51 - TRẢ LỜI VỀ BỐN LOẠI ĐỊNH - CHẤN HƯNG PHẬT PHÁP

GIÁO ÁN ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐẠO PHẬT 51 - TRẢ LỜI VỀ BỐN LOẠI ĐỊNH - CHẤN HƯNG PHẬT PHÁP

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 1997

1- CUỘC SỐNG PHẢI PHÙ HỢP VỚI SỰ TU TẬP

(00:00) Thầy sẽ đọc cái bức thơ của cô Cảnh gởi Thầy trình bày cái sự tu tập của cổ để xem coi có đúng hay là không, cái chỗ nào đúng thì Thầy cho đúng mà chỗ nào sai Thầy cho sai để biết mà sửa lại.

Đó, thì trước khi đọc Thầy nhắc lại: Cái cuộc sống của chúng ta với cái sự tu tập nó phải phù hợp, mà nếu nó không phù hợp thì chúng ta cũng khó tu lắm.

Cũng như bây giờ, quý thầy sống thì thấy - hiện giờ các con thấy quý thầy đâu có làm cái gì đâu? Ở đây không có cày ruộng, không có cuốc đất gì toàn bộ, mà đúng giờ thì ra có cơm hết, ai nấu cơm đâu không biết, đúng rõ ràng là như cái thời Đức Phật đi xin rồi.

Nhưng mà các con thấy quý thầy có ngậm cái miệng của mình không? Khoái lắm mà, ăn cũng sung sướng, có người nấu mà, tới giờ là no rồi mà, đâu cần gì phải không? Do đó bây giờ cứ rủ nhau mà nói chuyện, ông này gặp ông kia nói chuyện cho đã, thì như vậy có tu được không?

Bởi vì vậy cho nên khi mà vắng Thầy rồi, lúc bấy giờ mà ngồi một mình mới nhớ: Hồi đó Thầy dạy bảo độc cư, không chịu độc cư, có cơm ăn sẵn quá, có người nấu cơm sẵn quá, bỏ trong miệng sẵn quá, chỉ cần có cái nuốt không mà còn muốn làm biếng không chịu nuốt nữa!

Rõ ràng là quý thầy bây giờ cơm bỏ trong miệng rồi mà không chịu nuốt, có không? Chịu nuốt mà sao lại còn nói chuyện? Nói chuyện đó là không chịu nuốt cơm. Mà không chịu nuốt cơm là chắc chắn là mấy ổng muốn tiêu rồi.

Nghĩa là cái người bệnh mà không ăn cơm được thì cái người đó sắp chết rồi, còn ăn được chút ít thì chắc chắn là còn cứu được. Còn quý thầy hiện giờ Thầy thấy là - hầu hết có một số quý thầy kể như là cơm đút trong miệng họ không chịu nuốt, chắc chắn là họ sắp tiêu rồi.

Tại sao Thầy biết họ sắp tiêu? Nghĩa là họ có tu theo Thầy bây giờ tới móc cái mũi của họ như là con cá tràu móc đi nữa thì nó cũng chưa thành nữa. Tại vì thích nói chuyện là không thành thôi. Đó, đó là cái hẳn nhiên.

Cho nên ở đây các con đừng có tưởng rằng mình đi khất thực rồi mình ăn rồi mình thành Phật được đâu, nhưng mà nó phải phù hợp như thế nào, sống đúng như thế nào đúng pháp, như thế nào thì nó mới có thể giải thoát được. Khó lắm chớ không phải dễ.

2- TRẢ LỜI VỀ SỰ TU TẬP BỐN LOẠI ĐỊNH

(02:11) “Kính bạch Thầy!

Con xin trình bày về bốn loại định mà con đang tu tập. Định nào con tu đúng, định nào con tu chưa đúng, xin Thầy từ bi chỉ dạy cho con tu cho đúng để không phí bỏ thời gian!

Trước con kính trình về Định Vô Lậu: Đầu vô ngồi kiết già,con quan sát cái sắc thân vô thường này do đất, nước, gió, lửa hợp thành, con phân tích ra đất cũng vô thường, nước cũng vô thường, gió cũng vô thường, lửa cũng vô thường, bốn đại hợp thành sắc thân vô thường, thì thọ cũng từ nơi sắc thân vô thường mà có, thì thọ không thể thường được mà là pháp hoại diệt vô thường.”

Ở đây thì theo Thầy thấy, về cái Định Vô Lậu mà con đã quán cái định như vậy thì phải cố gắng quán hơn nữa.

Vì ở đây là cái sắc thân của chúng ta là bốn đại, đất, nước, gió, lửa, thì con quán tạm như vậy cũng đủ, nhưng mà phải còn quán sâu, quán hơn nữa để mà thấy rõ bốn đại này như thế nào, hòa hợp như thế nào, kết hợp như thế nào, câu hữu lại như thế nào.

Thí dụ như đất, nước, đất nó câu hữu với nước, nước nó câu hữu với hỏa đại, hỏa đại nó câu hữu với phong đại như thế nào mà nó trở thành cái thân của chúng ta. Rồi nó tan hoại như thế nào, nó không câu hữu với nhau thì nó tan hoại như thế nào. Thì do đó chúng ta suy tư, tìm hiểu, thì cái mà suy tư, tìm hiểu đó gọi là tri kiến giải thoát.

Đó, đó là cái phần đó để cho chúng ta thâm sâu hơn về cái sắc thân.

Rồi bây giờ tới cái thọ. Bởi vì ở trong thân của chúng ta, thân Ngũ Uẩn thì nó có sắc, thọ, tưởng, hành, thức, thì bây giờ cái sắc nó câu hữu với cái thọ, nó kết hợp lại, cho nên chúng ta có cái thân này, ai đánh chúng ta nghe đau, thì cái đau đó mà cảm biết cái đau đó là cái thọ.

Vậy thì khi mà không có ai đánh thì cái sắc chúng ta không có cái thọ, mà khi có đánh hay có con kiến, hay có con vật gì cắn mà chúng ta đau thì đó là có cái thọ. Vậy thì cái thọ nó kết với cái sắc thân của chúng ta cho nên gọi là Sắc Thọ.

Mà bây giờ chúng ta biết được cái đau, cái nhức đó, cho nên cái sắc, thọ, thức nó kết hợp ba cái lại, cho nên gọi là Sắc Thọ Thức. Các con hiểu không?

(04:35) Ở đây có một cái dịp mà Thầy dạy để cho các con lấy cái thọ, rồi biết cái thọ nó câu hữu với cái sắc, nó câu hữu với cái thức, nó câu hữu với cái hành, nó câu hữu với cái tưởng, nó làm ra như thế nào cho chúng ta thấy cái tâm của chúng ta nó luôn luôn nó dao động, nó không có được yên ổn, nó không được giải thoát. Do đó chúng ta rất sợ hãi trước cái thọ.

Những cái buổi mà thuyết giảng như vậy đó, để giúp cho các con đứng trước cái đau đớn của cái thân, cho đến khi mà cái thân mạng, cái sinh mạng của các con chịu đựng cái thọ đau khổ đến tận cùng mà các con vẫn giữ cái tâm bất động, làm cho các cái câu hữu của sắc, thọ, tưởng, hành, thức này nó không làm cho các con dao động được, thì cái thọ đó nó sẽ không tác động được, thì tất cả đều trở thành mát lạnh của sự giải thoát tâm hồn của các con.

Đây tiếp tục. Như vậy là con còn phải quán xét hơn nữa, còn phải tu tập hơn nữa nó mới được.

“Từ cái sắc đến cái thọ cho tới cái thức, con đều quan sát như vậy. Quan sát đến đâu thì thức theo dõi đến đó. Con cũng quan sát từ tóc đến mắt, tai, mũi, lưỡi, cổ họng, tim, gan, bao tử, thận, mật, ruột già, ruột non đều quan sát như trên, đều là vô thường, các pháp hoại diệt, cho đến tham, sân, si cũng từ nơi sắc thân vô thường mà có…​”

Ở đây về cái sự quán này, thì con hơi có cái sự lộn xộn. Nghĩa là bây giờ các con phải quán như thế nào để đúng? Bây giờ mình quán từ cái tóc, cái mũi, mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình từ trên xuống tới chân, từ chân trở lên trên, tức là mình quán nó bất tịnh hay hoặc là mình quán nó vô thường, mình phân biệt cho nó rõ ràng.

(06:35) Nếu là mình quán nó vô thường, thì tức là mình quán - bây giờ như tóc của mình, mình phải quán từng phần. Tóc bây giờ còn nhỏ thì tóc nó đen, nó vô thường bây giờ nó bạc, đó là nó vô thường, nó thay đổi. Phải không? Hồi nhỏ thì tóc nó dài, nó rậm, bây giờ nó thưa, cái đầu gần sói hết, tóc rụng gần hết. Cho nên đó là nó vô thường.

Mình quán vô thường từng phần. Con nói nó vô thường mà con không có nói ra được cái vô thường của nó, cái thay đổi của nó thì nó không có thấu rõ được cái vô thường.

Nói con mắt của mình là vô thường thì con phải quán nó: Trước là con mắt hồi còn nhỏ thì sáng suốt, nó không có mờ, bây giờ thì con mắt nó mờ. Hồi nhỏ thì nó đen bóng mà bây giờ thì nó trắng bạc, nó vàng đi, nó không còn. Đó do cái sự trắng bạc, vàng đi, đó là cái vô thường của nó. Nếu mà con…​

Tu sinh: (Không nghe rõ)

Trưởng lão: À không phải. Thầy muốn nói đây để cho con quán từng phần: Từ cái tóc như thế nào là vô thường? Từ cái mũi, cái tai, cái lưỡi của mình vô thường như thế nào? Rồi cái cổ, cái họng như thế nào là vô thường? Từ tim, gan, phèo, phổi, mật, ruột già, ruột non, như thế nào là vô thường? Do đó con phải quán, như vậy tức là đặt ra cái niệm rồi con phải suy xét nó, con sẽ tìm thấy vô thường.

Còn nếu mà con quán nó là bất tịnh, thì nó hôi nó thúi như thế nào, thế nào, thì nó lại cái phần khác nữa rồi.

Cho nên ở đâu nó ra cái phần nấy cho nó rõ ràng. Ở đây Thầy chỉ hướng dẫn thêm để cho thấy các pháp mà nó là vô thường thì phải thấy cho rõ cái sự vô thường của nó. Chớ mình dùng cái chữ vô thường mà mình không thấy từ cái tóc nó bạc, từ cái tóc nó đen nhánh mà cho đến nó bạc, thì như vậy là mình chỉ nói vô thường là cái vay mượn mà mình không thấy thật sự vô thường của nó, sự thay đổi của nó.

“…​Chỉ vì vô minh mà cảm nhận lấy sự thương ghét, hơn thua, ham muốn”,

Ở đây con nói luôn cả tham, sân, si. Cho nên ở đây không phải. Về cái phần tham, sân, si thì nó không phải là cái xác thân của con mà nó là các pháp. Muốn được như vậy thì tức là phải quán cái phần tâm của mình tham, sân, si, mạn, nghi, tức là Ngũ Triền Cái.

“…​Chỉ vì vô minh mà cảm nhận lấy sự thương ghét…​”

Ở đây con nói thuộc về cái tâm. Mình quán cái thân thì mình quán cho rõ. Cho nên phân biệt nó rõ cái phần nào cho nó rõ ra phần nấy. Nó quán về tâm là tâm mà quán về thân là thân - quán về sắc thân của mình, rồi quán về tâm tức là quán về thọ, quán về tưởng, quán về hành, quán về thức, cái phần nào con sẽ quán. Con quán như vậy về cái Định Vô Lậu thì cái phần nào nó ra cái phần nấy để chúng ta phá sạch cái lậu hoặc của nó. Nhớ kỹ phải không, cho rõ ràng.

(09:21) “…​nhưng cuối cùng là ảo giác giả tạo. Con đặt niệm trước mặt là thọ vô thường, con gọi sáu căn bám vào niệm thọ vô thường trước mắt, đừng để thất niệm.”

Ở đây thì theo Thầy thấy con gọi sáu cái căn bám chặt vào một cái tụ điểm để cho nó nằm yên ở trên cái tụ điểm đó mà nó không hướng ra sáu trần, nó không dính mắc sáu trần.

Còn bây giờ con quán sáu căn này như là mắt, tai, mũi, miệng hồi nãy đó, là con thấy cái sự thay đổi vô thường của nó. Như mắt hồi nhỏ thì xanh, lớn lên thì vàng, bạc, mờ, không thấy rõ nữa, thì đó là vô thường của nó.

Còn về cái phần mà con nói ở đây là bảo cho nó bám chặt vào cái niệm thọ. Nếu nó bám chặt vào niệm thọ sao được?

Bởi vì luôn luôn, thí dụ như cái ý thức mà nó bám vào cái thọ, thì cái thọ là cái thân của con, cái chỗ nào đau nhức nó mới sanh ra cái thọ nó câu hữu với cái sắc, nó làm cho con khổ sở như cái đầu nhức, thì bây giờ con biểu nó bám vào cái đầu để biết nó nhức thì nó nhức chết còn gì!

Cho nên cái này không có được, mà bảo sáu căn phải bám vào một cái tụ điểm, đừng có bám vào cái chỗ đau nhức của cái sắc thân của con, ngay chỗ đó nó sẽ không còn đau nữa, thì như vậy đó là con sẽ phá đi cái thọ của con, nó không còn làm cho con đau đớn trước cái thọ.

Và cái niệm đó luôn luôn - sáu cái thức của con, sáu cái căn của con nó nằm chặt ở trên chỗ cái niệm, nó làm cho cái tâm con không có duyên qua cái thọ, nó không còn làm cho con khổ nữa.

“Con quan sát từng phần, con ngồi một giờ tu Định Vô Lậu, trong đầu óc không có một niệm gì xen vào, rất sáng suốt.”

Không phải, cái chỗ này con lộn. Khi mà con tu cái Định Vô Lậu thì luôn luôn có một cái tri kiến giải thoát, hoàn toàn nó theo những cái niệm mà của con đã đặt trước mắt nó, nó thấy từ cái niệm này đến cái niệm kia nó vô thường như thế nào của cái thân của con. Thì như vậy trong cái đầu óc của con không thể nào mà không có niệm mà nó phải có một cái sự suy tư đó, nó có cái dòng tư tưởng liên tục, chớ không thể nào mà con như thế này:

“Con quan sát từng phần, con ngồi một giờ tu Định Vô Lậu, trong đầu óc không có một niệm gì xem vô…​”

Không được! Có nghĩa là bây giờ đó, ở đây con nói không có cái niệm khác xen vô, bởi vì khi mà con dùng cái trí tuệ con quan sát thì cái niệm đó là cái động của tâm con rồi, chớ không phải ở trong cái đầu óc của con là cái tĩnh, con hiểu không? Bây giờ cái tĩnh nó trống rỗng, nó không có cái niệm, cho nên vì vậy nó không có xen vô.

Ở đây đọc thì người ta hiểu rằng trong cái đầu của con lúc bấy giờ, con đang quan sát cái thân của con là vô thường, thì tức là cái dòng tư tưởng, cái tri kiến giải thoát của con nó thuộc một cái dòng nó đi theo các pháp vô thường, phải không, cho nên cái niệm khác không thể xen vô được, không có niệm gì xen vô được, thì nó đúng. Nhưng mà đây nó một cái dòng của tư tưởng thì có cái niệm nào khác hơn là cái niệm này? Đó là cái thứ nhất, cái sai thứ nhất của con.

(12:33) Nếu mà cái đầu óc của con bây giờ nó hoàn toàn nó không có niệm thì bây giờ nói nó không có niệm xen vô thì mới được, đó thì nó đúng.

Còn cái:

“…​ rất sáng suốt và tỉnh thức…​”

Nó bây giờ nó đi theo một cái dòng tư tưởng của nó để quán sát cái thân của nó là vô thường, thì nó đi theo cái dòng của nó, không có còn một cái niệm gì mà làm cho nó quên cái đó được. Đó là cái phép quán, cái thiền quán, nó làm cho con phá đi cái thân vô thường mà không dính mắc, chớ không phải…​

Con khéo lầm ở chỗ này. Là vì cái đầu óc nó rỗng rang, nó không có một cái niệm gì xen vô. Mà đây nó đang có cái niệm, cho nên làm sao có cái niệm xen vô được. Phải phân biệt cái chỗ này.

Tu sinh: (Không nghe rõ)

Trưởng lão: Không phải, con phải phân biệt như thế này. Khi mà có một cái niệm, mà cái niệm của mình đưa ra một cái dòng tư tưởng niệm thì không có cái niệm nào xen vô được, phải không? Cho nên nó không niệm.

Còn bây giờ trong cái đầu óc của chúng ta ngồi đây mà giữ cái tâm nó không có một cái niệm nào hết, hoàn toàn nó thanh thản, hoàn toàn nó không có niệm, vì đây là nó ở trong nhất niệm, hay hoặc là ở trong một cái tâm thanh tịnh không có niệm, nó vô niệm. Thì bây giờ cái niệm gì không xen vô? Thì chúng ta biết là chúng ta đang ở trong một cái nhất niệm thanh tịnh của tâm, cho nên không có cái niệm nào xen vô, mà cái niệm nào xen vô đó gọi là cái vọng tưởng.

