TÂM THƯ GỬI QUÝ VỊ MÓN ĂN GIẢI THOÁT
(18 – 4 – 2009)
Kính gửi: Quý vị!
Quý vị hãy đọc kỹ lại bài này mà Thầy đã cho ghi vào bia đá trong Tu Viện Chơn Như “MÓN ĂN GIẢI THOÁT” Đức Phật dạy:
1/ Này các Tỳ Kheo! Cái gì là thức ăn cho Minh Gi?i Thoát (Tam Minh)? Bảy Giác Chi, cần phải trả lời như vậy.
2/ Này các Tỳ Kheo! Cái gì là thức ăn cho (Năng Lực) Bảy Giác Chi? Bốn Niệm Xứ, cần phải trả lời như vậy.
3/ Này các Tỳ Kheo! Cái gì là thức ăn cho Bốn Niệm Xứ? Ba Thiện Hành, cần phải trả lời như vậy.
4/ Này các Tỳ Kheo! Cái gì là thức ăn cho Ba Thiện Hành? Các Căn Ðược Chế Ngự, cần phải trả lời như vậy.
5/ Này các Tỳ Kheo! Cái gì là thức ăn cho Các Căn Ðược Chế Ngự? Chánh Niệm Tỉnh Giác, cần phải trả lời như vậy.
6/ Này các Tỳ Kheo! Cái gì là thức ăn cho Chánh Niệm Tỉnh Giác? Như Lý Tác Ý, cần phải trả lời như vậy.
7/ Này các Tỳ Kheo! Cái gì là thức ăn cho Như Lý Tác Ý? Lòng Tin, cần phải trả lời như vậy.
8/ Này các Tỳ Kheo! Cái gì là thức ăn cho Lòng Tin? Nghe Diệu Pháp (chân pháp của Phật), cần phải trả lời như vậy.
9/ Này các Tỳ Kheo! Cái gì là thức ăn cho Nghe Diệu Pháp? Thân Cận Với Bậc Chân Nhân (Bậc tu chứng đạo), cần phải trả lời như vậy.
GIẢNG TRẠCH VÀ CHỈ THẲNG PHÁP MÔN TU TẬP
Những lời dạy trên đây của đức Phật, chúng ta nhận thấy có TÁM PHÁP tu tập.
Người mới bắt đầu vào đạo phải tu pháp môn nào trước?
Đức Phật dạy:
1- THÂN CẬN với bậc Chân Nhân (Bậc đã tu chứng đạo).
Thân cận bậc tu chứng đạo, có nghĩa là phải sống ở gần bên Người chứng đạo để được thưa hỏi những điều mình chưa hiểu biết.
Khi sống được thân cận với bậc tu chứng đạo thì phải thưa hỏi Chân lý giải thoát. Vậy chân lý giải thoát là cái gì?
Đức Phật dạy:
2- NGHE DIỆU PHÁP.
Vậy NGHE DIỆU PHÁP của đức Phật là nghe pháp gì?
NGHE DIỆU PHÁP của đức Phật là nghe dạy BỐN CHÂN LÝ: Khổ, tập, diệt, đạo.
- Khi hiểu được đời là KHỔ thì ai cũng muốn đi tu cả.
- Khi hiểu được nguyên nhân sinh ra đau khổ thì ai cũng muốn từ bỏ lòng ham muốn cả.
- Khi hiểu biết và nhận ra tâm bất động thanh thản an lạc và vô sự là chân lý giải thoát thì ai cũng muốn gìn giữ và bảo vệ nó để sống cho được với trạng thái này.
- Khi nhận ra tám pháp tu tập để bảo vệ và giữ gìn tâm bất động thanh thản, an lạc và vô sự thì ai cũng muốn tu tập để được giải thoát.
Khi nghe và nhận hiểu bốn chân lý này là sự thật của kiếp người thì còn ai mà không tin đạo Phật.
Đức Phật dạy:
3- LÒNG TIN Khi chúng ta có LÒNG TIN thì pháp đầu tiên chúng ta tu tập là pháp NHƯ LÝ TÁC Ý.
4- NHƯ LÝ TÁC Ý Pháp NHƯ LÝ TÁC Ý như thế nào?
