067-KHÔNG CÓ "THẾ GIỚI SIÊU HÌNH" - MỞ VỀ NGOẠI CẢM. Minh Đạo

Trong bài viết "Ngoại cảm có hay không, thực hay bịp?" đăng trên "Tạp chí cây thuốc quý‎" số 181 của tác giả Trọng Linh, có đề cập đến trường hợp nhà ngoại cảm Liên Xô cũ trước đây là bà N.KULAGINA, người phụ nữ này đã lôi cuốn sự chú ý của các nhà khoa học, qua khả năng tác động từ xa lên ngoại vật, xóa được hình trên phim ảnh, làm quay kim la bàn, làm lệch tia Laser, làm tăng tính dẫn điện của môi trường.

Bài báo đề cập đến một hiện tượng có thực, đã từng xảy ra trong đời sống xã hội của loài người, như ở Liên Xô trước đây, ngày nay ở Việt Nam qua vấn đề tìm mộ liệt sỹ, cũng như ở khắp nơi trên thế giới, qua khả năng biểu đạt của các nhà ngoại cảm.

Nhiều nhà khoa học thế giới đã từng quan tâm tìm hiểu nghiên cứu về hiện tượng ngoại cảm của con người nhưng chưa ai có thể l‎ý giải được bản chất của sự việc khiến hiện tượng ngoại cảm dù muốn hay không, cũng mang mầu thần bí.

Nếu không vén được bức màn bí mật, buộc phải tin có một thế giới khác - Thế gới siêu hình của thần tiên, ma quỷ v.v… đang tồn tại ngoài chúng ta, nó sẽ lộng hành gây ra đau khổ cho loài người vì những chuyện mê tín nhảm nhí. Nếu thế giới siêu hình này có thật, liệu tương lai loài người sẽ đi về đâu?

Rất may mắn ở nửa cuối thế kỷ thứ 20, có một người Việt Nam tu hành theo đạo Phật và đắc đạo, đó là Trưởng lão Thích Thông Lạc tại Tu Viện Chơn Như ở Trảng Bàng, Tây Ninh, bằng trí tuệ Tam Minh đạt được qua tu hành mà có, Ngài hiểu thấu bản chất của vấn đề. Ở trong một loạt đầu sách đã được Nhà nước cho phép ấn bản, Ngài chỉ thẳng thế giới siêu hình không có – năng lực của các nhà ngoại cảm là năng lực do tưởng uẩn hoạt động phát sinh ra. Sách của Ngài viết đã đến tay người đọc, vì có duyên được xem các ấn phẩm này, tôi muốn được chia sẻ những hiểu biết còn hạn chế, phần nào giúp các bạn hé mở về ngoại cảm .

* * *

Như chúng ta biết loài người luôn có hai mối quan tâm, đó là xu hướng muốn tìm hiểu khám phá những gì đang tồn tại quanh đời sống con người. Đi theo mối quan tâm này, các nhà khoa học tự nhiên và xã hội, là những người lính xung kích đi đầu trong sự khám phá. Bằng óc quan sát họ phân tích và quy nạp các vận động của tự nhiên và xã hội để khám phá ra bản chất của sự kiện, qua đó góp phần cải tạo tự nhiên và xã hội nhằm phục vụ cho lợi ích của con người ngày càng tốt đẹp.

Mối quan tâm thứ hai, đó là con người do đâu mà sinh ra, nỗi khổ của con người do đâu mà có? Đi theo xu hướng này, các tôn giáo đều có những giải thích khác nhau, nhưng các cách giải thích đó không thuyết phục được những người có hiểu biết.

Cách đây 2556 năm, đức Thích Ca đã tiếp cận vấn đề một cách trí tuệ hơn. Bằng thiền định, Ngài tập trung sự quan sát của mình để khám phá, phân tích và quy nạp sự vận động bên trong của nội tâm, chính như thế Ngài nhận biết được: Con người do nhân quả mà sinh ra, nỗi khổ của con người do vô minh mà có. Từ nhận thức này Ngài tìm cách diệt trừ vô minh là nguyên nhân gây ra đau khổ của con người.

