VIII. PHẨM DÂN LÀNG PĀṬALI - THỨ TÁM

8. 1. KINH NIẾT BÀN - THỨ NHẤT

 

1. Tôi đã nghe như vầy: Một thời đức Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, đức Thế Tôn chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho các vị tỳ khưu bằng bài Pháp thoại liên quan đến Niết Bàn. Và các vị tỳ khưu ấy đã xác định mục đích, đã chú tâm, và tập trung tất cả tâm tư lắng tai nghe Pháp.

 

2. Sau đó, khi hiểu ra sự việc này, đức Thế Tôn vào thời điểm ấy đã thốt lên lời cảm hứng này:

 

Này các tỳ khưu, có xứ ấy,[7] là nơi không có yếu tố đất, không có nước, không có lửa, không có gió, không có Không vô biên xứ, không có Thức vô biên xứ, không có Vô sở hữu xứ, không có Phi tưởng phi phi tưởng xứ, không có đời này, không có đời sau, không có cả hai mặt trăng và mặt trời. Này các tỳ khưu, thậm chí ở nơi ấy Ta nói rằng không có đi đến, không có ra đi, không có trụ lại, không có tử, không có sanh, nơi này không có thành lập, không có vận hành, không có đối tượng (của sáu căn). Chính nơi này là sự chấm dứt của khổ.”

 

 

8. 2. KINH NIẾT BÀN - THỨ NHÌ

 

1. Tôi đã nghe như vầy: Một thời đức Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, đức Thế Tôn chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho các vị tỳ khưu bằng bài Pháp thoại liên quan đến Niết Bàn. Và các vị tỳ khưu ấy đã xác định mục đích, đã chú tâm, và tập trung tất cả tâm tư lắng tai nghe Pháp.

 

2. Sau đó, khi hiểu ra sự việc này, đức Thế Tôn vào thời điểm ấy đã thốt lên lời cảm hứng này:

 

Khó thấy cái được gọi là không bị thiên lệch, bởi vì sự thật không phải là điều dễ thấy. Tham ái được thấu triệt đối với người biết, không có cái gì đối với người thấy.”

 

 

8. 3. KINH NIẾT BÀN - THỨ BA

 

1. Tôi đã nghe như vầy: Một thời đức Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, đức Thế Tôn chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho các vị tỳ khưu bằng bài Pháp thoại liên quan đến Niết Bàn. Và các vị tỳ khưu ấy đã xác định mục đích, đã chú tâm, và tập trung tất cả tâm tư lắng tai nghe Pháp.

 

2. Sau đó, khi hiểu ra sự việc này, đức Thế Tôn vào thời điểm ấy đã thốt lên lời cảm hứng này:

 

Này các tỳ khưu, có cái không sanh—không hiện hữu—không làm ra—không tạo tác. Này các tỳ khưu, nếu không có cái không sanh—không hiện hữu—không làm ra—không tạo tác ấy thì ở đây việc ra khỏi cái sanh—hiện hữu—làm ra—tạo tác không được biết đến. Này các tỳ khưu, bởi vì có cái không sanh—không hiện hữu—không làm ra—không tạo tác, cho nên việc ra khỏi cái sanh—hiện hữu—làm ra—tạo tác được biết đến.”

  

 

8. 4. KINH NIẾT BÀN - THỨ TƯ

 

1. Tôi đã nghe như vầy: Một thời đức Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, đức Thế Tôn chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho các vị tỳ khưu bằng bài Pháp thoại liên quan đến Niết Bàn. Và các vị tỳ khưu ấy đã xác định mục đích, đã chú tâm, và tập trung tất cả tâm tư lắng tai nghe Pháp.

 

2. Sau đó, khi hiểu ra sự việc này, đức Thế Tôn vào thời điểm ấy đã thốt lên lời cảm hứng này:
 

 “Đối với người nương tựa thì có dao động, đối với người không nương tựa thì không có dao động, khi không có dao dộng thì có an tịnh, khi có an tịnh thì không có thiên lệch, khi không có thiên lệch thì không có đến và đi, khi không có đến và đi thì không có tử và sanh, khi không có tử và sanh thì không có đời này, không có đời sau, không ở khoảng giữa của cả hai. Chính điều này là sự chấm dứt của khổ.”

 

 

8. 5. KINH CUNDA

 

1. Tôi đã nghe như vầy: Một thời đức Thế Tôn, trong khi đi du hành ở xứ sở của những người Mallā cùng với đại chúng tỳ khưu, đã ngự đến thành Pāvā. Tại đó, nơi thành Pāvā, đức Thế Tôn ngụ ở vườn xoài của Cunda, con trai người thợ rèn.

 

2. Cunda, con trai người thợ rèn, đã nghe rằng: “Nghe nói đức Thế Tôn trong khi đi du hành ở xứ sở của những người Mallā cùng với đại chúng tỳ khưu, đã đi đến thành Pāvā. Ở thành Pāvā, Ngài ngụ ở vườn xoài của ta.” Sau đó, Cunda, con trai người thợ rèn, đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi Cunda, con trai người thợ rèn, đã ngồi xuống ở một bên, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho người ấy bằng bài Pháp thoại.

 

3. Sau đó, khi đã được đức Thế Tôn chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại, Cunda, con trai người thợ rèn, đã nói với đức Thế Tôn điều này: “Bạch Ngài, xin đức Thế Tôn cùng với hội chúng tỳ khưu nhận lời bữa trai phạn của con vào ngày mai.” Đức Thế Tôn đã nhận lời bằng thái độ im lặng. Khi ấy, Cunda, con trai người thợ rèn, hiểu được sự nhận lời của đức Thế Tôn nên đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi.

