Chánh Tín - Mê Tín. Kì 37 (120-123)

120. MỘT NGƯỜI ĐÃ CHẾT SAO CÒN ÓI MÁU TƯƠI?

Có một phật tử kể: “Chúng tôi có một ông chú, ông chú có hai đứa con, một trai một gái. Cậu con trai thì ruợu chè be bét. Cô con gái thì đàng điếm trai gái, quan hệ với toàn là những người hư thân mất nết.

Khi ông sắp chết, ông cấm không cho hai đứa con để tang, nhưng hai đứa nhậu nhẹt và dẫn bạn bè về quậy phá trong đám tang làm cho cô bác bất bình. Lúc bấy giờ thân xác ông đang liệm trong một chiếc áo quan bằng thủy tinh, vì thế mọi người đều nhận thấy máu tươi trong miệng ông trào ra.”

Có người hỏi tại sao người chết rồi mà còn tức tối đến đỗi máu tươi chảy ra miệng?

Người chết rồi nhưng thân xác chưa hủy hoại nên Tưởng còn đang hoạt động, nếu khi thân hủy hoại tan nát còn một đống thịt hôi thối thì Tưởng ngưng hoạt động.

Tưởng còn hoạt động thì tham, sân, si, mạn, nghi người đó còn đủ, vì thế con cái không nghe lời dạy bảo, cứ quậy phá, dù lúc bây giờ thân xác đã chết, tức là thân xác ngưng thở chớ toàn bộ thân ngũ uẩn còn nguyên vẹn thì tức giận ói máu là một lẽ bình thường, vì tai, mắt, mũi, miệng họ còn nguyên vẹn có hao mất căn nào đâu.

Cho nên người không hiểu tưởng là hết thở thì thân xác như một khúc cây. Hiểu như vậy là sai, thân xác người mới chết không phải là khúc cây, khúc gỗ. Họ không thở nhưng Tưởng của họ vẫn cảm nhận tất cả mọi sự việc xảy ra xung quanh bên ngoài, lúc bây giờ người chết cũng giống như người đang chiêm bao. Khi nào giấc chiêm bao mất là họ mới chết thật.

Khi mới chết chúng ta đừng vội tẩm liệm mà hãy để thân xác người chết nằm ngay ngắn trên giường như người nằm ngủ.

Hiện giờ nghiệp lực của họ đã tương ưng tái sinh luân hồi thành người hoặc thành loài vật khác rồi. Những người tạo nghiệp ác thường khi sống ăn thịt chúng sinh nên khi chết nghiệp ăn thịt chúng sinh tương ưng đi tái sinh làm loài vật để trả nhân quả để người và loài vật khác ăn thịt lại.

Người sống bằng thực phẩm thực vật thì tránh nghiệp tái sinh làm loài vật và cơ thể ít bệnh tật. Cho nên người ăn rau quả sống an vui và trường thọ hơn người sống bằng thịt chúng sinh

121. ĐƯA ANH TRỞ LẠI QUÊ NHÀ

 “Thiết nghĩ trong cuộc đời của một con người ai mà chẳng có không ít những niềm vui mênh mông và có cả những nỗi buồn vô tận. Nhất là đối với những gia đình trong những năm tháng đất nước có chiến tranh, hình ảnh người vợ trẻ ôm đứa con bé bỏng đưa tiễn chồng ra mặt trận… họ lặng lẽ nuốt nước mắt vào trong, dành cho ngày gặp lại. Và sau bao năm, chiến tranh đã lùi xa - người vợ trẻ ngày nào, bây giờ trên mái tóc đã bạc - người ra đi mãi chẳng thấy về?!

Đó là trường hợp của gia đình chị Trần Thị Nghĩa ở xã Bình Minh, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình - giữa những ngày giặc Mỹ mở rộng chiến tranh ở cả hai miền Nam Bắc (1965), anh Đoàn Văn Cờ, chồng của chị – một bộ đội phục viên đã nhanh chóng trở lại quân ngũ. Ngày anh lên đường, chị Nghĩa hai tay ẵm đứa con gái nhỏ tiễn chân anh… và rồi có ai ngờ cho mãi đến khi cả hai miền đất nước tràn ngập niềm vui đại thắng, chị Nghĩa mới biết tin chồng qua mảnh giấy báo tử: anh Đoàn Văn Cờ, chồng chị đã hy sinh ngày 13 / 8 / 1968 tại… “mặt trận phía Nam” (!).