NHƯ LÝ có nghĩa là như lý của sự giải thoát. Vậy NHƯ LÝ CỦA SỰ GIẢI THOÁT như thế nào?
Như lý của sự giải thoát là TÂM BẤT ĐỘNG, THANH THẢN, AN LẠC, VÔ SỰ. Đó là chân lý thứ ba của pháp môn TỨ DIỆU ĐẾ” Khi chúng ta thường xuyên tu tập pháp NHƯ LÝ TÁC Ý thì tâm chúng ta ở trong trạng thái CHÁNH NIỆM TĨNH GIÁC 5- CHÁNH NIỆM TĨNH GIÁC Pháp CHÁNH NIỆM TĨNH GIÁC nghĩa là gì?
CHÁNH NIỆM nghĩa là niệm đúng theo như lời đức Phật dạy, còn niệm không đúng lời Phật dạy là TÀ NIỆM. Vậy niệm đúng lời Phật dạy là niệm gì?
NIỆM TÂM BẤT ĐỘNG THANH THẢN, AN LẠC, VÔ SỰ (Niệm chân lý thứ ba), đó là CHÁNH NIỆM - CHÁNH NIỆM tức là TỨ NIỆM XỨ – TỨ NIỆM XỨ là chỉ cho trạng thái TÂM BẤT ĐỘNG, THANH THẢN, AN LẠC và VÔ SỰ TĨNH GIÁC nghĩa là gì?
TĨNH GIÁC có nghĩa là IM LẶNG VÀ SÁNG SUỐT.
Nghĩa chung của bốn từ CHÁNH NIỆM TĨNH GIÁC là “LUÔN LUÔN IM LẶNG SÁNG SUỐT TRÊN TÂM BẤT ĐỘNG, THANH THẢN, AN LẠC, VÔ SƯ” Khi tâm luôn luôn im lặng sáng suốt trên tâm bất động thanh thản, an lạc, vô sự thì các căn không tiếp xúc các trần. Các căn không tiếp xúc các trần nên gọi là chế ngự các căn.
6- CHẾ NGỰ CÁC CĂN Pháp CHẾ NGỰ CÁC CĂN nghĩa là gì?
PHÁP ĐỘC CƯ, ĐỘC BỘ, ĐỘC HÀNH. Nhờ pháp độc cư, độc bộ, độc hành mới chế ngự các căn và làm cho các căn không còn phóng dật chạy theo các trần. Do đó THÂN HÀNH, KHẨU HÀNH VÀ Ý HÀNH đều được thanh tịnh tức là thân hành, khẩu hành và ý hành không còn làm ác nên gọi là BA THIỆN HẠNH 7- BA THIÊN HẠNH Pháp BA THIỆN HẠNH nghĩa là gì?
Pháp BA THIỆN HẠNH là pháp TỨ CHÁNH CẦN, người sống với BA THIỆN HẠNH là người đang ngăn ác diệt ác pháp sinh thiện tăng trưởng thiện pháp.
BA THIỆN HẠNH tức là ba hành động THÂN, KHẨU, Ý thanh tịnh. Ba hành động THÂN, KHẨU, Ý thanh tịnh là toàn thân thanh tịnh. TOÀN THÂN THANH TỊNH tức là bốn chỗ thanh tịnh. Bốn chỗ là THÂN, THỌ, TÂM, PHÁP. Thân, thọ, tâm, pháp là TỨ NIỆM XỨ.
8- TỨ NIỆM XỨ LUÔN LUÔN IM LẶNG SÁNG SUỐT TRÊN TÂM BẤT ĐỘNG, THANH THẢN, AN LẠC, VÔ SỰ tức là tâm đang ở trên TỨ NIỆM XỨ. Tâm ở trên trạng thái TỨ NIỆM XỨ này lần lượt xuất hiện đủ 7 năng lực GIÁC CHI.