Còn bây giờ trong tâm của chúng ta đang có một cái niệm, chớ không phải là cái tâm…​ Nó niệm từ cái tóc, tai, mắt, mũi, miệng nó, nó suy tư ra, cho nên lúc bấy giờ không thể nào mà có một cái niệm khác xen vô, nghĩa là không có làm sao - bởi vì đó là cái niệm rồi, mà cái niệm khác không thể được, không có cái niệm nữa.

Còn cái này nó vô niệm, cho nên vì vậy mà cái niệm khác dễ xen vô. Con phân biệt rõ phải không? Cái niệm - bây giờ nó đang có cái niệm thì nó sẽ không có cái niệm thứ hai nữa được.

Cũng như đức Phật ví dụ: Một bậc A La Hán chỉ ra đời - chỉ có một bậc A La Hán, không thể đồng thời có hai bậc A La Hán được. Thì chúng ta nói rằng trong đầu chúng ta có một cái niệm thì không thể có một cái niệm khác được. Trừ ra trong đầu chúng ta không có niệm thì nó mới có xen vô cái niệm khác. Hiểu vậy chưa?

Còn bây giờ nó có niệm thì không thể nào có cái niệm khác được. Vì trong đầu chúng ta luôn luôn lúc nào nó có cái niệm, mà cái niệm đó là chúng ta điều khiển, chủ động cái niệm đó nó khởi ra, chớ không phải để cho nó tự động nó khởi ra.

Vì nó tự động khởi ra đó là cái niệm vọng tưởng, còn bây giờ mình điều khiển cái niệm đó, vì vậy cái niệm đó gọi là thiền quán hay hoặc là Định Niệm Vô Lậu. Chúng ta dùng cái niệm để quan sát, để thấu suốt cái lý lậu hoặc để mà chúng ta dẹp cái lậu hoặc đi, đó là cái niệm. Cho nên khi đã có cái niệm thì không còn cái niệm thứ hai được nữa. Các con hiểu không?

(15:20) Cho nên trong đầu óc của chúng ta, khi nào mà nó không có niệm thì mới gọi là có cái niệm khác xen vô, hay hoặc là không có niệm khác xen vô. Còn bây giờ nó đã có niệm thì không thể nào có cái niệm thứ hai nữa, cho nên không thể nào nói có cái niệm thứ hai mà xen vô được.

“…​thì tự thấy được toàn thân là vô thường:”

Đó là cái niệm quán xét vô thường, cho nên mới thấy nó toàn là vô thường.

“Từ dòng máu lưu thông toàn cơ thể đều là vô thường, nó hằng sanh diệt, hằng diễn biến, hằng thay đổi không ngưng nghỉ, thấy từ cọng tóc, từ lỗ chân lông, từ các tế bào, thớ thịt đều sanh diệt vô thường.”

Nhưng ở đây con dùng một cái số từ để chỉ cho sự vô thường chớ chưa phải chỉ cái hành tướng, cái trạng thái vô thường của các pháp của thân con, cho nên con chỉ suông suông, cũng như một cái người mà thuyết cái lý mà không có cái hình tướng để thấy sự vô thường.

Thầy muốn nói, mình muốn nói lên cái danh từ đó để chỉ thấy sự vô thường cho nó rõ ràng. Thì bây giờ cái dòng máu ở trong thân của chúng ta vô thường: Lúc thì đỏ, lúc thì đen, đó là sự thay đổi vô thường, lúc thì nhiều, lúc thì ít, đó là sự vô thường, cho nên khi mà nó nhiều thì nó lại căng đầu chúng ta lên, khi mà nó ít nó làm chúng ta giảm xuống như thế này thế khác, thì đó gọi là vô thường.

Còn nói về cái sự vô thường của cái tóc của chúng ta thì đen, trắng, đó là cái sự vô thường, những cái hình ảnh mà cái trạng thái nó thay đổi.

Còn con nói cái danh từ không, nó là vô thường thế này thế khác mà không diễn tả được cái trạng thái vô thường, cho nên nó không thấm được cái lý. Con hiểu chưa?

Cho nên, không phải…​ Thầy muốn nói đây, thà là con nói ít, bây giờ con chỉ quan sát cái tóc con vô thường, thì con nhớ hồi nhỏ tóc mình dài và đen mượt, rất là đẹp, còn bây giờ già rồi, bạc trắng rồi, mà thưa, mà rụng, đây là tóc vô thường. Bấy nhiêu đủ để thấy chúng ta nó vô thường, mà nó rõ nét, phải không?

Còn bây giờ mình nói vô thường mà mình không diễn tả được cái sự trạng thái vô thường của nó thì mình không thấm sâu được cái vô thường đó, cho nên mình nói suông, rồi đây rồi nó sẽ không thấy vô thường. Phải không các con?

Dùng cái danh từ nói vô thường thì cũng như Thầy nói bây giờ thân của tôi là vô thường, khổ, không, vô ngã, tui nói danh từ như vậy nhưng mà tôi chưa biết nó vô thường như thế nào.

Nhưng mà tui nói cái thân tui vô thường, tui nhớ lại hồi nhỏ tôi, lúc mà 20, 25 tuổi thì sức tui khỏe, tui có thể làm nó không biết mệt, thuyết giảng nó không mệt. Còn bây giờ tôi đã 60 tuổi, gần 70 tuổi, nói trong một cái thời pháp như thế này, tui thở hết muốn ra hơi, do đó tui thấy cái thân tui nó kém rồi, cho nên tui biết nó là vô thường.

Hồi nhỏ thì mặt tui nó thẳng, nó không có da nhăn, nó không có cái xấu xí, những cái trên mặt của tôi, còn bây giờ thì già, da nhăn rồi răng rụng thế này kia, đó là cái sự vô thường của thân tôi.

(18:34) Con hiểu chỗ đó. Quán vô thường là phải quán như vậy để cho mình thấy sự thật vô thường để cuối cùng mình mới không có chấp cái thân của mình là cái ngã của mình nữa. Mình thấy nó là vật vô thường, nó làm cho mình rất khổ.

Và mỗi lần vô thường vậy nó xảy ra như thế nào? Từ nhỏ, từ cái sức khỏe tui dần dần mất đi, nó trải qua bao nhiêu lần bệnh đau, mỗi lần bệnh đau vậy nó làm cho thân của chúng tui kém cái sức khỏe xuống dần dần, dần dần, cho đến bây giờ nhiều lần đau, mà cho đến bây giờ tui thấy sức khỏe tui gần như là kiệt quệ, làm cái gì nặng tui thở quá nhiều. Đó là sự vô thường của thân tôi.

Đó con thấy không? Mình cũng quán vô thường mà quán đúng cách thì nó thấm được cái lý, mà thấm được cái lý cho nên mình không chấp cái thân mình là ngã nữa, mình không chấp cái thân là của mình nữa.

Đó, ở đây là có những cái phần mà có thể rằng con phải thấu suốt, để không khéo mình dùng một cái danh từ, mình chỉ nó vô thường nói cái này kia để mình nhai đi nhai lại vô thường mà trở thành mình không thấy được cái tướng vô thường của nó. Đó.

“Thấy đúng như thật là vô thường, cho nên cái đau nhức khó chịu biến mất, xả ra có sự an lạc.”

Đó, bây giờ con ngồi thiền thì con thấy đau, xả ra thì an lạc, thì con quán cái thọ vô thường, con đặt cái niệm thọ.

Cho nên dưới đây con nói chung chung là từ sắc, thọ, tưởng, hành, thức, con gộp chung ở chỗ này con nói chung, chớ lẽ ra mà con viết cái bài này con phải nói: Bây giờ con quán cái sắc, thì từ cái sắc đó con phải quán từ tóc, tai, mũi, miệng…​

Cũng như cái bài kệ của cái vị ni mà người ta quán tóc của mình, rồi tới cái mặt, cái mũi của mình, lần lượt người ta quán như vậy đó, để mà thấy được cái tướng vô thường của nó đó. Đó thì Thầy có nêu lên những cái gương hạnh của những người mà tu cái Định Vô Lậu đó, quán vô thường.

“Thấy đúng như thật là vô thường, cho nên cái đau nhức khó chịu biến mất, xả ra có sự an lạc. Thưa Thầy, nhận thấy như vậy có phải là tri kiến giải thoát hay không?”

Chưa đúng đâu. Tri kiến giải thoát nó lột sạch ra tất cả những cái gì mà gọi là vô thường, nó thấu suốt rất là thấu suốt, cho nên từ đó nó nhìn cái thân của nó nó ghê gớm lắm, nó hễ nhìn bất tịnh là nó ghê gớm vô cùng, mà nhìn tất cả những sự thay đổi của cái thân, nó thấy được cái đường đi nước bước của nhân quả chi phối từng phút giây, nó rất rõ ràng.

Vì lúc bấy giờ, cái người mà quán được cái Vô Lậu, thấy được cái thân vô thường thì người ta thấy được cái đường đi của nhân quả, thấy rất rõ ràng. Do vì cái sự quán xét mà thấu suốt như vậy nó làm cho trí tuệ giải thoát của chúng ta…​

Còn ở đây con quán như vậy chỉ là một cái số từ để mà nói lên cái sự vô thường của nó, nhưng mà sự thật không thấy cái hình ảnh vô thường.

Đó Thầy muốn nhắc ở đây là nhắc chung cho các con, lấy cái bài của cô Minh Cảnh để làm chung cái bài học cho các con để tu cái Định Vô Lậu, làm chúng ta diệt sạch cái lậu hoặc của chúng ta.

(21:26) “Con vẫn tiếp tục tu Định Vô Lậu cho đến khi chứng đạt được tâm bất động mới thôi hay sao? Cúi mong Thầy chỉ dạy thêm và tiếp tục?”

Bây giờ con tu cái Định Vô Lậu này, con thấy là nó đã vô lậu thì như thế nào? Tức là ly dục, ly bất thiện pháp. Con thấy tới bữa ăn con không thích ăn đâu, con không thèm cái món ăn nào nữa hết, con thấy là con ly được cái tâm ham muốn ăn rồi.

Con thấy mọi vật xung quanh con, thậm chí những cái lời dạy trong băng của Thầy con cũng không ham thích nữa, con chỉ còn biết tu, biết giải thoát mà thôi, hiểu được cái gì làm cái nấy chớ không muốn nghe nữa. Bởi vì nghe nhiều khi nó còn gợi cho chúng ta những cái lời ham thích ở đó, nó còn chưa có ly được dục đâu.

Cho nên ở đây Thầy nói là một lẽ, lời Thầy dạy thì các con đúng cái pháp, nhưng khi cái người mà tu cái Định Vô Lậu rồi, họ không còn thích nghe gì hết.

Họ chỉ muốn âm thầm sống trong trầm lặng để giải thoát tâm hồn của họ, chớ họ không bao giờ mà có thể còn thích nghe băng, nghe này nghe kia, hoặc là còn thích pháp này pháp kia nữa. Họ biết cái gì tu được, cái gì không tu được là họ nỗ lực cái đó họ tu chớ họ không thích nữa. Hoàn toàn họ buông xuống hết, họ không còn một vật gì, hoàn toàn chỉ còn hai bàn tay trắng mà thôi.

Đó thì như vậy là cái Định Vô Lậu đã sạch, mà cái Định Vô Lậu giúp để chúng ta ly dục, ly ác pháp để chúng ta nhập được Sơ Thiền. Đó, cái Định Vô Lậu tu để chúng ta nhập được Sơ Thiền, và từ cái chỗ Sơ Thiền đó mà chúng ta tiến vào để chúng ta nương vào hơi thở để chúng ta đi tới cái chỗ mà chúng ta nhập Tứ Thiền, làm chủ được cái sự sống chết của chúng ta. Đó như vậy là mới xong.

Còn bây giờ chúng ta còn thấy dính mắc một chút nào đó, tối mà chúng ta nằm ngủ chúng ta còn thấy chưa tỉnh thức thì tức là vô lậu chúng ta chưa hết.

Tại sao vậy? Tại vì nằm ngủ, cái thân ngủ mà cái tâm chúng ta luôn luôn biết hơi thở tức là tỉnh thức trong hơi thở. Vì vậy cái người tu thiền theo đạo Phật mà tâm ly dục ly ác pháp rồi thì họ rất tỉnh thức. Họ rất tỉnh thức thì họ không ham ngủ. Họ không ham ngủ thì không bao giờ có chiêm bao, mà không bao giờ mệt nhọc. Còn bây giờ chúng ta không ngủ một đêm là chúng ta đã mệt nhọc, đã muốn bệnh rồi, thì như vậy là chúng ta chưa tỉnh thức.

Do tu cái Định Vô Lậu này thì nó chứng minh cho cái sự đạt thành, mà hết tu cái vô lậu thì lúc bấy giờ chúng ta hoàn toàn là phải ly dục ly ác pháp, hoàn toàn là phải không có mộng mị, chiêm bao, phải thức tỉnh suốt trong đêm trong ngày, ngủ mà như không ngủ. Đó như vậy là cái Định Vô Lậu chúng ta đã đạt được.

“Con tu Định Vô Lậu trước để quét sạch cái đau nhức, khó chịu, rồi sau đó con mới tu Định Niệm Hơi Thở có chất lượng.”

(24:04) Đúng vậy, cái Định Vô Lậu nó vừa phá cái thọ, nó quét sạch cái thọ, làm cho cái tâm của con trước cái thọ đau khổ mà nó không dao động. Không có nghĩa là cái Định Vô Lậu nó làm cho con hết đau khổ, nó vẫn đau khổ, nhưng tâm của con không dao động trước cái đau khổ của cái thọ. Con hiểu chưa?

Không phải cái Định Vô Lậu nó làm cho con như một liều thuốc tê mà chấm dứt cái sự đau khổ, nó không phải làm cho con hết đau khổ. Nó có đau khổ nhưng vì tâm của con vô lậu, cho nên trước cái thọ đau khổ đó con không có dao động tâm con, con không sợ hãi, mặc nó đau là nó đau, kệ nó, con chỉ biết giữ cái tâm con nằm chặt ở trên một cái tụ điểm, nằm chặt ở trên một cái đối tượng của sáu cái thức mà thôi. Đó là nó đau là mặc đau.

“Rồi sau đó con mới tu Định Niệm Hơi Thở. Tu Định Niệm Hơi Thở, mới đầu vô con tu hơi thở bình thường khoảng 5 phút, bắt đầu hướng tâm thở hơi thở chậm nhẹ, sáu căn bám nhẹ vào tụ điểm, và từ từ vận dụng hơi thở chậm nhẹ hơn nữa, có hơi thở nhẹ và chậm như không thấy hơi thở mà vẫn vận dụng sáu căn bám chặt tụ điểm.

Tai con còn nghe âm thanh quá rõ, cho nên con gọi nhĩ thức câu hữu với thân thức bám chặt tụ điểm, thì bắt đầu nhĩ thức mới bám vào tụ điểm.

Thưa Thầy hiện giờ con nên phá âm thanh trước rồi mới tịnh chỉ hơi thở sau, hay là hướng tâm tác ý đồng một lượt mà phá âm thanh và tịnh chỉ hơi thở?”

Không phải. Bây giờ con không nên phá hơi thở mà nương hơi thở, nằm ở trên hơi thở chậm và nhẹ rồi bắt đầu mới phá âm thanh trên hơi thở đó, rồi sau đó mới tịnh chỉ hơi thở để mà phá thọ. Nghĩa là phá thọ sau khi phá âm thanh.

Đó thì nương vào cái hơi thở để mà tịnh chỉ hơi thở cho ngưng nghỉ để nhập Tứ Thiền thì đó là phá thọ.

Còn bây giờ nằm ở trên cái hơi thở, thở biết hơi thở ra, hơi thở vô, nhưng luôn luôn lúc nào cũng kêu gọi cái nhĩ thức phải tập trung, phải nằm chặt ở trên tụ điểm, và luôn luôn lúc nào cũng không được nghe âm thanh bên ngoài. Phải nghe cái hơi thở, phải nghe cái tụ điểm, không được nghe ra ngoài. Thì dùng cái pháp hướng mà nhắc như vậy thì cái nhĩ thức nó mới bám chặt trên cái tụ điểm, nó mới không nghe ra ngoài, từ đó con mới phá được âm thanh.

Còn không khéo thì con cứ nghe âm thanh, mà âm thanh thì nó dễ lôi cuốn cái thọ, nó câu hữu với cái thọ, nó làm cho cái thọ tác động cái thân, làm cho cái thân bị thọ. Mà cái thân bị thọ rồi thì cái thân nó tác động cái ý thức. Và cái ý thức nó bị chao động, cái tâm của con nó chao động theo cái thọ, cho nên ngồi đau quá, chịu không nổi, phải xả ra, phải lôi chân xuống, thì cái đó nó sẽ làm cho con mất cái định đi.

Cho nên, muốn được cái định là phải phá âm thanh trước. Âm thanh nó không câu hữu với cái thọ, cái thọ nó không câu hữu với cái thức, cái thức nó không câu hữu với cái tâm, thì cái tâm con nó bất động, nó yên lặng ở trong cái trạng thái định. Nhớ chưa? Từ bắt đầu tu như thế nào, mà tập luyện như thế nào để phá âm thanh trước.

(27:21) “Tu định Chánh Niệm Tỉnh Giác, con tu trong mọi hành động, và lúc nào cũng kèm theo tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả và hướng tâm gọi ý thức hãy sống trong hiện tại, Chánh Niệm Tỉnh Giác, khi ăn uống, nói, nín đại tiểu tiện, luôn luôn phải tỉnh giác”.

