Mặt A:
Chúng ta thương chúng ta khổ đó, từ tim của chúng ta chứ đâu. Cho nên các thầy nhớ là đôi trai gái nó có vẽ trái tim đó, nó thương nhau cũng từ trái tim mà nó ghét nhau cũng từ trái tim, phải không? Đó cái chỗ đó đó, cho nên nó từ trong trái tim đó mà nó đâm, cái mũi tên đó nó vô hình lắm, nó không khó thấy lắm nhưng mà nó đâm nát tim người ta, giết chết người ta. Ngồi tu chứ nó đâm nát tim của chúng ta, ở đây thì nhớ con nhớ vợ hoặc là nhớ của cải tài sản, đó là chúng ta bị mũi tên độc đó nó đâm ở trong tim chúng ta. Ở đây mà ngồi nhớ chùa nhớ miểu thì nó cũng đâm nát tim của chúng ta chớ không phải thường đâu. Ngồi đây mà chúng ta nhớ ăn nhớ uống thì nó cũng đâm nát tim chúng ta chứ không phải không đâu. Đó cho nên ở đây câu kệ đầu tiên:
“Cây tên khó thấy được
Từ tim ta nhổ lên
Ta diệt sầu vì con
Sầu ấy ám ảnh ta
Nay cây tên được nhổ
Không ham muốn tịch tịnh
Không thương ghét một ai
Ta quy y ẩn sĩ
Phật pháp và chúng tăng”.
Đó các con thấy nghe nó đơn giản, nhổ được cái mũi tên nó ra thì dễ dàng tu hành lắm, mà chưa nhổ được cái mũi tên đó thì như là mình chưa có bứt ra được lộ trình thứ nhất thì không thể nào đi lộ trình thứ hai. Cho nên ở đây ví dụ thì Thầy thấy cái mũi tên này là cái lộ trình thứ nhất. Nó phải nhổ cho được mũi tên ra, cho nên cái bài kệ quá thấm thía cho cái cuộc đời tu hành của các thầy hôm nay.
Để cho các thầy càng sáng lên, càng rõ lên, càng hiểu lên, càng minh mẫn ra, nó không phá trừ những cái vô minh mà từ lâu nay mình chấp đắm đó, thì hôm nay quý thầy thấy rõ rồi phải không.
Bây giờ Thầy đọc lại bài kệ để một lần nữa để cho quý thầy nhớ kỹ:
Cây tên khó thấy được
Đó mấy cô này ví dụ cây tên đó chúng ta khó thấy quá, mà không có người chỉ thì chắc chắn là tim của chúng ta bị nó đâm nát, không có còn.
Từ tim ta nhổ lên
Cái tên đó nó đâm ở trong tim của chúng ta, bây giờ, từ đó mình nhổ lên chứ không ở chỗ nào.
Ta diệt sầu vì con
Sầu ấy ám ảnh ta
Nay cây tên được nhổ
Không ham muốn tịch tịnh
Không thương ghét một ai
Ta quy y ẩn sĩ
Phật pháp và chúng tăng.
Bây giờ mới được là nương vào 3 ngôi Tam Bảo, cho nên sắp sửa tới đây Thầy sẽ giảng cái giới bổn nói về quy y Tam Bảo, chứ nếu mà.. Bởi vì quy y Tam Bảo tức là quy y 3 cái giới đầu tiên, chứ không phải nói là 250 giới, hay là 348 giới, hay hoặc là ngũ giới hay hoặc là thập giới, hay hoặc là 10 cái thập thiện, không phải đâu. Mà 3 cái giới đầu tiên là 3 giới gốc đó, là quy y Tam Bảo đó. Phải học được 3 cái giới gốc, rồi mới lần đó mình mới tăng ra tới các giới khác nó mới đúng là mình quy y, mình nương theo. Mà quy y theo 3 Tam Bảo đó là nương theo 3 cái giới, 3 cái giới hạnh đó, để cho mình tu hành. Mà 3 giới hạnh này là Phật hạnh nè, Pháp hạnh nè, Tăng hạnh nè, phải không? Nếu mà không có những gương hạnh này thì lấy ai mà làm gương cho mình tu. Cho nên 3 cái này là mình phải hiểu là 3 cái giới đầu tiên, bắt đầu quy y Tam Bảo. Đó, đến đây thì chúng ta nghỉ chút xíu.
Giới luật là một bộ môn học đạo đức giải thoát của người tu sĩ Đạo Phật, vì thế trong quá trình phát triển từ lúc sơ khởi đến bây giờ đã cho chúng ta nhận xét thấy được giá trị sứ mạng của nó về tinh thần cũng như về mỗi hành động đạo đức chơn thật mà người tu sĩ không thể thiếu được. Nhờ nhìn vào giới luật chung, chúng ta có thể xác định được triển vọng tương lai của Phật giáo ở ngày mai. Nghĩa là khi mà bộ môn giới luật học này mà đã thực hiện được thì chúng ta mới có hy vọng củacái triển vọng cái tương lai của Phật giáo. Nếu mà cái bộ môn giới luật này mà không thực hiện ở trong các vị tu sĩ, mà thực hiện cái đạo đức của nó thì Phật giáo ở ngày mai chúng ta thấy đen tối, không bao giờ sáng sủa được.
Pháp luật của một quốc gia đối với người dân tuân giữ pháp luật vốn chẳng có tác dụng nếu muốn bảo vệ an toàn và lợi ích cho những người tuân giữ pháp luật nên cần phải có pháp luật. Pháp luật cần phải được thiết lập vì trật tự an ninh xã hội và cuộc sống của con người. Ở đây thì đem cái ví dụ cũng như pháp luật của nhà nước. Nếu một người dân mà tuân giữ pháp luật thì pháp luật không có tác dụng. Do có những người dân mà không có giữ được pháp luật, làm cho mất trật tự an ninh, cho nên pháp luật mới ra đời để giữ gìn những cái người mà phạm pháp luật, làm mất trật tự an ninh, đem lại cái sự an ninh cho những cái người mà tuân giữ pháp luật. Đó là cái ý nghĩ cái pháp luật của một quốc gia là như vậy.
Cũng thế, nó có cái tương tự ở trong Đạo Phật thì nó cũng vậy, cho nên Phật chế định giới luật không phải là bắt buộc cho đệ tử của mình. Chế giới luật không phải là bắt buộc như là cái pháp luật của nhà nước bắt buộc những người phá giới. Nhưng mà chế giới luật ở đây nhằm để đưa cái người đệ tử của mình đi đến chỗ giải thoát chớ không phải là bắt buộc. Còn cái bắt buộc thì thôi, cái người vô tu mà bắt buộc họ phải giữ gìn giới luật như là pháp luật thì thôi xin khuyên cái người đó ra đi đừng có ở tu, vì ở đời cũng có chỗ mấy người sống chứ mấy người vô đây mà bắt buộc mấy người khổ quá như vầy thì tôi không có làm cái điều đó đâu. Cái giới luật của chúng tôi mà đặt chế ở đây là để cho cái người đó được giải thoát, chớ không phải bắt buộc mấy người vô đây mà chịu khổ. Đó, thì do đó mấy người ở ngoài tự do đi. Muốn ăn thì ăn, muốn ngủ thì ngủ, chứ còn ở đây thì ăn ngủ không có được tự do đâu. Cho nên không phải bắt buộc quý vị mà vô đây để khép quý vị ăn một bữa đâu, tôi không có bắt buộc cái điều đó đâu. Quý vị thấy rằng ăn một bữa là có sự giải thoát cho quý vị thì quý vị cứ ở mà sống mà ăn chứ không phải là cái sự đặt giới luật ra bắt buộc quý vị ăn ngày một bữa.
Cũng như người nào vô đây ăn ngày một bữa mà quý vị cứ đói lên đói xuống hoài thì tôi chịu không có nổi đâu, tôi thấy quý vị khổ quá tôi chịu không có nổi đâu, tôi đặt ra cái kiểu này tôi làm khổ quý vị chắc tôi không dám đặt đâu. Cho nên ông Phật ông khuyên, giới luật của ông không phải là pháp luật của nhà nước. Pháp luật của nhà nước là muốn giữ trật tự an ninh chung cho mọi người mà người ta tuân thủ pháp luật, còn cái này, tôi đặt ra cái pháp luật này là để cho người ta đi tìm lấy con đường giải thoát. Còn quý vị muốn giải thoát thì quý vị sống như chúng tôi thì quý vị thấy giải thoát. Mà không sống được mà lấy cái giới luật này mà bắt ép quý vị ăn ngày một bữa để cho người ta nói tu sĩ hoàn toàn ăn ngày một bữa hết á, mà trong đó có một số thì người ta lấy cái đó làm cái giải thoát, còn có một số thấy cái đó đói khổ quá thì chắc chắn là tôi mời quý vị về ngoài đó sống ăn ba bữa đi cho nó khỏe, chứ còn ở đây tôi thấy khổ quá, mà hơn nữa cái pháp tôi đặt ra là để giải khổ mà bây giờ đem cho quý vị khổ như vầy tôi không nỡ tâm nào hết.
Cho nên Đạo Phật không có giải thoát là tại ở chỗ tâm của quý vị chứ không phải là pháp môn của tôi, đức Phật muốn nói vậy đó.
Mà chính vì con đường giải thoát của các tu sĩ và cư sĩ, và cũng là phương thuốc ngăn ngừa sự hư đốn của tăng đoàn. Đó, thì chúng ta phải hiểu cái giới luật của Phật ra là đem cái pháp môn đó làm cho cái sự giải thoát cho tu sĩ và cư sĩ. Mà cũng phải nói rằng trong cái tăng đoàn thì nó có nhiều người, thì cũng có những người hư đốn chứ đâu phải người nào cũng tốt hết sao. Cho nên đó, cái giới luật nó ra nó ngăn ngừa cho những người mà hư đốn phạm phải những cái ăn phi thời hoặc là những cái sai. Đó, cho nên đó là những cái hư đốn. Như vậy là quý thầy đã hiểu được cái chỗ đó rồi thì mới thấy được giới bổn của Phật giáo nó không phải là cái sự khô cằn cỗi đâu, nó không phải là sợi dây lòi tói mà trói buộc, mà bắt buộc quý vị phải ăn một bữa đâu, nó không có khép chặt quý vị….
Đó, quý vị hiểu như vậy thì mới thấy được cái giáo pháp của đức Phật nó mới có một cái giải thoát nó không làm khổ ai hết, nó không trói buộc ai hết.
Tu sĩ nếu không có giới luật làm tiêu chuẩn phép tắc cho sự sinh hoạt tu tập hằng ngày thì liệu sự tu tập hằng ngày liễu sanh thoát tử thì không phải dễ dàng đâu. Nếu mà nó không có giới luật thì đi tìm cái liễu sinh thoát tử không có dễ dàng, là vì có giới luật ở đó thì chúng ta mới đi tìm cái liễu sanh thoát tử nó mới có dễ dàng. Cho nên cái giới luật nó rất là quan trọng, nhất là cái giới hạnh, giới hạnh tức là giới bổn đó.
Tăng đoàn mà không có giới luật làm cương lĩnh thống nhiếp, giáo hóa thì tiền đồ của Phật giáo không những tan rã mà tu sĩ Phật giáo sống trong đen tối. Chúng ta phải hiểu cái chỗ này nữa. Là vì nếu mà không có cái giới bổn này làm cái cương lĩnh thống nhiếp giáo hóa thì chắc chắn là cái con đường của Phật giáo nó tan rã, chứ nó không có còn đâu.
Vì bây giờ tại sao mà chúng ta thấy Phật giáo hiện giờ nó không có cái giới luật nghiêm chỉnh mà nó còn làcó lúc nó hưng có lúc nó thịnh, à chúng ta phải suy nghĩ như thế này thì chúng ta thấy rất rõ. Là vì bây giờ nó hưng là nó theo một vị thầy, nó theo một vị tổ, nó hưng theo cái vị thầy vị tổ đó. Rồi cái vị thầy vị tổ đó hướng dẫn sao nó tin tưởng theo, nó theo đó, cho nên nó hưng là nó hưng theo cái vị thầy. Còn khi mà vị thầy đó mất rồi thì nó suy xuống, nó không còn ai nó theo nữa thì nó suy xuống. Cho nên thường thường là Phật giáo Trung Hoa, Phật giáo bên Trung Quốc là cái Phật giáo nó không có chấp hành cái giới luật nghiêm chỉnh, cho nên nó thịnh suy là theo cái vị tổ của nó mà thôi, cái vị hướng dẫn đó. Nó có lên xuống lên xuống thường xuyên, lâu lâu vậy có vị xuất hiện ra nói, ăn nói nghe lưu loát cái là bắt đầu họ tập trung theo, rồi họ tu tập, rồi hết vị đó chết rồi không còn ai mà ăn nói lưu loát nữa hoặc là số ăn nói lưu loát đó họ cứ nghe hoài nhàm tai rồi họ thấy nó cũng không có nhằm nhò gì đến sự giải thoát cho nên họ bắt đầu lui dần lui dần thì trong cái bóng tối dần.
Cũng như mình thấy thiền Trúc Lâm của mình một thời của 3 vị tổ như là Trần Nhân Tông, như là PhápLoa, như là Huyền Quang, 3 vị đồng thời một lượt với nhau trong một cái thời điểm rồi phát huy cái thiền Trúc Lâm. Rồi do đó, sau đó sau khi các vị này tịch rồi thì hầu như nó chết lìm chết lìm dần đi mất, không còn người nào nữa hết. Là tại vì nó hưng thịnh theo cái giáo pháp của các ngài đó, mà người ta nghe nó hay thì người ta tập trung nhưng sau đó thì người ta không thấy nó đạt kết quả nữa cho nên người ta lui dần. Vì vậy mà cái thiền này nó bị lui vào ở trong bóng tối, nó không còn sống được nữa.
Còn cái giới luật của Phật đặt ra mà từ ngày đức Phật đến giờ nó không có được thay đổi, cho nên ở đây trong cái giới luật Thầy sẽ nhắc lại, như ông Ca Diếp thì ông khi mà kết tập giới luật xong thì ông nói: “Có nhiều người nói đức Phật bảo thay đổi những cái giới nhỏ nhặt nào đó, bỏ bớt đi, mà đức Phật không nói ra những giới nhỏ nhặt nào đó cho nên người ta cũng không biết sao hết”, Cho nên ông Ca Diếp nói: “Không có bỏ cái giới nhỏ nhặt nào hết, mà cũng không có thêm được cái giới nào hết”, thì ông Ca Diếp ông nói kiểu ổng thì chắc chắn cái giới của ổng thành cái cây rồi. Cho nên cái mà tuyên bố như vậy thì Thầy nghĩ rằng đó là cái giới cây chứ không phải là giới luật của Phật.