 

4. Sau đó, khi trải qua đêm ấy, Cunda, con trai người thợ rèn, đã cho chuẩn bị vật thực cứng mềm hảo hạng và dồi dào món thịt heo hầm tại tư gia, rồi cho thông báo thời giờ đến đức Thế Tôn: “Bạch Ngài, đã đến giờ, thức ăn đã chuẩn bị xong.” Khi ấy, vào buổi sáng, đức Thế Tôn đã quấn y (nội), rồi cầm bình bát và y cùng với hội chúng tỳ khưu đi đến tư gia của Cunda, con trai người thợ rèn, sau khi đến đã ngồi xuống ở chỗ ngồi đã được sắp đặt. Sau khi đã ngồi xuống, đức Thế Tôn đã bảo Cunda, con trai người thợ rèn, rằng: “Này Cunda, món thịt heo hầm nào đã được ngươi chuẩn bị thì hãy dọn cho Ta món ấy. Còn các vật thực cứng mềm nào khác đã được chuẩn bị thì hãy dọn cho hội chúng tỳ khưu món ấy.”
 

5. “Bạch Ngài, xin vâng.” Cunda, con trai người thợ rèn, nghe theo đức Thế Tôn và món thịt heo hầm nào đã được chuẩn bị thì đã dọn cho đức Thế Tôn món ấy. Còn vật thực cứng mềm nào khác đã được chuẩn bị thì đã dọn cho hội chúng tỳ khưu món ấy.

 

6. Sau đó, đức Thế Tôn đã bảo với Cunda, con trai người thợ rèn, rằng: “Này Cunda, phần thịt heo hầm của ngươi còn thừa lại, hãy chôn nó xuống ở hố. Này Cunda, Ta không nhìn thấy người nào ở thế gian, tính luôn cõi chư Thiên, cõi Ma Vương, cõi Phạm Thiên, cho đến dòng dõi Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài người, mà món ăn ấy khi đã được người ấy ăn vào có thể đi đến sự tiêu hóa tốt đẹp, ngoại trừ đức Như Lai.” “Bạch Ngài, xin vâng.” Cunda, con trai người thợ rèn, nghe theo đức Thế Tôn đã chôn phần thịt heo hầm còn thừa lại xuống ở hố, rồi đã đi đến gặp đức Thế tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi Cunda, con trai người thợ rèn, đã ngồi xuống ở một bên, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho người ấy bằng bài Pháp thoại, rồi đã từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.

 

7. Sau đó, khi đức Thế Tôn đã ăn xong bữa ăn của Cunda, con trai người thợ rèn, có cơn bệnh dữ dội đã phát khởi đến Ngài, với triệu chứng tiêu chảy ra máu và các cảm thọ khốc liệt kề cận cái chết. Tại đó, đức Thế Tôn đã chịu đựng, có niệm, có sự nhận biết rõ, không sầu khổ.

 

8. Khi ấy, đức Thế Tôn đã bảo đại đức Ānanda rằng: “Này Ānanda, chúng ta hãy đến, chúng ta sẽ đi đến Kusinārā.” “Bạch Ngài, xin vâng,” đại đức Ānanda đã đáp lời đức Thế Tôn.

 

Tôi đã nghe rằng: Sau khi thọ thực bữa ăn của người thợ rèn Cunda,

bậc Sáng Trí đã tiếp cận cơn bệnh khốc liệt, kề cận cái chết.

 

Và khi đã ăn vào món thịt heo hầm,

cơn bệnh khốc liệt đã phát khởi đến bậc Đạo Sư.

 

Trong khi được xổ, đức Thế Tôn đã nói rằng:

‘Chúng ta hãy đi đến thành Kusinārā.’”

 

9. Khi ấy, đức Thế Tôn đã rời con đường lộ rồi đi đến gần gốc cây nọ, sau khi đến đã bảo đại đức Ānanda rằng: “Này Ānanda, vậy ngươi hãy xếp đặt y hai lớp được gấp tư lại. Này Ānanda, Ta đang mệt, Ta sẽ ngồi xuống.” “Bạch Ngài, xin vâng.” Đại đức Ānanda nghe theo đức Thế Tôn đã xếp đặt y hai lớp được gấp tư lại. Đức Thế Tôn đã ngồi xuống ở chỗ ngồi đã được sắp đặt sẵn. Sau khi ngồi xuống, đức Thế Tôn đã bảo đại đức Ānanda rằng: “Này Ānanda, vậy ngươi hãy mang nước lại. Này Ānanda, Ta bị khát, Ta sẽ uống nước.” Khi được nói như vậy, đại đức Ānanda đã nói với đức Thế Tôn điều này: “Bạch Ngài, giờ đây các cỗ xe hàng số lượng năm trăm vừa đi qua. Nước ấy, bị bánh xe chạy qua, trở nên ít ỏi, bị quậy lên, bị vẩn đục, trôi chảy. Bạch Ngài, con sông Kukutthā ở nơi không xa, có nước trong, có nước lành, có nước mát, có nước sạch, có bến nước xinh xắn. Ở nơi này, đức Thế Tôn sẽ uống nước và sẽ làm mát mẻ cơ thể.” Đến lần thứ nhì, đức Thế Tôn đã bảo đại đức Ānanda rằng: “Này Ānanda, vậy ngươi hãy mang nước lại. Này Ānanda, Ta bị khát, Ta sẽ uống nước.” Đến lần thứ nhì, —như trên— sẽ làm mát mẻ cơ thể.” Đến lần thứ ba, đức Thế Tôn đã bảo đại đức Ānanda rằng: “Này Ānanda, vậy ngươi hãy mang nước lại. Này Ānanda, Ta bị khát, Ta sẽ uống nước.” “Bạch Ngài, xin vâng.” Đại đức Ānanda nghe theo đức Thế Tôn đã cầm lấy cái bình bát đi đến gần con sông ấy.

 

10. Khi ấy, con sông ấy, bị bánh xe chạy qua, trở nên ít ỏi, bị quậy lên, bị vẩn đục, đang trôi chảy, trong khi đại đức Ānanda đang đi đến gần, thì trở nên trong sạch, không bị vẩn đục, tinh khiết, trôi chảy. Khi ấy, đại đức Ānanda đã khởi ý điều này: “Thật là kỳ diệu! Thật là phi thường! Đức Như Lai có đại thần lực, có đại oai lực! Bởi vì con sông này đây, bị bánh xe chạy qua, trở nên ít ỏi, bị quậy lên, bị vẩn đục, đang trôi chảy, trong khi ta đang đi đến gần, thì trở nên trong sạch, không bị vẩn đục, tinh khiết, trôi chảy.” Sau khi lấy nước uống bằng cái bình bát, đại đức Ānanda đã đi gặp đến đức Thế Tôn, sau khi đến đã nói với đức Thế Tôn điều này: “Bạch Ngài, thật là kỳ diệu! Bạch Ngài, thật là phi thường! Đức Như Lai có đại thần lực, có đại oai lực! Bạch Ngài, bởi vì con sông này đây, bị bánh xe chạy qua, trở nên ít ỏi, bị quậy lên, bị vẩn đục, đang trôi chảy, trong khi con đang đi đến gần, thì trở nên trong sạch, không bị vẩn đục, tinh khiết, trôi chảy. Xin đức Thế Tôn hãy uống nước, xin đấng Thiện Thệ hãy uống nước.” Khi ấy, đức Thế Tôn đã uống nước.

