thầy, quý Hòa thượng họ thuyết giảng, từ Nam Tông cho đến Bắc Tông mà thuyết giảng về Tứ Niệm Xứ, thì họ đều thấy Tứ Niệm Xứ là cái pháp môn chớ không phải là cái Tứ Niệm Xứ là bốn cái chỗ để chúng ta đem các pháp khác đến tu tập.
Đó. Bây giờ thí dụ như một người mà họ lấy Tứ Niệm Xứ để niệm Phật, như Thầy dạy lấy thân mà niệm Phật, tức là cái thân này nó đang ô nhiễm, đang bẩn thỉu, mà cái thân Phật kia nó sạch sẽ, nó thanh tịnh. Cho nên muốn cái thân này cho nó sạch sẽ, nó thanh tịnh như cái thân Phật, thì như vậy gọi là lấy thân niệm Phật, lấy cái thân này niệm cái thân Phật, làm cho cái thân này nó giống như cái thân Phật.
Cho nên vì vậy đó mà cái người niệm Phật là sẽ được giải thoát liền, cho nên gọi là Tứ Bất Hoại Tịnh. Cái bài pháp này Thầy đã có giảng rồi.
Cho nên hôm nay nói để thấy rằng, chúng ta bước vào cái Tứ Niệm Xứ chúng ta phải hiểu rõ được cái vị trí nó đang bất tịnh, đang ô nhiễm, mà chúng ta dùng các pháp khác để đến mà rửa, để chùi, để mà lau cho nó sạch, để mà quét dọn cho nó sạch bốn cái chỗ này. Mà bốn chỗ này mà sạch rồi, thì đó là giải thoát.
Cho nên ở đây chúng ta thấy rất rõ, nếu bốn chỗ này mà chúng ta không lìa xa ác pháp, thì ngay đó là địa ngục.
(36:27) Nghĩa là cái kiếp người của quý cô cũng như là quý thầy mà không lìa được ác pháp, thì ngay đó quý thầy có buồn rầu, giận hờn, phiền não, ham ăn, ham ngủ, ham vật chất, ham danh, ham lợi đủ thứ, nó làm cho quý thầy lăng xăng rất là khổ. Trái lại các thầy lìa ác pháp thì nơi đó là Niết Bàn, tức là mình buông xả ra hết, không còn một cái gì nữa, thì đó là mình được giải thoát.
Tất cả các pháp môn của Đức Phật đều lấy bốn chỗ này thực hiện trên đó, tu tập, trau dồi, rèn luyện và dứt bỏ. Bằng mọi cách làm sao bốn chỗ này xa lìa ác pháp và đoạn dứt tận gốc rễ của ác pháp, khiến cho bốn chỗ này được toàn thiện. Khi bốn chỗ này đã được toàn thiện thì đạo Phật gọi là thanh tịnh, gọi là giải thoát, gọi là Niết Bàn.
Đó, toàn thiện là nghĩa là không còn một chút nào mà ác ở trong đó hết, không còn một chút xíu nào ác trong đó hết, dù là một chút xíu như là một cái đầu cọng tóc của chúng ta, nó không còn một chút xíu nhỏ như vậy nữa, hay hoặc là như một hạt bụi rất nhỏ, nó không còn có trong đó, thì gọi là toàn thiện.
Mà toàn thiện thì nó là thanh tịnh, nó là giải thoát, nó là Niết Bàn. Nghĩa là bốn chỗ đó phải đạt được cái chỗ toàn thiện. Thì đạo Phật đâu có khó gì đâu, chúng ta thấy đâu khó gì, mà chính cái chỗ này nó mới là thiền định.
Bởi vậy người tu theo đạo Phật mà không biết rõ bốn lãnh vực này, tu ngoài bốn lãnh vực này, thì dù có tu ngàn kiếp cũng chẳng chấm dứt khổ đau và sanh tử luân hồi. Nghia là mình tu hoài bốn chỗ này.
Cho nên cái người mà xem nó là cái pháp môn để tu thì thử hỏi họ lấy cái Tứ Niệm Xứ này tu cái chỗ nào để họ được giải thoát? Họ chỉ lý luận tôi phải quán như thế này, thế khác, gọi là Minh Sát Tuệ chứ gì? Thì thực ra đâu có phải cái điều đó đâu!
(38:21) Cho nên tất cả những cái thiền mà gọi là Minh Sát Tuệ, rồi thiền này, thiền nọ kia đều là đặt ngoài cái vấn đè của thân - thọ - tâm - pháp của chúng ta. Mà khi họ có đặt trúng đi nữa, ở trên đó họ tu, mà họ không có được xác định được cái vị trí họ tu cái gì nữa, thì họ tu bậy rồi.
Bây giờ thí dụ như Thiền Tông, họ đặt họ lấy cái tâm của họ nè, “biết vọng liền buông” nè, họ lấy cái tâm, họ là giữ cái tâm họ nè, không có vọng tưởng nè, thì ngay đó là họ cũng lấy cái tâm họ tu chứ gì? Nhưng mà họ không xác định được bốn cái vị trí họ đang tu. Họ chỉ tu có cái tâm họ, thì họ có đạt được cái tâm họ giải thoát, còn cái thân họ bỏ.
Cho nên họ nói bây giờ thí dụ như, các pháp đến với họ, họ thấy toàn là huyễn giả. Đối với trí tuệ của họ, bát nhã, thì họ thấy nó là không, không có vật gì mà hiện hữu, không có vật gì mà nó thường hằng, cho nên họ thấy nó là vô thường.
Thì đó là cái phần họ đứng ở trên góc độ của tâm, họ quét sạch cái tâm họ, chớ còn cái thân, với cái thọ của họ đâu có sạch, cho nên cái đau của họ, họ cũng rên la như thường, họ đâu có làm chủ được. Rồi cái thân họ, bây giờ bảo ngưng thở họ cũng không làm được nữa.
Thì như vậy họ chỉ tu có cái phần tâm. Mà bốn chỗ tu chứ, ông Phật dạy bốn chỗ Tứ Niệm Xứ, mà họ tu có nhất xứ à. Nghĩa là họ lấy Phật Tánh, họ bây giờ “chẳng niệm thiện niệm ác”, thì ở trong tâm của mình chẳng niệm thiện niệm ác, thì họ tu có một phần đó thôi, mà họ làm chủ làm sao toàn diện được cái thân - thọ - tâm - pháp của họ?
Cho nên cái mà họ hiểu sai là vì họ đứng ở trên một cái góc độ của thân - thọ - tâm - pháp họ tu có một cái mà họ tưởng là họ giải thoát toàn diện, làm sao được? Người ta tu trong bốn cái này mà người ta còn chưa có giải thoát toàn diện, chưa có thoát ra khổ, huống hồ là tu có một cái nhỏ của bốn cái chỗ này. Nghĩa là trong bốn chỗ, chúng ta tu có một cái mà thôi, thì làm sao mà chúng ta thoát ra được?
Ở đây phải rõ, trên bốn lãnh vực này, nếu đặt sai pháp cũng tu không thành tựu nữa. Nghĩa là bốn cái chỗ này mà chúng ta đặt không đúng pháp. Nghĩa là bây giờ bốn chỗ này đầu tiên chúng ta phải đặt pháp gì?
Tứ Chánh Cần. Nghĩa là chúng ta phải dứt ác mà tăng thiện thì nó mới, bởi vì hiện bây giờ thân - thọ - tâm - pháp chúng ta đang ở trong ác pháp, chớ đâu phải là thiện pháp.
Nếu mà thiện pháp sao người ta chửi mình giận, nếu thiện pháp thì nó đâu có giận ai đâu? Còn này mình dễ giận, dễ hờn. Mà nếu nó thiện pháp sao cái thân này người ta đánh một cái vầy mình biết đau? Nếu nó thiện thì nó đâu có đau, còn cái này nó không thiện cho nên nó đau.
Nó nhiều cái như vậy. Mình nói là các pháp đều thiện, vậy thì người ta ở ngoài người ta chửi mình, tại sao nó thiện mà mình lại giận, thì nó phải là ác pháp, cho nên nó chưa có thiện.
Cho nên vì vậy mình phải tu để cho các pháp với cái tầm mắt của mình, với cái lỗ tai nghe của mình, với cái ý của mình tiếp xúc với cái pháp đó, hoàn toàn người ta chửi mình mà mình vẫn thấy thiện.
(41:08) Cho nên ông Phú Lâu Na Đức Phật hỏi: “Người ta chửi mắng ông, thì ông nghĩ như thế nào?” Thì ông nói “Người ta chửi mắng con thì người ta còn thương con, người ta chưa có lấy gậy gộc người ta đánh con”.
Thì ông Phật hỏi: “Người ta lấy gậy gộc người ta đánh ông, thì ông nghĩ như thế nào?” Thì ông nói người ta đánh ông thì người ta còn thương ông, người ta chưa có lấy gươm dao giết ông.
Thì ông Phật nói: “Nếu người ta lấy gươm dao người ta cắt cổ ông, người ta đâm ông cho ông chết đi, thì ông thấy như thế nào?” Nếu như vậy người ta cũng còn thương ông, cho nên người ta mới giết cái thân này để cho ông được giải thoát, thì người ta vẫn thương ông!
Cho nên Đức Phật nói: “Được! Ông đi qua xứ đó độ người ta!” Tức là Đức Phật đã trắc nghiệm được cái người đệ tử của mình xứng đáng làm một người đi độ chúng sanh rồi.
Còn mình chưa có được. Người ta vừa nói cái gì đó mình giận, chưa có đánh mình đâu, chớ phải đánh mình, mình còn giảy nảy lên, mình còn nằm đó mình đòi mạng, đòi thường mạng với người ta nữa.
Cho nên do những cái chuyện đó, vì vậy mà chúng ta phải thấy rằng cái chỗ thân - thọ - tâm - pháp chúng ta phải thực hiện sao nó cởi bỏ được những cái này, thì chính là những cái pháp Phật đã đặt ra để chúng ta tu tập ở trên bốn chỗ này.
Mà cái người tu hiện giờ họ chưa biết bốn chỗ này, họ cứ ngỡ rằng Tứ Niệm Xứ là một cái pháp môn. Cho nên hầu hết Thầy đọc lại các kinh sách của người ta triển khai những cái pháp Tứ Niệm Xứ này, hầu hết đó là cái pháp tu của họ, chớ không phải là bốn cái chỗ bất tịnh để mà chúng ta thực hiện các pháp khác.
(42:47) Cho nên mười sáu cái loại định của Phật thì chúng ta đem áp dụng ở trên bốn chỗ này hết, không có cái định nào mà chúng ta không có tu tập ở trên này.
Mà tu tập ở trên này không có nghĩa là tu tập để cho cái pháp định đó nó trở thành cái định, không phải đâu. Mà tu tập cho bốn cái chỗ này nó thanh tịnh, mà sư thanh tịnh của nó tức là bốn cái chỗ này nó đạt được nhập định. Cho nên Phật nói: “Thân định trên tâm”, mà “tâm định trên thân”.
Ví dụ, trên bốn lãnh vực này, đặt pháp môn Tịnh Độ, niệm Phật A Di Đà để cầu vãng sanh Cực lạc, Thiền Tông để ngộ Phật Tánh, Mật Tông để có oai lực thần chú v.v, thì các tông phái này chưa rõ Tứ Niệm Xứ.
Nghĩa là người ta nói rằng Tịnh Độ Tông nè, rồi Thiền Tông nè, rồi Mật Tông nè đều là pháp của Phật. Nhưng mà pháp của Phật mà không hiểu Tứ Niệm Xứ thì đó đâu phải là pháp Phật, đặt không đúng chỗ.
Mục đích ở đây là đem các pháp môn trau dồi, tập luyện, làm cho bốn chỗ này thanh tịnh, vì bốn chỗ này đang bị ô nhiễm, uế trược nên những pháp nào làm cho nó không còn ô nhiễm, uế trược nữa, thì đúng Chánh Pháp của Phật.
Còn cái pháp nào mà đem lên đó, mà không cái rửa sạch nó, mà lại còn thêm cho nó nữa. Thí dụ như bây giờ Thầy niệm chú nè, Thầy có thần thông nè, Thầy có phép tắc nè, thì cái tâm tham của Thầy nó lại lớn lên nữa.
Nó ham nữa, nó thấy như vậy người ta phục mình, người ta ghê gớm, người ta thấy mình kêu mây, hú gió, hóa lửa, phóng hào quang được, người ta sợ. Thầy niệm chú một cái nó hiện ra đủ thứ, ai cũng mê hết, coi như Thầy là bậc giáo chủ rồi, người có đủ thần thông rồi.
Nhưng mà không ngờ nó lại làm cho Thầy lại thêm những cái ô nhiễm thêm. Từ đó người ta đến người ta lạy lễ, cúng dường Thầy cái này cái khác, người ta sắm xe hơi này kia, cái gì Thầy cũng chấp nhận, cái tâm của Thầy nó đâu có xả ly đâu, cho nên cái gì cúng dường cũng chấp nhận hết.
(44:37) Người ta cúng dường tiền nhiều thì cất chùa to tháp lớn. Xe hơi có, tiền có, rồi cái gì cũng có, rồi bắt đầu bây giờ sao? Cái tâm dục nó phải sanh thì nó phải thích phụ nữ. Từ đó ông giáo chủ nào cũng rớt ở trên thân phụ nữ hết ráo! Thì như vậy là còn cái gì là gọi là thanh tịnh đâu! Cho nên từ chỗ thần thông nó mất tiêu thần thông hết, không còn cái gì hết.
Cho nên báo Công an nó thường đăng, giáo chủ này đến giáo chủ kia, Thầy có đọc cái tờ báo Công an mà Phật tử đem về, nhắc đến cái vị giáo chủ của xứ sương mù ở Đà Lạt. Thầy thấy ông ta cũng là từ cái chỗ mà ông có thần thông, nói cái chuyện quá khứ xảy ra này kia. Cuối cùng ông rơi trên phụ nữ, rồi thì bắt đầu ông nói cái gì cũng không trúng. Công an bắt, ông ta cũng không làm sao biết trước được, mất các cái pháp mà biết cái chuyện xảy ra.
Cho nên tất cả những cái đều bị ô nhiễm mà từ cái pháp tu sai lệch đó, đặt cái Mật Tông mà tu, nó làm cho người ta có thần thông đó, để rồi người ta bị ô nhiễm lại còn ô nhiễm nặng, bẩn thỉu lại càng bẩn thỉu nặng hơn nữa, ô trược lại càng ô trược hơn nữa!
Còn Tịnh Độ thì như Thầy đã nói, mơ hồ, trừu tượng, một cái thế giới siêu hình mà chưa hề có ai đi hết, mà ở đây cứ chổng khu tin rằng có. Cho nên gia đình ai có người chết thì chổng khu rước thầy chùa đến tụng niệm, cho cầu về đó. Ông nội ông về đó thì chắc ông Phật Di Đà mà có thật, ổng cũng chạy về cái trần gian này, ổng kêu công an lên trển còng đầu giùm mấy cái ông đó kéo về đây làm phước!
Thực sự như vậy mà, chớ làm sao chịu nổi! Ở đây cái tâm tham chúng ta tham quá trời quá đất, tìm nhiều cách đủ cách mà tham ô đủ cách mọi thứ. Mà giờ cứ ai cũng đụng cái rước ông thầy chùa để cầu để về trển, ai cũng cầu về được hết ở trển là chắc chắn cái xứ đó nó thành cái địa ngục ở trên đó. Ông Phật Di Đà ổng làm vua ở trên đó, bây giờ ổng cũng sợ luôn, ổng đâu có dám ở trển.
Cho nên thật sự là không có, chớ có là phải có ông Phật Di Đà chạy trốn về đây rồi. Thầy nói thật sự, đem ba cái người trần gian này lên trển thì cái xứ đó nó thành cái địa ngục. Ở đây nhiều khi chúng ta hở ra chút là chúng ăn trộm, ăn cắp đủ thứ. Mà đem cái thứ này về trển thì trộm cắp nó đầy xứ ở trên đó rồi, làm sao mà ông Phật Di Đà ở yên được? Lúc bấy giờ ông phải tổ chức một dàn công an kêu là dữ tợn nữa chứ còn lơ mơ thì làm sao mà thắng nổi, khó lắm chớ không phải dễ.
Cho nên ở đây, chúng ta nhằm cái mục đích của đạo Phật, chúng ta phải hiểu rõ, là nhằm ở chỗ cái thân - thọ - tâm - pháp tham sân si của chúng ta, chúng ta phải diệt cho được.
(46:55) Mà diệt được thì phải bằng cái pháp nào, chứ đâu phải bằng cái pháp cầu khẩn đi về Cực Lạc như vậy, đó là cái hiểu sai.
Rồi bây giờ chúng ta lại chấp nhận cái Thiền Tông, bây giờ chúng ta chấp nhận là cái Phật Tánh, để chúng ta ôm cái Phật Tánh đó để rồi nó có hết được cái tham sân si, cái làm chủ sanh tử này không? Hay là tới khi mà thọ chúng ta, thân chúng ta đau nhức, chúng ta cũng nhăn răng, cũng méo miệng ở trên giường bệnh?
Tất cả những cái này là những cái mà chúng ta đã đặt sai cái pháp. Ở trên bốn cái chỗ này để làm cho nó thanh tịnh, giải thoát. Đằng này các pháp môn trên không nhằm mục đích làm cho bốn chỗ này thanh tịnh. Nghĩa là các pháp đó đặt không có đúng chỗ, nó không có làm cho nó được thanh tịnh.
Cũng như bây giờ chúng ta thay vì chúng ta phải có nước, xà bông nè, rồi có bàn chải nè, hay hoặc có giẻ nè, để mà chúng ta lau cái sàn này. Trái lại chúng ta lấy thảm chúng ta trải thêm ở trên này nữa, thì cái lớp bẩn ở dưới này nó càng thêm bẩn thêm chớ có làm cái gì, mà trải thêm nữa thì nó có tốt lành gì đâu, nó bẩn là bẩn, bây giờ có trải thêm nó là Cực Lạc đi nữa nó cũng đâu có làm sao mà nó hết!
HẾT BĂNG
GIỚI HÀNH 11 - CÁC PHÁP TU TRÊN THÂN - THỌ - TÂM - PHÁP
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Thời gian: 1998
(0:00) … Người ta đặt cái pháp môn nó không đúng cái chỗ của nó. Cũng như bây giờ thay vì bây giờ mình dùng cái miếng giẻ để mình lau cái sàn này cho nó sạch, thì người ta lại dùng cái tấm thảm người ta trải lên, người ta làm cho khuất cái bẩn thỉu này đi. Nhưng mà che đậy sao được? Thầy nói che đậy không được đâu.