Tỉnh giác ở đây thì các con sẽ nghe lại lời dạy trong băng của Thầy thì mới thấu rõ cái Chánh Niệm Tỉnh Giác.

Chánh Niệm Tỉnh Giác nó có nhiều cách thức tu, mà nó phải lợi dụng ở trong cái hành động đi kinh hành như thế nào, lợi dụng trong cái hành động làm hằng ngày chúng ta mà tu cái Chánh Niệm Tỉnh Giác, thì tất cả mọi hành động hằng ngày chúng ta đều phải tu cái Chánh Niệm Tỉnh Giác.

Nhưng mà tu Chánh Niệm Tỉnh Giác phải tu nhiều, tu nhiều hơn, và lúc nào chúng ta cũng thực hiện tu cái Chánh Niệm Tỉnh Giác để cho cái sức tỉnh, cho đến khi mà chúng ta phải tu cái thức tỉnh của chúng ta ở trên cái hơi thở để chúng ta ngủ mà không ngủ.

Cái đó là cái cuối cùng mà các con phải tu tập để chúng ta phá 18 cái loại tưởng, và đồng thời chúng ta phá cái mộng tưởng, không còn chiêm bao nữa.

“…​luôn luôn tỉnh giác. Dưới đây con xin Thầy chỉ dạy cho con cách thức tu Định Sáng Suốt cho đúng!”

Định Sáng Suốt có nghĩa là khi chúng ta thực hiện cái Định Vô Lậu mà xong, ngồi lại thì cái tâm nó sáng suốt, cho nên chúng ta giữ cái tâm thanh thản, cái tâm yên lặng, cái tâm vô sự, tức là cái pháp môn thư giãn làm cho thân tâm chúng ta trở về trạng thái an ổn nhất không có mệt nhọc, không đau khổ. Chớ không phải ngồi mà tập trung trong cái sáng suốt, trong cái vô sự, trong cái thanh thản thì nó sai.

Cái người mà tu Định Sáng Suốt - định thanh thản này là cái người thư giãn cả thân tâm chúng ta cho nó trở về trạng thái an ổn, nó không bị mệt nhọc, không bị rối loạn. Vì như vậy không phải là Định Sáng Suốt này là cái định mà tập trung làm cho nó mệt thêm, thì không phải là sáng suốt nữa.

“Muốn tu tập buổi khuya, ngồi ghế bình thường mà tỉnh táo không bị buồn ngủ, xin Thầy chỉ dạy cho con biết tu đúng cả 4 loại định, không chênh lệch?”

Bốn loại định đó, thì cái định Chánh Niệm Tỉnh Giác Định phải tu nhiều, cái Định Vô Lậu thì phải tu ít hơn cái định Chánh Niệm Tỉnh Giác. Định Hơi Thở, định Hiện Tại An Lạc Trú thì tu rất ít, một đêm một ngày vạy tu có một lần hoặc hai lần thôi, còn hoàn toàn tất cả những loại định kia phải tu nhiều.

Và đồng thời trong mỗi loại định, như định Hiện Tại An Lạc Trú nè, định Chánh Niệm Tỉnh Giác nè, Định Vô Lậu nè, mỗi cái loại định như vậy đó, sau khi tu rồi thì chúng ta nên thư giãn cái thân tâm chúng ta bằng cái Định Sáng Suốt.

Nghĩa là cái Định Sáng Suốt xen kẽ vào để thư giãn nó, thì làm cho thân tâm chúng ta trở về cái sự an ổn và bình thường, phục hồi lại cái mệt nhọc của chúng ta, thì chúng ta tiếp tục tu các định khác rất dễ dàng và sáng suốt hơn.

Cho nên nó có cái tên là Định Sáng Suốt là làm cho chúng ta khỏe khoắn ở trong người trở lại mà tu tập cái khác, coi như là sau một cái thời gian làm việc mệt thì chúng ta được nghỉ ngơi đó. Cái Định Sáng Suốt có nghĩa là cái định để nghỉ ngơi chớ không có gì hết.

(30:28) “Thưa Thầy, từ ngày Thầy dạy giáo án đến giờ, tâm con xả sạch, tâm con an ổn, ngày một bữa không còn thấy đói gì cả, không bao giờ nghĩ đến chuyện ăn uống hay thèm khát gì hết, cứ đến giờ là đi ăn. Thân thanh tịnh, tâm dục tự nó mất tiêu không bao giờ hay.

Con thương mà chẳng ghét ai cả, thích thú sống độc cư, sống trầm lặng, không nghĩ đến làm việc gì hết, nhưng bổn phận phải làm. Không muốn đến chỗ đông người ồn ào, bất đắc dĩ ra nghe băng và ra ăn cơm. Thường hướng tâm ám thị phải sống trong thiện pháp, ít ngủ, ngủ ít khi có chiêm bao. Hằng ngày con sống như vậy, có phải là Sơ Thiền không?”

Không phải đâu. Tất cả những cái này không phải là Sơ Thiền, mà là cái cuộc sống của con, nhiều khi mình cứ nghĩ tưởng là mình sống như vậy là đúng, nhưng sự thật sai. Cái hoàn cảnh hiện giờ, cái trí tuệ của người tu rất sáng suốt, người ta nhận được cái hoàn cảnh của chúng ta, không phải sống như vậy đúng.

Bởi vì các con tưởng là mình sống như vậy là mình giải thoát, nhưng mình nhìn xung quanh mọi người, họ đang khổ sở với mình, mà mình cứ thun thút ở trong thất, mình tưởng vậy là sống đúng.

Phải chi trong cái thời Đức Phật, người ta đi xin ăn, người nào cũng xin ăn, thì ông Phật cũng xin ăn mà các vị Tỳ Kheo khác cũng đi xin ăn, thì mình sống luôn luôn ở trong cái độc cư, ở trong thất mình tu như vậy là đúng…​ (Mất đoạn)

(32:04) Vừa rồi thì Thầy có trả lời cho bên nữ, cô Minh Cảnh có hỏi về cái vấn đề tu tập, nhưng Thầy thấy rằng hầu như đó cũng là cái sai, cái sai đây cũng là cái sai chung cho tất cả chúng chớ không phải riêng cho một người.

Cho nên cái sai này nó…​ Hầu như người ta trạch cái pháp ra, cái câu ra dùng làm pháp hướng, mà cái pháp hướng nó khác và cái pháp quán nó khác, hai cái pháp này nó khác.

Khi chúng ta quán mà chúng ta lại quán chung chung, nó không có đúng cái tính cách của một cái sự quán xét, nó không thành một cái hiện trạng của một cái sự quán, mà nó trở thành một cái danh từ suông. Hầu hết là những người tu hành trong cái thời đại này thì đứng ở trên chữ nghĩa mà nói suông mà thôi.

Thí dụ như chúng ta nói cái thân này là vô thường, khổ, vô ngã, thì người ta nói suông cái danh từ như vậy chớ người ta đâu có thấy được cái trạng thái vô thường, khổ, vô ngã như thế nào? Cho nên muốn thấy được cái trạng thái vô thường, khổ, vô ngã đó thì chúng ta phải có sự quán xét và suy tư, cho nên gọi là quán pháp.

Còn đằng này thì quán chung chung như làm biếng, không có chịu suy tư, sợ động não nó mỏi mệt, cho nên cứ vay mượn đờm dãi của người khác mà nhai đi nhai lại gọi là quán vô thường, khổ, vô ngã, thì Thầy thấy cái chuyện quán nó - bây giờ suốt ngàn năm đi nữa quý vị tu cái Định Vô Lậu nó cũng không hết lậu hoặc đâu.

Do cái chỗ sai đó mà Thầy quá mất cái thì giờ rất nhiều cho cái giáo án này. Vì sự thật ra đó, cái tu hành chúng ta phải hiểu khi nào mà chúng ta phải quán, khi nào chúng ta phải hướng.

Khi nào mà nó đã quán xong rồi, chúng ta thấu triệt rồi thì chúng ta mới dùng pháp hướng để đoạn dứt, chặt đứt nó đi, lìa bỏ nó đi, từ giã nó đi. Thì cái pháp hướng là cái pháp để đoạn dứt, cái pháp hướng là cái pháp ra lệnh để cho tâm chúng ta nó không còn bám dính cái đó nữa.

(34:00) Còn cái pháp quán là cái pháp phải thông suốt, phải thông hiểu. Cho nên Phật nói đầu tiên cái người vào đạo Phật những gì chưa thông hiểu phải thông hiểu. Mà bây giờ mình nghe cái danh từ suông, mình chưa có rõ được cái trạng thái.

Cũng như bây giờ nói hôn trầm, thùy miên, thì ai nói danh từ đó cũng được, nhưng mà không có biết hôn trầm thùy miên nó ra sao. Cái trạng thái hôn trầm, thùy miên đó nó làm cho cơ thể chúng ta mỏi mệt, lười biếng, dã dợt, nó làm cho chúng ta bần thần, không có tỉnh táo, thì cái đó mới gọi là hôn trầm, thùy miên. Còn bây giờ chúng ta nói hôn trầm, thùy miên suông không thì không hiểu gì hết, cái người khác người ta không hiểu gì hết.

Mình muốn nói được cái đó thì mình phải diễn tả ra được, phải suy tư ra được, phải quán xét ra được, phải có cái trạng thái hôn trầm, thùy miên mới biết. Còn nếu mà không có thông rõ như vậy thì chúng ta tu hoài nó cũng vô ích.

Bởi vì tu nó khó, khó là cái chỗ thông hiểu, phải thông hiểu. Cho nên cái vấn đề quan trọng của đạo Phật, thì như quý thầy cũng đã thấy rằng cái vấn đề nó rất rõ là phải thông hiểu, mà không thông hiểu thì không có làm sao mà tu được hết.

Mà cứ vay mượn cái đờm dãi, nước miếng của người ta mà nhai đi nhai lại hoài thì nó không có ích lợi gì, mà mình phải thông hiểu, mình quán tức là làm cho cái tri kiến của mình nó thông suốt. Rồi cái tri kiến của mình tự nó phóng ra những cái sự hiểu biết đó, nó làm cho mình thấu rõ được cái pháp đó nó như thế nào đúng mà như thế nào sai.

Đó là những điều kiện mà Thầy dạy hôm nay. Đâu có phải trong một cái Định Vô Lậu mà quý thầy đã sai thì cái Định Hiện Tại An Lạc Trú về hơi thở thì quý thầy còn sai biết là bao nhiêu sai nữa! Cho nên Thầy nhắc nhở. Rồi cái Định Sáng Suốt Thầy nghe quý thầy cũng chẳng trình bày cho Thầy cái đúng, cái sai trong sự tu hành, mà nhìn vào cái sống của quý thầy thì biết rằng quý thầy tu chẳng tới đâu hết.

Tại sao vậy? Tại vì trong ba tháng này, xét ra cái người nào tu được, tu không Thầy đã biết. Mà người nào tu không được - mà tu như thế nào không được, tu như thế nào là được Thầy đều biết.

Tại sao vậy? Tại nhìn thấy qua cái sự sống trầm lặng của người đó, biết được người đó sẽ tu được. Mà thấy người mà sống phóng dật, tâm chạy theo luận bàn cái này, nói chuyện kia thì những người đó không thể tu được hết.

Nhìn lại thì ở đây chúng ta thấy được mấy người mà sống trầm lặng? Đã là đi tu rồi thì chúng ta phải quyết tâm, phải giữ gìn không cho phóng dật. Rồi đây thì quý thầy sẽ thấy rằng tâm Phật không phóng dật, tâm ta niệm Phật cũng không phóng dật, thì phóng dật là một cái pháp rất ác, rất độc, nó nối tiếp sự sanh tử luân hồi chúng ta mãi mãi là do cái tâm phóng dật.

Mà muốn cho nó đừng phóng dật thì chúng ta phải làm sao? Đó là một cái điều kiện rất khó. Cho nên ở đây chúng ta nhìn lại chúng, nhìn lại một số quý thầy thì chúng ta thấy cái người mà không phóng dật là được mấy người?

Đó, mà sống trầm lặng, sống độc cư, sống cô đơn, sống một mình người đó mới không phóng dật. Bởi vì cái tướng không phóng dật thì cái tâm lần lượt nó sẽ nguội lạnh và nó sẽ không phóng dật. Mà cái tướng mà không giữ được thì cái tâm không thể nào mà giữ được nó đâu.

Mới đầu chúng ta giữ được cái thân của chúng ta không phóng dật, sau lần lần cái tâm nó theo đó nó không phóng dật. Còn nếu cái thân mà chúng ta không giữ nó được thì nó phóng ra, nó chạy tứ tung binh tàng, thì cái tâm chúng ta - ngồi lại cái tâm chúng ta nó còn nhiều hơn nữa, hết chuyện này tới chuyện khác, nó như một cái chợ ở trong đó lận.

3- THƯ XIN THẦY DẠY VỀ TỨ THIỀN, TAM MINH VÀ CHẤN HƯNG PHẬT PHÁP

(37:32) Đó thì hôm nay thì Thầy nói như vậy, để rồi chúng ta tiếp tục học cái Tứ Bất Hoại Tịnh.

Mới bắt đầu vào học Tứ Bất Hoại Tịnh mà chúng ta đã thấy cái thời gian quá dài, là vì gần hai ngày học rồi mà chưa hết một cái pháp này. Rồi quý thầy còn biết bao nhiêu học cái thứ khác nữa chớ đâu phải ít, đâu có đơn giản. Cho nên ở đây có một số quý thầy cũng xin Thầy để tóm lược lại những cái điều quan trọng để cho quý thầy nắm cho vững những cái điều quan trọng đó để mà tu tập.

Đây Thầy xin đọc một cái bức thơ gởi cho Thầy, có một vị thầy gởi cho Thầy bức thơ:

“Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Kính bạch Thầy!

Hôm nay, chúng con trong đại chúng xin cung kính, thành tâm có lời thỉnh nguyện.

Kính thưa Thầy!

Thời gian còn quá ngắn, giáo án còn dài, sức khỏe của Thầy lại kém, chúng con cầu mong ngưỡng vọng Thầy từ bi hoan hỷ dành thời gian còn lại giảng cho chúng con về phần căn bản then chốt, cốt lõi của Tứ Thiền và Tam Minh để chúng con nắm được phần quan trọng này. Sau khi qua hạ, vì chúng con không còn đầy đủ duyên lành, may mắn để tiếp tục theo Thầy để tu học, để lấy đó làm phương châm trên bước đường tu đạo, để cầu thoát ly sanh tử sau này. Cúi xin Thầy từ bi hoan hỷ chấp nhận hứa khả cho chúng con.

(39:15) Đồng thời Thầy hoan hỷ cho chúng con được nghe những lời thỉnh nguyện của Thầy với Hòa thượng Trúc Lâm mà không được Hòa thượng chấp nhận trợ duyên cộng tác với Thầy để mở cửa xiển dương con đường thiền giải thoát cho con người ở trong hiện tại mà Thầy đã khổ công nhập thất tu hành suốt 10 năm không nói một lời, sống trong cô đơn, trầm lặng, đã khám phá, thực hiện thành công, kết quả chiến thắng giành lại quyền sanh tử sống chết của kiếp con người mà hiện nay trên thế giới này chưa có ai làm được.

Hôm nay chúng con đầy đủ duyên lành từ ngoài Bắc và ở trong Nam tụ hội về đây cũng là phúc duyên lành của chúng con vun bồi từ quá khứ, cho nên hôm nay chúng con được nghe lần đầu cũng như lần cuối những lời quý báu này, lợi ích cho chúng con nói riêng, nói chung cho tất cả người sau. Đó là những lời tha thiết, chân thành của chúng con, cúi mong Thầy từ bi, hoan hỷ chấp nhận cho chúng con.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Sẵn dịp Thầy cho chúng con được nghe dự thảo của Thầy thành lập trung tâm khu an dưỡng ở Phước Hải. Có lý do gì khó khăn hay không mà Thầy lại không tiến hành mà lại bỏ dở? Đó là những gì mà chúng con muốn biết.

Những việc làm của Thầy tốt đạo, đẹp đời, là phương châm của Phật giáo hiện nay cũng là nhân duyên chấn hưng Phật giáo, lợi ích cho chúng sanh, nhân loại.

Với hoài bão và tâm nguyện của Thầy từ khi ra thất luôn luôn tâm nguyện canh cánh nỗi lòng và sự tồn vong của Phật giáo của hiện tại và tương lai, cho đến hôm nay mà hoài bão của Thầy vẫn chưa thực hiện được, mà hôm nay Thầy lại ra đi ẩn bóng để lại cho chúng con một nỗi niềm thương nhớ một bậc thầy khả kính làm gương hạnh cho chúng con trên bước đường tu học.”

4- TỨ THIỀN, TAM MINH PHẢI ĐI TỪ CĂN BẢN

(42:04) Qua hai cái bức thơ thỉnh cầu, thì thứ nhất là về cái phần giảng về cái Bốn Thiền và cái Tam Minh.

Sự thật ra thì cái căn bản nhất của cái Bốn Thiền đó là cái sống, là tu tập cái Định Vô Lậu. Để làm gì? Để cho cái tâm nó nó ly dục, ly ác pháp, đó là cái căn bản nhất, chớ không phải là cái hơi thở để mà chúng ta vào thiền định đâu.

Khi cái tâm chúng ta thanh tịnh được rồi thì cái thời gian mà tu tập cái Định Vô Lậu chúng ta thường dùng cái pháp hướng. Nếu không có pháp hướng thì chúng ta khó mà đoạn dứt những cái tâm ham muốn của chúng ta, những cái - các cái duyên bên ngoài nó dễ lôi cuốn chúng ta.