Trước nỗi đau tử biệt, chị Nghĩa chỉ còn biết âm thầm lặng lẽ đau xót phận mình và thương cho đứa con côi, suốt bao năm ròng mong gặp mặt cha.

Giống như nhiều gia đình có người thân còn “nằm” lại trên các chiến trường, dù xa xôi cách trở, chị Nghĩa đã cùng các anh chị em trong nhà và nhất là sự quyết tâm của cháu Hoa – con gái duy nhất của liệt sỹ, đã bằng mọi cách liên hệ với các đồng đội cũ của anh còn sống để thăm dò nơi chôn cất di hài. Các bác, các chú và cả các cô đã cùng cháu Hoa lần dò đến nhiều nơi. Song tất cả chỉ là “mò kim đáy biển.” Mãi năm 1994, gia đình mới nhận được tin báo của Ban chính sách Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Kon Tum - thì nỗi buồn lại càng thêm sâu nặng! Bởi đó là những lời an ủi, vì chính họ cũng không biết phần mộ liệt sỹ Cờ hiện giờ đang “yên nghỉ” ở nơi đâu!? Chốn trận địa năm nào, gió núi vẫn ào ào, mưa rừng vẫn ngày đêm xối xả…

Cho mãi cuối năm 2003, tức là sau 34 năm ngày liệt sỹ Đoàn Văn Cờ hy sinh, cháu Thiêm - người cháu cùng huyết tộc mới gặp cô Năm Nghĩa - một nhà ngoại cảm có uy tín, được báo chí ca ngợi có khả năng tìm mộ liệt sỹ thất lạc. Cô Năm Nghĩa đã dùng phương pháp đặc biệt của mình để tiếp nối thông tin với những người đã khuất. Qua cô Năm Nghĩa - liệt sỹ Cờ đã chỉ cho người thân trong gia đình, rằng mộ của anh nằm trên một bìa rừng, phải đi qua Huyện Đắc Tô: đây là cầu, đoạn kia là cống và quãng xa xa là khu vực nhà rông…

Liệt sỹ còn chỉ rõ mộ của mình nằm ở phía Tây cách 20 mét của một con suối, đầu quay về phía núi. Phần bên trên, sau 35 năm trên mộ không còn dấu vết. Tỉ mỉ hơn, nay trên mộ có những cây mắc cỡ (xấu hổ) trổ hoa màu tím. Tấm vải bạt mà đồng đội cuộn xác để chôn, hiện có góc đã bị trồi lên trên mặt đất. Mộ của anh ở vị trí đầu tiên, kế đó phía bên trái là mấy ngôi mộ nữa là của những chiến sỹ quê miền Nam (có kèm theo tên tuổi và địa chỉ là các liệt sỹ Nguyễn Đức Tâm, vợ là Bùi Thị Ngoạt ở phường Tân Hiệp, TP. Biên Hòa; liệt sỹ Bùi Văn Trọng, có con là Hoàng Văn Thọ ở thị trấn Bình Ba, Bà Rịa…). Cuối cùng liệt sỹ Cờ thúc giục:

“Các em hãy nhanh chóng đưa anh về, kẻo mùa mưa này chắc các anh không còn trụ nổi…”

Qua bước đầu “nắm” được thông tin coi là hệ trọng, những người thân trong gia đình liệt sỹ hẳn còn niềm vui dào dạt nào vui hơn? Và chặng đường thực hiện, dù khó khăn đến mấy, nhưng đã có cô Năm cùng đi và đến đâu cũng gặp người dẫn đường chỉ lối - mọi trở ngại cũng đã qua đi. Mấy gia đình của liệt sỹ Nguyễn Đức Tâm; Bùi Văn Trọng… cùng đi tìm mộ đã toại nguyện niềm mong đợi.

Riêng có liệt sỹ Đoàn Văn Cờ là người miền Bắc - theo lời kể lại của ông Nguyễn Minh Châu, em rể của liệt sỹ… “Ngày hôm ấy, từ bến xe Gia Lai, hai vợ chồng tôi mua 3 vé xe khách Bắc Nam, trong đó có một vé dành riêng cho anh. Trên đường đón và cũng là đưa anh của chúng tôi về rất an toàn. Tới Phủ Lý, tại đây có khá đông đủ anh chị em cùng các cháu công tác và sinh sống ở Hà Nội, Hải Dương… Lại có cả vợ chồng con cái của cháu Thiêm từ Tp.Hồ Chí Minh… tất cả đang túc trực và chuẩn bị sẵn sàng xe cộ, rất trân trọng đón hài cốt của anh với một niềm vui hòa quyện trong nỗi buồn khôn ngăn giọt lệ… Trên đường về Thái Bình, qua cầu Tân Đệ khá hiện đại hôm nay, chúng tôi cố ý cho xe chầm chậm để anh được lắng nghe những âm thanh quá khứ của con phà năm xưa, khi anh cùng đồng đội sang sông thẳng tiến vào Nam.