 

11. Sau đó, đức Thế Tôn cùng với đại chúng tỳ khưu đã đi đến sông Kukutthā, sau khi đến đã đi xuống sông Kukutthā, tắm, và đi trở lên rồi đi đến vườn xoài, sau khi đến đã bảo đại đức Cundaka rằng: “Này Cundaka, vậy ngươi hãy xếp đặt y hai lớp được gấp tư lại. Này Ānanda, Ta đang mệt, Ta sẽ nằm xuống.” “Bạch Ngài, xin vâng.” Đại đức Cundaka nghe theo đức Thế Tôn đã xếp đặt y hai lớp được gấp tư lại. Sau đó, đức Thế Tôn đã nằm thế nằm của loài sư tử bằng hông bên phải, đặt bàn chân này lên bàn chân kia, có niệm, có sự nhận biết rõ, sau khi đã tác ý đến tư tưởng về việc đứng dậy, còn đại đức Cundaka đã ngồi xuống ngay tại chỗ ấy, phía trước đức Thế Tôn.

 

Đức Phật sau khi đi đến con sông Kukutthā,

có nước trong sạch, có nước lành, có nước tinh khiết,

bậc Đạo Sư, với dáng vẻ vô cùng mệt nhọc, đã lội xuống,

đức Như Lai, không người sánh bằng, ở thế gian này.

 

Bậc Đạo Sư, sau khi tắm và uống nước, đã đi lên,

được tôn vinh, ở giữa một nhóm tỳ khưu,

bậc Đạo Sư, đức Thế Tôn, người chuyển vận Giáo Pháp ở nơi này,

vị ẩn sĩ vĩ đại đã đi đến vườn xoài.

 

Ngài đã bảo vị tỳ khưu tên Cundaka rằng:

‘Hãy trải ra (y hai lớp) được gấp tư lại làm chỗ nằm cho Ta,

được nhắc nhở bởi bậc có bản thân đã được tu tập, vị Cunda ấy

 ngay lập tức đã trải ra (y hai lớp) được gấp tư lại.

 

Bậc Đạo Sư, với dáng vẻ vô cùng mệt nhọc, đã nằm xuống,

vị Cunda cũng đã ngồi tại nơi ấy, ở phía trước mặt.”

 

12. Sau đó, đức Thế Tôn đã bảo đại đức Ānanda rằng: “Này Ānanda, hơn nữa nếu người nào khơi dậy sự ân hận cho Cunda, con trai người thợ rèn, rằng: ‘Này đạo hữu Cunda, thật là điều không lợi ích đã có cho ngươi đây! Này đạo hữu Cunda, thật là điều đạt được xấu xa đã có cho ngươi đây! Bởi vì đức Thế Tôn sau khi thọ thực món thí thực cuối cùng của ngươi đây đã viên tịch Niết Bàn.’ Này Ānanda, nỗi ân hận như thế của Cunda, con trai người thợ rèn, cần được xua tan rằng: ‘‘Này đạo hữu Cunda, thật là điều lợi ích đã có cho ngươi đây! Này đạo hữu Cunda, thật là điều đạt được tốt đẹp đã có cho ngươi đây! Bởi vì đức Thế Tôn sau khi thọ thực món thí thực cuối cùng của ngươi đây đã viên tịch Niết Bàn. Này đạo hữu Cunda, điều này đã được tôi trực tiếp nghe, trực tiếp thọ nhận từ đức Thế Tôn rằng: ‘Hai phần thí thực này có quả báu như nhau, có quả thành tựu như nhau, có quả báu lớn hơn và phước báu lớn hơn rất nhiều so với các món thí thực khác. Hai phần thí thực nào? Phần thí thực mà sau khi thọ dụng đức Như Lai giác ngộ phẩm vị Chánh Đẳng Giác tối thượng, và phần thí thực sau khi thọ dụng đức Như Lai viên tịch Niết Bàn ở cảnh giới Niết Bàn không còn dư sót. Hai phần thí thực này có quả báu như nhau, có quả thành tựu như nhau, có quả báu lớn hơn và phước báu lớn hơn rất nhiều so với các món thí thực khác. Nghiệp đưa đến tuổi thọ đã được vị đáng kính Cunda tích lũy. Nghiệp đưa đến sắc đẹp đã được vị đáng kính Cunda tích lũy. Nghiệp đưa đến hạnh phúc đã được vị đáng kính Cunda tích lũy. Nghiệp đưa đến danh tiếng đã được vị đáng kính Cunda tích lũy. Nghiệp đưa đến cõi Trời đã được vị đáng kính Cunda tích lũy. Nghiệp đưa đến uy quyền đã được vị đáng kính Cunda tích lũy.’ Này Ānanda, nỗi ân hận như thế của Cunda, con trai người thợ rèn, cần được xua tan.”

 

2. Sau đó, khi hiểu ra sự việc này, đức Thế Tôn vào thời điểm ấy đã thốt lên lời cảm hứng này:
 

 “Phước thiện tăng trưởng cho người bố thí, sự thù oán không được tích lũy đối với người đang tự chế ngự, và người hiền thiện từ bỏ điều ác, do sự diệt tận luyến ái, sân hận, và si mê, vị ấy được tịch diệt.”