Chẳng hạn như cái tâm phóng dật, đó là một. Nếu hằng ngày không rèn luyện cái pháp hướng mà diệt cái tâm phóng dật, thì như vậy - thì chúng ta đã thấy được cái pháp Tứ Bất Hoại Tịnh mà nếu chúng ta không tu tập thì chúng ta không thấy được cái tâm phóng dật là cái tâm rất là khó và vi tế, rất là vi tế.

Chúng ta nghĩ rằng mình không có ham muốn như cái người thế gian, tức là không phóng dật. Nhưng ở trong tâm chúng ta thật sự là cái gốc phóng dật vẫn còn, là chúng ta biết rằng có chớ không phải không. Tại vì chúng ta xả chưa hết mà, mà chưa hết thì tức là còn phóng.

Dù là một cái bát đi, một vị sư đó có ba y một bát thôi, dù cái bát mà chưa có bỏ được, còn tiếc nó, nghe một vị khác gõ cái bát sợ bể, thì ngay đó là cái tâm còn phóng dật, chưa phải hết. Nó khó như vậy.

Cho nên khi bắt đầu mà chúng ta tu Tứ Bất Hoại Tịnh, cái điều kiện tiên quyết đầu tiên là chúng ta tu tập như thế nào để chúng ta có một cái niềm tin đối với Phật. Cho nên Tứ Bất Hoại Tịnh nó giúp cho chúng ta có một cái niềm tin đó.

Đó là những cái cơ bản của thiền định. Chớ không phải thiền định của đạo Phật bằng cách ngay đó mà dạy cho quý thầy bằng cách này bằng cách kia là thiền định đâu, nó không phải đâu.

Nếu mà sự thật ra đây Thầy giảng cái bài về Bốn Thiền rất là rõ ràng, cụ thể. Nhưng mà cái căn bản nó không có ngay từ cái lúc đầu thì Bốn Thiền và những cái danh từ mà diễn tả cách thức nương hơi thở thế này thế khác, thì quý thầy không làm sao quý thầy bước vào được hết.

Biết nó như vậy nhưng mà cái tâm của mình còn phóng dật, chưa ly dục, chưa ly ác pháp thì chắc chắn là không bao giờ mà có thể đi vào được bốn cái định này.

Rồi quý thầy thấy khi mà xin yêu cầu Thầy dạy Tam Minh, nếu muốn dạy Tam Minh không phải đơn giản như chúng ta nhập Tứ Thiền rồi từ đó chúng ta Tam Minh đâu, mà Thầy còn phải dạy Tứ Như Ý Túc.

Bởi vì khi mà nhập Tứ Thiền mà muốn hướng dẫn tâm đến Tam Minh thì nó phải có Đại Thần Lực, mà có Đại Thần Lực thì chúng ta mới có đủ cái sức của nó mà điều khiển, ra lệnh mà điều khiển, chớ nó không còn có cái sự vận dụng của một cái người đang vận dụng cơ bắp nữa, mà chỉ còn có cái ra lệnh mà thôi.

(45:13) Mà như vậy là thần lực chớ không thể nào là cái cái sức lực của chúng ta nữa, mà đây gọi là thần lực, cái lực vô hình, gọi là thần lực. Mà cái thần lực này nó do cái pháp hướng mà ngay từ lúc đầu chúng ta ly dục ly ác pháp được, tu cái Định Vô Lậu chúng ta đã rèn luyện nó hết sức ở trong cái pháp Định Vô Lậu này, chớ không phải là khi mà vào hơi thở rồi chúng ta luyện tập nó thì chẳng nhằm nhò gì, chẳng kết quả gì hết.

Đó là những cái mà rất cơ bản. Nếu mà ngay từ Tứ Thiền mà dạy hướng Tam Minh thì chắc chắn là quý thầy sẽ không bao giờ mà có thể hướng đến Tam Minh, vì con đường này Thầy đã đi qua Thầy biết rất rõ.

Tại sao vậy? Tại vì khi mà chúng ta nhập được Tứ Thiền rồi thì cái đầu tiên của chúng ta mà biết được, làm chủ được đó là cái chúng ta ra lệnh là hơi thở ngưng nghỉ, các hành trong thân chúng ta ngưng. Chúng ta thấy nó có một cái thần lực như vậy đó là chúng ta biết.

Thì bắt đầu bây giờ chúng ta như thế nào? Nếu mà hơi thở ngưng như vậy tức là chúng ta đã nhập định, mà đã nhập định thì như vậy gọi là Định Như Ý Túc, quý thầy thấy chưa?

Nó trong Tứ Như Ý Túc, thì cái Định Như Ý Túc, tức là bây giờ chúng ta thực hiện cái muốn của chúng ta hiện giờ muốn như thế nào? Muốn mình phải nhập định, muốn cho hơi thở ngưng, muốn cho nhập được Tứ Thiền, thì cái muốn đó nó phải thực hiện qua cái thần lực của nó. Nó bảo hơi thở ngưng thì nó ngưng, nó bảo các hành về hơi thở phải ngưng thì các hành ở trong thân của chúng ta về hơi thở ngưng. Đó là cái mà gọi là Định Như Ý Túc.

Và bây giờ nó thường hay bị bung ra và bị âm thanh tác động và bị thọ, chúng ta bảo âm thanh hoàn toàn không được tác động vào tâm của chúng ta, vào cái định này nữa, thì từ đó âm thanh không tác động được nữa, thì như vậy gọi là Định Như Ý Túc, an trú như cái ý của mình ở trong đó gọi là Định Như Ý Túc.

Và khi mà Định Như Ý Túc được như vậy thì chúng ta có cái sự siêng năng, rất là siêng năng, mà siêng năng như ý túc, chúng ta muốn nhập bao lâu cũng được hết, nó không có làm chúng ta lười biếng, cho nên gọi là Tinh Tấn Như Ý Túc.

Đó quý thầy thấy, khi mà đến chỗ này rồi chúng ta phải thực hiện Tứ Như Ý Túc trước đã, rồi sau đó chúng ta mới thực hiện. Mà muốn được vậy thì chúng ta phải lần lượt từ cái chỗ nào? Bắt đầu bây giờ, đây là cái Định Như Ý Túc rồi, thì bắt đầu bây giờ mình muốn kéo dài cái thời gian nhập định này thì nó là Tinh Tấn Như Ý Túc.

Quý thầy phải hiểu. Ở đây Thầy giảng đơn sơ, chớ còn sự thật ra mà để dạy cho nó thì cách thức thì chúng ta phải như thế nào để tập luyện khi mà ở trong cái trạng thái của định đó. Mà bây giờ chúng ta chưa biết nó như thế nào thì Thầy nói cũng chẳng qua là lý thuyết suông mà chơi, chớ nó cũng không có cái nghĩa lý gì.

Nhưng mà vì cái giáo án thì phải nói cho hết, chớ sự thật ra nói để mà nói, chớ cái người mà tu tới đây - khi mà tâm chúng ta chưa có tu cái Định Vô Lậu mà chúng ta thực hiện nó thì chẳng bao giờ mà chúng ta nếm được cái mùi vị của Bốn Thiền.

(48:02) Nó không phải khó, nhưng mà nó khó là từ khi chúng ta bước vào đầu mà giới luật không nghiêm chỉnh, đời sống không độc cư, không trầm lặng thì chắc chắn là chúng ta chẳng nếm được cái mùi vị này.

Mười năm trong thất Thầy chẳng hề có một lời nói, không phải là sống độc cư trầm lặng một mình sao? Ai dám làm điều này không? Chắc chắn khó có người làm được điều này lắm. Nhưng mà Thầy đã làm được điều này, vì vậy mà Thầy thấy rất là rõ ràng và cụ thể.

Đâu phải trong một năm, hai năm mà có thể nó mười năm, hai chục năm nếu mà chưa thành tựu vẫn phải sống độc cư suốt đời chúng ta nữa, chớ chưa nói rằng trong mười năm. Mà đây mười năm là thành tựu thì Thầy mới ra thất, còn cỡ mà nó chưa thành tựu thì chắc chắn còn kéo dài năm năm nữa hay là mười năm nữa không chừng!

Vậy mà nguyện trọn đời là khi nào mà thành đạo á thì mới ra khỏi thất, mà không đạt được cái sự làm chủ sanh tử thì Thầy không ra khỏi thất. Chừng nào mà Thầy ra lệnh rằng cái hơi thở ngưng và các hành ngưng thì chừng đó là Thầy mới ra khỏi thất, chớ bây giờ mà chưa làm chủ được cái này thì không ra khỏi thất.

Nhưng mà khi đã làm chủ được, có thần lực như vậy rồi thì không lý nào mà Thầy không đi đến những cái điều quan trọng trong Tứ Như Ý Túc.

Bây giờ thí dụ như Thầy đang ngồi đây, Thầy bảo nè, không lẽ bây giờ Thầy nhập vào cái định đó, Thầy bảo cái đồng hồ này phải một cái nữa cho Thầy, ngay đó Thầy ra lệnh thì nó có một cái nữa nó nằm một bên đó, hai cái hoàn toàn, hai cái rõ ràng, ai lấy xài cũng được hết, trừ ra Thầy bảo hai cái này trở lại một thì nó trở lại một. Thì như vậy gọi là Dục Như Ý Túc - muốn cái gì được cái nấy. Phải không?

Như bây giờ, Thầy nói tấm gạch tàu này là một miếng vàng, thì nó bắt đầu nó là một cục vàng hẳn hòi đàng hoàng. Bây giờ đem ra chợ, đem tới đâu thợ kim hoàn nào đục ra cũng làm đồ trang sức y như là vàng như vậy. Nhưng mà Thầy bảo cái cục vàng đó phải hồi lại là cục gạch tàu thì nó trở lại cục gạch tàu. Cái lệnh của Thầy ra làm sao thì nó y như vậy gọi là Dục Như Ý Túc. Các thầy thấy chưa?

Rồi bây giờ đó, khi mà Dục Như Ý Túc được rồi thì phải Tuệ Như Ý Túc - cái trí tuệ của Thầy muốn như thế nào thì nó phải theo như thế nấy. Cho nên từng đó, từ cái chỗ mà Tuệ Như Ý Túc Thầy đã phát hiện được rồi thì bắt đầu Thầy mới nói: “Bây giờ phải thực hiện Túc Mạng Minh!” Minh là cái trí tuệ của mình mà, cho nên bảo nó một cái là ngay đó là chúng ta biết được nhiều đời, nhiều kiếp liền tức khắc. Quý thầy thấy rất rõ không?

Cho nên ở đây chúng ta phải thực hiện Tứ Như Ý Túc. Xong bốn cái Như Ý Túc…​ (Mất tiếng) như vậy tức là chúng ta đã biết rằng Tuệ Như Ý Túc. Bởi vì có bốn cái Như Ý Túc thì như thế nào? Dục Như Ý Túc là đầu tiên, rồi Định Như Ý Túc, rồi Tinh Tấn Như Ý Túc, rồi mới Tuệ Như Ý Túc, thì bốn cái này đều là phải được giảng rất là kỹ.

Khi mà chúng ta nhập Tứ Thiền rồi thì cái đầu tiên của chúng ta là như thế nào? Chẳng hạn bây giờ mình bảo hơi thở mình ngưng, nhưng nó ngưng có một chút à, nó không có chịu ngưng lâu đâu, thì như vậy là nó chỉ có thần lực có một chút xíu à. Thời gian này chúng ta phải tu như thế nào để cho nó ngưng một ngày, hai ngày cho đến bảy ngày, rồi đến cái thời gian dài ra, đâu có phải chuyện dễ!

Cái lực của chúng ta mới tu tập - cái thần lực chúng ta tu tập nó mới thì còn nhỏ, nó đâu bằng cái người mà tu 10 năm. Còn nếu mà chúng ta tu 20 năm, cái thần lực của chúng ta còn dữ tợn hơn nữa, bởi vì hằng ngày chúng ta hằng trui rèn luyện mình trên cái pháp hướng thì cái thần lực càng ngày nó càng vĩ đại lên.

(51:27) Chớ không phải là như mấy ông thầy ngồi tu mà tập trung cái tâm tư tưởng ở trên cái đầu của chúng ta để làm cho nó quay cuồng ở trên đó, nó rối loạn thần kinh, nó tiêu luôn chớ không có gì.

Ở đây chúng ta đâu có tập trung gì đâu, chúng ta đâu có đụng tới cái thân của chúng ta mà nhăn mặt, hay hoặc là cắn chặt răng, hay hoặc là gồng mình lên để mà gom tâm mình bằng cách này bằng cách kia, cho nên nó đâu có rối loạn cơ thể chúng ta đâu.

Chúng ta chỉ nhẹ nhàng - khi mà chúng ta tu cái Định Vô Lậu chúng ta chỉ nhẹ nhàng, thí dụ như bây giờ: “Cái tâm phóng dật là một cái pháp ác, làm cho thân tâm chúng ta luôn luôn tái sanh luân hồi, sanh tử, đau khổ. Vậy thì cái tâm phóng dật này phải lìa đi, không được ở đây nữa!”

Mình thường mình nhắc như vậy thôi, chớ mình đâu có bảo nó làm sao được, mình đâu có lôi nó được. Nhưng mình sống ở trong cái hạnh độc cư thì tức là mình ly nó rồi, tức là mình lìa nó rồi. Nhờ cái thân mình chịu khép mình ở trong cái khuôn khổ độc cư, trầm lặng thì nó đã ly nó, cho nên mình nhờ đó mà mình không phóng dật. Đó là…​

Nhưng mà cái tâm của chúng ta nó vẫn còn phóng dật chớ chưa hết, cho nên chúng ta hằng ngày phải nhắc: “Cái tâm phóng dật phải dứt đi, không có được…​ Vì phóng dật là đau khổ, nối tiếp cho ngọn đuốc sanh tử luân hồi, làm cho đời người tiếp tiếp nối nhau mà khổ ở trên sáu nẻo luân hồi!”

Cho nên mình thường nhắc nó. Cứ nhắc đi nhắc lại, đuổi nó đi hoài, đuổi riết nó thì nó - mình sống đúng hạnh, mình đuổi riết thì nó phải hết trong tâm.

Còn mình sống mình tiếp giao với dục lạc, mình phóng tâm mình chạy theo nào là rượu chè, hút thuốc, nào là xem video, tivi rồi xem hát, ca hát, rồi nhảy nhót, nhảy đầm, dancer gì đủ loại, thì thử hỏi cái cách thức đó làm sao mà chúng ta bảo cái tâm phóng dật đừng có phóng dật không?

Hằng ngày chúng ta muốn ăn cái này, muốn ăn cái kia, muốn ngủ hồi nào ngủ, muốn thức hồi nào thức, thì bảo đừng phóng dật thì nó làm sao nó không phóng dật? Mình đã sống phóng dật mà mình biểu nó đừng phóng dật làm sao?

Còn mình sống mình khép mình ở trong cái khuôn khổ không phóng dật, và đồng thời mình nhắc cái tâm của mình riết nó sẽ hết phóng dật. Quý thầy có nghĩ điều đó không? Nếu quý thầy nghĩ điều đó là cái sống của quý thầy phải đi trước, đó là cái cơ bản để chúng ta thực hiện thiền định.

Cho nên cái giáo án thì lần lượt Thầy sẽ dạy hết, mà dạy hết là một cái điều cũng rất nguy hiểm cho người sau. Tại sao vậy? Tại vì nó có sẵn hết, người ta chỉ lợi dụng nó mà để bán Pháp, bán Phật mà sống, chớ không phải để thực hiện sự giải thoát. Họ hiểu biết rồi, họ biết cách hành trì rồi họ ra họ nói dóc, chớ sự thật ra họ chạy theo dục lạc, họ chạy theo danh lợi, họ lấy cái hiểu biết đó họ nói như họ Thánh vậy đó.

(54:01) Như từ lâu tới giờ quý thầy thấy trong kinh sách không có nói những cái hành trì, những cái pháp hành. Phật có nói những cái danh từ rất là cô đọng lại, chúng ta rất khó hiểu, như Phật nói Như Lý Tác Ý hay hướng tâm. Nhưng bây giờ Thầy triển khai ra những cái pháp này, nó trở thành những cái trạch pháp.

Như Phật dạy là Trạch Pháp Giác Chi nè, rồi Niệm Giác Chi nè, Khinh An Giác Chi nè, Thầy triển khai ra những cái này, nó trở thành cái pháp tu, trở thành cái pháp hành của chúng ta rất rõ. Và từ đó nếu cái người mà quyết tâm tu thì chắc chắn là phải được, còn cái người mà quyết mượn nó để buôn Phật bán pháp thì chắc chắn cái số này rất lớn chớ không phải ít.

Đó, người ta cứ ngỡ rằng mình hiểu như vậy là mình giải thoát, nhưng sự thật ra họ chưa làm chủ, họ chưa làm cái gì được hết, nhưng mà họ mượn cái chỗ mà Thầy nói đây, họ sẽ nói ra tùm lum đủ thứ hết.

Nhưng cuối cùng thì cuộc đời họ cũng chỉ trôi lăn ở trong lục đạo, chỉ gạt được cái người mà chưa có nghe được cái giáo án này, chớ còn những người mà được nghe rồi, được hiểu rồi thì: “Ông cũng nói ở trong cái này thôi chớ ông đâu có nói kinh nghiệm gì khác của ông đâu!”