Xe vừa xuống khỏi chân cầu, đây rồi! Cháu Hoa con gái của anh! Cháu Ngọc con rể của anh, các cháu Long và Linh, cháu của anh. Và còn đây, có không ít những người thân đang chờ, đang đợi. Chỉ tiếc rằng chị Nghĩa vợ anh hiện đang ốm nên đành phải ở nhà chờ anh nơi cổng như những ngày nào.

Đó là lúc đông đủ anh em, bà con trong gia tộc, trong làng xóm đã có mặt đông đủ để đón nhận di hài của một người chiến sỹ ngày ấy đã ra đi… Trong những tiếng nghẹn ngào nức nở... tôi hiểu, với chị Nghĩa - ngày ấy tiễn chồng lên đường, chị đâu có mong sau này đón anh trở về trong niềm vinh dự được là vợ của một anh hùng liệt sỹ! Trước anh linh của người đã khuất - chúng em và các cháu xin được đôi chút tự hào là đi tìm được di hài của anh đem về trong nỗi ngóng trông gần suốt đời chị.”

Mộ của anh đã được nằm trong nghĩa trang liệt sỹ của huyện…Trong nỗi đau mất mát có lẫn niềm vui mừng rằng: sau 35 năm anh đã trở về với bao niềm thương nỗi nhớ.”

Trần Ngọc Lân
Viết theo lời kể của ông Nguyễn Minh Châu và tài liệu của Liên hiệp khoa học thông tin UIA.

Đưa Anh Trở Về làm cho mọi người có người thân đã hy sinh nằm xuống trên mảnh đất quê hương đã không cầm được những giọt nước mắt. Phải rồi! Chúng ta khóc cho những người chưa được mang hài cốt về tận quê nhà, và cũng không biết những hài cốt ấy hiện giờ còn ở đâu. Chẳng hạn như em trai của chúng tôi – Lê Văn Tân, xương cốt em ở đâu? Mẹ đã chết lâu rồi, khi còn sống mỗi khi nhắc đến em, mẹ không cầm được nước mắt, mỗi chiều tựa cửa nhìn về phía bước chân em đi mà nước mắt mẹ cứ tuôn trào không dứt.

Lúc bấy giờ, em biết sao không? Anh chỉ khuyên lơn mẹ: Mẹ đừng khóc nữa mẹ, mai mốt em con sẽ về khi nhiệm vụ làm xong. Lời an ủi mẹ như vậy, nhưng chính anh cũng không cầm được những giọt nước mắt của mình. Vì biết bao giờ nhiệm vụ giải phóng đất nước mới xong. Giặc thì ào ạt súng đồng đại bác, xe tăng thiết giáp, còn quân đội mình đánh giặc bằng tầm vông vạt nhọn. So hai lực lượng thì biết rằng đất nước muốn giải phóng thì phải hy sinh biết bao người con thân yêu của Tổ quốc.

Ngày nay đất nước thống nhất, độc lập hòa bình, mọi gia đình có con em hy sinh thì rủ nhau đi tìm hài cốt qua các nhà ngoại cảm, họ đi khắp nơi trong nước, còn gia đình mình thì sao? Gia đình mình đâu có người làm quan lớn thì biết dựa vào đâu mà tìm hài cốt em mình, nhiều khi người ta còn bảo em mình theo giặc chết. Thật là đau lòng. Những anh cán bộ làm tỉnh ủy viên Tây Ninh năm xưa họ đã đưa em tôi thoát ly gia đình vào chiến khu lập bộ đội để đánh giặc. Bây giờ lần lượt họ đã chết gần hết chỉ còn một vài anh chị em vì quá già nên phải hưu trí.

Nỗi đau của gia đình còn biết nói với ai bây giờ. Cha mất, mẹ mất, anh em lần lượt cũng chết theo, những thế hệ con cháu về sau còn có ai biết không, nếu không có những trang sử gia đình thì ngày mai con cháu còn lấy đâu làm chứng cứ. Gia đình từ ông, cha, anh em và chị em đều đem công sức và máu xương tô đắp cho quê hương xứ sở.

Để kết thúc bài viết này, chúng tôi xin khẳng định Linh Hồn Không Có mà chỉ có Tưởng Uẩn hoạt động mà thôi.