Giới luật của Phật nó linh động và nó khéo léo, mà nó cũng không thêm mà nó cũng không bớt. Bởi vì đức Phật đã di chúc cho chúng ta hẳn hòi là: (các thầy nhớ kỹ lời di chúc cuối cùng của đức Phật như thế nào?) “Các thầy Tỳ kheo hãy lấy giới luật ta mà làm thầy” thì cái chỗ đó có bớt được không? Nếu bớt thì đức Phật đã bớt trong khi đức Phật còn sống, phải không? Sau này các ông thấy giới luật nó gò bó quá như vậy, bớt ra cho đỡ đỡ chút, để dành có muối ăn chớ, nếu không có bữa đi xin người ta cho cơm không, không có muối về ăn lạt chịu sao nổi.
Cho nên có cái ông Đại Thiên, ổng chế ra cái giới mới của ổng: “Đức Phật còn cho chúng ta để dành muối”. Thầy thấy cái chuyện đó là cái chuyện còn chạy theo dục lạc, ăn cơm mà không muối chắc nuốt không vô rồi. Có gì đâu mấy con, Thầy nói thật sự ăn cơm không có muối có gì đâu, chế nước vô lua cứ tống cho nó vô, nó không vô lấy cái muỗng mở cái cổ ra cho nó chạy vô trỏng thì nó cũng vô trỏng, có gì ở đó mà mặn lạt, phải không? Nó vô một hơi nó đầy thì cũng phải no thôi. Cái chuyện đó là cái chuyện của người ăn để mà sống chớ không phải là cái người ăn để ngon.
Còn mình sợ không có muối nên đặt ra cái giới “Phật còn chế ra cái bớt cho chúng ta là bỏ bớt, là còn được cất giữ muối để dành” để bữa nào đi xin người ta cho cơm không về lấy muối đó để ăn. Có phải là chạy theo dục lạc không? Đây là Thầy nói cái muối không cũng là đủ biết cái nghiện muối của chúng ta cũng là nghiện. Cho nên có người thì ăn mặn quá mà cũng có người ăn lạt. Đó các con thấy cái điều đó là cái điều nghiện của chúng ta chứ đâu phải cái gì. Thử bữa nào mà đem cơm không, mà không có cho đồ ăn, rau luộc cũng đừng có cho muối các con nuốt vô không? Chắc gì mà vô. Thầy thì bao nhiêu Thầy thọc cũng vô hết. Phải nó không vô, lấy cái muỗng nạy ra cho nó vô, đổ nước cho nó chảy vô hết, có gì đâu mà sợ. Cái cổ của mình là cái ống chứ đâu có phải là gì đâu mà không tuột. Còn mấy con mà nuốt nhai như vậy thôi nuốt trợn trắng con mắt mà nuốt không vô đâu. Biết cách thì nhét nó vô được hết thì nó no mà không biết cách thì chắc nó đói ở trỏng. Đó là cách thức mà của người tu, chớ không phải cái người mà không tu.
Cho nên ở đây Thầy thấy hầu hết là nói về giới bổn, Thầy đọc Thầy mắc tức cười cho mấy ông ngày xưa mà sao mấy ổng thiệt là tìm mọi cách mà phá giới đó, mà ông Ca Diếp lại tuyên bố cái kiểu đó là ổng... Thầy không biết ổng hiểu giới như thế nào. Nếu mà có ông Upali ở đó chắc là ông rằn ri lắm, ông nói kiểu này chắc đời sau là họ chết hết đó. Nó khô quá khô à, không cho thay đổi, mà không gì hết. Tức là giới luật người ta linh động lắm chứ, nhưng mà người ta đâu có thêm mà người ta đâu có bớt, bởi vì giới luật là thầy của mình rồi, mà đức Phật đã xác định như vậy rồi thì giới luật đó không bao giờ được thêm mà cũng không bao giờ được bớt. Tại sao vậy? Tại vì nó đầy đủ rồi, nó không thiếu. Nghĩa là bây giờ tới thời đại nào nó cũng đầy đủ hết, cái hoàn cảnh nào, cái thời đại nào nó cũng phải như vậy là như vậy. Nghĩa là nó là một cái chơn lý của giới luật. Là một bậc thầy của chúng ta rồi thì không bao giờ mà ông thầy đó được thay đổi, từ cái ngày đức Phật đã chế nó ra cho tới bây giờ chúng ta sống nó phải như vậy, mà kẻ nào làm khác là kẻ đó không bao giờ đi đúng con đường của đạo Phật.
Thầy nói như vậy, cái xác định của Thầy là cái xác định rất linh động. Chẳng hạn như hồi đó nó đâu có ti vi, nó đâu có tủ lạnh, đâu có máy điều hòa không khí, nó đâu có cát xét, nó đâu có video phải không, các con hiểu không? Nhưng bây giờ mà đức Phật cấm không cho chúng ta ca hát thì chúng ta biết hạng đó là loại ca hát không chứ gì, thì dẹp quách nó đi thì có gì đâu mà phải chế giới mới, phải không? Các con hiểu điều đó. Còn bấy giờ hồi đó thì nó không có cà phê, phải không? Nó chỉ có rượu thôi, bây giờ có cà phê, thuốc phiện thì giờ mình cấm luôn, có gì đâu mà trật. Bởi vì thứ đó là thứ ghiền. Hồi đó hổng biết có thuốc lá không thầy không biết nhưng mà có cấm rượu, chắc chắn hồi đó là chưa biết sắc thuốc lá đâu cho nên các ông đó chắc chưa biết hút, cho nên không nghe cấm thuốc, chứ còn bây giờ Thầy cấm thuốc. Cho nên hồi đó ông Phật không cấm thuốc nên mấy thầy bây giờ cầm điếu thuốc hút như thường, nói ông Phật đâu có cấm thuốc. Là lúc bấy giờ ông Phật đâu có thuốc hút mà cấm, chớ mà ông hút thuốc mà sinh ghiền, sinh bệnh vậy là ổng cấm liền chứ đâu để tu sĩ mà cầm thuốc hút bậy bạ vậy, phải không?
Cho nên giờ mấy ông thầy chúng ta thấy, thậm chí như HT cũng rút điếu thuốc hút, mà rút điếu thuốc kêu là thuốc thơm, thuốc ngon nữa chứ đâu phải, thuốc có các đàng hoàng, chứ đâu phải hút thuốc rê. Thầy thấy trên cái kiểu của họ xài như vậy là đủ biết rằng họ đã nhiễm, mà cái thứ nhiễm là đức Phật đã không ưa rồi. Giới luật của Phật là cấm cái thứ nhiễm.
Các con thấy giới luật của các tôn giáo khác đâu có cấm uống rượu, cho nên mấy ông Cha uống rượu lia lịa. Còn ông Phật ông chơi về cái kiểu đó mấy ông thầy đâu dám uống, cho nên cứ lén uống bia, phải không? Các con thấy cái chuyện đó là cái chuyện bậy bạ. Mà đức Phật biết đó là những cái nó làm cho mình thành cái thói quen nghiện ngập mà nó sinh ra những cái tồi tệ. Những cái giới khác nó bị phạm do cái chỗ mà nghiện ngập này mới sanh ra tham lam trộm cắp, mới sanh ra thứ này, thứ kia do cái chỗ nghiện rượu. Nó là thứ 5 chứ nó đặc biệt nó phạm hết tất cả các giới đó. Khi nó say sưa rồi nó biết cái thứ gì, con gái người ta nó cũng ôm nữa chứ đừng nói nó tham, cái thứ thằng say mà nó biết thứ gì. Thầy nói đó là cái sự thật hiển nhiên, tới chừng đem bắt nó ở tù, nói hồi đó tôi say rượu chứ tôi đâu có biết. Có giam nó được không? Các thầy phải nghĩ cái điều đó, nó mượn rượu mà nó làm tầm bậy, lúc bấy giờ người ta cũng đâu có bỏ tù nó được. Có nhiều ông như vậy, họ chửi cách mạng, mà họ mượn ba chén rượu chửi cách mạng đã đời rồi, bắt bỏ tù, nói hồi đó tôi say tôi đâu có biết, rốt cuộc cũng phải thả nó ra, mấy thằng say mà biết gì. Chứ sự thật nó mượn rượu nó chửi người ta, nó chửi cho đã mồm nó. Đó thì Thầy nói để cho thấy được chỗ mà giới luật cho đúng, mà từ xưa đến giờ nhiều cái về giới bổn này nó đều là sai lệch hết.
Từ khi mà chia ra làm 20 bộ phái của Phật giáo rồi, người nào cũng chấp một giới luật nào đó, họ cho là của họ đúng rồi họ làm bộ luật ra, cho nên năm, bảy bộ luật. Thậm chí như người ta nói như thế này, trong kinh sách nói như thế này: Lần kết tập đầu tiên mà ông Upali đọc giới xong rồi người ta nói như thế này này: “Không có viết ra thành văn bản, chỉ có đọc mà nhớ thôi”. Trời đất ơi! Kết tập kinh điển bộ chuyện dễ sao, khi mà người lãnh đạo kết tập kinh điển như ông Ca Diếp là một bậc Alahan thượng thủ trí tuệ, đâu có lý nào để mà đọc nghe chơi, xong rồi đi về, làm sao nhớ hết được. Cái chuyện đó đặt bịa ra nói không có ghi chép, cho nên sau này 25 bộ phái không có cái bộ luật chính, cho nên vì vậy ai muốn đặt sao thì đặt, họ lấy lý do đó để mà... Không ngờ á, là mấy cái ông này, mấy ông đem đốt bộ luật của ông Ca Diếp kết tập hồi ông Upali đọc, ông đốt sạch đi. Bây giờ ông mới chế ra giới luật nên mới năm, bảy bộ luật. Trời ơi! đâu cũng có bộ luật, Tiểu Thừa cũng có bộ luật, Đại Thừa cũng năm bảy bộ. Luật gì mà luật dữ vậy. Luật thì gồm có một bộ thôi chứ? Cái ông nào cũng có bộ hết à. Bộ phái nào cũng có bộ luật hết à. Hai mươi bộ phái thì chia làm 20 bộ luật. Mà giờ người ta rút lại còn có 5 bộ luật à, chớ còn nếu mà để thì bây giờ một đống luật, chúng ta cất tủ ngập hết á.
Đó là những cái sai của người ta. Người ta chạy theo dục lạc nơi đâu thì người ta chế theo giới luật đó để nó giảm bớt luật của Phật đi, để cho chúng ta sống theo thoải mái, muốn hút thuốc thì nói Phật không có dạy hút thuốc, phải không? Muốn uống cà phê nói Phật không có dạy uống cà phê. Bây giờ rượu Phật hồi đó cấm uống rượu nếp này kia chứ đâu có cấm rượu La-be (rượu label). Còn bây giờ cứ cho uống rượu La-be đã thôi đâu có sao. Cái chuyện đó đâu có phải là Phật cấm rượu La be đâu, hồi đó đâu có rượu La-be, hồi đó cao lắm là rượu nếp, rượu gạo thôi, chứ đâu có rượu La-be được. Cho nên tất cả những cái này đều là những cái mà có thể cái miệng lưỡi của người ta vì ghiền cái đó rồi, bắt đầu lý luận phá giới luật. Mà nếu mà ông Ca Diếp ông bảo rằng không có được thêm mà không có được bớt. Thì hồi đó ổng nói không có được thêm thì tôi đâu có thêm, vì Phật cấm uống rượu, bây giờ tôi uống cà phê đâu có sao, tôi uống trà cũng đâu có sao, tôi đâu có lỗi. Tôi hút thuốc cũng đâu có sao, Phật cấm uống rượu không. Vậy thì bây giờ ai dám thêm chỗ này là cấm hút thuốc đâu. Cho nên ông Ca Diếp nói họ bắt cái trớn ông Ca Diếp thì Giới luật của Phật nó khô cằn rồi. Lúc bấy giờ tu sĩ mình nó ngồi nó nghiện, nó ngáp, nó hút á phiện nó gật gù gật gù, thử hỏi còn dáng tướng của tu sĩ nữa không? Phải không? Các thầy phải hiểu chỗ đó không?
Đó, như vậy mà không linh động được cái pháp mà cấm họ thì bây giờ nhà cửa trong cái thất của tu sĩ. Hồi đó Phật đâu có cấm radio, ti vi, đầu (video), này kia đâu, bởi vì có đâu mà cấm, chỉ cấm tôi ca hát thôi. Bây giờ máy nó hát chứ đâu phải có đào kép hát đâu, phải không? Hồi đó đào kép hát Phật cấm không cho xem. Còn bây giờ cái máy nó hát chứ đâu phải người hát, tôi mặc tình tôi nghe, có gì đâu. Họ lý luận cũng vẫn được chứ đâu có gì sai phải không các con.
Cho nên Giới luật của Phật rất linh động, những lời ca tiếng hát nó làm chúng ta đắm nhiễm chứ đâu phải là cái con đào, con đào là cái hình sắc nó cũng làm đắm nhiễm, nhưng mà nó làm đắm nhiễm cả trong cái lời ca của nó nữa. Sắc nó cũng đắm nhiễm, âm thanh nó cũng đắm nhiễm. Sự thật biết được, thấy được cái điều này rồi mà giới luật cấm ra là để chúng ta đừng đắm nhiễm, đắm nhiễm sắc, đắm nhiễm âm thanh. Rõ ràng là sáu cái sắc thanh hương vị xúc pháp đó nó đối trị với sáu căn của chúng ta mắt tai mũi lưỡi thân ý của chúng ta.