Nhưng trên bước đường tu tập chúng ta nó có nhiều cái kinh nghiệm của chúng ta lắm, nó không phải ở chỗ Thầy nói. Thầy nói đây là một cái phần rút tỉa từ những ưu khuyết điểm của quý thầy, rồi đến những cái ưu trong cái sự tu tập của Thầy nó so sánh, để rồi mới lấy ra những cái pháp hành cụ thể, để giúp cho quý thầy sau này.

Rồi quý thầy sẽ tu, quý thầy có những cái kinh nghiệm của quý thầy nữa. Nhưng kinh nghiệm đó nó không xa lìa cái cốt lõi của Phật pháp, nó không trật.

Cho nên ở đây thì Thầy nhắc lại cho quý thầy thấy con đường mà chúng ta còn đang học và còn đang hiểu, con đường cho đúng đạo Phật cái đã. Mà muốn học hiểu đúng đạo Phật thì chúng ta phải đi từng bước, chớ không thể nào mà đùng cái là chúng ta…​

Quý thầy thì muốn hiểu bây giờ phải nhập từ Sơ Thiền phải như thế nào, trạng thái…​ lần lượt quý thầy sẽ được nghe Thầy diễn tả tất cả những cái này. Nhưng tu hành được hay không là do quyền của quý thầy chớ không phải là của Thầy nữa. Thầy chỉ làm hết bổn phận của mình, dựng lại những cái giáo lý của Đức Phật, và qua những kinh nghiệm của Thầy, qua những cái lời của Phật dạy quá quá là cô đọng lại làm cho người ta không có hiểu cái pháp hành.

Và cũng chính vì vậy mà đạo Phật tới ngày nay người ta mới không triển khai nổi những cái này. Chỉ có những người mà hành thì người ta triển khai nổi, còn những người mà không hành, mà lý thuyết thì không khai triển. Mà Thầy hôm nay đã phá vỡ cái này, thiệt là đối với Phật thì Thầy cũng có một cái tội.

Lẽ ra ông Phật ngày xưa thì ổng phải khai triển cái này rất rõ, nhưng ổng chỉ ngầm để mà ổng đến với các đệ tử của mình để chỉ cái pháp hành đó mà thôi, chớ không có nói ở trong kinh sách. Và các ngài mà thuật trở lại, như ông A Nan thuật lại, cái dạy riêng mà cho từng người để mà nhập được cái định thì không có nói cho mọi người để nghe những cái pháp hành đó.

Tại sao vậy? Như Đức Phật thể hiện thần thông đến với ông Mục Kiền Liên, thì chỉ nói: “Ông nhập cái Sơ Thiền nó không được do cái tâm ông như thế này thế khác”, hoặc là ông bị hôn trầm, thùy miên, hay vô ký thì ông Phật đến để giúp cho ông ta phá đi, có năm cái điều kiện phá hôn trầm, thùy miên.

Rồi đến khi mà ông nhập Sơ Thiền không được, hoặc là nhập Nhị Thiền không được, luôn luôn cái tâm ông bị dao động ở trong đó thì Đức Phật đến nhắc ông phải im lặng như Thánh, trụ như Thánh, nói những danh từ như vậy thôi. Nhưng mà ngoài những cái danh từ đó, chắc chắn là Đức Phật có kê tai nói với ông Mục Kiền Liên: “Ông phải như thế này nè, ông nằm ở chỗ đó”

(57:36) Cho nên mình phải xét thấy, khi mà nó có những cái định - tại sao cái khoảng từ Sơ Thiền cho đến Nhị Thiền nó có những cái định khác nữa, chớ đâu thể nào mà nói Sơ Thiền, Nhị Thiền không. Nó có cái định, cái định Sơ Thiền thì nó có Tầm, có Tứ nè, rồi tiếp đó thì cái định nó vô Tầm mà nó hữu Tứ.

Đó chúng ta phải tu tập như thế nào? Vậy thì cái mà có Tứ này là cái Tứ gì đây? Ông Phật không nói, cho nên người ta không biết cái vô Tầm mà có Tứ này là cái gì.

Còn Sơ Thiền thì mới ly dục, ly ác pháp thôi, cho nên nó còn Tầm còn Tứ, nhưng mà ở trong Tầm Tứ thiện. Bây giờ muốn đi đến Nhị Thiền thì diệt Tầm Tứ, mà diệt Tầm Tứ thì không thể ngay một lúc mà chúng ta diệt được. Cho nên vì vậy chúng ta phải rõ được cái chỗ mà muốn vô Tầm mà còn Tứ, nó là một cái định để mà chuyển qua một cái định diệt Tầm Tứ.

Đó thì quý thầy thấy rất rõ. Mà muốn chuyển qua như vậy là gì? Nếu không phải pháp hướng trong đó thì không - ông Phật không kê tai nói nhỏ với ông Mục Kiền Liên thì chắc chắn bây giờ chúng ta biết được không?

Nói định vô Tầm mà hữu Tứ thì chắc chắn ai nói cũng được, nhưng mà chúng ta biết làm sao đây là hữu Tứ đây? Chưa ai biết hết. Hữu Tứ là như thế nào? Nếu không phải là Như Lý Tác Ý ra thì lúc bấy giờ làm sao mà diệt Tầm được!

Bởi vì Tầm Tứ, là trong cái Nhị Thiền nó có Tầm Tứ rồi, phải không? Nhưng mà nó sống ở trong ly dục ly ác pháp thì nó phải có Tầm Tứ thiện rồi. Nhưng bây giờ muốn diệt Tầm, không có phải ngồi ức chế tâm đâu.

Các thầy phải nhớ. Các thầy ngồi mà ức chế tâm là các thầy dùng hơi thở các thầy tập trung, các thầy gom, các thầy gồng mặt, gồng mình lên cho nó căng thần kinh lên, thì cái điều đó là cái điều sai rồi.

Cho nên Phật nói ở đây đó, vô Tầm mà hữu Tứ, cho nên có bảo mình gồng mình không? Quý thầy thấy hiểu rõ cái điều này. Vô Tầm mà hữu Tứ thì cái Tứ nó còn, thì tức là tác ý nó còn chớ gì, mà tác ý còn tức là pháp hướng chớ gì?

Cho nên thí dụ như bây giờ chúng ta muốn cái tâm của mình diệt Tầm Tứ, thì chúng ta phải giữ cái đối tượng của nó là cái niệm. Nhưng mà bây giờ mình chưa có biết cái niệm nào, tức là trong Tứ Niệm Xứ mình chưa có học, thì ngay Tứ Thiền mình dạy mình có biết cái niệm nào nó ở chỗ nào đâu?

Bây giờ nó ở Thọ, hay hoặc là ở Tâm, ở Thân của mình hay ở Pháp? Bởi vì nó có bốn cái chỗ để mà chúng ta thực hiện cái niệm, vậy thì nó ở cái chỗ nào đây mà để thực hiện cái niệm đó đây? Cho nên vì vậy chúng ta phải học Tứ Niệm Xứ để chúng ta biết cái niệm đối tượng của nó để mà chúng ta tác ý.

Vậy thì khi mà chúng ta trạch pháp ra, nó phải có đúng ở trên cái đối tượng cái niệm của nó để mà chúng ta dùng cái đối tượng đó để mà chúng ta tác ý để mà chúng ta diệt Tầm. Cho nên nói vô Tầm mà hữu Tứ, phải không?

Cho nên bây giờ chúng ta tu 5 phút nè, 10 phút hay 30 phút nè, thì cái lúc bấy giờ nó không có Tầm mà nó còn Tứ. Rồi bắt đầu bây giờ muốn diệt Tầm Tứ, thì bây giờ Tầm nó đã hết rồi thì cái Tứ phải diệt như thế nào? Không tác ý nữa. Mà không tác ý nữa thì cái gì mà chúng ta phải xả nó đi để cho nó không tác ý? Thì tức là cái niệm.

(01:00:33) Vậy thì cái niệm nào mà xả được? Bây giờ chúng ta niệm Phật, chúng ta xả được không? Xả gì mà nó cứ nó ngồi nó niệm ở trong đầu nó hoài, thì làm sao xả được? Đó là những cái mà khi chúng ta học Tứ Niệm Xứ thì chúng ta mới thấy rõ cái điều này.

Nhưng mà Thầy thấy cái thời gian mà dạy đến đây thì chúng ta thấy nó còn nhiều cái sự học. Bây giờ Thầy nói, Thầy nhắc lại cho quý thầy thấy rõ nè: Nếu mà chúng ta không học năm cái căn, tức là Ngũ Căn, Ngũ Căn tức là năm cái gốc, năm cái gốc để cho nó thực hiện được con đường thiền định này, thì chúng ta không biết cái gốc ở đâu mà chúng ta tu, thì làm sao có cái sự này được?

Thì năm cái gốc đó như thế nào? Tín Căn nè, Tấn Căn nè, Niệm Căn nè, Định Căn nè, Tuệ Căn nè. Cái gốc ở đó nó sanh ra cái Tuệ nè, cái gốc nó ở đó nó sanh ra cái Định nè, cái gốc ở đó nó sanh ra cái Niệm nè, cái gốc ở đó nó sanh ra cái sự siêng năng nè, tức là Tấn Căn đó, cái gốc ở đó nó sanh ra cái lòng tin của chúng ta nè. Chúng ta phải biết năm cái căn này.

Mà năm cái căn này thì chúng ta phải tu tập làm sao cho có năm cái lực, gọi là Ngũ Lực. Cho nên có nhiều người, người ta nói Thầy nói Niệm Lực, họ nói chỉ Thầy đặt thôi chớ làm gì mà Phật pháp có cái lực. Đó là những cái người chẳng hiểu Phật pháp. Phật có năm lực chớ đâu phải một lực.

Thí dụ như Thầy nhắc lại cho quý thầy thấy nè, nào là Tín Lực nè, rồi Tấn Lực nè, rồi Niệm Lực nè, rồi Định Lực nè, rồi Huệ Lực nè. Nó phải đủ năm cái lực của nó, nó mới gọi là Phật pháp. Mà năm cái lực này nó hợp lại, nó gọi là thần lực. Đó thì như vậy là chúng ta mới thấy con đường tu.

Mà bây giờ bắt đầu Thầy dạy Tứ Bất Hoại Tịnh nè, xong rồi Thầy sẽ dạy cho quý thầy thấy được Ngũ Căn như thế nào, rồi Ngũ Lực như thế nào, thì cái thời gian mà dạy Ngũ Căn, Ngũ Lực quý thầy thấy đâu có phải là thời gian ngắn được. Chắc gì trong cái thời gian mà còn 5, 10 ngày nay mà nó hết được, nó còn nhiều quá.

Và đồng thời Tứ Niệm Xứ thì quý thầy - bốn cái chỗ mà để chúng ta đặt cái niệm, lúc nào chúng ta tu cái định gì mà chúng ta đặt cái niệm gì mà ở trên cái xứ sở nào? Cho nó đúng cái xứ đó chớ! Chớ nếu mà trật cái xứ đó thì chúng ta tu bậy rồi.

Bây giờ cái đầu đang nhức mà cứ bây giờ nói cái thân bất tịnh, cái thân vô thường, cái thân như thế này thế khác thì ăn nhằm nhò gì mà khi cái đầu, cái thân của chúng ta đang bệnh? Cũng như có nhiều vị ở đây đang bệnh đau, đang nhức nhối, đang khổ sở mà cứ ngồi quán cái thân như thế này hay ngồi hít thở, thử hỏi chịu nổi không? Đó là mình tu sai.

Mình tu ở trong những cái nào mà nó đang thể hiện. Bây giờ cái tâm chúng ta tỉnh táo nè, chúng ta sẽ tu cái gì nè, bây giờ chúng ta cái tâm nó mờ mịt, nó thiếu tỉnh thức nè, thì chúng ta tu cái gì nè. Chúng ta biết từng cái tâm niệm của chúng ta mà.

Bởi vậy Phật nói tâm có tham thì biết tham, tâm có tỉnh biết tỉnh, tâm có sân biết sân, tâm không sân biết không sân, tâm không tham thì biết không tham…​ mỗi tâm niệm của chúng ta đều biết, và trong khi đó chúng ta sẽ tu cái gì.

Bây giờ tâm có tham thì chúng ta biết chúng ta tu cái gì, mà tâm không tham thì chúng ta biết chúng ta tu cái gì. Tâm có tỉnh thì chúng ta biết chúng ta tu cái gì, mà tâm không tỉnh thì chúng ta biết chúng ta tu cái gì. Vì vậy nó mới có kết quả. Còn bây giờ tâm mình không tỉnh mà mình cứ ngồi mình hít thở, làm sao mình tỉnh? Mình chỉ có ngủ luôn chớ ở đó tỉnh!

Đó Thầy muốn nói như vậy để chúng ta học rất là kỹ mọi cái pháp hành của Phật để biết từng tâm niệm của chúng ta chúng ta mới thực hiện được, chớ không khéo chúng ta làm sao thực hiện được. Quá khó khăn!

5- TRẢ LỜI VỀ VIỆC CHẤN HƯNG PHẬT PHÁP

5.1- CẦN GIÁO ÁN RA ĐỜI ĐỂ ĐỜI SAU HIỂU ĐÚNG VỀ PHẬT PHÁP

(01:03:49) Cho nên ở đây Thầy xin nhắc lại, trong cái điều kiện mà thầy Thiện Thiền muốn hỏi là để thấy được cái sự việc trải qua một cái thời gian của Thầy muốn chấn hưng lại Phật pháp, muốn nương vào Hoà thượng mà giúp Hoà thượng để xây dựng lại Phật pháp.

Vì Thầy là một cái người tu, không còn có chấp danh chấp lợi, không còn có muốn mình làm bậc thầy ai hết, chỉ muốn núp sau lưng Hoà thượng để mà giúp Hoà thượng xây dựng lại cái ngôi nhà Phật giáo như ở trong băng Thầy đã nói. Ở trong băng của Thầy đã được nói ra rất là rõ ràng.

Và nếu một ngày gần đây Thầy sẽ đọc lại những cái lời đó, mà trước đây 3 năm Thầy đã có giảng cái lời nói đó, tức là trong hai cuộn băng đó.

Cái cuộn thứ nhất là Phật Môn Bảo Huấn. Thầy muốn khuyên quý thầy là trở về với cái sự chơn chánh của đạo Phật, đừng có lợi dụng cái chiếc áo tôn giáo mà làm lệch đi con đường của đạo Phật. Đó là cái cuộn băng thứ nhất.

Cái cuộn băng thứ hai là Thầy muốn so sánh giữa cái Thiền Đông Độ và cái thiền của Bốn Thiền của Phật, để cho Hoà thượng thấy cái đúng cái sai, để cho Hoà thượng hiểu được Thầy, rồi thầy trò hiểu nhau, Thầy sẽ núp sau lưng Hoà thượng mà cố gắng đào tạo, tìm lấy một số người quyết tâm tu hành giải thoát, thì sau khi mà đào tạo được cái số người này rồi thì đương nhiên là đệ tử của Hoà thượng chớ không phải là đệ tử của Thầy, họ chỉ là huynh đệ của Thầy mà thôi.

Để cuối cùng thì người ta nhìn thấy Phật giáo của Việt Nam do Hoà thượng đã chấn hưng lại, có người tu chứng làm chủ sanh tử như vậy như vậy, kết quả như vậy.

Riêng Thầy thì âm thầm rồi Thầy thị tịch, khi mà đã có những người mà Thầy đã hướng dẫn được thì Thầy thị tịch, Thầy ra đi, không để lại một vết tích rằng, một công lao nào của Thầy đối với con người, đối với Phật giáo ở trong thế gian này.

Nhưng cuối cùng thì không được, cho nên buộc lòng Thầy phải nói lên cái giáo án này để cho mọi người sau này hiểu biết được con đường của đạo Phật, nó không phải như người ta đang tu tập hiện bây giờ, như người ta đang hiểu Phật giáo bây giờ.

5.2- LỜI THỈNH NGUYỆN SÁM HỐI VỚI HÒA THƯỢNG THANH TỪ

(01:06:08) Trước tiên, Thầy xin thuật lại là khi mà tu xong, làm chủ được cái sự sanh tử, sự sống chết rồi thì Thầy trở về thăm Hoà thượng ở trên Chơn Không. Thì lúc bấy giờ trong cái bài thỉnh nguyện thì Thầy cũng có nhắc lại một cái phần đó.

Để cho quý thầy hiểu rõ hơn thì Thầy sẽ đọc lại cái bài thỉnh nguyện này, để cho quý thầy thấy rõ. Đây là cái bài này cách đây là 7 năm. Cái năm đó là cái năm 1990, ngày 26 tháng 3 năm 1990, còn ngày âm lịch thì đó là ngày 3 tháng 2 âm lịch, năm Canh Ngọ, Thầy về Thường Chiếu, Thầy thỉnh nguyện cái bài này.

Trong khi cái Tu viện Chơn Lạc mà thầy viện chủ, thầy Hoà thượng Thanh Từ đã giao cho Thầy cái khu đất đó để mà xây dựng cái Tu viện Chơn Lạc đó, thì lúc bấy giờ nó có những cái duyên rất là khó khăn.

Mà chính bây giờ cái trung tâm an dưỡng ra đời cũng muốn xây dựng ở trên cái khu đất đó, để mà thực hiện cái hoài bão đem Phật giáo, đem cái đạo đức của Phật giáo đến với mọi con người, làm cho con người giải thoát từ bàn tay của họ, từ khối óc của họ. Họ làm điều thiện, họ đem lại sự hạnh phúc đó cho họ, họ làm điều ác thì họ phải mang lấy cái sự hậu quả khổ đau của chính họ. Vì biết rõ đường đi nhân quả cho nên Thầy có cái hoài bão đó.