Cho nên nói bây giờ mình cầu về Cực Lạc, thì đó là cái tấm thảm để che đậy cái lớp bẩn của bốn cái chỗ bẩn thỉu này. Thiền Tông cũng vậy, nó cũng đi tìm một cái Phật Tánh để nó che đậy trên cái bẩn thỉu của thân nó, thì làm sao mà nó hết bẩn thỉu được?
Thiền Tông cũng vậy, đi tìm một cái Phật Tánh tưởng tượng, mê hoặc kẻ khác bằng bốn tánh Niết Bàn: thường, lạc, ngã, tịnh, thì có giải quyết gì được cho thân thọ tâm pháp thanh tịnh đâu? Thật sự ra, lấy cái Phật Tánh là làm cái tấm thảm để che trên cái sàn nhà dơ, thì nó cũng chẳng giải quyết gì được hết.
Ngược lại, chúng ta đem Tứ Chánh Cần đặt ngay trên bốn lĩnh vực này, áp dụng ba loại định Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, Định Niệm Hơi Thở và Định Vô Lậu, siêng năng tu tập, trau dồi, dứt ác tăng thiện, khiến cho bốn chỗ này có sự giải thoát an vui, thanh thản ngay liền tức khắc.
Phải rõ không? Các thầy thấy rất rõ mà, ngay ở trên chỗ đó mà mình đặt Tứ Chánh Cần, rồi mình thực hiện bốn cái loại thiền định này, nó làm cho ngăn được ác, nó làm cho chúng ta tăng trưởng cái thiện pháp, sống một cái cuộc sống an lạc, thanh thản ngay liền tức khắc trong cái kiếp đời tu. Chớ đâu phải mà tu đợi tới chừng chết rồi mới đi về Cực Lạc! Đó thì nó rõ ràng và cụ thể.
(01:41) Mà nếu mà người mà biết được cái sự giải thoát đó, thì chúng ta còn tha thiết gì với cái sang, cái đẹp, cái tiền bạc, của cải, xe hơi, nhà lầu ở thế gian này nữa không?
Thử hỏi bây giờ mình có khả năng mình làm được những cái đó đi, mà mình cứ giữ được những cái đó đời này đến đời khác cho mình không, hay là chỉ có cao lắm là trăm tuổi rồi cũng bỏ đi? Làm chi cho cực mà bỏ đi cho người ta ăn?
Thành ra trong cái vấn đề đó, chúng ta đam mê nó sai. Chạy theo những cái dục lạc thế gian nó có ích lợi gì? Mà nó làm cho bốn cái nơi của thân thọ tâm pháp của chúng ta càng ô nhiễm thêm, càng đau khổ thêm, có ích lợi gì?
Cho nên chúng ta hiểu biết, cái trí tuệ chúng ta hiểu biết. Chúng ta vô minh, chúng ta thấy mình làm được vậy là thiên hạ nói mình giàu sang này kia, mình đi ngoại quốc rồi có tiền nhiều. Sự thật ở bên đó hốt rác, mới dành dụm tiền mới gửi về đây, chớ ở bên đó bộ giàu hơn mình ở đây sao? Họ còn mạt rệp hơn mình ở đây nữa!
(02:36) Cho nên thật sự ra lấy cái giàu thì chúng ta sẽ thấy chúng ta chẳng bằng ai hết, mà lấy cái nghèo thì chúng ta cũng chẳng nghèo hơn ai hết. Bởi vì chúng ta nghèo còn có người nghèo hơn, mà giàu thì cũng có người giàu hơn.
Cho nên chúng ta phải lấy cái trung đạo, chúng ta chẳng sợ nghèo mà cũng chẳng sợ giàu, chỉ giữ làm sao cái tâm chúng ta thanh thản an lạc, lìa xa các ác pháp, thì lúc bấy giờ chúng ta mới thấy được cái sự giải thoát.
Còn giàu biết chừng nào gọi là cái mức giàu gọi là thỏa mãn chúng ta, mà nghèo đến cái mức độ nào gọi là nghèo cơ cực của chúng ta đâu? Cho nên có nhiều người đứng ở trong cái danh giả mà họ tưởng rằng đó là thật. Bây giờ gia đình mình nghèo, ai đâu mà mang cơm mang vợ cứ chê gia đình mình hoài sao? Sự thật nghèo mà không khổ, còn người ta giàu người ta khổ thì sao?
Cho nên ngày xưa ông Trang Tử, ổng đi đường ổng mặc quần áo rách rưới, chắp vá tùm lum, đội cái nón lá mà rách bên đây bên kia tơi tả. Có một cái người bạn gặp ông: “Trời ơi, tôi lâu nay mới gặp ông, ông nghèo khổ quá trời.” Ổng nói: “Anh nói trật rồi, tui nghèo thì nghèo chớ tui đâu có khổ, anh có biết tâm tui khổ không?”
Có nhiều người nghèo mà người ta không khổ, còn có nhiều người nghèo mà khổ. Nghèo mà nghĩ rằng mình thua người ta, mình này kia thì mình khổ.
Mà cái nghèo mà mình không thấy mình thua ai hết, tôi thấy đời tôi, tâm hồn tôi thanh thản, ngày có bữa cơm cũng tốt mà không có tôi cũng vui, tôi đâu có đòi hỏi mấy vấn đề đó đâu. Nghiệp của tôi nó vậy thì tôi an vui với vậy, cho nên tôi hoàn toàn giải thoát, không ngó lên mà không ngó xuống. Phước báu tôi có, tôi chẳng lo nó cũng giàu, mà tôi không có phước báu thì bây giờ tôi có muốn giàu nó cũng không giàu.
Cho nên cái lý của Phật pháp là giúp cho chúng ta, từ cái tri kiến hiểu biết đó, nó giúp chúng ta làm cho bốn cái chỗ này càng thanh tịnh.
(04:33) Bởi vậy, khi chúng ta tu hành mà chúng ta không có đặt cái pháp mà tu đúng, thì chúng ta không có giải thoát được. Một kết quả không có thời gian chờ đợi.
Nghĩa là, khi mà chúng ta đặt Tứ Chánh Cần vào mà chúng ta tu ba cái Định rồi, thì cái kết quả nó ngay liền tức khắc, chớ không phải có thời gian, chúng ta sẽ thấy có sự giải thoát nơi thân - thọ - tâm - pháp của chúng ta.
Chỉ ai có nhiệt tâm quyết tìm đường thoát khổ của kiếp làm người thì sẽ được giải thoát liền. Nghĩa là ngay liền chúng ta được giải thoát hoàn toàn, chớ không phải tu phải năm tháng, ba tháng, mà ngay liền chúng ta thấy sự giải thoát. Từ cái sự giải thoát nhỏ, chúng ta kéo dài cái thời gian đó, chúng ta sẽ thấy cái sự giải thoát lớn, từ đó chúng ta sẽ thấy làm chủ được sự sanh tử, chấm dứt được luân hồi.
Đây là đặt đúng pháp, tu đúng chỗ, nên cuộc sống được giải thoát hoàn toàn. Nghĩa là chúng ta đặt đúng cái pháp, cái pháp đó phải đặt đúng.
Cũng như bây giờ chúng ta chưa có tu Tứ Chánh Cần mà chúng ta vội ức chế tâm của mình bằng pháp môn Sổ Tức, hay hoặc là Định Niệm Hơi Thở đi, đó tức là chúng ta đã đặt pháp sai.
Thay vì cái pháp đó đúng chớ không phải sai, từ cái Định Niệm Hơi Thở cho đến cái Tứ Chánh Cần, nhưng mà biết rằng chúng ta phải tu như thế nào? Cái pháp nào đặt đúng cái vị trí nó? Mà trong cái lúc chúng ta mới tu, hay là tu lâu? Tu lâu thì chúng ta phải đạt được những kết quả nào, rồi từng đó chúng ta mới tiến tới tu các pháp khác,
Còn bây giờ chưa gì chúng ta đảo lộn. Cũng như một người chưa có tu giới luật, thì bắt đầu họ lại tu trí tuệ, hay hoặc là họ tu thiền định. Thì thử hỏi họ tu ngược ngạo như vậy làm sao họ có được cái Chánh Định đâu, họ làm sao họ được cái Chánh Tuệ đâu? Cho nên tất cả những cái mà họ được đều là tà tuệ, tà định chớ không phải là Chánh Định.
Cho nên mình tu hành mà không có một thiện hữu tri thức chỉ cho mình biết cái pháp đặt đúng cái thời điểm, đặt đúng trong cái giai đoạn của mình tu tập, thì mình sẽ tu sai.
(06:36) Như từ lâu tới giờ Thầy không dám triển khai các cái pháp này, sợ đụng chạm các vị Tôn túc, các bậc Hòa thượng họ đã giải thích sai cái Phật pháp, cho nên sợ làm động các thầy. Mà các thầy đó là những bậc thầy Tổ của mình, mình nói ra thì sợ làm mấy ông mắc cỡ đi, rồi mấy ổng gây gổ với mình đi, rồi coi mình không ra gì đi, thì thầy trò nó có những cái sự chướng quá.
Cho nên không dám nói, làm thinh mà chịu. Cho đến bây giờ mới dám bạo gan hé miệng nói một chút, là tại vì mình lớn tuổi rồi, sắp sửa chết rồi, không dám nói để mai mốt chết rồi ai nói cho?
Cho nên Thầy thấy bây giờ Thầy sáu mươi mấy tuổi rồi, mà Thầy không dám nói nữa đi, thì chắc chắn là mai mốt chết rồi ai dám nói? Còn nhỏ nhỏ tuổi thì đâu có dám nói. Lúc mà Thầy mới bốn mươi, năm mươi tuổi còn sức khỏe nói đâu được, mấy ông đó lớn tuổi ổng nẹt mình chết được. Còn giờ lớn rồi, chắc ổng cũng thấy mình già rồi thôi cũng nói sơ sơ chớ cũng không dám nói luôn.
Chớ còn nhỏ nhỏ như Thầy bây giờ, như Mật Hạnh nhỏ nhỏ vậy mà nói bậy là Thầy tát tai liền. Bởi vì nó còn nhỏ, mình có thể la mắng nó được, dù là bậy nó cũng không dám nói. Còn bây giờ Thầy già rồi, như cỡ này mà các Hòa thượng có rầy đi nữa, họ cũng nói nhẹ nhẹ chớ họ cũng không nói quá lố.
Cho nên già rồi dám ăn dám nói chớ còn nhỏ nhỏ nói bậy chúng đánh được. Cho nên ở đây bây giờ Thầy nói thẳng, thì họ có rầy la gì thì họ cũng nói, ở, nó cũng lớn rồi, nói ít ít, nói ít ít thôi. Đó là cái tâm lý mà, mình phải hiểu chung như vậy.
Cho nên bây giờ dám nói thẳng. Từ cái ngày nói thẳng thì cho nên phải đặt đúng pháp để mà tu. Vì vậy mà trong lúc này, người nào mà đủ duyên bước vào mà mới tu, Thầy nói đúng pháp thì các con sẽ tu nhanh.
Mà trước kia không có dám nói, nói sợ các thầy mình, ổng buồn, thứ nhất. Thứ hai, ổng già rồi ổng buồn ổng chết, thì ổng đổ tội cho mình, là tại mình nói ổng buồn ổng tức ổng chết, thì mình cũng ăn năn hối hận. Còn bây giờ đó, mình già rồi, thì ổng cũng già rồi, bất quá thì mình nói ổng có giận mình ông chết, mình cũng chết theo ông cũng không gì, thầy trò cùng chết với nhau có gì đâu!
Cho nên bây giờ cứ nói thẳng thôi. Mà nói thẳng thì để làm sao? Để cho cái thế hệ sau này người ta biết được cách thức tu tập, người ta không có lầm lạc đường tu của đạo Phật. Người ta không mất thì giờ, người ta tu mau thành tựu, người ta mới tu giải thoát liền.
(08:52) Cho nên ở đây Thầy nói mạnh: nếu chúng ta đặt Tứ Thánh Định trên bốn lãnh vực này để trau dồi tu tập và rèn luyện, khiến cho bốn chỗ này trở thành một đạo lực kinh khủng, một đạo lực kinh hồn, làm chủ được sự sống chết của kiếp người.
Nghĩa là khi mà chúng ta đặt cái Tứ Chánh Cần trên cái này chúng ta tu các định, thì chúng ta sẽ dứt ác, tăng trưởng thiện pháp, làm cho tâm của chúng ta giải thoát, làm cho cuộc đời chúng ta, sống cuộc sống của chúng ta, hàng ngày chúng ta thấy an vui thanh thản, không có còn khổ sở, không còn lo lắng, thương ghét ai hết, không còn giận hờn cái gì hết.
Đó là chúng ta đặt đúng cái Tứ Chánh Cần. Còn bây giờ nếu mà chúng ta đã thấy được cái tâm ly dục ly ác pháp rồi, thì bắt đầu chúng ta đem Tứ Thánh Định chúng ta đặt lên trên đó mà chúng ta tu.
Nghĩa là trên bốn cái chỗ này này. Chớ Tứ Niệm Xứ nó không có pháp nào hết, nó phải lấy các pháp đó mà để thực hiện ở trên đó. Cho nên lúc bấy giờ chúng ta đặt Tứ Thánh Định trên này mà chúng ta tu.
Thì từ cái chỗ Tứ Thánh Định này, nó tạo thành cho chúng ta cái một cái đạo lực kinh hồn, nghĩa là muốn làm chủ được cái sự sống chết của chúng ta rất dễ dàng.
Chỉ có Tứ Thánh Định này nó mới có thể làm chủ được sự sống chết, còn ngoài cái bốn Thánh Định này thì không có một thứ thiền định nào mà làm chủ được sự sống chết đâu.
Bởi vì có thứ thiền định nào mà nói rằng tịnh chỉ hơi thở, các hành trong thân ngưng? Chỉ có Tứ Thánh Định này mới dám xác định được. Khi tu mà nhập vào cái định đó, thì hơi thở phải ngưng, các hành trong thân ngưng, không có thở nữa.
Vì thế mà chúng ta biết nó đã làm (chủ). Vì cái người sống là còn thở, mà người chết có thở không? Ở đây quý thầy và các con bên nữ các con thấy rõ không? Cái người chết có thở không? Nếu mà còn thở ai dám nói người đó chết? Thế mà cái người mà nhập định hơi thở ngưng hoàn toàn mà không chết, thì không phải là làm chủ được cái sự sống chết sao? Nó rõ ràng.
(10:55) Vì thế chúng ta đã làm chủ được sanh, già, bệnh, chết, đạt được mục đích thoát khổ của đạo Phật. Bởi vì chính cái mục đích của đạo Phật là nhắm vào cái chỗ sanh, già, bệnh, chết, để mà chúng ta đạt được cái đó, chớ không phải đi đạt được cái Phật Tánh hay hoặc là đạt được cái cảnh giới Cực Lạc, hay hoặc là đạt được cái thần thông phép tắc như Mật Tông? Nó không có chuyện đó đâu.
Ở đây cái mục đích của nó là nhắm vào sanh, già, bệnh, chết, bốn cái khổ của kiếp người. Mà chúng ta đạt được cái mục đích đó, thì tức là đạt được cái mục đích của đạo Phật.
Đạo Phật ra đời là nhằm giải quyết cái khổ của con người, là giải quyết cái đời sống, sanh nó là cái đời sống, hàng ngày chúng ta tiếp duyên nhau, chúng ta sanh sống, chúng ta làm chuyện này chuyện khác, mà luôn luôn lúc nào chúng ta cũng thanh thản an vui, không có sự gì buồn rầu, giận hờn, phiền não, thì như vậy là chúng ta đã làm chủ được cái sanh.
Rồi bây giờ già, chúng ta làm chủ cho cái thân của chúng ta nè, đừng có già nè, thì chúng ta đi vào ở trong bốn cái thiền định này thì chúng ta sẽ làm chủ được.
Bây giờ cái bệnh nè, bệnh thì nó đau, nó nhức, nó khổ sở. Mà bây giờ cái thân của chúng ta nó làm chủ được cái bệnh, khi nó đau chúng ta bảo đừng đau thì nó không đau, thì đó tức là chúng ta làm chủ được nó rồi. Cho nên nhân quả chúng ta làm chủ được.
Và bây giờ chết thì hơi thở phải ngưng. Thế mà nó ngưng, mà chúng ta chưa cái bỏ cái thân này thì chúng ta phục hồi sự sống nó thở lại, nó sống. Rõ ràng là chúng ta làm chủ được cái sống chết rồi. Đó là cái mục đích của đạo Phật.
(12:17) Ngược lại các pháp môn kia giỏi lý luận, hý ngôn, mơ hồ, trừu tượng, huyễn hoặc, không thực tế và cụ thể, nên càng tu thì càng chạy theo danh lợi, ác pháp trên bốn lãnh vực này càng tăng trưởng nhiều hơn.
Nghĩa là trong khi đó người ta tu những cái pháp kia, thì mình thấy rõ ràng, càng ngày nó càng sai lệch, nó càng phá giới.
Tịnh Độ thì các thầy tu riết rồi thì ông nào cũng có vợ, có con, rồi cái chùa biến thành gia đình, sanh sống làm ăn, làm nghề này nghề kia. Người khéo léo thì làm nghề thầy thuốc, người vụng thì họ làm những cái chuyện khác, cày bừa, nuôi heo, gà, vịt. Chắc chắn là quý thầy có trực tiếp sống với trong cái thời Tịnh Độ hưng thịnh, thì các chùa đều là sống kiểu đó hết.
Thậm chí như bây giờ, cái ông thầy chùa ở cái chùa đó, mà ổng có ruộng, ổng cấy ruộng cấy lúa này kia, qua cái mùa có cá, ổng làm sao ổng bắt cá ổng ăn thịt hết, thì như vậy là rõ ràng là như thế nào? Y như cái người thế gian chớ đâu còn cái gì nữa, đâu có khác nhau.
Đó. Mà bây giờ thí dụ như, mấy vị đó hiện bây giờ họ đều là nằm ở trong Tịnh Độ, và bây giờ họ lại làm lớn ở trong Giáo Hội nữa. Rõ ràng là họ đi, làm sao bắt cá, họ xách luồng họ đi đặt ở theo cái đường nước chảy ở ruộng để mà bắt cá ăn. Mà bây giờ họ làm lớn, thì thử nghĩ coi cái Giáo hội của chúng ta như thế nào?
Nó lạ lùng lắm, nó lạ lùng lắm, thật sự nó rất là lạ lùng. Đạo Phật gì kì cục, Thầy chả biết gì.
Mà từ cái chỗ những cái pháp môn sai đó, nó không làm cho họ thanh tịnh, nó không làm cho họ dứt ác, mà họ làm ác, mà họ vẫn là một vị tu sĩ. Nó nhục nhã vì thấy những cái hình ảnh đó, mà đau lòng, mà đau đớn.