 

 

8. 6. KINH DÂN LÀNG PĀṬALI

 

1. Tôi đã nghe như vầy: Một thời đức Thế Tôn, trong khi đi du hành ở xứ sở của những người Magadha cùng với đại chúng tỳ khưu, đã ngự đến ngôi làng Pāṭali. Các cư sĩ người làng Pāṭali đã nghe rằng: “Nghe nói đức Thế Tôn trong khi đi du hành ở xứ sở của những người Magadha cùng với đại chúng tỳ khưu, đã đi đến ngôi làng Pāṭali.” Sau đó, các cư sĩ người làng Pāṭali đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống ở một bên, các cư sĩ người làng Pāṭali đã nói với đức Thế Tôn điều này: “Bạch Ngài, xin đức Thế Tôn nhận lời về ngôi nhà nghỉ trọ.” Đức Thế Tôn đã nhận lời bằng thái độ im lặng.[8]

 

2. Khi ấy, các cư sĩ người làng Pāṭali hiểu được sự nhận lời của đức Thế Tôn nên đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi đi đến ngôi nhà nghỉ trọ, sau khi đến đã trải thảm toàn bộ nhà nghỉ trọ với thảm trải, cho sắp đặt các chỗ ngồi, cho bố trí lu nước, cho treo lên cây đèn dầu, rồi đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi đứng ở một bên. Khi đã đứng ở một bên, các cư sĩ người làng Pāṭali đã nói với đức Thế Tôn điều này: “Bạch Ngài, nhà nghỉ trọ đã trải thảm toàn bộ với thảm trải, các chỗ ngồi đã được cho sắp đặt, lu nước đã được cho bố trí, cây đèn dầu đã được treo lên. Bạch Ngài, xin đức Thế Tôn hãy biết giờ này là thời điểm của việc nào.”

 

3. Sau đó, đức Thế Tôn đã quấn y (nội), rồi cầm lấy bình bát và y cùng với đại chúng tỳ khưu đi đến nhà nghỉ trọ, sau khi đến đã rửa sạch hai bàn chân rồi đi vào nhà nghỉ trọ và ngồi xuống chỗ cột nhà ở chính giữa, mặt nhìn về hướng đông. Hội chúng tỳ khưu cũng đã rửa sạch các bàn chân, rồi đi vào nhà nghỉ trọ và ngồi xuống chỗ bức tường ở phía tây, mặt nhìn về hướng đông, và có đức Thế Tôn trong tầm nhìn. Các cư sĩ người làng Pāṭali cũng đã rửa sạch các bàn chân, rồi đi vào nhà nghỉ trọ và ngồi xuống chỗ bức tường ở phía đông, mặt nhìn về hướng tây, và có đức Thế Tôn trong tầm nhìn.

 

4. Khi ấy, đức Thế Tôn đã bảo các cư sĩ người làng Pāṭali rằng: “Này các cư sĩ, đây là năm điều tai hại của kẻ không giữ giới có sự hư hỏng về giới. Năm điều nào?

 

Này các cư sĩ, ở đây kẻ không giữ giới có sự hư hỏng về giới gánh chịu sự mất mát lớn về tài sản do nguyên nhân xao lãng. Đây là điều tai hại thứ nhất của kẻ không giữ giới có sự hư hỏng về giới.

 

Này các cư sĩ, còn có điều khác nữa là tiếng đồn xấu xa của kẻ không giữ giới có sự hư hỏng về giới lan rộng. Đây là điều tai hại thứ nhì của kẻ không giữ giới có sự hư hỏng về giới.
 

 Này các cư sĩ, còn có điều khác nữa là kẻ không giữ giới có sự hư hỏng về giới đi vào tập thể nào khác dầu là tập thể những người Sát-đế-lỵ, dầu là tập thể những người Bà-la-môn, dầu là tập thể các gia chủ, dầu là tập thể các Sa-môn, kẻ ấy đi vào thiếu sự tự chủ và trở nên bối rối. Đây là điều tai hại thứ ba của kẻ không giữ giới có sự hư hỏng về giới.

 

Này các cư sĩ, còn có điều khác nữa là kẻ không giữ giới có sự hư hỏng về giới bị mê muội khi từ trần. Đây là điều tai hại thứ tư của kẻ không giữ giới có sự hư hỏng về giới.

 

Này các cư sĩ, còn có điều khác nữa là kẻ không giữ giới có sự hư hỏng về giới khi thân này bị tan rã, sau khi chết đi sẽ tái sanh vào đọa xứ, cõi khổ, nơi trừng phạt, địa ngục. Đây là điều tai hại thứ năm của kẻ không giữ giới có sự hư hỏng về giới.

 

Này các cư sĩ, đây là năm điều tai hại của kẻ không giữ giới có sự hư hỏng về giới.

 

5. Này các cư sĩ, đây là năm điều lợi ích của người giữ giới có sự thành tựu về giới. Năm điều nào?

 

Này các cư sĩ, người giữ giới có sự thành tựu về giới thành tựu khối lượng tài sản lớn do nguyên nhân không xao lãng. Đây là điều lợi ích thứ nhất của người giữ giới có sự thành tựu về giới.

 

Này các cư sĩ, còn có điều khác nữa là tiếng đồn tốt đẹp của người giữ giới có sự thành tựu về giới lan rộng. Đây là điều lợi ích thứ nhì của người giữ giới có sự thành tựu về giới.

 

Này các cư sĩ, còn có điều khác nữa là người giữ giới có sự thành tựu về giới đi vào tập thể nào khác dầu là tập thể những người Sát-đế-lỵ, dầu là tập thể những người Bà-la-môn, dầu là tập thể các gia chủ, dầu là tập thể các Sa-môn, người ấy đi vào có sự tự chủ và không có bối rối. Đây là điều lợi ích thứ ba của người giữ giới có sự thành tựu về giới.

 

Này các cư sĩ, còn có điều khác nữa là người giữ giới có sự thành tựu về giới không bị mê muội khi từ trần. Đây là điều lợi ích thứ tư của người giữ giới có sự thành tựu về giới.

 

Này các cư sĩ, còn có điều khác nữa là người giữ giới có sự thành tựu về giới khi thân này bị tan rã, sau khi chết đi sẽ tái sanh vào chốn an vui, cõi Trời, cõi người. Đây là điều lợi ích thứ năm của người giữ giới có sự thành tựu về giới.

 

Này các cư sĩ, đây là năm điều lợi ích của người giữ giới có sự thành tựu về giới.”