Đây Thầy sẽ đọc lại cái bài thỉnh nguyện mà cách đây 7 năm chớ không phải mới đây đâu. Đây quý Thầy nghe cái bài:

“Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!

Kính bạch Thầy và đại chúng!

Con Tỳ Kheo Thích Thông Lạc, hôm nay có duyên sự xin đầu thành đảnh lễ tác bạch sám hối.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!

Kính bạch Thầy và đại chúng!

Từ ngày con về Chơn Không học thiền với Thầy, con đã ngộ những gì và tu hành như thế nào?

Kính bạch Thầy và đại chúng!

Trong ba tháng hạ năm ấy, năm 1970, con đã nghe Thầy giảng kinh Kim Cang đến câu: “Bồ Tát độ chúng sanh trong bốn loài, mà không thấy mình độ, độ hết chúng sanh thì thành Phật.”Thầy giảng câu này cho chúng con nghe: “Đó là vọng tưởng, độ hết chúng sanh tức là hết vọng tưởng, hết vọng tưởng tức là thành Phật.”

Lại nữa, cũng kinh đó Thầy giảng câu: “Hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc, và quá khứ tâm bất khả đắc”. Con ngộ câu này: “Tâm quá khứ và vị lai là vọng tưởng, tâm hiện tại là tác ý.” Ngộ hai câu kinh này, con đặt trọn niềm tin ở Thầy là một thiền sư đắc đạo mới hiểu được như vậy: Quét hết vọng tưởng, dừng tác ý sẽ thành Phật.

(01:09:29) Bấy giờ tâm con đều buông xuống hết. Con không còn tha thiết cái ăn, cái ngủ, cái mặc, dẹp sạch. Cả ngủ nghỉ con cũng không còn ham thích nữa. Con không còn tham học hay tìm hiểu về kinh sách nữa. Con từ khước dịch thuật khi Thầy giao cho con một tập kinh trong bộ Đại Tạng. Con từ giã tất cả những gì của thế gian, quyết lòng thực hiện cho bằng được.

Trong chúng chỉ có mười huynh đệ cùng nhau tu học, con thường tìm cách xa bạn bè, tránh nói chuyện tào lao, nghị luận, tìm nơi vắng vẻ, năng nổ tu hành.

Con tự nghĩ người xưa chỉ ngộ một câu rồi dẹp tất cả, tìm lấy con đường giải thoát cho mình. Như người như ngài Đại Mai ngộ câu “tức tâm tức Phật”, rời Mã Tổ đến núi Đại Mai nỗ lực tu hành. Lục Tổ Huệ Năng ngộ câu “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”, từ giã mẹ già đến chùa Huỳnh Mai nỗ lực thực hiện, quét sạch vọng tưởng trong lao tác, chẳng học tập gì hết. Ngài Dược Sơn ngộ câu “nhướng mày chớp mắt, không nhướng mày chớp mắt”, “ba năm không làm một điều gì hết”, “da mỏng da dày đều rớt sạch”.

Bởi vậy ngộ là để tu chớ không phải để tìm văn trích cú, hiểu biết nhiều, kiến giải sâu. Ngộ là để thực hiện sự làm chủ thân tâm mình ra khỏi nhà sanh tử luân hồi.

Kính bạch Thầy và đại chúng!

Suốt mười năm trong thất con quét sạch vọng tưởng, dừng tác ý. Đầu tiên con được Thầy dạy pháp môn tri vọng, biết vọng liền buông, nhờ pháp môn này con đã dẹp gần hết vọng tưởng, nhưng thật chưa sạch. Năm cuối cùng con dùng pháp hơi thở nhiếp sạch, nhiếp mạnh, hoàn toàn ức chế được tâm mình. Con thành tựu dừng tác ý, kéo dài thời gian này bảy ngày đêm liên tục không biết đói khát.

Tiếp tục suốt hai tháng con không còn nghe, thấy, biết gì bên ngoài và không còn cảm giác đau nhức, nóng lạnh, khó chịu. Duy nhất con không mất tâm thức của con, rất tỉnh táo.

(01:12:19) Rồi một hôm, ngón chân con đụng vào bàn Phật, hơi thở con bắt đầu thở trở lại. Biến cố xảy ra trong con, toàn thân con có sự thay đổi. Con có cảm giác như toàn thân con nhẹ nhàng thanh thản, các công án, các tắc ở trong Bích Nham Lục con đều hiểu rõ. Con thấy các tổ tu như thế nào chứng, tu như thế nào không chứng, con biết sạch. Cũng như hiện giờ Thầy và con là một hay là hai, con cũng đều biết.

Con đã có trí tuệ và có thiền định. Thầy hỏi con, con đều đáp đúng như ý của Thầy, không bao giờ con đáp sai ý Thầy. Thầy lấy kinh Lăng Già ấn chứng cho con. Sau này con có về trình thầy hai lần nữa những trạng thái trong định, Thầy đều cho rằng tất cả những điều mà con nhập định là đúng.

Kính bạch Thầy và đại chúng!

Khi về trình Thầy lần đầu tiên, biết duyên mình chưa đủ với chúng sanh, con khéo léo xin Thầy ra đi. Trước là để niềm tin cho chúng thấy sự nhập định và làm chủ sự sống chết của con để họ theo Thầy tu tập, và con sẽ ghi lại những kinh nghiệm để lại cho Thầy. Nhưng Thầy yêu cầu con ở lại giúp Thầy chấn hưng thiền Lý, Trần. Do sự yêu cầu này, con ở lại đem hết sức mình giúp Thầy giữ gìn con đường Thiền Tông phát triển lâu dài.

Mười năm làm Phật sự đã qua, con gặp nhiều cay đắng cam go và thử thách vô vàn. Con chẳng sờn lòng, miễn Thầy trò hiểu nhau như lời Thầy đã dạy con: “Chẳng sợ ngại gì, chỉ Thầy trò hiểu nhau là hơn hết.” Con tin ở lời này.

Kính bạch Thầy và đại chúng!

Con chẳng tự xưng mình chứng quả A La Hán, nhập Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền. Khi gặp Thầy đắc pháp ở Thường Chiếu, Thầy có giảng nói về trạng thái của Sơ Thiền cho đến Tứ Thiền, con đáp lại lời Thầy: “Giống thì có giống, nhưng có chỗ không giống”.

Cũng như Tứ Không, Diệt Tận Định, chẳng có ai trực tiếp dạy con nhập các thiền, các định này, nên làm sao dám xác định nhập các thiền các định? Chỉ dò theo trạng thái lúc nhập, lúc nhiếp tâm nhập định, phỏng chừng theo kiến giải chữ nghĩa trong kinh điển mà nói ra. Đó là kiến thức chớ không phải thiền định.

Và con cũng chẳng bao giờ tự khoe mình có thần thông phép lạ xuất hồn, nói Túc Mạng, thế mà người ta đồn đại. Nhất là từ ngày thầy Thông Huyễn trú tại Chơn Như, sự đồn đại ấy càng ngày càng nhiều.

(01:15:40) Kính bạch Thầy và đại chúng!

Sự hiểu biết của trí tuệ học hỏi làm sao hiểu được kinh điển, nội tâm tu hành của kẻ khác. Thầy Thông Huyễn là một người thông minh, có trí nhớ đặc biệt và có học thức, nhưng kiến giải qua sự hiểu biết của trí thế gian thì bảo sao không xây dựng trên ảo tưởng huyền thoại, và đó cũng là sở trường của thầy Thông Huyễn.

Kính bạch Thầy và đại chúng!

Hôm nay nhân duyên làm Phật sự của con không đủ, nên xin Thầy và đại chúng chứng minh: Kể từ ngày nay con sẽ không chỉ dạy kinh nghiệm này cho ai nữa. Nó là một thứ thiền ngoại đạo như lời Thầy đã dạy.

Đất nước này, thời điểm này, Thầy là người có công chấn hưng lại Thiền Tông Việt Nam. Con là đệ tử của Thầy, trợ giúp Thầy, vô tình đã làm Thầy buồn. Vậy con xin sám hối Thầy và đại chúng. Từ nay về sau con không làm phiền lòng Thầy nữa. Mỗi tháng con sẽ về xin thỉnh nguyện sám hối một lần để có những lỗi lầm nhờ Thầy và đại chúng chỉ dạy cho, để được con làm tròn bổn phận là người đệ tử biết ơn sâu dày.

Kính bạch Thầy và đại chúng!

Ơn nghĩa Thầy khai ngộ, con thấu suốt được lý giải thoát sanh tử, làm sao con quên được! Lời khích lệ năm xưa còn văng vẳng bên tai: “Phật pháp còn mãi ở thế gian là còn người tu chứng.” Những lời này ghi khắc mãi trong tâm con. Ngày nay, con đã làm chủ được thân tâm, bản ngã đã tiêu mòn, danh lợi đã sạch, sanh tử đã tự tại là nhờ ơn đức của Thầy. Ơn đức này sánh dường trời biển, hơn cả công sanh thành dưỡng dục của mẹ cha, biết lấy chi so sánh được?

Một lần nữa con cúi xin Thầy mở lượng từ bi lân mẫn cho con sám hối. Từ đây về sau con sẽ làm Thầy vui lòng để đền đáp ơn sâu dày trong muôn một.

Sau cùng, con xin phép Thầy, khi Thầy ra đi con sẽ cùng Thầy cùng với Thầy ra đi nếu chẳng còn ai theo con tu học nữa. Khi con ra đi, con không lưu lại dấu vết gì. Nếu lưu lại, con tự nghĩ là một việc làm bất nghĩa.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.”

Bài thỉnh nguyện sám hối ngày 30 tháng 2 năm Canh Ngọ - ngày 26 tháng 3 năm 1990 tại Thiền viện Thường Chiếu.

(01:18:38) Đó là cái bài mà Thầy đã thỉnh nguyện để xin sám hối qua vấn đề cái Thiền viện Chơn Lạc đã có một cái sự làm cho rối loạn ở cả cái Tu viện Thường Chiếu.

Hầu hết là tu sĩ lúc bấy giờ xin đăng ký ra ngoài đó, làm náo loạn, cho nên đó là một cái sự rất là đau lòng. Mà quý thầy không thấy một cái sự đang chuyển tiếp để mà Thầy âm thầm giúp cho Hoà thượng, nhưng quý thầy nghe đến cái sự làm chủ sanh tử thì quá ham, cho nên từng đó quý thầy không thấy rằng do chính quý thầy đã tạo những cái điều kiện này, vì vậy mà cái Tu viện Chơn Lạc sẽ bị đổ vỡ. Khi đó nó có cái sự làm cho Thường Chiếu vắng vẻ đi, làm cho Thường Chiếu không còn người nữa đi, thì lúc bấy giờ Hoà Thượng làm sao đây? Nghĩ gì đây?

Quý thầy không thấy điều đó, người nào cũng đăng ký ra Chơn Lạc hết, nhất là những thầy mà cao thủ, những thầy mà hiện bây giờ gọi là cấp lãnh đạo. Trừ ra những thầy mà đang giữ gìn cái giềng mối của Thiền viện Thường Chiếu thì không nói, còn những thầy mà trẻ trẻ, tuổi nhỏ sau này mà bây giờ là nòng cốt của các cái Thiền viện đó, thì các thầy đều xin đi hết, đi theo Thầy ra ngoài đó hết.

Cho nên do đó mà cái duyên nó không đủ, buộc lòng Thầy phải về xin sám hối cái bài thỉnh nguyện này, thì quý thầy thấy rằng cách đây 7 năm.

5.4- THẦY GIÚP HÒA THƯỢNG THANH TỪ LÀM SÁNG TỎ PHẬT PHÁP

(01:20:07) Do đó nó sẽ không đem đến một cái kết quả, thay vì cái lần đầu tiên mà khi Thầy về Thầy trình bày như hồi ở trong cái lời thỉnh nguyện này, thì nếu mà Hoà thượng đã nhận được cái điều kiện mà đầu tiên thì Thầy xin nhập diệt.

Và trước khi nhập diệt thì Thầy cũng sẽ xin Hoà thượng, Thầy sẽ nhập định 7 ngày đêm ở tại Chơn Không để cho tất cả tăng ni đệ tử mà đang theo Hoà thượng tu hành chứng kiến được cái sự nhập định, và vì vậy họ thấy được cái sự tự tại và cái Như Ý Túc, Định Như Ý Túc - nghĩa là muốn như thế nào là đạt được như thế nấy, đó gọi là thực hiện cái định.

Và sau khi mà nhập định 7 ngày đêm, Thầy xuất định ra, và trong khi có mặt chúng đủ mặt ở đó, Thầy sẽ từ giã thầy và đại chúng rồi Thầy sẽ nhập diệt bỏ thân tại đó. Và sau đó thì Thầy xin Hoà thượng là thiêu xác thân của Thầy rồi đem đổ xuống biển, đừng có xây tháp, xây gì hết, coi như hoàn toàn là không còn một cái vật gì mà để lại.

Thầy chỉ còn lưu lại một cái tài liệu cho Hoà thượng theo cái tài liệu đó mà Hoà thượng hướng dẫn người ta, từ cái giới luật của Phật, phải sống như thế nào để đúng giới hạnh, và tu tập những cái thiền định như thế nào để mà làm chủ được, nhập được định mà làm chủ được sống chết như vậy, một cách rất tự tại như vậy.

Đó là cái điều kiện mà Thầy đã muốn giúp Hoà thượng. Ngay từ khi mà mình thành tựu, ở trong 10 năm ở trong thất, khi thành tựu thì Thầy thấy đối với Thầy thì danh lợi không còn nữa, mà Thầy chỉ còn có tình nghĩa thầy trò để mà giúp nhau, để mà xây dựng lại Phật pháp, đem lại Thiền Tông mà thôi. Mà lấy bản thân của Thầy, lấy kinh nghiệm của Thầy để làm cái đó cho mọi người sáng suốt được Phật pháp, làm cho người ta thấy được.

Nhưng rồi Hoà thượng lại không có cái ý đó mà lại muốn Thầy ở lại để cho có một người đệ tử ở một bên thầy mà giúp đỡ. Từng đó, khi mà Thầy về thì Hoà thượng có nhắc: “Trong cái chuyến về này thì Thông Lạc hãy ghé thăm các Chiếu!” Nhưng mà Thầy không có ghé thăm, Thầy đi về luôn.

(01:22:14) Do đó thì khi Hoà thượng hỏi lại Thầy có về thăm không thì trong các Chiếu nói không có, Thầy Thông Lạc không có về. Cho nên Hoà thượng nói bây giờ quý thầy mỗi người ở mỗi cái Chiếu đại diện về thỉnh Thầy mới về, chớ còn không thể nào mà Thầy về đâu.

Do đó thì cho nên có một cái chuyến xe, mà mỗi Chiếu thì đều có một vị đại diện về đây để thỉnh Thầy. Sau khi được thỉnh thì Thầy mới về thăm Thường Chiếu và các Chiếu.

Sau chuyến thăm đó thì cũng có nhiều cái tư tưởng chống đối, rồi cũng có nhiều cái tư tưởng kêu là ganh tị đó, Thầy nói rõ ra là hầu hết cái người mà phàm phu thì họ chưa thấy. Như vậy Thầy đã hiểu biết cái tâm trạng đó, cho nên đến đó hỏi thì Thầy chỉ nói qua loa, không bao giờ mà nói lộ ra một cái gì mà gọi là cái kinh nghiệm tu hành của mình hết.

Tại sao vậy? Tại vì người ta không có tin mình mà người ta có niềm ganh tị. Tại sao được Hoà thượng cho rằng Thầy tu chứng như thế này, thế khác? Do đó từ đó, khi chuyến thăm về rồi thì Thầy đã thấy nảy nở ở trong tâm của huynh đệ của mình có những cái sự chống đối chớ chưa phải là họ quyết tìm con đường giải thoát.

Cho nên trước khi mà Thầy về thăm, khi mà tu xong Thầy về thăm, Thầy cũng đã hiểu được tâm của chúng sanh rồi. Cho nên Thầy chỉ muốn làm cái niềm tin cho họ đối với Hoà thượng hơn là ở Thầy. Còn Thầy mà ở lại giúp Hoà thượng thì chỉ chẳng qua là một sự tranh chấp mà thôi.

Họ đâu có muốn Thầy về mà làm thầy của họ đâu? Đó, cho nên vì vậy đó, họ muốn họ bao giờ cũng phải có một cái sự điều khiển hay hoặc là được Hoà thượng giao cái sự điều khiển đó chớ không phải giao cho Thầy. Cho nên Thầy thấy điều đó là một cái điều khó. Nhưng lần lượt thì Thầy không thể nào mà sống ở trong các Chiếu với Hoà thượng để giúp đỡ huynh đệ, được là do cái tâm đó.

(01:24:08) Vì vậy sau này Hoà thượng giao cho Thầy cái khu đất ở Phước Hải, được cái người Phật tử cúng dường, rồi Hoà thượng đặt cái tên nó là Chơn Lạc để lấy cái tên của nó, do đó mới giao khu đất. Từng giao khu đất thì Thầy ra Thầy cất những cái thất nhỏ nhỏ nhỏ nhỏ như ở đây mình vậy, cũng bằng tầm vông trúc tre vậy.