Họ ngồi ăn trong cái mâm ăn như thế này, bình thường! Họ ăn thịt cá chúng sanh như thường, họ coi không có thương yêu gì hết. Thậm chí có thầy, họ cũng làm lớn chớ không phải không, bánh mì người ta nhồi thịt vậy, ổng lại ổng nắm xé hai vậy ông ăn à. Ổng coi như ở trong đó đậu hủ không à.
Trời đất, Thầy nói thiệt ra, Thầy ngồi mà Thầy sượng sùng. Trời ơi, mình cái đầu cạo cũng giống như ổng, ổng đầu cạo làm như vậy, không biết là thiên hạ biết được họ cười cả đám nhau hết. Họ nói ông này cũng khéo giữ vậy thôi chớ cũng vậy thôi không có gì.
Đó. Đó là những cái mà làm đau khổ, mà chính Mật Hạnh là đi với Thầy đã chứng kiến được cái điều đó.
(14:36) Chúng ta lần lượt triển khai Tứ Niệm Xứ mà Đức Phật đã xác định dạy chúng ta tu tập những pháp nào trên đó.
Nghĩa là chúng ta triển khai ra cái Tứ Niệm Xứ này, và trong khi đó chúng ta tu về cái thân như thế nào, tu về cái tâm như thế nào, tu về cái thọ như thế nào, tu về các pháp phải dùng các pháp như thế nào để tu? Thì ở trên cái chỗ mà chúng ta tu tập đó, thì chúng ta phải biết rất rõ những cái pháp nào đặt ở trên bốn cái chỗ này mà tu tập.
Trước tiên thì chúng ta nên theo cái bảng tóm lược của Tứ Niệm Xứ. Nghĩa là nó tóm lược lại, chứ Tứ Niệm Xứ nó rộng rãi lắm, nó mênh mông lắm, bốn cái chỗ này chớ mỗi một cái chỗ nói ra nó rất nhiều.
Cho nên chúng ta phải theo cái bảng tóm lược, để rồi từ cái chỗ tóm lược đó, chúng ta mới giãn ra từng cái phần một, và mỗi một phần đó nó sẽ sử dụng cái pháp gì ở trên cái phần đó để tu tập.
Cho nên càng giãn ra thì Thầy e rằng các thầy và cũng như là các con hơi rối trí. Nhưng nhớ kỹ những gì mà Thầy dặn, đừng có nên mà để cái tâm, nghe để mà hiểu biết Tứ Niệm Xứ.
Bởi vì từ lâu tới giờ Thầy không muốn giảng Tứ Niệm Xứ, là vì cái Tứ Niệm Xứ là cái nơi mà để chúng ta đem các pháp đến đó, mà để chúng ta gọt rửa, trau dồi, làm cho bốn cái chỗ này thanh tịnh. Cho nên nó phải có những cái chi tiết của nó ở trong đó. Thân, thọ, tâm, pháp, nó có những cái chi tiết của nó trong đó rất là lớn. Mỗi cái chi tiết nó phải thực hiện như thế nào, chớ không phải là đơn sơ đâu.
Để nhận xét phải tu chỗ nào trước, chỗ nào sau, pháp nào trước, pháp nào sau. Nghĩa là chúng ta phải tóm lược cái bảng này, để rồi từ cái chi tiết đó, chúng ta mới đặt. Bây giờ muốn tu cái chi tiết chỗ này của Tứ Niệm Xứ nè, thì phải tu như thế nào?
(16:22) Bởi vì trong cái, thí dụ như bây giờ, trên cái thân nó đâu có, nó là tổng quát nói cái thân, nhưng mà cái thân hành nó khác, mà cái thân cái nhân tướng của nó khác, mà cái hành tướng nó khác, rồi hành tướng nội, hành tướng ngoại, rồi vừa hành tướng nội vừa hành tướng ngoại, nó nhiều cái việc ở trong đó lắm.
Cho nên nó không thể đơn giản được. Vì vậy mà giảng về cái thân, rồi cái thọ, rồi cái tâm, rồi cái pháp, mà cái nào nó cũng nhiều như vậy hết thì thử hỏi, nếu mà đem ra giảng sơ sơ thì chúng ta không thấy lối đâu. Mà chúng ta phải giảng từng cái, rồi từng cái định chúng ta đặt trên đó, rồi chúng ta phải tu như thế nào để cho nó phù hợp, để cho nó đúng cách.
Đó là cái phần giáo đầu cho cái Tứ Niệm Xứ hôm nay. Và cái phần mà đi vào chi tiết để Thầy sẽ, bởi vì sau khi nó sẽ trở thành, viết thành một cái cuốn sách, cái pháp tu nó in ra thành sách, để sau này, cái này thì khi mà in ra rồi, như Thầy giảng ở trong này thì các con thấy rằng, cái lời nói của Thầy thì nó có hơi đụng chạm với các ngài.
Nhưng mà khi viết nó thành sách thì không có đụng chạm ai hết. Nghĩa là trên bốn lãnh vực này làm cho nó thanh tịnh. Cho nên cuốn sách này chúng ta có thể xin phép ở đâu cũng được.
Nhưng dù có muốn xin phép như thế nào, thì chắc chắn là Thầy cũng gởi cho Chánh Trực, cho Chánh Đức, là vì có cái sự quen thân, có sự quen biết rồi. Từ cái cuốn đầu tiên được cái giấy phép cho đến những cái cuốn kế sau đó, nó khỏi mình phải đi lòng vòng chỗ này chỗ kia, rồi phải…
Bởi vì đời nó không có đơn giản. Muốn làm cho nên việc cái gì đó, thì tức là phải có quà biếu hay hoặc là có cái này kia, chớ khi không người ta không làm cho mình được đâu. Và cái chỗ nào mà nó đã quen rồi thì nó dễ hơn. Và đồng thời người ta cũng thấy rằng cái sách của mình nó không có ảnh hưởng chính trị, cho nên người ta thấy đó là một cái đường xây dựng tốt cho Phật pháp, cũng là một cái điều nêu lên để rõ ràng cho pháp tu.
Chánh Đức thì cũng quen thân được thì từ cái tác phẩm thứ nhất xin phép được, cho đến những cái tác phẩm thứ hai, thứ ba thì chắc chắn là trên cái vấn đề mà xin phép thì Thầy giao cho Chánh Đức sau này.
Thì đây là những cái điều kiện mà Thầy viết ra, nhưng mà cái tài liệu viết ra đây được thì Thầy cũng in một số ít, phát cho quý thầy trong nội bộ của mình biết để mà tu tập. Cho nên cái bảng tóm lược này và sau cái bảng tóm lược này thì chúng ta sẽ giảng từng chi tiết của nó.
(18:53) Cái bảng tóm lược thứ nhất là về cái bài pháp Tứ Niệm Xứ này, thì trước tiên là về cái mục lục của nó, thì chúng ta cũng phải cho cái lời tựa để giới thiệu về bốn cái lĩnh vực này. Thì cái chương thứ nhất của nó, thì nó nói về bốn cái lĩnh vực quan trọng, tức là bốn cái nơi quan trọng này.
Tức là cái đề mục của cái chương thứ nhất là bốn cái lĩnh vực quan trọng, chớ nó không nói Tứ Niệm Xứ, mà nó nói bốn lĩnh vực quan trọng, nó rất quan trọng cho cái cuộc đời tu tập của chúng ta.
Cái tiểu mục của nó trong bốn lĩnh vực này, thì cái tiểu mục của nó là bốn cái chỗ thường sanh đau khổ của kiếp người.
(19:39) Nghĩa là mình nêu lên cái thân nó sẽ sanh đau khổ gì, cái tâm nó sanh đau khổ gì, cái thọ nó đem đến cái đau khổ gì, và các pháp nó đem đến đau khổ gì cho chúng ta.
Đó thì, mình muốn biết rõ được bốn cái lĩnh vực này nó quan trọng đến cái mức độ nào cho cái cuộc đời tu hành, thì chúng ta phải biết cái khổ của nó trước tiên, để rồi chúng ta mới tu tập làm cho bốn cái chỗ này nó thanh tịnh, nó không còn khổ đau nữa.
Cho nên đem bốn cái chỗ này ra để mà chúng ta nói, thấy cho rõ, phân tích cho rõ ràng, để chúng ta thấy được cái khổ của cái thân như thế nào, rồi cái tâm như thế nào, rồi các cái cảm thọ của chúng ta đối với thân, thọ, tâm, pháp, của chúng ta. Rồi các pháp ở ngoài nó đánh đập vào, nó xâm chiếm vào, nó làm cho chúng ta, vì các pháp nó làm cho chúng ta dễ phiền não, sân hận, sợ hãi, lo lắng, buồn phiền, thương ghét, nhớ mong đủ cách, thì các pháp nó đến với chúng ta.
Bốn cái chỗ này là bốn cái chỗ nó đem đến cái đau khổ của kiếp người. Chúng ta vạch cho họ thấy từng cái chỗ đau khổ của bốn cái chỗ này, cho ai cũng thấy cho rõ ràng.
Thì trong bốn cái chỗ này nó phải có cái nhân tướng của nó, rồi nó phải có cái hành tướng của nó, rồi nó có cái đặc tướng của nó.
Thì cái nhân tướng của nó, do cái thân nó có cái nhân tướng, do cái tâm nó có nhân tướng, do cái thọ có nhân tướng của thọ, do các pháp có nhân tướng của các pháp.
Rồi trong những cái nhân tướng của thân, thọ, tâm, pháp đó, thì nó có cái hành tướng của thân, thọ, tâm, pháp của hành tướng. Rồi hành tướng nội, hành tướng ngoại, rồi cái hành tướng nội và ngoại đồng thời luôn.
Thì trong mỗi một cái tiểu mục như vậy, nói về hành tướng của nó thì chúng ta cũng phải nói tất cả những cái hoạt động. Nói về hành thì tức là nói về hoạt động. Còn nói về cái nhân tướng, tức là nói cái tướng của nó, cái tướng trạng của nó, để chúng ta hiểu biết được cái tướng trạng của nó.
Như bây giờ nói về thân tướng của chúng ta, thì cái thân của chúng ta nó phải có những cái bộ phận nào bộ phận nào, nó kết hợp lại nó mới thành ra cái thân.
(21:49) Cho nên muốn nói về cái nhân tướng thì đầu tiên chúng ta phải thấy Ngũ Uẩn, mà nói xa hơn nữa thì chúng ta phải thấy Thập Nhị Nhân Duyên.
Thì các thầy thấy, bây giờ nội cái nhân tướng không, thì phải giải thích cho các thầy thấy Ngũ Uẩn như thế nào, Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức như thế nào, nó kết hợp lại nó mới thành cái nhân tướng của quý thầy.
Thì trong cái nhân tướng của một thầy, thì nó phải có năm cái uẩn này, mà năm cái uẩn này, thì nói về Sắc Uẩn, thì nó do một cái sự kết hợp của tứ đại. Cái Sắc Uẩn là cái thân của chúng ta nó do kết hợp của tứ đại.
Cho nên nó đi ra từng phần, từng phần như vậy, thì quý thầy biết rằng khi mà giảng về Tứ Niệm Xứ nó phải chỉ cho rõ.
Và do cái sự kết hợp của tứ đại thì nó, nếu mà thiếu tiếp nhận vào cái tứ đại bên ngoài, tứ đại bên trong này nó sẽ sanh ra đau khổ. Cho nên nó bốn chỗ thường sanh đau khổ mà.
Mà cái nhân tướng của sắc thân của chúng ta là cái tứ đại, mà khi mà ở trong này nó thiếu đất, nó không có tiếp nhận đất vô, thì do cái đất ở trong này nó thiếu thì nó sanh ra bệnh, mà nó thiếu lửa thì nó cũng sanh ra bệnh, mà nó thiếu gió nó cũng sanh ra bệnh, mà nó thiếu nước nó cũng sanh ra bệnh.
Cho nên đó là cái nỗi khổ của người mang thân tứ đại mà họ không thấy. Ai cũng tưởng là cái thân tứ đại ngon lành lắm, nhưng mà thử không ăn, không uống thử coi, nó có ngon lành không? Nó nằm, nó đi không nổi chớ ở đó ngon lành.
Rồi cái hành tướng của nó, nó hành tướng đúng thì không nói gì, nó làm cho mình an ổn. Mà hành hướng sai, chúng đánh chúng đập mình đó. Cũng như hồi còn nhỏ mà đi hái trộm mận người ta thì người ta chửi mắng, người ta đánh mình, thì không phải là cái hành tướng đó sai hay sao?
Cho nên những cái hành tướng, nhiều cái hành tướng mà đem đến những cái khổ. Chúng ta coi chừng, một cái háy (mắt) của mình đối với người khác là họ cũng thấy ghét mình rồi đó. Thì như vậy là cái hành tướng của mình nó sẽ đem đến cái nỗi khổ.
Trong cái quá trình nhân quả, Thầy cũng sẽ diễn tả. Ở trong cái lộ trình, cái đường đi của nhân quả, nó đều do những cái hành động thân, khẩu, ý của nó. Thì ở đây cái hành tướng của chúng ta nó sẽ nằm ở trong thân này, nó cũng có ba cái chỗ hành tướng của nó, mới tạo ra được cái nhân quả, từ đó mà chúng ta giảng ra, thì tức là chúng ta sẽ thấy rất rõ ràng và cụ thể.
Rồi cái đặc tướng, đặc tướng là cái cá nhân riêng của mỗi người. Mỗi người nó có cái riêng biệt nhau chớ nó không giống nhau, cũng như cái gương mặt người này nhìn với người kia không giống nhau.
Ở đây chúng ta thấy, mười mấy người nè, nhìn coi có cái mặt người nào giống người nào không? Tự nhiên, người nào cũng khác. Cho nên, cái đặc tướng đó nó không thể nào người nào giống nhau.
Rồi cái tâm của chúng ta nó cũng vậy, nó không có người nào giống nhau người nào hết.
Cho nên ở đây nói về cái phần, giới thiệu về cái phần này thì tức là nó phải viết thành ra một cái bài để cho người ta đọc, người ta hiểu rất rõ ràng và cụ thể.
(24:44) Cho nên nếu mà nói về Tứ Niệm Xứ mà dạy thì đây là cả một cái công trình, viết ra thành sách cũng cả một công trình.
Bây giờ là chương một rồi đó. Thì cái chương hai thì chúng ta dạy về cái phần tu tập. Cái chương một thì chúng ta nói bốn lãnh vực và cái bốn chỗ thường sanh đau khổ, mà diễn tả từ cái nhân tướng, đặc tướng và hành tướng của nó để biết cái chỗ mà nó đưa đến những cái đau khổ cho chúng ta.
Thì nó đưa đến những cái đau khổ thì như hồi nãy Thầy nói, thì qua những cái hành và cái đặc tướng, và cái nhân tướng của nó, nó sẽ đưa tất cả những cái nhân quả của chúng ta, tức là thân khẩu ý chúng ta tạo nên những cái nhân quả mà diễn biến cho cuộc tái sinh luân hồi của chúng ta, là cái phần trong chương một. Nó làm chúng ta mãi mãi sống trong cái vòng tròn đau khổ mà không bao giờ chúng ta thoát ra khỏi.
Cho nên hầu như là cái chương một, chúng ta tới chừng mà kết luận nó đó, thì chúng ta nhấn mạnh vào ở chỗ cái nhân quả, cái hành động hằng ngày chúng ta nói nè, suy nghĩ nè, rồi thân của chúng ta làm cái này làm cái kia để đưa đi đến cái chỗ mà chúng ta đau khổ. Cho nên bốn chỗ này thường sinh đau khổ kiếp người mà. Cho nên chúng ta phải nói về nhân quả.
Đây là nói về một phần nhỏ nhân quả, nếu mà dạy, nếu mà viết thành một cái giáo trình đạo đức nhân quả thì nó cũng có một phần ở trong này mà thôi, chớ còn cái giáo trình nhân quả nó còn nhiều cái đường đi nước bước của nó ở trong cái nhân tướng, hành tướng và đặc tướng này chớ không phải là không có.
Nhưng mà ở đây thì mình tóm lược theo bốn cái lĩnh vực quan trọng này để nói cái khổ của nó mà thôi. Chứ sau khi mà viết cái giáo trình nhân quả để nó biến thành một cái đạo đức của đạo Phật để cho người ta hiểu biết, thì nó lại còn, trong cái nhân tướng, hành tướng và đặc tướng này, thì nó là cái lộ trình, cái đường đi của nhân quả.
Cho nên chúng ta viết rất kỹ về cái đạo đức này. Còn bây giờ chúng ta chỉ tóm lược để biết cho nó là bốn cái chỗ thường sanh đau khổ của kiếp người mà thôi.
(26:56) Chương hai thì trên thân quán thân tu về nhân tướng. Bây giờ cái phần tu. Bởi vì trong cái Tứ Niệm Xứ, Phật nói trên thân quán thân tu về nhân tướng.
Vậy thì tu về nhân tướng thì như thế nào? Đây là cái mục lớn của nó đó, cái chương hai, thì cái đề mục lớn của nó. Vậy thì trên cái nhân tướng như thế nào.
Cái mục nhỏ của nó là nhân tướng ngoại, nhân tướng ở bên ngoài, cũng như bây giờ da nè, rồi lông nè, rồi móng tay, móng chân nè, rồi mắt nè, mũi, miệng mình nè, tất cả những mọi cái phần mà ở bên ngoài thân của mình đó, là nhân tướng ngoại.
Bây giờ nhân tướng nội thì tim, gan, phèo, phổi, ruột, mật, tất cả những cái phần ở bên trong gọi là nhân tướng nội. Rồi nhân tướng nội và ngoại, nghĩa là vừa bên trong mà vừa bên ngoài nữa.
Đó thì như vậy là mình ở trên thân quán thân tu về nhân tướng, thì nó thuộc về cái loại định nào mà để đưa vào ở trên chỗ này mà tu cái này?
Đó thì như vậy là chúng ta cũng đã biết rằng nếu mà tu ở về cái nhân tướng ngoại, nhân tướng nội và cái nhân tướng nội ngoại này thì nó chỉ có cái Định Vô Lậu mới đặt ở trên này mà tu. Do cái Định Vô Lậu đó cho nên chúng ta mới quán xét cái tướng ngoại của nó như thế nào, cái nhân tướng nội như thế nào và cái nhân tướng nội ngoại như thế nào?
Vì quán xét chúng ta mới thấu suốt được cái nhân tướng của nó. Do đó chúng ta thấu suốt thì chúng ta thấy cái nhân tướng nội, nhân tướng ngoại và nhân tướng nội ngoại này nó không có cái gì là tồn tại là vĩnh viễn. Nó là bất tịnh, nó là hôi thúi, nó là như thế này thế khác, đủ thứ làm uế trược.