 

6. Sau đó, khi đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho các cư sĩ người làng Pāṭali bằng bài Pháp thoại đến tận đêm khuya, đức Thế Tôn đã giải tán (bảo rằng): “Này các cư sĩ, đêm đã khuya. Các ngươi hãy biết giờ này là thời điểm của việc nào” Khi ấy, các cư sĩ người làng Pāṭali đã thích thú, đã tùy hỷ lời dạy của đức Thế Tôn, rồi đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, và ra đi.

 

Sau đó, khi các cư sĩ người làng Pāṭali ra đi không lâu, đức Thế Tôn đã đi vào ngôi nhà trống vắng.
 

7. Vào lúc bấy giờ, Sunīdha và Vassakāra, hai vị quan đại thần xứ Magadha, cho xây thành ở làng Pāṭali để ngăn cản các người Vajji. Vào lúc bấy giờ, nhiều vị Trời đến hàng ngàn vị chiếm giữ các khu vực ở làng Pāṭali. Các vị Trời có oai lực lớn chiếm giữ khu vực nào thì các vị sai khiến tâm của các vị vua và của các quan đại thần của vua có oai lực lớn ở nơi đó cho xây các dinh thự. Các vị Trời có oai lực trung bình chiếm giữ khu vực nào thì các vị sai khiến tâm của các vị vua và của các quan đại thần của vua có oai lực trung bình ở nơi đó cho xây các dinh thự. Các vị Trời có oai lực kém chiếm giữ khu vực nào thì các vị sai khiến tâm của các vị vua và của các quan đại thần của vua có oai lực kém ở nơi đó cho xây các dinh thự. Và đức Thế Tôn bằng Thiên nhãn thanh tịnh vượt xa loài người đã nhìn thấy các vị Trời ấy đến hàng ngàn vị đang chiếm giữ các khu vực ở làng Pāṭali. Các vị Trời có oai lực lớn chiếm giữ khu vực nào thì các vị sai khiến tâm của các vị vua và của các quan đại thần của vua có oai lực lớn ở nơi đó cho xây các dinh thự. Các vị Trời có oai lực trung bình chiếm giữ khu vực nào thì các vị sai khiến tâm của các vị vua và của các quan đại thần của vua có oai lực trung bình ở nơi đó cho xây các dinh thự. Các vị Trời có oai lực kém chiếm giữ khu vực nào thì các vị sai khiến tâm của các vị vua và của các quan đại thần của vua có oai lực kém ở nơi đó cho xây các dinh thự.”

 

8. Khi ấy, đức Thế Tôn sau khi thức dậy vào lúc hừng sáng của đêm ấy đã bảo đại đức Ānanda rằng: “Này Ānanda, ai là người cho xây thành ở làng Pāṭali vậy?”

 

“Bạch Ngài, Sunīdha và Vassakāra, hai vị quan đại thần xứ Magadha, cho xây thành ở làng Pāṭali để ngăn cản các người Vajji.”

 

“Này Ānanda, cũng giống như là đã thỉnh ý với chư Thiên ở cõi Trời Ba Mươi Ba, này Ānanda, tương tự y như thế Sunīdha và Vassakāra, hai vị quan đại thần xứ Magadha, đã cho xây thành ở làng Pāṭali để ngăn cản các người Vajji.

 

9. Này Ānanda, ở đây sau khi thức dậy trong đêm vào lúc hừng sáng, bằng Thiên nhãn thanh tịnh vượt trên loài người Ta đã nhìn thấy nhiều vị Trời đang chiếm giữ các khu vực ở trong làng Pāṭali. Các vị Trời có oai lực lớn chiếm giữ khu vực nào thì các vị sai khiến tâm của các vị vua và của các quan đại thần của vua có oai lực lớn ở nơi đó cho xây các dinh thự. Các vị Trời có oai lực trung bình chiếm giữ khu vực nào thì các vị sai khiến tâm của các vị vua và của các quan đại thần của vua có oai lực trung bình ở nơi đó cho xây các dinh thự. Các vị Trời có oai lực kém chiếm giữ khu vực nào thì các vị sai khiến tâm của các vị vua và của các quan đại thần của vua có oai lực kém ở nơi đó cho xây các dinh thự.

 

10. Này Ānanda, cho đến tận lãnh thổ của những người Ariyan và đến tận con đường của những nhà thương buôn, nơi này sẽ trở thành thành phố hàng đầu Pāṭaliputta, nơi trao đổi các loại hàng hóa. Này Ānanda, thành Pāṭaliputta sẽ xảy ra ba tai họa hoặc do lửa, hoặc do nước, hoặc do sự chia rẽ mối liên kết.”
 

11. Sau đó, Sunīdha và Vassakāra, hai vị quan đại thần xứ Magadha, đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã tỏ vẻ thân thiện với đức Thế Tôn, sau khi trao đổi lời xã giao thân thiện rồi đã đứng ở một bên. Khi đã đứng ở một bên, Sunīdha và Vassakāra, hai vị quan đại thần xứ Magadha, đã nói với đức Thế Tôn điều này: - “Xin Ngài Gotama hãy nhận lời chúng tôi về bữa trai phạn vào ngày mai cùng với hội chúng tỳ khưu.” Đức Thế Tôn đã nhận lời bằng thái độ im lặng.

 

12. Khi ấy, Sunīdha và Vassakāra, hai vị quan đại thần xứ Magadha, sau khi hiểu được sự nhận lời của đức Thế Tôn, đã đi đến chỗ trú ngụ của mình, sau khi đến đã cho chuẩn bị sẵn sàng thức ăn hảo hạng loại cứng loại mềm tại chỗ trú ngụ của mình, rồi đã cho người thông báo thời giờ đến đức Thế Tôn rằng: “Bạch Ngài Gotama, đã đến giờ, thức ăn đã chuẩn bị xong.” Khi ấy vào buổi sáng, đức Thế Tôn đã quấn y (nội), rồi cầm lấy bình bát và y cùng với hội chúng tỳ khưu đi đến chỗ trú ngụ của Sunīdha và Vassakāra, hai vị quan đại thần xứ Magadha, sau khi đến đã ngồi xuống ở chỗ ngồi đã được sắp đặt. Khi ấy, Sunīdha và Vassakāra, hai vị quan đại thần xứ Magadha, đã tự tay làm hài lòng và toại ý hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu với thức ăn hảo hạng loại cứng loại mềm.