9- TỨ THẦN TÚC Khi tâm tinh tấn siêng năng LUÔN LUÔN IM LẶNG SÁNG SUỐT TRÊN TÂM BẤT ĐỘNG, THANH THẢN, AN LẠC, VÔ SỰ thì TINH TẤN GIÁC CHI xuất hiện, khi TINH TẤN GIÁC CHI xuất hiện thì NIỆM GIÁC CHI xuất hiện, khi NIỆM GIÁC CHI xuất hiện thì ĐỊNH GIÁC CHI xuất hiện; ĐỊNH GIÁC CHI xuất hiện thì KHINH AN GIÁC CHI xuất hiện; KHINH AN GIÁC CHI xuất hiện thì HỶ GIÁC CHI xuất hiện; HỶ GIÁC CHI xuất hiện thì XẢ GIÁC CHI xuất hiện; XẢ GIÁC CHI xuất hiện thì TRẠCH PHÁP GIÁC CHI xuất hiện.
Khi 7 GIÁC CHI xuất hiện đầy đủ thì thân tâm chúng ta có TỨ THẦN TÚC. TỨ THẦN TÚC gồm có:
1- TINH TẤN NHƯ Ý TÚC (Tứ Niệm Xứ) 2- DỤC NHƯ Ý TÚC (Lục Thông) 3- ĐỊNH NHƯ Ý TÚC (Tứ Thánh Định) 4- TUỆ NHƯ Ý TÚC (Trí tuệ Tam Minh) Tu tập đến đây là chúng ta đã CHỨNG ĐẠO, không còn tu tập một pháp nào nữa cả.
Vì thân tâm chúng ta có đủ nội lực làm chủ sự sống chết, chấm dứt tái sinh, tự tại trong sinh tử, không còn bị nhân quả chi phối, điều hành nữa.
TRẢ LỜI 10 CÂU HỎI SAU ĐÂY:
1- Trong TÁM PHÁP tu tập trên đây quý vị đang tu tập pháp môn nào?
2- Trong tám pháp trên đây pháp môn THÂN HÀNH NIỆM là pháp thứ mấy?
3- Trong tám pháp trên đây pháp môn ĐỊNH NIỆM HƠI THỞ là pháp thứ mấy?
4- Tâm quý vị đang ở PHÁP TU thứ mấy?
5- Bắt đầu tu tập LUÔN LUÔN IM LẶNG SÁNG SUỐT TRÊN TÂM BẤT ĐỘNG, THANH THẢN, AN LẠC, VÔ SỰ là pháp môn gì?
6- Thân tâm LUÔN LUÔN IM LẶNG SÁNG SUỐT TRÊN TÂM BẤT ĐỘNG, THANH THẢN, AN LẠC, VÔ SỰ là pháp môn gì?
7- CHẾ NGỰ CÁC CĂN là pháp môn gì?
8- DIỆU PHÁP là pháp môn gì?
9- NHƯ LÝ TÁC Ý là pháp môn gì?
10- CHÁNH NIỆM TĨNH GIÁC là pháp môn gì?
1- Nếu tâm còn hôn trầm, thùy miên, vô ký, ngoan không thì tu pháp môn THÂN HÀNH NIỆM; nếu tâm còn vọng tưởng thì tu tập pháp môn NHƯ LÝ TÁC Ý.
2- Pháp môn THÂN HÀNH NIỆM là pháp thứ năm.
3- Pháp môn ĐỊNH NIỆM HƠI THỞ là pháp thứ năm.
4- Còn vọng tưởng thì tu tập pháp môn NHƯ LÝ TÁC Ý; hết vọng tưởng thì tu tập TỨ NIỆM XƯ.
Còn hôn trầm thì tu tập pháp môn THÂN HÀNH NIỆM; hết hôn trầm thì tu tập TỨ NIỆM XỨ.
5- Bắt đầu tu tập LUÔN LUÔN IM LẶNG SÁNG SUỐT TRÊN TÂM BẤT ĐỘNG, THANH THẢN, AN LẠC, VÔ SỰ là pháp môn NHƯ LÝ TÁC Ý 6- Thân tâm LUÔN LUÔN IM LẶNG SÁNG SUỐT TRÊN TÂM BẤT ĐỘNG, THANH THẢN, AN LẠC, VÔ SỰ là pháp môn TỨ NIỆM XỨ 7- CHẾ NGỰ CÁC CĂN là pháp môn ĐỘC CƯ 8- DIỆU PHÁP là pháp môn TỨ DIỆU ĐẾ 9- NHƯ LÝ TÁC Ý là pháp môn DẪN TÂM VÀO ĐẠO 10- CHÁNH NIỆM TĨNH GIÁC là pháp môn THÂN HÀNH NIỆM và TỨ NIỆM XỨ.