Mà khi mà giảng rồi thì chúng ta suy nghĩ, lời của Phật dạy rất đúng, không có sai. Cho nên cái này là cái Định Vô Lậu. Nó làm cho chúng ta không còn chấp đắm, nó không còn dính mắc ở trong cái thân của chúng ta.
Coi nó, từ lâu chúng ta xem nó, cái thân của chúng ta như cái ngã, cho nên khi mà chúng ta dùng cái Định Vô Lậu mà quán xét cái này rồi thì chúng ta thấy cái thân mình, thôi thấy gớm quá rồi, không có còn chấp nó là cái ngã rồi.
Cho nên chúng ta chấp nó cái ngã như thế nào? Ôi thôi nó hơi nhức đầu là chúng ta đã hoảng sợ rồi. Nó hơi đau cái gì là chúng ta lo cho nó quá chừng rồi, sợ nó chết đi uổng! Đó cho nên nó muốn cái gì, rồi nó muốn ăn cái gì đó chúng ta đem cho nó ăn, sợ nó ốm, ăn cái gì mà coi bộ không cái bổ thì sợ nó mất sức!
(29:36) Chúng ta thương cái thân quá độ, chấp cái thân của chúng ta quá lớn. Cho nên khi mà chúng ta tu cái Định Vô Lậu, đặt cái niệm Định Vô Lậu ngay trên chỗ mà nhân tướng nội, nhân tướng ngoại rồi nhân tướng nội ngoại này mà chúng ta quán xét, thì chúng ta không còn chấp cái thân là cái ngã nữa.
Mà cũng không thấy cái thân là của mình nữa. Nó là của ai đâu á, nó ở xứ nào đâu á, nó do một cái nhân quả nó kết hợp lại, nó tạo thành cái nhân duyên hợp lại, gọi là cái thân là của mình, chớ sự thật ra nó không phải là của mình gì hết.
Cho nên vì cái chỗ tu tập Vô Lậu mình mới thấu suốt được, do cái chỗ mà trên Tứ Niệm Tứ này quán xét được, nhờ cái Định Vô Lậu mà quán xét, nó làm cho mình thấy nó rõ ràng cụ thể, nó không còn mờ mịt mà chấp cái thân này là của mình, chấp cái thân này là cái ngã của mình, mình không còn chấp nữa, mình mới thấy là đúng.
(30:25) Bây giờ về cái phần thứ tư thì trên thân quán thân tu về hành tướng, hồi nãy là nhân tướng, bây giờ về hành tướng. Vậy thì về cái hành tướng của nó, thì nó có những cái hành tướng nội và hành tướng ngoại, và hành tướng nội ngoại.
Về hành tướng ngoại là cái động dụng cái thân mình đi tới, đi lui, mang y, mặc bát đó, là hành tướng ngoại. Làm công việc này, làm công việc kia, là hành tướng ngoại.
Vậy thì cái hành tướng ngoại này, trên thân quán thân tu về hành tướng ngoại này là cái định gì? Bởi vì nhiều khi cái hành động này nó đem đến cho chúng ta những cái nhân quả ác nè, những nhân quả thiện nè.
Mà hành động này phải tập cái định gì để cho nó tỉnh thức nè, không có làm những điều ác nè, cho nên nó dứt được cái thân hành này, nó làm cho cái thân của chúng ta thanh tịnh, nó không có ác pháp ở trên đó, cho nên chúng ta tu cái định gì?
Cái định Chánh Niệm Tỉnh Giác. Nó theo dõi từng cái hành động nó. Hành động nó bây giờ, nó đi nó đạp chết một con kiến, à chúng ta biết đây là cái hành động sai, không đúng, hành động ngoại này là có ác, vô ý. Từ đây về sau có ý không được đạp chết côn trùng nữa, đó là hành động không từ bi, không biết thương sự đau khổ, sự chết chóc của chúng sanh.
Cho nên từ đó chúng ta có những cái ý tứ từng cái bước đi, từng cái hành động, làm chúng ta tỉnh thức ở trong mọi cái thiện pháp, mà không có để vô ý để mà xảy ra ác pháp, đó. Thì đó là hành tướng ngoại.
(31:49) Và bây giờ về cái hành tướng nội thì tu cái định gì? Hành tướng nội, thì hơi thở thở ra, thở vô, đó là cái động dụng bên trong thân của chúng ta mà, do vì vậy mà chúng ta biết đó là Định Niệm Hơi Thở. Phải không. Thì ở ngoài thì Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, trong thì hành tướng nội, thì nó là Định Niệm Hơi Thở.
Mà như là mình hồi nãy là mình đã áp dụng cho cái Tứ Chánh Cần, từ cái Định Vô Lậu là trên thân quán thân tu về nhân tướng, nó là Định Vô Lậu để đoạn dứt các ác pháp.
Rồi từ bây giờ mình mới tiến tới là hành tướng ngoại, hành tướng nội, thì rõ ràng là cái định Chánh Niệm Tỉnh Giác và cái Định Niệm Hơi Thở, làm cho chúng ta ngăn chặn không có cho các ác pháp sanh khởi. Thấy rõ ràng chưa.
Rồi bây giờ hành tướng nội và hành tướng ngoại, chúng ta kết hợp luôn cả hai cái hành động này để trở thành một sức tỉnh thức vô cùng, làm chúng ta đạt được cái kết quả cụ thể cho cái sức tỉnh thức.
Đó thì chúng ta thấy, trên những cái phần mà đơn sơ, Thầy ở đây chưa có giải thích cho nó cụ thể ra, nhưng mà phải nói tóm lược, khái lược để chúng ta thấy được cái phần mà chúng ta tu tập từng phần, từng phần đó. Mà mỗi cái phần nó đều có một cái định nó xác định ở trên đó.
Mà nãy giờ chúng ta chỉ nói về trên thân quán thân, chớ chưa có nói về trên thọ quán thọ, rồi trên tâm quán tâm, rồi trên pháp quán pháp, thì thử hỏi bây giờ mỗi cái như vậy, nó bao nhiêu cái chuyện mà chúng ta phải nói ở đây? Chúng ta phải viết ở đây, biết bao nhiêu giấy mà để viết, biết bao nhiêu điều để nói đây?
(33:23) Bây giờ trên hành tướng nội và ngoại xong rồi, thì bắt đầu bây giờ trên thân quán thân tu về đặc tướng cũng trên cái thân này, quán cái thân tu về đặc tướng.
Vậy thi bây giờ chúng ta nhiếp thở hơi thở, mà chúng ta tu về Định Niệm Hơi Thở, mà chúng ta thấy sao mình hít thở như vậy nó mệt quá đi, như vậy là cái đặc tướng của mình nó không được, mình phải thay đổi ngay liền.
Mình thay đổi thì nó nghe nó an lạc, à như vậy là cái hơi thở mình phải thở như vậy nó mới được. Tức là mình thở dài quá nó mệt, hay hoặc là mình thở ngắn quá nghe nó tức tối quá, nó làm cho mình khổ sở.
Cho nên ngay cái đạo Phật thì phải có sự giải thoát hoàn toàn mà không có sự giải thoát tức là mình đã tu sai. Cho nên dựa theo cái đặc tướng này mà biết chúng ta áp dụng trong Phật pháp sai hay là đúng.
Ngồi lại thiền tu, đi kinh hành tu mà chúng ta thấy có sự an lạc giải thoát thì đúng pháp, mà không có sự an lạc giải thoát mà ngồi lại đau nhức khổ sở, thì tức là tu sai, chúng ta tu sai. Bởi vì cái phần thân của chúng ta nó ngồi kiết già mà nó đau nhức, nó sai nó làm chúng ta bị lệch lạc nè.
Rồi về cái tâm nó cũng vậy, nó có những cái sai của nó. Mà chúng ta sai là nó sẽ có những cái rối loạn nó làm cho chúng ta khó chịu, làm chúng ta khổ sở, nó không có sự giải thoát, không có sự an lành, thì tức là chúng ta đã tu sai. Cho nên dựa trên cái thân, trên thân quán thân tu về đặc tướng thì chúng ta phải rõ.
(34:52) Bây giờ về chương ba. Chương ba thì trên thọ quán thọ tu về nhân tướng của thọ. Cho nên cái nhân tướng là cái tướng của thọ. Cái thọ có tướng chớ đâu phải không tướng. Cho nên cái tướng của nó như thế nào?
Thì như vậy là chúng ta sẽ nói lên cái tướng của nó, để cho quý thầy biết cái tướng của nó, thì cái đó là nhân tướng nội rồi nhân tướng ngoại của cái thọ.
Bởi vì nói, trong đạo Phật có nói nhân tướng, đặc tướng và hành tướng thì cái thọ nó có hành, nó có nhân tướng của nó, nó có hành tướng của nó, rồi nó có đặc tướng của nó chớ, đâu có phải riêng.
Cho nên trong cái bước đường mà tu về cái thọ, trên thân mà quán thọ tu về nhân tướng của nó, thì chúng ta tu cái định gì? Vậy thì trong khi mà chúng ta tu về nhân tướng của cái thọ thì chúng ta phải tu cái định nào mà để mà phá cái thọ đây?
Đâu có phải mà chúng ta tu cái định Chánh Niệm Tỉnh Giác, đâu có phải tu cái Định Vô Lậu được, mà chúng ta phải tu Tam Thiền. Chúng ta phải đặt cái Tam Thiền ở trên cái thọ để mà chúng ta tu, bởi vì nơi Tam Thiền chúng ta mới xả thọ được chớ.
Mà tiến tới để mà xả cái thọ, thì tức là chúng ta phải ly tất cả các cái trạng thái hỷ tưởng. Cho nên khi mà ly tất cả trạng thái hỷ tưởng, thì chúng ta ly nó được xong thì chúng ta mới nhập Tam Thiền, từ đó chúng ta mới tu ở trên cái thọ. Nghĩa là trên bước đường mà chúng ta đạt được cái trạng thái của Tam Thiền, thì bắt đầu từ đó chúng ta mới xả được cái thọ.
Mà xả được cái thọ thì từ cái nhân tướng của thọ, nhân tướng nội, nhân tướng ngoại, rồi nhân tướng nội ngoại của thọ, thường thường là lúc này nó sẽ đánh chúng ta rất nhiều, nó cản đường không cho chúng ta nhập. Từ cái đoạn đường của Tam Thiền đi đến Tứ Thiền, thì cái đoạn đường này chúng ta sẽ bị cái thọ đánh chúng ta rất lớn.
(36:53) Cho nên chúng ta phải đặt ngay từ ở trên đó là những cái thiền định nào? Thì bây giờ phải đặt nó là từ Tam Thiền cho đến Tứ Thiền. Thì cái quãng đường mà Tam Thiền, Tứ Thiền này là chúng ta tu về cái tướng nội và tướng ngoại. Chớ đâu có phải đặt cái Chánh Niệm Tỉnh Giác ở chỗ này được.
Cho nên nếu mà không xác định được cái này thì đương nhiên chúng ta chưa nói trên thọ quán thọ để khắc phục tham ưu. Bây giờ nó đau quá chúng tôi phải khổ sở chớ, phải ưu phiền chớ, làm sao mà cho nó hết được cái ưu phiền được? Nó nhức quá rồi, chúng tôi phải khổ sở rồi. Thế cho nên tham ưu, chúng tôi phải ưu phiền rồi, chớ làm sao mà chúng tôi hết ưu phiền được.
Cho nên vì vậy mà chúng ta phải làm sao khắc phục được cái thọ này? Thì do đó cái nhân tướng của nó, phải khắc phục được cái nhân tướng của thọ nè, cái ngoại tướng của thọ nè, cái nội ngoại của cái tướng của thọ.
Chúng ta phải tu tập từ cái Tam Thiền đến Tứ Thiền để chúng ta phá cho sạch cái thọ, cho nên chúng ta làm chủ cái cảm giác đau đớn. Cho nên Thầy nói ở Tứ Thiền, cái trạng thái vắng lặng mà đạt được, thì từng đó chúng ta mới có thể phá được cái thọ, mới làm chủ được cái bệnh.
Đó như vậy là các thầy cũng đã biết được, hôm nay chúng ta đứng trên Tứ Niệm Xứ trên thân quán thân, chúng ta phải tu tất cả những định gì? Chánh Niệm Tỉnh Giác Định nè, Định Vô Lậu nè, phải không, cái Định Niệm Hơi Thở nè. Nhưng mà trên thọ quán thọ còn tu cái đó nữa không? Lại tu từ Tam Thiền đến Tứ Thiền.
Đó thì, mỗi một cái trong bốn cái trụ xứ này, mà chúng ta phải đặt cái pháp đúng, thì chúng ta mới giải quyết được nó.
Chớ còn nếu mà không đặt đúng cái pháp, như bây giờ trên thọ quán thọ mà đem Tịnh Độ lên đó mà ngồi mà niệm Phật, thì thử hỏi làm sao mà đạt được cái kết quả này? Mà trên thọ mà muốn diệt cái thọ này không còn làm chủ, mà đem ông Phật Tánh ngồi lên trên này, thì thử hỏi ở đây thì làm sao mà dẹp được cái thọ? Nó làm sao đúng cái chỗ nó!
Cũng như thầy nói bây giờ mình đem nước, xà bông với cái bàn chải để mình rửa cái sàn nhà này, mà mình lấy tấm thảm mình trải lên thì làm sao cái sàn nhà này sạch? Cái ví dụ để cho chúng ta thấy rõ.
Cho nên trên nhân tướng, chúng ta tu cái nhân tướng rồi thì bây giờ chúng ta phải tu cái hành tướng, hành tướng của thọ.
Hành tướng của thọ rõ ràng là, từ cái chỗ chân này, nó nhức nó kéo tới cái đầu của mình, rồi từ cái đầu này nó đau nó kéo xuống cái chân, nó chạy bên đây, nó đau nó nhói bên kia. Thì đó cái hành tướng nó chạy qua chạy lại. Có khi nó đau chỗ này, có khi đau chỗ khác, có khi đau cái phổi, có khi đau cái gan, khi đau cái ruột, nó đau tùm lum đủ thứ hết.
Đó là những cái thọ mà cái hành tướng là cái chỗ nó đang di chuyển từ cái bệnh này, cũng chẳng hạn bây giờ như chúng ta đau gan nè, chúng ta đi uống thuốc, hết đau gan, nó về đau tim, thế bây giờ uống thuốc tim, nó hết đau tim cái nó nhảy qua nó đau bàng quang, ruột của chúng ta. Nó đau cái này nó đau cái kia, nó không bao giờ dừng cái thọ, cái tướng mà nó đi, nó từ cái chỗ này nó đi đến cái chỗ khác, nó di chuyển như vậy.
(39:57) Như vậy là chúng ta phải biết cái hành tướng của nó để mà chúng ta chặn đứng tất cả những bệnh trạng, cái thọ của nó, nó không có đi tầm bậy nữa.
Cho nên vì vậy đó, khi mà nó nhảy đi đến cái chỗ này, bây giờ chúng ta ngồi đây nè, nó đau hai cái chân nè. Đó, bây giờ chúng ta tập trung, nó căng cái đầu nè. Thì bây giờ muốn cho cái chân nó đừng đau nè, cái đầu nó đừng nhức nè, thì chúng ta phải dùng những cái pháp, cái định như thế nào?
Và cái định đó nó phải ở trạng thái nào để mà chúng ta đẩy lùi tất cả những cái hành động của thọ, cho nên mới làm chủ được cái thọ chớ? Mà đặt đúng pháp thì chúng ta sẽ thành tựu được. Cho nên ở đây chúng ta đặt cái giai đoạn từ cái Tam Thiền cho đến cái giai đoạn đến Tứ Thiền để chúng ta phá thọ.
Đó thì cái tướng, hành tướng nội và hành tướng ngoại của thọ, đau bên ngoài rồi đau bên trong. Thí dụ như bây giờ ngoài da mình nó ngứa ngáy thì nó là hành tướng ngoại. Vậy thì hành tướng ngoại mình phải dùng cái pháp nào để làm cho cái hành tướng ngoại này, cái thọ hành tướng ngoại này nó sẽ dứt? Rồi cái hành tướng nội, nó phải làm sao cho dứt?
Tất cả những cái này là những cái mà luyện tập để làm chủ được cái đau khổ cái thọ của chúng ta. Rồi bây giờ trên cái thọ của chúng ta, chúng ta đâu có phải mà tu về nhân tướng và hành tướng nó như vậy là đủ, mà còn tu về cái đặc tướng của nó nữa.
Có người thì họ bịnh cái này cái nọ kia, nhưng mà có người lại không có cái bịnh đó, mà ta lại có mang cái bịnh đó. Nó có những cái bịnh đặc biệt, ngoài ra những cái thọ khác nó không giống nhau. Cho nên chúng ta gặp những cái trường hợp đó chúng ta phải dùng cái pháp để mà phá cái thọ đó luôn, chớ không có để.
(41:35) Đó là cái chương ba, nó nói về cái thọ. Bây giờ tới chương tư, trên tâm quán tâm tu về nhân tướng của tâm.
Vậy thì cái tâm của chúng ta nó nhiều cái tướng, cái tướng tâm của chúng ta, cái tướng nội, tướng ngoại, rồi tướng nội và ngoại nó kết hợp. Thì do đó chúng ta phải thực hiện trong cái nhân tướng, hành tướng và cái hành tướng nội và hành tướng ngoại của nó.
Từ cái nhân tướng cho đến những cái hành tướng, chúng ta đều phải hiểu cái tâm của mình như thế nào? Mà đặt về cái tu về cái nhân tướng của tâm này, để mà làm chủ cho nó, nhất là những cái hành tướng nội và hành tướng ngoại của cái tâm này, thì chúng ta sẽ tu, đặt cái thiền gì tu cái này?
Đó, chúng ta sẽ đặt cái thiền gì mà tu nó ở trên này? Bây giờ chúng ta phải đặt Nhị Thiền ở trên cái chỗ mà quán tâm. Bởi vì chỉ có Nhị Thiền nó mới dừng những cái tâm lăng xăng của chúng ta thôi, chớ còn ngoài cái Nhị Thiền này thì làm sao mà chúng ta đứt được cái tâm lăng xăng.
Cho nên chúng ta lấy Tam Thiền mà đặt cái chỗ này, thì Tam Thiền nó chỉ có cái nước là phá thọ, ly hỷ, trú xả, phá thọ thôi, chớ nó đâu có ở cái chỗ này mà nó tịnh chỉ Tầm Tứ đâu.
Cho nên cái nhân tướng nội, nhân tướng ngoại và nội ngoại của nó và hành tướng nội, hành tướng ngoại của cái tâm, thì nó chỉ nằm ở trên cái Nhị Thiền mà nó có những cái tướng này. Cho nên chúng ta phải đặt cái Nhị Thiền ở trên đó mà chúng ta thực hiện cái quán diệt tầm.