Thì mỗi thầy đều đăng ký xin một cái thất để ở trong cái khu rừng núi, mà cái vùng biển như vậy là có khí hậu rất tốt, cho nên quý thầy ai cũng thích. Nhất là những thầy mà có cơ thể bị bệnh tật thì thích ở cái vùng đó để cơ thể nó được khỏe hơn. Cho nên họ đều đăng ký đi hết, vì vậy mà Thường Chiếu gần như muốn trống, do vì vậy mà xảy ra cái sự không hay.

Từ đó thì coi như là Hoà thượng không có chú ý đến cái vấn đề của cái Tu viện Chơn Lạc nữa. Và Hoà thượng thường thường là Hoà thượng cứ nhắc: “Bây giờ đó, Hoà thượng Huệ Hưng đang yêu cầu Thông Lạc thì Thông Lạc giúp đỡ Hoà thượng Huệ Hưng đi!” Đẩy Thầy qua một bên góc độ.

Mà Hoà thượng Huệ Hưng là một người chỉ có biết Thầy chớ chưa phải Thầy là đệ tử của Hoà thượng Huệ Hưng, cho nên Thầy làm sao mà Thầy giúp cho Hoà thượng Huệ Hưng! Nhưng Hoà thượng Huệ Hưng là người có một cái sự đối đãi với người tu hành rất là lịch sự, rất là tốt.

Hoà thượng không có thấy cái ngã của mình là Hoà thượng, là một cái vị mà lãnh đạo tăng cả nước, Hoà thượng đứng ở trong mặt giáo hội thì Hoà thượng coi như là trưởng ban tăng sự mà, coi tăng ni trong cả nước lận mà, chớ đâu phải là ít, Hoà thượng muốn cấp giấy cấp tờ gì cho tăng ni đều là quyền của Hoà thượng hết mà.

Thế mà Hoà thượng hạ mình đến mà mời Thầy, rồi thậm chí như đến đây nữa, Hoà thượng có cái ý rằng những cái công phu mà tu hành của Thầy như vậy đó, chỉ có Thầy mới có thể giúp cho Phật giáo sống lại mà thôi. Cho nên qua cái ý đó, và đồng thời Hoà thượng có muốn xây dựng cái Tu viện chuyên tu ở Tòng Lâm, nơi mà của Hoà thượng Thiện Hòa để lại đó, để mời Thầy về đó để giúp.

Nhưng mà Thầy thấy quý thầy ở Tòng Lâm cũng như là quý thầy ở Ấn Quang họ cũng chẳng có tâm tha thiết cái sự đó đâu. Họ chỉ nhắm vào cái phần sống về danh, về lợi hơn là cái chỗ tu hành giải thoát. Cho nên cái ý của Hoà thượng là một lẽ, khi mà Hoà thượng tịch rồi thì kể như cái ý đó nó cũng không đi đến đâu.

Nhưng mà Thầy thì Thầy không phải nhắm vào cái chỗ đó, mà Thầy nhắm vào Hoà thượng để giúp cho Hoà thượng. Vì một ngày đi nữa cũng là thầy của mình, làm sao cho cái con đường thiền của thầy mình sống mãi, đó là mình đền đáp ơn thầy mình. Nếu mình không nhận thầy của mình thì thôi, mà đã nhận thầy của mình thì mình phải làm sao cho xứng đáng là người đệ tử.

Như các các con, các thầy đã nghe cái lời thỉnh nguyện của Thầy, dù như thế nào tình của Thầy với Hoà thượng không bao giờ mà có thể ai ngăn cản được. Ai làm gì thì làm, nhưng mà tâm của Thầy đối với Hoà thượng vẫn là một bậc thầy đáng kính, khả kính của Thầy. Luôn luôn Thầy kính trọng, không bao giờ mà Thầy coi…​

Hoà thượng dạy thiền như thế nào thì Hoà thượng có quyền dạy, nhưng mà Thầy chỉ cần có những cái kinh nghiệm giúp thêm Hoà thượng là giúp, chứ không bao giờ mà Thầy nói Hoà thượng thế này, thế khác.

(01:27:12) Nhưng có nhiều người họ lại lấy những cái lời của Thầy dạy đúng đắn mà họ nói rằng Thầy bài bác Hoà thượng, thì cái điều đó là họ hiểu như thế nào Thầy cũng chả hiểu.

Như quý thầy thấy rằng Thầy đem cái Thiền Đông Độ Thầy so sánh với cái Bốn Thiền của Phật là mục đích Thầy muốn cho Hoà thượng nhận xét được cái nào mà thực hiện được, cái nào không thực hiện được. Có như vậy để giúp Hoà thượng có những cái sáng kiến, từ đó Hoà thượng đi dần dần dần.

Cũng như một cái bức thơ của Thượng toạ Nhất Hạnh gởi cho Hoà thượng, nhắc Hoà thượng như thế này: “Chúng ta hãy trở về với con đường nguyên thủy”, có nhắc Hoà thượng cái điều đó mà. Các con có thấy cái bức tâm thơ của Thượng toạ Nhất Hạnh nhắc Hoà thượng Thanh Từ: “Hoà thượng hãy trở về với con đường nguyên thủy!”

Đúng vậy! Sự thật ra những cái điều mà Thầy nêu lên ở trong cái lời băng đó là muốn cho Hoà thượng trở về với cái Phật giáo chơn chính của nó , để giúp cho một số người đang theo Hoà thượng đạt được cái kết quả. Sự thật nó là sự thật, không thể nào sai được.

Nhưng không kết quả. Lần thứ nhất không kết quả. Lần thứ hai, Tu viện - Thiền viện Chơn Lạc không kết quả.

Lần thứ ba, hai cuộn băng ra đời, nhằm mục đích để mà âm thầm giúp cho Thiền viện Trúc Lâm. Nhưng lần trở về, Thầy đưa cái dự thảo phương án Trung tâm An dưỡng, xin Hoà thượng đứng ở trong đó để giúp đỡ cho con làm công việc này, Hoà thượng nói Hoà thượng chỉ lo dạy thiền tu học thôi, chứ không làm công việc xã hội.

Sự thật ra cái hình thức thì phải nhìn cái Trung tâm An dưỡng từ thiện nó là cái công việc từ thiện xã hội thật sự đó, nhưng mà bên trong nó lại lồng vào một cái đạo đức của đạo Phật rất là lớn, là lợi ích rất lớn cho con người.

Nó không nhắm vào một cái số tu thiền để mà giải thoát sanh tử tầm thường, mà nó nhắm vào tất cả mọi người có mặt ở trên hành tinh này, để đem lại cái đạo đức nhân quả, để mọi người thông suốt nó, thì xã hội này rất là trật tự, an ninh, không bao giờ mà có ai có làm cái tội ác nữa hết. Đó là cái Trung tâm An dưỡng ra đời là nhằm cái mục đích đó.

Nhưng mà lại một lần nữa lại không được Hoà thượng chấp nhận. Như quý thầy cũng đã biết, không được chấp nhận.

Do đó bây giờ đứng ở trong một cái vấn đề làm việc lớn này mà nhân sự của Thầy không có, đệ tử của Thầy cũng chẳng có, thì bây giờ Thầy còn làm cái gì hơn? Rồi cái khu đất đó thì để cho cây cỏ mọc chứ làm gì hơn? Bây giờ còn ai hơn nữa?

Cho nên vì vậy mà gần đây Thầy có ý nghĩ, Thầy sẽ di chúc lại cho những mầm non của Tổ quốc, cho những mầm non sau này cái dự thảo phương án này.

Sẽ có những đứa bé mới sanh, cũng như đã sanh 5-7 tuổi, những người này đều là những người có trí tuệ, có thông minh, đang học hỏi rất giỏi, nghĩa là rất thông minh. Chúng nó đang được cha mẹ cho sang ngoại quốc học vì được học rất giỏi, học giỏi hơn cả trong nước, rất là giỏi, nghĩa là được tuyển chọn, được học cấp học bổng hẳn hòi đàng hoàng.

(01:30:15) Thầy di chúc lại, giao lại cho những cái đứa bé này, sau này nó sẽ thay Thầy, khi nó học xong nó trở về, nó phục vụ cho dân tộc, cho đất nước nó thì nó sẽ làm những công việc này. Đó là những mầm non tương lai của Phật giáo, và cũng là mầm non tương lai của đất nước này, nó sẽ đem lại cái đạo đức cho dân tộc này.

Còn Thầy thì già rồi, và đồng thời thì không có đủ duyên mà hợp tác, cũng như giáo hội, cũng như Hoà thượng thì Thầy đâu có làm được gì nữa hơn?

Cho nên Thầy thấy đúng lúc là ba cái giai đoạn mà mình cố gắng để giúp cho đời tu hành đạt được sự kết quả, làm cho Phật pháp sống lại thì ba cái giai đoạn đó không đạt. Rồi bây giờ về cái phần mà đem cái đạo đức nhân quả để dạy con người thì cũng chẳng thành, thì bây giờ còn làm cái gì? Thì bây giờ còn những giờ phút này ẩn bóng để chờ cho những đệ tử của mình tu tập cho xong mà thôi.

Còn nếu không, mà không có những người đệ tử mà đang theo Thầy tu tập thì chắc chắn là Thầy đã nhập diệt. Chứ mang cái thân này các con thấy, ngày ngày nó mệt mỏi, mỗi một lần ho, mỗi một lần bệnh, một lần nhức đầu, một lần là một cái nghiệp, thọ cái khổ, bỏ nó đi cho rồi, có gì mà tiếc nó đâu!

Ăn thì các thầy thấy rằng ngày một bữa, có gì mà phải ngon, mà phải béo bở đâu nữa mà lại ham? Người ta ở đời người ta còn ăn ngon, ngủ ngon, người ta còn chạy theo cái này cái kia, còn Thầy còn cái gì nữa mà ham? Cho nên đối với Thầy đã hết rồi, thì chỉ còn buông mà thôi.

Nhưng đáng thương cho mấy con đã theo Thầy lỡ dở, cho nên không lẽ mà Thầy bỏ các con. Cho nên Thầy ẩn bóng, ẩn bóng để theo dõi trên cái sự tu tập của các con mà giúp các con, cho đến khi nào các con thành tựu thì lúc bấy giờ Thầy sẽ ra đi vĩnh viễn.

Đó là cái nguyện vọng của Thầy. Chớ bây giờ Thầy đâu có còn mong Thầy núp sau lưng Hoà thượng để giúp cho Hoà thượng nữa, hết rồi. Ba lần, mà ba lần là quá sức rồi.

Các con chưa từng nghĩ, thầy Chơn Tịnh thường thường đưa Thầy về Thường Chiếu phải nửa đêm, mà thầy trò chiều thì phải đi về thành phố ngủ. Muốn ra 8 giờ, 7 giờ thì ở Thường Chiếu người ta sám hối rồi, người ta thỉnh nguyện rồi, thì mình phải ra cho đúng giờ chớ đâu phải. Cho nên cả thầy trò phải 4, 5 giờ phải thức dậy đi, mà từ thành phố đi ra ngoài đó sám hối rồi trở về, chớ không phải ở ngoài đó nữa.

Bởi vì khó khăn lắm chớ không phải dễ, cực khổ lắm chớ không phải dễ. Thế mà mỗi tháng đều là Thầy về sám hối như vậy, chớ không phải không có.

Nhưng cuối cùng thì Hoà thượng cũng nói rằng: “Ở xa xôi quá, Thông Lạc cứ về như vậy thì rất là vất vả. Thôi, từ cái ngày mà hiểu biết được rồi thì thôi, ở tại chỗ, đừng có về nữa, rất cực khổ!” Đó Hoà thượng nói với Thầy như vậy. Cho nên Thầy không có về sám hối nữa để mà làm cho cái tình hòa hảo giữa huynh đệ cũng như giữa thầy.

(01:33:17) Nhưng họ rất áy náy là vì họ đã không biết Thầy là cái hạng như người nào, như thế nào, mà luôn luôn là hạ mình đến cái mức độ hạ không có tưởng tượng được. Thầy Chơn Tịnh mà đi theo Thầy đó, thầy nói thầy không chịu nổi được cái cái lối hạ mình của Thầy. Với huynh đệ cũng vậy, mà với thầy Viện chủ cũng vậy. Thầy tu hành như vậy mà Thầy hạ mình đến vậy.

Thậm chí như thế này nè. Khi đến xin sám hối mà Hoà Thượng ở bên Linh Chiếu, Thầy phải đi qua bên Linh Chiếu, qua bên Linh Chiếu gặp Hoà thượng rồi thì Hoà thượng ngoe nguẩy, Hoà thượng bỏ đi về không nói một lời nào. Thầy vẫn đi theo sau Hoà thượng để chứng tỏ một cái tình người của người đệ tử rất là hạ mình, biết tôn trọng Thầy mình. Chớ không phải như quý thầy đâu, nói hơi nặng lời là quý thầy bỏ đi liền! Còn Thầy không có đâu.

Hoà thượng ngoe nguẩy chống cây gậy, khi mà Thầy qua bên Linh Chiếu mà gặp Hoà thượng rồi thì Hoà thượng ngoe nguẩy không nói một lời nói nào nữa, ngoe nguẩy đi về, hất hủi một cách rất là hất hủi chớ không phải.

Thầy nói nhắc lại đây, các con chưa có từng thấy đâu. Thầy Chơn Tịnh đi sau Thầy: “Thầy chịu đựng nổi chớ con chịu đựng không nổi. Con chịu không có nổi!” Thầy nói: “Đã là thầy của mình là ông cha của mình rồi, tại sao là mình chịu không nổi?” Đó là những cái hành động.

Rồi những khi mà Hoà thượng tìm mọi cách mà tránh né không gặp Thầy, Thầy vẫn bền bỉ ngồi chờ đợi. Có những khi mà mưa dầm tầm tã, có những khi chờ đợi để gặp Hoà thượng xin một lời sám hối rồi trở về, thì có thể nói rằng từ 5 giờ, 6 giờ, có thể 7 giờ mà còn ở Thường Chiếu, mà khi gặp Hoà thượng được rồi thì lúc bấy giờ Thầy với Chơn Tịnh mới về trong đêm tối, không ở lại Thường Chiếu. Bởi vì mình biết ở lại Thường Chiếu chẳng có một cái sự đối xử nào mà tình với mình cả hết.

Thì các con biết lúc bấy giờ nó không phải là một cái đơn giản, nhưng mà Thầy vẫn giữ là cái người đệ tử rất là biết trọng ơn thầy. Nhưng mà Thầy nhìn hết những người đệ tử của Thầy, khó mà tìm được cái người đệ tử mà đối xử với Thầy như Thầy đối với Hoà thượng. Khó lắm, Thầy thấy khó, đời người khó lắm.

Cho nên hôm nay Thầy nhắc lại để cho các con thấy rằng, cái người mà có tình nghĩa thầy trò…​ (Mất tiếng)

…​nó đã diệt mòn đi với cái sự tu tập thiền định của Thầy, cho nên Thầy thấy mình chẳng ra gì hết, mình là một con số không ở trong cái thế gian này, không có gì hết. Bởi vì sự giải thoát là giải thoát, không nghĩa giải thoát là bản ngã. Mình làm chủ được sanh tử không có nghĩa là mình hơn ai hết, đối với Thầy thì Thầy không thấy mình hơn ai hết.

Cho nên đối với Hoà thượng, Thầy vẫn thấy là một bậc thầy khả kính của Thầy, Thầy không thấy hơn Hoà thượng chút nào hết. Thầy chỉ thấy rằng mình là người đệ tử phải làm sao giúp thầy, đền đáp ơn thầy là đủ rồi, còn toàn bộ thầy như là không có.

(01:36:11) Đó thì, hôm nay quý thầy đã được nghe cái lời thỉnh nguyện của Thầy cách đây 7, 8 năm, mà may là còn. Nhưng cái lời mà ghi lại trong băng, trong những cái máy mà đem theo ghi thì các thầy biết là cái phương tiện rất là tệ.

Lúc bấy giờ trong cái bữa mà thu cái lời thỉnh nguyện này, mà bây giờ Thầy ghi lại đây đó, chớ không phải hồi đó mà còn ghi như thế này đâu, Thầy ghi rồi bây giờ Thầy bỏ đâu Thầy cũng chẳng biết, cái bài mà Thầy thỉnh nguyện ở Thường Chiếu.

Thì thầy Chơn Thông đó, bây giờ đã đi xa để mà tu học theo nguyên thuỷ rồi đó, thì thầy đã mang theo một cái máy nhỏ như thế này nè, thầy lén thầy mới xin quý thầy cho chui vào mà quý thầy không cho là không cho, chui vào để kê lại chỗ mà Thầy thỉnh nguyện với Hoà thượng để thu mà không cho là không cho.

Cho nên do vì vậy đó, mà trong khi đó thì cái cái phía sau đó, chú có cái máy nhỏ, chú bảo Thầy bây giờ Thầy thỉnh nguyện thì xin Thầy treo ở chỗ cổ Thầy nè, rồi Thầy nói đây nó thâu vô.

Cho nên bây giờ đó, biết đâu chừng Chơn Thông xin không được rồi làm sao? Nó căng như vậy đó các con biết. Không bao giờ họ để lưu lại cái lời nói của Thầy ở đâu hết, họ không bao giờ cho đâu. Cho nên Chơn Thông đem máy vô thu không có được, do đó quý thầy nói bảo để ở ngoài đó cứ thu ở ngoài.