Ở đây chúng ta nên hiểu vô minh không có nghĩa là ngu dốt không hiểu biết, mà vô minh chính là sự hiểu biết không chuẩn xác về bản chất của sự việc, của con người và của vũ trụ. Do nhận thức sai lầm đã dẫn con người vào chỗ khổ đau và sinh tử luân hồi.

Đức Thích Ca bằng trí tuệ và sự nỗ lực tinh cần trong tu hành, rèn luyện, Ngài sửa chữa những nhận thức sai lầm để loại trừ nguyên nhân gây ra đau khổ. Sự kiên trì theo đuổi mục đích diệt khổ đã giúp đức Thích Ca chiến thắng mọi khổ đau và chấm dứt tái sinh luân hồi. Khi diệt trừ hết vô minh, Ngài chứng đạt một trí tuệ chưa ai có được, đó là trí tuệ Tam Minh, để lại cho nhân loại một nền di sản văn hóa vô cùng rực rỡ là những giáo l‎ý mang phẩm chất tinh hoa của trí tuệ loài người.

Nhìn chung giữa đạo Phật và khoa học có mối tương đồng và cũng có những dị biệt. Tương đồng là đều dùng óc quan sát, phân tích và quy nạp các sự kiện để đi tìm bản chất, cho nên đều hình thành trí tuệ.

Dị biệt là khác nhau về hướng quan sát nghiên cứu sự kiện. Các nhà khoa học hướng ngoại, cho nên trí tuệ đó là hữu hạn, có nhiều hiện tượng xảy ra trong tự nhiên và xã hội các nhà khoa học vẫn chưa thể lý‎ giải được. Đạo Phật quay vào quan sát nội tâm, thành tựu trí tuệ vô hạn. Chính ENSTEIN nhà bác học lỗi lạc nhất của loài người trong thế kỷ 20 đã tuyên bố: Nếu trong thế kỷ 21 con người cần đến tôn giáo thì đó chính là đạo Phật.

* * *

Trở lại đề tài về các nhà ngoại cảm, như phần đầu chúng ta được biết: Năng lực của các nhà ngoại cảm đều là năng lực của tưởng uẩn sinh ra. Vậy tưởng uẩn là gì?

Theo giáo lý‎ của nhà Phật, con người được hình thành bởi hai thành phần là danh và sắc. Sắc là phần vật chất là con người bằng xương bằng thịt cụ thể của chúng ta. Danh là phần đời sống tinh thần bao gồm (thọ, tưởng, hành, thức) thọ ở đây được hiểu là sự cảm nhận của cơ thể, hành là sự hoạt động của thân và tâm, thức là sự nhận biết của cơ thể, tưởng là một hoạt động tinh thần của não, nó chỉ hoạt động khi‎ ý thức ngừng hoạt động hoặc khi ý thức nắm bắt sự kiện không được cụ thể, lúc đó tưởng sẽ tham gia vào.

Sự tham gia của tưởng mang lại lợi ích nếu việc ấy là thiện, sẽ đem lại tai họa khổ đau nếu việc ấy là bất thiện.

Như chúng ta biết hoạt động của não người gồm có 3 phần hoạt động của ý thức, hoạt động của tưởng thức, hoạt động của tâm thức. Chúng ta tìm hiểu để biết về hoạt động của bộ não chúng ta.

A- Hoạt động của ý thức.