122. NÓI CHUYỆN VỚI NGƯỜI ÂM

Chúng tôi nhận được một tài liệu “Nói Chuyện Với Người Âm.” Nói chuyện với người âm toàn là những người có học thức, xem thế mới biết kiến thức con người dù có học thức bao nhiêu, nhưng khi đứng trước những hiện tượng của Tưởng Uẩn thì không giải thích được. Khi không giải thích nổi thì chỉ còn biết dùng hai chữ Tâm Linh để tránh né sự ngu dốt của mình.

Tâm Linh là cái thứ gì?

Chẳng qua Tâm Linh mà mọi người đều hiểu biết, đó là Linh Hồn người chết. Linh Hồn người chết chẳng qua là ảo tưởng của mọi người đặt ra qua những hiện tượng mà ý thức con người không giải thích được. Khi viết tập sách “Một Linh Hồn Có Nhiều Thể Xác,” tác giả chưa biết chắc mà dám khẳng định: “Điều tôi muốn nói là hầu hết những phần quan trọng của chúng ta như là Linh Hồn sẽ tồn tại vĩnh viễn.”

Câu này bác sĩ phát biểu quá sớm do sự lượm lặt những trạng thái tưởng của bệnh nhân mà nói ra như vậy sẽ làm mất giá trị của một bác sĩ chưa nghiên cứu Phật giáo tường tận. Trong lúc Đức Phật xác định: “Thân người do năm uẩn hợp thành.” Trong năm uẩn này Đức Phật không có xác định uẩn nào là Linh Hồn tồn tại vĩnh viễn cả. Vậy mà bác sĩ dám xác định Linh Hồn tồn tại vĩnh viễn. Có lẽ bác sĩ  Brian L. Weiss hơn Đức Phật ư!

Theo Đức Phật đã dạy: “Tâm Linh không phải là Linh Hồn, vì Linh Hồn không có.” Tâm Linh chỉ là Tưởng Uẩn hoạt động giao cảm mọi âm thinh sắc tướng của mọi người còn lưu lại trong không gian vũ trụ. Điều này với ý thức của con người không thể hiểu biết được, nên cho đó là Tâm Linh (Linh hồn).

123. VUA ITALY UMBERTO VÀ UMBERTO CHỦ NHÀ HÀNG

            “Ngày 28/7/1900 vua Italy Umberto I ăn tối trong nhà hàng ở thành phố Monza. Người ta được biết chủ của nhà hàng cũng có tên Umberto, sinh ra cùng ngày với nhà vua trong cùng một thành phố, vợ của họ có cùng một tên, đám cưới cũng cùng diễn ra trong cùng một ngày, còn nhà hàng khai trương đúng vào ngày nhà vua lên ngai vàng.

Nhà vua và người dân thường này rất vui vẻ nhân cuộc gặp gỡ kỳ lạ này và thống nhất sáng hôm sau sẽ đến sân vận động. Nhưng đến buổi sáng, chủ nhà hàng Umberto đột ngột qua đời, nhà vua tỏ lòng tiếc thương và chỉ vài giờ sau thì ông bị một kẻ vô chính phủ bắn chết. Số phận của họ chỉ không giống nhau ở hai vị trí chết tại hai nơi khác nhau”.

Trong cuộc sống có những sự trùng hợp khó tin và không thể giải thích được, khi đó một cách tự nhiên người ta bắt đầu nghĩ đến khía cạnh Nhân Quả hay bí ẩn của số phận. Liệu có thể giải thích những chuyện trùng hợp kỳ lạ của nhân quả, hay đây là trò chơi của sự ngẫu nhiên? Khoa học có những lý thuyết gì về vấn đề này?

Kính thưa Thầy cho con xin hỏi: Có phải hai người này do từ một nhân sinh ra hay không?

Đáp: Đúng vậy, hai người này cùng tạo một nghiệp nhân quả tiền kiếp giống nhau, nhưng có khác nhau một chút là tạo nhân quả khi chết không cùng giờ và không cùng một cách chết.

Trên hành tinh sống này đều do các duyên hội tụ đầy đủ bốn đại thì mới có sự sống, nếu chỉ cần thiếu một đại là sự sống không có. Cỏ cây, đất đá, núi sông, ao hồ, rừng biển đều do bốn đại mà thành. Vạn vật sinh ra kể từ loài nhỏ nhất như vi khuẩn, vi trùng, cho đến những loài to nhất như voi, hổ, đại bàng, và thông minh nhất như loài người đều do bốn đại hợp duyên mà thành. Ngoài bốn đại đi tìm sự sống trên hành tinh này không có. Cho nên hành tinh sống được gọi là hành tinh bốn đại. Vậy bốn đại là gì? Bốn đại là: Đất, Nước, Lửa, Gió.