Làm sao mà (thu), con thấy? Bây giờ Thầy ngồi ở đây với Hoà thượng, Hoà thượng ngồi đầu đây phải không, thì tất cả chúng ngồi dài đây, mà Chơn Thông ngồi đằng kia làm sao thu? Phải không, các con thấy làm sao thu. Mà cái máy nhỏ chớ phải máy lớn sao, thành ra làm sao thu được. Chỉ có ngồi đem sát đây thì may ra để như vầy đó mới thu vô được chớ, mà nó còn không được rõ nữa chớ đừng nói.

Cho nên vì vậy đó chú ở sau chú mới cho Thầy mượn cái máy, chú bảo Thầy thôi bây giờ Thầy đeo cổ đi, không chắc gì Chơn Thông thu được đâu, Thầy nhớ nghe, Thầy bấm vầy chớ Thầy không bấm nó còn không chạy!

Mà lúc bấy giờ đó, trước khi mà xin thỉnh nguyện, trong khi ra giữa chúng mà Thầy quỳ xuống Thầy xin thỉnh nguyện, trước khi mà ra Thầy đã bấm máy trước rồi. Thầy ngồi đó, Thầy tới cái chỗ mà Thầy xin sám hối, tới phiên Thầy thì Thầy đã thò tay Thầy bấm cái nút rồi, nó chạy rè rè ở cổ.

Thầy cũng lâu lắm Thầy mới ra chớ không phải là mau được. Do đó thì Thầy chỉ thu lại, bây giờ là nghe lại cái cuộn băng nó rè rè rè rè đó, nó không rõ là cái chỗ này, nhưng mà nhờ đó mà bây giờ còn ghi lại, chớ không bây giờ Thầy cũng chẳng đâu mà nhớ được mà ghi nữa chớ đừng nói.

Đó, còn hồi đó Thầy viết ra một cái bài để mà Thầy đọc lên cái lời thỉnh nguyện của mình nó có mạch lạc hẳn hòi rõ ràng, chớ không phải nói miệng suông được, mà nó rất gian khổ như vậy. Bây giờ nó còn nè.

Còn một cái bài thỉnh nguyện thứ hai nữa coi như là không có thu được. Đó như vậy đó thì các con biết, nó còn cái bài thỉnh nguyện thứ hai nữa chớ không phải. Đây là cái bài thứ nhất, còn cái bài thứ hai.

Thì các con biết làm Phật sự nó có nhiều cái gian khổ lắm, nó không đơn giản. Nó phải trên thuận dưới hoà, nó phải hoà hợp với nhau, nó không hoà hợp thì không bao giờ làm được chuyện gì hết.

Bây giờ Thầy nói cái giáo án này ra là mục đích làm sáng tỏ lại Phật pháp, làm lại những cái gì mà Phật pháp người ta không hiểu thôi. Không phải trách quý thầy hiện giờ là phạm giới phá giới đâu, mà quý thầy chỉ không hiểu mà thôi, chớ Thầy nghĩ rằng quý thầy hiểu thì chắc không có đến đỗi nào.

5.3- TỔ CHỨC TU TẬP QUA PHƯƠNG ÁN TRUNG TÂM AN DƯỠNG

(01:39:34) Hôm nay nói về cái vấn đề này, thì hôm nào có dịp Thầy sẽ đọc lại dự thảo cái phương án trung tâm an dưỡng.

Cái mục đích mà đưa lên để xin phép nhà nước là phải nói có lý hẳn hòi đàng hoàng, chớ không phải là đơn giản đâu. Cách thức đó như thế nào, và tổ chức như thế nào, và kinh phí như thế nào mà hợp lý thì nhà nước mới chấp nhận. Bởi vì nó là cái phương án trung tâm an dưỡng, thì do đó nó phải hợp lý mình mới trình cho nhà nước.

Rồi cái kinh phí mà để chi cho cái phương án này nó ở đâu mà có? Chớ không phải đơn giản đâu. Người ta sẽ còn hỏi mình tất cả mọi mặt, sau đó người ta mới chấp nhận cấp giấy tờ cho mình. Chớ đâu phải mình lập lên đó rồi nó không có một đồng xu nào trong đó, chỉ cất mấy cái số nhà đó rồi bắt đầu nhận vô, bỏ đói người ta hết sao? Cho nên nó phải có cái một cái nguồn kinh phí nào. Cho nên nó không có đơn giản đâu.

Vì vậy đó mà các thầy thấy, từ cái chỗ mà muốn tổ chức được như vậy đó để cho thực hiện được cái hoài bão của một người tu sĩ mà đi khất thực, thì cái trung tâm an dưỡng thì nó có khu an dưỡng trung tâm, tăng và ni nữa, chớ không phải là tăng không mà có cả ni.

Tại sao vậy? Thầy muốn tổ chức lại cái đời sống của người tu sĩ ba y một bát, đi xin, thì trong cái trung tâm này nó có một cái nơi để nấu cơm, để cung cấp cho mọi người về an dưỡng, thì trong khi đó họ sẽ nấu cơm giúp đỡ cho chúng ta tu hành mỗi ngày một bữa cho đúng giờ thì chúng ta đến cái câu lạc bộ hay hoặc là cái nơi mà người ta nấu cơm đó người ta sẽ sớt bát cho mình, thì mình sẽ thực hiện cái đời sống ba y một bát, đi khất thực rất là đúng mà không có phạm vào một cái lỗi, ngay cả ở đất nước của chúng ta, nó không có lỗi thời chút nào hết.

Chúng ta chẳng biết tiền bạc, chẳng biết gì hết. Ai cúng dường thì cứ cúng vào cái nơi nào đó, chớ còn chỗ chúng ta tu hành thì chúng ta không nhận cúng dường mà chỉ nhận thức ăn mà thôi, nhận một ngày một bữa ăn thôi, không nhận tiền bạc.

Đó, đó là cái Thầy muốn tổ chức như vậy, để cho quý thầy thấy rằng Thầy có những cái việc làm rất là sáng suốt chớ không phải không. Tổ chức ngay để mà chúng ta có một đời sống khất thực.

Mà khất thực không có làm cho người khác nghèo, mà chỉ có những người giàu, Phật tử giàu người ta bỏ vào, người ta cúng dường cho mình, rồi người ta nấu cơm cho mình ăn ngay tại chỗ đó, hàng trăm người có thể sống rất dễ dàng mà không có lo.

Mà không có một cái chùa to tháp lớn gì, chúng ta ở toàn là những cái chòi tranh vách lá bằng tầm vông, trúc tre như thế này. Nghĩa là trong khu vực an dưỡng không phải là cái chùa cho nên chúng ta đâu có cất cái chùa. Y như Phật, chúng ta chỉ có một cái nhà tròn hay hoặc là cái nhà mát để chúng ta được những cái ngày mà tập họp lại, được nghe Thầy thuyết giảng nói về cái sự tu tập, nói những bài pháp cho các thầy nghe tu tập thôi. Đó là cái nhà rộng cũng như cái thiền đường của chúng ta như thế này đủ rồi.

Còn tất cả những chúng thì hoàn toàn là ở những cái chòi tranh vách lá, người cái người cái, không có ở chung nhau.

(01:42:39) Đó là cách thức tổ chức của Thầy, cái khu an dưỡng của chư tăng và chư ni như vậy.

Mà ở đó không thờ ông Phật nào hết, ở đó chỉ chuyên tu thôi chớ không thờ tượng Phật nào hết. Mặc dù chúng ta là một người tu theo Phật giáo, phải có tượng Phật, nhưng ở đây chúng ta đâu có quyền, chúng ta là người an dưỡng, nghỉ ngơi, tu tập chớ không phải là chúng ta ở đây cất cái chùa mà thờ Phật. Nếu chúng ta thờ Phật tức là sai đi cái chỗ chúng ta.

Mà chính thờ Phật không đúng. Theo Thầy thấy, Phật ở trong tâm của mình, mình tưởng nhớ Phật, mình hằng ngày mình sống đúng những cái gì mà Phật đã sống thì đó là Phật ngay trước mặt mình rồi, còn đi đâu mà thờ cái tượng! Cái tượng nó có giống không? Chắc chắn là không giống đâu.

Đó thì như vậy Thầy đã nghĩ cái điều nghĩ này, cho nên cái đời sống của tu sĩ hiện bây giờ nó giống như Đức Phật ngày xưa. Vì Đức Phật ngày xưa đâu có thờ ông Phật, phải không, các con thấy đúng không? Chúng ta cũng không thờ ông Phật, nhưng hằng ngày chúng ta sống đúng giới hạnh, tức là ông Phật ngay tại chỗ giới hạnh đó, chỗ cái hành động sống của chúng ta là ông Phật chớ không phải là chỗ khác.

Do đó chúng ta càng muốn cho ông Phật sống, càng thờ ông Phật tại cái khu đó thì tức là cái hạnh sống của chúng ta phải toả ra những cái mùi hương của giải thoát của đạo Phật ở đó thì chính là ông Phật ở đó rồi. Không còn phải đi tìm một ông Phật xi măng, một ông Phật đồng, hoặc là bằng vàng mà thờ, thì cái đó là cái hình thức của những người còn mê tín, chớ không phải là người tu hạnh giải thoát. Đó là những cái chân chính.

Còn bây giờ chúng ta sẽ tiếp tục cái giáo án, mà tiếp tục để tu, để học.

6- KẾT QUẢ TU TẬP THỂ HIỆN QUA CUỘC SỐNG ĐỨC HẠNH

(01:44:12) Thầy xin trả lời chung qua những cái ý kiến qua hai bức thơ của của thầy Thiện Thiền.

Trong cái bức thơ đó thì Thầy thấy rằng con đường của đạo Phật chúng ta phải đi từ căn bản, nhất là Thầy yêu cầu cái căn bản, thì trong cái căn bản đó không phải là ngay liền mà dạy Tứ Thiền hay hoặc là Tam Minh được, mà nó phải còn một cái lộ trình của nó, phải rất rõ. Nếu khơi khơi mà tắt ngang như vậy thì những cái giáo án của chúng ta nó không có thành một cái xuyên được.

Như bây giờ chúng ta thuyết giảng - bây giờ bỏ những cái khoản kia đi, bây giờ chúng ta thuyết bắt đầu vô cái Tứ Thiền đi, chúng ta bắt đầu Sơ Thiền đi thì nó không thành một cái vấn đề của một cái giáo án nữa, mà nó thành ra một cái đoạn mà có thể nói rằng một cái đoạn văn hay hoặc là cái pháp nói về thiền đó thôi. Như vậy là chỉ có dạy riêng chớ không thể nào mà nó gộp chung ở trong cái giáo án này được. Đó, không thể nào mà thu chung ở trong cái giáo án này được.

Thí dụ như bây giờ muốn dạy riêng, nó còn mấy ngày nữa thì quý Thầy xin: Bây giờ còn mấy ngày nữa chúng con muốn học riêng, còn bây giờ phần giáo án thì để sau này Thầy có thể Thầy giảng tiếp như thế nào thì sau này, còn bây giờ chúng con muốn học Tứ Thiền, thì như vậy là Thầy sẽ dạy riêng, hoàn toàn Thầy sẽ dẹp cái giáo án này ra, Thầy không dạy nữa, do đó Thầy chỉ dạy cái phần của Tứ Thiền rồi Tam Minh thôi.

Thầy không dạy Tứ Như Ý Túc mà Thầy nói Tam Minh, phải ở trong chỗ cái nào để mà hướng Tam Minh thôi. Thì quý Thầy nắm được, tu được thì được mà không tu được thì cái đó là cái phần của quý thầy, còn Thầy thì nói hết những cái điều kiện mà ở chỗ đó để mà thực hiện, thì Thầy nói cái đó rất rõ, quý thầy làm được thì làm được hay không làm được thì quý thầy chịu lấy. Chớ còn Thầy biết rằng cái lộ trình của nó phải đi từ cái dễ đến cái khó.

Cũng như bây giờ các thầy muốn biết cái bài vở ở trên cái lớp đại học nó như thế nào, nhưng mà cái trình độ chưa biết, chưa có hiểu được cái trạng thái đó, cũng như bây giờ mình mình chưa có ly dục, cái tâm mình còn dục thì mình chưa biết cái ly dục như thế nào mà gọi là có hỷ lạc do ly dục sanh, thì các thầy chưa biết. Chưa biết mà đòi hỏi tới cái cao nữa thì chắc chắn là quý thầy chỉ còn ngồi đó mà ngó chứ còn không biết.

Mà đây là dạy nó cô đọng lại một cái pháp, mà pháp của Phật nó thường dường như là nó có cái móc chuyền với nhau, cái pháp này nó móc với cái pháp kia, nó liên tục với nhau, cho nên 37 phẩm trợ đạo nó phải có cái móc chuyền chớ không phải cái pháp nào nó độc lập riêng được.

Cho nên vì cái đầu tiên mà chúng ta tu cái Định Vô Lậu được thì ngay đó cái định Bốn Thiền cũng như cái Tam Minh nó dễ dàng. Mà cái Vô Lậu không được thì bây giờ Bốn Thiền với Tam Minh cũng chẳng qua là để đó chúng ta ngó cũng như là một cái tài liệu mà thôi chớ không có gì hết.

Bây giờ Thầy nói, Thầy dạy rất kỹ, ai thấy nói về Tứ Thiền thì người ta cũng thấy rằng đúng rất đúng, rất hay, nhưng mà thực hành thì quý thầy thực hành không vô đâu, Thầy chắc chắn là không vô.

Cho nên ở đây, khi mà chúng ta hiểu được một cái giáo án này rồi, chúng ta biết cái bước đường chúng ta phải tập cái gì trước, tập cái gì sau.

Đó, còn bây giờ quý thầy cứ nghĩ rằng mình phải nắm cho được cái thiền định đó để cho mình tu, không có chắc quý thầy tu được đâu.

(01:47:24) Bởi vì con đường của đạo Phật nó thuộc về toàn diện của nó, toàn bộ của nó là giới luật, là giới luật toàn bộ, từ đầu chí đuôi đều là giới luật. Nó có một cái then chuyền nó móc với nhau, từ cái này nó móc xích với cái kia, nó không thể rời nhau được. Cái đời sống của tu sĩ nó móc đến những cái thiền định, những cái thần thông của nó, nó móc chuyền với nhau hết. Nếu mà đời sống không hợp thì cái móc chuyền này nó bị gãy ngang rồi, nó không có.

Cho nên bây giờ chúng ta muốn bây giờ lấy nội cái thiền của Phật - Bốn Thiền tu thôi, còn hoàn toàn cái kia không cần, giới luật không cần, thì chúng ta chẳng đạt được đến đâu hết.

Thầy biết cái này mà, 10 năm trong thất Thầy biết. Nếu mà không có một cái giới luật, không có sống đúng một cái hạnh độc cư, không có sống đúng cái ly dục ly ác pháp thì không bao giờ mà nếm được cái mùi vị của Tứ Thiền, mà cũng không bao giờ thấy được Tam Minh.

Cho nên quý thầy mất thì giờ lâu là tại vì quý thầy cứ nhắm thiền định mà quý thầy không nhắm đến cái đức hạnh, cái giới luật. Chớ mà nhắm được đúng cái giới luật đức hạnh thì quý thầy sẽ đi mau lắm rồi, và đi mau lắm, thời gian rất ngắn, khoảng độ thời gian rất ngắn.

Cho nên không phải…​ Thầy sẽ cố gắng ở trong cái thời gian này Thầy sẽ dạy cho các thầy Tứ Thiền cho kịp chớ không thể nào mà không có học Tứ Thiền đâu. Và đồng thời có thể nói rằng khi mà dạy Tứ Thiền được thì Thầy cũng cố gắng mà dạy Tứ Như Ý Túc để chuyển qua Tam Minh cho nó có cái đường lối cách thức của nó đi rất dễ dàng.

Bởi vì không có tu Tứ Như Ý Túc thì không có làm sao mà biết cái pháp mà đi tới Tam Minh được. Phải thực hiện nó hằng ngày tu tập như thế nào, để trau dồi cái pháp hướng, pháp tùy nó như thế nào để mà thực hiện được Tứ Như Ý Túc, như hồi nãy Thầy đã nói.

Cho nên cái người mà đi trước rồi người ta biết được cái lộ trình, còn các thầy thì chưa đi trước cho nên các thầy muốn khơi khơi, từ cái lớp Một mình học chừng…​ Nói chung là mình chưa có đạt được lớp Một mà muốn nhảy lên Đại học mình ngồi để nghe coi mấy ông thầy, mấy ông giảng sư trên này dạy làm sao, thì chắc chắn là ngồi đó ngó. Thiệt ra thì chắc chắn là quý thầy cũng chỉ là dùng những cái từ đó nói thiền đạo chơi, nghe chơi chớ còn thiệt ra nó không tới.

Đó quý thầy hiểu cái điều mà Thầy đã biết. Bây giờ đem ra các thầy cũng nói bây giờ nhập Sơ Thiền, cũng nói theo cái lời mà Thầy dạy đó, nói vanh vách vậy, chớ còn làm thì làm không được đâu, chính cái cuộc sống mình chưa sống được thì thiền nó đâu có được như vậy!

Cho nên kết quả nó phải theo cái cuộc sống. Mà mình là người quyết tu theo đạo Phật thì phải lấy cuộc sống mà làm cái điều kiện tiên quyết để đi, chớ còn cái ham muốn như vậy Thầy thấy nó cũng là cái ham muốn sai, nó không đúng./.

HẾT BĂNG