 

13. Sau đó, khi đức Thế Tôn đã thọ thực xong có bàn tay đã rời khỏi bình bát, Sunīdha và Vassakāra, hai vị quan đại thần đã cầm lấy chiếc ghế thấp khác, rồi đã ngồi xuống ở một bên. Khi Sunīdha và Vassakāra, hai vị quan đại thần xứ Magadha, đã ngồi xuống ở một bên, Đức Thế Tôn đã nói lời tùy hỷ đến họ bằng những lời kệ này:

 

Ở tại khu vực nào, chỗ trú ngụ được sắp đặt cho các bậc có bản chất sáng suốt, tại nơi ấy nên dâng thức ăn đến các vị có giới, đã tự chế ngự, có Phạm hạnh.

 

Nên tỏ sự kính trọng đến chư Thiên đã ngụ ở nơi ấy. Chư Thiên ấy, được cúng dường, sẽ cúng dường người ấy, được tôn kính, sẽ tôn kính người ấy.

 

Do đó, chư Thiên thương mến người ấy, như người mẹ thương xót đứa con trai ruột thịt. Được chư Thiên thương mến, người ấy sẽ luôn luôn gặp được các điều tốt lành.”

 

14. Sau đó, khi đã nói lời tùy hỷ đến Sunīdha và Vassakāra, hai vị quan đại thần xứ Magadha, bằng những lời kệ này, đức Thế Tôn đã từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi. Vào lúc bấy giờ, Sunīdha và Vassakāra, hai vị quan đại thần xứ Magadha, đã đi theo phía sau đức Thế Tôn (nghĩ rằng): “Hôm nay, Sa-môn Gotama đi ra bằng cửa thành nào thì cửa thành ấy sẽ có tên là Cửa thành Gotama, và băng qua sông Gaṅgā bằng bến tàu nào thì bến tàu ấy sẽ có tên là Bến tàu Gotama.”
 

15. Sau đó, đức Thế Tôn đã đi ra bằng cửa thành nào thì cửa thành ấy đã có tên là Cửa thành Gotama. Rồi đức Thế Tôn đã đi đến sông Gaṅgā. Vào lúc bấy giờ, sông Gaṅgā là tràn đầy, mấp mé bờ khiến chim quạ có thể uống nước. Dân chúng, một số đi kiếm thuyền, một số đi kiếm xuồng, một số buộc thành chiếc bè với ước muốn đi từ bờ này sang bờ kia. Khi ấy, cũng giống như người đàn ông có sức mạnh có thể duỗi ra cánh tay đã được co lại hoặc có thể co lại cánh tay đã được duỗi ra, tương tự như thế đức Thế Tôn đã biến mất tại bờ bên này của sông Gaṅgā và hiện ra đứng ở bờ bên kia cùng với hội chúng tỳ khưu. Đức Thế Tôn đã nhìn thấy những người ấy, một số đang đi kiếm thuyền, một số đang đi kiếm xuồng, một số đang buộc thành chiếc bè với ước muốn đi từ bờ này sang bờ kia.

 

16. Sau đó, khi hiểu ra sự việc này, đức Thế Tôn vào thời điểm ấy đã thốt lên lời cảm hứng này:

 

Những người băng qua biển hồ sông suối, sau khi xây dựng cây cầu, sau khi vượt qua các hồ nhỏ. (Trong khi) người còn đang buộc chiếc bè nhỏ thì các bậc thông minh đã vượt qua (bờ kia).”

 

 

8. 7. KINH ĐƯỜNG RẼ HAI NHÁNH

 

1. Tôi đã nghe như vầy: Một thời đức Thế Tôn đang đi đường xa ở xứ sở của những người Kosala cùng với đại đức Nāgasamāla là Sa-môn hầu cận. Dọc theo đường đi, đại đức Nāgasamāla đã nhìn thấy đường rẽ hai nhánh, sau khi nhìn thấy đã nói với đức Thế Tôn điều này: “Bạch Ngài Thế Tôn,[9] đây là đường đi. Chúng ta hãy đi lối này.” Khi được nói như vậy, đức Thế Tôn đã nói với đại đức Nāgasamāla điều này: “Này Nāgasamāla, đây là đường đi. Chúng ta hãy đi lối này.” Đến lần thứ nhì, —như trên— Đến lần thứ ba, đại đức Nāgasamāla đã nói với đức Thế Tôn điều này: “Bạch Ngài Thế Tôn, đây là đường đi. Chúng ta hãy đi lối này.” Khi được nói như vậy, đức Thế Tôn đã nói với đại đức Nāgasamāla điều này: “Này Nāgasamāla, đây là đường đi. Chúng ta hãy đi lối này.” Khi ấy, đại đức Nāgasamāla đã để bình bát và y của đức Thế Tôn ở trên mặt đất ngay tại nơi ấy (nói rằng): “Bạch Ngài, đây là bình bát và y của đức Thế Tôn.”

 

2. Khi ấy, trong lúc đại đức Nāgasamāla đang đi theo con đường ấy, dọc theo đường đi bọn cướp đã bước ra và đã gây hại bằng những cú đánh và những cú đá, đã đập bể bình bát, và đã xé nát y hai lớp. Sau đó, đại đức Nāgasamāla với bình bát bị đập bể, với y hai lớp bị xé nát, đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống ở một bên, đại đức Nāgasamāla đã nói với đức Thế Tôn điều này: “Bạch Ngài, ở đây trong lúc con đang đi bằng con đường ấy, dọc theo đường đi bọn cướp đã bước ra và đã gây hại bằng những cú đánh và những cú đá, đã đập bể bình bát, và đã xé nát y hai lớp.”

 

3. Sau đó, khi hiểu ra sự việc này, đức Thế Tôn vào thời điểm ấy đã thốt lên lời cảm hứng này:

 

Trong khi đi cùng, trong khi sống chung, người hiểu biết sâu sắc bị lẫn lộn với người không biết. Sau khi biết được thì dứt bỏ kẻ ác, tựa như con diệc, loài uống sữa loại bỏ nước.”