Đây là cái phần chương bốn, trên tâm quán tâm tu về nhân tướng, rồi hành tướng, rồi đặc tướng của nó. Đó. Thì như vậy là chúng ta sẽ thấy rằng trên cái bước đường mà tu tập, chúng ta biết đặt cái định nào ở trên cái chỗ đó để mà chúng ta tu.
Bây giờ chúng ta ly hỷ trú xả (ly dục ly ác pháp) chúng ta nhập cái Sơ Thiền rồi, tức là chúng ta tu tập Tứ Chánh Cần rồi, tức là lìa ác mà tăng trưởng thiện rồi. Bây giờ chúng ta mới tiếp tục tới cái định Nhị Thiền, thì tâm chúng ta coi vậy chớ nó đâu có nằm yên đâu, cho nên chúng ta phải tịnh chỉ Tầm Tứ.
Do tịnh chỉ Tầm Tứ đó thì chúng ta phải tu trên nhân tướng nó, nội tướng, rồi hành tướng nó, hành tướng nội, hành tướng ngoại nó, đó. Chúng ta phải biết được những cái động dụng của nó để rồi chúng ta tịnh chỉ nó.
Đó là cái phần thuộc về tâm. Mà sau này giải thích về những cái tâm của chúng ta, mỗi một cái niệm tâm nó khởi lên, nó đưa đến chúng ta có những cái đúng cái sai, rồi có những cái tưởng của nó nữa. Bởi vì thuộc về tâm thì nó nằm ở trong cái tưởng thức nữa, cho nên nó có nhiều cái tưởng của nó, cho nên gọi là vọng tưởng.
(44:36) Chương năm thì trên pháp quán pháp tu về nhân tướng các pháp. Nhân tướng ngoại nè, nhân tướng nội của các pháp nè, rồi nhân tướng nội ngoại nè. Rồi hành tướng nội, hành tướng ngoại, hành tướng nội ngoại. Rồi trên pháp, quán tu về đặc tướng của nó nữa.
Thì các pháp đây là nói về vạn hữu, tất cả mọi vật xung quanh chúng ta là các pháp, từ cái nhà, cái cửa, cái bàn cái ghế, cũng đều là các pháp. Mỗi một cái pháp mà nó làm cho tâm chúng ta không lìa ra được, thì nó đem lại nỗi đau khổ của chúng ta.
Cho nên cái này sẽ đặt pháp nào tu trên này đây? Định nào mà tu ở trên các pháp đây? Để cho nó lìa xa đây? Thì cái này, cái mà Tứ Niệm Xứ mà trên pháp quán pháp này, để mà cho làm chủ được các pháp này, thì chúng ta phải tu tập Tam Minh, lấy Tam Minh đặt trên này mà tu.
Chớ không phải lấy Tứ Thiền đâu. Bởi vì con đường từ Tam Thiền đến Tứ Thiền, nhập được Tứ Thiền thì chúng ta mới hoàn toàn điều khiển được cái thọ, đó là trên thọ quán thọ.
Còn bây giờ, ở trên pháp mà quán pháp, mà tu về các pháp để làm chủ các pháp, thì chỉ có một cái trí tuệ mới làm chủ các pháp, chớ không có cái thiền định nào mà làm chủ các pháp được hết.
Bởi vì pháp đó nó xâm chiếm mình, ngay đó là mình không có làm cho động tâm, dao động tâm mình, đều là do cái trí tuệ vô lậu, thì nó mới đạt được cái trên pháp mà quán pháp.
Cho nên nó đòi hỏi ở chúng ta phải đạt được cái sức định siêu việt, làm chủ được sự sống chết của thân chúng ta rồi, thì chừng đó chúng ta mới phát hiện được Tam Minh, mà Tam Minh chúng ta mới làm chủ được các pháp.
Cho nên chúng ta mới, từ đó chúng ta mới, khi mà chúng ta đạt được cái chỗ mà từ cái phá cái thọ, phá âm thanh, phá cái thọ, chúng ta nhập được cái Tứ Thiền rồi, thì bắt đầu từ chỗ Tứ Thiền đó, chúng ta mới đặt ở trên pháp mà tu các pháp, để làm chủ toàn bộ nó thì chúng ta phát ra.
Bởi vì các pháp nó có cái thời gian quá khứ của các pháp, và cái thời gian hiện tại của các pháp, và cái thời gian tương lai của các pháp. Cho nên lúc bầy giờ chúng ta đạt được Tam Minh thì cái thời gian nó sẽ bị cắt đứt, sẽ không còn có thời gian nữa.
Cho nên trong hiện tại chúng ta dùng pháp hướng…
(Xem tiếp ở Pháp hành 12)
HẾT BĂNG
PHÁP HÀNH 12 - TAM MINH: NĂNG LỰC LÀM CHỦ CÁC PHÁP
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Thời gian: 1998
(tiếp theo Pháp hành 11)
(0:00) Thân định trên tâm mà tâm định trên thân rồi, thân tâm nó thành ra một khối duy nhất của định rồi, thì bắt đầu hướng tâm, Thầy nhắc. “Bây giờ cái hộp này nè, bay lên!” Thầy chỉ ra lệnh như vậy.
Lần thứ nhất nó không bay, lần thứ hai không bay, lần thứ ba không bay, lần thứ tư nó bay lên, tức là cái đạo lực của Thầy nó đã truyền lệnh được nó bay lên. Nó có một sức mạnh vô hình nó đẩy cái này lên.
Bắt đầu Thầy thấy cái hộp này nhẹ, nó bay được, chưa chắc là cái ca này nặng hơn nó bay được. Thầy bảo, Thầy cũng ở nhập vào trong cái định đó, tức là cái định mà Thầy đã phá thọ rồi, nó không còn đau đớn, thân tâm của Thầy đều lặng an hết, thì Thầy mới hướng tâm Thầy nhắc: “Cái ca đựng nước này bay lên!”
Thầy chỉ ra lệnh như vậy thôi, thứ nhất nó không bay, nó nặng quá, nó không phải như cái hộp này. Bây giờ cái hộp này Thầy bảo nó bay liền đó, nó nhẹ hơn, nhưng mà cái này nó nặng, Thầy bảo chưa. Thầy bảo lần thứ nhất, lần thứ hai, lần thứ ba, cái ca nước này nó bay lên như thiệt.
Đó là chúng ta tu tập cái đạo lực để mà chúng ta thực hiện Tam Minh, để chúng ta làm chủ pháp. Như vậy là cái pháp này Thầy làm chủ không? Đó Thầy làm chủ, không làm chủ sao Thầy bảo nó bay nó bay? Như vậy thì rõ ràng là Thầy làm chủ pháp chớ.
Cái đồng hồ này Thầy bảo bay nó bay, Thầy bảo cái nhà này: “Bay lên, dời ra ngoài kia ở!”, thì cái nhà này tự nhiên nó bứng gốc, nó đi ra ngoài kia nó nằm, thì như vậy là Thầy làm chủ được pháp chớ.
Cho nên đức Phật nói, khi mà một cái người mà tu tập Tứ Như Ý Túc, thì cái tay của họ rờ mặt trăng, mặt trời chơi chớ không phải, nghĩa là họ ngồi đây họ rờ mặt trăng, mặt trời.
Thì trong cái quãng mà trên cái Bốn Niệm Xứ này để mà thực hiện các pháp, mà làm chủ được các pháp đó, thì các thầy thấy, từ cái thân, thọ, tâm, pháp mà chúng ta tập đặt tất cả các cái pháp ở trên đó để mà tu tập làm chủ chớ gì? Thì bây giờ tới trên các pháp để mà tập làm chủ các pháp thì cũng phải có một quá trình tu tập.
Cho nên chúng ta làm chủ nó là chúng ta phải sai nó phải nghe theo lệnh mình, “Cái bàn này bay!” là nó bay, phải không? Dù nó nặng bao nhiêu nó cũng phải bay hết, truyền lệnh là nó phải nghe thôi. Ở đây không phải thần thông, mà cái đạo lực của chúng ta làm chủ vũ trụ, mà một người tâm thanh tịnh mới làm được.
Còn bây giờ nghe nói Thầy nói như vậy, các thầy nói “Mong mình tu tập, để được mai mốt mình bảo bàn ghế nó bay lộn xộn ở trong nhà này chơi, nó bay qua bay lại coi chơi cho đẹp!” thì cái kiểu đó ngàn đời quý thầy cũng không làm sao mà làm được hết.
Trừ ra cái tâm của quý thầy không có ham muốn cái điều đó nữa thì nó mới được, còn ham muốn cái điều đó thì không bao giờ có, ham muốn cái thần thông nó không có đâu. Cho nên cái tâm này xả hết, xả hết, ly hết, lìa hết, đoạn hết, không còn tham muốn cái danh, cái lợi gì hết. Mà còn tham muốn thần thông, thì các thầy biết cái gì, cái danh, cái danh mình là người siêu việt.
Nhưng mà cái đạo lực của Phật, cái người mà tu mà làm chủ được sự sống chết, họ bảo cái hơi thở ngưng được thì cái chuyện này họ phải làm được.
Bây giờ mình bảo hơi thở mình không ngưng, thì mình làm sao mình bảo cái hộp này bay? Mình chưa làm chủ được cái thân của mình thì làm sao mình bay được? Mà làm chủ được cái thân, tức là làm chủ được một cái pháp, bởi vì cái thân của chúng ta cũng là một pháp trong vạn hữu mà.
(03:11) Đó thì như vậy là trên pháp quán pháp tu về nhân tướng, hành tướng của nó.
Hành tướng tức là chúng ta bảo vật này bay thì nó bay, cái hành của nó mà.
Còn nhân tướng như thế nào? Bây giờ có một mình Thầy ngồi đây chớ gì, Thầy bảo: “Cái thân này phải biến ra một cái thân nữa, ngồi đây cho hai người!”, thì nó ngồi đây có một thân nữa. Như vậy rõ ràng là về cái nhân tướng.
Cũng như bây giờ ở đây có cái bàn nè, Thầy bảo: “Cái tâm này phải biến ra một cái bàn nữa ở đây nè, y như vầy nè!”, thì nó làm ra một cái bàn để nằm đó. Thầy ngồi đây trơ trơ, Thầy thấy nó có hai cái bàn rõ ràng, mà hai cái bàn không biết ai làm mà đóng sao mà sẵn, Thầy nói ra là nó có để nằm đó, nó đem đặt đó liền tức khắc.
Thì như vậy là Thầy tu về cái nhân tướng của các pháp, làm chủ các pháp, sai khiến các pháp.
(04:05) Cho nên trong bốn Tứ Niệm Xứ các con thấy nó đủ hết các pháp của Phật ở trên này chứ đâu phải là chỉ có Bốn Niệm Xứ này để tu vào thiền định không đâu.
Cho nên người ta nói về cái Tứ Niệm Xứ người ta tưởng rằng mình tu Tứ Niệm Xứ để cho mình từ đó, từ cái bốn cái chỗ này mình mới được Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền, đâu phải! Mỗi cái nơi của nó phải đặt pháp gì tu, mà cái pháp đó nó sẽ mang được cái kết quả của nó.
Cho nên khi mà nó mang được kết quả của nó, thí dụ như tu về hành tướng, tu về trên thân quán thân tu về hành tướng, thì nó sẽ dứt các pháp ác, nó làm cho thân nó không còn ác pháp, bởi vì thân hành mà.
(04:40) Các thầy nghĩ, trong thân chúng ta nó có ba hành động, hành động của thân là hành động của cái thân, rồi hành động của cái khẩu, cái khẩu nó cũng nằm ở trong cái thân, hành động của cái ý, cái ý cũng ở trong cái thân của chúng ta.
Cho nên trong thân của chúng ta có ba hành động. Cho nên trên thân quán thân là chúng ta tu những cái hành động đó, là hành động dứt ác mà tăng trưởng thiện, những cái hành động đó nó phải thiện. Vì vậy là chúng ta đứng ở trên nhân quả để mà chúng ta thực hiện cái nhân, dứt cái nhân ác mà tăng trưởng cái nhân thiện, để tạo thành cái quả thiện.
Thì trên thân chúng ta phải tu những pháp đó, cho nên Chánh Niệm Tỉnh Giác nè, Định Vô Lậu nè, Định Niệm Hơi Thở nè, phải không? Trên cái thân.
Mà tới cái thọ thì chúng ta lại tu cái định khác rồi, nó không giống nhau chút nào hết. Mà tới cái tâm thì chúng ta lại tu cái định khác nữa rồi. Mà nói về các pháp, thì chúng ta tu cái gì?
Hồi nào tới giờ các thầy được nghe thuyết giảng rằng Tứ Niệm Xứ như vậy không? Có ai dám kết hợp Tứ Niệm Xứ ở trên pháp mà nói rằng cái pháp bay lên nó bay lên? Như vậy là Thầy ở trên các pháp mà Thầy điều khiển làm chủ, như vậy là Thầy bảo cái thân này chết sống thì Thầy làm chủ được rồi.
Cho nên trong Tứ Niệm Xứ nó gồm đủ vì nó thanh tịnh, vì nó đã rửa sạch, nó không còn ô nhiễm nữa, cho nên nó làm được những cái chuyện này. Cho nên “tịnh chỉ” chớ không phải là tịnh để mà chỉ tất cả những mặt, ngưng tất cả những cái điều kiện khác, làm tất cả những cái siêu việt khác.
Đó các thầy thấy. Nó vi diệu như vậy mà chúng ta không nỗ lực tu, chúng ta tiếc gì một cái nhà lầu, tiếc gì một chiếc xe hơi mà không dám bỏ, mà trong khi chúng ta chỉ thực hiện như vậy có gì đâu mà khó?
Từ cái chỗ dứt ác để tiến vào cái chỗ nhân quả, làm chủ được cái nhân quả thiện ác, để đi đến cái chỗ mà chúng ta điều khiển các pháp ở trong vũ trụ này. Muốn cái gì nó làm cái nấy, mà chỉ có cái tâm thanh tịnh mà thôi.
Tại sao chúng ta lại làm không được? Thanh tịnh là nó không giận, không hờn, không phiền não, không tham, không muốn, không gì hết, bỏ hết. Đời có gì mà chúng ta giữ nó được đâu?
Tới cuối cùng chúng ta bỏ thân này mà chúng ta vẫn còn, chúng ta đâu phải mất. Chúng ta còn gì? (06:48) Những gì mà chúng ta tu tập được thì nó còn chớ làm sao nó mất.
Đó, cho nên ở đây thì các thầy thấy từ cái chỗ mà trên pháp quán pháp tu về nhân tướng, hành tướng của nó và đặc tướng của nó, thì đều là chúng ta thực hiện thần thông, thực hiện những cái đạo lực của chúng, cho nên chúng ta điều khiển các pháp.
Đầu tiên thì chúng ta thấy rất rõ, nếu mình không làm chủ các pháp thì các pháp nó đến nó xâm chiếm làm cho tâm mình trở về với cái tâm phàm phu tục tử.
Cái thứ hai, mình sai khiến được các pháp, làm cho các pháp theo ý muốn của mình, cho nên từ đó mà Tứ Như Ý Túc, ý mình muốn sao nó làm như vậy. Cho nên bắt đầu từ đó thì Tam Minh chúng ta thực hiện, thì cái trí tuệ Tam Minh chúng ta hoàn tất được, thì các pháp trong thế gian này đối với chúng ta chỉ là một cái chuyện không có đáng kể đối với chúng ta nữa.
Đó như bây giờ, một cái người mà cái tâm không còn ham muốn cái gì hết, mà họ tu thực hiện được cái đạo lực của Phật như vậy rồi, họ đi vào trong rừng không có nhà cửa gì hết, thì họ chỉ cần bảo: “Tại khu rừng này nè, cái tâm phải biến ra một cái nhà có tiện nghi hẳn hòi, đèn điện nước đàng hoàng”, thì ngay đó giữa rừng nó hiện lên một cái nhà sạch sẽ, khang trang, màn mùng, chiếu giường đầy đủ hết.
Chúng ta vô đó mà ngủ thẳng cẳng. Nghĩa là có cửa cổng gác đóng ngoài đàng hoàng hẳn hoi, có hai thằng lính gác nữa, khỏi sợ ăn trộm ăn cướp, khỏi sợ cọp beo gì hết. Nghĩa là chúng ta nằm ngủ thẳng cẳng ở trong cái nhà.
Nhưng mà sáng hôm sau chúng ta bảo: “Cái tâm này, phải dỡ cái nhà dẹp đi!”, thì ngay đó cái nhà mất tiêu, còn cái khu rừng. Chúng ta ngủ trong rừng mà như là ngủ trong nhà, không phải sướng sao?
Chúng ta muốn cái gì nó được cái nấy, như vậy rõ ràng là cái quyền năng của chúng ta đã làm được những cái chuyện, chớ đâu phải chúng ta làm không được.
Nhưng mà ở đây chúng ta không phải là mục đích chúng ta để đạt được để làm chuyện huyền thoại, kêu là trò ảo thuật đó đâu, chúng ta không làm những chuyện đó. Nhưng mà chúng ta nói để mà chúng ta thấy cái năng lực của chúng ta muốn làm cái gì làm.
Bây giờ Thầy nói như thế này, trên cái nhân tướng của các pháp, thì thân của chúng ta là một pháp. Bây giờ chúng ta đã nhập ở trong cái định đó rồi thì thân của chúng ta như cái thây ma bất động rồi. Phải không.
(09:10) Chúng ta bảo như thế này nè, chúng ta ra lệnh: “Cái tâm này biến cái thân này làm một thân nữa!”, thì cái thân này nó biến ra một cái thân nữa nó ngồi đó, do cái tâm điều khiển nó ra làm cái thân này.
Còn bây giờ, cái thân này, cái tâm nó nói, bây giờ Thầy mới ra lệnh nè: “Cái thân này phải biến làm cái bàn!”, thì cái thân này, các thầy với mấy con không thấy cái thân này nữa, mà chỉ thấy có cái bàn. Cái tâm nó làm cho cái thân này mất tiêu, mà cái thân này nó trở thành cái bàn.
Cái đặc biệt của cái pháp tu nó như vậy. Cho nên trước khi mà chúng ta tu ở trên các pháp mà quán các pháp, để mà tu về cái Tứ Như Ý Túc, thì về cái Dục Như Ý Túc, chúng ta muốn cái gì thì chúng ta làm cái nấy.
Còn bây giờ, Thầy sai như thế này: “Cái tâm này, biến ra cái bàn!” thì cái tâm nó biến ra bàn, thì Thầy còn ngồi đây, Thầy ngồi Thầy coi cái bàn, thấy cái bàn, cái tâm nó biến ra cái bàn, chớ không phải là cái thân Thầy biến.