Thế giới tự nhiên xung quanh chúng ta rất là phong phú, đó là thế giới của âm thanh, mầu sắc, mùi, vị, thời tiết, tư tưởng… hàng ngày chúng tác động đến đời sống con người. Những thông tin này qua các giác quan (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) để tiếp nhận và xử lý chúng. Các giác quan nếu không có ý thức tham gia thì không thể phân biệt được sự việc một cách cụ thể. Vì vậy hoạt động của ý thức là hoạt động tinh thần có tính phân biệt, so sánh để xử lý hoặc chọn lựa đối tượng. Nhờ hoạt động của ý thức mà xã hội của loài người đã không ngừng phát triển trên nhiều lĩnh vực của khoa học tự nhiên và xã hội. Mặc dù hoạt động của ý thức con người vẫn chưa phát huy hết năng lực của nó vậy mà biết bao nhà khoa học, kỹ sư, bác sỹ, các nhà tri thức nhờ hoạt động của ý thức đã trở thành nổi tiếng.

B- Hoạt động của tưởng thức.

Hoạt động của ý thức được phân chia trên nhiều điểm như: Ý thức giúp cho mắt phân biệt được hình dáng kích thước của vật, phân biệt được các mầu sắc, giúp cho tai phân biệt được các cung bậc của âm thanh, giúp cho mũi ngửi được các mùi hương, giúp cho lưỡi phân biệt được các vị, ý thức còn giúp phân biệt được đúng, sai, phải, trái, tốt, xấu, thiện, ác… vì ý thức hoạt động trên nhiều điểm, nên năng lực của nó bị chia sẻ hạn chế bởi không gian thời gian.

Hoạt động của tưởng chỉ có khi ý thức ngừng làm việc (khi ngủ mơ), hoặc khi ý thức nắm bắt sự việc chưa rõ ràng: Ví dụ: ý muốn làm một việc gì đó mà chưa thành thì gọi đó là ý tưởng, khi ta nghi ngờ một việc gì thì đó là hoạt động của tưởng, khi nhớ về việc gì thì gọi đấy là nhớ tưởng và suy tưởng, khi ta ngủ mơ, giấc mơ gọi là mơ tưởng. Hoạt động của tưởng không liên tục thường xuyên như của ý thức, nhưng cũng phong phú đa dạng, chỉ có điều con người khó nhận biết về nó.

Vì hoạt động tại một điểm cho nên ta có thể bắt gặp những người thân trong quá khứ với những người của hiện tại trong cùng một giấc mơ. Điều đó chứng tỏ hoạt động của tưởng không hạn cuộc bởi không gian và thời gian, năng lực không bị phân tán vì thế có thể tạo ra nhiều điều kỳ diệu.

 Những câu truyện kỳ lạ của các nhà ngoại cảm đều là năng lực do tưởng tạo ra, năng lực này xuất hiện qua hai nguyên nhân.

1- Những người gặp phải những biến cố đặc biệt: Bị điện giật, bị chó dại cắn, bị bệnh sốt thập tử nhất sinh mà không chết v.v… qua các sự cố như vậy đã kích hoạt các tế bào não ở phần tưởng uẩn làm việc tạo ra năng lực của các nhà ngoại cảm như nhà tiên tri người Bungari là bà Vanga, bà gặp phải trận bão tuyết lớn đã quăng quật khiến bà chết lịm, khi tỉnh lại hai tai bà điếc đặc từ đó không nghe rõ tiếng, sau biến cố bà phát hiện khả năng mình biết trước được số phận của nhiều người, từ đó trở thành nhà tiên tri. Chị BH ở Việt Nam bị chó dại cắn lên cơn sốt cao co giật nhưng không chết, sau khi qua khỏi bỗng phát hiện có thể nhìn thấy hình ảnh người đã chết và giao lưu được với họ, từ đó thành nhà ngoại cảm đi tìm mộ các liệt sỹ. Có người sau biến cố có khả năng hút được các đồ vật bằng kim loại vào cơ thể, hoặc làm cho bóng đèn điện phát sáng như câu truyện lạ mà VTV3 đã phát trên truyền hình.