 

 

8. 8. KINH VISĀKHĀ

 

1. Tôi đã nghe như vầy: Một thời đức Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, tu viện Pubba, ở tòa nhà dài của Mẹ của Migāra. Vào lúc bấy giờ, đứa cháu đáng yêu, thích ý của bà Visākhā, Mẹ của Migāra, bị từ trần. Khi ấy, bà Visākhā, Mẹ của Migāra, với y phục ướt đẫm, với đầu tóc ướt đẫm, vào lúc giữa trưa đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi bà Visākhā, Mẹ của Migāra, đã ngồi xuống ở một bên, đức Thế Tôn đã nói với bà ấy điều này: “Này Visākhā, bà từ đâu đi đến với y phục ướt đẫm, với đầu tóc ướt đẫm, và đã đến đây vào lúc giữa trưa vậy?”

 

“Bạch Ngài, đứa cháu đáng yêu, thích ý của con bị từ trần. Vì thế, con với y phục ướt đẫm, với đầu tóc ướt đẫm, đã đến đây vào lúc giữa trưa.”

 

“Này Visākhā, vậy bà có muốn có các con và các cháu nhiều như dân chúng ở thành Sāvatthi không?”

 

“Bạch đức Thế Tôn, con muốn có các con và các cháu nhiều như dân chúng ở thành Sāvatthī vậy.”

 

2. “Này Visākhā, vậy có bao nhiêu người ở thành Sāvatthi từ trần mỗi ngày?”

 

“Bạch Ngài, mười người ở thành Sāvatthi từ trần mỗi ngày cũng có. Bạch Ngài, chín người ở thành Sāvatthi từ trần mỗi ngày cũng có. Bạch Ngài, tám người ở thành Sāvatthi từ trần mỗi ngày cũng có. Bạch Ngài, bảy người ở thành Sāvatthi từ trần mỗi ngày cũng có. Bạch Ngài, sáu người ở thành Sāvatthi từ trần mỗi ngày cũng có. Bạch Ngài, năm người ở thành Sāvatthi từ trần mỗi ngày cũng có. Bạch Ngài, bốn người ở thành Sāvatthi từ trần mỗi ngày cũng có. Bạch Ngài, ba người ở thành Sāvatthi từ trần mỗi ngày cũng có. Bạch Ngài, hai người ở thành Sāvatthi từ trần mỗi ngày cũng có. Bạch Ngài, một người ở thành Sāvatthi từ trần mỗi ngày cũng có. Bạch Ngài, thành Sāvatthi là không thiếu những người đang từ trần.”

 

“Này Visākhā, bà nghĩ gì về điều ấy, có phải là đôi khi bà cũng có lúc không có y phục ướt đẫm, không có đầu tóc ướt đẫm?”

 

3. “Bạch Ngài, điều ấy không phải vậy. Bạch Ngài, quá đủ với con về việc có các con và các cháu nhiều chừng ấy.”

 

“Này Visākhā, những ai có một trăm người đáng yêu, những kẻ ấy có một trăm cái khổ. Những ai có chín mươi người đáng yêu, những kẻ ấy có chín mươi cái khổ. Những ai có tám mươi người đáng yêu, những kẻ ấy có tám mươi cái khổ. Những ai có bảy mươi người đáng yêu, những kẻ ấy có bảy mươi cái khổ. Những ai có sáu mươi người đáng yêu, những kẻ ấy có sáu mươi cái khổ. Những ai có năm mươi người đáng yêu, những kẻ ấy có năm mươi cái khổ. Những ai có bốn mươi người đáng yêu, những kẻ ấy có bốn mươi cái khổ. Những ai có ba mươi người đáng yêu, những kẻ ấy có ba mươi cái khổ. Những ai có hai mươi người đáng yêu, những kẻ ấy có hai mươi cái khổ. Những ai có mười người đáng yêu, những kẻ ấy có mười cái khổ. Những ai có chín người đáng yêu, những kẻ ấy có chín cái khổ. Những ai có tám người đáng yêu, những kẻ ấy có tám cái khổ. Những ai có bảy người đáng yêu, những kẻ ấy có bảy cái khổ. Những ai có sáu người đáng yêu, những kẻ ấy có sáu cái khổ. Những ai có năm người đáng yêu, những kẻ ấy có năm cái khổ.  Những ai có bốn người đáng yêu, những kẻ ấy có bốn cái khổ. Những ai có ba người đáng yêu, những kẻ ấy có ba cái khổ. Những ai có hai người đáng yêu, những kẻ ấy có hai cái khổ. Những ai có một người đáng yêu, những kẻ ấy có một cái khổ. Những ai không có người đáng yêu, những kẻ ấy không có khổ. Ta nói rằng những kẻ ấy không có sầu muộn, không còn ô nhiễm, không có thất vọng.”

 

4. Sau đó, khi hiểu ra sự việc này, đức Thế Tôn vào thời điểm ấy đã thốt lên lời cảm hứng này:

 

Mọi sầu muộn hoặc than vãn, và những khổ đau ở thế gian với nhiều hình thức, những điều này phát khởi có liên quan đến đối tượng đáng yêu; khi đối tượng đáng yêu không có thì những điều này không có. Chính vì thế, đối với những người nào không có đối tượng đáng yêu ở bất cứ nơi đâu trên thế gian, những người ấy có sự an lạc, không còn sầu muộn. Vì thế, kẻ ước mong không sầu muộn, không còn ô nhiễm, không nên tạo ra đối tượng đáng yêu ở bất cứ nơi đâu trên thế gian.”

 

 

8. 9. KINH DABBA - THỨ NHẤT

 

1. Tôi đã nghe như vầy: Một thời đức Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha, ở Veḷuvana, nơi nuôi dưỡng các con sóc. Vào lúc bấy giờ, đại đức Dabba Mallaputta đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống ở một bên, đại đức Dabba Mallaputta đã nói với đức Thế Tôn điều này: “Bạch đấng Thiện Thệ, giờ đây là thời điểm viên tịch Niết Bàn của con.” “Này Dabba, ngươi hãy biết giờ này là thời điểm của việc nào.”