1- Đất do nhiều nguyên chất khác hợp lại mà thành. Đất không thể là một nguyên chất đơn độc, đất chỉ là một hợp chất như trên đã nói. Không có đất thì hành tinh này chỉ là một hành tinh chết mà thôi.

2- Nước cũng vậy, do các nguyên chất khác hợp lại thành nước. Nước không đứng riêng rẽ nguyên chất một mình mà thành nước được. Nước là một hợp chất, nếu trái đất không có nước thì trái đất là hành tinh chết chứ không thể nào là hành tinh sống được.

3- Lửa cũng vậy, do các nguyên chất khác hợp lại thành lửa. Lửa không đứng riêng rẽ một nguyên chất mà thành lửa được, lửa là một hợp chất, nếu không có lửa thì hành tinh này cũng chỉ là một hành tinh chết.

4- Gió cũng vậy, do các nguyên chất khác nhau hợp lại thành gió. Gió không đứng riêng rẽ một nguyên chất mà thành gió được, gió là một hợp chất. Nếu hành tinh này không có gió thì hành tinh này là hành tinh chết.

Các nguyên chất khác hợp lại mà thành đấtm nước, lửa, gió. Rồi đất, nước, lửa, gió theo duyên hợp lại mà thành vạn vật trong vũ trụ. Theo các duyên hợp lại gọi là sinh, khi các duyên tan rã gọi là diệt. Duyên sinh diệt đều do quy luật nhân quả điều hành. Cho nên, trên thế gian này không có chuyện ngẫu nhiên xảy ra mà tất cả đều do sự sắp xếp của nhân quả. Chúng ta hãy nghiệm xét trong một tai nạn giao thông, mỗi người đang ở một nơi khác nhau, thế mà nhân quả sắp xếp cho mọi người đi chung một chiếc xe đò để khi tai nạn giao thông xảy ra thì tất cả đều chết một lượt chỉ trong vài ba giây.   

Trở lại câu chuyện trùng hợp của nhà vua Italy Umberto I và ông chủ nhà hàng cũng tên Umberto. Hai người có cùng ngày tháng năm sinh, cùng có vợ một ngày, ngày nhà vua lên ngôi thì cũng là ngày khai trương nhà hàng, và khi chết thì có khác nhau vài giờ.

Câu chuyện này rất hy hữu, nhưng bởi hai người lúc tiền kiếp đều tạo một nhân quả giống nhau nên nghiệp lực không khác. Vì nghiệp lực tương ưng nên sự trùng hợp của hai người không có gì là ngẫu nhiên mà do nhân quả sắp xếp từ tên tuổi, ngày tháng năm sinh không có gì sai khác.

Người hiểu biết nhân quả thì mỗi việc trên đời xảy ra như thế nào cũng không làm cho họ ngạc nhiên. Bởi vì họ biết rõ trên đời này không có điều gì là ngẫu nhiên cả. Cho nên, mọi việc đều không thể qua mắt họ được. Họ hiểu biết rất rõ ràng các duyên hợp lại và các duyên tan rã luôn luôn phải theo quy luật của nhân quả chỉ đạo như trên đã nói. Vì thế không có một vật gì trên hành tinh này đi ra ngoài quy luật nhân quả được.

Nhân quả có hai phần rất rõ ràng:

1- Nhân quả về phần hữu hình (vật chất): Cơ thể con người không ai giống ai, nếu giống nhau ở điểm này thì lại có điểm khác ở chỗ kia.

2- Nhân quả về phần vô hình (tinh thần): Tinh thần cũng vậy, không có ai giống ai, nếu giống chỗ này thí khác chỗ kia.

Đó là do nghiệp lực cá nhân của mỗi người tạo ra đều theo quy luật nhân quả từ vô lượng kiếp. Cho nên mọi vật đều bị sự điều khiển của nhân quả, do đó mọi người trên thế gian này không ai vượt qua sự điều khiển của nhân quả.

Câu chuyện vua Umberto và chủ nhà hàng Umberto là do nghiệp tạo ra từ kiếp trước giống nhau nên hiện kiếp mới có sự trùng hợp như vậy, không có gì là lạ. Tuy câu chuyện trùng hợp đon sơ như vậy cũng làm cho mọi người khắp nơi trên thế giới lấy làm ngạc nhiên mà ít có ai lý giải được.