Tất cả những cái điều này mà học đến giới luật thì Thầy, nhiều khi dạy đến giới luật Thầy bực mình cái chỗ này, mấy ông già xưa sao mà không có sáng suốt chỗ nào hết, mà để cho Giới luật của Phật nó chết mòn, chết dần như thế này. Mấy ông già thiệt là tệ quá. Mà sự thật ra Thầy nghĩ rằng ông Ca Diếp không bao giờ nói lời nói đó đâu. Ông là một cái người gọi là Đệ nhất Đầu đà của đạo Phật không bao giờ nói ra lời nói đó đâu, mà chính mấy ông sau này đặt điều nói ông Ca Diếp nói chứ không phải ông ấy nói để cho cái giới luật đó. Đặng chi, các con biết không? Không có được thêm, nghĩa là đức Phật cấm uống rượu chứ không có cấm hút thuốc, thì mấy ông thầy, mấy ông thầy bâygiờ hút thuốc tự do, phải không? Đó là cái chỗ mấy ông đặt câu nói của ông Ca Diếp nói như vậy đấy là xác định ông Ca Diếp là người kết tập kinh điển giới luật đầu tiên, mà ông xác định như vậy không cho thêm mà cũng không cho bớt. Nghĩa là lỗi nhỏ nhặt không bớt mà thêm nữa thì không được. Cái thời đại của chúng ta nó thêm biết bao nhiêu là cái thứ dục lạc, phải không? Thế mà ông Phật thời đó không có mà bây giờ chúng ta làm sao? Mà không thêm thì như vậy là tu sĩ chúng ta nó trở thành tu sĩ nghiện hết rồi chứ đâu có còn là tu sĩ giải thoát, mà tu sĩ mê dục lạc hết rồi.
Đó, thì như vậy chúng ta mới thấy được cái chỗ mà giới luật chứ còn không khéo chúng ta không thấy đâu.
Cho nên ở đây nếu mà nhìn thấy cái tăng đoàn mà nó không có cái giới luật như vậy, mà không có cái giới luật linh động như vậy thì cái Phật giáo nó sẽ sống ở cái sự đen tối của nó.
Đó bây giờ thì đến đây chúng ta xin nghỉ để sắp sửa ăn cơm.
Tăng đoàn
Tăng đoàn mà không có giới luật làm cương lĩnh, thống nhiếp, giáo hóa thì tiền đồ của Phật giáo không những tan rã mà tu sĩ Phật giáo sống trong đen tối chẳng biết đường lối tu tập. Cũng vì thế khi đức Phật sắp sửa nhập Niết bàn Ngài di chúc lại lời dạy cuối cùng: “Các thầy Tỳ kheo nên lấy giới luật của ta mà làm thầy”.
Tục ngữ có câu: Lời thẳng trái tai, thuốc đắng dã tật. Phàm quy định một sự câu thúc nào, tri kiến cho người ta dừng bước để đạt đến cảnh giới cao nhất, khiến cho mọi sự an ổn, yên vui, thích thú hơn song sự hướng thượng nào cũng chưa chắc đã giúp cho mọi người tiến bước một cách dễ dàng. Hẳn nhiên là có một cảnh giới tốt đẹp đang chờ đợi mọi người, nhưng trước khi đến đó, đầu tiên ta phải trả một giá rất đắt, là một sự gian nan cay đắng. Phải xem người trượt tuyết, từ trên cao trượt xuống thấp mau chóng dễ dàng, tuy có cái nguy hiểm mất mạng, mà ngay nơi đó rất là dễ chịu, dễ dàng, còn hướng lên cao tuy có được cảnh giới an vui, xinh đẹp, hạnh phúc nhưng trước tiên phải chịu gian nan thử thách. Vì thế hướng thượng ai cũng ước ao, ham muốn nhưng mấy ai dễ đạt được mục đích.
Thì ở đây quý thầy thấy là cái giới luật của Phật là giúp cho chúng ta hướng thượng cho nên khi mà hướng thượng thì chúng ta phải có những cái gian nan, cái thử thách của nó. Chứ còn nếu mà chúng ta đi xuống theo như ngoài đời, cuộc sống ở ngoài đời thì đó là cái người ta đổ ở trên núi người ta đổ xuống dốc người ta xuống. Nó dễ dàng lắm, chạy theo dục lạc thì đâu có gì khó, nhưng mà chúng ta đi ngược trở lên, do đó chúng ta mới thấy cái khó khăn của nó. Như ở ngoài đời người ta ăn ba bữa còn mình thì ăn một bữa, thì đó là người ta chạy xuống còn chúng ta đi lên đó. Ở ngoài đời thì người ta vui cái này vui cái kia, còn mình thì khép chặt ở trong cuộc sống trầm lặng, cho nên tất cả những cái đó là cái trái ngược nhưng khi mà chúng ta đạt được cái cao tuyệt hạnh phúc, thì nó ở cái độ cao chứ không phải ở cái độ đi xuống.
Đó, thì những cái gian nan đó, thì như vậy nó mới có cái giới luật của Phật, nó mới có cái giới bổn, cái giới luật của Phật mà để khép chặt chúng ta trong cái khuôn khổ, để đưa chúng ta đi đến cái mục đích cao hơn, hạnh phúc hơn, an vui hơn. Còn nếu mà không có cái giới luật của Phật thì chúng ta sẽ tụt xuống chứ không bao giờ mà đi lên được. Bằng chứng như bây giờ chúng ta đã thấy rõ người tu sĩ Phật giáo là đang trượt xuống chứ không phải đi lên. Đó, thì muốn mà đi lên thì chúng ta phải khép chặt mình ở trong những cái giới luật, giới bổn của Phật.
Sau ngày Phật diệt độ, trong chúng Tỳ kheo, có một vị Tỳ kheo tên là Bạt-nan-đàcảm thấy vô cùng thích thú khi hay tin Phật diệt độ. Ông ta nói với mọi người: “Lão già ấy chết đi là tốt, lúc còn sống chế điều này là phải làm, điều kia là không nên làm, nhất là hay nói về ăn, về ngủ, về độc cư, sống phải trầm lặng, sống theo lão buồn chán và tẻ nhạt chẳng có gì là thích thú của đời tu hành. Lão ấy chết rồi chúng ta được tự do”. Đó là trong cái thời đức Phật mà khi nghe đức Phật nhập diệt thì có vị Tỳ kheo đó tên là Bạt-nan-đà ông ta nói ra những cái lời nói đó đủ biết trong cái thời đức Phật người ta cũng không thích thú gì cái lối giới luật của Phật, cái lối pháp tu của Phật đâu, người ta cũng có người như vậy chứ không phải là không. Nhưng có người người ta hướng thượng, người ta chịu khó gian nan vất vả người ta đi lên được, người ta thấy được cái hạnh phúc thật sự của của cái giới, của giới luật của Phật như vậy.
Lời nói này được truyền tới tai tôn giả Ca-diếp, ngài cảm thấy rất đau buồn cho Phật, cho Đạo Phật ngày mai, “Nếu quả như vậy tinh thần và công đức cứu thế của Phật giáo, nhân vì đức Phật nhập diệt, mà cũng theo đó kết thúc sao?”. Đó là cái ông Ca-diếp đó thì ổng mới nghe cái lời nói đó thì nghĩ rằng cái thời đại về sau tương lai, thì không lý nào mà Phật giáo lại kết thúc ở tại chỗ đó, nhưng sự thật chúng ta nhìn Phật giáo hiện giờ thì phải thấy rằng cái đà mà xuống dốc của nó, thì chúng ta thấy nó chẳng đi về đâu cả. Cho nên Phật giáo còn là hình thức còn, chứ còn nội dung về tinh thần giải thoát của Đạo Phật thì nó không còn có nữa. Cho nên lời ông Ca-diếp nói chỗ này là một cái nghi vấn, nhưng nó là một cái sự thật cho về sau của chúng ta, của những người bất hạnh mà không có được gặp đức Phật hiện tiền trong cái thời đức Phật.
Chúng ta gặp Phật, không có gặp Phật mà chỉ gặp pháp, gặp giới luật của Phật và cái đà đi xuống của Đạo Phật làm chúng ta mất đường, mất lối, chúng ta không biết đâu mà đi, đi lên để chúng ta hướng thượng, để chúng ta tìm lại sự giải thoát chân thật của nó, để thoát ra cảnh khổ của cuộc đời mà mỗi con người đều đang khổ như nhau, không ai khác nhau.
Nhớ lại lời dạy sau cùng của đức Phật: “Này các thầy Tỳ kheo, sau khi ta diệt độ các thầy phải nên tôn trọng và cung kính giới bổn Patimokkha như là một vị thầy của các ông. Giới luật là ánh sáng giúp cho các ông đi trong đêm tối. Giới luật là tài sản, của báu mà các ông là những người nghèo khổ được nó. Giới luật còn là đạo ta còn, giới luật mất là đạo ta mất. Các ông hãy cố gắng giữ gìn”. Nhân đó tôn giả Ca-diếp quyết tâm triệu tập các vị đại đệ tử đương thời kết tập luật tạng.
Đó, thì nhân cái chỗ mà qua lời di chúc của đức Phật như vậy “Đạo Phật còn là giới luật còn, Đạo Phật mất thì giới luật mất” thì do cái lời di chúc đó mà ông Ca-diếp ổng phải nỗ lực ngay cái đám tang của đức Phật xong thì ngài triệu tập, vì lúc bấy giờ các đại đệ tử của Phật đều về đầy đủ trong cái đám tang đó mà chứ không có thiếu ai hết, cho nên nhân cái cơ hội đó thì ngay liền ông Ca-diếp triệu tập cái cuộc họp để mà tập kết kinh luật, kinh luật tạng chứ không để mà chờ cái cơ hội nào khác nữa. Đó là cái dịp may, nhân cái đám tang đó mà làm cái việc kết tập kinh tạng rất dễ không khỏi phải đi từ cái xứ này đến xứ khác mà mời các vị đại đệ tử của Phật. Vì lúc bấy giờ các vị đại đệ tử của Phật thường là đi du hóa, đi dạy đạo ở các nơi xa xôi cho nên nhân cái dịp mà đức Phật nhập diệt thì họ về các đám tang đó cho nên Ngài Ca-diếp lợi dụng chỗ đó dễ dàng để gặp từng người nói với họ là chúng ta sẽ ở lại để mà để kết tập xong cái giáo lý cái giới luật của Phật xong rồi chúng ta sẽ trở về cái địa phương của chúng ta để giáo hóa chúng sanh.
Thì lúc bấy giờ các ngài đều thấy cái mạng mạch của Phật pháp còn hay là mất là do cái chỗ còn kinh tạng, kinh giới này, mà còn thì mạng mạch của Phật pháp mới còn, chứ đức Phật đã mất rồi, mà lời di chúc của đức Phật nói hẳn hoi rõ ràng là giới luật là thầy của các vị Tỳ kheo sau này. Mà không kết tập thì lấy cái gì làm thầy được, chứ đâu phải chỉ ông Ca-diếp hay hoặc là ông nào đó làm thầy thì thôi chứ ông đó ổng khỏi cần phải kết tập làm chi kinh sách. Còn đằng này đức Phật lại chỉ cái giới luật, thì thử hỏi chúng ta làm sao, các bậc Tỳ kheo, các bậc Thánh tăng trong lúc đó bây giờ đức Phật đã chỉ định cho một cái người mà thừa kế Đạo Phật như vậy, thì nó một là cái giới bổn rồi, nó là một cái giới rồi không thể nào mà không viết thành văn bản được. Cho nên buộc lòng các ngài cũng phải tập trung nhau lại để kết hợp thành một cái văn bản thật sự của đạo Phật, để làm cái khuôn vàng thước ngọc cho các vị Tỳ kheo nương theo đó mà thực hiện con đường tu hành giải thoát.
Đó thì hôm nay chúng ta xét như vậy thì chúng ta thấy cái chỗ mà kết tập của ông Ca-diếp lần đầu tiên nó không phải là cái sự cạn cợt đâu, mà là cái sự tích cực hết sức để duy trì mạng mạch của Phật giáo về sau chứ không phải là cái việc làm tầm thường đâu. Lời di chúc của Phật ngay đó là trước đó vài giờ là Phật chưa thị tịch đó, thì Ngài đã nhắc đi nhắc lại cái lời này mà sau đó thì Ngài thị tịch rồi, cái lời đó còn nó còn một bên với các vị đại Thánh tăng chứ không phải Ngài nhắc một tháng, hai tháng thì nói các ngài quên, mà đằng này vừa, trong khi vừa sống đó, vừa nhắc cái lời cuối cùng đó thì Ngài là thị tịch, thì lúc bấy giờ thì các ngài phải nhớ mãi rằng Phật pháp còn thì giới luật còn, Phật pháp mất thì giới luật mất.
Đó, thì như vậy là chúng ta thấy cái lời của Phật nói ở đây nhắn nhủ các đệ tử của mình “giới luật còn là đạo ta còn, giới luật mất là đạo ta mất”. Cái câu nói này nó tha thiết đến độ Thầy nói không có thể lường được cái chỗ đó, mà một người tu sĩ Đạo Phật mà đọc đến câu này mà chúng ta phạm giới, thì chúng ta không thấy làm sao mà chúng ta không đau khổ, nếu chúng ta phạm giới tức là chúng ta đã làm mất Phật pháp rồi, chúng ta đã hủy hoại Phật pháp rồi. Cái lời nói này nó làm cho mỗi một vị tu sĩ của Đạo Phật nó thâm tâm nó sâu sắc đến cái mức độ nào, không ngờ mà người ta sao mà không có một cái tâm trạng đau đớn như vậy. Ngày ăn ba bữa mà họ nỡ tâm họ ăn được, Thầy không hiểu sao, họ sung sướng ở trong những ngôi chùa cao tháp lớn, họ sung sướng, họ đầy rẫy những vật dụng ở trong phòng ốc của họ, mà họ sung sướng được mà cái lời nói của Phật: “Giới luật còn là đạo ta còn, giới luật mất là đạo ta mất”. Nếu chúng ta chẳng phải là đệ tử của Phật, chẳng phải là đệ tử xuất gia của Phật thì chúng ta làm gì cũng được, mà chúng ta là đệ tử xuất gia của Phật, là một vị Tỳ kheo mà tại sao chúng ta nỡ tâm trước cái lời di chúc tha thiết đến mức độ này mà chúng ta nỡ phá giới luật của Phật.
Thầy không hiểu làm sao mà các bậc tôn túc, các vị lớn của chúng ta đã từng là dịch ra những kinh sách luật đã nói đến những điều… trong giới bổn. Bởi vậy Thầy thấy, là một cái khi mà đọc đến đây, nhiều khi đọc qua cái lời di chúc của Phật nói đến cái lời mà Thầy phải thấy cái bổn phận và trách nhiệm của một vị tu sĩ, Thầy thấy rưng rưng nước mắt. Thầy nghĩ rằng một người tu sĩ phải có bổn phận và trách nhiệm giữ gìn cái mạng mạch của Phật pháp, mà giữ gìn nó bằng gì đây, bằng cái lời nói “Giới luật còn là đạo ta còn, giới luật mất là đạo ta mất”. Lời nói của ông cha lành từ ngàn xưa còn văng vẳng mãi bên tai chúng ta, mà thế nào người ta sung sướng được, thế nào mà người ta chạy theo dục lạc được để cho Đạo Phật mất. Đó là những điều mà cái người đệ tử của Phật phải từng tâm niệm thâm sâu nỗi khắc khoải trong lòng của mình nhìn thấy Phật giáo đi xuống mà đau lòng đứt ruột.