BẢNG TÓM LƯỢC MƯỜI NĂNG LỰC DO TU TẬP PHÁP MÔN THÂN HÀNH NIỆM
Mười năng lực của pháp môn THÂN HÀNH NIỆM này do đức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy: “Này các Tỷ-kheo, THÂN HÀNH NIỆM được thực hành, được tu tập, được làm cho sung mãn, được làm như thành cỗ xe, được làm như thành căn cứđịa, được làm cho kiên trì, được làm cho tích tập, được khéo tinh cần thực hành, thời mười năng lực này có thể được mong đợi. Thế nào là mười năng lực?
1- Lạc, bất lạc được nhiếp phục, và bất lạc không nhiếp phục vị ấy, và vị ấy sống luôn luôn nhiếp phục bất lạc được khởi lên.
2- khiếp đảm sợ hãi được nhiếp phục, và khiếp đảm sợ hãi không nhiếp phục vị ấy, và vị ấy luôn luôn nhiếp phục khiếp đảm sợ hãi được khởi lên.
3- Vị ấy kham nhẫn được lạnh, nóng, đói, khát, sự xúc chạm của ruồi, muỗi, gió, mặt trời, các loài rắn rết, các cách nói khó chịu, khó chấp nhận.
4- Vị ấy có khả năng chịu đựng được những cảm thọ về thân khởi lên, khổ đau, nhói đau, thô bạo, chói đau, bất khả ý, bất khả ái, đưa đến chết điếng.
5- Tùy theo ý muốn, không có khó khăn, không có mệt nhọc, không có phí sức, vị ấy ch ứng được bốn Thiền, thuần túy tâm tư, hiện tại lạc trú.
6- Vị ấy ch ứng được các loại thần thông, một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân hiện một thân; hiện hình biến đi ngang qua vách, qua tường, qua núi như đi ngang hư không; độn thổ trồi lên ngang qua đất liền như ở trong n ước; đi trên nước không chìm nhưđi trên đất liền; ngồi kiết-già đi trên hư không nh ư con chim; với bàn tay, chạm và rờ mặt trăng và mặt trời, những vật có đại oai lực, đại oai thần như vậy; có thể, thân có thần thông bay cho đến Phạm thiên; với thiên nhĩ thanh tịnh siêu nhân, có thể nghe hai loại tiếng, chư Thiên và loài Ng ười, ở xa hay ở gần.
7- Với tâm của vị ấy, vị ấy biết tâm của các chúng sanh, các loại người; tâm có tham, biết tâm có tham; tâm không tham, biết tâm không tham; tâm có sân, biết tâm có sân; tâm không sân, biết tâm không sân; tâm có si, biết tâm có si; tâm không si, biết tâm không si; tâm chuyên chú, biết tâm chuyên chú; tâm tán loạn, biết tâm tán loạn; tâm đại hành, biết tâm đại hành; tâm không đại hành, biết tâm không đại hành; tâm chưa vô thượng, biết tâm chưa vô thượng; tâm vô thượng, biết tâm vô thượng; tâm Thiền định, biết tâm Thiền định; tâm không Thiền định, biết tâm không Thiền định; tâm giải thoát, biết tâm giải thoát; tâm không giải thoát, biết tâm không giải thoát.
8- Vị ấy nhớ đến các đời sống quá khứ như một đời, hai đời... vị ấy nhớ đến các đời sống quá khứ với các nét đại cương và các chi tiết.
9- Với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, vị ấy thấy sự sống và sự chết của chúng sanh. Vị ấy biết rõ rằng chúng sanh người hạ liệt, kẻ cao sang, ng ười đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của họ.
10- Với sự diệt trừ các lậu hoặc, sau khi tự mình chứng tri với thượng trí, vị ấy chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại, tâm giải thoát, tuệ giải thoát không có lậu hoặc.