Mà Thầy bảo: “Cái tâm này biến cái thân này ra cái bàn!” Thì ngay đó cái thân Thầy mất tiêu, còn cái bàn, có cái bàn không. Bởi vì mình muốn gì thì nó làm theo cái nấy.
Còn muốn bảo nó: “Cái thân này biến ra một thân nữa!”, thì nó làm thêm một thân nữa. Mà cái thân này muốn biểu nó biến ra một thân, thì nó biến ra một thân, mà một thân này biến ra trăm thân, nó biến ra trăm thân.
Cho nên trong khi mà tu tập, thì chúng ta cứ dùng pháp hướng nhắc nó. Nó chưa biến thì nó phải biến, từ cái dễ cho đến cái khó. Giống như hồi nãy Thầy nói cái hộp này, bảo nó bay, nó không bay. Nhắc một lần không bay, hai lần không bay, ba lần nó bay lên, nó phải bay.
Bởi vì mình đã có sự sai khiến được các pháp trong khi mình rèn luyện tu tập. Bảo cái lỗ tai: “Quay vô, không cái được nghe âm thanh!”, bây giờ cái chuyện đó nó quay vô nó không nghe âm thanh, thì tức là mình đã có quyền lực rồi đó, có đạo lực rồi. Phải không.
Mình bảo hơi thở ngưng, nó ngưng, tức là nó đã nghe lời mình rồi đó, thì cái chuyện mà mình bảo cái này nó sẽ tiếp tục nó làm hết.
Bảo cái hộp này biến ra cái hộp nữa, nó biến y như thường. Chúng ta cầm hai cái hộp chúng ta không biết cái nào thiệt mà cái nào giả, cái nào là mới biến ra, cái nào cũng giống nhau hết trơn, cầm cái nào cũng y vậy, chúng ta chẳng biết cái nào thiệt cái nào giả.
Đó là những cái mà chúng ta sẽ thực hiện tu tập, nhưng không phải để biểu diễn làm cái trò đùa cho thiên hạ coi. Ở đây không phải, chúng ta nhằm mục đích để làm chủ sự sống chết của chúng ta, chấm dứt luân hồi, đó là cái chính. Cho nên ở đây chúng ta nỗ lực xả tâm, không nghĩ đến điều này.
(11:40) Nhưng mà khi mà tu đến đây rồi, chúng ta phải thực hiện. Không có người nào mà tu tới đây mà bỏ Tứ Như Ý Túc, bỏ Tam Minh. Nghĩa là nhập tới định Tứ Thiền rồi thì phải thực hiện tới. Dù là một năm, hai năm chúng ta cũng phải thực hiện cái này, chúng ta phải tu tập xong.
Đó thì Thầy nói như vậy, rõ ràng là trên Tứ Niệm Xứ để chúng ta xác định được bốn cái chỗ mà chúng ta thực hiện được những cái siêu việt của con người, được những cái sự làm chủ sanh tử của nó, bằng những cái pháp này.
(12:10) Đó thì hôm nay nói tóm lược lại cái bài Tứ Niệm Xứ, chớ chưa có giảng gì Tứ Niệm Xứ đâu, mà đây là chỉ tóm lược để thấy chúng ta đứng ở trên cái vị trí của Tứ Niệm Xứ mà thực hiện các pháp, các thiền định.
Nãy giờ các thấy thấy chúng ta mới có tu tập, chưa có nói đến cái định vô tướng, định bất động. Chúng ta chưa có đặt nó ở chỗ nào hết đâu. Nhưng mà sau này ở trên bốn cái chỗ này chúng ta sẽ đặt nó.
Chúng ta chỉ nói tóm lược để chúng ta biết rằng chúng ta đặt cái định nào ở trên rồi chúng ta tu. Kế đó những cái định gì, như cái định bất động tâm, như cái định bất động thân như thế nào? Lúc bấy giờ thân tâm chúng ta nó sẽ nằm ở chỗ nào?
Bây giờ cái thân nó ngồi thiền mà lúc lắc thì chúng ta phải tu cái định đó để cho cái thân không lúc lắc, nó bất động. Thì tất cả mười sáu cái loại định đều là chúng ta sẽ thực hiện ở trên Tứ Niệm Xứ này hết, không phải chỗ nào.
Cho nên Thầy nói các con bỏ cuộc đời đi tu theo Thầy, thật sự không có phí đâu. Nhưng mà tại các con chưa có hiểu được cái vi diệu, cái cao quý của Phật pháp. Người ta bỏ hết tất cả những cái thế gian này hết mà người ta nỗ lực người ta thực hiện Chánh Pháp của Phật, thì người ta thực hiện.
Bởi vì đây là pháp của Phật mà, Tứ Niệm Xứ là pháp Phật mà, Thầy có pháp nào đâu, Tứ Thánh Định của Phật mà, chớ Thầy có pháp nào đâu? Thầy là người được thừa kế, được tu tập nó mà thôi! Cho nên bây giờ Thầy dạy lại các con.
Mà hầu hết là các bậc Tôn túc Hòa thượng xưa nay chưa có triển khai ở trên cái Tứ Niệm Xứ này, cho nên người ta chưa có biết đem cái định ở trên cái chỗ này mà tu tập. Người ta chỉ thấy cái Tứ Niệm Xứ là cái pháp, ở đó mà tu tập cái đó thôi. Cho nên họ tu tập cái đó là họ tu tập làm sao? Họ không biết ở đó là cái định gì tu hết à.
Cũng như trên thân quán thân thì trong kinh Phật dạy như thế này: “Trên thân quán thân tu về nhân tướng để khắc phục tham ưu”, làm cho mình hết tham ưu thôi, mà không biết. Như vậy họ chưa biết ở cái lời nói đó là Phật đã xác định cái định gì, chưa biết đâu. Họ chưa có biết.
Cũng như Thầy nói, thí dụ như Thầy nói cái Định Diệt Tầm Giữ Tứ, thì trong khi đó chúng ta vừa hít thở biết hơi thở ra và biết hơi thở vô, rồi chúng ta biết cái hơi thở dài, hơi thở ngắn, thì ngay nói: “Tôi hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra” thì ngay đó người ta biết rằng cái người đó đang tu cái Định Diệt Tầm mà Giữ Tứ.
Còn mình nghe người ta nói “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”, thì đó là mình nói Định Niệm Hơi Thở, thì sai rồi! Nhưng cái Định Niệm Hơi Thở nó có cái tên là Định Diệt Tầm Giữ Tứ, mà trong khi phải sử dụng nó ở trong cái giai đoạn đó thì gọi là Định Diệt Tầm Giữ Tứ.
(14:39) Còn cái này người ta nói “Hít vô tôi biết hít vô, thở ra tôi biết thở ra”, thi luc bấy giờ nghe nói vậy nói đó là Định Niệm Hơi Thở, thì họ cũng nói đúng vậy, nhưng mà họ chưa biết đó là cái Định Diệt Tầm Giữ Tứ. Phải không.
Cho nên Thầy nói, nhiều khi một cái tên của nó vậy, chớ chúng ta phải biết được nhiều cái vị trí của nó, giải quyết được những cái gì? Cái Pháp đó nó giải quyết cho chúng ta thoát được cái gì? Cái mục đích của nó, cái pháp đó tu, nó đem đến cái kết quả cho cái việc gì chúng ta đang tu đó?
Cũng như bây giờ mình cầm một cái miếng giẻ, mình lau cái bàn, hay hoặc mình lau cái sàn này, mình lau cái cục gạch này, thì cái cục gạch này nó sẽ được sạch sẽ theo ý muốn mình như thế nào? Thì cái sự lau của mình đó, mình biết được mình lau đó nó sẽ sạch.
Như bây giờ nó có một cái vết bẩn với cái miếng gạch này, thì cái mục đích của Thầy là muốn xóa cho hết cái vết bẩn này, cho nên Thầy cầm cái miếng vải Thầy lau cho hết cái vết bẩn này, còn thì Thầy lau hoài, lau chừng nào hết thôi.
Mà nó hết tức là nó thanh tịnh. Thì cái mục đích của cái pháp đó nó làm cho chúng ta sạch cái vết bẩn đó, cho nên chúng ta nỗ lực thực hiện cho hết vết bẩn.
Cũng như bây giờ Tứ Chánh Cần nè, thì phải thực hiện cái Định Chánh Niệm Tỉnh Giác nè, cái Định Niệm Hơi Thở nè, Định Vô Lậu nè. Thi cái mục đích nó là phải làm cho hết các ác pháp, cho nên bây giờ ác pháp còn thì chúng ta phải tu tập hoài, chừng nào mà nó hết thì chúng ta mới thôi.
Cũng như Thầy lau cái miếng gạch có cái vết bẩn, mà cái vết bẩn nó sạch thì thôi, mà nó còn thì lau hoài, lau cho hết. Cái mục đích nó phải làm cho hết cái đó.
Cho nên cái định đó nó xác định cho chúng ta tu phải làm được cái đó. Cũng như cái định, tất cả các định mà tu về Tứ Như Ý Túc hay hoặc Tam Minh thì nó làm cho các pháp, phải làm chủ được các pháp, nó không xâm chiếm được tâm mình, tức là vô lậu, đoạn diệt lậu hoặc.
(16:28) Điều khiển nó theo ý muốn của mình, nó thể hiện qua những ý muốn của mình, thì nó phải thực hiện trong cái pháp đó, nó làm cho mình bảo cái gì cái vật đó phải nghe theo, thì đó là Tứ Như Ý Túc, đó là Tam Minh.
Thì như vậy là, rõ ràng là hôm nay trên Tứ Niệm Xứ thì quý thầy được học, được biết được cái vị trí mà chúng ta sẽ tu tập, làm chủ được từng cái phần đó.
Như đặt trên thân thì phải làm chủ về cái phần của thân, đặt trên tâm thì làm chủ được cái tâm, đặt trên thọ thì phải làm chủ được cái thọ, mà đặt trên các pháp thì phải làm chủ các pháp.
(17:10) Cho nên các pháp là nó rộng rãi, nó mênh mông, mà mình làm chủ được cái pháp này, cái hộp này biểu bay, thì cái bàn này phải bay, cái nhà này phải bay. Đó, nhưng do đó thì chúng ta muốn như thế nào được như thế nấy.
Thì cái nhà này, cái hộp này, cái bàn này bay được, thì thử hỏi cái thân Thầy ngồi kiết già, ngồi xếp chân như thế này, Thầy bảo nó bay lên hay không bay? Bay! Bởi vì cái thân Thầy cũng là một pháp như cái bàn, cái ghế, đâu có gì mà nó lại không bay?
Đó, thì trên cái bước đường tu tập của chúng ta, chúng ta phải thực hiện cho được những cái điều mà Phật đã dạy. Mà Phật dạy các thầy thấy, những cái định này quý thầy đã học hết rồi. Chỉ còn bây giờ các thầy nỗ lực tu cho đúng. Thầy nói ba tháng đến sáu tháng mà quý thầy nỗ lực, chắc chắn là quý thầy phải đạt được.
Quý thầy thấy nó tuyệt vời, Phật pháp hay quá! Chỉ có mình đem công mình nỗ lực, mà mình nỗ lực thực hiện được, thì nó sẽ đem đến những cái kết quả, vừa giải thoát của mình, không còn đau khổ của cuộc đời này nữa, vừa chấm dứt sinh tử, vừa làm chủ được bệnh, vừa làm chủ được cái sự sống chết, muốn chết hồi nào chết, muốn sống hồi nào sống.
Hạnh phúc vô cùng, không còn gì hạnh phúc bằng! Và điều khiển các pháp theo ý muốn của mình hết, muốn cái gì được cái nấy.
(18:24) Nhưng không phải là chúng ta làm trò hý luận, làm cái trò ảo thuật cho thiên hạ xem. Chúng ta không phải những người cầu danh, tầm thường, nhỏ mọn như vậy.
Chúng ta là những người không có ham danh, cho nên chúng ta không thể hiện những cái bậy bạ đó, những cái không đúng đó, cái ảo thuật đó. Chúng ta thực hiện được cái sự sống chết chúng ta là hạnh phúc cho chúng ta rồi.
Cho nên bây giờ chúng ta (không) làm người phàm phu tục tử như bao nhiêu người khác, ăn ngày một bữa, sống không thèm khát một cái gì khác hết. Ai cám dỗ gì chúng ta cũng không ham, ai đem tiền bạc cho chúng ta cũng không thích hết, ai đem danh lợi chúng ta cũng không màng hết, mọi mọi chúng ta đều tránh hết.
Chúng ta biết đời là khổ, mọi pháp đều là có sự cám dỗ trong đó, chúng ta tránh hết, không ham muốn gì hết. Đúng cái điều kiện để mà giúp ích bao nhiêu người lợi, thì cái thần thông này chúng ta dám thị hiện, mà không ích lợi chúng ta không thị hiện.
(19:18) Như Thầy đã nói cho các con thấy, Thầy ước ao có một ngày nào đó Hòa thượng chỉ cần mời Thầy về Tu viện Trúc Lâm. Nghĩa là thầy trò tâm tình nhau. Còn bây giờ mà Thầy về đó Thầy thăm, rồi Thầy làm cái điều này điều khác, thì người ta nói Thầy ngoại đạo, Thầy không bao giờ về.
Nhưng Hòa thượng có cái nhã ý muốn mời Thầy về đó, rồi thầy trò tâm tình, Thầy mới nói cái chuyện tu hành của Thầy, rồi Thầy mới thể hiện cho Hòa thượng thấy những cái điều đó. Nhưng mà chỉ có một mình Hòa thượng chớ còn nếu mà có năm ba chúng mà ngồi xem thì nhất định là hoàn toàn Thầy không làm.
Thầy (thưa) với Hòa thượng: “Bây giờ đó, trên cái bước đường tu tập con sẽ làm chủ được như vậy, vậy, con sẽ thể hiện cho Hòa thượng xem thấy cái chỗ tu tập của con như vậy.”
Thì từng đó Hòa thượng chấp nhận, thì bao nhiêu chúng mà theo Hòa thượng, thì được cái sự hướng dẫn của Thầy, thì Hòa thượng chọn, Thầy không có bao giờ mà Thầy cầu danh mà Thầy lộ tướng Thầy ra hướng dẫn họ đâu.
(20:14) Hòa thượng cái chọn số chúng của Hòa thượng như thế nào, người mà quyết tu, cho vào một góc. Thầy chỉ đến đó Thầy ở một thời gian với Hòa thượng năm tháng, mười tháng, một năm. Thầy đi tới lui Thầy chơi vậy thôi, chớ Thầy không thấy Thầy dạy ai hết, nhưng mà đôi mắt Thầy luôn luôn để ý những cái người mà Hòa thượng đã chọn.
Thầy cho những người đó phải sống đúng giới hạnh ly dục ly ác pháp hẳn hòi đàng hoàng. Thì Thầy nằm úp, Thầy chỉ ẩn mình mà Thầy hướng dẫn họ, để cuối cùng họ đạt được những cái điều kiện đạo đức của đạo Phật rõ ràng.
Còn bây giờ, khi không mà Thầy về đó Thầy làm chuyện đó, thì bậy, khoe khoang. Hòa thượng chỉ, thầy trò mới tình cảm nhau. “À, bây giờ Thông Lạc tu như thế nào, Thông Lạc trình lại cho thầy xem coi có đúng hay không, coi thầy tu tới chỗ nào, mà Thông Lạc tu tới chỗ nào?”
Thầy mới trình tất cả những cái này. Tâm tình, thầy trò nhau tâm tình, rồi chứng minh để trên con đường tu của mình, để cho thầy mình biết rằng đó là như vậy đó, để cho thầy mình có cái niềm tin, từng đó mới đem hết cái khả năng thầy trò hợp tác nhau để hướng dẫn người tu.
Chớ không khéo để lỡ bước người ta, uổng cuộc đời tu hành, mà đi tới đâu? Như nãy giờ Thầy nói, bây giờ ở trên tâm Thầy nè, chúng ta tu cái tâm nè, “biết vọng liền buông” nè. Buông đi, buông hết được có cái tâm, còn cái thân chúng ta không làm chủ, thì nó có lợi ích gì đâu?
Cho nên Thầy nói để cho thấy rằng, chúng ta tu nó không đúng bốn cái chỗ này thì nó không thể làm chủ toàn diện đâu. Bốn cái chỗ này mà Đức Phật đã xác định là Tứ Niệm Xứ, bốn cái nơi mà chúng ta phải tu tập, để làm chủ toàn bộ, làm chủ cả thân, tâm, tất cả mọi cái mà ở trên bốn cái chỗ này chúng ta làm chủ hết. Đó là con đường của đạo Phật nó chỉ định rất rõ ràng.
Chớ không phải chúng ta tu cái chuyện ngoài, mà tu ngay cả thân, tâm của chúng ta ở đây nè, trong thân của chúng ta đầy đủ. Đó thì chúng ta nỗ lực tu ngay chỗ đó gọi là Tứ Niệm Xứ.
(22:04) Bây giờ các con đã được học Tứ Niệm Xứ, từ lâu tới giờ nghe nói Tứ Niệm Xứ chớ chưa biết phải không? Hôm nay biết rõ rồi, biết được cái vị trí, biết được cái chỗ mà chúng ta tu tập.
Từ lâu chúng ta tu chớ chúng ta chưa biết tu cái gì, làm cái gì cho nó tốt đó, phải không? Các thầy cứ nghĩ rằng mình tu giải thoát sinh tử thôi, chớ chưa biết làm cái chỗ nào mà cho nó giải thoát sinh tử, phải chưa?
Bây giờ Thầy dạy Tứ Niệm Xứ mới biết cái được chỗ mà chúng ta làm chủ được giải thoát sinh tử rồi đó, hiểu rồi phải không? Hiểu rồi thì tới đây phải nỗ lực tu, tu sao cho mà vừa lòng Thầy, Thầy giảng Thầy mới không buồn.
Chớ tu mà Thầy giảng hết sức như vậy, Thầy nói quá rõ như vậy đó. Phật dạy hồi xưa, thì ngày đó các vị tỳ kheo trong thời đức Phật thì đã hiểu rồi. Nhưng mà từ khi Đức Phật tịch rồi, thì không còn ai giảng nữa, cho nên không ai hiểu được cái pháp này hết. Cho nên họ chỉ nói lớ quớ, lớ quớ vậy thôi chớ họ không biết đâu hết.
Bây giờ Thầy đã dạy rõ rồi, thì do đó các con phải nỗ lực tu. Tu gì? Thầy nói quá mệt mà các con tu không được là Thầy buồn khổ vô cùng.
Mà các con tu được, tức là Thầy nói có mệt, bây giờ cái thân của Thầy bây giờ có nát đi nữa Thầy cũng vui nữa. Bởi vì Thầy nói ra mà có người làm được thì Thầy sẽ chịu.