Đó là lần kết tập an cư thứ nhất sau khi đức Phật nhập diệt, đó cũng là lần kết tập kinh luật thứ nhất tại hang Thất Diệp với sự tham gia của 500 vị đại A-la-hán. Ngay sau khi tôn giả A Nan tụng xong kinh tạng, kế tôn giả Upali tụng luật tạng, đại chúng tham dự buổi kết tập này ấn chứng và thông qua không có điều chi thêm bớt, thêm hoặc bớt. Do thế tạng kinh và tạng luật đầu tiên được tuyên bố là hoàn thành. Theo một giả thiết người ta cho sự kết tập của thời ấy không có ghi chép lại thành văn tự chỉ là thống nhất do miệng tụng tâm ghi nhớ mà thôi. Riêng phần về ý kiến của tôi (ý kiến của Thầy đó), thì tôi không hiểu đơn giản như vậy được, khi kết tập là phải có viết thành văn tự không thể kết tập mà chỉ kết tập chỉ đọc suông để ghi nhớ. Vả lại lúc bất giờ kết tập kinh luật là một điều quan trọng của Phật giáo, không thể các ngài sơ sót như vậy được. Các ngài bấy giờ là các bậc Thánh tăng, là các Đại đệ tử của đức Phật, làm việc này với thánh trí để duy trì kinh luật của Phật giáo. Cho nên Phật nhập diệt trong khi chúng tăng còn đông đảo, còn đông đủ, lợi dụng đều có mặt của các bậc thánh tăng, ngài Ca-Diếp mời chư tăng ở lại kết tập đều là những tay thượng thủ của Phật giáo lúc bấy giờ, chứ không như ý kiến của Thánh Nghiêm. Thánh Nghiêm là cái người mà viết cái bộ luật đó, ý kiến phỏng đoán, nghĩa là ông phỏng đoán, ông cho rằng không có viết thành văn bản đó, sau ngày Phật diệt độ có một số các trưởng lão Tỳ kheo không nhận lời mời của ngài Ma-ha-ca-diếp tham gia hội kết tập lần thứ nhất. Đó là cái ông Thánh Nghiêm ổng phỏng chừng rằng sau cái ngày mà Phật nhập niết bàn thì không có một số Trưởng lão khi mà ông Ca-Diếp mời, thì cái số Trưởng lão đó không có nhận cái lời mời tham gia kết tập kinh sách, thì cái điều đó là cái điều sai, khi mà còn các bậc đại Thánh tăng của đệ tử, mà trong khi đức Phật mà tịch thì chắc chắn các ngài phải về hết.
Theo Thầy thiết nghĩ thì không có người nào có thể bỏ cái đám tang mà của một vị đạo sư của mình hết, họ phải về. Và lợi dụng cái đó ông Ca Diếp khỏi phải đi xứ này xứ kia để gọi các ngài về, cho nên rất là tiện lợi, vì vậy ngay đó là kết tập liền. Còn ở đây đó là phỏng chừng, phỏng đoán và đồng thời ông Thánh Nghiêm ổng còn phỏng đoán là cái kiểu mà không viết thành văn tự nữa. Đó là cái sự phỏng đoán theo cái sự nghiên cứu giới luật mà thấy nó lộn xộn, nó lu bù thì ông nghĩ rằng như vậy có lẽ là tại không có cái bộ giới luật chính cho nên các ngài muốn thêm thắt như thế nào là tự ý thêm thắt. Do đó mà cái sự suy tư, cái kiến giải, cái tưởng giải của Thánh Nghiêm thì nó lệch lạc, nó không đúng. Bởi vì các bậc Thánh tăng người ta nghĩ rằng làm một việc gì người ta cũng phải có ý tứ chứ. Bây giờ nói rồi đến chừng đó nó không thành văn bản thì lấy cái gì mà làm thầy của chúng tăng đây, rồi nay ông này nói vậy, mai ông khác nói sao.Phải lấy nó làm thành văn bản, bởi vì bây giờ chúng ta làm một việc gì đó nó phải có văn bản, có chứng cớ thì nhà nước người ta mới xử được, còn mình nói khơi khơi làm sao người ta xử được. Cho nên mình muốn thưa kiện ai cũng phải văn bản, chứ mình nói tôi vậy vậy tôi đúng vậy người kia cũng nói vậy, ông nội ai biết ai đúng ai sai, phải thành văn bản người ta xem đó. Thì giới luật là thầy của mình thì cũng phải thành văn bản thì kinh giới nó cũng vậy, giới bổn nó cũng phải vậy cho nên không lý một cái người Thánh tăng, trong những vị Thánh tăng như vậy mà không hiểu cái điều đó sao? Phải chi trong cái thời đó nó không có chữ thì thôi, đằng này chữ viết người ta có ba bộ kinh Vệ Đà hẳn hoi, thì lý đâu mà các thầy, các vị Thánh tăng đó lại không biết chữ viết cho nên chỉ ngồi nghe chơi không à thì như vậy làm sao có cái tập hợp. Bởi vì giới luật là cái làm cho hòa hợp chúng tăng mà, nó là thiện pháp nữa mà, cho nên phải có một sự văn bản rõ ràng.
Mà cái sự nói về vấn đề mà nghi vấn rằng khi đức Phật nhập diệt thì có một số vị trưởng lão Tỳ kheo không có nhận lời mời, điều đó đều sai với trách nhiệm của quý vị hết mà. Dù bây giờ người nhỏ người lớn đi nữa thì trừ ra những người còn giữ lại ở những địa điểm của mình nơi xa xôi đó thì những người đó về không được thôi, chứ toàn bộ mà nếu mà có mặt ở đó thì người ta tham dự hết. Nhưng mà rất đông vì vậy mà người ta chọn lấy 500 vị thượng thủ, tức là 500 vị Alahan kết tập chứ còn cái số Tỳ kheo mà chưa chứng đạt Alahan thì hàng vạn mà về cái đám ma đó chứ đâu phải ít.
Thôi bây giờ Thầy đặt vấn đề như Hòa Thượng TT tịch đi, có phải hàng vạn đệ tử về không chứ đâu phải là ít, còn đức Phật ngày xưa còn bao nhiêu nữa. Đâu có chuyện đó mà nói cái chuyện mà dễ dàng như vậy, nói cái chuyện mà tưởng như vậy được. Cho nên những cái người mà nghiên cứu về giới luật của Phật mà thấy nó khó khăn rồi chỉ tưởng ra thế này, tưởng ra thế kia làm cho lệch lạc cái lịch sử trong cái thời các đệ tử của Phật cũng như trong cái thời của Phật.
Chỗ này chúng ta phải hiểu, nếu là những bậc thánh Tăng thì kỳ kết tập kinh luật lần thứ nhất thì các vị đều phải thấy bổn phận của mình đối với Phật giáo. Còn hay mất là ở chỗ kết tập kinh sách này. Cho nên không thể nào từ chối lần kết tập này được. Nghĩa là dù bây giờ dù ông Ca Diếp có đi mời ở xứ này xứ kia thì các ngài cũng không có quyền mà từ chối, cái bổn phận của các ngài khi được Phật dạy như thế nào thì các ngài về nghe:“Ờ cái đó ông Anan ông đọc, ông nói cái đó, cái bài kinh đó, tôi nghe hồi đó Phật dạy là khác ông phải sửa lại, cái này ông không hiểu, tôi hiểu nên tôi chứng quả Alahan như vậy đó”. Thì các ngài phải có bổn phận về để chỉnh đốn lại cái giáo lý của đức Phật chứ, giới luật của đức Phật chứ, đằng này nó còn từ chối nữa. Như vậy cái vị đại đệ tử của Phật trong thời đó mà từ chối như vậy thì vị đại đệ tử đó có trách nhiệm với đạo Phật không, không có trách nhiệm. Coi như là đạo Phật ngoài cái vấn đề đó, đây là ngoại đạo chứ đâu phải là đệ tử của Phật, cho nên phải thấy cái bổn phận trách nhiệm của mình, mạng mạch của Phật pháp còn hay không.
Một đấng giáo chủ như đức Phật đã đưa ra một cái tôn giáo như vậy là các vị đệ tử phải có sự hợp tác với nhau để mà trùng tu, để mà làm cho nó trường tồn mãi mãi dưới cái thế gian chứ. Các thầy có nghe thấy khi mà đức Chúa không, khi mà ngài tịch rồi thì các thánh đồ của ngài luôn luôn lo lúc nào cũng kết tập lại những cái gì mà của Chúa để làm cho cái đó nó luôn luôn sống mãi với con người. Thì các đệ tử Thánh tăng của chúng ta cũng vậy chứ đâu phải là những người thiếu trách nhiệm cho nên ở đây nói mời mà không đến, từ chối thì cái chuyện đó là chuyện bịa đặt chứ còn Thầy nghĩ rằng người tu hành… Bây giờ Thầy nói nếu một người nào mà kết tập kinh sách đúng, mà ở chỗ nào đúng, nói đúng giới luật của Phật mà mời Thầy, Thầy đi ngay liền không từ chối. Mặc dù trong lúc bấy giờ Thầy ẩn bóng nữa, Thầy thấy trách nhiệm của Thầy phải đem hết cái khả năng của mình ra để giúp cái người đó để hoàn thành phận sự của họ đối với Phật pháp để trường tồn, chứ chưa nói… Thầy không lộ hình ra là vì danh vì lợi nhưng mà khi mà làm lợi ích cho Phật pháp Thầy lộ hình ra tức khắc để làm cái chuyện lợi ích chứ đâu phải Thầy ẩn bóng.
Thầy nói thật sự cho quý thầy thấy rằng trong vấn đề trách nhiệm, bổn phận của người tu sĩ phải thấy mạng mạch của Phật pháp, sống còn là do nơi mình, mình làm sao cho nó sống còn chứ đâu phải mình làm cho nó chết. Đó là cái mà chúng ta học để chúng ta hiểu trong cái vấn đề mà giới luật hôm nay mà Thầy dạy ra, để chúng ta biết giới luật nào mà là thầy của chúng ta. Tới đây Thầy sẽ phân tích cho quý thầy thấy cái giới luật nào là thầy của chúng ta mà đức Phật đã di chúc.
Vì nó phải được trung thực với lời dạy của đức Phật, của đức bổn sư, không thể thiếu vắng một vị nào ngoại trừ những vị ấy đã nhập diệt cũng như những đệ tử của các trưởng lão thì không tham dự có thể được. Nghĩa là các đệ tử của các bậc Thánh tăng thì họ không tham dự thì có thể được, họ chưa chứng quả Alahan thì có thể được và họ chưa có trực tiếp nghe lời của đức Phật dạy thì được, chứ còn những bậc đã được trực tiếp nghe lời Phật dạy cho mình tu hành chứng quả Alahan thì chắc chắn là bổn phận của mình phải tham dự chứ không có thể. Dù ở xa bao nhiêu dù cái sự việc của mình đang phải làm công việc gì lớn lao gì cũng phải là thấy cái vấn đề đó nó không lớn lao nữa, mà chỉ có vấn đề kết tập kinh và luật của Phật là cái vấn đề quan trọng nhất thì các ngài phải có bổn phận, phải trở về để mà góp những ý kiến, những điều mà mình đã thực hiện được ở trong cái đời sống giải thoát của chính mình. Thì đó là bổn phận của các ngài, các ngài phải thấy chứ các ngài không có từ chối được.
Vì vậy, vì các vị còn đang tu học theo với thầy của mình chưa bao giờ được trực tiếp với Phật, vả lại có gặp cũng rất ít khi. Sau 100 năm Phật nhập diệt các đệ tử lớn của đức Phật đều lần lượt nhập diệt hết. Nghĩa là 100 năm sau đó, các đệ tử của Phật như ông Anan người này người kia lần lượt họ nhập diệt hết. Bởi vì Phật nhập diệt rồi sau 100 năm thì các đệ tử đều nhập diệt. Khi đức Phật còn tại thế thì giới luật rất nghiêm chỉnh chúng Tỳ kheo không dám vi phạm. Khi đức Phật nhập diệt và các đệ tử của đức Phật cũng lần lượt nhập diệt theo. Giới luật không còn ai chăm sóc kỹ lưỡng nên lần lần quí thầy dễ duôi đối với giới luật nên lần lần, nên lần lần các ngài tự thay đổi giới luật theo cuộc sống tu hành của chính môi trường, các hoàn cảnh. Do thế tu sĩ giới luật không còn nghiêm chỉnh nữa. Khi giới luật mà có sự thay đổi không còn nghiêm chỉnh, nghiêm trì nữa, thì 37 phẩm trợ đạo để tu hành của Đạo Phật cũng không có hiệu quả.
À, tới cái giai đoạn cái giáo án mà giai đoạn thứ 3, tức là cái giới hành, dạy về giới hành, ở đây là Thầy nói về giới bổn, giới hạnh còn mà về cái giới hành, tức là 37 phẩm trợ đạo mà Thầy dạy tới cái giai đoạn giáo án thứ 3, là dạy 37 phẩm trợ đạo. Đó gọi là giới hành, bởi vì giới luật thì phải có giới hành nó không phải pháp luật, vì pháp luật nó không có cái hành mà cái bắt buộc. Qúy thầy phải hiểu, còn giáo pháp của đức Phật, giới luật là một cái pháp môn tu, cho nên nó phải có một cái hành để mà tu. Vì vậy mà 37 phẩm trợ đạo đó là giới hành chứ không phải là cái gì khác hơn hết. Phải hiểu như vậy chúng ta mới hiểu được giới luật của Phật là một pháp môn để đưa chúng ta đi đến cái chỗ giải thoát chứ không phải là trói buộc chúng ta để làm cho chúng ta khổ sở. Đó 37 phẩm trợ đạo để tu hành của đạo Phật, nếu giới luật mà không nghiêm trì rồi, thì 37 phẩm trợ đạo mà để tu hành thì nó không còn hiệu quả nữa. Nó không còn hiệu quả nữa vì giới luật bị phá rồi thì 37 phẩm trợ đạo này chỉ là nói suông chơi chứ còn không có thực hành được nữa. Mà giới luật chúng ta nghiêm chỉnh thì 37 phẩm trợ đạo này là cái giới hành để chúng ta thực hiện những cái giới luật nó nghiêm chỉnh và nó giải thoát. Từng cái giới luật mà chúng ta áp dụng trong 37 phẩm trợ đạo này bằng cách là trau dồi, rèn luyện, bằng cách tu tập ở trong 37 phẩm trợ đạo này, làm cho chúng ta đạt từng giới một, mà mỗi giới chúng ta đạt được là có sự giải thoát trong tâm hồn của chúng ta. Đó là cái chỗ tu hành của chúng ta là như vậy.