2- Trường hợp những người do tu tập khí công, nhân điện, YOGA, thuật thôi miên và các loại thiền ức chế tâm, họ đã làm cho ý thức của họ ngừng làm việc để tưởng uẩn hoạt động, tạo ra những trò lạ mắt, những trò kỳ đặc, để thu hút và lôi cuốn mọi người. Cả hai trường hợp trên đều là năng lực do tưởng uẩn tạo ra.

 

C- Hoạt động của tâm thức.

Phần tế bào não của tâm thức rất ít khi làm việc. Bằng phương pháp ly dục ly ác pháp để loại trừ vô minh tiềm ẩn trong từng hành vi ở nơi con người, đức Phật và sau Ngài là những vị Thánh đệ tử của Ngài do tu tập đúng như giáo lý và phương pháp mà đức Phật đã chỉ dạy, đã làm được một việc mà ít ai làm được đó là: Làm cho ý thức ngừng làm việc (tịnh chỉ ý), làm cho tim phổi ngừng hoạt động mà không chết. Năng lượng trong cơ thể không bị hao phí vào các hoạt động khác, đã dồn năng lượng vào nuôi dưỡng và kích thích tế bào não thuộc phần tâm thức làm việc, các Ngài đã chứng đạt những khả năng còn kỳ diệu hơn tất cả các nhà ngoại cảm hiện có.

Trong bài kinh SAKULU DAYI (kinh Trung Bộ tập 2), đức Phật đã dạy: “Ta thuyết giảng con đường tu hành cho các đệ tử. Và các đệ tử của ta, y cứ con đường tu hành này, dẫn tâm, hướng tâm đến các thần thông. Vị ấy chứng được các thần thông, một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân hiện ra một thân, hiện hình, biến hình đi ngang qua vách, qua tường, qua núi như đi ngang qua hư không, độn thổ trồi lên ngang qua đất liền như ở trong nước, đi trên nước như đi trên đất liền, ngồi kiết già đi trên hư không như con chim, với tay chạm và rờ mặt trời mặt trăng, những vật có đại oai lực, đại oai thần như vậy…”.

Các ngài còn chứng đạt được những nhận thức siêu việt, đó là trí tuệ tam minh với những năng lực đặc biệt:

- Nhận biết được rõ ràng mọi vật dù ở rất xa, khả năng này gọi là thiên nhãn minh.

- Nhận biết được số phận của mình và của người từ nhiều đời nhiều kiếp, khả năng này gọi là túc mạng minh.

- Nhận biết được bản chất của mọi vấn đề một cách rõ ràng nhất không gì che lấp được, khả năng này gọi là lậu tận minh (nhận biết thế giới rõ thật như nó đang là).

Người nào có được ba khả năng trên là người đã làm chủ được sinh tử luân hồi, giải thoát hoàn toàn khỏi mọi khổ đau trói buộc.

* * *

Quay trở lại đề tài ban đầu, chúng ta thử đi tìm một cách lý giải các hiện tượng ngoại cảm, qua lăng kính của khoa học. Theo quan điểm của các nhà vật lý thì mọi hiện tượng đang xảy ra trong tự nhiên và đang tồn tại trong tự nhiên đều là những dạng biểu hiện khác nhau của năng lượng. Quan điểm này phù hợp với định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng của nhà bác học người Nga là Lô Mô Nô Xốp đã tuyên bố:

“Năng lượng không tự nhiên sinh ra, cũng không tự nhiên mất đi, nó chỉ được biến đổi từ dạng này sang dạng khác.”

Như vậy theo tinh thần trên, năng lượng mới chính là chìa khóa để chúng ta tìm hiểu vấn đề ngoại cảm. Vì con người cũng chỉ là một dạng vật chất của thế giới tự nhiên, nhưng là một dạng vật chất hữu cơ đặc biệt khác với các vật chất khác vừa mang tính vật lý, vừa mang tính hóa học, vừa mang tính sinh học, vừa mang tính xã hội có tổ chức cao, vừa có trí tuệ và tâm hồn. Đúng như KARMAR đã nhận định con người là tổng hòa của các mối quan hệ.