Cho nên các con ở bên nữ các con cũng phải ráng, ráng đền đáp ơn Thầy chớ. Thầy nói hết mình, từ lâu đến giờ Thầy chưa dám nói, Thầy không muốn nói. Mà bây giờ Thầy nói là tại vì Thầy thấy Thầy tuổi già rồi, nay mai Thầy sắp sửa đi rồi, Thầy thúc đẩy các con tu dữ lắm đó.
Mà nếu mà các con tu chơi chơi thì chắc chắn là Thầy đi mất rồi, chừng đó đừng có nói uổng quá Thầy không ở lại để mà dẫn dắt các con nữa.
Thầy biết chớ, Thầy biết cái tuổi thọ Thầy bao lâu Thầy biết chớ, Thầy không biết sao được. Mà Thầy không biết thì Thầy làm sao Thầy thúc hối mấy con, Thầy biết chớ! Mà sự thật ra thì đối với cái thân của Thầy, Thầy có thể kéo thêm tuổi thọ Thầy thêm được, nhưng mà kéo thêm làm gì cho nó khổ mấy con?
Nếu mà mấy con không nỗ lực tu thì Thầy kéo thêm làm gì, ở đây mà cứ nuôi cơm mấy con hoài? Lẽ ra mấy con lớn rồi phải mần nuôi cha nuôi mẹ, chớ sao lại để cha mẹ mần nuôi con hoài? Cho nên các con phải nỗ lực tu.
(24:06) Đó, Thầy nhắc nhở như vậy. Chớ Thầy biết cái tuổi của Thầy là tới đâu, Thầy biết trước. Bởi vì mình tu mà mình không biết thì mình tu làm gì? Nhưng ai hỏi Thầy, Thầy không biết gì hết, mà đối với mấy con Thầy nói vậy để các con biết.
Bởi vì Thầy lo lắng cái này, lo lắng cái kia, lo lắng cái nọ, là Thầy đã biết cái tuổi Thầy nó chỗ nào, chớ còn Thầy không biết Thầy lo đâu. Thầy nói ờ mình còn sống năm, mười năm nữa chớ gì! Thầy không phải là kẻ mờ mịt đâu!
Thầy biết bữa nào Thầy đi, ngày nào Thầy đi, tháng nào Thầy đi, năm nào Thầy đi, Thầy biết điều đó hết, cái nhân quả của Thầy nó tới đâu Thầy biết. Nhưng mà Thầy muốn sống thêm thì cái chuyện đó không phải là khó đối với Thầy.
Nhưng mà Thầy muốn các con phải thực hiện đúng với cái nhân quả, để rồi cái sự ra đi của Thầy nó cũng thanh thản. Nghĩa là Thầy làm xong cái nhiệm vụ với cái tuổi đời của mình, đã đúng với cái nhân quả, Mà sanh ra làm người, nó phải có nhân quả tới đó mà thôi, trả hết duyên nghiệp nó … (Không nghe rõ)
Còn bây giờ kéo thêm, tức là mình kéo thêm cho cái thân nó sống thêm, để mà trợ giúp các con để cho tu, cuối cùng thì các con lại dễ duôi. Các con lại nói Thầy chắc có lẽ là sống một kiếp, hai kiếp, ba kiếp, năm kiếp, mười kiếp nữa. Mình sáu bảy trăm tuổi, thì Thầy có thể ngàn tuổi cũng được, đâu có sao!
Cho nên các con tu hoài, tu cầm chừng, tu cầm chừng, thì tức là không cái tới đâu hết. Cho nên Thầy thấy được cái điều, mà Thầy biết, các con cũng phải nỗ lực thật sự.
Và hôm nay Thầy dạy Tứ Niệm Xứ. Tứ Niệm Xứ các con đã rõ rồi, Thầy cái chưa giảng vào chi tiết. Đây là mới là cái bảng tóm lược của Tứ Niệm Xứ, nhưng mà xác định được các định của nó, tu tập được pháp nào ở trên đó rồi. Các con thấy chưa, phải rõ không?
Các con biết đặt cái pháp nào tu cái chỗ, cái xứ nào. Cái nơi đó, cái chỗ đó tu, mà muốn tu cái chỗ đó thì phải cái pháp đó để tu, chớ cái pháp khác các con đặt tu không trúng đâu.
Cũng như bây giờ mình lấy cái bàn chải, cái thùng nước, mình chà cái cục gạch này cho sạch, mà mình không lấy, mình lại lấy chuyện khác, thì mình lấy cái nồi cơm mình đem mình đặt đó, thì nó còn dính lọ thêm chớ nó có làm sao sạch được. Nó trật đi.
Cho nên cái bốn chỗ này Thầy đã đặt cho các con biết được những cái pháp để mà các con tu tập. Mà các pháp đó thì có phải ngoài kinh sách của Phật không? Đâu có ngoài! Ông Phật đã xác định được điều đó mà. Cho nên bây giờ ở trên đó mà Thầy dạy các con tu thì cũng không có ngoài các pháp đó.
Bây giờ thì gần 5 giờ rồi, thôi Thầy nghỉ các con.
(26:28) Hôm nay Thầy dạy tiếp tục Tứ Niệm Xứ. Bởi vì hôm kia đó thì Thầy mới chỉ đọc cái bài tóm lược của Tứ Niệm Xứ, nhưng vì những cái câu hỏi của cô Diệu Quang mà Thầy chưa trả lời hết, thì đình lại để trả lời cái những câu hỏi của thầy Chơn Thành.
Cho nên cô Út thì có hỏi những cái câu hỏi như thế này, nhưng mà Thầy chưa có trả lời, nhưng mà có một câu nhằm thì nó vào ở trong cái bài học Tứ Chánh Cần.
Cái câu của cô Út hỏi: “Ý thức thanh tịnh có phải là Phật Tánh không thưa Thầy?” - Cái ý thức thanh tịnh có phải Phật Tánh không.
Bởi vì cô thường nghe nói “chẳng niệm thiện niệm ác”, thì trong lúc cái ý thức của chúng ta đang biết cái không có niệm thiện niệm ác, đó là cái lối của Thiền Tông đó, thì cho nên cái ý thức mà thanh tịnh đó có phải là Phật Tánh không?
Hầu hết là bên Thiền Tông người ta nói “chẳng niệm thiện niệm ác”, thì cái đó là cái ý thức thanh tịnh, cho nên cô hiểu ngay được chỗ đó cô hỏi.
Thầy thì cũng không có nghĩ đến cái điều này, nhưng mà cô lại hiểu rằng cái ý thức mình không có phân biệt, không có nghĩ thiện nghĩ ác, thì cái đó nó có phải là Phật Tánh đúng vậy không, hay là nó chỉ mới cái ý thức của chúng ta thanh tịnh thôi? Ý cô hỏi như vậy đó.
Cá câu kế thì cô hỏi: “Thế nào là sự sai khác giữa trí tuệ và thức?”
Cô Út cổ cũng hay có cái sự suy tư, cỏ hỏi Thầy: cái trí tuệ là cái sự hiểu biết cái này, cái nọ, cái kia, hay hoặc là người ta nói ra cái mình hiểu liền đó, thì có trí tuệ. Nhưng mà cái thức nó cũng nằm ở trong cái chỗ đó. Đó thì các con với các thầy phải suy ngẫm lại cái chỗ mà cô Út hỏi cái chỗ đó.
Thầy sẽ trả lời, các con sẽ thấy trí tuệ với cái thức có khác nhau không.
Cho nên cô hỏi trí tuệ với cái thức nó có khác nhau không, đó. Chớ không khéo thì chúng ta, trong cái trí tuệ hiểu biết chúng ta muốn nói cái này kia, thì nó có cái thức chớ, biết nó mới nói chớ không biết làm sao chúng ta nói?
Như vậy là cái thức với cái trí tuệ này, nó một hay là nó hai, hay hoặc là nó, hai cái nó hợp chung nhau lại để nó hiểu biết cái này, cái kia? Đó là cái ý của cô Út hỏi.
(28:53) Rồi cổ hỏi kế nữa: “Thế nào là vô minh, mà thế nào là minh? Vô minh như thế nào?”
Cô giải thích thêm cái chỗ này để cô hỏi cho rõ ràng: “Vô minh có phải là không hiểu gì hết, nghe ai nói gì mình cũng không biết hết, thì cái đó có phải là vô minh không? Còn minh có phải là hiểu biết mọi thứ, cái gì mình cũng biết hết, thì cái đó gọi là minh?”
Cô hỏi cái đó phải cái đó là minh hay không, hay là minh như thế nào, mà vô minh như thế nào?
Đó là những cái. Cô hỏi câu kế nữa: “Trí tuệ có nghĩa như thế nào?”- Cái trí tuệ mình có nghĩa như thế nào? Hồi nãy thì cô hỏi “Thế nào là sự sai khác giữa trí tuệ và thức?”, bây giờ cô hỏi riêng: “Trí tuệ có nghĩa là như thế nào?”
Đó thì coi như là cô Út cổ cũng sâu sắc lắm, cổ cũng hỏi những cái hỏi mà nếu mà một cái người thầy mà lơ mơ thì chắc chắn là cũng khó trả lời.
Ngay cả cái chỗ câu hỏi mà cổ hỏi ý thức thanh tịnh, Thầy giật mình Thầy nói, đâu có ngờ từ lâu tới giờ, người ta đâu có nghĩ rằng cái chỗ mà “chẳng niệm thiện niệm ác” là ý thức thanh tịnh, chớ đâu phải là cái Phật Tánh, đâu phải là cái tâm thức của chúng ta đâu. Nó mới có ý thức thanh tịnh thôi.
Rồi tưởng thức nó cũng chưa thanh tịnh, cho nên nó còn mộng tưởng. Rồi ý thức của chúng ta nó chưa thanh tịnh, cho nên nó mới nghĩ niệm thiện niệm ác, nó mới ham muốn cái này cái kia. Mà bây giờ nó thanh tịnh tức là nó không ham muốn nữa.
Đó thì nó có cái chỗ mà để Thầy sẽ trả lời với các con.
Cô còn hỏi câu kế nữa: “Tu tập như thế nào mà Chánh Tri Kiến sanh khởi?”
Nghĩa là từ lâu tới giờ mình cứ mình cũng hiểu biết cái này kia, mình cũng thấy cái đúng cái sai, nhưng mà mình tu tập thế nào mà luôn luôn lúc nào nó cũng phải có cái Chánh Tri Kiến sanh khởi, chớ còn nếu mà không có Chánh Tri Kiến sanh khởi thì mình cứ giận hờn phiền não.
“Con dạy hoài mọi người mà con thấy như là cái Chánh Tri Kiến họ không có khởi ra được, cho nên họ không có giải thoát được tâm của mình.”
Đó là những câu hỏi cô hỏi mà Thầy chưa có trả lời, vì mắc trả lời cho Chơn Thành. Cho nên tiếp tục thì cô cũng sẽ hỏi những câu hỏi kế nữa, nghĩa là vấn đáp, vấn đạo, là làm cho chúng ta rõ được cái con đường mà chúng ta tu tập, nó càng rõ hơn nữa, còn nếu mà không có hỏi thì như chúng ta lờ mờ lắm.
(31:14) Cũng như khi mà nghe Thầy nói, mình tu Tứ Chánh Cần thì các pháp ác mình không cho sanh, rồi các pháp ác có sanh thì mình nỗ lực mình đoạn dứt trong ba cái loại định. Nhưng mà khi đoạn dứt như vậy thì cái tâm của mình lúc bấy giờ nó có giống ở chỗ cái ý thức thanh tịnh này không?
Hầu hết là các con sẽ nghĩ rằng cái tu Tứ Chánh Cần như vậy nó sẽ giống như Thiền Tông, nó làm như cái chỗ không niệm thiện niệm ác. Không, các thầy nên nghĩ rằng ở đây, ở Tứ Chánh Cần nói là pháp thiện và pháp ác, chớ không có nói niệm thiện, niệm ác.
(31:50) Nhưng mà bên Thiền Tông, khi mà Lục Tổ Huệ Năng ngài dạy cho Thượng tọa Minh, thì ngài nói: “Chẳng niệm thiện niệm ác thì bản lai diện mục của Thượng tọa hiện tiền”, phải không? Cho nên chẳng niệm thiện niệm ác.
Còn ở đây chúng ta, cái pháp ác chúng ta ngăn chặn, mà chúng ta nuôi dưỡng cái pháp thiện, cho nên khi mà chúng ta thấy cái Sơ Thiền mà Phật có nói rõ đó. Vì các pháp ác mà chúng ta ngăn chặn không cho sanh khởi, và đoạn dứt các pháp ác, thì các pháp ác chúng ta biết rằng tham, sân, si. Mà tham sân si nó không có, thì không có nghĩa là ở trong cái trạng thái như là chúng ta ức chế tâm không niệm thiện niệm ác.
Cho nên Phật nói: ly dục, ly ác pháp, do ly dục sanh hỷ lạc, do ly dục sanh hỷ lạc có Tầm có Tứ. Lúc bấy giờ cái người đó họ còn có sự suy tư, họ còn nghĩ, bởi vì họ nghĩ thiện họ cũng tốt chớ đâu phải không, ai cấm họ?
Thí dụ như bây giờ Thầy không có khởi tâm tham, sân, si hay hoặc là khởi tâm nói vọng ngữ hay hoặc cái này, cái kia ở trong đầu, Thầy không có nghĩ, thì đó là đang ở trong toàn thiện.
Nhưng mà bây giờ cái đầu của Thầy nghĩ, bây giờ mình thấy cái người đó, hay hoặc là một cái con vật đó đang bị, cũng như thí dụ như thấy một con chó nó tha con gà đi, thì chúng ta sợ con gà bị con chó nó giết chết đi, cho nên chúng ta khởi cái niệm là hãy cứu con gà đi, thì cái đó là thiện chớ có bắt buộc chúng ta không khởi cái niệm đó đâu, phải không?
Cũng như bây giờ chúng ta thấy một đứa bé nó đi qua đường mà nó sợ, hay hoặc một bà già đi qua đường sợ xe cộ nhiều quá, chúng ta khởi niệm: “À bây giờ đưa cái bà già này qua bên lộ, đưa đứa trẻ này qua bên lộ.”
Hay hoặc là trong cái buổi tối rồi, có một người đi lỡ đường mà họ đến nhà mình họ xin tá túc đỡ, thì mình cũng khởi cái niệm: “À như vậy là mình xét coi cái người này tốt hay là người xấu, nếu mà người tốt thì mình giúp đỡ cho họ trú ngụ qua đêm.”
Đó thì như vậy là những cái niệm mà mình khởi như vậy có nghĩa là Tầm Tứ chớ, có Tầm có Tứ chớ. Cho nên ở đây ly dục ly ác pháp, do ly dục sanh hỷ lạc, nhập Sơ Thiền có Tầm có Tứ.
Cho nên một người mà nhập Sơ Thiền thì họ có năm cái điều kiện ở trong đầu họ. Nhập Sơ Thiền mà họ ly dục thì họ có năm cái điều kiện. Tầm Tứ họ có nè, nhất tâm họ có nè, chớ không phải là họ hết. Các ác pháp thì họ diệt hết, họ không có để trong tâm của họ những cái niệm mà làm cho họ đau khổ, làm cho họ thương ghét.
Thì như vậy rõ ràng là nó sai khác với cái “ý thức thanh tịnh” của Thiền Đông Độ.
(34:51) Đó thì cái câu hỏi mà của cô Diệu Quang hỏi cái chỗ này: “Ý thức thanh tịnh có phải là Phật Tánh không thưa Thầy?”
Đúng là tại người ta nhận cái ý thức thanh tịnh đó là Phật Tánh. Nhưng Đức Phật cũng đã xác định rằng cái ý thức mà thanh tịnh đó không phải là Phật Tánh, không có phải là Phật Tánh, mà Đức Phật nói rằng: Ý thức thanh tịnh nó sẽ đưa cái người đó đi vào cái chỗ Không Vô Biên Xứ, đây là một cái bài kinh.
Vì cô Út hỏi, mà Thầy thì sợ trả lời theo cái ý của mình, thì mọi người sẽ nghi rằng Thầy đặt điều. Nhưng mà đây là cái bài kinh của Phật, cho nên Thầy có nhớ Thầy đọc ở trong cái bài kinh đó, cái bài kinh đó gọi là “Đại Phương Quảng Kinh”, thì có một người cư sĩ hỏi Đức Phật, cái ý thức thanh tịnh nó như thế nào đó.
Thì vị cư sĩ đó hỏi: “Ý thức thanh tịnh không liên hệ với năm căn có thể đưa đến gì?” Năm căn là gì các thầy và các con biết không? Năm căn là như thế nào, bởi vì ý thức là có ý căn ở trong đó rồi, cho nên cái ý căn nó bỏ ra. (36:04) Nó có sáu cái căn, mà ở đây chúng ta tính năm căn, là nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý.
Nhãn là con mắt chúng ta nè, nhãn căn là cái con mắt, mà nhĩ căn là lỗ tai chúng ta. Căn là cái phần gốc của năm cái điều này, nó có năm cái: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, phải không, bỏ cái ý đi.
Thì khi mà chúng ta ngồi chúng ta chẳng niệm thiện niệm ác, thì cái ý thức của chúng ta bây giờ nó đang ở trong cái chỗ không niệm thiện niệm ác, tức là nó thanh tịnh.
Nó thanh tịnh không có liên hệ với năm căn, tức là nó nghe mà nó không phân biệt, cho nên ở bên Thiền Tông Độ nói không phân biệt, nói vô phân biệt.
Nó thấy mà nó không phân biệt, nó không nghĩ, nó không có khởi nghĩ rằng cái màu này màu xanh, màu đỏ, màu vàng. Nó thấy màu xanh, màu vàng thì màu xanh màu vàng cũng hay vậy chớ nó không có phân biệt. Nó nghe cái âm thanh đó trầm bổng thì nó cũng không phân biệt, mà nó có nghe thôi chớ nó không phân biệt.
Cho nên lúc bấy giờ, ở đây cái người cư sĩ này hỏi: “Ý thức thanh tịnh không liên hệ với năm căn, nó có thể đưa đi đến đâu, đưa đến cái chỗ nào?”
Thì Đức Phật trả lời: “Này hiền giả, ý thức thanh tịnh không liên hệ đến năm căn có thể đưa đến Hư Không Vô Biên Xứ”. Hư Không Vô Biên Xứ, đó là cái câu Đức Phật trả lời mà. Thầy nói rằng ý thức của cái người mà ý thức chẳng niệm thiện niệm ác, sẽ lần lượt họ sẽ đi vào những cái định tưởng, thì Hư Không Biên Xứ Tưởng.