Cho nên nói giới luật tức là nói giáo pháp của đức Phật. Tại sao vì 37 phẩm trợ đạo chỉ giúp cho người tu tập có hiệu quả là phải trì giới luật nghiêm chỉnh. Nói cách khác là 37 phẩm trợ đạo của đạo Phật nhằm phát triển thiện pháp, chấm dứt các ác pháp.
Đó thì các thầy cứ thấy Phật bảo là mình tu trên thân quán ngoại thân để khắc phục tham ưu là ác pháp. Đó thì rõ ràng là, như Tứ Niệm Xứ đó Phật dạy đó, mình trên thân quán thân rồi để cho mình khắc phục những tham ưu ở trong đời, ở trong tâm của mình, đó là ác pháp chứ gì. Thì chúng ta thấy đó là cái giới hành, cái giới hành của Phật pháp ở trong cái giới luật.
Chấm dứt các ác pháp, nên người nghiêm trì giới luật thì 37 phẩm trợ đạo là pháp tối thượng, còn những người phạm giới, phá giới thì 37 phẩm trợ đạo chỉ là pháp môn Tiểu Thừa. Nghĩa là họ xem như là 37 phẩm trợ đạo nó nằm ở trong cái pháp môn gọi là Tiểu Thừa. Cho nên nó đâu có làm cái gì được đâu, họ phá giới thì tức là nó trở thành Tiểu Thừa rồi chứ làm sao mà gọi là giải thoát được, mình gọi là Đại Thừa được. Do thế, khi mà tu sĩ không nghiêm trì giới luật thì tất cả pháp môn cũng đều có sự thay đổi. Nghĩa là không nghiêm trì giới luật thì pháp môn tu hành nó thay đổi.
Mặt B:
Ba mươi bảy phẩm trợ đạo tuy rằng nói vậy chứ nó có sự thay đổi, nó không có đúng như cái điều kiện, bởi vì thí dụ như nó thay đổi như thế nào? Phật dạy như lý tác ý, thì họ không biết cái gì hết thì đó là sự thay đổi của họ rồi, họ đâu có biết đó là cái pháp hành của họ, (...)cho nên gọi là Phật giáo phát triển.
Khi mà 37 phẩm trợ đạo nó thuộc về Tiểu Thừa rồi, thì bắt đầu họ không còn biết lối nào họ tu, như cái lời Phật dạy như tùy pháp quán pháp, hay hoặc là ức chế pháp hay hoặc là tịnh chỉ pháp đều họ ngơ ngẩn họ không biết nữa. Nói về bốn thiền họ chỉ nói: Ly dục ly bất thiện pháp nhập sơ thiền, họ nói vậy chứ họ không biết ly dục bằng cách nào nữa hết, họ không biết cách thức nào, bởi vì ly dục là giới luật rồi, mà giới luật là phải dùng những cái pháp hành nào để mà chúng ta mới thực hiện được cái giới luật, cho nên 37 phẩm trợ đạo nó thuộc về Tiểu Thừa. Vì vậy bây giờ họ không còn pháp mà tu, cho nên họ phải phát triển để phá giới luật, nghĩa là Phật giáo càng phát triển bao nhiêu thì lại phá giới luật bấy nhiêu.
Rồi họ phát triển pháp môn tu tập, không còn tu tập theo các pháp của Phật như trong kinh nguyên thủy đã dạy, nghĩa là bây giờ họ tu tập theo cái kiểu mới chứ không phải theo cái kiểu cũ, như bây giờ họ ngồi họ lại giữ tâm, họ bằng cách này hoặc cách khác, hoặc là họ niệm kinh, hoặc là họ niệm Phật để cho tâm được nhất tâm, hoặc là họ giữ tâm mình bằng cách này hoặc cách khác để cho nó không có vọng tưởng.
Tất cả những cái điều kiện như trong kinh Kim Cang dạy: ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm, họ giữ cái tâm mình đừng cho trụ chỗ nào để cho Phật tánh kia sinh ra thì đó là những cái họ phát triển mới, còn đạo Phật chúng ta muốn giữ cho cái tâm nó được thanh tịnh, được giải thoát thì nó phải ly dục ly bất thiện pháp, nó khác xa, hai cái pháp đều tu khác xa không giống nhau. Cho nên họ phát triển họ đi dần dần đến cái chỗ xa lạ với 37 phẩm trợ đạo của Phật.
Vì không có bậc tu chứng nên chư tăng dựa vào kinh sách Nguyên Thủy rồi lý giải theo kiến thức của mình, từ kiến giải riêng tư của mình nên bất đồng mọi ý kiến, kiến giải của người khác. Nghĩa là cũng dựa vào kinh sách Nguyên Thủy chứ họ không có đi xa. Họ lấy kinh sách Nguyên Thủy rồi họ nghiên cứu, vì họ không có tu chứng cho nên kinh nghiệm tu chứng của họ không có, cho nên cái trụ cột, cái cốt lõi nó không có, cho nên từ đó cái tư tưởng của họ nó xiên bên đây, nó xiên bên kia. Họ nghiên cứu cuốn kinh Nguyên Thủy, tạng kinh Nguyên Thủy thì họ lại kiến giải thế này, kiến giải thế khác. Người thì kiến giải cái này, người thì kiến giải cái khác nó không có đồng với nhau một cái sách hành, cho nên do đó mà họ kiến giải ra rồi họ không đồng nhau cho nên họ chấp cái kiến của họ, họ bị kiến chấp đó đi, rồi họ mới có sự tranh chấp với nhau họ nói người này thấp, người kia cao họ nói đủ thứ. Cho nên vì vậy mà cái loại kinh mà phát triển nó làm cho, đó là cái kiến chấp của những người mà tu không chứng.
Từ những kiến giải bất đồng và phi phạm hạnh nên đưa đến kết quả phân chia bộ phái, đó là sự việc xảy ra từ 100 năm đến 300 năm sau khi Phật nhập diệt độ. Khi Phật diệt độ 100 năm sau, có cuộc kết tập lần thứ hai tại Vệ Xá Ly, cuộc kết tập này không có nghĩa là kết tập kinh luật mà chỉ là giải quyết sự phân chia của các bộ phái. Kết quả kỳ này chỉ là thành lập giới luật của các bộ phái riêng tư.
Đó, phải nhớ là cái sự kết tập lần thứ hai này ở tại Vệ Xá Ly (thì lần kết tập này) là giải quyết cái sự bất đồng của chư tăng, do mỗi người mỗi ý kiến riêng tư ở trong giáo lý Nguyên Thủy, mà thành lập những cái bộ phái, do đó nó có 20 cái bộ luật, 20 cái bộ luật chứ không phải là như chúng ta thấy nó còn bây giờ là chúng ta còn thấy sáu bộ đó. Chứ lúc bấy giờ nó 20 bộ phái là nó phải có 20 cái bộ luật. Bởi vì một tập thể nào nó cũng phải có nội quy, có kỷ luật của nó, nó mới giữ được cái tập thể đó, nó mới được yên ổn của nó, còn nếu không có thì lấy cái gì mà làm cái chuẩn cho họ sống chung với nhau được, cho nên nó phải có, phải đặt thành vấn đề là phải có 20 cái bộ luật.
Một lần nữa chúng tăng lại cách xa giới luật của Phật, thêm bớt và sửa lại rất nhiều và người ta đã dẹp mất cái bộ luật mặt thực của giới luật kết tập lần đầu tiên. Bởi vì bây giờ họ kiến chấp như vậy đó, làm sao họ để cái bộ luật mà đầu tiên đó được, buộc lòng họ phải đốt đi, hoặc là họ phải xé bỏ đi. Mỗi bộ phái có giới luật riêng để lưu truyền trong bộ phái của mình. Thượng Tọa Bộ chiếm đa số luật tạng, còn Đại Chúng Bộ chỉ có một bộ luật mà thôi.
Ở đây thì theo như ở trong kinh sách thì nói là cái bộ phái Thượng Tọa Bộ thì nó lưu truyền trong cái bộ phái mình thì nó chiếm đa số về luật tạng, nghĩa là nó còn giữ một cái số mà nguyên gốc của nó chứ còn nó cũng có sự thay đổi rất nhiều trong đó. Còn Đại Chúng Bộ thì chỉ có một bộ luật mà thôi, nghĩa là trong Đại Chúng Bộ nó chia ra làm nhiều bộ phái lắm nhưng mà nói nó chỉ có một bộ luật mà thôi thì hầu hết là cái bộ luật của nó, nó đều giống nhau là cái bộ luật phá giới, chứ không phải là cái bộ luật không phá giới. Cho nên nó gần giống nhau chia làm 20 bộ luật, nhưng mà 20 bộ luật đó thì có bên Thượng Tọa Bộ nó còn giữ được giới luật chiếm đa số luật tạng của Phật, còn có cái gốc chút, còn cái phần mà của Đại Chúng Bộ thì nó phát triển theo cái kinh điển phát triển, thì cái giới luật đó nó phá sạch cho nên nó mới đẻ ra cái giới luật bồ tát giới đó, thì nó phá sạch cái giới luật của nguyên gốc đi cho nên nó đặt thêm thứ này thứ kia để nó phá giới ở trong cái giới luật của Phật. Do vì vậy đó mà nó gần như là cái Đại Chúng Bộ nó chỉ có một cái bộ luật chung là cái bộ luật phá giới mà thôi.
Giáo pháp của đức Phật là Tam Vô Lậu học Giới - Định - Tuệ, là cơ sở, là trung tâm thiện pháp của sự phát triển tu tập, đó cũng là một giáo án ngắn gọn nhất và cô đọng nhất. Ngay từ thời đức Phật còn tại thế, các vị đại đệ tự của người đều lấy tam vô lậu học làm cơ sở giới luật của mình tu tập. Nếu chẳng trì giới luật thì sự tiến tới con đường giải thoát trở thành vô vọng. Vì thế tất cả đệ tử của đức Phật đều là những bậc trì giới nghiêm chỉnh và người nghiêm chỉnh trong giới luật là ông Upali.
Chúng ta thử kiểm lại xem, thử kiểm thảo lại xem, giới luật dù là căn bản của Phật pháp tại sao người tu giới luật không cảm thấy thích thú, hứng thú. Nguyên lai người ta hiểu giới luật của đạo Phật như một pháp luật trong quốc gia. Người ta không hiểu giới luật của Đạo Phật là một pháp môn toàn thiện đem lại sự giải thoát và ích lợi lớn cho con người.
Ở đây chúng ta phải hiểu giới luật của đức Phật chính là những pháp môn tu hành, ngoài giới luật ra không có pháp môn tu hành nào khác riêng, cho nên 37 phẩm trợ đạo, từ lúc trợ đạo lành, tức là trợ giúp làm cho thành tựu thiện pháp. Giới bổn Patimokkha chẳng qua là những oai nghi tế hạnh của người tu sĩ đạo Phật thể hiện qua giới hạnh trong giới kinh của đức Phật chứ không có gì mới mẻ và riêng biệt, chỉ người sau không hiểu biến thành bộ kinh giới riêng biệt với kinh điển của Phật.
Ở đây Thầy xin giải thích thêm để hiểu chỗ này: nghĩa là khi chúng ta nhìn qua 37 phẩm trợ đạo thì chúng ta biết nó là cái giới hành của giới bổn, giới luật của Phật. Cho nên giới luật của Phật thì chúng ta biết nó là cái giới luật của Phật là cái thiện pháp, còn giới bổn chẳng qua là những oai nghi tế hạnh để cho người ta bổ túc vào 25 cái giới hạnh mà trong giới kinh Thầy đã dạy. Bởi vì 25 giới hạnh, nó nói tổng quát, nó nói chung mà cái chi tiết li ti thì nó chưa có nói ra. Mà giới bổn thì nó nói những cái oai nghi tế hạnh đó, cũng như Thầy vừa giảng cho quý thầy nghe đó, những cái hành động nhỏ nhặt của chúng ta mà còn tâm ham muốn, còn cái tâm vội vàng ở trong đó, thì đó là cái giới bổn nó sẽ chỉ những cái vi tế đó để mà chúng ta thấy rằng đó là còn cái tâm dục chưa có ly, còn cái tâm ham muốn, còn cái tâm vội vã, còn cái tâm muốn mình mau, người khác đến trước mà phải chịu sau mình, đó là còn cái tâm tham. Cho nên cái giới bổn là nó chỉ cái vi tế đó để cho bổ túc thêm cho 25 cái giới hạnh trong kinh, mà chúng ta đã học rồi.
Chúng ta thấy được như vậy, chúng ta thấy cái giới bổn có quan trọng đâu, nó đâu phải là thầy chúng ta được, nó chỉ thêm để những cái oai nghi của chúng ta được nó làm sáng tỏ trên cái giới hạnh mà thôi chứ nó đâu có trong giới đức, nó đâu có nằm trong cái giới đức được, mà nó đâu có nằm ở trong, bởi vì kinh giới chúng ta thấy nó đâu có nói về thiền định được, mà kinh giới nó đâu có nói ra, cái kinh giới bổn đó thì nó đâu có nói ra cái giới Tuệ được.
Còn ở đây giới kinh của chúng ta nó có giới Hạnh, giới Đức và giới Tuệ, nó đầy đủ, trọn vẹn của một còn đường toàn diện là giới, giới bổn của Phật. Mà giới bổn của Phật như vậy là, Thầy nhắc lại có một vị Bà La Môn hỏi đức Phật, sau khi đức Phật nhập diệt thì ai là người thừa kế đức Phật để dẫn dắt chúng Tỳ kheo sau này? Đức Phật nói một người mà phải có đủ ba cái điều kiện thì người đó sẽ là thay Phật dẫn dắt chúng tăng sau này. Ba cái điều kiện đó là gì? Phật nói đó, là cái người đó phải có hạnh lực đó là cái thứ nhất, phải có thần lực là cái thứ hai, phải có huệ lực, thì cái đó là cái thứ ba, ba cái này có thì người đó mới mới xứng đáng là hướng dẫn chúng tăng sau này, thì chúng ta nhìn thấy các bậc thánh tăng chưa có người nào mà xứng đáng có được ba cái oai lực này.