Chính vì tính phong phú đa dạng, mà ở mỗi người có rất nhiều năng lực biểu hiện khác nhau, phù hợp với những khả năng khác nhau của cơ thể, mà bộ não lại là một dạng vật chất có tổ chức đặc biệt và tinh vi nhất. Nó có khả năng thu nhận và xử lý thông tin từ thế giới bên ngoài tác động tới, đồng thời nó cũng có khả năng truyền các lượng thông tin ra thế giới tự nhiên bằng lời nói, hàng động và tư tưởng. Vì vậy có thể nhận xét: Sự tồn tại của con người chính là sự tồn tại của quá trình thu nạp năng lượng để rồi vận hành năng lượng mang tính biến đổi từ dạng này sang dạng khác. Từ nhận xét này cho chúng ta sự suy nghĩ: Khi chúng ta từ bỏ cõi đời này chỉ là từ bỏ một hình hài cụ thể do năng lượng đã tạo ra, còn năng lượng đã tạo ra con người sẽ được trả về cho năng lượng ở những dạng khác nhau. Điều này đúng như giáo lý nhà Phật đã dạy nghiệp trả về với nghiệp, còn tứ đại lại trả về cho tứ đại.

Dưới ánh sáng của định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng soi tỏ, chúng ta đi tìm cách lý giải các hiện tượng ngoại cảm. Như ở phần trên đã biết về cơ chế hoạt động của tưởng uẩn chỉ hoạt động tại một điểm (phi không gian, thời gian) nên khả năng giao cảm với quá khứ vị lai. Không bị chia xẻ phân tán, nên năng lực của nó mạnh mẽ tạo ra nhiều điều kỳ lạ. Tất cả chỉ có thể được hiểu rằng từ dạng năng lượng sinh học ở nơi cơ thể con người, đã được cơ thể biến đổi thành một dạng năng lượng mang tính vật lý, hóa học… ở trong tự nhiên cũng có những cá thể sinh học biến đổi được như vậy.

Con dơi mắt nhìn rất kém khi bay trong bóng tối nhưng nó có khả năng phát ra một luồng sóng siêu âm về phía trước, gặp vật cản luồng sóng đó phản hồi trở lại giúp con dơi định được hướng bay và bắt mồi dễ dàng. Ở một vùng biển, có một loại cá có khả năng phóng ra một dòng điện có điện thế cao làm tê liệt con mồi và cũng để tự bảo vệ. Chúng ta còn gặp trong tự nhiên nhiều cá thể sinh học khác, cũng có thể biến đổi năng lượng sinh học để mang tính hóa học, vật lý… giúp chúng thích nghi với sự tồn tại của chúng trong tự nhiên.

Cuối thế kỷ thứ 20 đầu thế kỷ thứ 21 nhờ sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, internet đã trở thành hệ thống thông tin có tính toàn cầu, hàng ngày cư dân mạng đã gửi và nhận một số lượng thông tin vô cùng lớn qua hệ thống internet. Gần đây các nhà khoa học đã phát hiện ra những đám mây điện tử tích tụ trong không gian có khả năng lưu giữ được các thông tin mà không bị virus máy tính phá hoại như khi còn lưu giữ tại máy chủ, khi cần có thể lấy lại các thông tin này từ các đám mây trên.

Sự kiện trên cho chúng ta một hướng để lý giải về hiện tượng đi tìm mộ liệt sĩ của các nhà ngoại cảm. Khi gửi một thông tin trên máy tính chúng ta đã tham gia biến đổi một năng lượng từ dạng này qua dạng khác. Khi thông tin đã gửi xong năng lượng đó không mất, mà đã được tích tụ thành đám mây điện tử như trên đã đề cập. Cũng vậy hàng ngày chúng ta đã tiêu tốn năng lượng để biến nó thành nhiều hoạt động ở nơi con người, chúng không mất đi mà biến thành một dạng khác tạm gọi nó là những đám mây từ trường nghiệp. Chúng lưu giữ những hành động đã qua của con người.