 

2. Khi ấy, đại đức Dabba Mallaputta đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi đã bay lên không trung, đã ngồi xuống với thế kiết già ở giữa hư không trên bầu trời, đã thể nhập hỏa giới, đã xuất ra, và đã viên tịch Niết Bàn. Khi ấy, lúc đại đức Dabba Mallaputta đã bay lên không trung, đã ngồi xuống với thế kiết già ở giữa hư không trên bầu trời, đã thể nhập hỏa giới, đã xuất ra, và đã viên tịch Niết Bàn, lúc cơ thể của vị ấy đang được thiêu cháy, đang được đốt cháy, thì không có than và không có tro được nhận biết. Cũng giống như bơ lỏng hay dầu ăn lúc đang được thiêu cháy, đang được đốt cháy, thì không có than và không có tro được nhận biết, tương tự y như thế lúc đại đức Dabba Mallaputta đã bay lên không trung, đã ngồi xuống với thế kiết già ở giữa hư không trên bầu trời, đã thể nhập hỏa giới, đã xuất ra, và đã viên tịch Niết Bàn, lúc cơ thể của vị ấy đang được thiêu cháy, đang được đốt cháy, thì không có than và không có tro được nhận biết.

 

3. Sau đó, khi hiểu ra sự việc này, đức Thế Tôn vào thời điểm ấy đã thốt lên lời cảm hứng này:

 

Thân xác đã rã tan, tưởng đã tịch diệt, tất cả các thọ đã trở thành mát lạnh, các hành đã yên lặng, thức đã đi đến sự tiêu diệt.”

 

 

8. 10. KINH DABBA - THỨ NHÌ

 

1. Tôi đã nghe như vầy: Một thời đức Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Tại nơi ấy, đức Thế Tôn đã bảo các vị tỳ khưu rằng: “Này các tỳ khưu.” “Bạch Ngài,” các vị tỳ khưu ấy đã đáp lời đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn đã nói điều này: “Này các tỳ khưu, lúc đại đức Dabba Mallaputta đã bay lên không trung, đã ngồi xuống với thế kiết già ở giữa hư không trên bầu trời, đã thể nhập hỏa giới, đã xuất ra, và đã viên tịch Niết Bàn, lúc cơ thể của vị ấy đang được thiêu cháy, đang được đốt cháy, thì không có than và không có tro được nhận biết. Cũng giống như bơ lỏng hay dầu ăn lúc đang được thiêu cháy, đang được đốt cháy, thì không có than và không có tro được nhận biết, tương tự y như thế lúc đại đức Dabba Mallaputta đã bay lên không trung, đã ngồi xuống với thế kiết già ở giữa hư không trên bầu trời, đã thể nhập hỏa giới, đã xuất ra, và đã viên tịch Niết Bàn, lúc cơ thể của vị ấy đang được thiêu cháy, đang được đốt cháy, thì không có than và không có tro được nhận biết.”

 

2. Sau đó, khi hiểu ra sự việc này, đức Thế Tôn vào thời điểm ấy đã thốt lên lời cảm hứng này:

 

Giống như điểm đến của ngọn lửa (của vật) đang cháy sáng, bị đập vỗ bởi cái búa sắt, được từ từ lắng dịu, là không được biết đến, tương tự như thế cảnh giới tái sanh của các vị đã được giải thoát chân chánh, đã vượt qua dòng chảy của sự trói buộc vào các dục, đã đạt đến sự an lạc bất động, là không có để công bố.”

 

Phẩm Dân Làng Pāṭali là thứ tám.

 

TÓM LƯỢC PHẦN NÀY

 

Bốn Kinh về Niết Bàn đã được nói đến, vị Cunda, các dân làng Pāṭali, đường rẽ hai nhánh, và bà Visākhā, với hai chuyện về vị Dabba; chúng là mười.

 

*****

 

Đây là phẩm thứ nhất: Sự giác ngộ cao quý, đây là phẩm thứ hai: Mucalinda, còn phẩm cao quý về vị Nanda là thứ ba, và phẩm cao quý về vị Meghiya là thứ tư, ở đây phẩm cao quý thứ năm là vị Soṇa, phẩm cao quý thứ sáu là Mù Bẩm Sinh, và phẩm cao quý thứ bảy là Tiểu Phẩm, phẩm thứ tám cao quý về làng Pāṭali. Đầy đủ tám mươi bài Kinh cao quý đã khéo được phân chia thành tám phẩm ở đây. Họ đã nói điều này: “Chắc chắn tập Phật Tự Thuyết ấy đã được trình bày bởi bậc Hữu Nhãn, đấng Vô Nhiễm.”

 

PHẬT TỰ THUYẾT ĐƯỢC ĐẦY ĐỦ.

 

--ooOoo--

 


 

[1] Bốn sự gắn bó: là tứ kết, gồm có: dục kết, hữu kết, tà kiến kết, và vô minh kết (kāmayogo bhavayogo diṭṭhiyogo avijjāyogo).

[2] Các lời giải thích trong ngoặc đơn được căn cứ vào Chú Giải (UdA. 350-353).

[3] Lakuṇṭakabhaddiyaṃ: vị này có tên là Bhaddiya và có thân hình thấp (lakuṇṭaka) nên được gọi như trên (UdA. 360).

[4] Hai dòng kệ đầu giống như câu kệ 297 của Theragāthāpāḷi - Trưởng Lão Kệ (TTPV  31, 99).

[5] ‘Chiếc xe’ được so sánh với vị tỳ khưu Lakuṇṭaka-bhaddiya, ‘không chút lỗi lầm’ nghĩa là hoàn toàn trong sạch, ‘có mái che màu trắng’ nghĩa là quả vị A-la-hán, ‘có một căm’ tức là niệm, ‘dòng chảy’ nghĩa là tham ái (UdA. 370).

[6]’ ở đây nên hiểu là ‘attā,’ tự ngã, bản ngã (UdA. 376).

[7] Xứ (āyatana) ở đây nên hiểu là pháp xứ (dhammāyatana).

[8] Bài Kinh này cũng được thấy ở Tạng Luật, Đại Phẩm (Xem TTPV  05, từ trang 55).

[9] Hô cách sử dụng ở đây có phần khách sáo là ‘bhante bhagavā’ thay vì chỉ là ‘bhante’ (ND).