Một người được cái giới Hạnh mà không được cái giới Đức thì nó chỉ tạm thời nó chưa có tròn đầy được cho nên mới có vị đệ tử này đệ nhất cái này, đệ nhất cái kia chứ đâu có ai mà đệ nhất hết cả, giống như Phật đâu được, mà chỉ có giới bổn là đệ nhất đủ hết, như Thầy đã giảng rồi. Thì các thầy thấy trong giới bổn, giới đức có này, giới hạnh có này, giới tuệ có đó là đủ ba cái oai lực của một vị tu sĩ để lãnh đạo chúng tăng sau này cho nên đức Phật không di chúc cái người mà thừa kế Phật là ai, không phải là giới luật sao?
Còn bây giờ chúng tăng nhìn ông Ca Diếp thì có cái hạnh đầu đà, mà ông Xá Lợi Phất thì có cái đại trí tuệ mà thôi, còn ông Mục Kiền Liên thì có đại thần thông thôi, đệ nhất thần thông thôi, mà ông La Hầu La thì có mật hạnh thôi. Thì các thầy thấy, mỗi người có một góc độ thì làm sao tròn được cái oai lực đó mà làm thầy cho chúng Tỳ kheo sau này.
Cho nên không có người nào mà thừa kế chúng ta là tại vì chúng ta thấy đức Phật khen ông này đệ nhất, ông kia đệ nhất cái này cái nọ cái khác, thì nó không tròn đủ rồi. Mà không tròn đủ thì tức là chưa có đủ một cái oai lực mà có thể nhiếp phục chúng tăng tu hành theo đúng cái sự giải thoát của đạo Phật. Chỉ có đức Phật là người mới là người đủ ba cái oai lực đó, đó thì chúng ta đọc lại kinh chúng ta thấy cái chỗ mà Phật nói, chúng ta xác định nhìn chúng Tỳ kheo của Phật, nhìn những cái bậc thánh tăng mà đệ tử của Phật không đủ ba cái oai lực đó thì làm sao mà cái người hướng dẫn chúng Tỳ kheo sau này được, chỉ có giới luật mới đủ mà thôi. Cho nên Thầy giảng giới luật để chúng ta thấy giới bổn của đức Phật, là cái giới luật nào. Còn cái giới bổn mà chúng ta đã học mà các ngài đã kết tập thành đó là chi tiết của giới hạnh chứ đâu phải là gì, cho nên đọc đến chúng ta thấy từ một trăm giới chúng học rõ ràng là những chi tiết lặt vặt nhỏ nhặt chứ đâu phải là cái gì khác hơn hết.
Xét như vậy chúng ta mới thấy được cái giới nào là cái giới làm thầy của chúng ta, chứ còn không chúng ta cứ lấy giới luật đó làm thầy chúng ta như cái cây khô vậy, tu riết muốn chết luôn à, sống gì mà trời đất ơi quá khổ vậy nè, có giải thoát thứ gì đâu người ta ăn mình ngồi đó mình nuốt nước miếng có sung sướng chỗ nào.
Vì thế, giới bổn được xem như là pháp luật trong một quốc gia, cho nên tu sĩ tu giới luật quá khó khăn và xem như mất tự do, bị giới luật ràng buộc thế nên kinh điển Đại Thừa và Thiền Tông phá vỡ giới luật của đạo Phật, phá giới luật tức là phá pháp môn tu hành của đạo Phật.
Người thuyết giảng giới luật gọi là giới sư, họ thuyết giảng khó khăn khiến cho người tu theo giới luật không có đường giải thoát, toàn thấy cuộc sống rất khổ hạnh đụng đâu cũng phạm phải lỗi lầm, lỗi lớn lỗi nhỏ, tâm hồn họ không được thanh thản an vui. Do không hiểu giới luật nên người tu giới luật thành một pháp môn khắc khổ, cằn cộc.
Tại sao đệ tử của Phật lại có người được Ngài ca ngợi, tán thán đệ nhất pháp môn này, đệ nhất pháp môn kia? Giới luật là một pháp môn có thấp có cao, có hạnh, có đức, có tuệ. Nếu ai kiên trì ở chỗ nào, làm gương hạnh tu tốt cho người khác thì đức Phật gọi là đệ nhất. Như tôn giả Upali là trì giới hạnh đệ nhất, nghĩa là ông giỏi về giới hạnh đệ nhất. Nghĩa là ông Upali ông giỏi về giới hạnh đệ nhất. Mà giới đức ông chưa giỏi, bởi vì giới đức ông phải thiền định giỏi chớ còn đằng này giới đức ông đâu có giỏi và giới tuệ ông cũng chưa có giỏi, cho nên ông chỉ có cái giới hạnh không à, cho nên vì vậy ông chỉ có ở cái góc độ đó làm sao ông xứng đáng là ông làm thầy của mình ở sau này. Đó là chúng ta thấy cái chỗ mà Thầy vạch ra để thấy cho rõ được cái tại sao đức Phật không di chúc là cái ông đó là thầy mình mà lại là di chúc giới luật là làm thầy mình?
Tôn giải Xá Lợi Phất giỏi nhất về tri kiến giải thoát, giỏi nhất về tri kiến giải thoát thuộc phần thứ nhất giới tuệ, đệ nhất trí tuệ. Nghĩa là đức Phật gọi ông Xá Lợi Phất là đệ nhất trí tuệ đó, thì ông giỏi về tri kiến giải thoát ở trong cái phần mà thứ nhất của giới tuệ, chúng ta nói khi mà cái tâm mà nó định tĩnh rồi thì ở đó ông phát triển cái giới tuệ thứ nhất nó phát triển cái tri kiến và cái chánh kiến, cái tri kiến nó sáng suốt vô cùng, thì ông ở đây ông sáng suốt, Phật chưa nói mà ông giải thích được, Phật chưa bao giờ nói cái bài pháp đó mà người hỏi ông giải thích, người đó đến hỏi Phật thì Phật nói ta cũng nói cỡ vậy thôi, thì đó ông phát triển được cái tuệ, cái giới tuệ ở chỗ cái mức độ đó chứ chưa phải là toàn bộ cái giới tuệ. Bởi vì giới tuệ nó có 33 cái giới lận, chứ đâu phải ít mà ông chỉ phát triển ở chỗ đó thì đức Phật chỉ khen ông ở chỗ đó chứ đâu thể khen ông toàn bộ được. Cho nên ông đâu phải cái người mà làm thầy chúng ta được.
Còn tôn giả Mục Kiền Liên thì giỏi nhất về giới tuệ thứ ba, thần thông đệ nhất cái chỗ mà một thân biến ra nhiều thân, muốn biến ra cái gì cũng được hết, thì cái đó là cái giỏi về cái giới tuệ đó, mà cái giới thứ nhất, cái giới tuệ thứ nhất thì ông cũng luôn luôn lu mờ chớ ông đâu có, Phật nói sao ông nói lại như vậy chứ ông đâu có dám nói trật đâu.
Còn ông Xá Lợi Phất thì Phật chưa dạy ông dám nói trước được mà nói không sai ý của Phật chút nào hết, còn ông này khai triển chỗ đó không nổi, cho nên ông chỉ ờ Phật dạy sao bây giờ chúng Tỳ kheo hỏi sao ông cũng dạy y vậy chứ ông không dám nói, hỗng dám sai khác. Đó là ông chỉ có cái phần là cái giới tuệ của ông ở cái phần thứ ba đó, thần thông đệ nhất mà thôi.
Còn ông A Na Luật thì thiên nhãn đệ nhất, tức là ông giỏi về tuệ thứ tư. Ông giỏi về cái tuệ thứ tư, cái thiên nhãn, tức là ông giỏi về cái lục thông tức là chỉ có cái thiên nhãn thôi chứ ông đâu có nhĩ thông được nữa.
Đó thì chúng ta thấy trong những bậc thánh tăng nó có giỏi từng góc độ của nó mới gọi là đệ nhất, còn nếu mà người nào cũng đệ nhất hết thì cái người đó mới xứng đáng là thầy của chúng ta, cho nên ông Phât ổng giao cho một người lãnh đạo Phật Giáo sau này ổng phải giao cái người đầy đủ chứ ổng giao cái người mà không đầy đủ thì Phật giáo nó suy đồi sao? Thế mà chúng ta có ông thầy đầy đủ chúng ta quẳng ông thầy đó đi. Rồi bây giờ chúng ta đặt hai chục ông thầy vô thì chúng ta biết chọn ông nào đây? Lấy ông nào mà làm thầy mình bây giờ đây, ông nào mà cũng cỡ tầm vóc là phá giới không thì làm sao là thầy mình?
Đó, thì như vậy trên cái bước đường tu hành của chúng ta, trong cái thời đại của chúng ta quá khó, ông thầy giới luật của chúng ta mà bây giờ nói ra thì cứ nói cái đó là kinh, chứ họ có nói cái đó là giới đâu, mà hôm nay Thầy giảng quý vị mới thấy đó là giới bổn của Phật đó. Nó phải đủ ba cái oai lực của cái người lãnh đạo Phật Giáo sau này, thì ông Phật ngày xưa ông đủ ba cái oai lực, bởi vì hạnh lực, thần lực và tuệ lựccủa ông. Chúng ta phải thấy được cái điều đó mà chúng ta mới biết rằng giới luật của Phật rất là tuyệt diệu không có phải là cái thứ thường đâu.
Khi tu hành ta phải hiểu mỗi đặc tướng riêng của con người, tánh sở trường của người ấy ở đó, họ phải đạt cái đó cao nhất vì thế đức Phật gọi là đệ nhất, tức là đệ nhất sở trường của họ. Trong giáo phái, giới luật của Phật cũng vậy, nghĩa là trong giáo phái giới luật của Phật nó nhiều cái chỗ mà đạt cái sở trường, mà cái người nào thích cái đó thì họ đạt cái sở trường. Cũng như bây giờ các con là học sinh nè, các con vô trong trường các con học, tại sao có thằng giỏi toán mà có thằng giỏi văn, mà có thằng giỏi sử địa, đó là cái sở trường của nó, cái thích thú của nó, nó phải giỏi môn đó. Cho nên đệ tử của Phật đâu phải toàn diện hết, nó thích cái nào là cái sở trường của nó, còn cái sở đoản nó học dở, cái thằng giỏi văn thì toán nó làm mù mờ nó không biết gì hết, vô nó cắn ngòi viết chứ nó không làm được cái gì hết, mà tới viết văn thì nó viết thao thao bất tuyệt, nó viết không bao giờ ngòi bút nó dừng, mà tới làm toán rồi nó ngồi nó cắn bút, thì đó là cái sở đoản của nó. Mà cái sở trường của nó, nó phải thông chứ sao, đó thì quý thầy cũng biết con người chúng ta nó có đặc tính riêng của nó cho nên người thì thích Văn, người thì thích Toán, người thì thích cái này cái kia mà cái sở thích của nó. Còn cái người mà đồng đều hết lại là không giỏi thứ nào hết, cái nào cũng đều đều, là không có giỏi thứ nào hết, phải hiểu. Mà có người còn giỏi tất cả các môn nữa đó mới gọi là bậc làm thầy của chúng ta. Mà trong cái thời của đức Phật chúng ta thấy Thánh tăng không có người nào mà giỏi đồng đều hết. Đó, thì biết như vậy chỉ có giới luật mới là thầy của chúng ta mới là đồng đều thôi chứ còn không có ai mà đồng đều được.
Đời nay ít người thấu đạt giáo pháp này, nên đem phân chia giáo pháp ra từng manh mún, vụn vặt biến thành nhiều pháp môn, mà mỗi pháp môn chẳng dẫn ai tu hành đi đến đâu cả, lừng chừng, lỡ dở, tu sĩ ương ương gàn gàn, pháp môn nào chẳng ra pháp môn nào, giới luật nào cũng chẳng ra giới luật nào. Nghĩa là cái nào nó cũng chẳng ra cái nào hết à, ương ương gàn gàn, tu chẳng ra tu mà tới đâu cũng chẳng tới đâu, chỉ có nói mồm nói mép thôi à, mà không làm được cái thứ gì hết. Thì đó, quý thầy thấy họ phân chia ra làm, họ phân chia họ dám cả gan dám nói 84 ngàn pháp môn. Phật giáo có 84 ngàn pháp môn chứ không phải có mộtpháp môn, họ dám nói dóc như vậy đó. Thử họ đếm thử coi tính ra xem có 84 ngàn pháp môn không, kinh sách nào mà kê ra cho chúng ta thấy có 84 ngàn pháp môn không, có không? Đếm cho lắm thì cũng cả trăm pháp môn thì cũng là quá sức tưởng tưởng rồi chứ nói tới 84 ngàn thì đặt ra nói cho dữ chứ ở đâu mà có dữ vậy. Đó là cái vọng ngữ, quá là đại vọng ngữ chứ không còn gì nữa hết, dám cả gan nói cái lời nói như vậy.
Rồi nói là Phật nói chứ có phải nói mà dám nói là mình nói đâu, đưa ông Phật ra ổng nói vậy ổng không nói láo đến cái mức độ ấy chứ, nói sao ông kê ra thử coi tôi thấy coi ông nói như vậy có đúng không, cuối cùng xét lại trong kinh sách đi chúng ta đếm hết đi, từ Đại Thừa qua và Nguyên Thủy Tiểu Thừa đi, chúng ta đếm hết thử coi đi coi có đủ không? Cộng luôn cả Thiền Tông và cả luôn Thiên Chúa cả luôn tất cả luôn, đếm hết đi tất cả tôn giáo trên thế gian này coi xem có 84 ngàn pháp môn được không? Chứ đừng có nói chi nội Phật giáo.
Tại vì sao? Tại vì không còn người tu chứng pháp môn của Đức Phật nữa nó mới chia ra làm tầm bậy như vậy đó, là tại vì không có người tu chứng, chứ có người tu chứng người ta kết tập lại pháp môn nào là ra pháp môn nấy chứ, như bây giờ Thầy kết tập lại giới luật là giới luật, trong giới luật là pháp môn để chúng ta tu không có pháp nào khác hơn hết, Đạo Phật gì mà nhiều quá vậy, biết đâu mà tu.