Này các Tỷ-kheo, THÂN HÀNH NIỆM được thực hành, được tu tập, được làm cho sung mãn, được làm như cỗ xe, được làm như thành căn cứđịa, được làm cho kiên trì, được làm cho tích tập, được khéo tinh cần thực hành, thời mười năng lực này sẽ có kết quả ngay liền..
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy”.
Trên đây là 10 năng lực của pháp môn THÂN HÀNH NIỆM mà Thầy trích ra trong kinh THÂN HÀNH NIỆM để các con có đủ lòng tin với pháp môn này.
Với pháp môn này Thầy đã kết hợp được làm cho thành một cỗ xe, được làm cho thành căn cứ địa, được làm cho kiên trì, được làm cho tích tập. Nhờ đó hôn trầm, thùy miên, vô ký, ngoan không, vọng tưởng và các cảm thọ không còn dám bén mảng đến thân tâm của các con nữa, nếu các con siêng năng tu tập.
Pháp THÂN HÀNH NIỆM tu tập như vậy đâu có ngồi nhiều, chỉ ngồi có năm hơi thở mà thôi. Vậy cớ sao các con lại thích ngồi, ngồi gục tới, gục lui như con gà mỏ thóc, như người khòm lưng giả gạo, ngồi thụng lưng như con ếch, ngồi khòm lưng cúi đầu như con rắn khoanh tròn, ngồi nghểnh đầu nghiêng cỗ như con ó tìm mồi v.v…và v.v… Tướng ngồi của các con xấu như vậy, các con có biết không? Xưa đức Phật dạy:
Ngồi phải thẳng lưng, đầu cỗ phải ngay ngắn, đó là tướng phước điền, vì thế đức Phật đâu có dạy các con ngồi thụng, ngồi cong, ngồi vẹo, ngồi nghiêng cỗ kỳ lạ như vậy. Các con kiến giải chế ra cách ngồi thiền như vậy thật là một loaị thiền kỳ lạ mà con đường tu theo Phật giáo không ai chấp nhận, xin các con hãy cố gắng sửa lại.
Các con hãy từ bỏ ngay hành động ngồi, nằm trong giờ tu tập. Các con hiện giờ thân tâm đầy ắp hôn trầm, thùy miên, vô ký ngoan không và vọng tưởng. Nếu không tu tập pháp môn THÂN HÀNH NIỆM thì chẳng bao giờ các con dẹp sạch những chướng ngại pháp ấy. Tu tập chưa hết hôn trầm, thùy miên, vô ký, ngoan không và vọng tưởng mà ưa ngồi, đó là lười biếng, không tinh tấn, không siêng năng. Người tu hành mà lười biếng, không tinh tấn, không siêng năng thì con đường giải thoát làm sao tu tập tới nơi, tới chốn được.
Những điều lợi ích của pháp môn THÂN HÀNH NIỆM mà đức Phật đã xác định cho các con thấy rõ ràng ở trên là một bằng chứng cụ thểđể dẹp sạch các chướng ngại pháp, khiến thân tâm của các con thanh tịnh, thế mà các con có tin những lời dạy này đâu, nên chỉ tu tập sơ sơ cho lấy có, cho có hình thức rồi lại ngồi hay nằm kiết tường lim dim như con cóc ngồi dưới đái giếng hay ngồi dưới cơn mưa.
Pháp THÂN HÀNH NIỆM là một pháp môn có công năng rất lớn giúp cho các con làm chủ sinh, già, bệnh, chết và chứng đạt chân lý tâm vô lậu. Vậy sao các con lại làm biếng không chịu tu tập mà cứ ngồi nằm làm phí mất thời gian quá uổng. Thân vô thường nay mạnh mai đau ốm rồi lấy gì mà chống đỡđây Khi được bài pháp này các con hãy cố gắng tu tập trở lại cho chín chắn, phải tinh cần siêng năng tu tập đi kinh hành pháp THÂN HÀNH NIỆM, phải nhiệt tâm tu tập trong từng hành động chân, tay và hơi thở, không nên bỏ xót một hành động nào cả, vì Thầy đã kết hợp 13 hành động Thân, ý trở thành một pháp môn THÂN HÀNH NIỆM.