Các con nghe Thầy nói, khi trước kia Thầy xác định như vậy, nhưng mà không đem cái bài kinh để xác định. Hôm nay đem cái bài kinh của Phật để xác định cho các con thấy rõ ràng là Thầy nói rằng: khi một người tu Thiền Đông Độ, thì họ do ức chế tâm họ mà diệt Tầm Tứ, cho nên ý thức họ nó không có vọng tưởng, nhưng mà họ sẽ rơi vào các định tưởng, Thầy chỉ nói vậy thôi.
Ở đây thì Đức Phật xác định cho biết là ý thức thanh tịnh không liên hệ với năm căn nữa, tức là vô phân biệt rồi, thì lúc bấy giờ nó sẽ đưa đi đến Hư Không Vô Biên Xứ, tức là Không Vô Biên Xứ đó. Mà hư không là vô biên, thì lúc bấy giờ nó có thể đưa đi đến chỗ nào nữa? Nó có thể đưa đi đến thức vô biên.
Cho nên Hòa thượng Thanh Từ, khi mà tu Hòa thượng thấy cái tâm mình nó phủ trùm đó, là Thức Vô Biên, cái biết nó phủ trùm đó, là Thức Vô Biên. Cho nên Hòa thượng lạc vào ở trong cái “Thức Vô Biên Xứ”.
Mà Thức Vô Biên Xứ thì tại vì nó có cái chữ “vô biên” cho nên nó sẽ đưa cái vị đó đi đến cái chỗ “Vô Sở Hữu Xứ”.
Mà “Vô Sở Hữu Xứ” thì họ ngỡ tưởng đó là cái chỗ “phản bổn hoàn nguyên” của họ đó, chỗ mà không có xứ sở, không có tên, không có tuổi, không có vật gì hết, hoàn toàn là không có một cái gì trong đó hết, thì đó là họ tưởng đó là cái chỗ “phản bổn hoàn nguyên” của họ.
Nhưng mà họ lạc vào ở trong ba cái xứ, ba cái định tưởng này, nếu mà họ tu đúng, họ rơi vào chỗ này. Còn nếu họ không tu đúng, thì từ cái chỗ Không Vô Biên Xứ này, họ đã tưởng mình đã phủ trùm nè, hay là Thức Vô Biên Xứ nè, họ đã tưởng mình đã phủ trùm rồi.
Từ đó họ bị các pháp tưởng, họ gặp các pháp tưởng, cho nên họ ở trong cái chỗ này loanh quanh mà họ không ra được. Đây là một cái bài kinh của Phật đã xác định được cái Thiền Đông Độ, nó đứng ở trong vị trí nó, ở chỗ ý thức thanh tịnh.
(39:34) Cho nên Lục Tổ Huệ Năng nói: “Chẳng niệm thiện niệm ác, bản lai diện mục hiện tiền”, tức là ý thức thanh tịnh chớ gì, nó chẳng có niệm thiện niệm ác. Mà bây giờ cái ý thức của chúng ta, chớ đâu phải là tâm thức của chúng ta.
Còn một cái người mà người ta nhập Tứ Thiền là cái ý thức người ta phải ngưng, và tưởng thức người ta ngưng, cho nên người ta hết mộng, do đó cái tâm thức người ta mới đánh thức dậy, cái Thức Thức nó mới đánh thức dậy. Vì vậy cái Thức Thức đó nó không phải là ý thức thanh tịnh nữa.
Đó thì hôm nay do cái câu hỏi của cô Út mà Thầy phải lật cái cuốn kinh mà trước đây Thầy đọc, hồi sáng này Thầy phải đi tìm cái câu để mà đáp cho nó đúng với cái lý của đạo Phật. Chớ còn Thầy nói nó chỉ rơi vào trong cái định tưởng thì cô Út hỏi Thầy, Thầy cũng nói rơi vào trong định tưởng thì cô Út không tin.
Cô nói: “Thầy nói vậy thì cũng chưa xác định lắm. Bởi vì cho nên Thiền Đông Độ con gặp khách mà họ hỏi, thì coi như họ tự đắc chỗ này lắm, còn nói rơi vào tưởng như Thầy thì họ cũng chưa tin Thầy đâu.”
Hôm nay thì rõ ràng là lời của Phật đã nói chớ không phải là Thầy nói. Nhưng mà cái chỗ tu và cái chỗ nói của Thầy qua kinh nghiệm của Thầy nó không sai với Phật. Đó là để rồi sau này Thầy trả lời rất nhiều những cái điều kiện mà cô Út hỏi Thầy, Thầy sẽ trả lời hết để làm sáng tỏ được cái con đường tu tập.
(40:59) Và cũng do cái chỗ hỏi này mà Thầy xác định cái Tứ Chánh Cần và cái chỗ “chẳng niệm thiện niệm ác” của Thiền Đông Độ, để thấy chỗ Tứ Chánh Cần nó khác cái chỗ mà, chúng ta tu Tứ Chánh Cần nó khác cái chỗ “niệm thiện niệm ác”.
Bởi vậy hồi nãy Thầy có xác định, cái Tứ Chánh Cần nó chỉ nói rằng pháp thiện và pháp ác, chớ không nói niệm thiện niệm ác, đó thì nó có khác. Bởi vì lấy trong thập ác và thập thiện, thì chúng ta cân ra thì chúng ta thấy, nếu thập ác có thì thập thiện nó không có, mà thập thiện có, thì thập ác không có, chớ không phải chúng ta giữ niệm thiện niệm ác.
Cho nên khi đó chúng ta ly dục ly ác pháp thì chúng ta có Tầm có Tứ, có Hỷ, có Lạc, cho nên nó có năm cái quả vị của cái trạng thái ly dục ly ác pháp, là có Tầm, có Tứ, có Hỷ, có Lạc, và có Nhất Tâm.
Nhất tâm là bây giờ các con thấy rõ ràng, bây giờ cái tâm của chúng ta đang ở trong một cái trạng thái không có một cái niệm nào hết, hoàn toàn duy nhất có một cái tâm của mình với cái trạng thái hỷ lạc của nó do ly dục sanh hỷ lạc. Đó là có cái nhất tâm.
(42:24) Nhưng mà trong cái nhất tâm đó nó có Tầm có Tứ. Khi nó khởi một niệm gì, là do cái niệm thương đối với chúng sanh, cái tâm từ của nó mà, nó còn ở trong Tứ Vô Lượng Tâm nữa. Cho nên cái niệm của nó không phải là gọi là cái niệm ác, giúp đỡ một cái người khác đang gặp cái tai nạn thì đâu có nghĩa rằng nói đó là niệm ác được.
Mà bên Thiền Tông thì khởi một cái niệm như vậy thì cái ý thức của họ không thanh tịnh, họ không cho có cái niệm nào xen vào đó. Cho nên họ “chăn trâu”, họ “giữ ông chủ”, hoặc là họ “tri vọng”, là có mục đích là không có niệm thiện niệm ác, nghĩa là toàn bộ không có niệm thiện niệm ác.
Còn ở đây chúng ta có niệm thiện được chớ đâu phải không. Cho nên trong bài “Song Tầm”, song tầm tức là hai cái niệm song song với nhau, thì Đức Phật dạy chúng ta nên diệt cái niệm ác, cái Tầm ác, chớ không phải là cái niệm.
Cái Tầm ác, còn cái Tầm đây nó không phải là cái niệm, mà cái Tầm là cái sự suy nghĩ của chúng ta, cái tư duy của chúng ta, gọi là Tầm. Còn cái diệt Tầm diệt Tứ thì diệt cả những cái niệm vọng tưởng của chúng ta luôn hết, cả Tầm Tứ cũng không cho khởi lên hết đó, thì không cho suy nghĩ hết đó, thì đó mới là Thiền Đông Độ.
Cho nên nó ức chế mà không cho một niệm nào, không cho khởi một niệm nào ra phân biệt cái này, cái nọ, cái kia. Còn ở đây chúng ta thấy cái sự đau khổ, chúng ta khởi cái niệm, thấy đau khổ chúng ta khởi cái niệm thiện chúng ta giúp đỡ.
Đó thì học về Tứ Chánh Cần mà không rõ thì chúng ta sẽ lầm nó là, coi như là tu theo Thiền Đông Độ, tức là chẳng niệm thiện niệm ác.
Còn ở đây phải biết phân biệt cho rõ, do cái chỗ biết phân biệt cho rõ đó, thì chúng ta mới thấy được cái đường tu của mình nó rõ ràng. Mà nếu nó không cái rõ ràng thì chúng ta sẽ lầm lạc, còn bây giờ nó rõ ràng rồi thì chúng ta không lầm lạc nữa, coi như chúng ta tu Tứ Chánh Cần không phải là tu chẳng niệm thiện niệm ác.
Thì rõ được như vậy thì chúng ta mới thấy rằng con đường chúng ta khác, không có giống cái con đường của Thiền Đông Độ. Còn nếu không thì chúng ta lầm cái pháp này nó cũng giống ở cái pháp Thiền Đông Độ, thì cái đó là cái hiểu sai.
(44:47) Cho nên Thầy, do cái câu hỏi này Thầy muốn làm sáng tỏ thêm cái phần mình tu Tứ Chánh Cần, để không có hiểu lầm lạc.
(44:57) Đó thì trong cái Tứ Chánh Cần mà hiểu được rõ như vậy, thì hàng ngày các con nỗ lực tu tập, thì các con sẽ lìa được năm cái chi, lìa xa được năm chi, năm chi đó gọi là ác pháp. Năm chi đó gọi là tham, sân, si, mạn, nghi.
Thì năm cái chi này mà lìa được thì chúng ta mới gọi là ly dục ly ác pháp. Mà ly dục ly ác pháp thì chúng ta có năm cái đức. Năm cái đức tức là năm cái quả, mà năm cái quả đó là Hỷ, Lạc, Tầm, Tứ và Nhất Tâm. Cái kia nó lìa ra năm cái, thì cái này nó đạt được năm cái quả của nó, thì mới thể hiện được một cái định Sơ Thiền của nó.
Đó thì chúng ta thấy đi vào đạo Phật thì chúng ta phải rõ, nếu một người mà chưa ly năm cái điều kiện là tham, sân, si, mạn, nghi. Mà chưa có lia nó được năm cái đó thì nó không bao giờ mà nó có năm cái đức của nó, năm cái quả của cái ly đó, cho nên năm quả đó là Tầm, Tứ, Hỷ, Lạc và Nhất Tâm.
Đó thì các con nhớ rất rõ. Bởi vì mình lìa cái này thì mình phải được cái này, còn mình lìa chưa được thì nó chưa được cái gì hết.
Đó cho nên cố gắng mà giữ được cái niệm thiện, luôn luôn sống ở trong thân và tâm của chúng ta mà đừng cho một cái niệm ác, dù ai nói nặng nói nhẹ như thế nào, đừng có khởi nghĩ đến cái ăn, cái uống, cái này, cái kia, đừng có nghĩ đến những cái nhà, cái cửa, hoặc là những cái tư riêng gì cả hết.
Bỏ hết, bỏ hết, để cho cái tham, sân, si của chúng ta nó đều lắng xuống hết, ác pháp nó đều đi hết, thì lúc bấy giờ chúng ta mới thấy được cái kết quả của sự giải thoát của Tứ Chánh Cần rất là rõ ràng và cụ thể.
Chúng ta có pháp tu mà, Tứ Chánh Cần chúng ta có pháp thiền…
HẾT BĂNG
PHÁP HÀNH 13 - CÁC PHÁP MÔN DẪN VÀO THẾ GIỚI TƯỞNG
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Thời gian: 1998
(Tiếp theo Pháp hành 12)
(0:00) Do câu hỏi này Thầy mới trở lại Tứ Chánh Cần để đình lại cái Tứ Niệm Xứ, để trả lời cho nó rõ ràng ở trong cái pháp Tứ Chánh Cần, để chúng ta biết tu Tứ Chánh Cần không có nghĩa là tu Thiền Đông Độ, không có nghĩa là “chẳng niệm thiện niệm ác”. chớ không khéo rồi nói chúng ta sẽ tu “niệm thiện niệm ác”.
Cho nên phân biệt được như vậy thì chúng ta thấy rõ rồi.
(00:27) Bây giờ thì trước khi mà tiếp tục học những chi tiết của Tứ Niệm Xứ, thì chúng ta sẽ nghe những câu hỏi vấn đạo, vì những cái vấn đạo này nó cũng có cái liên quan ở trong cái cuộc sống tu hành của chúng ta.
Cho nên trong cái năm nay là cái năm mà chúng ta học Giới Hành, mà cái vấn đạo nó làm sáng tỏ, tức là cái hỏi nó làm sáng tỏ cho cái con đường thực hành của chúng ta hơn, làm chúng ta hiểu từng những cái danh từ, từng những cái hành động tu tập, cái đúng, cái sai để từ đó chúng ta tu tập cho nó đúng, nó không có còn tu sai nữa.
Vì nhiều khi Thầy bận công việc, không có gần bên các con, thì trong khi sai, các con tu sai thì các con ôm lấy chịu, chờ Thầy về, hay hoặc là chờ gặp Thầy, thì lúc bấy giờ nó sẽ lạc rất xa, cái thời gian rất dài nó sẽ khó xả.
Cho nên hôm nay, trong cái phần vấn đạo thì cô Út đứng ở trong cái góc độ qua những bài giảng, tuy rằng cô không có dự nghe, nhưng mà mỗi lần giảng rồi thì về cô có trực tiếp đến hỏi Thầy, thì Thầy có tóm lược lại những cái ý trong cái buổi dạy đó như thế nào, để cho cô theo đó mà cô hỏi Thầy, để rút tỉa.
Qua những cái danh từ cũng như là những cái kinh nghiệm mà cô có hiểu biết được cái phần thực tập của mình, rồi cô rút tỉa ra cô hỏi Thầy, coi có đúng hay sai theo cái giáo lý của đạo Phật.
Cho nên năm nay trong năm nay mà chúng ta học về Giới Hành, nó rất là có giá trị. Mà hầu hết là có một số người rất là thiếu phước mà không được nghe những cái điều này, thì Thầy nghĩ rằng, một ngày nào đó thì những cái bài vấn đạo này nó cũng sẽ in thành sách, để nó chỉ cho rõ chúng ta hiểu biết con đường tu tập của chúng ta, đúng theo đạo Phật như thế nào.
(02:27) Bây giờ về phần vấn đạo thì thầy Chân Thành hỏi Thầy:
“Kính bạch Thầy, con dùng câu pháp hướng “Thân tâm như cục đất, phải ly dục ly bất thiện pháp, không còn tham, sân, si, không còn trộm cắp, không còn sát sanh, không còn dâm dục, không còn nói vọng ngữ, không còn nói lời phù phiếm, không nói lời hung ác, không nói lời lưỡng ngữ!” để tu tập Tứ Chánh Cần.
Ngoài giờ thời khóa đã qui định, trừ lúc ngủ còn thì lúc nào rỗi là con tu để nhắc tâm không phóng dật thay cho những câu pháp hướng khác. Câu pháp hướng này là chủ lực cho việc tu tập hằng ngày của con. Như vậy có được và đã đúng phương pháp tu chưa?”
Đó là thầy Chơn Thành, thầy đã lập một cái câu pháp hướng rất dài và gồm hết trong đó nó có những cái giới luật và nó cái những cái thiền định, cái Sơ Thiền đó, ly dục ly ác pháp đó, và còn có ba độc tham, sân, si nữa.
Cho nên do cái câu pháp hướng như vậy, thầy hỏi nghe thì nó rất là đầy đủ, rất là trọn vẹn dữ lắm đó, nhưng mà hỏi Thầy coi nó đúng chưa, hay hoặc là nó còn thừa, hay hoặc là nó thiếu cái nào để cho Thầy bổ túc thêm câu pháp hướng.
Vì như các con cũng đã biết rằng trong con đường tu của đạo Phật, cái pháp hướng nó có cái một quyền lực, nó có một cái đạo lực, nó có một cái oai lực, nó có một cái thần lực. Từ chỗ biến cái trí tuệ bén nhạy cho đến trở thành một cái đạo lực siêu việt, thì từ cái pháp hướng đó mà sanh ra, ngoài cái pháp hướng thì nó không có sanh ra.
(4:20) Nhưng mà đặt cái trạch pháp một cái pháp hướng, tức là chọn lựa một cái câu để trở thành pháp hướng, rất là khó, nó không đơn giản đâu. Cho nên coi vậy chớ trạch pháp đúng thì nó hiệu quả, mà trạch pháp không đúng trong cái trạng thái, cái vai trò của nó đang có phận sự để làm cái việc đó, mà mình đặt sai tên, sai tuổi của nó rồi, thì tức là nó không có hiệu quả đâu.
Cho nên ở đây thầy Chơn Thành đưa ra, nêu ra cái chỗ câu hỏi này có mục đích là nhắc nhở các con cũng như các thầy, khi đặt một cái pháp hướng thì phải có một sự chọn lựa rất kỹ.
Cho nên trong Thất Giác Chi, Phật nói Trạch Pháp Giác Chi đó, nếu không thì Đức Phật đâu có dạy là trạch pháp làm gì? Trạch pháp tức là phải chọn lựa rất kỹ, nó là một cái pháp giác chi, nó chỉ cho đó là cái Bồ Đề, mà Bồ Đề có nghĩa là giải thoát. Trạch một cái pháp đó ra để cho nó làm cho mình được giải thoát.
Thí dụ như “Tâm như cục đất, không còn tham, sân, si nữa!” thì có phải tâm mình như cục đất mà không còn tham sân si, thì nó giải thoát chớ?
Cho nên cái trạch pháp một cái câu pháp mà nó như vậy, gọi là Trạch Pháp Giác Chi. Một cái câu làm cho thân tâm mình được giải thoát, cho nên gọi là trạch pháp. Trạch pháp nghĩa là chọn lựa, mà chọn lựa rất là kỹ, mà chọn lựa trong cái câu pháp đó, để làm cho mình trở thành giải thoát, trở thành Bồ Đề đó, giác chi là Bồ Đề đó.
Cho nên cái câu pháp mà chọn lựa như vậy để làm cái pháp hướng, nó không phải mình đụng đâu mình cũng nói đại, hay hoặc là mình ghi đại, không phải đâu! Mình suy nghĩ kỹ coi cái tâm mình lúc bấy giờ nó như thế nào?
(06:01) Lúc bấy giờ nó đang sân nè, hay hoặc là đang vô minh nè, hay hoặc là đang tham muốn cái gì, hay hoặc là nó còn thích cái gì, thì mình đặt cái câu pháp hướng cho đúng cái tâm trạng của mình lúc bấy giờ, thì mình nhắc nó thì nó có hiệu quả.
Đó thì, phải hiểu được cái trạng thái tâm của mình thì trạch pháp nó mới tốt.
Đáp: “Trạch Pháp Giác Chi là tìm một câu hay chọn một câu pháp hướng cho đúng thời