Chỉ có cái pháp môn đó, rồi có từ cái chỗ thấp đến chỗ cao chứ không phải có nhiều pháp môn, người muốn tu phải tu cái gì trước cái gì sau thì nó là một pháp môn cũng như bây giờ chúng ta muốn thi đậu một ông bác sĩ thì chúng ta phải đi học từ lớp 1 cho đến lớp 12 rồi mới vào học trường Y khoa rồi đậu được bác sĩ, cái đường lối nó phải vậy thì chúng ta phải chứ đâu phải là cái lớp 1 là một pháp môn, cái lớp 2 là một pháp môn rồi cái lớp 5 lớp 6 là một pháp môn, mấy ông nói sao mà lạ lùng vậy. Nó chỉ là một cái giáo trình, cái giáo án của người ta học tập thì nó phải đi từ lớp thấp đến lớp cao thì lại cho nó là mỗi cái cấp bậc học như vậy là một cái pháp môn à? Mấy ông ngu si quá độ như vậy.
Tại vì không còn người tu chứng pháp môn của đức Phật nữa, tại vì người tu sống theo dục lạc thế gian, mới chẻ pháp môn của Phật ra để mình tu theo sở thích, chẻ nó ra để mình tu theo cái sở thích, chạy theo dục lạc đó, đặt ra cái pháp môn đó để cho mình chạy theo nó chứ không có gì khác. Bởi vì dục lạc nó cám dỗ quá nhiều mà, sống cái đời sống giới luật mà họ đặt ra cái giới luật họ thấy khổ quá, sống kiểu này chắc tu... chứ tu có nổi gì đâu, cho nên đặt ra các pháp môn tu để theo cái sở thích đó mà thấy như không phạm giới, mà còn có hy vọng là có thể sanh vào được cõi trời hay hoặc là về cõi cực lạc nó cũng sướng, cũng phè phỡn lên trển muốn ăn gì cũng có, còn ở dưới thế gian này muốn ăn phải mần cực khổ mới có ăn cho nên ước ao để lên cảnh giới đó, mới đặt ra những cái điều đó. Tại vì loài người thiếu phước không đủ duyên với Phật pháp.
Đó thì chúng ta thấy đức Phật nhập diệt rồi, sau 100 năm thì chúng ta thấy lần lượt con người ở thế gian này thiếu phước, Đạo Phật có đó mà không có chánh pháp để chúng ta thực hiện. Toàn là chia chẽ ra, chạy theo, biến nó trở thành tà pháp, tà kiến hết nó không còn cái chánh pháp nữa. Cho nên Phật giáo hiện tiền có trước mặt với nhân loại, mà pháp môn thì bị chẻ vụn như những miếng giấy xé nhỏ, mà vò nát nữa chứ chưa nói xé nhỏ không mà còn bị vò nát ra nữa. Không còn dùng vào một việc gì được cả, chỉ còn bỏ mà thôi. Họ lý luận thế này thế khác là để che đậy những lỗi lầm tu sai, phạm giới của họ, giống như một lớp nước sơn ở ngoài còn bên trong là một khúc gỗ mối mọt đục khoét tan nát.
Nếu đem tất cả kinh sách, luật ra đọc ta thấy có sự sai biệt. Rất nhiều điểm khác nhau có bộ thì yêu cầu nghiêm trì giới luật, có bộ thì yêu cầu giảm bớt nhẹ nhàng. Nếu đọc sách luật mà cho bộ này phải, bộ kia phải hoặc bộ này trái, bộ kia trái thì người đọc sách luật là vô ích, không lợi ích cho đường tu mà bị ảnh hưởng của những người xưa không hiểu luật pháp của Đạo Phật mà viết ra thành luật thì giới luật của Phật thành ra bản hiến pháp của quốc gia chứ không phải là pháp môn tu hành của Phật nữa.
Đó thì quý thầy thấy bây giờ giới luật của Đạo Phật bây giờ nó thành bản hiến pháp, nó thành bản hiến pháp cho nên tu sĩ bắt đầu mà vô thực hành, chấp nhận cái bản hiến pháp này ông nào cũng le lưỡi hết trơn, đâu có chấp hành nổi, mà là giới luật của Phật là pháp môn tu làm cho người ta giải thoát người ta mới thích thú, còn cái này vô bắt đầu trời ơi tôi khổ quá trời, giới luật như thế này chết. Đi thì đi chân trần như thế này, đạp ba cái nước cứt trời ơi về nó ngứa chân gần chết đêm nó đâu có ngủ được. Đó, đó là những cái bản hiến pháp đó, cái pháp luật của nhà nước là bản hiến pháp đó, đó cho nên ở đây, chúng ta phải thấy rằng cái chỗ giới luật của Phật nó không phải là cái chỗ hiến pháp đâu. Do thế, giới bổn Patimokkha trở thành pháp chế. Đó Thầy xác định cho qúy thầy thấy nó trở thành pháp chế chứ nó đâu có còn cái giới luật của Phật nữa. Vì vậy tất cả các tu sĩ bị pháp chế gò bó, khổ sở cho đời sống tu hành, mất sự an lạc thanh thản.
Hầu hết tất cả các bộ luật hiện hành của Phật Giáo bây giờ, trong các chùa, tu viện đều do những người không chứng giới pháp của Phật mà soạn hoặc viết ra, rồi tự thêm tự bớt làm cho giới pháp mang đầy tính chất Khổng Giáo, Lão Giáo và còn có tính chất thần quyền, mê tín nữa. Đó Thầy nói, như ở trong giới luật các thầy thấy có một vị giới luật hỏi vậy chứ: Tôi giữ gìn giới luật vậy tôi có còn phạm gì không, hỏi ông thần hộ giới đó: Tôi giữ gìn giới luật vậy tôi có còn phạm giới gì nữa không? Ông thần hộ giới mới nói ông ăn cơm rồi ông không tráng nước bát nên vẫn còn những cái hột bựa ở trong đó cho nên ông còn phạm giới. Trời đất ơi! mình là người tu mà hỏi Thần, Thầy không biết làm sao á, nó là cái sự mê tin, giới luật mà nói cái chuyện đó thì Thầy thấy quá là thần quyền rồi. Đọc trong kinh giới Thầy thấy Thầy buồn cười những cái chuyện, đặt ra những cái chuyện đó mơ hồ, pháp luật của Nhà Nước cái hiến pháp của Nhà Nước không biết có nói cái chuyện đó không? Đơn giản mọi người chỉ biết giới luật tối thiểu là năm, là năm điều tức là ngũ giới, tối đa là 348 giới, nghĩa là người ta biết có giới luật từ cái năm điều rồi đến 348 giới là tối đa của Tỳ kheo ni giới.
Đây chỉ là điều văn mà thôi, một người chỉ biết học thuộc lòng điều văn của giới luật thì chẳng thành chuyên gia giới luật học bởi vì trong mỗi điều giới có tướng có tánh, có thể của nó, phần nhiều đều có sự phân biệt khai – giá - trì phạm. Mỗi điều giới có đẳng cấp khinh trọng cho nên đồng phạm một điều giới mà động cơ phương tiện kết chẳng đồng, kết tội người ta chẳng đồng. Cùng phạm giới mà động cơ phương tiện nó phải có sự sai khác chứ không thể nào, mà người đó phạm vậy mà người kia cũng phạm vậy mà hai cái này nó đều đem ra kết tội người ta y như nhau thì không đúng. Bởi vì trường hợp người ta phạm tuy là cái giới đó nó phạm vậy nhưng mà trường hợp nó khác. Ví dụ như bây giờ phạm về giới dâm, mà trong khi người bị bắt buộc người ta dâm, còn cái người mà vui thích hành dâm thì hai cái tội dâm thì nó giống nhau, nhưng mà có người bị bắt buộc mà có người không bị bắt buộc. Như một cô gái bị ép buộc người ta dâm thì cũng kết tội người ta dâm sao? Cho nên khi mà xử người ta, động cơ phương tiện mà kết cái tội của người ta, phải thấy cái được nguyên nhân đó. Còn nếu mình kết tội người ta người nào cũng dâm hết, người nào cũng tội Ba La Di, tội chặt đầu hết thì cái chuyện đó là cái chuyện không đúng rồi. Còn cái người tìm người ta để hiếp dâm người ta thì cái tội đó là tôi chặt đầu, đáng rồi. Còn cái người bị người ta bắt buộc hiếp dâm, mà quý vị cũng bắt chặt đầu người ta thì cái tội đó là tội như thế nào? Người ta có phải người ta đi tìm cái đó người ta hiếp người khác đâu? Đó cũng đồng một cái tội. Thầy đem một cái ví dụ như vậy để thấy rằng đồng một cái tội dâm nhưng mà cái người phạt nặng và cái người phạt nhẹ, và có thể nó là tha bổng nữa là khác đó chúng ta phải hiểu, không có tội nữa. Do thế phạm tội, phạm tội khinh trọng mà phương thức sám hối cũng chẳng đồng, nghĩa là tội nhẹ mà sám hối cũng chẳng đồng nữa, người thì bắt quỳ hương người chỉ phát lồ ra nói rồi xả hết tội khỏi cần quỳ hương. Còn người phải quỳ hương, còn người phải cấm phòng nữa. Đó là những cái điều đó thì nó rất khó ở trong giới luật chớ không phải dễ, chớ không phải dễ đối với người cầm vận mệnh giới luật mà muốn sao cũng được đâu, bức oan người ta, cái chuyện đó không phải là chuyện đơn giản.
Cho nên ở đây giới luật của Phật không phải là cái điều đó mà giới luật của Phật giúp chúng ta từng bước để xả cái tâm của chúng ta ly dục ly bất thiện pháp để chúng ta tiến tới một con đường giải thoát hoàn toàn tâm hồn. Cho nên giới luật của chúng ta nhẹ nhàng và nó thảnh thơi, nó làm cho con người của chúng ta mỗi ngày một giới luật thêm trong thân tâm chúng ta, mỗi một bước giải thoát trong tâm hồn, thì như vậy mới gọi là giới luật của Phật chứ, mới là ông thầy của mình chứ. Ông thầy gì mà tới đây cứ đánh tôi hoài à, đập tôi hoài, tối ngày cứ đập tôi hoài tôi chịu sao nổi ít ra ông cũng phải an ủi xoa dịu, ông cũng phải nói những lời ngon ngọt tôi mới thích ở ông chứ, còn ông cứ làm cái chuyện này thì tôi đi tôi bỏ ông chứ tôi đâu có ở đây được. Thì cái giới bổn, hiện hành bây giờ của Phật Giáo đang dùng nó là như ông thầy kêu mà lấy roi mà quất mình đó.
Tuy nhiên trong giới bổn có những điều không ghi, nhưng điều gì làm trái với nguyên tắc Phật Giáo cũng đều coi là phạm giới. Phần nhiều là ở trong giới bổn có những điều nó sơ sót nó không ghi, nhưng mà có điều thì nó lại làm trái với Phật pháp. Phạm giới là gì? Phải có biện pháp nào? Đều phải phân biệt rõ ràng như chỉ trong lòng bàn tay. Nghĩa là cái phạm giới, phạm giới là gì? Mình phải biết cái chỗ phạm giới, phải biết cái biện pháp nào để nó trừng trị những cái phạm giới đó đều phải như là người nắm vận mệnh của pháp giới để mà điều khiển pháp giới, điều khiển giới luật thì phải rõ ràng như là… Phạm giới là gì? Phải có biện pháp nào? Đều phải phân biệt rõ ràng như chỉ trong lòng bàn tay, mới được gọi là thông hiểu giới luật.
Một tu sĩ Phật giáo không những biết về phạm giới, tướng khinh tướng trọng mà còn phải biết về phương hướng sám hối. Nghĩa là nói chung về mà cái người tu sĩ Phật giáo chúng ta mà muốn mình làm một vị thầy mà hướng dẫn người ta thì mình phải rõ ràng được tất cả những cái này thì mới có thể làm thầy người ta. Cho nên sau khi Thầy tu hành xong rồi, Thầy đã từng nghiên cứu về cái giới luật rất nhiều mặc dù thầy Thanh Từ bảo Thầy đọc kinh sách Đại Thừa, Tiểu Thừa nhưng mà cái phần nhiều Thầy nghiên cứu là về giới luật, bởi vì Thầy biết là cái pháp nào khi tu hành mà Thầy đạt được, vì sau 10 năm ở trong thất Thầy giữ gìn rất trọn vẹn cái giới luật cho nên Thầy đã biết nó như thế nào.
Cho nên sau khi về thầy TT bảo Thầy là phải đọc tất cả những sử của Phật giáo, rồi sử của thiền Trúc Lâm, sử của các vị thiền tông Trung Hoa này, hành tạng của các vị thiền tông Trung Hoa này, rồi đọc lại kinh sách Đại Thừa này, rồi A Hàm này, Nguyên Thủy này, Thầy TT dạy Thầy như vậy. Tất cả những cái điều kiện đó phải đọc lại hết để sau này giúp thầy, đó là cái lời của thầy TT dạy như vậy, nhưng mà Thầy về Thầy đặt hết thời gian vào nghiên cứu giới luật của Phật, Thầy tìm mọi cái bộ luật mà Thầy nghiên cứu hết. Thầy thấy con đường giải thoát ở nơi giới luật chứ không phải ở chỗ Thiền tông hay hoặc là ở chỗ kinh sách nhảm nhí đó. Cho nên Thầy có đọc tất cả những cái đó, Thầy mới viết ra thành một bộ sách Thầy để là Đường Về Xứ Phật, Đường Về Xứ Phật là cái lý luận của Thầy bác cái sai, cái đúng của đạo Phật chứ không phải Thầy giải thích cái gì thêm đâu, cái bài kinh nào đúng, cái bài kinh nào sai là Thầy đã viết ở trong đó ra. Nhưng Thầy thấy nó không có phù hợp nên Thầy đem Thầy bỏ Thầy không có xài nó, Thầy để đó như một cái đống giấy đó thôi, nó không có phù hợp ở trong cái thời đại này ra, đưa nó ra thì đụng chạm với các bậc tôn túc, các thầy giáo hội ở trong cái thời đại này, cho nên Thầy hoàn toàn Thầy dẹp nó sang một bên, vì làm khổ người thì không nên, Đạo Phật đã dạy như vậy, người ta đang có kiến giải, đang có nghĩ là cái đó đúng mà mình cho nó là cái sai thì người ta đau khổ rồi, mà người ta nhận đó là sai thì người ta cũng thấy đau khổ người ta rồi, cho nên không có làm cho người ta đau khổ. Chỉ âm thầm tìm mọi cách làm sao mà chấn hưng được Phật pháp, làm sao cho người ta thấy cái đúng, cái sai mà thôi.
Cho nên Thầy rất là nghiên cứu về giới luật, vì vậy Thầy thấy, Thầy đọc hầu như các tác phẩm giới luật của các vị tôn túc cũng như những người sau này mà viết ra Thầy thấy thiệt là dẫm lại cái lối mòn của người trước, mà còn dẫm trật nữa là dẫm đúng.