Với những người mà năng lực tưởng uẩn làm việc như các nhà ngoại cảm, họ có thể tiếp nhận các thông tin này. Khi xưa đức Thích Ca chứng đạo, Ngài có thể biết được quá khứ của Ngài và nhiều người khác từ nhiều đời nhiều kiếp, các nhà ngoại cảm chỉ biết được số phận của liệt sĩ trong quá trình đi tìm mộ mà thôi. Gần đây có một số người sau một thời gian hoạt động tưởng uẩn làm việc kém đi hiệu quả không còn chính xác như trước. Vì sao có sự khác nhau như vậy?

Bởi đức Phật và các vị thánh đệ tử của Ngài có khả năng điều kiển được não Thức uẩn làm việc, còn các nhà ngoại cảm thì bị phụ thuộc vào não Tưởng uẩn của họ có làm việc, khả năng ngoại cảm mới có. (Sự khai mở não Thức Uẩn làm việc chỉ có thể có được khi hành giả nhập Tứ Thiền. Còn Tưởng Uẩn của các nhà bị tai biến – các tai biến như đã nêu ở trên hoặc tai biến do tu tập không đúng pháp – khiến Ý thức ngưng làm việc thì Tưởng thức hoạt động).

Như vậy định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng góp phần chứng minh cho giáo lý nhà Phật khi tuyên bố: Không có thế giới siêu hình, năng lực của các nhà ngoại cảm chỉ là năng lực do tưởng uẩn phát sinh.

Bức màn bí mật của các hiện tượng ngoại cảm một khi chưa được vén lên nó sẽ làm cho loài người phải điêu đứng khốn khổ vì tin rằng sau khi chết linh hồn con người sẽ về các cõi thiên đường hoặc địa ngục để làm thần tiên hoặc ma quỷ… Niềm tin mê tín ấy đã ám ảnh loài người từ quá khứ, trong hiện tại, đến tương lai. Hiện đang trong thời đại khoa học kỹ thuật phát triển mạnh mẽ vậy mà năng lực của bộ não con người hoạt động dưới hình thức của tưởng uẩn cũng ít người biết đến. Nhiều người vẫn tin vào thế giới siêu hình là có thật, để phải tốn tiền, tốn của vô ích vào các chuyện mê tín nhảm nhí như: xin xăm, bói quẻ, cầu an, cầu siêu, lên đồng, nhập cốt…

Đến nay có thể khẳng định thế giới siêu hình không có, mọi hiện tượng xảy ra trong tự nhiên và đang tồn tại trong tự nhiên đều là những dạng biểu hiện khác nhau của năng lượng. Với những hiện tượng kỳ lạ xảy ra ở nơi này, nơi kia trong đời sống của loài người chỉ là những dạng biến đổi khác nhau của năng lượng sinh học. Và tưởng uẩn của bộ não là nơi nhận các thông tin từ thế giới tự nhiên, để rồi phóng xuất những năng lực của tưởng ra thế giới bên ngoài. Hiện tượng ngoại cảm không còn là hiện tượng bí ẩn, hiểu rõ được nó sẽ mang lại lợi ích cho con người, bằng không sẽ gây ra tai họa cho con người.

Khi viết bài này tôi xin trân thành cảm ơn Trưởng Lão Thích Thông Lạc đã viết một loạt đầu sách giải thích về hoạt động của tưởng uẩn, cảm ơn nhà xuất bản Tôn Giáo đã cho in ấn và phát hành sách đến tay người đọc, cảm ơn các nhà khoa học đã giúp ta những hiểu biết khoa học để ta làm căn cứ tìm hiểu làm sáng tỏ bản chất của các hiện tượng ngoại cảm đã từng xảy ra trong đời sống xã hội của loài người.

                                                                                                        Minh Đạo