Người nghiên cứu giới luật của Đạo Phật hiện giờ mà không thông hiểu giới luật Đại Thừa và Tiểu thừa, thì sự thông hiểu khiếm khuyết quá nhiều. Nghĩa là mình mà không nghiên cứu cái giới luật của Đại Thừa và giới luật của Tiểu Thừa mà kết hợp lại, thì tức là sự khuyến khuyết của mình rất nhiều. Chẳng hạn bây giờ ở bên Nguyên Thủy, các sư bên Nguyên Thủy họ chỉ nghiên cứu cái giới luật của Tiểu Thừa họ thôi, còn ở bên Đại Thừa của mình thì chỉ nghiên cứu sáu cái cái bộ luật của mình ở bên Đại Thừa thôi thì tức là mình còn khiếm khuyết rất nhiều chứ chưa đủ đâu. Cho nên cả cái giới luật ở bên Nguyên Thủy, cả giới luật của bên Đại Thừa đều phải nghiên cứu coi các tổ, các tổ luật của mình họ viết như thế nào, họ làm sao, có đúng hay sai. Rồi mình nương vào cái giới kinh, rồi mình xét qua mình biết họ đúng hay sai, bởi vì khi mà tu hành rồi người ta thấy cái giới kinh nó rõ ràng lắm, bởi vì mặc dù trong kinh Nguyên Thủy nó có sự thêm bớt một hai bài kinh nhưng mà cái giới kinh nó rất cụ thể rõ ràng. Bởi vì nó chỉ cho chúng ta hạnh lực, thần lực và oai lực của nó đủ những giới hạnh, giới đức và giới tuệ nó đủ, cho nên nó là một bậc thầy của mình vì vậy mình lấy cái đó mình làm cái chuẩn mà mình xét qua cái kinh giới của các bậc này viết sai hay đúng mình biết rõ. Bởi vì giới luật là thầy của mình, mà giờ nó là giới bổn là thầy của mình chứ gì thế mà cái giới bổn mà viết như vậy thì nó làm thầy của mình được không?
Đó thì hôm nay Thầy nói để quý thầy rõ được, khi một người mà đã tu học đã có cái sự thành tựu được sự giải thoát, nó có cái sự thông minh kinh khủng lắm, nó không lường được cái trí tuệ thông minh đó. Cho nên nó nghiên cứu tất cả nó biết được cái sai cái đúng. Bây giờ Thầy nói cho quý thầy thấy như thế này, hiện bây giờ nếu có một người mà tu như Thầy để làm một bằng chứng thì cái hình ảnh của đức Phật Thích Ca không phải là cái hình ảnh như chúng ta thấy bây giờ đâu. Nói cho quý thầy biết không phải đâu, nghĩa là chúng ta dẫn tâm trở về quá khứ, chúng ta sẽ thấy được cái mặt đức Phật Thích Ca thật sự. Mà có một người tu được như Thầy, thì đó là cái sự ấn chứng với nhau để nói rằng chúng ta thấy đúng, còn bây giờ có một mình Thầy, Thầy nói ra người ta cho là nói láo, cho nên Thầy đâu có nói cái chuyện mà mơ hồ đó được.
Cho nên nếu mà có mười người, một trăm người tu được như Thầy thì đó là cái bằng chứng cụ thể nhất là tất cả những hình ảnh của đức Phật Thích Ca bây giờ dẹp bỏ hết, chúng ta không xài cái đó đâu. Thầy nói thật sự với quý thầy bởi vì con đường tu hành nó không phải là nó còn cái thời gian quá khứ lâu như xưa đâu. Hai ngàn năm trăm bốn chục năm nay đâu phải là thời gian xa lắc xa lơ gì, cái hình ảnh của đức Phật Thích Ca nó vẫn còn ở trong quá khứ đó chứ đâu mất. Chúng ta trở về đó thì cái hình ảnh Đức Phật như thế nào thì nó y như vậy chứ không phải cái mặt nó như búp bê vậy đâu. Cho nên phải có một người mà tu tập được như Thầy thì chúng ta sẽ có người ấn chứng với chúng ta tin tưởng. Hai người, mười người, một trăm người càng làm cho người ta tin thì tất cả những cái bộ mặt mà tượng đồng cốt chúng ta dẹp hết. Thầy nói thật, còn nếu bây giờ chúng ta dẹp, chúng ta nói ai tin người ta chỉ nói mình nói huyễn hoặc, nó không có cái bằng chứng cụ thể.
Cho nên Thầy mong rằng quý thầy nỗ lực tu hành đúng những cái lời mà Thầy dạy đó các thầy sẽ đạt được, không có lâu đâu. Thầy một mình trong thất mười năm mà Thầy rèn luyện một mình không có người hướng dẫn mà Thầy còn làm được, còn các thầy làm sao làm không được, có Thầy hướng dẫn, chỉ có chuyên cần siêng năng, giữ gìn giới hạnh cho đúng, xa lìa những cái tâm dục, tâm ham muốn của mình, thì phải đạt được tới đó chứ đâu có gì mà khó. Pháp hành chúng ta rõ ràng cụ thể chứ đâu phải chúng ta... cái pháp hành là cái pháp dùng để mà chúng ta tạo ra một cái lực của tinh thần chúng ta rất mạnh mà, sai bảo cái gì cũng được hết thì quý thầy đã thấy rõ cái pháp hành, ở đây Thầy chỉ dạy các thầy cụ thể chứ đâu phải là cái chuyện mơ hồ tu hành kiểu ngồi đó mà lơ mơ lơ mơ rồi cái hành đó làm sao tới đâu. Đó là những cái mà chúng ta cần phải biết để chúng ta thực hành cho rốt ráo những cái pháp vi diệu như vậy. Bỏ cuộc đời để đi làm những cái gì vĩ đại chứ bỏ cuộc đời để đi làm những cái việc nhỏ mọn như vậy sao.
Giới luật của Đại Thừa và giới luật của Tiểu Thừa là thứ giới luật phát triển theo các bộ phái, đó Thầy gộp chung cho quý thầy thấy, phát triển theo các bộ phái, nghĩa là lúc bấy giờ nó chia ra làm hai mươi bộ phái, thì nó phát triển cái giới luật đó theo bộ phái chứ làm sao mà còn cái nguyên chất của nó được, cho nên thêm bớt lung tung, đọc giới kinh Nguyên Thủy chúng ta thấy điều này rất rõ ràng. Cho nên không thể nào lấy giới luật khô khan cằn cỗi như thế này mà áp dụng vào đời sống tu hành của tu sĩ có kết quả được. Nghĩa là lấy giới bổn mà bây giờ áp dụng cho nó làm thầy của mình thì làm sao mà chúng ta giải thoát được. Tuy nhiên nó chỉ nhắc nhở cho chúng ta ở phần giới hạnh mà thôi nghĩa là nó bổ túc cho phần giới hạnh rõ nét để cho ngươi tu sĩ nhận ra oai nghi tế hạnh của mình mà tránh được mỗi hành động nhỏ nhặt sai lầm do giới bổn của các bộ phái đặt ra theo sở thích riêng tư của họ từng bộ phái.
Nên người giảng dạy giới luật ít có người theo tu hành được. Cho nên các thầy thấy về cái phần bộ môn giới luật không phát triển được mà thiền định thì họ phát triển được lắm, về bộ môn kinh thì họ cũng phát triển được lắm, dạy học rồi này kia, học trò học kinh cũng khoái lắm, học thiền thì cũng khoái lắm. Nhưng mà đụng tới giới luật mà dạy thì cái ông thầy cũng phạm giới luôn, thành ra ông dạy thì dạy chứ đâu dám rầy học trò. Thầy ăn ba bữa giờ ở trong kinh giới nói một bữa mà thầy dám nói học trò ăn một bữa không? Đâu dám, nói các thầy dạy thầy cũng ăn ba bữa mà thầy bảo tôi ăn một bữa, thì như vậy ông thầy đã là phạm giới rồi đâu dám dạy học trò, mà dạy như vậy thì nó có giống không? Tri hành có hợp nhất không? Như vậy làm sao phát triển được giới luật cho nên giới luật mới chết lìm chết lịm dần dần. Chỉ dạy cho có chừng vậy thôi, ở trong các trường hạ hoặc trong cái trường lớp chỉ dạy cho có chừng, cho có giới luật vậy thôi chứ đâu có dám nói giới luật. Nói ra học trò nó lôi ra hỏi ông thầy ăn một bữa đâu? Chết mồ ông thầy luôn. Đó là cái sống hàng ngày nó chỉ cho ông thầy thì ông thầy cũng hoảng sợ luôn nữa, tại sao?
1. Vì giới bổn Patimokkha khô cằn cỗi, gò bó, trói buộc, câu thúc, không thoải mái, khó chịu, giới bổn nó thành ra cái pháp luật rồi cho nên nó trói buộc cái người tu dữ lắm.
2. Người dạy giới luật phải trì giới nghiêm chỉnh không vi phạm một lỗi nhỏ.
Đằng này người dạy giới luật mà vi phạm giới luật thì người ta làm sao theo mình tu được, tức là người dạy giới luật tri hành không hợp nhất. Vì giới luật Patimokkha khô cằn nên người dạy giới luật không trì giới nổi. Chính cái người dạy giới luật, giới bổn Patimokkha đó họ cũng không giữ nổi nữa, thì họ làm sao họ dạy giới luật mà phát triển được. Mà giới luật vi phạm thì sai thì ai ai cũng nhận thấy rõ, nghĩa là giới luật mà chúng ta vi phạm thì người nào cũng thấy rõ, như bây giờ nói tôi giữ gìn giới luật mà thấy sáng ông uống cà phê rồi thì tức là ông có giữ không? Thì như vậy là ông đã sai rồi thì ông dấu đâu được, còn cái gì có thể dấu Thiền tông thì có thể dấu, chỉ ráng ngồi cho được hai, ba tiếng đồng hồ, trời tôi nhập định ở trong đó hai, ba tiếng nhưng mà có nhập được gì đâu? Chỉ ngồi cho có tụ vậy thôi chứ trong đó tâm nó lung tung, cũng như là nó nhảy múa ở trong đó, cũng như cái rạp hát vậy đó, lúc thì nó ngủ, nó buồn ngủ thì nó ngủ gục ở trỏng lúc nó hứng rồi bắt đầu nó nhảy múa lung tung như đào kép ở trỏng, có cái gì mà khác lạ, cho nên ráng ngồi được cũng là cái hình thức để cho người ta nói: ờ cái ông này ngồi được hai giờ mình mới ngồi được ba mươi phút mình thua ổng cho nên ổng có cái gì trong đó rồi, chứ thật ra đâu có cái gì ở trong ấy, đều là đồ điên khùng ở trỏng chứ có cái gì.
Mà giới luật vi phạm thì ai ai cũng nhận thấy, nên người dạy giới luật không hứng thú bằng giảng kinh luận thiền. Cho nên cái người mà dạy giới luật riết rồi họ hết dám à, mà chỉ có cái người dạy kinh, dạy luận, dạy thiền thì khoái lắm, dạy chúng mê lắm cho nên phát triển dễ lắm. Vì thế pháp sư học giáo lý, giảng kinh có thể lên tòa thuyết pháp dễ dàng. Nghĩa là mình hút thuốc chứ mình lên mình giảng kinh được, hổng sao, phải không? Còn cái người mà dạy giới mà lên cầm điếu thuốc hút hơi bị nguy hiểm, hoặc là để cái lon bia để uống giải lao đó thì chắc chắn là không được rồi. Cho nên cái ông đó lên tòa hổng được, còn cái ông mà dạy giới sư dạy kinh thì ông ấy lên tòa được, thuyết pháp rất là dễ dàng. Có thể thâu đồ chúng nhiều, có thể được cả danh, lẫn lợi nữa. Nghĩa là lúc bấy giờ mình giảng hay thì người ta tập trung chứ gì, ổng nói hay quá trời, đúng lý nói mình không có cãi được cái chỗ nào, ví dụ cụ thể nữa, thực tế, sát thực ở trong cái đời sống của mình nữa, hay quá ông giảng sư này tuyệt vời. Cho nên như vậy là đồ chúng cũng đông nè, người ta nghe hay thì người ta theo ông thầy đó chứ gì, do đó thì danh có lợi có, khoái quá chừng mà, còn gì nữa.
Thì như vậy giới luật nó bắt buộc danh lợi phải tém ra hết cho nên ông thầy ở trong cái chòi tranh. Còn cái ông thầy dạy kinh này thì trời ơi càng ngày cái nhà, cái chùa ổng càng sang lên, khoái quá. Cho nên đi làm pháp sư thì khỏe quá, mà đi làm giới sư thì thấy khổ quá, cho nên ai muốn làm luật sư đâu, phải không? Cho nên thiền sư cũng vậy, cũng ngon lắm không thua gì cái ông pháp sư đâu. Thiền sư cũng vậy, thiền sư có thể lên tòa thuyết pháp thiền thu hút nhiều đệ tử và cả danh lẫn lợi nữa nhưng rất dễ dàng, nghĩa là dùng cái pháp thiền mình nói ra, thì tự tại vô ngại mà, cả thậm chí như tranh thập mục ngưu đồ mà, xách cá, xách rượu đi mà còn không phạm mà, phải không? Ăn thịt uống rượu đâu có phạm tội đâu. Cho nên thiền sư dễ dàng lắm, bao nhiêu tổ sư thiền của mình đã chứng minh điều đó, giải thoát hoàn toàn đâu có bị ràng buộc, giới của ta là giới thể còn mấy ông là giới tướng mà, cho nên đâu có bằng tụi tui, phải không? Do chỗ đó đó, cho nên cái ông thiền sư thu đồ chúng dễ dàng lắm, miễn là ông nói sao, có lý mà hợp lý dạy người ta ngồi được ba bốn tiếng đồng hồ, bảy tám tiếng đồng hồ thì chắc ăn nhất. Nghĩa là cái người mới vô ngồi ba mươi phút là đau muốn chết rồi còn cái ông này ngồi tám tiếng đồng hồ, mười hai tiếng đồng hồ không đau, tập luyện được như vậy, mình làm cái tướng như vậy là hấp dẫn người ta rồi, cho nên khoái, người nào cũng ráng ngồi cho bẩy tám tiếng đồng hồ cho ngon, nhưng mà trong đó cái tâm mình như thế nào, như đống rác.
Hết băng 23.